Kinh
Thánh: Luca 2:14 Lời chào mừng: Trân trọng kính chào quý vị! Trước hết xin cho
tôi thay mặt Hội Thánh của Đức Chúa Trời xin gởi lời kính chúc quý vị một mùa
Giáng Sinh và một năm mới Bình An, Hạnh Phúc và Ân Sủng của Đức Chúa Trời. Thưa
quý vị, Có một câu hỏi được hỏi nhiều nhất trên thế giới tính cho đến thời điểm
này mà công cụ điện toán, google đã thống kê ghi lại đó là: Thượng Đế Ôi! Ngài
ở đâu? Và nếu tối nay, tôi hỏi quý vị rằng: Thượng Đế ơi! Ngài ở đâu? Thì sẽ có
rất nhiều câu trả lời khác nhau phải không quý vị? Chúng ta trở về với không
khí của Mùa Lễ Giáng Sinh, trở về với Lời của Đức Chúa Trời để tìm biết câu trả
lời: Đức Chúa Trời đã nhập thế làm người qua thân vị là Chúa Giê xu Christ. Và
Chúa Giê xu Christ có danh xưng cao quý là: Em-ma-nu-ên. Nghĩa là Đức Chúa Trời
ở cùng chúng ta. Vâng Thượng Đế Ôi! Ngài ở đâu? Ngài đang ở đây với chúng ta.
Xin chúng ta cùng cho một chàng vỗ tay chào mừng sự hiện diện của Đức Chúa Trời
vì Ngài đang ở cùng chúng ta. Nhập đề: Kính thưa quý vị! Chúng ta đang ngồi
hướng lên tâm điểm của Lễ Giáng Sinh, và buổi tối hôm nay, Hội Thánh chúng xin
giới thiệu cùng quý vị chủ đề của Lễ Giáng Sinh đó là: Ân Sủng Cho Nhân Loại.
Trước khi chúng ta cùng nhau đến với Lời Đức Chúa Trời, kính mời quý vị đồng
đứng lên để chúng ta cùng đọc câu gốc nền tảng hai. Khi đọc xong... cầu nguyện.
Kính lạy Đức Chúa Giê xu, tối nay chúng con muốn nói về Ngài, xin hãy làm vinh
hiển Ngài qua chúng con, vì chúng con nhận biết rằng: Nếu không có Ngài thì
cuộc đời chúng con chẳng là gì hết. Chúng con cầu xin Đức Thánh Linh hãy vận
hành trên người nói cùng người nghe. Để mỗi chúng con đều được rờ chạm và nếm
biết ân sủng của Ngài. Trong Danh Chúa Giê-xu Christ. A men. Thân đề: Quê hương
VN nằm ở bên bờ của Thái Bình Dương, cho nên hứng chịu trọn vẹn hai mùa mưa
nắng. Mùa mưa về, nước lũ ngập từng cơn, khi hạn hán đến, đồng khô cỏ cháy. Vì
vậy quê hương VN luôn nguyện cầu: Cầu cho mưa thuận gió hòa, cho đồng lúa tốt,
nhà nhà ấm lo! Miền Trung lưng dựa vào dãy núi Trường Sơn. Mà chân dãy Trường
Sơn thì đất cày lên sỏi đá, cho nên lời nguyện cầu có vẻ tha thiết hơn: Lạy
trời mưa thuận gió đều, cho nhiều lúa bắp, cho nhiều sắn khoai. Đó là cái tâm,
cái tấm lòng và sự cậy trông của người xưa đặt tin nơi Đức Chúa Trời Hằng Sống.
Nhưng cách đây khoảng hơn 30 năm, Nhân loại .... đã thốt lên những lời mà khiến
Đức Chúa Trời vô cùng thất vọng: Anh trời dẹp lại một bên, để cho thủy lợi đứng
lên thay trời. Và khi chương trình thủy lợi, nông nghiệp thất bại thì đổ lỗi là
tại trời: Mất mùa là tại thiên tai, được mùa là bởi thiên tài của ta. Cách nói
ấy, luận điệu đó, đúng như cách nói, giọng điệu của người La Mã vào Thế Kỉ thứ
nhất mà Phao lô đã chép trong thư Rô-ma rằng: “ Vì họ dẫu biết Đức Chúa Trời,
mà không làm sáng danh Ngài là Đức Chúa Trời, và không tạ ơn Ngài nữa; song cứ
lầm lạc trong lý tưởng hư không, và lòng ngu dốt đầy những sự tối tăm. Họ tự
xưng mình là khôn ngoan, mà trở nên điên dại” ( Rô ma 1:21-22) Trong khi con
người tự hào có thể đội đá vá trời, trong khi con người càng ngày đẩy Ngài ra
xa, trong khi con người luôn luôn làm Ngài thất vọng. Nhưng Đức Chúa Trời là
Đấng Chí Nhân, Chí Ái: “Bởi vì Ngài khiến mặt trời mọc lên soi kẻ dữ cùng kẻ
lành, làm mưa cho kẻ công bình cùng kẻ độc ác.” ( Mathiơ 5:45 ). Ngài vẫn luôn
săn sóc, yêu thương và Ngài vẫn gọi tiếng gọi tình thương từ vườn Ê-đen năm
xưa, để con người vốn xa cách trở về cùng Cha Thiên Phụ: “ A-đam, con ở đâu?”
Vâng tiếng gọi ấy, tiếng gọi tình thương ấy cũng vẫn dành cho quý vị và tôi! Và
ngày nay Ngài không phải ngồi trên Thiên đàng để gọi chúng ta đâu. Ngài cũng
không phải ngồi trên thiên đàng rồi dơ tay xuống kéo con người ra khỏi cái
huyệt của sự chết đâu. Thưa quý vị! Ân sủng của Đức Chúa Trời dành cho nhân
loại này không chỉ khiến mặt trời mọc lên soi dọi nơi trần thế thôi đâu, Ân
sủng của Đức Chúa Trời cũng không chỉ làm mưa cho mùa màng bội thu thôi đâu. Vì
dù mặt trời có soi dọi cả đêm đi chăng nữa thì tâm linh con người vẫn u mê đen
tối, lầm lạc trong tội lỗi. Nước lũ có thể cuốn trôi đi bất cứ điều gì, nước
chảy đá cũng phải mòn, nhưng tội lỗi của con người thì chẳng một loại nước lũ
nào có thể cuốn trôi hay làm mòn, hoặc tẩy sạch đi được. Vì tội lỗi và sự hư
hoại của con người nó ăn sâu, bám rễ trong bản chất của mỗi con người chúng ta.
Chính vì thế mà Đức Chúa Trời đã bày tỏ Ân sủng của Ngài cách trọn vẹn nhất, và
Tuyệt Đỉnh của Ân Sủng đó là sự ban cho một Đấng Cứu Thế để cứu nhân loại hư
mất này. Trong đêm đen tối của trần thế. Thiên sứ đã báo cho các kẻ chăn chiên
rằng:“ấy là hôm nay tại thành Đa-vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu-thế, là
Christ, là Chúa.” ( Luca2:11) Sau đó thiên sứ ngợi khen Đức Chúa Trời mà rằng:
“Sáng danh Chúa trên các từng trời rất cao, Bình an dưới đất, ân trạch cho loài
người!” ( Luca2:14) Bài ca của thiên sứ rất ngắn, nhưng đã đụng đến và đem sự
sống vĩnh cửu vào thế giới hư vong, đem vào cho nhân loại một tin mừng: tội ta
được tha, nợ tôi được trả cho những kẻ nào tin đến danh con người, cho những kẻ
ở trong Chúa Giê-xu Christ. Bài ca ấy chỉ cho nhân loại biết phương hướng tìm
về nguồn của sự sống thật, sự bình an thật, cũng chỉ cho chúng phương cách để
trở về làm hòa với Đấng Tạo Hóa thông qua: Một Đấng Cứu Thế, gọi là Christ, là
Chúa. Martin Luther nói về sự Giáng Sinh của Chúa Jêsus rằng: “Ngài là Đấng mà
nhiều thế giới không thể bao hết được lại nằm bên hông của Mary”. Một người
khác cũng thốt lên rằng: “ Bởi vì yêu thế nhân mà Ngài đã từ vĩnh cửu bước vào
trong thời gian, đã từ vô cùng đi vào hữu hạn.” Đấy là sự hóa thân thành nhục
thể — Đây chính là Ân Sủng dành cho nhân loại. Chúa Cứu Thế Giê xu được ban
tặng cho Những kẻ không xứng đáng, những kẻ luôn làm Ngài thất vọng. W. Tozer
khi nói về ân sủng của Đức Chúa Trời Ông đã ghi trong nhật ký trước khi qua
đời: “ Ðức Chúa Trời đã lấy ân sủng vô cùng to lớn của Ngài để đến với tôi, lớn
đến nỗi cho dù tôi có sống được đến một triệu thiên niên kỷ, tôi cũng không thể
trả nổi những gì Ngài đã làm cho tôi.” Thưa quý vị! Có một bài thánh ca đã làm
lay động thế giới suốt 250 năm qua, làm rung động biết bao con tim trai cứng,
mang lại sự yên ủi cho biết bao những cuộc đời vỡ tan trong hoạn nạn, nghịch
cảnh, và đau thương. Bài ca: Ân Điển Lạ Lùng. Cuộc đời của John Newton: John
Newton là một người mồ côi mẹ từ thuở nhỏ. Ông sống một cuộc đời ngang tàng, hư
hỏng, tội lỗi, xấu xa. Ông len lỏi từ địa vì của một người sai vặt lên làm
thuyền trưởng của một tàu buôn nô lệ hạng sang. Trong một chuyến vượt Đại Tây
Dương, John Newton gặp một trận bão khủng khiếp. Trong hoàn cảnh nguy nan đó,
ông nhận thức được sự mong manh của cuộc sống đã dâng một lời cầu nguyện để xin
Đấng có quyền cứu mình khỏi chết. Và Đức Chúa Trời thành tín, Ngài phán rằng:
Phàm ai kêu cầu danh Chúa thì sẽ được cứu. Trong nhất ký John Newton mô tả cuộc
đời mình như là một chiếc tàu hư hỏng, mục nát. Cuộc đời tôi lạc lõng giữa
những bão tố mênh mông, cạm bẫy của cuộc đời. Nhưng ân điển Chúa đã cứu ông để
rồi bài ca: Ân Điển Lạ lùng như một lời tạ ơn có mùi thơm dâng nên Chúa. Hôm
nay có thể cuộc đời chúng ta có phải cũng đang đối diện với những giông bão,
cạm bẫy và đêm đen của cuộc đời do tội lỗi đang nhấn chìm chúng ta. Tin mừng
cho quý vị buổi hôm nay là: Ân điển của Đức Chúa Trời sẽ cứu vớt quý vị, giữ
quý vị trong cuộc sống hạnh phước thiêng liêng. Khi mở đầu sứ điệp giáng sinh
Sứ đồ Phao lô đã đi ngay, đi thẳng vào con tim của sự giáng sinh chính là: “
Đức Chúa Jêsus Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời
chắc chắn, đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy ” ( ITi 1:15 ) Trọng tâm của
lễ giáng sinh đối với Phao lô không phải là những kẻ chăn chiên mục đồng hay
các bác sĩ đông phương, trọng tâm của lễ giáng sinh đối với Phao lô không phải
là máng cỏ chuồng chiên, hay các ngôi sao. Trọng tâm của lễ giáng sinh đối với
Phao lô không phải là đến Brazil để ngắm cây thông Noel lớn nhất thế cao 85m
đâu. Trọng tâm của lễ giáng sinh đối với Phao lô không phải là cái bánh dài 1km
với hương vị vani đâu. Con tim của lễ Giáng Sinh đối với Phao lô là: “ Đức Chúa
Jêsus Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, trong đó có tôi và quý
vị” ITi 1:15. Đây có phải tinh thần của chúng ta khi đến với Chúa giáng sinh
không? Đây có phải là tấm lòng chúng ta đến đây để gặp Chúa Giáng Sinh không?
