GIÊ-RÊ-MI
MỤC LỤC
01. NHÀ TIÊN TRI MIỄN CƯỠNG
02. NHÀ TIÊN TRI GIẢNG DẠY
03. TIẾNG NÓI TRONG ĐỀN THỜ
04. VÂNG THEO CHÚA
05. NHỮNG BÀI GIẢNG, LỜI CẦU XIN VÀ
TIẾNG THAN KHÓC
06. NHÀ TIÊN TRI, NGƯỜI THỢ GỐM VÀ
NGƯỜI BẢO VỆ ĐỀN THỜ
07. CÁC VUA ĐANG DIỄU BINH
08. ĐỐI DIỆN VỚI LẼ THẬT VÀ CHỐNG
LẠI NHỮNG LỜI GIẢ DỐI
09. ĐỨC CHÚA TRỜI, ĐẤNG LÀM CHO MỌI
SỰ TRỞ NÊN MỚI
10. NHỮNG BIẾN CỐ TẠM THỜI VÀ LẼ
THẬT VĨNH CỬU
11. BI KỊCH NỐI TIẾP BI KỊCH
12. CHÚA PHÁN VỚI CÁC DÂN TỘC
13. BA-BY-LÔN BỊ SỤP ĐỔ
1. NHÀ TIÊN TRI MIỄN
CƯỠNG (Gie 1:1-19)
“For a people to boast in the
glory of the past, and to deny the secret that made the past, is to perish”
G.Campbell Morgan [1].
Có lẽ Giê-rê-mi được khoảng 20 tuổi khi Đức Chúa
Trời gọi ông vào chức vụ nói tiên tri vào năm thứ 13 đời vua Giô-si-a (năm 626
T.C). Tại sao lúc đó Giê-rê-mi lại tỏ ra do dự khi được Chúa kêu gọi? Có lẽ là
bởi một vài lý do mà tôi sẽ trình bày sau đây :
1. Vì đó là một chức vụ
đòi hỏi nhiều nỗ lực (Gie
1:1)
Hinh-kia, cha của
Giê-rê-mi là một thầy tế lễ [2] Cũng như cha mình, Giê-rê-mi được kỳ vọng sẽ
hầu việc Chúa trong đền thờ. Giê-rê-mi có lẽ đã bước vào tuổi trưởng thành khi
được Chúa kêu gọi vào chức vụ nói tiên tri cho Ngài.
Hầu việc Chúa trong chức
vụ nói tiên tri là một công việc đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn so với công việc của
thầy tế lễ nên chẳng có gì là ngạc nhiên khi Giê-rê-mi bày tỏ sự lưỡng lự của
mình. Nếu được chọn lựa, tôi cũng sẽ chọn công việc của một thầy tế lễ. Đó là
vì chúng ta có thể biết trước công việc của một thầy tế lễ, mọi điều đều được
ghi trong quyển sách Luật pháp. Vì vậy, các thầy tế lễ chỉ cần thực hiện theo
những điều đã ghi sẵn trong sách. [3] Nhiệm vụ hàng ngày của
các thầy tế lễ gồm có: dâng của lễ, kiểm tra những người bị bệnh phung, đuổi
những người không tinh sạch ra khỏi trại và cho phép những người đã sạch vào
trại trở lại. Họ cũng phải thực hiện những buổi lễ, coi sóc đền thờ và giảng
dạy Luật pháp. Vì vậy, cũng chẳng có gì là ngạc nhiên khi một vài thầy tế lễ
nói rằng: "ôi ! việc khó nhọc là dường nào!"
(Ma 1:13 NKJV)
Trái lại, công việc của
một người nói tiên tri lại hoàn toàn khác hẳn, bởi lẽ bạn không hề biết trước
Đức Chúa Trời sẽ muốn bạn nói hay làm điều gì cho Ngài. Công việc của một thầy
tế lễ trước hết là bảo tồn truyền thống bằng cách gìn giữ và duy trì chức vụ trong
đền thánh.
Trong khi đó, nhiệm vụ
của một người nói tiên tri là phải thay đổi hiện tại để đất nước sẽ có được
tương lai tốt đẹp. Khi nhìn thấy dân sự đi sai đường, nhà tiên tri phải biết
hướng họ trở lại con đường chính nghĩa.
Công việc của các thầy tế lễ liên
quan đến hình thức bên ngoài chớ không chạm đến tấm lòng của dân sự (He 10:1-18), chẳng hạn như việc quyết định sự tinh
sạch của một người hay dâng nhiều của lễ khác nhau. Trái lại, công việc của
người nói tiên tri lại chính là thay đổi tấm lòng dân sự. Có ít nhất 66 lần từ
"tấm lòng" được tìm thấy trong sách Giê-rê-mi vì ông là nhà tiên tri
của tấm lòng.
Các thầy tế lễ không giảng dạy nhiều
trước dân sự mà giảng tuần tự cho từng cá nhân. Trong khi đó, nhà tiên tri phải
thực hiện công việc mình trước cả dân sự, và thường thì mọi người chẳng ai chịu
lắng nghe thông điệp của nhà tiên tri. Các thầy tế lễ
thường xuất thân từ một chi phái đặc biệt, do đó, thường có thẩm quyền và được
dân sự kính trọng. Trái lại, nhà tiên tri có thể xuất thân từ bất kỳ chi phái
nào và phải minh chứng được rằng người thật sự được Chúa kêu gọi cách đặc biệt.
Các thầy tế lễ được chu cấp từ những của lễ dâng của dân sự nhưng người nói
tiên tri lại không có một nguồn thu nhập bảo đảm nào.
Tiên tri Giê-rê-mi có lẽ
đã trãi qua nhiều thời kỳ dễ dàng hơn nếu ông phục vụ trong chức vụ thầy tế lễ.
Vì vậy, phản ứng ban đầu của ông khi được kêu gọi chẳng có gì là ngạc nhiên.
Dâng của lễ là một chuyện nhưng rao truyền lời Chúa cho một dân sự cứng lòng
lại là một chuyện khác hẳn. Khi đọc sách này, bạn sẽ bắt gặp một số hình ảnh
trong chức vụ của Giê-rê-mi bày tỏ việc hầu việc Chúa trong vị trí một nhà tiên
tri trung tín thật khó dường nào. Trong chức vụ của mình, Giê-rê-mi đã phải thể hiện mình là:
- Người hủy diệt và người tái lập Gie 1:9-10
- Cây cột và tường thành 1:17-18
- Người thức canh 6:17
- Người thử luyện kim loại 6:27-30
- Người chữa lành 8:11,21-22
- Chiên con chuộc tội 11:19
- Người chạy bộ đường dài 12:5
- Người chăn chiên 13:17,20-21 17:16,23
- Người gây ra sự tranh cãi 15:10,17
Liệu có dễ dàng khi làm những công
việc như vậy chăng?
2. Những thời kỳ khó
khăn (Gie 1:2-3) (IIVua 21:1-25:30 IISu 33:1-36:25)
Tôi cho rằng trong công
tác hầu việc Chúa thì chẳng có một giai đoạn nào là dễ dàng cả. Thánh sử cũng
từng ghi nhận có những thời kỳ thật sự khó khăn cho chức vụ thuộc linh và tiên
tri Giê-rê-mi đã sống vào một trong những giai đoạn như thế. Hãy cùng điểm lại
lịch sử của nước Giu-đa khi đương thời tiên tri Giê-rê-mi.
Bạo nghịch thay vì
vâng phục Trước hết, Giê-rê-mi sinh ra trong thời kỳ vua Ma-na-se, vị vua độc ác nhất trong
các vua từng cai tri vương quốc Giu-đa (IIVua
21:1-18). Mặc dù là con trai của Ê-xê-chia [4] một vị vua
kính sợ Đức Chúa Trời, nhưng Ma-na-se lên ngôi khi mới 12 tuổi đã bị các quần
thần vây quanh dẫn dụ họ (dân Giu-đa) theo đường lối thờ hình tượng. Ma-na-se
"quyến dụ làm ác hơn các dân tộc mà Đức Chúa Trời tuyệt diệt" (c.9).
Khi Ma-na-se qua đời, A-môn, con trai người lại tiếp tục những việc làm gian ác
của cha mình.
Do đó, Giê-rê-mi lớn lên
tại A-na-tốt [5] khi việc thờ hình tượng lan tràn khắp nơi trong
xứ Giu-đa. Trẻ con bị bắt buộc phải dâng của lễ cho các thần tượng trong khi
Luật Môi-se không được tôn trọng và tuân theo. Dường như không còn một hi vọng
nào cho cả dân tộc. Ngay cả các thầy tế lễ cũng không được tôn trọng như trước.
Cải cách thay vì ăn
năn Vào năm 639 TC, A-môn bị bọn tôi tớ giết chết và Giô-si-a,
con trai người được lập lên làm vua, trị vì cho đến khi qua đời vào năm 609 TC.
Giô-si-a lên ngôi khi còn rất trẻ nhưng nhờ có những quần thần kính sợ Chúa như
Hinh-kia phò giúp nên vua bắt đầu tìm kiếm Đức Chúa Trời. Vào năm thứ mười hai
đời Giô-si-a, vua bắt đầu trừ diệt việc thờ hình tượng khỏi xứ. Sáu năm sau đó,
vua ra lệnh cho các thầy tế lễ, các thợ sửa sang và lau dọn lại đền thờ. Cũng
trong thời gian này, thầy tế lễ Hinh-kia tìm được quyển sách Luật pháp trong
đền thờ và nhờ người đọc sách này cho vua nghe. Quyển sách này có thể bao gồm
Ngũ kinh của Môi-se hoặc chỉ có một sách Phục truyền Luật lệ Ký.
Khi được nghe đọc sách Luật pháp của
Đức Chúa Trời, nhà vua rất cảm động. Người xé quần áo mình và phái quần thần
đến nữ tiên tri Hun-đa để nhận lãnh sứ điệp của Đức Chúa Trời (IIVua 22:1-20), với nội dung là do dân sự đã từ bỏ
Đức Chúa Trời nên “sự đoán phạt sẽ giáng xuống trên cả dân tộc”. Tuy nhiên,
chính bởi thái độ ăn năn của vua Giô-si-a nên sự đoán phạt đã không xảy ra
trong thời vua trị vì.
Vua Giô-si-a không đợi đến khi việc
sửa sang đền thờ hoàn tất mới kêu gọi dân sự ăn năn. Vua lập giao ước với Đức
Chúa Trời và dẫn dắt dân sự từ bỏ việc thờ hình tượng để quay trở về với Luật
pháp của Chúa. Nhưng đáng buồn thay, thái độ ăn năn của một số người lại chỉ là
hình thức bên ngoài. Khác với nhà vua, họ không thật sự ăn năn, thống hối. Tiên
tri Giê-rê-mi biết được điều này nên rao truyền thông điệp của Chúa:
"Giu-đa cũng chẳng trở về cùng Ta hết lòng, chẳng qua là giả dối" (Gie 3:10)
Việc ấy khiến vua Giô-si-a bước vào
thực hiện một cuộc cải cách trong cả nước nhưng chỉ ở hình thức chớ không ở tấm
lòng. Các thần tượng được cất đi, đền thờ được tu sửa
lại và việc thờ phượng Đức Giê-hô-va cũng được tái lập nhưng lòng dân sự không
thật sự quay lại cùng Chúa.
Chính trị thay nguyên
tắc đạo đức Chẳng bao lâu sau khi vua Giô-si-a bị giết trên
chiến trận [6] và Giô-a-cha, con trai người lên ngôi, cả nước
đều nhanh chóng quay lại việc thờ hình tượng. Tuy nhiên, Pha-ra-ôn Nê-cô đã
truất Giô-a-cha khỏi ngôi, đưa con trai người là Ê-li-a-kim lên làm vua và đổi
tên thành Giê-hô-gia-kim. Về phần Giô-a-cha, người bị đày sang Ê-díp-tô và chết
tại đó.
Giê-hô-gia-kim cũng
không cai trị tốt hơn cha mình và vẫn "làm đều gian ác tại trước mặt Đức
Giê-hô-va, theo trọn gương các tổ phụ mình
đã làm" (IIVua 23:37). Người đánh thuế
dân trong xứ rất nặng để cống nộp -nết-sa, vua Ba-by-lôn. Sau khi
Giê-hô-gia-kim phản nghịch, vua Nê-bu-cát-nết -sa bắt giam người và tước đoạt
những khí dụng trong đền thờ của Đức Chúa Trời. (597 TC) cho Nê-bu-cát
Giê-hô-gia-kin, con trai của
Giê-hô-gia-kim trị vì được ba tháng; sau đó, Ma-tha-nia, chú người, con trai
thứ ba của Giô-si-a (ISu 3:15) được lập lên
làm vua và đổi tên thành Sê-đê-kia. Sê-đê-kia là vị vua cuối cùng của Giu-đa,
một vị vua nhu nhược, dễ bị dao động và sợ các quần thần hơn là sợ Đức Chúa
Trời (Gie 38:19) [7]. "Người làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va Đức chúa
trời của người, không hạ mình xuống trước mặt Giê-rê-mi, là đấng tiên tri vâng
mạng Đức Giê-hô-va mà khuyên bảo người." (IISu
36:12)
Sê-đê-kia vừa đến với
tiên tri Giê-rê-mi để tìm kiếm sự giúp đỡ nhưng đồng thời lại vừa cấu kết với
các nước lân cận, lập mưu chống lại đế quốc Ba-by-lôn. Vua cũng cho phép các
con mình ngược đãi, thậm chí bắt giam Giê-rê-mi mặc dù chính người vẫn bí mật
đến gặp nhà tiên tri như thể người muốn tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời vậy.
Thật dễ dàng để các
chính trị gia đưa ra lời mời các nhà lãnh đạo tôn giáo cùng ngồi lại trong một
cuộc hội đàm và thực hiện đúng theo những điều đã thoả thuận. Ngày nay, những
mối quan hệ công khai tốt đẹp thường gây ấn tượng với người khác rằng "tôn
giáo" thật quan trọng. Thế nhưng, việc nói chuyện với một nhà truyền giáo
nổi tiếng không đồng nghĩa với việc bạn tự hạ mình xuống trước mặt Chúa.
Tiên tri Giê-rê-mi giảng
dạy, đưa ra những lời hứa và những lời cảnh báo của Chúa cho dân sự trong 40
năm. Giê-rê-mi cũng đồng thời tận mắt chứng kiến đền thờ Giê-ru-sa-lem yêu dấu
bị phá huỷ dưới tay vua Nê-bu-cát-nết-sa và dân thành bị bắt đày sang
Ba-by-lôn. Tiên tri Giê-rê-mi thực hiện chức vụ trong thời kỳ loạn lạc nhưng
ông vẫn hết lòng trung tín với Chúa. Giê-rê-mi cũng bày tỏ với dân sự chính
sách ngoại giao của những người cai trị đều là vô ích và kêu nài họ quay trở
lại tin cậy Chúa hết lòng thay vì đặt lòng tin nơi các liên minh chính trị.
Tiên tri Giê-rê-mi là một trong những gương điển hình trong Kinh Thánh về sự
trung tín và hành động dứt khoát khi phải đối diện với hiểm nguy cũng như sự
bại hoại của đất nước.
3. Người đầy tớ nghi ngại (Gie 1:4-10)
Giê-rê-mi đã do dự khi
xem xét công việc Chúa giao trước mắt và nhìn thấy những kẻ độc ác quanh ông.
Nhìn biết sự yếu đuối trong chính bản thân mình, Giê-rê-mi lại càng chắc chắn
rằng ông không phải là người thích hợp cho công việc này.
Khi bước vào công tác
hầu việc Chúa, thường thì người ta luôn có một cảm giác rằng không ai có đầy đủ
năng lực cho công việc Ngài cả. Sứ đồ Phao-lô khi
đang suy nghĩ về trách nhiệm chức vụ của mình đã hỏi rằng: "Ai xứng đáng
cho những sự này?" (IICo 2:16). Sau đó,
cũng chính Phao-lô đã tự trả lời cho câu hỏi của ông: "không phải tự mình
chúng tôi có tài năng mà nghĩ việc gì như bởi chính mình chúng tôi, nhưng tài
năng của chúng tôi đến từ Đức Chúa Trời" (3:5).
Khi Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta,
Ngài không bao giờ nhầm lẫn. Vì vậy, thái độ do dự hay từ chối công việc của
chúng ta chính là hành động bày tỏ sự thiếu đức tin. Nhận biết những giới hạn
của bản thân là một việc nhưng dựa vào đó để nói rằng chính những yếu điểm này cản trở công việc Chúa lại là một việc hoàn toàn khác. Đây
chính là thái độ kiêu ngạo thay vì là biểu hiện của sự khiêm nhường. [8]
Đức Chúa Trời đã hứa ban
cho Giê-rê-mi ba lời xác tín thật tuyệt vời:
Được Đức Chúa Trời
chọn lựa (c.4-5):Một trong số các giáo sư thần học của
tôi vẫn thường nói rằng "Nếu bạn cố giải thích một sự kêu gọi của Chúa,
thì bạn sẽ bị mất trí còn nếu bạn cố nguỵ biện nó, bạn sẽ mất linh hồn mình.
"Chúng ta được Đức Chúa Trời cứu, kêu gọivà dùng trong công việc nhà Ngài
không phải là do chúng ta xứng đáng được nhận lãnh điều đó. Trái lại, ấy là do
sự khôn ngoan và ân điển của Chúa mà Ngài chọn chúng ta. Tất cả đều là do ân
diển của Chúa. Sứ đồ Phao-lô đã viết rằng: "Nhưng tôi nay là người thể nào
là nhờ ơn của Đức Chúa Trời và ơn Ngài ban cho tôi cũng không phải là uổng vậy.
Trái lại, tôi đã làm nhiều hơn các người khác, nhưng nào
phải tôi, bèn là ơn Đức Chúa Trời đã ở cùng tôi." (ICo 15:10)
Từng từ trong Gie 1:5 đều rất quan trọng. Trước hết, Đức Chúa
Trời biết
Giê-rê-mi, [9] điều này đề
cập đến quyền lựa chọn tôi tớ tối cao của Ngài. Đức Chúa Trời đã chọn Giê-rê-mi
trước khi ông được hoài thai trong lòng mẹ. Kế đến, Đức Chúa Trời tạo nên Giê-rê-mi và cho ông hưởng những di
truyền mà Chúa muốn ông có. Điều này cũng được Đa-vít thể hiện qua những dòng
thơ trong Thi 139:13-16. Mặc dù Giê-rê-mi
không thoả lòng về những điều ông được hưởng (Gie
20:14-18) nhưng Đức Chúa Trời biết rõ công việc Ngài làm. Những gì chúng
ta có chính là ân tứ mà Đức Chúa Trời ban cho và những gì chúng ta làm sẽ là
món quà chúng ta dâng lên cho Chúa.
Đức Chúa Trời đã biệt riêng
Giê-rê-mi ngay trước khi ông được sinh ra. Điều này có nghĩa là ông đã được
Chúa chọn lựa riêng ra cho Ngài, ngay cả trước khi ông nhận biết về Chúa cách
cá nhân. Đức Chúa Trời cũng có cùng một cách như thế với sứ đồ Phao-lô sau này
(Ga 1:15).
Đức Chúa Trời cũng đã lập Giê-rê-mi làm tiên tri cho Ngài. Mối quan
tâm ban đầu của Đức Chúa Trời là mọi dân
tộc trên đất đều được biết về sự cứu rỗi của Chúa. Đó
là lý do vì sao Ngài gọi Áp-ra-ham (Sa
12:1-3) và biệt riêng dân tộc Y-sơ-ra-ên ra làm cầu nối để đưa Lời Ngài
và Con một Ngài vào thế gian.
Nhà tiên tri là phát
ngôn viên chính thức được lựa chọn của Đức Chúa Trời, là người bày tỏ Lời Chúa
cho dân sự. Từ ngữ này trong tiếng Hê-bơ-rơ có lẽ xuất phát từ ngôn ngữ gốc
A-rập, có nghĩa là "thông báo". Chẳng hạn như, Môi-se nói với A-rôn
và A-rôn là phát ngôn viên (tiên tri) của Môi-se trước mặt Pha-ra-ôn (Xu 7:1-2). Nhà tiên
tri làm nhiều điều hơn là chỉ nói trước những việc ở tương lai bởi vì thông
điệp của họ còn đề cập đến cả những điều dân sự cần
phải làm. Họ thật ra là những người phản ảnh hiện tại và tương lai hơn là người
nói trước tương lai. Nhà tiên tri chỉ rõ tội lỗi của dân sự và kêu gọi họ quay
về với những điều họ đã hứa trong giao ước với Chúa.
Là con cái của Đức Chúa Trời, chúng
ta được chính Chúa chọn lựa và biệt riêng ra cho Ngài (Eph
1:3-14 Ro 8:28-30). Chân lý này giúp
chúng ta có thêm năng lực khi đối diện với thế gian tội lỗi và luôn tìm cách
hầu việc Ngài. "Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta thì còn ai nghịch cùng
chúng ta?" (Ro 8:31)
Được Đức Chúa Trời
hiện diện chở che (c.6-8): Đức Chúa Trời ban cho chàng trai trẻ
Giê-rê-mi ba mạng lệnh "đi khắp nơi nào Ta sai ngươi đi, sẽ nói mọi điều
ta truyền cho nói và đừng sợ vì cớ chúng nó". Kế đó, Ngài ban thêm lời hứa
cho Giê-rê-mi "Ta sẽ ở với ngươi đặng giải cứu ngươi" (Gie 1:8).
Đức Chúa Trời lặp lại lời hứa đó vào cuối lời kêu gọi của Ngài "họ sẽ đánh
nhau với ngươi, nhưng không thắng ngươi vì Ta ở cùng
ngươi đặng giải cứu ngươi" (c.19)
Lưu ý đến điều kiện kèm
theo của lời hứa này, đó là: Giê-rê-mi phải đi đến những nơi mà Chúa sai ông đi
và nói những điều mà Ngài muốn ông nói. Giê-rê-mi cũng phải tin vào lời hứa
Chúa dành cho ông qua sự bày tỏ thái độ không sợ hãi những người xung quanh.
Chúng ta gọi Giê-rê-mi là "vị tiên tri than khóc cho dân sự" và quả
thật ông là một người như thế. Tuy vậy, ông cũng là một người rất can đảm khi
đối diện với nguy hiểm, thử thách và vẫn một lòng trung tín với Chúa. Ông biết
rằng Đức Chúa Trời vẫn luôn bên cạnh ông, cũng giống như việc chúng ta nhận
biết Chúa hiện diện bên cạnh chúng ta vậy. "Vì chính Đức Chúa Trời có phán
rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu. [10] Như
vậy, chúng ta hãy lấy lòng tin chắc mà nói rằng: Chúa giúp đỡ tôi, tôi không sợ
chi hết. Người đời làm chi tôi được?"
(He 13:5-6).
Được Đức Chúa Trời ban
cho lời nói linh hiệu (c.9-10):Khi than trên bàn thờ của Đức Chúa Trời
được đặt trên miệng của tiên tri Ê-sai, ngay tức khắc, ông được thanh tẩy (Es 6:5-7). Khi
Đức Chúa Trời đặt tay Ngài trên môi miệng của tiên tri Giê-rê-mi, ông liền nhận
được năng quyền. Và những lời Ngài đặt để trong môi miệng ông trở nên linh
nghiệm để thực hiện ý muốn của Chúa. Đức Chúa Trời không những ban cho tiên tri
Giê-rê-mi lời của Ngài mà Chúa còn hứa rằng sẽ "tỉnh thức, giữ " Lời
Ngài cho đến khi những lời đó được thực hiện (Gie
1:12).
Lời của Đức Chúa Trời “tạo dựng” nên vũ trụ: "Các từng trời được làm nên
bởi lời Đức Giê-hô-va, cả cơ binh trời bởi hơi thở của miệng Ngài mà có…… Vì
Ngài phán, thì việc liền có, Ngài biểu thì vật bèn đứng dậy" (Thi 33:6,9). Cả vũ trụ đều “được nâng đỡ” bởi lời của Chúa:
"Và (Đấng Christ) lấy lời có quyền phép Ngài nâng đỡ muôn vật" (He 1:3). Đức Chúa Trời cũng đã thực hiện mục đích
của mình trên đất qua lời Ngài: "Vả, như mưa và tuyết xuống từ trên trời…
nó" (Es 55:10-11).
Ngày nay, tại nhiều Hội Thánh, giờ
thờ phượng chỉ như là một hình thức giải trí và việc giảng dạy lời Chúa chỉ là
việc đưa ra những lời khuyên. Chúng ta cần phải lắng nghe và vâng theo lời sứ
đồ Phao-lô khiển trách Ti-mô-thê "hãy giảng đạo" (IITi 4:2). Đức Thánh linh là Thần lẽ thật (Gi 16:13) và sẽ làm việc qua Lời của lẽ thật (Thi 119:43 IITi 2:15).
Tiên tri Giê-ê-mi không thực hiện ý muốn của Chúa trên đất bằng những lời diễn
thuyết trau chuốt, chính sách ngoại giao khôn ngoan hay bằng nghệ thuật khéo
léo đánh vào tâm lý người ta. Trái lại, ông đã nghe lời Chúa, giữ lấy trong
lòng và dạn dĩ bày tỏ những lời đó trước mặt dân sư. Và ông để cho Chúa hoàn
tất những việc còn lại.
Chức vụ của tiên tri Giê-rê-mi đầy
những khó khăn. Ông phải phá bỏ trước khi dựng nên, và diệt trước khi trồng.
Trong nhiều công việc, có những "cơ cấu "tổ chức không cần thiết nên
cần bỏ đi vì chúng gây cản trở đến sự phát triển chung. Một vài "cây"
đang lớn nhưng không kết quả cũng cần phải được bỏ đi. Đức Chúa Giê-xu phán
rằng: "Cây nào mà Cha Ta trên trời không trồng thì phải nhổ đi" (Mat 15:13).
Bất cứ người nào nếu nhận thấy mình
quá yếu đuối không đủ sức để hầu việc Chúa thì người đó cần phải cân nhắc lại
ba điều sau đây: Trước hết, Chúa có kêu gọi bạn không? Nếu có, Ngài sẽ ban thêm
năng lực cho bạn. Kế đến, bạn có cậy đức tin để vâng theo mạng lệnh của Chúa
không? Nếu có, Ngài sẽ luôn hiện diện để bảo vệ bạn. Cuối cùng, bạn có rao
giảng Lời Chúa không? Nếu có, Ngài sẽ làm trọn mục đích của Ngài trên đất này
dù thái độ đáp ứng của mọi người có ra sao chăng nữa. Tên gọi Giê-rê-mi có
nghĩa là "Đức Chúa Trời nâng đỡ" và Ngài thật đã nâng đỡ, chăm sóc
cho tôi tớ Ngài cùng chức vụ của người đến cùng. "Chúa
là thành tín, sẽ làm cho anh em bền vững và giữ cho anh em khỏi ác giả." (IITe 3:3)
4. Thông điệp nguy hiểm
(Gie 1:11-19)
Khi nghiên cứu về các
tiên tri thời Cựu Ước, bạn sẽ nhận thấy ba điểm luôn tồn tại trong thông điệp
của họ. Đó là:
(1) Tội lỗi của quá khứ: cả đất nước bất tuân theo luật pháp của Đức Chúa Trời;
(2) Trách nhiệm hiện tại: mọi người phải ăn năn hoặc sẽ bị Đức Chúa Trời
đoán phạt
(3) Hi vọng cho tương lai: Chúa sẽ đến một ngày nào đó và lập nên nước Ngài.
Chúa không ban cho
Giê-rê-mi một sứ điệp vui mừng mà là sứ điệp về sự đoán phạt để ông rao báo cho
mọi người. Sứ điệp này thật nguy hiểm đến nỗi bất cứ ai nghe đến cũng đều gọi
Giê-rê-mi là kẻ phản bội. Ông bị hiểu lầm, bị hành hạ, bị bắt và không ít lần mạng
sống ông bị đe doạ. Mặc dù cả dân tộc đều không muốn nghe sự thật nhưng
Giê-rê-mi vẫn bày tỏ thật rõ ràng rằng họ đã khinh thường Chúa, bất tuân Luật
pháp và chắc chắn họ sẽ phải chuốc lấy sự đoán phạt cho mình.
Đức Chúa Trời ban cho
tiên tri Giê-rê-mi ba lời hứa khi ông chuẩn bị bước vào chức vụ đầy nguy hiểm.
Hai trong ba lời hứa đó được bày tỏ qua các khải tượng sau đây của Ngài :
Cây hạnh: Lời của Đức
Chúa Trời sẽ được làm trọn (c.11-12): Trong khu
Thánh địa, cây hạnh thường ra hoa vào tháng giêng, báo hiệu mùa xuân đang đến.
Tiếng Hê-bơ-rơ gọi “cây hạnh", là “cây thức” tương đương với từ là saqed còn từ "tỉnh thức" là soqed. Chúa
đã sử dụng lối chơi chữ như vậy nhằm đoan chắc với Giê-rê-mi rằng Ngài luôn
tỉnh thức để giữ và làm trọn Lời Ngài.
Chẳng khác nào một người chồng hoặc
vợ phá vỡ lời giao ước hôn nhân, cả dân tộc phạm tội đã quay lưng lại với giao
ước họ đã lập với Chúa, bởi giờ đây, họ đã dành tron tình yêu và lòng trung
thành cho những hình tượng ngoại đạo. Nhưng giao
ước đó vẫn còn mãi bởi Chúa không hề quên. Ngài đã hứa chúc phước
cho họ nếu họ vâng lời và sửa phạt họ nếu họ bất tuân theo lời giao ước. Ngài
cũng "tỉnh thức, giữ lời phán ( Ngài) đặng làm trọn" (Gie 1:12). Chúa đã cho dân sự biết điều này qua
các tiên tri trước đó nhưng cả những người cai trị và dân sự đều không lắng
nghe.(IIVua 17:13-15)
Nồi nước sôi: cơn giận
của Đức Chúa Trời sẽ đến (c.13-16): Các nước ở khu vực phía Đông luôn có
xung đột với nhau nhằm tranh giành quyền cai trị. Đầu tiên, những nhà cầm quyền
Do Thái chạy đến Ai Cập và sau đó là A-si-ri để cầu xin sự giúp đỡ. Trong suốt
thời gian ấy, họ đã không đặt lòng tin cậy nơi Chúa và tìm kiếm sự giúp đỡ của
Ngài. Tuy nhiên, khải tượng này cho chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời có quyền
cai trị trên mọi dân tộc trên thế giới và Ngài vẫn có thể sử dụng các nước này
để thực hiện kế hoạch của Ngài. Đức Chúa Trời thậm chí đã chuẩn bị nước
Ba-by-lôn ở phương Bắc [11] làm công cụ để sửa phạt dân Ngài. Việc Giu-đa
chạy sang Ê-díp-tô xin sự giúp đỡ cũng trở nên vô ích vì nước này đã rơi vào
tay vua Nê-bu-cát-nết-sa. (Gie
46:1-28)
Khi tiên tri Giê-rê-mi khởi sự chức
vụ của mình, thì đất nước A-si-ri chớ không phải Ba-by-lôn là một đế quốc hùng
mạnh ở khu vực Trung Đông. Vì vậy, chắc chắn là các nhà chính trị đã nghĩ rằng
Giê-rê-mi thật ngu ngốc khi lo lắng về nạn xâm lược của đế quốc Ba-by-lôn ở
phương Bắc.
Thế nhưng dân chúng ở Giu-đa đã được
chứng kiến cảnh đế quốc A-si-ri bị đánh bại thế nào, Ê-díp -tô trở nên yếu ớt
ra sao khi Ba-by-lôn trổi dậy giành lấy quyền cai trị và lời báo trước của tiên
tri Giê-rê-mi được ứng nghiệm. Thật vậy, ngôi của những người cai trị Ba-by-lôn
đã được đặt nơi cửa thành Giê-ru-sa-lem (Gie 39:1-3)
và thành thánh này cuối cùng đã bị phá huỷ.
Đức Chúa Trời chỉ ra cho dân sự thấy
rằng họ đã phạm tội thờ hình tượng (1:16),
họ thờ những thần tượng do tay mình làm ra và quay lưng lại với Đức Chúa Trời
chân thật. Với thái độ đạo đức giả, dân Giu-đa vẫn duy trì việc thờ phượng Chúa
ở đền thờ nhưng thật tâm họ chỉ xem Ngài như là một trong những vị thần đòi hỏi
sự tận hiến mà thôi. Thậm chí một vài thần tượng ngoại bang cũng được họ đem
vào đền thờ! (Exe 8:1-9:11). Các tiên tri
giả xuất hiện khắp nơi với những sứ điệpbịa đặt, hời hợt và phổ biến vì họ hứa
sẽ có sự bình an mà không bao giờ đề cập đến sự ăn năn (Gie 5:12-13 8:11-12 14:13-22)
Khi cả dân tộc xây khỏi sự thờ
phượng một Đức Chúa Trời chân thật thì dân sự, dân sự bắt đầu bóc lột lẫn nhau
và điều này đã xảy ra tại Giu-đa. Kẻ giàu hà hiếp người nghèo và các quan chức
không còn bảo vệ quyền lợi của người bị hiếp đáp nữa (2:34-35
5:26-31 7:1-11).
Tuy nhiên, những người cai trị độc ác này vẫn vờ trung tín đi đến đền thờ và tỏ
vẻ ta đây sùng kính Đức Giê-hô-va! Tất cả những điều họ làm đã khiến cho đền
thờ trở thành "hang trộm cướp" (7:11). Đây chính là tội
mà Đức Chúa Trời sắp sửa đoán phạt dân sự.
Thành quách, cây cột
và bức tường: Đức Chúa Trời sẽ gìn giữ tôi tớ của Ngài (1:17-19) Vào thời đó, người đàn ông phải thắt lưng
để có thể chạy hay làm việc được dễ dàng (IVua
18:46 IIVua 4:29). Vì vậy, "hãy
thắt lưng" (Gie 1:17) có nghĩa là
"hãy sẵn sàng hành động!" hoặc chúng ta cũng có thể hiểu là "hãy
thắt lưng lại! Xắn tay áo lên!". Tương tự, "hãy bền chí như thể thắt
lưng" có nghĩa là "hãy chuẩn bị hành động và có một thái độ đúng đắn
khi Chúa trở lại".
Đức Chúa Trời lặp lại lời khuyến cáo
của Ngài rằng Giê-rê-mi không được sợ hãi những người sẽ chống lại ông vì Chúa
luôn che chở ông (Gie 1:8). Bị những kẻ thù
vây quanh, nhà tiên tri phải trở nên một thành bền vững đến nỗi những kẻ thù
nghịch ông không tài nào tấn công vào được. Khi bị cả
vua, hoàng tử , các thầy tế lễ và dân chúng chống lại, ông phải trở nên vững
vàng như một tường thành bằng đồng. Lời Chúa hứa: "Ta ở cùng ngươi đặng
giải cứu ngươi" là một lời hứa đáng tin cậy và trong cuộc chiến đấu tranh cho
lẽ thật, những ai được Chúa ở cùng sẽ luôn luôn mạnh sức, vững vàng.
Mặc cho những đòi hỏi
của chức vụ cũng như khó khăn của thời cuộc, Giê-rê-mi vẫn đáp lại lời kêu gọi
của Chúa. Dù nhận biết rõ những khả năng giới hạn của bản thân, ông cũng nhận
thức được rằng Đức Chúa Trời thật rất vĩ đại và Ngài có thể giúp ông làm tròn
sứ mạng của mình. Sứ điệp Đức Chúa Trời ban cho ông là sứ điệp vô cùng nguy
hiểm cho ông nhưng Ngài sẽ luôn tỉnh thức để làm tròn lời Ngài và bảo vệ cho
tôi tớ trung thành của Ngài.
Giê-rê-mi đã có một
quyết định đúng cho mình mặc dù kết quả ông chỉ trở thành một trong những tiên
tri ít được biết đến nhất trong lịch sử Do Thái.Theo chuẩn mực của con người,
chức vụ của Giê-rê-mi là một sự thất bại nhưng với cái nhìn của Chúa, đó lại là
một thành công lớn. Thật không dễ dàng chút nào khi phải đứng một mình, chống
lại đám đông và đi ngược với những triết lý và giá trị của thời đại. Thế nhưng
tiên tri Giê-rê-mi đã sống một cuộc đời như thế trong suốt hơn 40 năm.
Trong chương cuối cùng
của tác phẩm "Walden", nhà văn Henry David Thoreau đã nói: "Nếu
một người đi sai nhịp với những người bạn đồng hành của mình, có lẽ là do anh
ta đã nghe một tiếng trống khác. Vậy, hãy cứ để cho anh ta bước đi theo tiếng
nhạc đó dù nhịp của nó có ra sao hoặc anh ta bước dạt ra xa tới đâu chăng
nữa." [12]
Chúa Giê-xu từng phán
rằng: "Nếu ai muốn theo Ta thì phải liều mình, vác thập tự gía mình mà
theo Ta… Người nào được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình thì có ích gì ?" (Mat 16:24,26).
Với một câu hỏi quan
trọng như thế, bạn sẽ có quyết định như thế nào? Bạn sẽ theo đám đông hay sẵn
sàng vác thập tự giá?
2. NHÀ TIÊN TRI GIẢNG
DẠY (Gie 2:1-6:37)
"Mọi
dân tộc, cũng trên thế gian này"như mỗi cá nhân đều phải chịu sự đoán phạt”. Abraham
Lincoln [13]
Tôi vẫn còn giữ trong
thư viện của mình những bản thảo dàn ý của những bài giảng khi tôi mới bắt đầu
chức vụ vào năm 1950. Mỗi khi đọc lại những bản thảo đó, tôi tự thấy thật hổ
thẹn, ăn năn và ngạc nhiên tự hỏi vì sao mọi người lại có thể nghe những bài
giảng như thế hay thậm chí còn trở lại để nghe thêm nữa. Có một vị mục sư từng
trải nọ từng nói rằng: "Khi mới bước vào chức vụ, bạn sẽ không hiểu vì sao
không có nhiều người hơn đến nghe bạn. Nhưng khi đã trưởng thành hơn, bạn sẽ
ngạc nhiên tự hỏi vì sao lại có người lại có thể chịu nghe bạn như thế."
Tôi hoàn toàn tán thưởng ý kiến này.
Tuy nhiên, chàng trai
trẻ Giê-rê-mi lại bắt đầu chức vụ của mình với những sứ điệp chứa đầy sự thương
xót, nhưng rất quyết liệt, chắc chắn [14]. Giê-rê-mi đã dám đương đầu với tội lỗi của dân
sự và kêu gọi họ ăn năn, quay trở lại với Đức Chúa Trời. Trong những sứ điệp
này luôn bao gồm 4 ý chính: sự phản nghịch, sự ăn năn, sự công bình và sự đoán
phạt.
1. Sự phản nghịch : Đức
Chúa Trời nhìn thấy tội lỗi của dân Ngài (Gie 2:1-37)
Tiên tri Giê-rê-mi có ân
tứ bày tỏ lẽ thật thần học bằng ngôn ngữ tượng hình. Thật ra, phần lớn những
bài giảng của ông có thể được đọc như thơ ca vậy [15]. Trong chương này, tiên tri Giê-rê-mi đã vẽ ra
10 hình ảnh sau đây phô bày tội lỗi của dân sự.