Trong tất cả các vị sứ đồ của Chúa Cứu Thế Giê-xu thì Phao lô đã viết và nếm
trải kinh nghiệm về Ân Sủng nhiều hơn hết thảy. Trong toàn bộ Kinh Thánh Tân
Ước nói tới 76 lần động từ “ Ân điển” thì Phao lô nói đến 71 lần trong số 13
thư tín của Ông. Đó cũng đủ thấy Ân điển của Đức Chúa Trời đã gột rửa và đem
ông lên cao hơn những người khác. Phao lô có nghĩa là nhỏ bé, + Chrysostom đã
nói về Phao lô rằng: cao ba cubit ( đơn vị đo ngày xưa, 1 cubit =45,72cm) nhưng
ông đã đụng đến bầu trời. Dầu vóc người thấp nhỏ, Phao lô là người đã nhận lãnh
và kinh nghiệm được sự ban cho ân điển diệu kì của Đức Chúa Trời. Sau khi tin
Chúa Phao lô được đổi mới nên khiêm tốn ý thức được rằng: Mình chỉ là một hạt
cát bên bờ Đại Dương của tình yêu bao la Ân Sủng của Chúa. Đến đây có thể chúng
ta tự nhủ rằng: Chắc ông ấy phải là người tốt lành, công bình lắm, đạo đức lắm
nên mới được Đức Chúa Trời ưu ái, ban ơn nhiều như vậy. Kính thưa Hội Thánh,
thưa quý vị thân hữu! Chúng ta đang sống trong một xã hội có qua có lại mới
toại lòng nhau, quy luật sòng phẳng, bánh tét đi qua, bánh quy trở lại, chính
vì vậy mà quy luật ấy con người cũng đem áp dụng vào lĩnh vực tâm linh, chúng
ta đem vào mối quan hệ với Đức Chúa Trời. Về phương diện con người thì Phao lô:
Là con của gia đình gia giáo: Sinh trưởng trong một gia đình đạo đức hẳn hoi.
Ông là một người mang dòng họ máu chất của dân tộc Do Thái, một gia đình khá
giả, thượng lưu, một gia đình có tư cách, có địa vị, có tiền bạc, và là một gia
đình nuôi dạy con theo luật pháp điển hình là lúc 8 ngày đem con vào đền thờ
làm nghi thức theo đạo giáo. Về học vấn: Phao lô là một thanh niên tài giỏi,
vượt bực, ông có tới ba bốn bằng tiến sĩ, rất giỏi, rất xuất sắc, một người đi
học trường tư với thầy dạy nổi tiếng nhất thời bấy giờ. Và ông là một sinh viên
ưu tú. Ông là một diễn giả hùng hồn, ông là một triết gia, ông là một nhà hùng
biện, là một giáo sư có một không hai. Đang khi còn rất trẻ ông là thuộc viên
của tòa công luận của nước Do Thái. Một trong 70 người nỗi lạc nhất trên toàn
quốc đứng trong chính quyền cai trị dân. Một người đức hạnh: ông nói: tôi giữ
luật pháp không chỗ trách được, không chỗ chê, không chỗ thất bại. Khi nhìn vào
những thành tích và mẫu mực của Phao lô thì chúng ta tưởng rằng: ông đủ tiêu
chuẩn, đủ tư cách, đủ để được Đức Chúa Trời ưu ái cứu vớt. Nhưng Phao lô tuyên bố:
nhờ những việc làm, việc lành được được cứu là vô ích, và Phao lô nói rằng:
trong sự cứu rỗi thì không một mảy bụi việc làm nào hết. Phao lô nói: “ Vả, ấy
là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh
em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời. 9 Ấy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu
cho không ai khoe mình;” ( Ê-phê-sô 2:8-9) Giữa con người với nhau thì Phao lô
là một gương mẫu, là gương sáng cho chúng ta noi theo, và chúng ta thấy Phao lô
là người thành công, là tốt đẹp là mẫu mực. Nhưng trong Kinh Thánh qua cái nhìn
của Đức Chúa Trời thì Phao lô là một tội nhân. Nói đến tội nhân thì chúng ta
thường nghĩ rằng: Một người được gọi là một tội nhân thì phải có cái gì đó sai
trật trong đạo đức, trong cư xử. Nhưng thật ra thì không, theo con mắt bình
thường chúng ta thấy: Phao lô là một tu sĩ, một dòng tu rất khắc khổ, một dòng
tu Pha-ri-si. Giữ đạo luật rất khắt khe. Phao lô đưa ra một đại diện, một kiểu
mẫu về hình ảnh của một tội nhân: Phao lô nói: “ trong những kẻ có tội đó ta là
đầu.” Phao lô nói: ta là người nặng tội nhất, Phao lô nói: ta là tội nhân xấu
nhất. [PT] Có một số bản dịch của CG là: ta là chúa chùm tội, ta tổ sư, là kẻ
cầm đầu tất cả những tội nhân. Câu: “ tôi là người có tội” là nói đến bản chất
trong con người bên trong, khi nói đến bản chất thì nói đến một vấn đề không
thể sửa chữa ở bên ngoài mà phải là một sự giải quyết thay đổi trong bản chất.
Hơn nữa, đây không phải là tội lỗi, lỗi lầm, vấp phạm giữa người với người mà
thôi, câu nói Tôi là người có tội là một nhận thức về liên hệ giữa mình với Đức
Chúa Trời, đối diện với Thiên đàng và địa ngục. Chúng ta thường ngoảnh mặt làm
ngơ, sống cuộc đời không màng đến sự có mặt của Đức Chúa Trời. Mọi hơi thở của
chúng ta đều đến từ Ngài, miếng cơm, áo mặc, hạnh phúc đều đến từ Đức Chúa
Trời, mà chúng ta cứ tỉnh bơ, mà chúng ta cứ gọi rằng đó là chuyện của riêng
mình, không đếm xỉa gì đến Ngài. Kinh Thánh gọi đó là tội lỗi, tội đó là tội vi
phạm đến Đức Chúa Trời và tội đó là tội tày trời. Con người không thể bào chữa
mình được. Đây là tội lỗi không thể chạy chữa mình được. Kết Luận: Trong tất cả
chúng ta không ai dám chắc nói rằng: mình toàn hảo, tuyệt đối, ai cũng có thể
nói rằng: tôi lầm lỗi, tôi thiếu xót, nhiều thất bại. Qua Lời của Đức Chúa
Trời, quý vị và tôi có nhận thức thấy mình là một tội nhân cần được cứu vớt
không? Quý vị và tôi có đồng thanh với Phao lô rằng: tôi là người có tội không?
Thánh Kinh tuyên bố: Nếu ai nói mình không có tội chi hết ấy là người nói dối,
lẽ thật không ở trong người ấy. Vì mọi người đều đã phạm tội. Con người vốn
sinh ra trong tội lỗi, lớn trong tội lỗi và phạm tội mỗi ngày nữa. Chính vì
thế, Thánh Kinh tuyên bố: Đức Chúa Trời đã làm cho tội lỗi của hết thảy chúng
ta chất trên mình Chúa Giê-xu. Ro 6:23 23 Vì tiền công của tội lỗi là sự chết;
nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Jêsus
Christ, Chúa chúng ta. Gi 3:36 36 Ai tin Con, thì được sự sống đời đời; ai
không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa
Trời vẫn ở trên người đó. Đức Giê-hô-va đã làm cho tội lỗi của hết thảy chúng
ta đều chất trên người. ( Ê-sai 53) Người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì
sự gian ác chúng ta mà bị thương, Bởi sự sửa phạt người chịu chúng ta được bình
an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bịnh. 6 Chúng ta thảy đều như chiên đi
lạc, ai theo đường nấy: Tr 12:6 6 Lại hãy tưởng nhớ Đấng Tạo Hóa trước khi dây
bạc đứt, và chén vàng bể, trước khi vò vỡ ra bên suối, và bánh xe gãy ra trên
giếng; Cụ Si mê ôn là người đạo đức công bình nhưng không .... Muốn thân mình
không lệch, trước hết phải giữ cho tâm hồn không lệch. (Tuân Sinh Tiên)
Đề
tài: Hãy đứng lên qua sông Giô-đanh
Kinh
Thánh: Giô suê 3: 7-17
Nhập
đề:
Bài
hát:
Hãy
đứng lên qua sông Giô-đanh, đi vào miền đất Chúa đã hứa ban chẳng lo sợ vì Giê-hô-va
ở cùng khắp nơi nao ta đi qua. Cháy trong tim lòng nhiệt thành
I/. Tinh Thần Hợp Nhất Trước Khi Qua
Sông Giô-đanh( Giô-suê 3:1)
-
Giô-suê dậy sớm
đi cùng hết thảy dân Y-sơ-ra-ên
-
Cả lãnh đạo cùng
dân sự ngủ đêm tại một đó
Vượt
qua sông Giô-đanh đó không phải chỉ là trách nhiệm của riêng cá nhân của
Giô-suê mà của hết thảy dân sự nữa. Cả người lãnh đạo và dân sự cùng dậy sớm,
cùng đi, cùng ngủ tại mé bờ sông.
Đây
chính là tinh thần cùng đoàn kết, hiệp một, và thống nhất cả về mục đích và kế
hoạch thực hiện.
Quả
thật chúng ta thấy, ở tại đây chúng ta nhìn thấy Giô-suê quả là một nhà lãnh đạo
có tinh thần tâm huyết, lo lắng cho dân sự, trọng trách không phải đổ trên vai
của người lãnh đạo mà trọng trách, và sứ mạng này là của chung của toàn thể
tuyển dân.
Chúng
ta thấy tài năng lãnh đạo và thẩm quyền của Giô-suê không phải chỉ thông qua
lời nói mà là thông qua việc làm, nhiều người chỉ tay và sai khiến mà không hề
làm gương.
Giô-suê
đã dậy sớm đến Si-tim đi cùng với dân sự.
Chúng
ta cũng thấy toàn bộ dân sự sống và bước đi trong tinh thần thuận phục, họ đã
giữ mình trong lời hứa.
Họ
đã hứa trong Giô-suê 1: “Những người ấy thưa cùng Giô-suê rằng: “ Chúng tôi sẽ làm mọi điều ông dặn biểu, và
đi khắp nơi nào ông sai; 17 chúng tôi sẽ
vâng theo ông trong mọi việc y như đã vâng theo Môi-se. Chỉn nguyện Giê-hô-va
Đức Chúa Trời ông ở cùng ông, y như Ngài đã ở cùng Môi-se vậy! 18 Phàm ai nghịch mạng không vâng theo lời ông
trong mọi điều ông dặn biểu chúng tôi, thì người đó sẽ bị xử tử; chỉ ông hãy vững lòng bền chí.”
Họ
đã giữ sự trung tín và thuận phục người lãnh đạo của họ. Họ không coi thường
người lãnh đạo trẻ tuổi mà Đức Chúa Trời mới thành lập, họ không hề than phiền
về Giô suê là người mới thiếu kinh nghiệm lãnh đạo và thiếu kinh nghiệm thuộc
linh với Đức Chúa Trời.
Hình
ảnh của Môi se là một người lãnh tụ nỗi lạc, tài nâng và đầy ơn của Chúa – bây
giờ Giô-suê là người đã phục vụ người thầy của ông suốt 40 và xỏ chân vào đôi
dày của người thầy.
Có
thể không vừa, có thể đôi chân của Giô suê nhỏ hơn rất nhiều nhưng cả dân sự
tin rằng: Đức Chúa Trời chính là Đấng kêu gọi và chọn lựa Giô suê làm người
lãnh đạo thế chỗ xứng đáng.
Họ
nâng đỡ, khích lệ, động viên và ở cùng góp sức, cùng tiến lên để hoàn thành sứ
mạng đặt chân vào đất hứa.
Họ
nói: “ông hãy vững lòng bền chí.” Đây
chính là lời nâng đỡ, và rất đáng thường xuyên nói đến với những người lãnh đạo
thuộc linh.
Nhiều
người nghĩ rằng: người lãnh đạo là người máy hoặc siêu nhân nên không cần phải
nói ra những lời khích lệ, hay dục giã mạnh mẽ.
Lần
trước, chúng ta đã học với nhau về tinh thần hiệp nhất và sẵn sàng sắn tay,
chân hăng hái bước đi không ngại khó khổ của dân sự và A-rôn, Hu-rơ bê đá, đỡ
tay cho Môi-se. rất ít người nhìn thấy cánh tay của Môi se mỏi. Chỉ có hai
người nhìn thấy mà thôi. Họ nhìn thấy họ không chê trách, oán than về sự yếu
đuối của Môi se mà họ đã nâng tay của Môi se lên. Họ đã góp công, góp sức vào
trong sự chiến thắng của toàn dân.
Ê-phê-sô 4:1-6
Hội thánh
Ê-phê-sô thời sứ đồ Phao-lô gồm người giàu, người nghèo, người Do-thái, người
người, đàn ông, đàn bà, ông chủ và nô lệ. Nơi nào có khác biệt thì ở đó có bất
đồng. Mối quan tâm mà Phao-lô đề cập chính là sự hiệp một. Hãy quan sát điều
Phao-lô nói về vấn đề này trong Ê-phê-sô 4:3. Ông không nói họ “nôn nả thiết
lập hay tạo ra sự hiệp nhất.” Ông nói họ hãy gắng sức “duy trì sự hiệp nhất của
Thánh Linh bằng sợi dây hòa bình.” Sự hiệp một đã sẵn có bởi những người tin
Chúa có cùng một thân thể, một Thánh Linh, một nguồn hy vọng, một Chúa, một đức
tin, một phép Báp-têm, một Đức Chúa Trời và một Cha (c. 4-6).
Chúng ta “giữ sự
hiệp một” như thế nào? Hãy bày tỏ ý kiến và lý lẽ của mình trong sự khiêm
nhường, mềm mại, và nhịn nhục (c. 2). Đức Thánh Linh sẽ ban năng lực để chúng
ta đối đáp bằng tình yêu với người bất đồng với mình.
Chúa
Giê xu cầu nguyện để các môn đồ sống và bước đi trong sự hiệp một!
Ta
hãy xem lại một lần nữa Chúa Giê-su đã cầu xin điều gì trong Giăng 17:21-23:
"… để cho ai nấy hiệp làm một, như Cha ở trong Con, và Con ở trong Cha;
lại để cho họ ở trong chúng ta, đặng để cho thế gian tin rằng chính Cha đã sai
Con đến. Con đã ban cho họ sự vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để hiệp làm một
cũng như chúng ta vẫn là một. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để cho họ toàn
vẹn hiệp làm một, và cho thế gian biết chính Cha đã sai Con đến, và Cha đã yêu
thương họ cũng như Cha đã yêu thương Con".
Tác
giả Thi-thiên133: "Kìa, anh em ăn ở
hòa thuận nhau. Thật tốt đẹp thay! Ấy khác nào dầu quí giá đổ ra trên đầu; chảy
xuống râu, tức râu của A-rôn; chảy đến trôn áo người; Lại khác nào sương móc
Hẹt-môn sa xuống các núi Si-ôn. Vì tại đó Ðức Giê-hô-va đã ban phước, tức là sự
sống cho đến đời đời."
II/. Điều kiện tiên quyết để qua sông
Giô-đanh ( Giô-suê 3:2)
Điều kiện thứ nhất:
-
Hòm giao ước phải
đi trước - Dân sự phải đi theo sau
-
Câu 6: “Đoạn, Giô-suê nói cùng những thầy tế lễ
rằng: Hãy khiêng hòm giao ước đi qua trước dân sự. Vậy, những thầy tế lễ khiêng
hòm giao ước và đi đầu dân sự.”