Hình ảnh người vợ phản
bội chồng (c.1-8):Khi
Chúa lập giao ước với dân Ngài tại núi Si-nai (Xu
19:1-20:26), Chúa đã bước vào một mối quan hệ yêu thương mà Ngài ví như
quan hệ vợ chồng với dân sự Ngài. "Chúng nó đã phá giao ước Ta, dầu rằng
Ta làm chồng chúng nó" (Gie 31:32 3:14). Trong thời Cựu Ước, việc thờ hình tượng của
dân Y-sơ-ra-ên bị xem như tội ngoại tình, tội tà dâm (Es
54:5 Os 2:16). Ban đầu khi mới lập giao ước, dân Do Thái rất trung thành. [16] và kính mến
Chúa. Thế nhưng khi đã vào vùng đất hứa, họ lại quay sang tương thông với những
hình tượng của các nước lân cận và sa vào việc thờ hình tượng (Cac 1:1-3:31). Mặc dù, Đức Chúa Trời đã gìn giữ,
đưa dẫn họ vượt qua đồng vắng an toàn và ban cho họ sản nghiệp tuyệt vời trong vùng đất Ca-na-an, nhưng rồi họ đã từ bỏ Ngài để chạy
theo thờ lạy những hình tượng do con người tạo nên. Vậy, tình yêu chung thuỷ là
tình yêu như thế nào?
Những hồ nứt (c.9-13): Nhà tiên tri nói rằng "Hãy đi từ
tây sang đông, ngươi sẽ chẳng thấy một dân tộc nào thay đổi thần của
mình". Tuy nhiên, dân Y-sơ-ra-ên đã từ bỏ Chúa thật để thờ lạy những thần
giả dối. Điều này tương tự như việc từ bỏ một nguồn suối nước tinh khiết tươi
mát không hề cạn để tìm đến một hồ nước dơ bẩn bị nứt nẻ không chứa nước được.
Trong khu vực Thánh địa, nước rất quý và không ai làm một điều dại dột như thế.
Do vậy, không có gì là ngạc nhiên khi Chúa phán rằng "Hỡi các từng
trời………rất tiêu điều" (Gie 2:12). Vế thứ nhì của câu Kinh Thánh này vốn
có nghĩa đen là "hãy ghê tởm!"
Kẻ đầy tớ bị cướp bóc (c.14-19): Đức Chúa Trời đã giải cứu dân Do
Thái thoát khỏi Ai Cập và ban cho họ sự tự do trong vùng đất Ca-na-an nhưng giờ
đây, dân tộc họ lại bị rơi vào cảnh mất tự do vì tội thờ lạy hình tượng. Do chỉ
lo liên minh với các nước ngoại bang lân cận là Ai Cập và A-si-ri thay vì đặt
để lòng tin nơi Chúa, Giu-đa đã trở thành một nước chư hầu và bị cướp bóc, dân
chúng bị bắt làm nô lệ. Thay vì uống nước từ nguồn sông thánh khiết tươi mát mà
Chúa đã ban cho họ, giờ đây, dân Giu-đa đã phải uống nước dơ bẩn ở sông Nile và
sông Euphrates. Memphis và Tahpanhes là hai thành phố ở Ai Cập, còn Shihor là
một nhánh của sông Nile.[17]
Câu 19 đã nêu lên một
nguyên tắc thật cơ bản: Đức Chúa Trời đoán phạt chúng ta bằng cách cho phép tội
lỗi của chính chúng ta đem lại những đau đớn và sự
trừng phạt cho đời sống của chính mình. "đó là những sự mà đường lối và
việc làm của ngươi đã chuốc lấy cho ngươi, đó là sự gian ác ngươi! Thật, ấy là
cay đắng!" (4:18). "Sự gian ác các
ngươi đã làm cho những sự ấy xa các ngươi; tội lỗi các ngươi ngăn trở các ngươi
được phước" (5:25). Hình phạt lớn nhất
mà Chúa dùng để đoán phạt những người bất tuân chính là để mặc họ đi trong con đường mình và tự gặt lấy những hậu quả đau
buồn của chính tội lỗi mình.
Từ "sa ngã" có
nghĩa đen là "quay lưng lại" và dùng để miêu tả sự bội đạo nhiều lần
của dân sự [18]. Sách Các Quan xét tường thuật lại ít nhất 7
lần dân Y-sơ-ra-ên quay lưng lại với Chúa và bị Ngài đoán phạt. Ngoài ra, còn
có vô số những lần khác trong thời kỳ chế độ quân chủ của dân Y-sơ-ra-ên khi họ
cố ý quay lưng lại với Chúa. Từ "sa ngã" không được dùng trong Tân Ước nhưng được miêu tả bằng những
hình ảnh tương tự: "mất ân điển" (Ga 5:4),
"bỏ lòng kính mến ban đầu" (Kh 2:4),
"yêu thế gian" (IGi 2:15-17 IITi 4:10) và "đi trong sự tối tăm" (IGi 1:5-10).
Con vật bướng bỉnh (c.20): Tiên tri Giê-rê-mi thường hay sử dụng những hình ảnh của
các con vật để miêu tả hành động của con người. Ở đây, Giê-rê-mi đã so sánh dân
Do Thái với hình ảnh một con vật ương bướng không mang ách [19]. Một trong những cụm từ hay được lặp lại là "sự cứng cỏi của
lòng ác mình" (Gie
3:17 7:24 9:14
11:8 13:10
16:12 18:12
23:17) [20] Con người
vốn được tạo dựng nên theo hình ảnh của Đức Chúa Trời nhưng khi họ từ chối vâng
lời Ngài, thì họ sẽ trở nên giống như con thú vậy. (Thi 32:9 Ch 7:21-23
Os 4:16)
Cây nho xấu (c.21) Dân Y-sơ-ra-ên được ví như
một cây nho là một hình ảnh quen thuộc trong Cựu Ước (Es
5:1-7 Thi 80:8-16 Exe 17:1-10 Os 10:1-2).
Đức Chúa Trời đã trồng dân Ngài trong vùng đất tươi tốt mà Ngài ban cho họ
nhưng họ đã không ra trái công bình như ý Ngài muốn. "Người mong rằng sẽ
sanh trái nho nhưng nó lại sanh trái nho hoang" (Es
5:2). Do thờ lạy những hình tượng giả dối, họ đã trở nên giống như dân
tộc hư mất lân cận. Những thần tượng chết thì làm sao có thể sinh ra trái sống
cho dân tộc họ được?
Một thân thể ô uế (c.22):Không một việc làm tốt lành hay nghi
thức tôn giáo nào có thể tẩy sạch tội lỗi của dân sự được vì nan đề của dân sự
chính là tấm lòng của họ. Dân sự phạm tội vì họ có tấm lòng cứng cỏi, không
chịu lắng nghe lời của tôi tớ Đức Chúa Trời và không làm theo lời Ngài. Cuộc
cải cách đất nước dưới thời Vua Giô-si-a chỉ là sự thay đổi về hình thức bên
ngoài của vương quốc Giu-đa chớ không hề chạm đến tấm lòng của dân sự để họ có
thể ăn năn và xin Chúa tha thứ .
Giê-rê-mi là nhà tiên tri của tấm lòng
vì ông dùng từ ngữ này hơn 60 lần "Hỡi…được cứu" (Gie 4:14). "Lòng người ta…được?" (17:9). Đất nước Giu-đa cần phải quay trở về với
Chúa bằng tất cả tấm lòng mình; chỉ có như vậy Chúa mới có thể ban phước
cho họ.
Thú vật nơi sa mạc (c.22-25): Mặc dù dân sự phủ nhận việc họ bị ô
uế, nhưng chính những hành động của họ đã chứng minh điều ngược lại vì dường
như họ sống nếp sống rất giống những thú vật :như lạc đà bị lạc đươờng đang tìm
nguồn nước, như lừa cái chạy khắp nơi tìm bạn tình. Khi dân Do Thái chạy theo
nghững thần tượng của các dân tộc ngoại đạo, giày của họ bị rách nát và cổ họ
bị cháy khô vì khát. Mọi việc đã tốt đẹp hơn biết bao nếu họ chịu uống nước
thánh sạch tươi mát trong dòng sông của Đức Chúa Trời !
Nhưng họ đã phó mình cho
tội lỗi nhiều đến nỗi họ không còn hy vọng được cứu nữa. "Ay là vô ích!" (2:25) chính
là cớ của họ. "Thật vô vọng!" Họ nói như những kẻ nghiện rượu hoặc mê
cờ bạc quá nặng không thể thay đổi thói quen được nữa; hoặc như kẻ bại ở ao
Bê-tết-đa, bị bệnh quá lâu đến nỗi từ bỏ hi vọng được lành bệnh (Gi 5:9). Tuy nhiên, Chúa
Giê-xu lại luôn lưu tâm đến những trường hợp vô vọng "Ngài phá vỡ quyền
lực của tội lỗi, Ngài khiến kẻ tội nhân được giải thoát".[21]
Tên trộm tự làm nhục
mình (c.26-28): Một tên trộm khi bị bắt quả tang vẫn
có thể còn biện hộ rằng mình vô tội nhưng những chứng cớ vẫn còn đó cho mọi
người có thể nhìn thấy. Bất cứ vị khách nào đến viếng thăm Giu-đa cũng có thể
thấy điều Đức Chúa Trời đã thấy: dân sự ngoảnh mặt khỏi Chúa để trò chuyện với
những thần tượng chết; nhưng khi gặp hoạn nạn, họ lại tuyệt vọng chạy đến cầu
xin Chúa giúp đỡ. Dân sự thật đã bị bắt quả tang!
Những con cái bất trị (c.29-35):Đức Chúa Trời đã nhiều lần đoán phạt
dân sự vì tội lỗi của họ nhưng dân sự đã không chịu thay đổi con đường mình. Họ
thậm chí còn oán trách cả Chúa! Ngài lên án họ nhưng thay vì xưng tội và ăn
năn, dân sự lại phàn nàn và quay lại buộc tội Chúa! Dường như không một hình
thức đoán phạt nào của Chúa đem lại kết quả
như mong muốn tốt đẹp cả. "Ngài đánh chúng nó…khứng trở lại" (Gie 5:3 7:28 17:23 32:33 35:13).
Đức Chúa Trời nhắc dân sự nhớ về ơn
phước dư dật Ngài đã ban cho họ. Tuy nhiên, họ vẫn chống nghịch lại Chúa (2:29), quên Chúa (c.32) và dối Ngài (c.33-35) để
nói rằng mình vô tội. Một trong những chủ đề chính của sách Phục Truyền Luật Lệ
Ký là nhắc dân sự nhớ đến Chúa và những ơn phước Ngài ban cho họ. Thế nhưng,
dân sự lại coi thường những phước lành đó và quay sang với những thần tượng câm
lặng. Họ trở nên quá thành thạo với việc hành dâm, thờ lạy thần tượng giả dối đến
nỗi ngay cả phường đĩ điếm cũng học được nhiều điều mới từ bản thân họ! Họ hà
hiếp và làm đổ vấy máu kẻ nghèo khó, ấy vậy họ vẫn cho mình là vô tội (Am 2:6-8 5:10-12)
Do đất nước lúc bấy giờ đang vui
hưởng mọi sự hưng thịnh về kinh tế lẫn chính trị nên
dân sự cho rằng những ơn phước này của Chúa là bằng chứng cho sự vô tội
của họ. Họ đã nhận thức được rằng Chúa vẫn có thể chúc phước cho kẻ gian ác (Thi 37:1-40 73:1-28
Mat 5:45) và những sự tốt lành đó hầu khiến
họ ăn năn (Ro 2:4-5 Lu
15:17-18)
Tù nhân chiến tranh (c36-37): Trong nỗ lực cố giữ hoà bình với các
nước lân cận, Giu-đa đã chạy đến cầu cạnh, nhờ vả hết Ai Cập đến A-si-ri (Gie 2:14-19) nhưng
cả hai nước này về sau đều khiến Giu-đa thất vọng. Đây là hình ảnh miêu tả
trong câu 37: dân sự trong vị trí tù binh
chiến tranh đã bị trói tay đưa cao trên đầu và bị dẫn đi. Bất cứ điều gì chúng
ta quyết định trái với ý muốn Chúa đều khiến chúng ta rơi vào cảnh mất tự do
bởi chỉ có duy nhất lẽ thật mới giải thoát đuợc chúng ta mà thôi (Gi 8:32). Lực lượng quân đội của Ba-by-lôn cuối
cùng đã chiếm được xứ, phá huỷ thành Giê-ru-sa-lem và dân sự bị bắt dẫn đi.
Liệu Giu-đa có cách nào
thoát khỏi cơn thịnh nộ đang đến không? Vâng, có và đó cũng chính là nội dung
chủ yếu trong thông điệp tiếp theo của tiên tri Giê-rê-mi.
2. Sự ăn năn : Đức Chúa
Trời van nài dân sự quay trở lại cùng Ngài (Gie 2:1-37) (Gie 3:1-4:31)
Hai từ then chốt trong
phần này là "trở lại" (3:1,7,12,22 4:1) và "bội
nghịch" (3:6,8,11,12,14,22). Trong tiếng Hê-bơ-rơ, từ "bội
nghịch" (" bất trung") thật ra cũng mang cùng một ý nghĩa với từ
“thói xấu cũ”.
Các hình ảnh (3:1-10 3:21-4:4). Nhà tiên tri lại tiếp tục dùng 4 hình ảnh sống động dưới đây
để miêu tả tình trạng thuộc linh đáng buồn của vương quốc Giu-đa.
Hình ảnh người vợ phản
bội chồng (3:1-10).Tiên tri Giê-rê-mi một lần nữa lại
sử dụng hình ảnh so sánh ẩn dụ về hôn nhân mà ông đã dùng ở 2:1-2,20 nhưng lần này ông đề cập đến việc ly dị. Theo
Luật Môi-se, một người có thể ly dị vợ nhưng không được phép lấy người đó làm
vợ lại lần nữa (Phu 24:1-4). Đức Chúa Trời
có quyền từ bỏ dân Ngài, không phải vì họ đã
từ bỏ Ngài để tương thông với người “chồng” khác mà là vì họ đã hành dâm với nhiều
người tình. Dân sự đã lên những đồi cao và xây những miếu cho những thần
tượng ngoại bang. Hành động của họ còn tệ hơn cả phường đĩ điếm, là những người
vốn chờ đợi khách làng chơi đến với mình. Nhưng Giu-đa lại còn tệ hơn, họ chạy theo những thần tượng giả dối và luôn tái phạm tội ngoại tình thuộc linh với những thần này. [22]
Tuy nhiên, thay vì từ bỏ
dân Ngài, Đức Chúa Trời vẫn kiên nhẫn kêu gọi họ trở lại làm vợ Ngài. Thật
phước hạnh dường bao! Chúa thậm chí đã khiến
xảy đến một cơn hạn hán trong vùng và dân sự đã phải chạy đến kêu cầu Ngài giúp
đỡ (Gie 3:4-5); thế nhưng họ vẫn không thật
lòng ăn năn về tội lỗi mình. Do mối quan hệ lập trên giao ước với Đức Chúa Trời
mà dân Giu-đa gọi Ngài là “Chúa” và là “Đấng Dẫn Dắt” là những danh xưng mà
những người phụ nữ Do Thái vẫn thường hay gọi chồng mình. Nhưng làm thế nào để
Đức Chúa Trời có thể ban phước cho dân sự theo như giao ước một khi họ không
còn vâng giữ những luật lệ trong giao ước ấy nữa?
Khi đế quốc A-si-ri xâm chiếm vương
quốc phía Bắc của Y-sơ-ra-ên vào năm 722 S. C , vương quốc Giu-đa ở phía Nam đã
được chứng kiến sự đoán phạt của Chúa. Tuy nhiên, dân
Giu-đa vẫn không chịu nhìn nhận bài học từ sự phá hủy Y-sơ-ra-ên và phủ nhận
tội lỗi của mình (c. 6-11). Đức Chúa Trời đã "ly dị” Y-sơ-ra-ên và bỏ sang
một bên. Y-sơ-ra-ên trở thành một phần của đế quốc A-si-ri và vương quốc phía
Bắc này đã không bao giờ được phục hồi trở lại. Nhìn thấy sự đoán phạt này,
nhưng Giu-đa vẫn đi trong con đường tội lỗi của mình như thể điều đó sẽ chẳng
bao giờ xảy đến với họ. Do Thái cao ngạo này mà Giu-đa đã phạm tội thậm chí còn
nặng hơn cả Y-sơ-ra-ên. Giu-đa đáng lẽ đã bị "bỏ sang một bên" nhưng
Đức Chúa Trời vẫn khoan dung mời gọi người vợ ngoại tình này quay về với Ngài.
Do vâng phục nhà vua,
dân sự đã hợp tác với vua Giô-sia và tiến hành dẹp bỏ hình tượng nhưng tất cả
những gì họ làm chỉ là "giả dối"
mà thôi (c.10). Đối với Đức Chúa Trời thì "miệng họ ở gần Ngài song lòng
họ cách xa Ngài" (12:2 Exe 33:31). Thậm chí ngày nay, khi các nhà lãnh
đạo chính trị khoe rằng họ đã được tái sinh đời sống, sẵn lòng thúc đẩy các
hoạt động truyền giảng Phúc Âm thì việc đi nhà thờ và đọc Kinh Thánh của họ chỉ là những việc làm "vì để…“ mà thôi. Vậy, bạn sẽ căn
cứ vào cái gì để nhận biết những người này thật sự chân thật đến mức nào? Đức
tin Cơ Đốc thật sẽ không bao giờ phổ biến và con đường dẫn đến sự sống
vẫn là một con đường hẹp, ít người đi (Mat 7:13-23)
Một bệnh nhân không
khoẻ mạnh (Gie 3:21-25).Trong Kinh
Thánh, bệnh tật là một trong nhiều hình ảnh ẩn dụ chỉ tội lỗi (Gie 8:22 30:12 Es 1:5-6 Mac 2:17
Thi 41:4). Như một căn bệnh lây lan khi
nhiễm vào mạch máu, tội lỗi cũng âm thầm lặng lẽ thấm vào "con người bên
trong" bắt đầu làm coh cơ thể suy yếu và bị huỷ hoại dần. Nó dần dần tác động lên toàn bộ các hệ thống của cả thể xác
lẫn tinh thần con người chúng ta, gây ra trạng thái chán chường cũng như không
còn đói khát về mặt thuộc linh. Và nếu không được quan tâm đến, "căn bệnh
tội lỗi" có thể dẫn đến những hậu quả thật khủng khiếp, đáng sợ. Khi chúng
ta nghe nói đến những tín hữu "đột nhiên" rơi vào tội lỗi, trong đa
số các trường hợp là người ấy đã bị trượt dốc dần dấn trước đó.
Đức Chúa Trời sẵn sàng
chữa lành không chỉ các triệu chứng của sự bội nghịch của dân sự mà còn chính
thái độ bội nghịch nữa. Những tiên tri giả chỉ giải quyết các triệu chứng và tuyên bố về sự bình an giả dối vốn chỉ đem
lại cho con người một lòng tin tưởng giả tạo (Gie
6:14 7:8 8:11).
Nhưng một bác sĩ chữa trị các căn bệnh của tâm hồn thật sự sẽ bày tỏ lẽ thật
cũng như tìm các hướng tội nhân đến sự chữa lành
thuộc linh thực sự vốn chỉ đến từ việc xưng tội và ăn năn thật.
Điều này nhắc tôi nhớ
đến một cân chuyện tôi vẫn thường hay kể trong các bài giảng. Một tín đồ tại
một Hội Thánh nọ thường có thói quen kết thúc lời cầu nguyện trước hội chúng
với câu "lạy Chúa, xin cất lấy những mạng nhện trong lòng chúng
con!". Một tín hữu khác thật sự lo lắng với lời cầu nguyện này, vì vậy một
buổi tối nọ, sau khi nghe xong lời này, ông bèn đứng lên và cầu nguyện thêm
rằng "và lạy Chúa, khi Ngài đang ở trong mạng nhện đó, xin cũng hãy giết
luôn con nhện". Tiên tri Giê-rê-mi đang cố gắng "giết con nhện"
và chữa trị cho bệnh nhân.
Dân Do Thái cho rằng sự
giải cứu cho họ phải đến từ các thần tượng họ thờ lạy trên các nơi cao - các
miếu trên cao. Thế nhưng, hi vọng duy nhất cho họ chính là thái độ ăn năn và
tin cậy Chúa [23] vì những thần tượng này không thể giải cứu họ. Thật sự,
những thần tượng này chẳng đem lại cho họ điều gì cả ngoài sự xấu hổ. Vậy mà,
dân Do Thái lại đem những sản vật mà Đức Chúa Trời ban cho họ dâng lên cho các
thần tượng đáng xấu hổ này!