Đối
tượng để khiêng hòm giao ước là: Những thầy tế lễ về dòng Lê-vi
Đây
là những người được biệt riêng…
Tại
sao hòm giao ước phải đi trước?
Hòm
giao ước biểu tượng cho sự hiện diện và quyền năng của Đức Chúa Trời.
Muốn
vượt qua sống thì đừng đi trước Chúa, vì nếu hòm giao ước không đi trước thì
nước sông không thể rẽ ra được.
Chỉ
khi nào hòm giao ước được khiêng đi trước thì quyền năng phép lạ mới xảy ra.
Nhiều
khi chúng ta thường vượt qua sông Giô-đanh của đời sống bằng sức riêng, nỗ lực
và cố gắng của chúng ta, hoặc chúng ta vượt qua sông Giô-đanh bằng sự khôn
ngoan riêng của mình, tính toán riêng của mình.
Quý
vị và anh chị có phải đang có những trở ngại của Giô-đanh trong đời sống.
Nước
sông quá lớn, độ sâu quá, ngọn núi quá cao, quá nhọn.
Có
lời bài thánh ca rằng: Có núi ngăn trở hành trình con chăng? Núi nhọn và sâu
trước mặt? giải pháp và câu trả lời là: nhìn
lên chăm xem Chúa Giê xu Christ.
Bạn
có nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời để qua sông không? Bạn và tôi có nhờ sức
lực của Chúa để vượt qua sông không?
Có
thể chúng ta đang có những ngọn núi của lòng tự tôn, kiêu hãnh, kiêu ngạo, đấy
chính là những trở ngại để chúng ta không bước được vào xứ hứa. chúng ta phải
nhờ quyền năng của Chúa, chúng ta phải sống trong sự hiện diện của Chúa mới có
thể phá tan những cái tôi của mình.
Ch 13:10 10
Sự kiêu ngạo chỉ sanh ra điều cãi lộn;
Còn sự khôn ngoan ở với người chịu lời khuyên dạy.
Còn sự khôn ngoan ở với người chịu lời khuyên dạy.
Sự kiêu ngạo
không dẫn tôi đến đắc thắng, mà trái lại, Lời Chúa dạy rằng lòng kiêu ngạo dẫn
đến chỗ bị hủy diệt (16:18). Không thể
hy vọng có sự bình an nếu không sẵn sàng hạ mình xuống. Mỗi năm có hàng ngàn
cuộc ly dị, đa số chỉ vì một lý do duy nhất là lòng kiêu ngạo. Không bên nào
chịu nói “Tôi xin lỗi”, không bên nào chịu thừa nhận “tôi sai”.
Một ví dụ cho thấy lòng kiêu ngạo và sự xét đoán dẫn đến thất bại như thế nào là câu chuyện được chép trong Lu-ca 18:10-14 như sau:
Bạn
đừng giải quyết nan đề mà không có Đức Chúa Trời, bạn đừng cố gắng vượt qua
sông để chứng tỏ bạn thân mình có giá trị. Bạn vốn rất giá trị rồi, bạn và tôi
vốn tự thương hại mỗi khi có sự sỉ nhục. điều đó cũng là những dòng sông rất
sâu và ngọn núi rất cao.
Bạn
muốn thấy những phép lạ, bạn muốn bản thân được đặt chân vào miền đất hứa, bạn
muốn nước sông rẽ ra làm đôi, bạn phải đi sau hòm giao ước. bạn phải đi theo
sau những thầy tế lễ.
Bài
học bổ ích cho chúng ta ở đây là: Chẳng có dòng sông Giô đanh nào quá sâu hay
quá lớn đối với Đức Chúa Trời, chẳng có ngọn núi nan đề nào quá cao và quá nhọn
trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
Cái
chính là chúng ta có đang tập chú vào Ngài hay đang tập chú vào chúng ta.
Lúc
tôi soạn bài đến đây: ngọn núi của tôi đó chính là cá tính nóng nảy và sự tức
giận bởi những….
Tôi
cầu nguyện thầm rằng: Xin Chúa cho mình sự nhịn nhục để chiến thắng được những
xác thịt nổi lên, và xin Chúa cho những ngọn núi và dòng sông sâu phải bị rẽ
ra.
Khi
vượt đi ra khỏi Ai cập, Y-sơ-ra-ên đã vượt qua dòng sông Giô-đanh bởi quyền
năng của Đức Chúa Trời biểu tượng là cây gậy của Đức Chúa Trời được dơ cao lên
bởi tay của Môi se. Còn dân Ai cập thử đi qua đều chết hết.
Giê-rê-cô
bị sụp đổ hoàn toàn cũng bởi vì hòm giao ước được khiêng đi trước và thầy tế lễ
theo sau. Mỗi ngày, mỗi ngày họ khiêng hòm và cầu nguyện và cuối cùng phép lạ
xảy ra. Thành trì kiên cố, đồn lũy Giê-ri-cô đã sụp xuống.
Có
những nan đề lớn, và khó vượt qua như Giê-ri-cô nhưng tất cả nếu chúng ta đi
trong sự chỉ dẫn, dẫn dắt của Chúa thì quyền năng phép lạ sẽ cặp theo.
Những
bia rượu, và cờ bạc cũng là những Giê-ri-cô và sông giô-đanh của đời sống. lời
tục tĩu và thói nói dối, trộm cướp cũng phải làm cho sụp đổ hoàn toàn.
Thắng
trận sẽ không đến nếu không để Chúa đi trước làm chủ. ( Giô-suê 3:6)
Đoạn, Giô-suê nói cùng những thầy tế lễ
rằng: Hãy khiêng hòm giao ước đi qua trước dân sự. Vậy, những thầy tế lễ khiêng
hòm giao ước và đi đầu dân sự.
-
Đi theo nhưng phải cách một khoảng là phải cách chừng hai ngàn thước.
tại
sao lại phải cách mà không được đi sát? vì các ngươi chưa hề đi đường nầy bao
giờ.
Mệnh
lệnh phải giữ khoảng cách độ 900m giữa họ với hòm giao ước giúp toàn thể dân
Y-sơ-ra-ên nhận thức đầy đủ về quyền lãnh đạo đầy đủ của Đức Chúa Trời.
-
Điều kiện thứ hai
để vượt qua sống Giô-đanh là:
III/. Hãy Làm Cho Mình Ra Thánh (
Giô-suê 3:5)
Giô-suê
cũng nói cùng dân sự rằng: Hãy làm
cho mình ra thánh, vì ngày mai Đức Giê-hô-va sẽ làm những việc lạ lùng
giữa các ngươi.
Ngày
9 tháng Nisan, Giô-suê chỉ thị cho dân sự làm cho mình nên thánh ( so sánh
11:8), ông nhấn mạnh vào tình trạng thánh khiết của quân đội. Việc nên thánh
này đòi hỏi họ phải giặt dũ quần áo ( So sánh xuất 19:10) và tránh sinh hoạt
tình dục ( so sánh 19:5)
Quân
đội có người lãnh đạo là những chiến binh giỏi, quân đội có hòm giao ước, có vũ
khí nhưng nếu không có sự thánh khiết thì hoàn toàn sẽ thất bại.
Sự
thánh khiết sẽ khiến cho dân sự có sức mạnh, sự thánh khiết sẽ làm cho sự hiện
diện của Chúa được ra tăng mạnh mẽ.
Sống
trong sự trong sạch trước mặt Chúa
Cuộc
đời của Giô sép khi đối diện với vợ Phô-ti-pha
13
năm trong tù, quyết định sống thánh khiết là phải trả một cái giá rất đắt, sống
chân thật chúng ta phải trả một cái giá rất đắt. Nhưng nó xứng đáng.
Lời
cầu nguyện của Chúa Giê xu!
Con
chẳng cầu Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ cho khỏi điều ác.
16 Họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. 17 Xin Cha
lấy lẽ thật khiến họ nên thánh; lời Cha tức là lẽ thật. 18 Như Cha đã sai Con
trong thế gian, thì Con cũng sai họ trong thế gian. 19 Con vì họ tự làm nên
thánh, hầu cho họ cũng nhờ lẽ thật mà được nên thánh vậy. ( Giăng 17:15-19)
Kinh Thánh: Thi-thiên 128:1-6
Nhập đề:

Giô-suê rất giỏi trong chiến
trận, ông rất quan tâm đến sự an ninh của dân sự, nhưng không vì thế mà ông bỏ
qua sự an ninh của gia đình ông, vợ con của ông. Đây là một người lãnh đạo giỏi
của Đức Chúa Trời. Ông không chỉ là trụ cột của toàn thể dân tộc của Chúa nhưng
ông cũng xứng đáng là người trụ cột trong gia đình của mình. Bây giờ ông nói:
Gios 24:15 Vậy bây giờ, hãy kính sợ Đức Giê-hô-va, và
phục sự Ngài cách thành tâm và trung tín; hãy bỏ xa các thần mà tổ phụ các
ngươi hầu việc bên kia sông, và tại xứ Ê-díp-tô; phải phục sự Đức Giê-hô-va. 15
Nếu chẳng thích cho các ngươi phục sự Đức Giê-hô-va, thì ngày nay hãy chọn ai
mà mình muốn phục sự, hoặc các thần mà tổ phụ các ngươi đã hầu việc bên kia
sông, hoặc các thần dân A-mô-rít trong xứ mà các ngươi ở; nhưng ta và nhà ta sẽ
phục sự Đức Giê-hô-va.