Cánh đồng chưa được
cày xới (4:1-3): Nan đề của dân sự chính là thái độ không trung thực của
họ. Họ có thể nói những lời lẽ hoàn toàn đúng nhưng họ không nói những điều đó
xuất phát từ tấm lòng mình. Họ có thể cầu nguyện với Đức Chúa Trời chân thật
nhưng vẫn không từ bỏ các thần tượng. Họ dễ dàng thốt lên rằng "thật như
Đức Chúa Trời Hằng sống" nhưng lại không nói rằng "trong lẽ thật và
sự Công bình". Tấm lòng họ chai cứng và đầy những gai góc như một mảnh
ruộng bỏ hoang, không được cày xới. Tiên tri Ô-sê đã sử dụng hình ảnh
này để ví sách với dân sự và Chúa Giê-xu cũng đã đề cập đến trong ví dụ người
gieo giống (Mat13:1-9,18-23)
Một tấm lòng chưa được
tẩy sạch- chưa được cắt bì (Gie 4:4): Những bé trai
Do Thái thường được cắt bì khi dược 8 ngày tuổi, được đặt tên và trở nên con
cái của sự giao ước (Sa 17:9-14 Le 12:3 Lu 1:59).
Mặc dù không có một phẫu thuật nào trên thân thể có thể thay đổi được tấm lòng
nhưng dân Do Thái vẫn luôn cho rằng nghi thức này là một hình thức bảo đảm cho
sự cứu rỗi của họ (Mat 3:7-9 Cong 15:1-5). Tuy nhiên, Đức Chúa Trời muốn tấm lòng của dân sự cũng Được "giải phẫu
"và họ cần phải quăng đi những sự cứng cỏi, không vâng lời của họ.
"Vậy hãy trừ sự ô uế của lòng mình đi, chớ cứng cổ nữa" (Phu 10:16 30:6 Ro 2:28-29 Co 2:11).
Tai họ cũng cần được cắt bì để có thể nghe được Lời Chúa.
Ngày nay, nhiều người
dựa vào lễ báp-tem, Tiệc Thánh, lễ xác nhận hoặc những hình thức tôn giáo khác
để bảo đảm cho sự cứu rỗi của mình trong khi Đức Chúa Trời lại muốn chúng ta có
một đức tin chân thành xuất phát từ tấm lòng ăn năn thật sự. Sự cứu rỗi là sự
ban cho mà chúng ta được nhận lãnh bởi đức tin chớ không phải là một phần
thưởng Do Thái độ sùng đạo của chúng ta.
- Những lời hứa
(Gie 3:11-13) Chúa thậm
chí đã kêu gọi dân Y-sơ-ra-ên đang bị tan lạc rải rác khắp nơi hãy quay trở về
với Chúa. Lời mời gọi này nhắc chúng ta nhớ đến lời hứa của Đức Chúa Trời trong
Le 26:40-45 Phu
30:1-20 IIVua 8:46-53 vốn đảm bảo với
dân sự rằng Đức Chúa Trời sẽ tha thứ cho họ nếu họ ăn năn. Trong Gie 3:14-19. [24] tiên tri
Giê-rê-mi dường như nhìn xa hơn đến thời kỳ mà cả vương quốc Giu-đa lẫn Y-sơ-ra-ên
sẽ được sát nhập lại. Đất nước lúc đó sẽ được thanh tẩy, trở nên hưng thịnh và
Đức Chúa Trời cũng sẽ ban cho dân sự những người lãnh đạo tôn giáo để chăm sóc
họ.Trong những ngày đen tối nhất của lịch sử dân tộc, dân Y-sơ-ra-ên luôn nghe
các tiên tri nói đến vương quốc sắp đến của đấng Mê-si và lời hứa đó đã đem lại
hy vọng cho họ.
Dân sự chắc hẳn đã rất
sửng sốt khi nghe tiên tri Giê-rê-mi nói rằng ngày đó sẽ đến khi hòm giao ước
không còn được tưởng đến hay nhớ đến nữa (c.16). Dân sự vốn ưa tin cậy vào hòm
giao ước, đền thờ, các nghi thức tôn giáo, giao ước. Nhưng những điều này chỉ
là những dấu hiệu tạm thời để chỉ đến một điều khác có ý nghĩa thuộc linh và
giá trị đời đời.
Ngày đó sẽ đến khi dân
Do Thái đã cắt bì được đối xử như những dân
ngoại chưa cắt bì (9:25-26), khi đền thờ
không còn cần dùng nữa (7:1-15 Gi 4:20-24) và khi có một giao ước mới sẽ có thể
khiến nhiều tấm lòng thay đổi (Gie 11:1-5 31:31-40). Giống như Chúa Giê-xu, Giê-rê-mi cũng
nhìn xa hơn những hình thức tôn giáo bên ngoài và dạy bảo dân sự rằng Đức Chúa
Trời luôn mong tìm kiếm sự dâng hiến của từng tấm lòng. Vì thế, chẳng có gì
đáng ngạc nhiên khi cả hai đều bị kết tội phản bội và bị bắt bớ chống đối lại
"tôn giáo thật" mà Chúa đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên.
- Sự đoán phạt (4:5-18). Tiên tri Giê-rê-mi nói đến việc đất nước
sẽ bị đế quốc Ba-by-lôn ở phương Bắc xâm chiếm (1:14)
như một con sư tử hung dữ (4:7)và như một
trận gió lốc sa mạc huỷ diệt mọi thứ (4:11-13).
Sự đoán phạt đáng sợ sẽ giáng xuống trên Giu-đa. Thế
nhưng dân sự vẫn chưa được chuẩn bị vì mọi người vẫn tin vào sứ điệp về sự bình
an do các tiên tri giả rao báo (c.10 ) [25] "Điều đó không thể xảy ra tại đây" chính là khẩu
hiệu của họ vì "xét cho cùng, chúng ta có đến thờ và có hòm giao ước"
Chúa ra lệnh cho những
người canh giữ thổi kèn và lên tiếng cảnh báo cho dân sự chạy đến các tường
thành để ẩn nấp. Điều đó sẽ cho họ thời gian để có thể quấn vải bố và ăn năn
cũng như tẩy rửa lòng mình bằng cách xưng ra những tội lỗi của họ (c.14). Tuy nhiên, quân lính của đế quốc Ba-by-lôn sẽ đến
nhanh chóng và hoàn tất công việc của mình (Exe
38:16) "đó là những sự ……lòng ngươi" (Gie
4:18).
- Nỗi đau đớn (4:19-31). Được biết đến như là "nhà tiên tri
than khóc", Giê-rê-mi đã bày tỏ sự giận dữ mình khi nhìn thấy thảm kịch
của dân tộc có thể được thay đổi (4:19-21).
Không một tiên tri nào trong thời Cựu Ước lại bày tỏ nỗi lòng đau thương như
tiên tri Giê-rê-mi cả (6:24 9:10 10:19-20).
Khi rao giảng trước dân sự, tiên tri Giê-rê-mi rất thẳng thắn. Còn trong chốn
riêng tư, ông lại bày tỏ tấm lòng tan vỡ với Chúa.
Đức Chúa Trời đã giải thích với tôi
tớ Ngài vì sao lại có sự đoán phạt xảy đến. Dân sự thật ngu muội, họ không biết
đến Đức Chúa Trời; họ thật khờ khạo và thiếu sự khôn ngoan (4:22). Nếu trong đời sống thánh khiết, họ cũng
thông thạo như khi phạm tội, thì Đức Chúa Trời chắc đã ban phước thay vì đoán
phạt họ.
Với khải tượng tiên tri,
Giê-rê-mi nhìn thấy những điều đế quốc Ba-by-lôn sẽ gây ra trong lãnh thổ của
dân sự Chúa (c.23-29 ), khiến mọi vật trở nên hỗn độn như được miêu tả trong Sa 1:2 [26] Bất cứ nơi nào tiên tri Giê-rê-mi nhìn đến, ông cũng đều
thấy sự đổ nát. Ngay cả núi non cũng bị rúng động! Chính nhờ vào lòng thương
xót của Đức Chúa Trời mà mọi vật ở đất nước Giu-đa không hoàn toàn bị tàn
phá (Gie 4:27 5:10,18 30:11 46:28).
Nhưng thảm hoạ lớn nhất chính là
thái độ bất trung của dân sự, họ đã không ăn năn và
từ chối kêu cầu sự giúp đỡ của Chúa (4:30-31).
Giê-rê-mi miêu tả họ như phường đĩ điếm ra sức liên minh với những dân tộc khác
để giúp đỡ họ ngăn chặn đế quốc Ba-by-lôn, nhưng những "người tình"
của họ đã không đáp lời kêu cầu của họ. Giu-đa đã tin cậy các nước liên minh
hơn là Đức Chúa Trời. Kết cuộc, phường đĩ điếm này sẽ trở nên giống như những
người đàn bà đang sanh đẻ- vốn là một hình ảnh của sự đoán phạt đau thương hay
được dùng trong sách tiên tri Giê-rê-mi (6:24
13:21 22:23
30:6 48:41
49:22,24 50:43).
[27]
Gie 3:1-25; xem giải nghĩa Gie 2:1-37
Gie 4:1-31; xem giải nghĩa Gie 2:1-37
3. Sự công bình: Đức
Chúa Trời tìm kiếm những kẻ yêu mến Ngài (Gie 5:1-31)
Do dân sự không chịu
lắng nghe lời Chúa, nên Ngài đã phán bảo với tiên tri Giê-rê-mi phải "diễn
tả" sứ điệp của ông. Đây là hành động đầu tiên trong số ít nhất 10
"bài giảng qua hành động" được tìm thấy trong sách tiên tri Giê-rê-mi
[28]. Bên cạnh đó, nội dung của chương này liên quan đến 4 tội lỗi của
dân thành Giê-ru-sa-lem.
a. Một cuộc tìm kiếm: họ là những người không
yêu mến Chúa (5:1-6): Đức Chúa Trời truyền cho Giê-rê-mi tiến hành một cuộc tìm
kiếm trong khắp các thành của Giê-ru-sa-lem. Nếu tìm thấy một người công bình,
Chúa sẽ tha thứ cho dân thành độc ác này và trì hoãn sự đoán phạt. Nền tảng cho
“bài giảng hành động” này chính là việc Đức Chúa Trời đồng ý với Ap-ra-ham
rằng Ngài sẽ không huỷ diệt thành Sô-đôm nếu tìm được 10 người công bình trong
thành (Sa 18:22-33). Cuộc trắc nghiệm trong
thành Giê-ru-sa-lem chính là liệu dân thành có sống trong lẽ thật và sự công
bình không ?
Tiên tri Giê-rê-mi không tìm được
người nào trong số những người nghèo khổ sống như vậy, nhưng ông tự cho rằng
việc thiếu hiểu biết về tôn giáo chính là lý do của họ. Giê-rê-mi tiếp tục tìm
kiếm trong số những người giàu có và những nhà lãnh đạo dân tộc vốn là những
người ông biết rằng họ rất hiểu biết về các điều răn của Đức Chúa Trời. Thế
nhưng những người này lại cởi bỏ ách và quay lưng lại với Luật pháp (Gie 5:5 2:20 Thi 2:1-3). Cuối cùng, Giê-rê-mi chẳng tìm một
người nào được kể là công bình và trung tín cả.
Còn lại một điều mà Đức
Chúa Trời có thể làm, đó là Ngài cho phép đạo quân xâm lược
như những thú dữ chiếm lấy lãnh thổ, cướp bóc và tiêu diệt dân sự (Gie 2:15 4:7).
Hễ con vật nào tự bẻ ách và trốn khỏi chủ mình ắt sẽ chỉ gặp phải sư tử, sói,
và báo mà thôi! Đó phải chăng là sự tự do hay sao?
b. Sự kết tội: họ là những kẻ vô ơn (5:7-9): Đức Chúa Trời
đặt ra hai câu hỏi: "Ta tha thứ các ngươi sao được ?" (c.7) và
"Ta sẽ chẳng thăm phạt về những sự đó hay sao?" (c.9) Đức Chúa Trời
"đã khiến họ ăn no " (c.7) "chu cấp cho họ mọi thứ cần
dùng" nhưng dân sự lại sử dụng những tặng vật Chúa ban cho để phạm tội và
phục vụ cho những thần tượng của mình. Đáng lẽ những ơn phước tốt lành của Chúa
đã khiến họ phải ăn năn (Ro 2:4) nhưng họ
lại bày tỏ thái độ vô ơn đối với những ơn phước ấy của Ngài (Os 2:4-13). Thay vì hành động như những người nam,
người nữ được tạo dựng theo hình ảnh của Chúa, họ lại trở nên giống như những
thú vật trong sa mạc ("chúng nó cũng như con ngựa mập", "chạy
lung", Gie 5:8 2:24).
Các dân tộc thờ hình tượng trong khu
vực Ca-na-an tiến hành những buổi thờ phượng vô đạo đức không thể tin được.
Trong suy nghĩ của mình, dân sự cho rằng việc kết giao với các thần tượng khác
có thể bảo đảm cho vụ mùa của họ được kết quả. Theo họ, Ba-anh là thần mưa, đem
lại mưa cho đất. Vì vậy, khi Đức Chúa Trời ngăn mưa
lại để cảnh cáo dân sự Ngài, họ lại quay sang các thần tượng ngoại bang để cầu
xin sự giúp đỡ.Vua Giô-si-a đã tiến hành dẹp bỏ các đền thờ các thần ngoại
bang, thế nhưng dân sự vẫn tìm mọi cách khác để tiếp tục và làm thoả mãn những
tham muốn xấu xa mà họ đã nhen nhúm lên trong dân Giu-đa. Cũng giống như xã hội
ngày nay, mọi người đều tôn thờ tình dục và không nhận thấy điều sai trái trong
những điều họ làm.
c. Sự phá hủy: họ là những kẻ bất trung (5:10-19): Đây
chính là trọng tâm của vấn đề: do dân sự không tin vào Lời Chúa, nên họ
đã quay lưng lại với Ngài và đi theo ý riêng của mình. "Chúng nó đã chối
bỏ …….đói kém" (Gie 5:12). Họ chống lại
Lời Chúa phán qua các tiên tri và gọi những lời đó là "gió". Hậu quả
là Đức Chúa Trời phải dùng tới một sự đoán phạt đến trên vườn nho của Ngài (5:10-11 2:21).
Tuy nhiên, Đức Chúa Trời phán rằng
Lời Ngài là ngọn lửa thiêu đốt dân sự như củi vậy (5:14
23:29). Chú ý từ "ăn" trong 5:17, đó chính là lời cảnh báo rằng đạo quân
Ba-by-lôn sẽ xâm chiếm lãnh thổ. Sự xâm chiếm này sẽ làm thành lời cảnh cáo
trong Phu 28:49-52, là lời cảnh báo mà tất cả
dân sự đều biết. Dân Do Thái đã từ bỏ Đức Chúa Trời để thờ phượng các thần
ngoại bang ngay trong đất nước mình. Bây giờ, họ sẽ tạm thời bị Chúa quên đi và
bị đạo quân xâm lược Ba-by-lôn dẫn đi thờ phượng các
thần tượng chết nơi đất khách.
Thế nhưng, mở đầu và kết thúc của
lời cảnh báo này làm một lời hứa Đức Chúa Trời sẽ không hủy diệt dân tộc hoàn
toàn (Gie 5:10,18 4:27 30:11 46:28) [29]. Ngay cả trong cơn giận dữ, Ngài vẫn có sự thương xót
(Ha 3:2). Các tiên tri rao truyền về sự đoán
phạt nhưng họ cũng nói rằng "số còn sót lại" sẽ không bị đoán phạt.
Tiên tri Ê-sai đã nhiều lần lặp lại lời hứa này (Es
1:19 10:20-22 11:11,16
14:22 46:3),
thậm chí còn nêu tên một trong những con trai của mình là " người sót lại
được trở về" (Sê-a-gia-súp Es 7:3).
Tiên tri Mi-chê cũng lặp lại lời hứa này (Mi 2:12
4:7 5:3,7-8 7:18).
Số người cón sót lại sẽ từ Ba-by-lôn
trở về vùng đất Giu-đa sau thời gian bị bắt để lập lại đất nước, xây dựng lại
đến thờ, duy trì lời chứng và sửa soạn đón tiếp đấng Mê-si sắp đến. Đức Chúa
Trời đã lập giao ước với Áp-ra-ham rằng hậu tự của ông trên khắp đất sẽ được
chúc phước (Sa 12:1-3) và Ngài đã giữ trọn
lời hứa mình.
d. Sự tuyên cáo: họ là những người không quan
tâm (Gie 5:20-31): Tiên tri Giê-rê-mi vốn dĩ là một người nhút nhát. Tuy
nhiên, Chúa lại bảo ông phải tuyên cáo thẳng thắn với nhà Gia-cốp họ là người
như thế nào. Những hình ảnh miêu tả của nhà tiên tri đã khiến họ nổi giận và
không khiến họ hết tự mãn. Tiên tri Giê-rê-mi miêu tả họ là nhữnng người ngu
dốt, mù loà, không nghe và không biết kính sợ Chúa. Họ là những kẻ cứng lòng và
nổi loạn, không còn chịu hầu việc Đức Chúa Trời nữa. Chúa ban mưa và mùa màng
cho dân Ngài, nhưng họ lại không biết cảm tạ Chúa.
Thay vì nhắc nhở nhau
kính sợ Chúa, họ lại bóc lột nhau như thợ săn săn tìm chim chóc vậy. Do vậy, kẻ
giàu ngày càng giàu thêm và người nghèo ngày càng nghèo xác nghèo xơ. Các quan
toà cũng trở nên sa đọa. Tiên tri thì chỉ đầy dẫy những kẻ giả dối, thầy tế lễ
cũng đồng một lòng với dân sự: và mọi người tán thưởng những điều đã làm và lấy làm vui
thỏa! "Dân ta đều lấy làm ưa
thích" (Gie 5:31). Khi một dân
tộc đã trở nên sa đoạ thì chẳng còn hi vọng gì cả cho quốc gia đó cả.
Tội nhân thường nghĩ rằng họ sẽ bị
phạt nhẹ với tội của mình nhưng Chúa hỏi họ rằng "khi đến cuối cùng, các
ngươi sẽ làm thế nào?" (5:31). “Có một
con đường coi dường chánh đáng cho loài người nhưng đến cuối cùng nó thành ra
nẻo của sự chết "(Ch 14:12)
4. Sự báo thù: Chúa sẽ
giáng sự đoán phạt (Gie
6:1-30)
Kết thúc bài giảng, tiên
tri Giê-rê-mi nhấn mạnh đến việc xâm chiếm của đế quốc Ba- by-lôn và sự tàn phá
mà họ sẽ gây ra cho vương quốc Giu-đa. Trong giây phút quyết định đó, nhà tiên
tri nói trước cho dân sự biết những điều Chúa sẽ làm.
a. Chúa tuyên chiến (c.1-5): Đầu tiên, Đức Chúa Trời nói chuyẹn với dân Ngài và cảnh
cáo họ về sự đoán phạt sắp đến (c.1-3). Dân Do Thái có ba cách để tiếp nhận tin
tức chiến trận: từ những người canh gác trên tường thành (c.17), từ tiếng kèn hiệu (c.1 Dan 10:1-10) và
từ ánh lửa hiệu đốt lên trên các nơi cao (Gie 6:1).
Do quê nhà của tiên tri Giê-rê-mi ở A-na-tốt tại Bên-gia-min nên ông bắt đầu
cảnh báo cho những người lân cận chạy ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem. Thành
Giê-ru-sa-lem được ví sánh như một "cô gái đẹp đẽ yểu điệu", nhưng nó
sẽ có kết cuộc như một "người đàn bà goá" (Ca
1:1) với sắc đẹp đã tàn phai (c.6) "những kẻ chăn " ngoại bang
(quân lính) sẽ xâm chiếm những đồng cỏ xanh tươi và dựng lều của họ chỉ để giết
chóc đàn gia súc.
Kế đến, Chúa phán với quân đội
Ba-by-lôn qua những điều Ngài ra lệnh (Gie 6:4-5)
và cùng chỉ dẫn chiến lược cho họ: đó là tấn công bất ngờ vào buổi trưa, là
thời điểm nóng nhất trong ngày nên không ai có thể liệu trước được. Ngài cũng
vạch kế hoạch tiếp tục tấn công vào ban đêm khi các chiến binh đang nghỉ ngơi.
Từ ngữ "sửa soạn" có nghĩa là "nên thánh hoặc hiến dâng";
các chiến binh Ba-by-lôn xem trận chiến này như một cuộc thập tự quân cho các
thần của họ (Gio 3 :9 Mi 3:5).
b. Chúa chỉ dẫn cuộc tấn công (c.6-15): Đức Chúa Trời phán cho quân đội Ba-by-lôn biết những
điều họ phải làm: đốn cây và đắp lũy quanh tường thành. Sau đó, Ngài cho họ
biết vì sao phải làm như vậy. Giê-ru-sa-lem giống như một giếng nước chảy ra
toàn nước dơ bẩn nên cả thành phải bị đoán phạt. Nó cũng
giống như một người đang hấp hối với một vết thương không thể chữa lành; vì vậy
những điều này phải được tẩy sạch. Cuối cùng Chúa chỉ cho họ biết cách thức
phải làm thế nào: bằng cái nhìn bao quát và chính xác, người hái nho đi vào
vườn nho và không để sót một trái nào (Gie 6:5,9).
Nhà tiên tri than khóc vì ngay chính
trong giờ phút quyết định đó, vẫn không ai chịu lắng nghe! (c.10). Không những
tấm lòng họ chưa được cắt bì (4:4) mà tai họ
cũng vậy (Cong 7:51) nên họ không chịu nghe
Lời Chúa. Đầy tức giận, Giê-rê-mi nói cho dân sự biết cơn giận của Chúa sẽ
giáng xuống tất cả mọi người: già, trẻ; đàn ông, đàn bà và ngay cả trẻ con.
Những người cai trị và những thấy tế lễ cũng sẽ không thoát được; thật ra, họ
chính là những người có tội nặng nhất vì đã tạo cho dân sự một sự an lòng giả
tạo khiến dân sự đã không chịu ăn năn về tội lỗi mình (Gie
6:13-15 7:8 8:11)
"ấy là vì cớ…thầy tế lễ nó " (Ca 4:13). Chúa chắc chắn sẽ giáng sự đoán phạt này.
c. Chúa tuyên án (c.16-23): Dân này có tội không? Có! Họ đáng bị đoán phạt không?
Có! Thật ra, Chúa kêu gọi mọi dân ngoại
và cả trái đất hãy chứng kiến mọi điều Ngài đã làm cho dân Ngài để tránh sự
đoán phạt như vậy (Gie 6:18-19). Dân sự đã không đi trong đường lối Ngài [30] Họ cũng
không chịu lắng nghe các tiên tri Ngài. Tuy nhiên, họ vẫn tiếp tục thờ lạy Chúa
một cách giả dối! (Es 1:11-14 Am 5:21 Mi 6:6-8).
Chúa đã chỉ cho họ con đường đúng để đi nhưng họ đã từ chối nên chẳng còn lối
thoát nào cho họ cả. Quân đội Ba-by-lôn là một cản trở đáng sợ cho bất cứ ai
tìm cách trốn thoát cơn giận của Chúa. Và dĩ nhiên con gái Si-ôn cũng không thể
nào trốn thoát được .
d. Chúa miêu tả những hậu quả (c.24-30): Nhà tiên tri miêu tả phản ứng của dân
sự khi nghe tin tức; họ không bày tỏ một điều gì khác ngoài thái độ tức giận,
sợ hãi và yếu đuối như một người đàn bà đang đẻ con (Gie 6:24-26). Cụm từ
"Khắp nơi đều có sự kinh hãi" (c.25) được lặp lại nhiều lần trong các
câu 20:10 46:5
49:29. Đây cũng chính là tên gọi mà tiên tri
Giê-rê-mi đặt cho Pha-su-rơ, là quản đốc trong đền thờ.
Thỉnh thoảng, những sự thử thách đem
lại điều tốt cho dân sự nhưng điều này đã không xảy ra trong thành
Giê-ru-sa-lem. Khi Chúa thổi lửa lò nung, điều đó bày tỏ rằng dân sự như bạc bị
ném ra không làm chi được nữa. Không phải Ngài đang thanh tẩy dân sự mà đang
đoán phạt họ. Họ không được tinh chế nữa mà bị bỏ ra ngoài. Họ không đáng giá
gì để dược giữ lại nữa.
"Tôi thật sự run sợ
cho đất nước mình khi suy nghĩ rằng Chúa là công bình và sự công bình Ngài
không thể yên lặng mãi được".
Thomas Jefferson đã viết
những lời này trong cuốn sách Notes
on the State of Virginia (Nhật ký của bang
Virginia) của mình cách nay hơn hai thế kỷ và đây vẫn là một điều quan trọng cho chúng ta suy nghĩ ngày hôm nay.
3. TIẾNG NÓI TRONG ĐỀN
THỜ (Gie 7:1-10:25)
"Càng
hiểu rõ về tổ tiên, chúng ta càng thấy họ giống những người đương đại" Henry David
Thoreau [31]
Giả sử vào thời của tiên
tri Giê-rê-mi sống, có một tờ báo trong thành Giê-ru-sa-lem thì ắt rằng những
dòng đầu của những số báo liên tiếp nhau sẽ có nội dung như sau:
- Vua Giô-sia bị thương
nơi chiến trường!
Vị vua dũng cảm được đưa
về thành Giê-ru-sa-lem để chăm sóc.
- Nhà vua băng hà!
Giô-a-cha lên ngôi kế vị
cha.
- Ai Cập truất ngôi của
Giô-a-cha
Nhà vua trị vì chỉ được
ba tháng.
- E-li-a-kim là quan
nhiếp chính mới
Được Pha-ra-ôn đổi tên
là "Giê-hô-gia-kim "
Đằng sau những tiêu đề
hư cấu này là những biến cố đau thương dẫn đến sự sụp đổ của vương quốc Giu-đa.
Là người có lòng sốt sắng với công việc của Đức Chúa Trời, vua Giô-sia đã thực
hiện một cuộc cải cách trong cả nước qua việc sửa sang lại đền thờ và dẹp bỏ
mọi hình tượng ra khỏi lãnh thổ. Nhưng vào năm 609 TC, nhà vua đã không chú ý
đến lời cảnh cáo của Chúa và thiếu khôn ngoan khi bước vào một cuộc chiến với
Ai Cập, A-si-ri và Ba-by-lôn. Nhà vua bị thương
nơi chiến trận gần trũng Mê-ghi-đô và được đem về Giê-ru-sa-lem và người qua
đời tại đây (IISu 35:20-27). Dù bàng hoàng
trước cái chết của vua, nhưng vương quốc Giu-đa vẫn không nhận biết việc mất
vua mình là lời kêu gọi của Chúa: cả dân tộc hãy ăn
năn và thú nhận tội lỗi mình.
Giô-a-cha, con trai của
vua Giô-sia, lên ngôi được ba tháng thì bị vua Ai Cập truất ngôi và đưa em trai
người, Ê-li-a-kim lên thay thế. E-li-a-kim được vua Ai Cập đặt tên là
"Giê-hô-gia-kin" (Do vua Giô-si-a bị bại trận nên Giu-đa trở thành
nước chư hần của Ai Cập). Trong suốt 11 năm trị vì, Giê-hô-gia-kim lại dẫn dắt
dất nước quay trở về với việc thờ hình tượng. Mặc dù vua Giô-sia đã dẹp bỏ hình
tượng ra khỏi lãnh thổ nhưng nhà vua đã không thể cất việc thờ hình tượng ra
khỏi lòng của dân sự.
Dân Do Thái không hoàn
toàn bỏ công việc đền thờ; nhưng họ đã đem việc thờ các thần tượng vào đền thờ
và chỉ xem Đức Giê-hô-va như là một trong các thần họ thờ phượng mà thôi. Nếu
nhìn thấy một buổi thờ phượng của họ, bạn sẽ nghĩ rằng những người này thật
lòng tôn thờ Đức Chúa Trời; thế nhưng, tấm lòng họ lại thuộc về thần Ba-anh,
Át-tạt-tê, Kê-mốt và các thần của các nước ngoại bang chung quanh. Giu-đa thờ
Đức Giê-hô-va chỉ ở môi miệng còn tấm lòng mình thì lại đem dâng cho các thần
tượng .
Dân Do Thái biết việc thờ hình tượng là sai nhưng lại tự tin rằng
họ không có việc gì phải sợ. Dẫu sao thì Chúa sẽ không
bao giờ cho phép việc kinh khủng nào có
thể xảy ra với thành có đền thánh của Ngài! Chẳng phải dân Giu-đa đã được nhận
lãnh Luật pháp Môi-se và chính họ là con cái của Áp-ra-ham, con cái của sự giao
ước đó sao? Họ chính là tuyển dân của Chúa! Với một di sản tôn giáo như thế, họ
tin chắc sẽ không có sự đoán phạt nào có thể giáng xuống vương quốc họ được.
Tuy nhiên, Chúa lại có một cái nhìn
khác hẳn về vấn đề này. Ngài sai tiên tri Giê-rê-mi lên đền thờ và rao giảng
thông điệp của Ngài cho những kẻ giả hình tụ tập ở đó. Trong bài giảng ấy, nhà
tiên tri đã can đảm chỉ ra sự thờ phượng giả dối của dân sự (Gie 7:1-8:3), những tiên tri giả của họ (8:4-22), sự tin tưởng sai lệch của dân sự vào giao
ước mà họ đang bất tuân theo (9:1-26) và
những thần tượng giả dối họ đang thờ phượng (10:1-25).
Nói một cách khác, tiên tri Giê-rê-mi đã dạn dĩ đề cập đến thái độ tội lỗi của
dân sự đối với đền thờ, Luật pháp, giao ước và đối với chính Đức Chúa Trời. Đây
không phải là một bài giảng thông thường. Trái lại, có thể phải trả giá bằng
chính mạng sống của nhà tiên tri.
1. Sự thờ phượng giả
dối: đền thờ (Gie 7:1-8:3)
Ba lần trong một năm, những người đàn ông Do Thái đều phải lên đền
thờ tại Giê-ru-sa-lem để dự các kỳ lễ (Phu 16:16)
và có lẽ đây là một trong những dịp đó. Có lẽ đền thờ đã chật cứng người nhưng
không mấy ai trong số đó là những người thật lòng thờ phượng Chúa. Nhà tiên tri
đứng tại một cửa trong đền thờ và rao giảng cho mọi
người khi họ đi vào. Ông đưa ra 4 bảng cáo trạng của Đức Chúa Trời chống lại
dân Giu-đa.
a. "Việc thờ phượng của họ chẳng có ích gì" (c.1-15):
Do tin vào những lời dối trá của các tiêntri giả, dân
sự vẫn nghĩ rằng họ vẫn có thể sống trong tội lỗi và đi đến đền thờ để thờ
phượng Chúa thánh khiết. Theo Gie 7:6,9, họ đã phạm ít
nhất 5 trong số 10 điều răn nhưng các tiên tri giả trong thành Giê-ru-sa-lem
lại bảo đảm về những ơn phước và sự bảo vệ của Chúa
giúp họ thoát khỏi sự tấn công của kẻ thù. Chắc chắn đây không phải là đức tin
mà chỉ là sự mê tín mù quáng [32] nên tiên tri Giê-rê-mi đã nhanh chóng xé toang ảo tưởng
của dân sự.
Chúa Giê-xu đã từng đề
cập đến câu 11 sau khi Ngài dọn dẹp đền thờ (Mat 21:13) "ổ trộm cướp" là nơi mà các
tên trộm ẩn nấp sau khi phạm tội. Vì vậy, tiên tri Giê-rê-mi đã tuyên bố rằng
dân Do Thái đang sử dụng những nghi lễ trong đền thờ để che đậy tội lỗi kín dấu
của họ. Thay vì khiến đền thờ nên thánh, dân sự lại biến đền thờ trở nên bất
khiết ! Một thế kỷ trước đó, tiên tri Ê-sai cũng đã rao giảng một thông điệp
giống như vậy (Es 1:1-31) và khá lâu sau đó,
sứ đồ Phao-lô cũng đã viết lời cảnh cáo tương tự cho các tín hữu trong thời của
ông (Eph 5:1-7 Phi
3:17-21). Thật vậy, Bất cứ một thuyết thần học nào làm giảm nhẹ sự thánh
khiết của Chúa và dung dưỡng cho tội lỗi đều là sai lệch.
Dân sự cần ăn năn không
chỉ để tránh hậu quả khủng khiếp của tội
lỗi mình trong cách sống và trong sự thờ phượng mà còn để tránh sự đoán phạt
chắc chắn sẽ đến (Gie 7:12-15). Giao ước của
Chúa với dân Do Thái bao gồm cả phước lành lẫn sự đoán phạt. Họ sẽ nhận được
phước lành khi vâng lời và sẽ nhận lấy sự đoán phạt khi chống nghịch (Phu 11:26-30 27:1-26
Gios 8:30-35). Mặc dù biết rõ điều này, dân
Do Thái vẫn tiếp tục tội lỗi của mình và bỏ qua lời cảnh cáo của Chúa .
Dân sự cũng không còn nhớ đến sự
đoán phạt của Chúa trong quá khứ, gồm cả sự đoán phạt của Ngài trong lều tạm
khi còn ở tại Si-lô. Những con trai độc ác của Hê-li cho rằng nếu đem hòm giao
ước đến chiến trường thì dân sự sẽ chiến thắng dân Phi-li-tin, nhưng rồi họ đều
bị bắt và đã để cho quân địch chiếm lấy hòm giao ước. Sau đó, Chúa đã viết dòng
chữ "Y-ca-bốt" ,tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là "sự vinh hiển đã lìa
khỏi" lên đền tạm (ISa 4-6 4:21-22). Thật vậy, Chúa có thể gìn giữ đền thờ thánh của Ngài nếu
Ngài muốn nhưng đền thờ của Ngài ở
Giê-ru-sa-lem không còn thánh khiết nữa. Nơi đó đã thành hang trộm
cướp ! Thà không có đền thánh còn hơn là có nhưng lại
để những kẻ giả hình coi thường nhà Chúa .
b. "Lời cầu thay của ngươi cho dân này cũng chẳng
ích gì " (c.16-20): Có
ít nhất 3 lần Chúa không cho tiên tri Giê-rê-mi cầu thay cho dân sự (Gie 7:16 11:4 14:11). Đây thật là một cáo trạng chống lại dân
sự. Chúa đã cho phép Áp-ra-ham cầu thay cho đám dân độc ác tại thành Sô-đôm (Sa 18:23-33) và Ngài cũng lắng nghe khi Môi-se van
nài xin tha cho dân Y-sơ-ra-ên phạm tội (Xu 32:1-33:23
Dan 14:1-45). Thế nhưng Chúa lại không cho
phép Giê-rê-mi khẩn xin cho vương quốc Giu-đa. Dân sự đã đi quá xa trong tội
lỗi mình và tất cả những gì còn lại cho họ chỉ là sự đoán phạt (IGi 5:16 ICo 11:30).
Khi một dân tộc suy tàn, nó thường
bắt đầu từ gia đình và Chúa nhìn thấy mọi gia đình tại thành Giê-ru-sa-lem đều
cùng nhau thờ lạy các thần tượng (Gie 7:17-19).
Giá như mọi cha mẹ đều dạy dỗ con cái mình học theo Đức Chúa Trời và thờ phượng
Ngài! Tuy nhiên, dân Do Thái lại thờ lạy "nữ vương trên trời", vốn là
tên gọi của thần Ishtar- nữ thần tình yêu và sinh sản của dân Ba-by-lôn với
những hình thức khiêu dâm tồi tệ (44:17-19,25). Chính việc thờ lạy tội lỗi này đã làm buồn lòng Chúa, nhưng thực
sự dân sự đã xúc phạm chính mình hơn là làm đau lòng Đức Chúa Trời. Sự vô đạo
đức của dân ngoại bang Ba-by-lôn đã có một ảnh hưởng xấu lên các con trẻ của
dân Y-sơ-ra-ên và Chúa sẽ giáng sự đoán phạt lên cả đất, thành phố, đền thờ và
cả con người của toàn dân sự. Giu-đa đã đổi lấy những gì thuộc về vĩnh cữu để
lấy những cái tạm thời và đó là một cuộc trao đổi thiếu khôn ngoan.
c. "Những của lễ của họ cũng chẵng giúp ích gì " (c.21-26): Thoáng đọc đoạn sách này, độc giả có lẽ sẽ nghĩ rằng
Chúa lên tiếng chỉ trích hệ thống thờ phựơng mà Chúa đã ban cho dân sự mình
trong Xuất Ê-díp-tô-ký và Lê-vi-ký nhưng thật ra không phải vậy. Với vẻ châm biếm, Giê-rê-mi đã nhắc dân sự nhớ
rằng vô số của lễ họ đã dâng cho Chúa sẽ chẳng có ý nghĩa gì vì lòng họ bất tín
với Chúa. Chúa muốn sự vâng lời chớ không phải của lễ (ISa
15:22), Ngài muốn sự thương xót chớ không phải là những nghi lễ tôn giáo
(Os 6:6). Tiên tri Mi-chê đã hỏi rằng:
"Đức Giê-hô-va có thích ……dầu sao?" (Mi
6:7). Sau đó, ông cũng đã tìm được câu hỏi cho chính mình "Hỡi
người….Đức Chúa Trời ngươi sao?" (c.8, xem Mat
22:34-40).
Giao ước của Chúa đối với dân
Y-sơ-ra-ên tại núi Si-nai khẳng định sự bày tỏ ân diển của Ngài dành cho dân sự
và sự vâng phục của họ đối với Chúa (Xu 19:1-8).
Đức Giê-hô-va đã cưới một người vợ chớ không phải mua một người nô lệ. Khi
Môi-se trong Phục Truyền Luật Lệ ký ban Luật pháp cho một thế hệ mới, ông nhấn
mạnh đến tình yêu của Đức Chúa Trời và việc dân sự phải vâng phục Ngài từ tấm
lòng mình (Phu 6:1-15 10:12-22 11:1 13:22). Nếu thay thế tấm lòng bên trong bằng nghi
lễ bên ngoài sẽ khiến cho những của lễ trở nên vô nghĩa và làm mất đi những ơn
phước của Chúa. Qui luật này vẫn còn đúng cho các tín hữu ngày hôm nay. Chúng
ta thật dễ dàng bận rộn cho công việc của Đức Chúa Trời mà từ bỏ tình yêu ban
đầu dành cho Ngài! (Kh 2:4)
d. "Kỷ luật và sự dạy dỗ của ta cũng chẳng đem lại
ích gì" (Gie 7:27-8:3): "Nầy
là dân ….sự dạy dỗ "(Gie 7:28).
Hễ Đức Chúa Trời yêu ai thì Ngài sửa phạt người đó (Ch
3:11-12 He 12:5-13). Nếu chúng ta
nhận biết Chúa và thật sự yêu Ngài thì sự sửa phạt của Chúa sẽ đem chúng ta trở
lại với Chúa trong sự ăn năn,vâng lời. Nhưng Chúa lại phán bảo tiên tri
Giê-rê-mi hãy than khóc cho dân tộc hư mất này vì họ không chịu ăn năn.
"Tô-phết", tiếng A-ram có nghĩa là "lò sưởi". Từ này đọc
giống như từ có nghĩa là "điều đáng hổ thẹn" trong tiếng Hê-bơ-rơ.