Câu nói của Giô suê: nhưng ta và
nhà ta sẽ phục sự Đức Giê-hô-va. Cho thấy sự quả quyết đức tin và lòng tin kính
của gia đình ông nơi Chúa, ông quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng đức tin của gia
đình mình nơi Chúa.
Giô suê là người chồng, là người
cha tin Kính Chúa, ông bảo vệ vườn nho của gia đình ông trong sự tin kính Chúa.
Ông không để những con chồn nhỏ phá hại vườn nho, tấn công vườn nho của gia
đình ông. Ông là chiến sĩ ngoài chiến trường, nhưng ông cũng là vị tướng giỏi
và tin kính cho gia đình vợ con của ông noi theo.
Đây là một gương mẫu của những
người làm cha, làm chồng, làm ông trong thời đại của chúng ta. Trong
Thi-thiên128 có 6 câu thì có tới 5 động từ “ Phước” liên tục được đề cập và đây
là một chuỗi phước.
Ở đây không phải là một ít phước,
nhưng là phước chồng trên phước. Phước trong công việc, phước trong gia đình,
phước ở ngoài đồng ruộng, nhưng phước trong con cái nữa.
Trong sách Phục truyền mô tả
những phước hạnh của Chúa nếu một người nghe theo và giữ các điều răn và luật
lệ của Chúa.
“ Ngươi sẽ được phước trong
thành, và được phước ngoài đồng ruộng. 4 Bông trái của thân thể ngươi, hoa quả
của đất ruộng ngươi, sản vật của sinh súc ngươi, luôn với lứa đẻ của bò cái và
chiên cái ngươi, đều sẽ được phước; 5 cái giỏ và thùng nhồi bột của ngươi đều
sẽ được phước!
6 Ngươi sẽ được phước trong khi
đi ra, và sẽ được phước trong khi vào.” Phu 28:6
Mỗi bước chân, mỗi việc làm của
chúng ta, đều sẽ được phước, được phước khi đi ra và đi vào, có người rất được
phước khi đi ra hầu việc Chúa nhưng không được phước khi về gia đình, có thể ra
ngoài xã hội đối nhân xử thế rất nhã nhặn, nhưng về nhà lại bày tỏ cách sống
thô lỗ, và cộc cằn.
Kinh Thánh không chỉ nói về những
chuyện trên thiên đàng nhưng nói những chuyện rất đời thường thực tế. Nói đến
người chồng, người cha, người làm vợ, làm mẹ, Kinh Thánh nói đến con cái, nói
đến những chuyện nhỏ nhất như Ăn hoặc uống hãy vì sự vinh hiển của Chúa mà làm.
Ai trong chúng ta cũng muốn mình
được phước, muốn nhìn thấy vợ con, cháu chắt được phước, ai trong chúng ta cũng
mong mỏi ước ao phước mỗi ngày. Nhưng Kinh Thánh đưa ra một khuôn mẫu, một mô
hình của một gia đình được phước.
Trước hết muốn gia đình mình được
phước thì điều đầu tiên là:
I/. Xây dựng gia đình tin kính (
128:1)
Nói đến gia đình là nói đến một
tập thể, là nói đến mỗi cá nhân trong gia đình. Nói đến gia đình là nói đến:
người chồng, người vợ, và con cái. Gia đình là một tế bào nhỏ của xã hội.
Trong câu số 1 Kinh Thánh không
đề cập đến người đàn ông, nhưng đọc suốt mạch văn thì chúng ta hiểu ngầm ngay ý
tác giả muốn nói đến là người chồng, người cha trong gia đình.
Người chồng như là chiếc đầu của
người đàn bà, người đàn ông như chiếc đầu tầu, nhờ cái đầu tàu mà nó kéo cả
chục cái toa khác theo.
Người Việt Nam chúng ta
thường nói: người đàn ông phải đầu tầu gương mẫu.
Gương mẫu trong lời nói, gương
mẫu trong việc làm, gương mẫu trong nếp sống, tư cách sống, làm gương trong
nhân cách nữa.
Không thể nào người cha hút thuốc
mà lại khuyên người con không hút thuốc, không thể nào người cha hay chửi bậy
mà lại khuyên con không được chửi bậy. Cha là tấm gương cho vợ con noi theo.
Chúng ta phải xây dựng một gia
đình để mỗi thành viên đều Kính sợ Chúa, Kính sợ Chúa là gì? Đó là đi trong
đường nối của Ngài, tức là gia đình đó phải sống theo Lời Chúa đã dạy, một gia
đình không có nền tảng là một gia đình đổ vỡ, chẳng mấy chốc gió lay xông động
gia đình ấy xập liền, nhưng một gia đình xây dựng trên lời Chúa sống theo Lời
Chúa thì chẳng điều gì có thể làm lạy động gia đình ấy được.
Nền tảng của gia đình cơ đốc là
sự Kính sợ Chúa, nền tảng của gia đình cơ đốc đặt nền móng trên Lời của Đức
Chúa Trời.
Mỗi khi có xung đột, có sự xích
mích không phải ông đổ tội cho bà, bà đổ tội cho ông, nhưng trước hết cả hai
phải chạy đến với Chúa để xem Lời Chúa nói gì về nan đề này.
Chồng nói với vợ rằng: mình ạ,
mình thông cảm, tha thứ cho tôi, vì lúc đó tôi đã nóng giận, không cầm giữ được
lên đã xúc phạm tới mình, hoặc vợ nói: Mình ạ, vợ chồng mình đã làm cho Chúa
buồn, nhất là vợ chồng mình đã giận dữ cãi lộn nhau như thế không làm sáng danh
Chúa, đã sỉ nhục danh Chúa, chúng ta cùng nhau ăn năn thì việc được thành.
A-đam đã thất bại vì không kính
sợ Chúa và đã chống lại điều răn của Ngài. Chúng ta có thể rút ra ba bài học từ
thất bại của A-đam
· Không có ý thức về vai trò mình (là
đầu gia đình, với nhiệm vụ trồng và giữ vườn), để khi thấy kẻ thù là rắn đến nói rủ rỉ dỗ dành vợ mình mà không
đuổi đi (không mạnh mẽ dùng quyền khi cần thiết)
· Biết điều Chúa dạy mà không làm, biết
vợ sai mà không cản (không tỏ vai trò lãnh đạo lúc cần, thiếu quyết đoán – sợ
người hơn sợ Chúa)
· Vô trách nhiệm (không nhận lỗi để ăn
năn mà đổ trách nhiệm sang cho người khác)
Có phải là những yếu điểm nói
trên đều có trong đàn ông bây giờ, vì chúng ta đều là hậu duệ của A-đam? Nhưng
người nào biết kính sợ Chúa, sẽ không làm điều trái với lương tâm.
Khi người khác dẫm vào cái ngón
chân út của chúng ta, và ngón chân út của chúng ta bị thương, và chúng ta cứ
chờ cái người làm tổn thương cái ngón út của mình đến xin lỗi trước. Nhưng lời
Chúa không dạy như vậy, Lời Chúa nói rằng: Mat 18:15 15 Nếu anh em ngươi phạm tội cùng ngươi, thì
hãy trách người khi chỉ có ngươi với một mình người; như người nghe lời, thì
ngươi được anh em lại.
Khi nào thì chúng ta đến hòa
giải, đó là khi chúng ta bất hòa với nhau, khi thấy lòng mình nặng trĩu, ăn
không ngon,ngủ không yên, đứng ngồi không yên, thì lúc đó chúng ta phải chạy đến
với anh em để giải quyết vấn đề.
Đến giải quyết vấn đề: chúng ta
không nên nói: tại ông trước, tại bà trước, chúng ta không đến thanh minh,
không đến để bênh vực mình và kết tội người khác sai. Mà đến để xin lỗi vì
chúng ta đã không làm đẹp lòng Chúa.
Gia đình tin kính Chúa là gia
đình phải ăn ở theo đường lối Ngài, gia đình được phước là gia đình để Chúa làm
Chủ.
Gia đình kính sợ Chúa là gia đình
tìm xem điều gì đẹp lòng Chúa thì dữ lấy, còn điều gì tựa như điều ác thì phải
lánh đi.
Thiên sứ Chúa đóng lại chung
quanh những kẻ kính sợ Ngài, Và giải cứu họ (Thi Thiên 34:7) Hỡi các thánh của
Chúa, hãy kính sợ Ngài; Vì kẻ nào kính sợ Ngài chẳng thiếu thốn gì hết (Thi
Thiên 34:9)
Hỡi các con, hãy đến nghe ta; Ta
sẽ dạy các con sự kính sợ Chúa (Thi Thiên 34:11)
Sự kính sợ Chúa là khởi đầu của
mọi sự khôn ngoan, người không học nhiều nhưng kính sợ Chúa thì người đó còn
khôn ngoan hơn người cả chục bằng tiến sĩ nhưng không kính sợ và tin Chúa.
Nếu kính sợ Chúa thì phải đi theo
con đường của Chúa. Chúng ta không thể ép Ngài đi theo con đường chúng ta và
chúc phước cho chúng ta mãi được. Phước cho người nào kính sợ Chúa, Đi trong
đường lối Ngài! Xin Chúa cho chúng ta biết con đường của Ngài.