Tô-phết là một địa điểm trong Trũng Các Con Trai Của Hi-nôm, là nơi mọi người
dâng con cái mình cho các thần tượng bằng cách ném chúng vào lửa (Es 30:33). Vua Giô-sia đã biến nơi này thành một
nơi rác rến (IIVua 23:10). Thế nhưng sau khi
vua băng hà, nghi lễ ngoại bang kinh khủng này lại được tái lập. Từ ngữ
“gehenna” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "địa ngục" xuất phát từ từ
ngữ “ge'hinnim” trong tiếng Hê-bơ-rơ, có nghĩa là "trũng Hi-nôm" địa
ngục là nơi rác rến, nơi các tội nhân chống lại Chúa phải chịu đựng của ma quỷ
và quỷ sứ của nó đời đời (Mat 25:41).
Tiên tri Giê-rê-mi rao báo rằng sẽ
có một ngày, trũng Hi-nôm sẽ là một nghĩa địa quá
chật hẹp cho tất cả mọi người chết sau cuộc tấn công của đế quốc Ba-by-lôn. Các
binh lính sẽ cướp lấy các mộ phần và xương cốt của những người đứng đầu dân sự,
các vua chúa sẽ bị đem ra nhạo báng trên các bàn thờ như những của lễ cho những
thần tượng họ thờ lạy. “Gehhena” sẽ một lần nữa là một nơi rác rến và hài cốt
của dân thành Giê-ru-sa-lem sẽ là những rác rến! "Người ta….trên mặt đất"
(Gie 8:2) [33] Những người
còn sống sót sẽ bị bắt về Ba-by-lôn và đất đai sẽ bị bỏ hoang.
Gie 8:1-3; xem giải nghĩa Gie 7:1-34
2. Các tiên tri giả :
Luật pháp (Gie 8:4-22)
Sau khi phá tan ảo tưởng
tầm thường của dân sự về đền thờ, tiên tri Giê-rê-mi tiếp tục phơi bày bản chất
các tiên tri giả, vốn là những người liên tục chống đối lại chức vụ của ông và
dẫn dắt dân sự đi sai đường. Ông nêu ra một số câu hỏi nhưng trọng tâm vẫn cứ
xoay quanh vấn đề: "Tại sao dân sự không quay trở lại với Chúa?". Để
trả lời cân hỏi này, tiên tri Giê-rê-mi đã đưa ra 3 khía cạnh trong thái độ
bướng bỉnh của dân sự không chịu vâng lời Chúa.
a. Thái độ chối bỏ của dân sự thật phi lý (c.4-7): Giê-rê-mi đã sử dụng những điều tương tự như cuộc sống con
người và thiên nhiên để minh hoạ cho điều ông rao giảng. Khi con người lỡ bị
ngã, họ sẽ gượng đứng lên lại. Đó là điều hợp lý. Nếu con người đi sai đường,
họ sẽ bước trở lui và đi con đường đúng. Kết luận: nếu con người có đủ khôn
ngoan trong những vấn đề bình thường hàng ngày, tại sao họ lại thiếu khôn ngoan
trong những vấn đề thuộc cõi đời đời, đặc biệt là
khi hậu quả trở nên bi đát hơn?
Dân sự như những con ngựa chạy vào
chiến trường mà không biết gì đến những hiểm nguy ở đó. Ngựa được huấn luyện để
vâng lời và có thể không biết thêm gì cả nhưng con người vốn được tạo dựng theo
hình ảnh của Chúa nên phải biết được họ đang đi đâu. Quả thật, những người dân
Giu-đa thật chẳng thông minh bằng chim chóc! (Es
1:3) Chúa ban cho loài chim một bản năng để nhận biết các mùa và thời
điểm chúng cần bay đi nơi khác cư trú. Nhưng Ngài còn
ban cho con người nhiều hơn thế nữa: phần linh ở bên trong để có thể nghe thấy
tiếng Chúa và hiểu biết Luật pháp Ngài. Được tạo dựng theo hình ảnh của Chúa,
con người cần phải vâng theo chỉ dẫn thần linh tương tự như chim chóc làm theo
bản năng tự nhiên vậy.
b. Việc chối bỏ của dân sự bắt đầu từ việc phỉnh
gạt (c.8-12): "Chúng nó đã chối bỏ …thể nào?" (Gie 8:9). Do dân sự khoe khoang rằng họ có đền thờ, họ cũng
khoe rằng họ có Luật pháp của Chúa (c.8), thế
nhưng việc gìn giữ Thánh Kinh không giống như việc sống theo điều Thánh Kinh
dạy. Mặc dù Kinh Thánh vẫn được bán chạy nhất, việc Kinh Thánh phổ
biến không ngăn cản xã hội phương Tây suy đồi dần về
mặt đạo đức và mặt thuộc linh. Dường như chẳng có một liên hệ nào giữa những
điều họ nói rằng họ tin và những gì họ làm.
Những tiên tri giả,
nguời được cho là nói và viết trong Danh của Đức Chúa Trời, đã dối gạt cả vương
quốc Giu-đa. Họ là những người có đời sống không thuộc về
Chúa, họ chỉ là những người tham lam và không có phương thuốc hữu hiệu cho các
vấn đề của dân sự. Chúc vụ của họ phổ biến là do họ chỉ tập trung vào bấtcứ
những gì hời hợt, những tin tức tốt đẹp mà dân sự muốn nghe (Gie 5:12 14:13-15
27:8-9 28:1-17).
Giê-rê-mi miêu tả những người này như những thầy thuốc giả hiệu (6:14 8:11), như
một cơn gió (5:13), người phân phát trấu (23:28), những kẻ chăn bầy ích kỷ, không thương xót
(23:1-4) và những người nhiễm bệnh đang lây
lan bệnh tật (23:15). Chúa không sai gọi
những người được gọi là tiên tri này (14:14 23:18,21 29:9,31) và thực chất
họ cũng chẳng nhận được sứ điệp nào từ nơi Chúa (23:15-18).
Những gì xảy đến cho dân Chúa phụ
thuộc vào người dẫn dắt họ rất nhiều. Người dẫn dắt
bị thế gian lôi cuốn thì chắc chắn họ cũng sẽ đưa dắt dân sự đam mê theo thế
gian như họ mà thôi. Còn khi bạn chấp nhận đi theo những người dẫn dắt tin kính
thì bạn phải trả một giá đắt. Sống theo hiện tại và hùa theo đám đông là một
điều thật dễ. Tiên tri Giê-rê-mi có rất ít bạn hữu và môn đồ vì sứ điệp của ông
không phổ biến.
c. Thái độ chối bỏ của dân sự sẽ dẫn đến sự hư
mất (c.13-22): Những câu Kinh Thánh này bao gồm 3
tiếng nói: tiếng xét đoán của Chúa, tiếng kêu tuyệt vọng của dân sự và tiếng kêu tức giận của nhà tiên tri khi ông
nhìn thấy sự hoang tàn của một đất nước vốn hùng mạnh một thời. Chúa phán rằng
đồng cỏ sẽ bị tiêu diệt (c.13,17), các thành sẽ bị tàn phá (c.17) và dân sự
hoặc bị giết chết hoặc bị bắt làm phu tù (c.19). Điều này cũng giống như mật
đắng (8:14 9:15
23:15), trải qua một trận động đất (8:16), bị rắn độc cắn (c.17) hoặc như bị bể nát
vậy (c.21).
Dân sự đã phản ứng ra sao? Thay vì
quay sang Đức Chúa Trời, dân sự lại trốn chạy trong các thành! (c.14). Họ than
khóc trong tuyệt vọng rằng "Đức Chúa Trời ở đâu?
Tại sao Ngài để cho điều này xảy ra?" (c.19). Nhưng những điều đó đã xảy
ra vì họ không vâng lời và bất tín với giao ước họ đã lập với Đức Chúa Trời.
Hoàn cảnh của họ thật vô vọng và không ai có thể giải thoát họ được cả.
Câu 20 chính là một câu châm ngôn họ đã trích dẫn "Mùa gặt đã qua… cứu rỗi
". Họ đã bỏ lỡ cơ hội Chúa cho họ và cơ hội
đó sẽ khôngbao giở trở lại nữa.
Do tiên tri Giê-rê-mi là
một người chăn bầy trung tín nên ông cũng đau cùng một nỗi đau với dân sự :lòng
ông mệt mỏi (c.18) và than khóc thảm thiết khi ông nhận thấy một gánh nặng sẽ
giáng xuống dân tộc. "Con gái dân ta…bắt lấy" ( c21). Các tiên tri
giả đã định bệnh sai và kê đơn thuốc không đúng
nên vết thương của dân sự vẫn còn đó, bị chảy máu và bị lây nhiễm. "Hãy
theo luật pháp…cho nó" (Es 8:20).
3. Sự tín nhiệm sai:
giao ước (Gie 9:1-26)
Do Thái là dân tộc duy
nhất trong lịch sử mà Chúa đã đưa vào một mối
quan hệ có giao ước (Sa 12:1-3). Là con cháu
của Áp-ra-ham, được nhìn nhận qua phép cắt bì (Sa
17:1-27), họ thật sự là "tuyển dân" thuộc riêng về Đức Chúa
Trời (Xu 19:4-6). Bi kịch là ở chỗ họ tin
vào giao ước và các nghi lễ sẽ khiến họ được chấp nhận trước mặt Đức Chúa Trời.
Họ cho rằng họ không cần phải ăn năn hay tin kính; tất cả những điều đó là dành
cho dân ngoại "chưa cắt bì". Giăng Báp-tít đã phải đối diện với điều
này trong chức vụ của mình (Mat 3:7-10) cũng
giống như Chúa Giê-xu (8:33) và Phao lô (Ro 2:1-4:25). Tiên tri Giê-rê-mi phải giải quyết
thái độ kiêu ngạo của dân sự khi chỉ rõ cho họ thấy 3 lẽ thật dưới đây:
a. Làm dân tuyển của Chúa theo giao ước không
phải là một cớ cho họ phạm tội (c.1-16): Cũng giống như Chúa Giê-xu (Lu 19:41) và Phao-lô (Ro 9:1-5), tiên tri Giê-rê-mi đã than khóc cho
tình trạng thuộc linh đáng buồn của dân sự, và đây là lý do vì sao ông được mọi
người biết đến là "nhà tiên tri than khóc cho dân tộc mình" (Gie 9:18 10:19 13:17 14:17 Ca 1:16 2:11,18 3:48). Ngày nay, tìm thấy những giọt nước mắt của
những tấm lòng tan vỡ vì ăn năn trên toà giảng hay trên các băng ghế nhà thờ
quả là một việc khó vì dường như mọi người thường quan tâm đến sự vui mừng.
Thay vì có các giáo sĩ hay những sứ giả phục hưng, trong nhà thờ ngày nay dường
như chỉ có "các diễn viên hài tôn giáo", là những người có vẻ như
chưa hề đọc Gia 4:9-10 bao giờ "hãy cảm biết ….anh em lên". Vance
Havner hoàn toàn đúng khi nói rằng "Trong lịch sử loài người chưa bao giờ
lại có nhiều thú vui tầm thường như hiện nay” [34]
Có lẽ tiên tri Giê-rê-mi
đã muốn trốn khỏi mọi người để đến một nơi an bình nào đó (Thi 55:6) nhưng ông
nhận biết được rằng ông phải ở lại và rao giảng Lời Chúa (Gie 40:6. Lòng ông than khóc vì tội lỗi của dân
sự, tình trạng vô đạo đức, thờ hình tượng, lừa dối và phỉ báng của họ. Sự thật
là điều rất quý giá; bạn không thể trông mong bạn bè bà con của mình!
Dân Giu-đa nghĩ rằng họ được
"tự do phạm tội" vì họ là con cái của Áp-ra-ham và là tuyển dân của
giao ước. Trái lại, là một phần của giao ước, họ càng cần phải có trách nhiệm
nhiều hơn khi sống để làm vinh hiển Chúa và vâng theo ý muốn Ngài." chúng
ta phải cứ …như vậy" (Ro 6:1-2). Như
tôi đã trình bày ở trên, bất cứ một thuyết thần học nào làm thuyên giảm sự
thánh khiết và dung dưỡng cho tội lỗi đều không thuộc
về Kinh Thánh.
b. Việc là tuyển dân theo giao ước của Chúa không
giúp họ tránh được cơn đoán phạt (c.7-16): Chính vì có mối quan hệ theo giao ước với Đức Chúa Trời
nên khi phạm tội, dân sự lại càng phải chịu một
sự đoán phạt nặng nề hơn; vì "ai được ban cho nhiều thì sẽ bị đòi lại
nhiều" (Lu 12:28). Chúa phán với dân Do
Thái "Ta đã biết…các ngươi" (Am 3:2).
Sự đoán phạt đó sẽ giống như sức nóng
trong lò nung (Gie 9:7). Nó sẽ khiến các
thành bị huỷ diệt, nơi ở của súc vật, vùng đất sai trái sẽ trở nên hoang mạc vì
không ai sống và trồng trọt ở đó nữa. Sự tàn phá khủng khiếp đến nỗi chim chóc
cũng không còn chỗ để làm tổ . Tại sao "vùng đất đượm sữa và mật" lại
trở nên hoang mạc như thế ? Đó là do dân sự không chịu vâng theo Luật pháp của Chúa và quay sang thờ hình tượng. Dân
sự cho rằng "vị trí ưu tiên" của họ trước mặt Chúa sẽ giúp họ thoát
khỏi cơn đoán phạt.
c.Việc là dân theo giao ước của Chúa không đảm
bảo việc thông hiểu về mặt thuộc linh (c.17-26): "Người
khôn chớ khoe về sự khôn mình…biết Ta" (c.23-24). Trình độ, quyền lực, của
cải vốn là 3 điều mà ngày nay người ta thường dựa vào dễ khoe khoang, nhưng
không một điều nào có thể bảo đảm ơn phước của Chúa. Chúa không vui lòng với
trình độ dân trí, ảnh hưởng của chính trị, quân đội hay tổng giá trị thu nhập
quốc dân mà Ngài vui khi con người sống tử tế, ngay thẳng, công bình vì họ biết
kính sợ Đức Chúa Trời. Chúa hứa chúc phước theo giao ước cho những ai vâng theo
Ngài chớ không phải cho người theo những nghi lễ tôn giáo.
Chúa kêu gọi dân sự than
khóc vì chẳng mấy chốc, họ sẽ dự đám tang của chính mình. Cái chết đã gần kề và
những chính trị gia hay những tiên tri giả đều không thể trốn khỏi. Cái chết
được ví như tên cướp chạy thoát qua những cửa sổ và cướp đi những sinh mạng quý
giá. Thây người sẽ rớt xuống "như nắm lửa đổ ra sau lưng con gặt"
(c.22).[35]
Dân Do Thái khoe khoang
về dấu hiệu cắt bì theo giao ước, nhưng đó chỉ là dấu ấn trên thân thể họ trong khi phép cắt bì thuộc linh vẫn chưa chạm vào
tấm lòng họ (4:4; Phu
10:16 Cong 7:51 Ro 2:25-29). Ngày nay, những ai vốn chỉ dựa vào
phép báp-tem hay những nghi lễ khác trong nhà thờ nhưng không thật ăn năn và
tin cậy đấng Christ cũng sẽ rơi vào tình trạng của dân Do Thái thời tiên tri
Giê-rê-mi. Họ nghĩ rằng mình là một phần của giao ước thánh nhưng điều họ tin
hoàn toàn sai. Phao-lô là một ví dụ diển hình cho điều này: ông đã mất mọi sự
công bình tôn giáo để được Đấng Christ (Phi 3:1-11)
4. Những thần tượng giả
dối: Đức Chúa Trời Hằng sống và chân thật (Gie 10:1-25)
Trước khi Áp-ra-ham đặt niềm tin nơi
Chúa chân thật, ông cũng là một người thờ hình tượng (Gios
24:2-3). Suốt những năm tại Ai Cập, dân Do Thái được giới thiệu với vô
số thần tượng của vùng đất này và một số thần ở lại trong lòng họ. Khi Môi-se
gặp Chúa trên núi Si-nai, dân sự cùng với sự giúp đỡ của người anh Môi-se là
A-rôn đã tạc một tượng bò bằng vàng và thờ lạy nó (Xu
32:1-35). Tại núi Si-na-i, dân sự đã được thấy sự vinh hiển của Chúa,
nghe tiếng Chúa và chấp nhận Luật pháp của Chúa; tuy nhiên "họ đổi hình
dạng mình ra hình dạng con bò ăn cỏ" (Thi
106:20). Vậy, việc thờ hình tượng đã ăn sâu vào lòng họ.
a. Tiên tri Giê-rê-mi nhìn quanh và chế nhạo các
thần tượng (Gie 10:1-16): Thay vì
tránh xa những lối sống xấu xa của các dân tộc khác như lời chỉ dạy của Môi-se
(Phu 7:1-11), dân Y-sơ-ra-ên dần dần lại bắt
chước theo những cách sống đó và bắt đầu thờ lạy những thần tượng ngoại bang.
Nhưng những thần tượng này đều vô giá trị, do con người làm nên "như hình
cây chà là" (Gie 10:5), chúng không thể
nói, không thể đi nên cần phải được khiêng đi (Thi
115:1-18). Giá như dân sự biết chiêm ngưỡng sự vinh hiển, sự uy nghiêm
của Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật là Chúa đời đời, Đấng đã dựng nên các
từng trời và đất bằng Lời của năng quyền Ngài !
A.W. Tozer đã nhắc chúng
ta nhớ rằng "bản chất của việc thờ hình tượng chính là vui thích khi nghĩ
về Chúa với những suy nghĩ vốn không xứng đáng với Ngài" [36] Điều này có nghĩa là thờ lạy và hầu việc tạo vật hơn là Đấng Tạo hóa (Ro 1:25), ưa thích
những món quà hơn là người tặng quà. Các thần tượng thì vô tri và con người ắt
sẽ cũng vậy (Gie 10:80) bởi vì chúng ta sẽ
dần trở nên giống với thần nào mà chúng ta đang thờ phượng (Thi 115:8) những thần tượng ngày nay của chúng ta
không xấu xí như những thấn tượng ngoại bang thời tiên tri Giê-rê-mi nhưng nó
cũng thu hút nhiều tâm trí con người cũng như gây ra không ít thiệt hại. Bất cứ
điều gì chúng ta tôn thờ và phục vụ hơn cả Chúa sống và chân thật đều là thần
tượng; có thể đó là một căn nhà hay một chiếc xe đắt tiền, một dàn máy mới
nhất, một chiếc thuyền, thư viện, người yêu, con cái, công việc hay tài khoản
trong ngân hàng. Nói chung, tất cả những điều mà tôi dồn hết tâm trí mình và
sẵn sàng hi sinh vì nó chính là thần của tôi, và nếu đó không phải là Chúa
Giê-xu thì đó chính là thần tượng. "Hỡi các con cái bé mọn, hãy giữ mình
về hình tượng" (IGi 5:21).
Phương thuốc chữa trị
dùng để tuyệt diệt việc thờ lạy hình tượng đó là chúng ta hãy đến gần với sự uy
nghi, vĩ đại của Chúa, Đấng Chân Thật, Đấng Sống và là Vua đời đời. Hình tượng
chỉ là một vật thay thế và bạn sẽ không bao giờ muốn những vật thay thế vô tri
vô giác khi đã kinh nghiệm được tình yêu và năng quyền của Đức Chúa Trời, Đấng
toàn năng.
b. Tiên tri suy gẫm trước về điều sẽ xảy ra và
than khóc cho sự đoán phạt sắp đến (c.17-22): Giê-rê-mi đã
nhìn thấy trước việc đế quốc Ba-by-lôn sẽ xâm chiếm đất đai và mang đến những
bất hạnh của dân sự Chúa. Ông thúc giục mọi người chuẩn bị túi xách và sẵn sàng
ra đi vì họ sẽ bị ném ra khỏi lãnh thổ như đá bị bắn ra khỏi ná bắn đá. Nhà
tiên tri than khóc cho sự tan tác của nhà cửa,gia đình, cha mẹ chia lìa con cái
và sự tan tác của tuyển dân của Chúa.
Tiên tri Giê-rê-mi chỉ rõ lý do của thảm hoạ này, đó là : những
người chăn bầy (những nhà lãnh đạo trong lĩnh vực chính trị và thuộc linh)
không tìm kiếm Chúa mà trái lại, dẫn dắt dân sự đi sai đường (Gie 10:21). Sự đoán phạt xảy đến "vì cớ tội
lỗi của các tiên tri nó và sự gian ác của các thầy tế lễ nó" (Ca 4:13). Cả dân tộc bị
bắt vì những người dẫn dắt họ quên mất Chúa Hằng sống và chân thật.
c. Tiên tri Giê-rê-mi ngước lên và cầu khẩn sự
thương xót (Gie 10:23-25): Chúa đã
phán với Giê-rê-mi không được cầu xin cho dân tộc (7:16)
nên ông đã không làm như vậy. Thay vào đó, ông cầu nguyện cho chính mình như
một đại điện cho dân tộc mình. Một lần nữa, ông lại chia sẻ chung nỗi đau của
dân tộc mình (10:19). Lời cầu nguyện này dựa
trên ba luận điểm để nài xin Chúa thương xót dân Ngài.
Trước hết, ông xin Chúa nhớ cho rằng
dân sự chỉ là những con người yếu ớt, những người không biết phải sống theo
cách nào (c.23). Có lẽ tiên tri Giê-rê-mi đang liên tưởng tới Thi 103:13-16.
Kế đến, nếu Chúa phạt họ theo những
gì họ đáng phải chịu, dân sự sẽ bị diệt mất (Gie
10:24). Một lần nữa, chúng ta lại nghĩ ngay tới Thi
103:10 "Ngài không đãi chúng tôi… sự gian ác của chúng tôi".
Cũng như điều E-xơ-ra đã nhấn mạnh, Chúa chẳng phạt chúng ta "cho đáng như
tội chúng ta" (Exo 9:13)
Cuối cùng, ông biện luận rằng những
quốc gia tấn công Ba-by-lôn đáng bị trừng phạt vì đã tìm cách huỷ diệt tuyển
dân của Chúa (Gie 10:25). Chúa gọi Ba-by-lôn
là công cụ của Ngài trong việc sửa phạt dân Do Thái, chớ không phải tiêu diệt
họ, thế nhưng đế quốc Ba-by-lôn đã quá hung bạo đối với dân Giu-đa. Nhà tiên
tri đã không trút cơn giận của mình nhưng ông lại cầu xin Đức Chúa Trời giữ lời
hứa Ngài với Áp-ra-ham để bảo vệ dân Ngài khỏi bị diệt vong (Sa 12:1-3). Chúa đã nhậm lời cầu nguyện này và
cuối cùng, Ngài đã cho phép chấm dứt sự cai trị bạo tàn của đế quốc Ba-by-lôn
trên dân sự Ngài (Gie 50-51).[37]
Cho tới điểm này,
Giê-rê-mi mới kết thúc "bài giảng trong đền thờ" của mình. Kết quả ra
sao? Theo Giê-rê-mi chương 26, ông bị bắt và bị
kết án tử hình! Các thầy tế lễ thà phạm tội giết người hơn là nghe và vâng theo
Lời Chúa! Đức Chúa Trời đã cứu tiên tri Giê-rê-mi khỏi bị giết nhưng ông đã bị
đuổi ra khỏi đền thờ (36:5). Tôi tự hỏi ngày
nay không biết có bao nhiêu vị mục sự vẫn thẳng thắng rao giảng những sứ điệp
mà họ biết có thể vì đómà họ sẽ bị đuổi? Và tôi cũng tự hỏi rằng không biết có
bao nhiêu hội chúng sẵn sàng nhận lãnh và làm theo những sứ điệp ấy?
Chúa không hứa với Giê-rê-mi một
công việc dễ dàng, nhưng Ngài hứa với ông rằng Ngài sẽ khiến ông mạnh mẽ (1:7-8,17-19). Chúa đã giữ lời hứa với tiên tri Giê-rê-mi
và Chúa cũng sẽ giữ lời hứa Ngài với các tôi tớ của Ngài ngày hôm nay.
4. VÂNG THEO CHÚA (Gie 11:1-13:27)
“Whoso
who would be a man must be a nonconformist” R.W.Emerson [38]
Trong một bài thơ, nhà
thơ Mỹ Edwin Markham đã viết :
“Chúng ta cần có đức tin
để đi trên con đường không thể đi,
Có năng quyền để đứng
một mình và vâng theo Chúa”.
Đó là điều mà tiên tri
Giê-rê-mi đã làm trong suốt thời vua Giô-sia trị vì: đi một mình và vâng theo
Chúa. Vua Giô-sia đã rất vui mừng khi các thợ sửa đền thờ tìm thấy cuốn sách
Luật pháp (IIVua
22:1-20) và chính việc khám phá này đã đưa tới việc dẹp bỏ thần tượng
tạm thời trong vương quốc. Sự kiện này thường được gọi là "sự phục hưng
của vua Giô-sia". Nhưng từ chính xác cần dùng trong trường hợp này chính
là "cuộc cải cách". Tại sao lại như vậy? Bởi vì dân sự chỉ tuân theo
Luập pháp bề ngoài còn trong lòng, họ vẫn đi theo các
thần tượng của mình.
Giê-rê-mi hiểu được điều
ấy và hiểu được thái độ hời hợt của những tấm lòng chưa thật ăn năn, nên ông đã
không hề lên tiếng trong cuộc cải cách của vua Giô-sia. [39]. Nhà tiên tri còn biết cả những việc dân sự vẫn cứ lén lút
làm và họ sẽ sẵn sàng quay trở lại với tội lỗi ngay khi có thể. Trong phần nói
tiên tri này, Giê-rê-mi đã nhắc lại tội lỗi của dân tộc và nài xin dân sự quay
trở về với Chúa đang khi còn cơ hội.
1. Tội bất tuân theo
giao ước của Chúa (Gie
11:1-8)
Nhà vua và dân sự đã
công khai hứa nguyện với Đức Chúa Trời rằng họ sẽ vâng theo giao ước của Ngài (IIVua 23:3) và
không có một nghi ngờ nào rằng nhà vua có thật lòng hay không. Tuy nhiên, với
phần lớn dân sự, việc họ vâng lời chỉ là đi theo đám đông và làm những gì mà
mọi người làm.
Lịch sử của dân Do Thái bao gồm
những bản ký thuật của các giao ước: Chúa lập ra những giao ước và dân sự vi
phạm những giao ước. Chúa lập giao ước với Áp-ra-ham khi Ngài kêu gọi ông ra
khỏi quê hương U-rơ để đi đến xứ Ca-na-an (Sa
12:1-3) và Ngài cũng nhắc lại giao ước này với Y-sác (26:1-5) và Gia-cốp 35:1-15).
Giao ước mà Chúa lập với Áp-ra-ham chính là nền tảng cho những ơn phước của dân
Y-sơ-ra-ên nhận từ nơi Ngài.
Tại núi Si-nai, Chúa đã lập một giao
ước khác với dân Y-sơ-ra-ên, giao ước liên quan đến việc tuân theo Luật pháp
thánh của Ngài (Xu 19:1-20:26). "Vậy
bây giờ nếu các ngươi vâng giữ…thuộc về Ta" (19:5).
Dân sự đã đồng ý vâng lời Đức Chúa Trời (c.8) nhưng chẳng bao lâu sau, họ đã tỏ
ra không vâng lời Ngài nữa. Khi dân sự vẫn còn ở núi Si-na-i, họ đã tạo ra hình
tượng và thờ lạy nó (Xu 32:1-35).
Trước khi dân Y-sơ-ra-ên bước vào
vùng đất Ca-na-an, Môi-se đã nhắc lại giao ước (sách Phuc truyền Luật lệ ký )
và nhắc nhở dân sự vâng theo Đức Chúa Trời. Chủ
quyền đất dựa trên lời hứa của Chúa với Áp-ra-ham nhưng quyền sở hữu và quyền sử dụng đất phụ thuộc
vào sự vâng lời của dân sự với Luật pháp của Chúa.Môi-se cũng nhắc lại những ơn
phước và sự đoán phạt (Phu 27:1-28:68). Về
sau , Giô-suê một lần nữa nhắc lại những điều này khi dân sự đã vào vùng Đất
Hứa (Gios 8:30-35). Dân Do Thái biết rằng
Chúa sẽ chúc phước cho họ nếu họ thật lòng với Chúa và Ngài cũng sẽ đuổi họ đi
nếu họ không vâng lời.
Xứ Ê-díp -tô đã là "lò nấu
sắt" đối với dân Y-sơ-ra-ên (Gie 11:4),
là nơi nhiều đau khổ (Phu 4:20 IVua 8:51 Es 48:10)
nhưng Ca-na-an là một xứ "đượm sữa và mật" (Gie
11:5), một nơi thịnh vượng và tự do. Chúa đã miêu tả vùng Đất Hứa như
vậy cho Môi-se (Xu 3:8,17 3:3) và Môi-se đã lặp lại những lời đó với dân sự
(Le 20:24 Phu
6:3 11:9 26:9,15 27:3 31:20).
Buồn thay, dân sự lại thích chốn đế vương hơn vùng đất đượm sữa và mật ở
Ca-na-an (Xu 16:3 Dan
11:4,34)
nên đã nhiều lần, họ muốn quay trở lại xứ Ê-díp -tô.
Trong suốt cuộc cải cách của vua
Giô-sia, cả dân tộc dường như đã quay trở lại cùng Đức Chúa Trời và Chúa sai
Giê-rê-mi đi khắp các đường để nhắc lại giao ước của Chúa với dân sự. Cả Chúa
và Giê-rê-mi đều biết rằng sự vâng lời của dân sự không xuất phát từ tấm lòng.
Ngoài những việc họ làm trong đền thờ, dân sự vẫn thường lên những nơi cao thờ
lạy các thần của các nước chung quanh.
Tiên tri Ê-xê-chi-ên đã miêu tả tội
lỗi của dân sự rất chính xác khi ông viết rằng "Hỡi con người…trong lòng”
(Exe 14:3). Một thế kỷ trước đó, tiên tri
Ê-sai đã miêu tả việc thờ phượng giả dối của dân sự và so sánh Giê-ru-sa-lem
với Sô-đôm , Gô-mô-rơ (Es 1:10). Dân sự đã
dâng lên cho Chúa rất nhiều của lễ nhưng Ngài không muốn những của lễ đó. Hương
liệu của họ là sự gớm ghiếc, những yến tiệc hằng năm của họ là những hành động
tội lỗi khiến Chúa chán ghét, mệt mỏi những điều đó "nếu các
ngươi…gươm" (Es 1:19-20)
Chúa phán bảo tiên tri Giê-rê-mi
nhắc lại những phước lành và cả sự rủa sả được ghi trong giao ước. Nếu những ơn
phước của Chúa không khiến họ vâng theo mười điều răn của Ngài, thì có lẽ nỗi
sợ hãi sự đoán phạt của Chúa sẽ khiến họ vâng lời. Chúa đã đối xử với dân sự Ngài như đối với những đứa trẻ nhỏ: nếu vâng lời sẽ
được phần thưởng và không bị xử phạt. Chúa ước ao dân sự kính mến và làm vui
lòng Ngài biết chừng nào! [40]
Tiên tri Giê-rê-mi đã
trả lời với lời phán của Chúa rằng "Hỡi Đức Giê-hô-va! Amen!" (Gie 11:5).
Đây cũng chính là cách mà dân Y-sơ-ra-ên đã trả lời với giao ước của Chúa (Phu 27:9-26 Gios 8:30-35).
Nhưng nhà tiên tri phải bước đi một mình và dân sự không muốn làm theo ý muốn
của Đức Chúa Trời. Giá như cả dân tộc ăn năn và hạ mình trước mặt Chúa thì dân
sự đã có thể thay đổi sự đoán phạt khủng khiếp đến từ đạo quân Ba-by-lôn. Thay
vì như vậy, sự giả hình của dân sự chỉ làm cho sự
đoán phạt thêm tồi tệ mà thôi.
2. Tội hiệp lực chống
lại năng quyền của Chúa (Gie 10:1-8) (11:9-12:6)
Đức Chúa Trời bày tỏ cho
tôi tớ Ngài biết hai âm mưu trong xứ: một là âm mưu của người Giu-đa bất tuân theo giao ước của Chúa cũng như
chống lại cuộc cải cách của vua Giô-sia (11:9-17)
và hai là âm mưu những người tại quê nhà Giê-rê-mi lập kế giết nhà tiên tri
hòng khiến Chúa phải im tiếng (11:18-12:6).
Cả hai âm mưu này đều dẫn đến một cuộc khủng hoảng thứ ba, đe dọa đức tin của
Giê-rê-mi đối với Chúa.
a. Âm mưu chống lại nhà vua (11:9-17): Thực chất đây
là một cuộc bạo loạn chống lại giao ước của Chúa cũng như chống lại cuộc cải
cách của vua Giô-sia thực hiện trong lãnh thổ. Nếu chúng ta không vâng theo Lời
Chúa và thực hiện theo Lời đó trong cuộc sống của mình, thì Chúa sẽ không thể
chúc phước cho chúng ta như điều Ngài muốn được. Tuy nhiên, mọi người thường
thích phá vỡ giao ước và thờ lạy những thần giả dối hơn.
Tuy nhiên, đối tượng và
cách thức chúng ta thờ phượng không phải là không qua trọng; những điều đó
thật rất cần thiết để hình thành đặc điểm của cuộc sống. Eugene Peterson đã
viết "Cuộc sống của một người hầu như chỉ giống cách thờ phượng của người
đó. Sự thờ phượng hình thành cuộc sống. Nếu sự thờ phượng bị suy đồi, cuộc sống
sẽ trở nên bại hoại” [41]. Chúa ban cho dân Ngài
một giao ước để Ngài có thể chúc phước cho họ và giữ lời hứa Chúa đã lập với
dân sự, nhưng dân Ngài lại thích nhờ cậy các thần của các nước ngoại bang xung
quanh hơn.
Sự thờ phượng luôn đem lại
những kết quả hoặc tốt hoặc xấu và trong trường hợp này của dân Giu-đa, đó là
hậu quả xấu. Dân sự biết cả sự rủa sả và phước lành đều được ghi trong giao
ước, nhưng họ lại nghĩ rằng Chúa không thể giáng sự đoán phạt xuống tuyển dân
của Ngài. Chẳng phải là đền thờ của Chúa ở tại thành Giê-ru-sa-lem đó sao?
Chẳng phải hòm giao ước cũng đã được đặt ở đó? Và chẳng phải những thầy tế lễ
đang giữ Luật pháp đó sao? Chẳng lẽ Chúa lại để cho những vật thánh đó bị huỷ
diệt ư? Nhưng Chúa luôn luôn giữ lời hứa Ngài dù là chúc phước hay sửa phạt. Và
chúng ta nhận lãnh càng nhiều đặc ân từ nơi Chúa , chúng ta lại càng có nhiều
trách nhiệm với Ngài.
Tai họa sẽ giáng xuống
cho Giu-đa và không ai có thể thay đổi điều đó. Dân sự ra sức kêu cầu với những
tượng thần của họ nhưng những thần đó
chẳng trả lời họ. Thậm chí ngay cả khi dân sự quay trở lại với Đức Giê-hô-va,
Ngài cũng sẽ chẳng trả lời họ. Vì vậy, Đức Chúa Trời phán với Giê-rê-mi lần thứ
hai không được cầu nguyện cho dân sự (11:4 7:16 14:11).
Dân sự thờ phượng số các thần cũng nhiều như số các thành ở Giu-đa và số các
đền thờ cũng nhiều như số các đường trong thành. Thế nhưng, những điều này
chẳng giúp được gì cho đất nước thoát khỏi sự đoán phạt khủng khiếp sắp đến.
Chúa đưa ra hai hình ảnh để bày tỏ
niềm tin tôn giáo vô ích của dân Ngài: người thờ phượng trong đền thờ (11:15) và cái cây trong cơn bão (c.17-18). Chúa
gọi dân Ngài là "kẻ yêu dấu" để nhắc nhở về cuộc hôn nhân giữa Chúa
với họ và họ đã phản bội Ngài ra sao. Sự thờ phựơng của họ trong đền thờ đáng
lẽ ra là sự bày tỏ tình yêu thật của dân sự đối với Chúa, nhưng tiếc thay đó
chỉ là hình thức vô ích. Việc dâng của lễ sẽ chẳng làm thay đổi sự đoán phạt
của Chúa, trái lại càng khiến cho dân sự chỉ phạm thêm tội ác mà thôi (c.15).
Khi sự thờ phượng trở nên tội ác, còn dân sự thì lấy làm vui mừng khi phạm tội
thì sự sáng đã trở nên tối tăm (Mat 6:22-24)
và không còn một hi vọng hi vọng nào nữa.
Trong Kinh Thánh, thỉnh thoảng cái
cây được dùng làm hình ảnh tượng trưng cho cá nhân (Gie
17:8 Thi 1:3 52:8
92:12 Xa 4:3)
và đôi lúc lại tượng trưng cho một dân tộc hay cả vương quốc (Es 10:33-34 18:5
Exe 17:31). Dân Y-sơ-ra-ên được ví sánh như
cây ô-li-ve trong Gie 11:16-17 và cũng là
hình ảnh mà sứ đồ Phao-lô đã dùng trong Ro11:1-36.
Cây ô-li-ve được đánh giá cao ở vùng Cận Đông do trái của nó có thể dùng để ép
ra một loại dầu rất hữu ích. Dân Giu-đa tự ví mình như "một cây ô-li-ve
xanh" sẽ không bao giờ ngã được, nhưng Chúa đã thấy một cơn bão đang tới gần, gió đã làm gãy các nhánh của nó và sét sẽ
đánh thiêu cháy cả cây. Giê-ru-sa-lem sẽ bị đổ nát và cháy trụi như một cây
ô-li-ve không còn hữu ích nữa.
Nếu tội lỗi nặng nhất là
làm hư hoại điều tốt đẹp nhất thì dân Giu-đa đã phạm trọng tội. Điều tốt đẹp
nhất của họ là nhận biết và thờ lạy Chúa chân thật, thế nhưng họ đã biến đổi điều đó thành việc thờ lạy các thần
tượng. Họ biến đền thờ của Chúa thành hang trộm cướp, bắt bớ các tiên tri của
Ngài, bất tuân giao ước Ngài và làm sỉ nhục danh Chúa. "Vì bởi cớ các
ngươi nên danh Đức Chúa Trời bị nói phạm trong vòng các người ngoại" (Ro 2:24 Exe 36:22).
Chúa vẫn kiên nhẫn đối diện với dân Ngài, theo đuổi họ quay trở lại nhưng dân
sự đã cứng lòng và nghiêng tai điếc về phía lời cảnh cáo của Ngài.
Tuy nhiên, trước khi chúng ta kết
tội dân Do Thái, hãy tra xét lại tấm lòng của chính mình và Hội Thánh mình.
Liệu đang có những thần tượng nào trong lòng chúng ta không? Chúng ta có dâng
trọn tấm lòng mình cho Chúa không hay vẫn chỉ dâng một phần cho Chúa và phần
còn lại cho những điều khác? Nếu một người chưa được cứu đến buổi thờ phượng
của chúng ta, liệu họ có nhận thấy sự vinh hiển và sự uy nghiêm của Chúa không?
(ICo 14:23-25). Liệu cách sống theo thế gian
và những hành động đáng ngờ của những người tự nhận là tín hữu có đang làm sỉ
nhục danh Chúa không? Hãy nhớ rằng "lời nói cuối" của Chúa với Hội
Thánh không phải là sứ mạng trọng yếu mà là "Hãy ăn năn, nếu không …"
(Kh 2:1-3:22)
b. Âm mưu chống lại Giê-rê-mi (Gie 11:18-23): Xuất phát từ thái độ chống cự lại Lời Chúa của dân sự, vì
nếu chấp nhận Lời Chúa, dân sự đã phải tôn trọng tiên tri của Ngài và phải lắng
nghe mọi điều người nói. Bạn có thể cho rằng đáng lý ra các thầy tế lễ ở thành
A-na-tốt đã phải sáng suốt hơn là đi nghe lời của những tiên tri giả, bởi lẽ
việc giữ một chức vụ tôn giáo không khiến một người có được sự khôn
ngoan thuộc linh.