II/. Phước hạnh của gia đình tin
kính Chúa
· Được hưởng mọi thành quả của công việc
mình làm ( 128:2)
Mình không đựng tiền công trong túi lủng nữa,
cũng không đổ mồ hôi chán luống công, người kính sợ Chúa là người được Chúa bảo
vệ trở che và thêm sức để chúng ta nói như Phao lô rằng: Tôi làm được mọi sự
nhờ Đấng thêm sức cho tôi.
Vâng nếu không có Chúa thêm sức
cho thì chúng ta chẳng hoàn thành được việc gì cả, vì Chúa Giê-xu đã phán rằng:
Ngoài Ta ra các ngươi chẳng làm chi được.
Tính được, làm được nhưng phải có
Chúa ban cho thì mới được, nói được làm được nhưng Chúa không cho thì dù nhìn
thấy trước mắt cũng chẳng nhận được.
Mọi công lao, kết quả đều đổ
xuống sông, xuống biển hết, dã chàng xe cát biển đông khi không có Chúa giữ gìn
cho.
Vua Đa vít nói rằng: Ngoài Chúa
ra tôi không có phước gì hết
Thi 16:6 5 Đức Giê-hô-va là phần cơ nghiệp và là cái
chén của tôi:
Ngài gìn giữ phần sản tôi.
6 Tôi may được phần cơ nghiệp ở
trong nơi tốt lành;
Phải, tôi có được cơ nghiệp đẹp
đẽ.
Đa vít nói Chúa giữ phần sản tôi,
điều gì xảy ra khi gia đình chúng ta không được giữ gìn, sẽ có sâu mối ten rét,
kẻ trộm sẽ đào ngạch khoét vách lấy đi.
Tác giả Thi thiên 127: Nếu Đức
Giê-hô-va không cất nhà,
Thì những thợ xây cất làm uổng
công.
Nhược bằng Đức Giê-hô-va không
coi giữ thành,
Thì người canh thức canh luống
công.
2 Uổng công thay cho các ngươi
thức dậy sớm, đi ngủ trễ,
Và ăn bánh lao khổ;
Chúa cũng ban giấc ngủ cho kẻ
Ngài yêu mến bằng vậy.
Người ta luôn tìm cách xây lên
những ngôi nhà kiên cố, và cắt đặt người canh giữ các thành phố nhưng cả hai
hoạt động đó đều chỉ là phí công vô ích, nếu Đức Chúa Trời không ở với họ. Một
gia đình không có Đức Chúa Trời thì chẳng bao giờ từng trải được sự ràng buộc
thuộc linh mà Đức Chúa Trời đã đem đến trong các mối quan hệ.Một thành phố
không có Đức Chúa Trời sẽ sụp đổ vì sự gian ác băng hoại từ bên trong. Đừng sai
lầm bỏ Đức Chúa Trời ra ngoài cuộc đời của bạn - nếu bạn làm như thế thì mọi
thành tựu của bạn đều sẽ chỉ là phí công vô ích mà thôi. Hãy biến Đức Chúa Trời
thành ưu tiên cao nhất của bạn, rồi để cho chính Ngài làm công việc xây dựng.
Nếu gia đình chúng ta đặt để mời
Chúa làm chủ, chúng ta kính sợ Chúa, đi trong đường lối của Ngài thì mọi công
việc mà tay chúng ta làm đều sẽ được phước và may mắn.
· Vợ con sẽ ở trong nhà như cây nho
thạnh mậu ( 128:3)
Khi quý vị là cha, là chủ gia
đình, hết lòng kính sợ và đi theo đường lối Chúa, chu cấp mọi nhu cầu của gia
đình, thì vợ của quý vị sẽ như cây nho thạnh mậu. Đối với người Do Thái ‘cây
nho’ biểu tượng cho sự thịnh vượng, cho đời sống phong phú. Không những dây nho
dùng để trang trí mà trái nho còn đem lại sự ngon ngọt cho người dùng nó, lợi
nhuận cho người trồng nó. Nho là loài thảo mộc yếu đuối, mềm dịu, cần được nâng
đỡ và vun trồng, nho cần tường vách để nương tựa. Đây cũng là hình ảnh của
người vợ lúc nào cũng dựa nương vào chồng của mình, như ông bà ta thường nói
‘cát đằng, nương bóng tùng quân’. Có một người thầy dạy luật Do Thái nói rằng:
Tôi không bao giờ gọi vợ tôi là vợ, mà gọi là 'nhà tôi', vì nàng đã biến căn
nhà tôi trở thành mái ấm, nơi che chở, bảo bọc, nuôi dưỡng đàn con của tôi.
Khi người chồng kính sợ Chúa, đi
theo đường lối Chúa và hết lòng thờ phượng Ngài thì vợ của người như nho thạnh
mậu, người vợ đảm đan, người mẹ hiền của đàn con mình. Cây nho thạnh mậu sẽ
sanh ra trái khôn ngoan, cành lá vượt tường thành, không bò dưới đất, không
sanh những trái chua, những quả chát, trái lại kết những trái nho to, chín
mọng, ngon ngọt.
Người cha nào kính sợ Chúa, hết
lòng làm theo lời dạy Chúa, và kính sợ Ngài chẳng những sẽ có được người vợ đảm
đang như cây nho thạnh mậu, mà còn có con cái quây quần chung quanh bàn người
khác nào những chồi ô-li-ve.
Ở tại Do Thái, là xứ thánh, nơi
Chúa Cứu Thế đã giáng trần, người nào làm chủ một vườn ô-liu, người đó sở hữu
một loài cây rất có giá trị, vì cây ô-liu cung cấp trái từ 20 đến 30 đời. Đây
là hình ảnh của người cha có phước lớn vì con cháu của người mấy mươi đời vẫn
được phước.
Thật không có hình ảnh nào phước
hạnh hơn, êm đềm hơn cho người cha khi có đầy đủ các con tụ họp lại trong mỗi
buổi ăn chiều. Công tác chánh của người cha không phải tạo ra sự nghiệp lớn
lao, mà là xây dựng một gia đình đầm ấm, con cái yêu thương nhau, quây quần bên
nhau cùng với cha mẹ trong mái ấm gia đình.
Giáo
Lý Thần Học
Bài
56 Công Vụ Của Chúa Cứu Thế Trong Công Cuộc Cứu Rỗi Nhân Loại
Khi
Chúa Cứu Thế Giê xu từ trời đến trần gian để thi hành công cuộc cứu rỗi nhân
loại, thì Chúa đã tình nguyện trở thành một người, trong thân phận của một con
người Chúa Giê xu đã nêu gương sáng cho chúng ta trên nhiều lĩnh vực. Ngài là
một người cầu nguyện, Ngài là một nhà truyền giáo, Ngài là một vị giáo sư, Ngài
là một người đầy lòng nhân từ bác ái.vv….
Tuy
nhiên, sự chết, sự sống lại và trở về trời cũng như sự trở lại của Chúa Giê xu
mới là những điều vô cùng quan trọng mà chúng ta cần phải tìm hiểu. Tất cả
những điều này đều là những giáo lý căn bản của Thánh Kinh của công cuộc cứu
chuộc loài người, vì tất cả những điều
này đều liên hệ mật thiết đến chương trình cứu rỗi nhân loại.
Một
số các nhà thần học thường chia các bài học về Chúa Cứu Thế Giê xu dưới ba đại
đề mục.
1/.
Chúa là nhà tiên tri
2/.
Chúa là thầy tế lễ
3/.
Chúa là Vua
Tuy
nhiên cách phân chia như vậy không đề cập nhiều đến cái chết hy sinh của Chúa
Giê xu vì nhân loại là sự cố quan trọng nhất, cũng như sự sống lại vốn là nền
tảng của tất cả mọi hy vọng của chúng ta là những người tin theo Chúa Giê xu.
Vì
vậy, mà tôi đề nghị chúng ta sẽ dành nhiều thì giờ nghiên cứu thẳng về sự chết
của Chúa Giê xu dựa trên căn bản Thánh Kinh.
I/. Tầm quan trọng của sự chết của Chúa
Cứu Thế Giê xu
Trái
với trường hợp của mọi người khác trên đời này cái chết của Chúa Giê xu hay nói
đúng hơn là cuộc đời của Chúa Giê xu khi Ngài có mặt trên trần gian này. Có một
tầm quan trọng vô cùng lớn lao đối với chương trình cứu chuộc nhân loại.
Sự
chết của Chúa Giê xu có tầm quan trọng vô cùng lớn lao vì một số các lý do sau
đây:
1/.
Thánh Kinh Cựu Ước đã nói trước về cái chết của Chúa Giê xu
Người
Việt Nam
rất quen thuộc với chữ Hán: Sinh hữu hạn tử vô kỳ có nghĩa là chúng ta biết rõ
ngày sinh nhưng không ai biết trước được ngày chết của chúng ta. Tuy nhiên cái
chết của Chúa Giê xu cũng như những chi tiết rất tỉ mỉ về cái chết của Ngài đều
đã được nói trước trong các lời tiên tri của Thánh Kinh Cựu Ước từ hàng nghìn
năm trước.
Cái
chết hy sinh của Chúa Giê xu cũng được báo trước cho chúng ta qua những hình
ảnh đặc biệt, và đặc biệt hơn hết là cái chết của những con sinh tế trong các
cuộc tế lễ của các tôn giáo Do Thái.
Hình
ảnh trước hết được nói đến là trong Sáng Thế Ký 3:21 câu này nói đến sự kiện
sau khi A đam và Ê va là hai con người đầu tiên sa ngã phạm tội. Thì Đấng Tạo
Hóa đã lấy da thú kết thành áo dài cho vợ chồng A đam.
Đây
chính là con thú đầu tiên bị giết để cung cấp bộ quần áo cho vợ chồng A đam và
Ê va sau khi họ sa ngã. Chúng ta cũng thấy những hình ảnh tiếp theo đó về những
con sinh bị giết để dâng tế lễ chuộc tội như con chiên bị A bên giết để làm của
lễ dâng lên cho Đức Chúa Trời như Sáng Thế Ký 4:4 ghi lại.
Hoặc
con dê bị giết chết trên núi Mô-ri-a để thế chỗ cho Y sác trên bàn thờ như Sáng
Thế Ký 22:13 cho chúng ta biết.
Hình
ảnh dâng sinh tế chuộc tội cũng đã được các nhân vật xa xưa áp dụng, như trường hợp của Gióp dâng sinh tế để chuộc
tội lỗi cho các con. Như trường hợp Áp-ra-ham, như trường hợp mỗi trường hợp
mỗi gia đình Do Thái giết một con chiên đầu lòng trong lễ vượt qua đầu tiên khi
họ rời Ai-cập trở về đất hứa.
Như
trường hợp dâng sinh tế trong nghi lễ mà Chúa đã truyền cho Môi se. Tất cả đều
làm hình ảnh về cái chết hy sinh của Chúa Cứu Thế Giê xu trên thập tự giá để
chuộc tội cho nhân loại.
Ngoài
những hình ảnh này chúng ta còn thấy những lời tiên tri về cái chết của Chúa
Giê xu chẳng hạn như Thi thiên 41:9 nói về Chúa bị phản bội.
Chúng
ta thử so sánh mấy câu này với thực sự điều đã xảy ra được chép lại trong Phúc
Âm về cái chết của Chúa Giê xu để thấy rõ vấn đề.
“Đến đỗi người
bạn thân tôi,
Mà lòng tôi tin cậy, và đã ăn bánh tôi,
Cũng giơ gót lên nghịch cùng tôi.”
Mà lòng tôi tin cậy, và đã ăn bánh tôi,
Cũng giơ gót lên nghịch cùng tôi.”
Lời
tiên tri này đã thành sự thật như chúng ta thấy như Phúc Âm Mác 14:18 chép lời
Chúa Giê xu nói với các môn đệ.
“Đang ngồi ăn, Đức Chúa Jêsus phán rằng:
Quả thật, ta nói cùng các ngươi, trong vòng các ngươi có một kẻ ngồi ăn cùng
ta, sẽ phản ta.”
Điều
này đã ứng nghiệm hoàn toàn khi Giu-đa-ích-ca-ri-ốt một trong mười hai môn đệ
thân tín của Chúa Giê xu đã bán Chúa để lấy ba mươi nén bạc, và dẫn đường cho
người ta đến bắt Chúa Giê xu và đóng đinh Ngài chết trên cây thập tự.
Những
lời tiên tri trong Thi Thiên 22 cũng vậy câu 1 nói về lời kêu van của Chúa Giê
xu khi Ngài bị đóng đinh.
“Đức Chúa Trời tôi ôi!
Đức Chúa Trời tôi ôi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?
Đức Chúa Trời tôi ôi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?
Hễ kẻ nào
thấy tôi đều nhạo cười tôi.
Trề môi, lắc đầu, mà rằng:
8 Người phú thác mình cho Đức Giê-hô-va, Ngài khá giải cứu người;
Ngài khá giải cứu người, vì Ngài yêu mến người!”
Trề môi, lắc đầu, mà rằng:
8 Người phú thác mình cho Đức Giê-hô-va, Ngài khá giải cứu người;
Ngài khá giải cứu người, vì Ngài yêu mến người!”
Câu
này cũng được ứng nghiệm rõ rệt khi Chúa Giê xu bị mọi người nhạo báng và một
tên cướp bị đóng đinh bên Ngài cũng đã nói:
“ nếu ngươi cứu được người ta, tại sao không cứu mình đi, nếu ngươi cứu được
người ta tại sao không nhảy ra khỏi thập tự giá rồi cứu tôi nữa đi.”
Câu
18 của Thi Thiên 22 chép rằng: “Chúng nó
chia nhau áo xống tôi;
Bắt thăm về áo dài tôi.”
Bắt thăm về áo dài tôi.”
Được
thành sự thật với đầy đủ chi tiết đúng như vậy khi binh sĩ chia nhau áo xống
của Chúa Giê xu, và bắt thăm để lấy chiếc áo choàng, áo ngoài của Ngài.
Thật
ra thì chúng ta không đủ thì giờ để nhắc đến tất cả những lời tiên tri trong
Thánh Kinh Cựu Ước nói về cái chết của Chúa Giê xu. Nói trước về cái chết của
Chúa Giê xu với những chi tiết rất đầy đủ. Nhưng chúng ta phải kết luận rằng:
sự chết của Chúa Giê xu có một tầm quan trọng vô cùng, chính vì lý do này mà
Thánh Kinh Cựu Ước nói về trước về cái chết của Ngài. Vì trong chương trình cứu
rỗi nhân loại Đức Chúa Trời đã định liệu Chúa Giê xu phải chịu chết vì nhân loại.
II/. Thánh Kinh Tân Ước dành rất nhiều
đoạn để nói về cái chết của Chúa Giê xu
Sự
chết của Chúa Giê xu chiếm một địa vị quan trọng trong Thánh Kinh Tân Ước, ba
ngày sau cùng của cuộc đời Chúa Giê xu trên trần gian này đã chiếm 1/5 tổng số
các sách Phúc Âm.
Nếu
các tác giả Phúc Âm viết đầy đủ chi tiết về cuộc đời của Chúa Giê xu trong ba
năm rưỡi hoạt động của Ngài như kiểu ba ngày cuối cùng mà Tân Ước đã ghi lại.
Thì Phúc Âm ít nhất là dài mười nghìn trang giấy in.
Người
ta đã đếm và nói đến cái chết của Chúa Giê xu hơn 175 lần hay nói cách khác cứ
53 câu trong Thánh Kinh Tân Ước thì đã có một câu nói trực tiếp đến cái chết
của Chúa Giê xu.
Chúng
ta cũng không có thì giờ đủ để trưng dẫn các câu Thánh Kinh này. Nhưng bất cứ
ai đọc Thánh Kinh đều phải công nhận và thấy được tầm quan trọng về sự chết của
Chúa Giê xu qua cách mô tả của Thánh Kinh.
III/. Sự chết của Chúa Giê xu chính là
mục đích chính của sự kiện Ngài trở thành người
Chúng
ta có thể nhắc lại một số câu Thánh Kinh để nói về tầm quan trọng của vấn đề
này.
Mác
10:45; Hê-bơ-rơ 2: 9;14; Hê-bơ-rơ 9:26; I Giăng 3:5
Qua
những lời này và những câu khác trong Thánh Kinh, chúng ta biết rằng: Chúa Giê
xu không phải trở thành người đến trần gian này để sống làm gương cho người
khác, hay để dạy giáo lý mà thôi. Nhưng nhiệm vụ chính của Chúa Giê xu là đến
trần gian này là để chịu chết vì tội lỗi của tất cả chúng ta.
Sự
chết của Chúa Giê xu không phải là một việc ngẫu nhiên hay là một tai nạn.
Nhưng để hoàn tất một mục đích có quan hệ mật thiết Ngài trở thành người. Chúa
Giê xu trở thành người chưa phải là tâm điểm của Phúc Âm mà cái chết của Ngài
vì tội lỗi của loài người mới là tâm điểm của chương trình cứu chuộc nhân loại.
IV/. Tầm quan trọng về cái chết của Chúa
Giê xu là sự chết của Chúa Giê xu chính là đề tài của các sách Phúc Âm
Phúc
Âm có nghĩa là tin tức tốt, có nghĩa là tin mừng, tin tức tốt hay tin mừng
trong Phúc Âm có nghĩa là tin mừng về ơn cứu chuộc nhân loại. Phao lô nói rằng:
tin mừng hay Phúc Âm bao gồm sự chết, sự chôn, sự sống lại của Chúa Giê xu như
ở trong I Cô-rinh-tô 15:1-4 có chép: “Hỡi anh em, tôi nhắc lại cho anh em Tin lành
mà tôi đã rao giảng và anh em đã nhận lấy, cùng đứng vững vàng trong đạo ấy, 2 và nhờ đạo ấy, anh em được cứu rỗi, miễn là
anh em giữ lấy y như tôi đã giảng cho; bằng không, thì anh em dầu có tin cũng
vô ích. 3 Vả, trước hết tôi đã dạy dỗ anh em
điều mà chính tôi đã nhận lãnh, ấy là Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta
theo lời Kinh thánh; 4 Ngài đã bị chôn, đến
ngày thứ ba, Ngài sống lại, theo lời Kinh thánh;”
Sự
chết của Chúa Giê xu vì tội lỗi chúng ta là một tin mừng, vì tin mừng này hàm ý
rằng: Chúng ta không còn phải bị chết vì bởi tội lỗi của chúng ta nữa. trên một
phương diện, luật pháp Môi se, bài giảng trên núi của Chúa Giê xu hay là những
lời dạy của Ngài cũng không phải là tin lành. Tất cả những điều này chỉ mặc
khải cho chúng ta biết, chúng ta cần có Chúa Cứu Thế. Chúng ta cần phải có Chúa
Giê xu chịu chết chuộc tội cho chúng ta. Tất cả những điều đó chưa phải là điều
căn bản để có thể cứu rỗi chúng ta. Chỉ có cái chết của Chúa Giê xu mới cứu
chúng ta ra khỏi sự trừng phạt của tội lỗi, và ban cho chúng ta địa vị làm con
của Đức Chúa Trời.
V/. Sự chết của Chúa Giê xu là nền tảng
sống còn của Hội Thánh
Tất
cả những tôn giáo trên đời này đều dựa vào những lời dạy của những vị sáng lập
ra tôn giáo ấy. Nhưng Hội Thánh của Chúa Giê xu tùy thuộc trước hết vào cái
chết của Ngài. Rút sự chết của Chúa Giê xu ra khỏi Hội Thánh, ra khỏi giáo lý
của Chúa thì đạo của Chúa chỉ là một tổ chức luân lý không hơn không kém.
Có
người đã nói rằng: các anh hùng trên thế giới đã xây dựng đế quốc của họ dựa
vào sức mạnh, chỉ có Chúa Giê xu xây dựng đế quốc của Ngài dựa vào tình yêu. Và
dựa vào tình yêu đó đã được thể hiện đầy đủ qua cái chết hy sinh của Ngài trên
thập tự giá.
VI/. Sự chết của Chúa Giê xu chính là
điều kiện tất yếu của ơn cứu rỗi
Chúa
Giê xu đã từng dạy rằng: Ngài phải bị treo lên tức là bị giết thì người ta mới
được cứu, Chúa cũng dùng một hột lúa gieo xuống đất phải chết đi thì mới mọc
lên thành cây lúa và kết hột được.
Đức
Chúa Trời không thể tha thứ tội lỗi chỉ trên căn bản chúng ta ăn năn vì như vậy
là trái với đức công chính của Ngài. Đức Chúa Trời chỉ có thể tha thứ tội lỗi
cho chúng ta khi tội lỗi ấy phải bị trừng phạt xứng đáng.
Để
Đức Chúa Trời có thể tha thứ tội lỗi cho chúng ta, đồng thời không vi phạm đức
công chính của Ngài. Chúa Giê xu đã thay chúng ta là những tội nhân để chịu
chết, để chịu trừng phạt.
Trên
quan điểm của Đức Chúa Trời cái chết của Chúa Giê xu là điều kiện tất yếu không
thể thiếu được để loài người chúng ta được tha thứ, khi chúng ta ăn năn tội lỗi
và tin nhận Chúa Cứu Thế Giê xu.
Tóm
lại, chúng ta thấy rằng: Sự chết của Chúa Giê xu có một tầm quan trọng rất đặc
biệt vì các lý do:
Thứ
nhất Thánh Kinh Cựu Ước đã nói trước về cái chết của Chúa Giê xu với nhiều chi
tiết rất rõ rệt, tỉ mỉ.
Thứ
hai Thánh Kinh Tân Ước dành rất nhiều đoạn để nói về cái chết của Chúa Giê xu.
Thứ
ba là mục đích chính của sự kiện Ngài trở thành người.
Thứ
tư là sự chết của Chúa Giê xu là đề tài chính của các sách Phúc Âm. Thứ năm là
sự chết của Chúa Giê xu là nền tảng sống còn của Hội Thánh Chúa.
Thứ
sáu cái chết của Chúa Giê xu là điều kiện tất yếu cho ơn cứu rỗi của chúng ta.
Chúng
ta đã tìm hiểu về tầm quan trọng vô cùng về cái chết của Chúa Cứu Thế Giê xu.
Chúa Giê xu đã trở thành một người để chết thế cho loài người, không có cái
chết hy sinh này thì mọi cố gắng và đức tin của chúng ta đều vô ích.
Thánh
Kinh đã nói rất đầy đủ và rõ ràng về cái chết của Chúa Giê xu tâm điểm của Phúc
Âm cứu rỗi nhân loại.
Tuy
nhiên, trong lịch sử giáo hội có một số người đã từng giải thích sai lạc về cái
chết của Chúa Giê xu, chúng ta cũng cần lên biết qua về các tà thuyết này để
không bị lung lạc và đi ra khỏi niềm tin chân chính của Thánh Kinh.
1/.
Lý thuyết ngẫu nhiên
Lý
thuyết ngẫu nhiên không tin sự chết của Chúa Giê xu có một ý nghĩa quan trọng
nào cả. lý thuyết này nói rằng vì Chúa Giê xu là một người nên Ngài đằng nào
cũng phải chết, vì đó là định luật bất di bất dịch đối với loài người.
Lý
thuyết này cũng cho rằng nguyên tắc sống đạo của Chúa Giê xu lúc ấy không hợp
thời lên bị người đời chống đối và giết Ngài đi.
Mặc
dù lý thuyết này đề cao Chúa Giê xu là một bậc hiền nhân, một người nhân đức.
Nhưng cái chết của Chúa Giê xu theo lý thuyết này không có một ý nghĩa nào cả
cho bất cứ ai.
Chúng
ta thấy ngay tà thuyết này hoàn toàn sai, ở chỗ cái chết của Chúa Giê xu đã
được nói trước rất nhiều lần trong Thánh Kinh Cựu Ước. Chính Chúa Giê xu cũng
đã nói trước về cái chết của Ngài và lý do Ngài phải chết.
Dựa
vào những bằng chứng trong Thánh Kinh, chúng ta bác bỏ ngay lý thuyết ngẫu
nhiên mà không cần phải thảo luận thêm.
Tà
thuyết thứ hai về cái chết của Chúa Giê xu là:
2/.
Lý thuyết tử đạo
Tà
thuyết tử đạo chủ trương cái chết của Chúa Giê xu bất quá chỉ là một trường hợp
tử đạo mà thôi. Chúa Giê xu nói lẽ phải trong lúc người đương thời sống trong
dối trá, vì vậy mà Ngài đã bị người đời giết chết. Cái chết của Chúa Giê xu của
một vị anh hùng tử đạo. Và cái chết này cũng khích lệ chúng ta ngày nay phải
sống đúng với những gì mình đã tin, mình đang tin dù phải trả một giá rất đắt
là cái chết. Và khi dám chết vì đạo như vậy thì chúng ta sẽ được cứu rỗi.
Cũng
như tà thuyết ngẫu nhiên, tà thuyết tử đạo không đếm xỉa gì đến điều quan trọng
mà Thánh Kinh đã mặc khải về cái chết của Chúa Giê xu.
Cái
chết của Chúa Giê xu là cái chết thay thế cho loài người tội lỗi, Ngài là người
công bình chết thế cho người có tội. Chúa Giê xu đã hiến dâng sinh mạng của
Ngài làm sinh tế chuộc tội cho nhân loại.
Và
chúng ta phải nhờ cái chết của Chúa Giê xu thì mới được tha thứ tội lỗi và mới
được cứu rỗi. chứ không phải chỉ noi gương theo Chúa chịu tử đạo mà đã được cứu
đâu.
Tà
thuyết thứ ba là:
3/.
Ảnh hưởng đạo đức về cái chết của Chúa Giê xu
Theo
tà thuyết này vì Chúa Giê xu trở thành người nên đã chết vì tội chung của
người. cái chết của Chúa Giê xu bày tỏ tình yêu của Đức Chúa Trời đối với loài
người nói chung, cái chết của Chúa Giê xu cũng như là cái chết về sau của những
nhà truyền giáo, sả thân vì đạo đều giống như nhau.
Cũng
như các tà thuyết trước, chúng ta thấy ngay tà thuyết ảnh hưởng đạo đức không
khác xa gì với tà thuyết tử đạo cả.
Điểm
chính trong cái chết của Chúa Giê xu là chết thế cho tội nhân để chuộc tội cho
tội nhân thì hoàn toàn không được bàn đến trong tà thuyết này. Dựa trên căn bản
ấy chúng ta cũng có thể bác ngay và thấy đây là một tà thuyết. chứ không phải
là một giáo lý của Thánh Kinh về cái chết của Chúa Giê xu. Ngoài ba ta thuyết
nói trên, còn có rất nhiều các tà thuyết khác nữa. thỉnh thoảng xảy ra trong
giáo hội nói về cái chết của Chúa Giê xu và giải thích cái chết của Chúa Giê
xu.
Thật
ra, thì chúng ta không có đủ thì giờ để tìm hiểu tất cả những chi tiết về các
tà giáo này. Tuy nhiên, bất cứ một lý thuyết nào nói về cái chết của Chúa Giê
xu mà không nhấn mạnh đến sự kiện Chúa Giê xu chính là Đức Chúa Trời. Nhưng đã
trở thành người để thay thế người chịu chết vì tội lỗi của người và tội nhân
phải nhờ cậy vào cái chết của Chúa Giê xu thì mới được tha tội thì mới được cứu
rỗi.
Do you like ThisBlog...?