Những người tại thành
A-na-tốt, quê hương của Giê-rê-mi, lập mưu giết nhà tiên tri vì sứ điệp của ông
kết tội họ. Thay vì ăn năn, họ lại quyết định giết người đưa tin. Nhưng cũng
còn có một lý do thứ hai: là những người Do Thái trung thành, họ nhận thấy
những lời tiên tri của Giê-rê-mi nói ra gây
tổn hại cho sự thịnh vượng của dân tộc. Tiên tri Giê-rê-mi rao giảng về sự đoán
phạt sắp đến từ Ba-by-lôn trong khi các tiên tri giả lại ban phát những sứ điệp
về sự thanh bình (Gie 6:14 8:11). Tiên tri Giê-rê-mi nhấn mạnh việc dân sự
cần phải tuân theo luật pháp và dâng những của lễ trong đền thờ chớ không phải
dâng ở trên các nơi cao hoặc ở một vài nơi mà thờ các thần tượng, nhưng các
thầy tế lễ lại không thích như vậy. Tiên tri Giê-rê-mi là người ủng hộ
Ba-by-lôn trong khi dân sự lại theo Ai Cập. Nói một cách khác, tiên tri
Giê-rê-mi đã đi sai nhịp với thời đại của ông và vì quyết đoán nên ông phải
bước đi một mình để "theo Chúa".
Mãi đến khi Chúa cảnh báo cho
Giê-rê-mi biết về điều đó, ông mới biết về âm mưu giết hại mình. Và khi nghe
tin tức ấy, ông thấy mình như một chiên con bơ vơ bị dắt đến nơi để giết thịt (11:19 Es 53:7).
Tất cả những gì mà ông có thể làm là phó thác chính mình cũng như kẻ thù mình
cho Đức Chúa Trời và tin cậy Chúa hành động. Đây là lần đầu tiên trong số nhiều
lần trong cuộc đời mình, tiên tri Giê-rê-mi dốc đổ tấm lòng mình cách riêng tư
với Chúa, cậy nhờ Chúa chiến đấu trong trận chiến của ông và giúp ông thoát
khỏi nỗi sợ hãi và tuyệt vọng (Gie 11:19-20 12:1-4 15:10-17
17:12-18 18:20-23
20:7-18). Tại nơi đông người, tiên tri
Giê-rê-mi rất dạn dĩ trước mặt dân sự nhưng ở chốn riêng tư, ông là người yếu
đuối trước mặt Chúa. Chúa khẳng định với tôi tớ của
Ngài rằng những kẻ thù của ông sẽ được giải quyết trong ngày tai hoạ xảy đến khi
Ba-by-lôn cướp lấy thành Giê-ru-sa-lem.
c. Sự biện luận thần học (12:1-6): Chẳng bao lâu sau khi Chúa đề cập đến hai âm mưu trên thì
Giê-rê-mi chợt nhận thấy rằng mình cần phải đối đầu với một cuộc khủng hoảng
thuộc linh (12:1-6). Madame Guyon, một nhà
thần bí người Pháp đã viết: "Khi bắt đầu cuộc sống thuộc linh, điều khó
khăn nhất đối với chúng ta là phải hết lòng chịu đựng những người lân cận sau
đó là chịu đựng cho chính mình và cuối cùng là chịu
đựng với Chúa."Tiên tri Giê-rê-mi đã không thể hiểu được vì sao Đức Chúa
Trời thánh khiết lại cho phép những tiên tri giả hoặc không trung tín được
thịnh vượng trong chức vụ của mình. Trong khi ông, một tôi tớ trung tín của
Chúa lại bị đối xử như một chiên con bị đem làm của lễ dâng.
"Sao đường lối
những kẻ ác được thạnh vượng?" (c.1) là một câu hỏi
thường gặp trong Kinh Thánh và ngày nay chúng ta vẫn thường hỏi như vậy. Gióp
vật lộn với với điều này (Giop 12:21). Các
tác giả Thi Thiên cố tìm cách hiểu (Thi 37:1-40
49:1-20 và những tiên tri khác ngoài Giê-rê-mi
đối diện với vấn đề này (Ha 1:1-17 Ma 2:17 3:15).
Những thần học gia Do Thái, dựa theo các giao ước để dạy rằng Chúa sẽ chúc
phước cho những ai vâng lời và đoán phạt những kẻ
không vâng lời nhưng thực tế trong cuộc sống lại hoàn toàn khác hẳn! Làm thế nào
mà Đức Chúa Trời thánh khiết của tình yêu thương lại để cho những điều như vậy
xảy đến chớ? [42]
Tuy nhiên, tiên tri
Giê-rê-mi tìm kiếm nhiều hơn cả những câu trả lời cho các câu hỏi đó; ông cũng
quan tâm đến quyền lợi của dân tộc mình. Ông nhìn thấy cả quốc gia có rất nhiều
người vô tội đang phải chịu đau khổ do tội lỗi của những người lãnh đạo gây nên. Chúa đã khiến hạn hán khắp nơi trong xứ. Đây là một
trong số những hình phạt theo giao ước (Phu
28:15-24), cây cối bị khô héo và súc vật đang chết dần. Nhưng những
người lãnh đạo độc ác đáng phải chịu trách nhiệm về cơn hạn hán không những vẫn
còn sống mà còn được thịnh vượng từ sự mất mát của người khác.
Điều này dường như không được công
bằng và Giê-rê-mi biện luận với Đức Chúa Trời "sao đường lối kẻ ác được
thạnh vượng?" (Gie 12:1)." Cỏ
ngoài đồng khô héo cho đến chừng nào?" (c.4) "tại sao" và
"cho đến chừng nào" thường là những câu dễ hỏi nhưng thật khó trả
lời.
Giải pháp mà tiên tri Giê-rê-mi đề
nghị đó là xin Chúa đoán phạt và kéo những kẻ ác ấy như con chiên dắt đến chổ
bị giết (c.3). Xét cho cùng, tất cả những người ở thành A-na-tốt đều đã sẵn
sàng giết nhà tiên tri như một chiên con được dâng làm của lễ vậy (11:19). Thế thì tại sao họ không phải nhận từ nơi
Chúa một số phận tương tự họ đã sắp đặt cho Giê-rê-mi?
Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa lại
không phải là điều mà tiên tri Giê-rê-mi mong đợi (12:5-6).
Điểm chú ý của Chúa không phải là những kẻ ác mà
chính là tôi tớ của Ngài, tiên tri Giê-rê-mi. Cũng như phản ứng của
chúng ta mỗi khi gặp khó khăn, Giê-rê-mi tiếp tục đặt câu hỏi “mình phải làm gì
để thoát khỏi cảnh này?”. Nhưng đáng lý ra, ông phải hỏi rằng “Điều gì khiến
mình muốn thoát ra khỏi cảnh này?”. Những tôi tớ của Chúa không sống bằng lời
giải thích mà sống dựa trên lời hứa. Hiểu được những lời giải thích có thể làm
thoả mãn tính hiếu kỳ và khiến chúng ta trở nên những con người thông minh hơn,
nhưng việc dựa vào lời hứa của Chúa sẽ hình thành tính cách của chúng ta và
khiến chúng ta trở nên những tôi tớ hữu dụng hơn cho Ngài.
Câu trả lời của Chúa bày tỏ cho Gie 3:1-25 lẽ thật quan trọng. Trước hết, cuộc đời hầu việc Chúa không phải là một cuộc sống dễ
dàng; nhưng giống như một cuộc chạy đua vậy. (Sứ đồ Phao-lô cũng đã
dùng một hình ảnh tương tự trong Phi 3:2-14).
Nếu như Giê-rê-mi là một thầy tế lễ, chắc hẳn ông đã có một cuộc sống thoải mái
và an toàn, nhưng cuộc sống của một nhà tiên tri lại hoàn toàn ngược lại. Ong
như một người chạy đua và trước mắt là những giai đoạn khó khăn.
Thứ hai, một
cuộc đời phục vụ sẽ ngày càng khó khăn hơn chớ không phải dễ dàng hơn.
Giê-rê-mi đang chạy với những người chạy bộ và đã theo kịp họ, nhưng bây giờ
ông đang chạy đua với ngựa. Ong đã từng vật lộn với nhiều gian truân thử thách
khi ông đang còn sống trong một xứ hoà bình. Tuy nhiên, giờ đây, ông đang lạc
vào những khu rừng rậm của sông Giô-đanh nơi có những thú dữ đang rình mò. Lòng
ông đau đớn vì sự tấn công từ bên ngoài và bây giờ, chính gia đình ông cũng
đã bắt đầu chống đối ông.
Chân lý thứ ba xuất phát từ hai lẽ
thật trên: một cuộc đời phục vụ sẽ ngày càng tốt
đẹp hơn khi chúng ta trưởng thành hơn. Từ những thử thách mới đó
(ngựa, rừng rậm, sự chống đối của những người thân, họ hàng) đã giúp cho
Giê-rê-mi tăng trưởng đức tin và nhạy bén hơn trong chức vụ của mình. Một cuộc
sống dễ dàng cuối cùng cũng là một cuộc sống khó khăn. Bởi vì một cuộc sống dễ
dàng kìm giữ sự trưởng thành nhưng một cuộc sống khó khăn thử thách sẽ giúp chúng để phát triển "những cơ bắp thuộc
linh" và hữu dụng nhiều hơn cho Đức Chúa Trời. Philip Brooks đã nói rằng
mục đích của đời sống là xây dựng hình thành nhân cách cao đẹp qua lẽ thật, và
bạn sẽ không làm được điều đó nếu bạn cứ mãi đóng vai một người khán
giả. Bạn phải bền bỉ với cuộc đua mà Chúa đã đặt trước mắt bạn và thực hiện những điều đó theo sự đòi hỏi của Chúa
(He 12:1-3).
Hugh Black, một nhà truyền giáo
người Scotland đã nói rằng: "Đây chính là câu trả lời mà tiên tri
Giê-rê-mi đang cần. Ông cần sự nâng đỡ chớ không phải sự nuông chìu".
Một trong những người bà con của
tôi, khi còn nhỏ đã trượt lớp 3 nên không được vào học lớp 4 và do đó không
được dùng viết mực! Ngày nay, con
cháu của chúng ta đang được học những chương trình điện toán đơn giản trong các
lớp ở trường để chúng có thể sử dụng những chương
trình khó hơn ở trường trung học và đại học. Nếu không có thử thách, sẽ không
có sự trưởng thành và không có một thử thách nào lại không có thay đổi. Một số
người khi lớn hơn, họ lụôn khăng khăng đòi có những thay đổi nhưng lại quên mất
những thử thách của sự thay đổi. Họ đang trong nguy cơ suy thoái thể chất, tinh
thần và thuộc linh. Chúa muốn Giê-rê-mi trưởng thành và Ngài cũng muốn chúng ta
trưởng thành.
Gilbert K. Chesterton đã
nói thế này:"Hình ảnh ẩn dụ nói về quá trình muốn trưởng thành, rằng “hãy
từ bỏ mọi sự đằng sau chúng ta” đã gây hiểu lầm một cách tai hại ý tưởng đích
thực của sự trưởng thành, thực sự nó có ý nghĩa là hãy từ bỏ những gì thuộc về
chính bản thân chúng ta." [43] Chúa quan tâm đến sự trưởng thành thuộc
về chính nhà tiên tri chớ không chỉ ở những khó
khăn quanh ông. Chúa có thể giải quyết khó khăn của người Giu-đa nhưng không
thể buộc tôi tớ Ngài phải trưởng thành. Chỉ khi Giê-rê-mi đã có thể chọn lựa
bước vào cuộc đua, chấp nhận thử thách thì nhờ đó, ông mới trưởng thành trong
Chúa.
Gie 12:1-6; xem giải nghĩa Gie 11:1-8
3. Tội làm ngơ trước
lời cảnh cáo của Chúa (Gie
12:7-13:27)
(Gie 12:7-17). Chúa dùng những gì Giê-rê-mi nói và làm để phán với dân Giu-đa
và cảnh cáo họ về sự đoán phạt khủng khiếp sắp đến. An tâm trong lòng với niềm
tin bị dối gạt và được các tiên tri giả khích lệ, những nhà lãnh đạo cùng với
dân Giu-đa sống trong một thiên đàng theo ảio tưởng của kẻ ngu ngốc, tin chắc
rằng không có điều gì khủng khiếp sẽ xảy đến cho thành thánh hay đền thờ. Hãy
lưu ý đến 8 hình ảnh miêu tả về sự đoán phạt sắp giáng xuống.
a. Dân sự sẽ như kẻ thừa tự, bị hắt hủi (12:7-17): Dân Do Thái là
kẻ thừa tự đặc biệt của Chúa (Xu 19:5-6
Phu 4:20 32:9)
và vùng đất Ca-na-an chính là sản nghiệp Chúa hứa ban cho (Xu 15:17 Thi 78:55).
Vùng đất này thuộc về Chúa và dân Do Thái chỉ "vay mượn" để sử dụng
mà thôi (Le 25:23. Dân sự phải vâng theo
Luật pháp của Chúa để bảo vệ đất không bị lạm dụng và ô uế, nhưng dân sự đã
không vâng theo Luật pháp của Ngài và đã làm ô uế sản nghiệp của mình (Le 18:25,27 Phu 21:23).
Vì thế, Chúa sửa phạt họ bằng cách đem họ ra khỏi vùng Đất Hứa ấy và đày họ
sang Ba-by-lôn. Điều này tạo cơ hội cho xứ của Y-sơ-ra-ên được phục hồi trở lại
(IISu 36:21 Gie
25:9-12 Le 26:34-43).
Bạn sẽ không thể không kể đến sự tức
giận của Chúa khi Ngài đề cập đến dân sự yêu mến của
Ngài. Thay vì kính mến Ngài, dân sự lại gào thét lên với chúa như một con sư tử
hung hăng dữ tợn và như thế khiến Chúa không thể bày tỏ tình yêu của Ngài đối
với họ như Ngài mong muốn được [44] Kẻ thù của Giu-đa như những chim săn mồi và thú dữ chỉ
chực chờ để tấn công họ. Những nhà lãnh đạo của quốc gia này ("người chăn
bầy") và những lực lượng đồng minh của họ sẽ biến vườn nho đẹp đẽ này
thành một vùng đất hoang vu và người Do Thái sẽ bị tước đoạt sản nghiệp của
mình. Dân của các nước lân cận như Sy-ri, Mô-áp và Am-môn, là những nước đã tấn
công Giu-đa trong quá khứ cũng sẽ bị đế quốc Ba-by-lôn trừng phạt và dân
sự trong số các nước đó phải sống kiếp lưu đày.
Tuy nhiên, Đức Chúa Trời cũng phán
thêm một lời hi vọng: "Ta cũng sẽ trở lại thương xót chúng nó…đất mình” (Gie 12:15). Dân sự sẽ bị bắt làm phu tù trong 70
năm (25:11-12 29:10).
Sau đó, họ sẽ được phép trở về quê hương khôi phục lại đền thờ và đất nước.
Chúa cũng sẽ mời gọi dân của các nước khác thờ phượng Ngài là Đấng sống và chân
thật, để khiến họ sẽ không bao giờ dẫn dụ dân sự Chúa thờ lạy hình tượng nữa.
b. Như đai gai mục (13:1-11) Đây là một
trong những "bài giảng bằng hành động" [45] của tiên tri Giê-rê-mi.
“Đai” là lớp trang phục lót dài đến đùi và được người ta mặc sát người. Chúa đã
đem dân sự đến gần Ngài nhưng họ đã làm ô uế chính mình với những thần tượng và
trở nên "những kẻ vô tích sự ". Khi mọi người nhìn thấy tiên tri
Giê-rê-mi chôn đai mới của mình dưới hòn đá ở bờ sông bùn lầy, mọi nguời biết
rằng điều này sẽ làm hỏng đai nhưng họ lại không nhận biết rằng họ đang sắp sửa
phải nhận lấy sự đoán phạt đổ xuống chính mình. Một ngày nào đó, Chúa sẽ đoạt
lại Giu-đa từ tay Ba-by-lôn. Và lúc đó, Ngài sẽ giúp dân Ngài thoát khỏi sự thờ
thần tượng. Thành phố, đền đài mà họ thường tự hào sẽ bị tiêu diệt, cũng giống
như lớp đai của tiên tri sẽ bị mục nát.
Nhưng cũng còn một điều
khác liên quan đến "bài giảng bằng hành động" này. Trong nhiều năm,
những nhà lãnh đạo Giu-đa đã quay sang Ai Cập, A-si-ri, và Ba-by-lôn để xin sự
giúp đỡ thay vì chạy đến Đức Chúa Trời cầu xin sự trợ giúp. Chính hành động này
đã "làm cho” dân sự trở nên ô uế và trở nên "vô tích sự" trong
cái nhìn của Chúa. Giê-rê-mi chỉ cho họ thấy rằng việc họ đang "nịnh hót,
tâng bốc" các nuớc ngoại bang chỉ khiến họ trở nên xa cách Đức Chúa Trời
và điều này cuối cùng sẽ dẫn đến sự huỷ diệt của đất nước họ mà thôi.
c. Như những kẻ say sưa đi loạng choạng (13:12-14):
Tiên tri Giê-rê-mi
thường sử dụng một thành ngữ quen thuộc trong bài giảng của mình: "Hễ là
bình thì sẽ có được đầy rượu" [46] Thành
ngữ này ngụ ý rằng đảm bảo sẽ có hoà bình và sự thịnh vượng cho đất nước. Với
tấm lòng tan vỡ, nhà tiên tri lại nhìn thấy những nhà lãnh đạo thường hay say sưa thay vì dốc lòng tìm kiếm Đức Chúa Trời (Es 28:1-8) và ông biết rằng chén thịnh nộ sẽ đổ
trên đất này (Gie 25:15). Những nhà lãnh đạo
và dân trong thành Giê-ru-sa-lem đã đổ đầy rượu vào bình của mình, chuẩn bị cho
một bữa tiệc nhưng Chúa sẽ khiến họ trở nên say khướt đến đỗi dẫn đến một sự
thất bại nhục nhã và sự tàn phá đau lòng. Họ sẽ va đụng vào nhau và huỷ diệt
lẫn nhau như những bình gốm vỡ trong thành. Sứ đồ Phao-lô cũng đã dùng hình ảnh
say sưa để khiển trách Hội Thánh và khuyên họ phải sẵn sàng cho ngày Chúa trở
lại (ITe 5:1-11).
d. Như người bước đi vấp chân (c.15-16): Khi Giê-rê-mi kêu gọi dân sự "Hãy nghe và lắng
tai" (13:15,16) ông đã cho họ một cơ hội nữa để ăn năn và quay
trở lại với Chúa. Ông so sánh họ như người lữ hành đi trên con đường núi nguy
hiểm và xa lạ, không có bản đồ, không có ánh sáng và đang chờ đợi ánh nắng bình
minh. Tuy nhiên, thay vì là ánh nắng bình minh, bóng đêm vẫn vây kín. Trong
nhiều thế kỷ trước, Chúa đã dẫn dắt dân Ngài đi trong trụ lửa và trụ mây. Giờ
đây, Chúa cũng muốn dùng lời của tiên
tri Ngài để dẫn dắt họ bước đi nhưng họ không chịu nghe theo. Nếu chúng ta chống nghịch lại ánh sáng của Chúa, chúng ta
sẽ chẳng còn lại gì ngoại trừ bóng đêm. Những nhà lãnh đạo dân sự đã quá kiêu ngạo không chịu tự nhận mình đã lạc
đường cho nên họ đã chẳng chịu cầu hỏi lời dẫn đường.
e. Như bầy chiên bị bắt (13:17-20): Tiên tri Giê-rê-mi đã khóc khi
nhìn thấy bầy chiên của Chúa bị bắt, những con chiên không thể tự vệ bị
đem đi giết. Điều gì đã gây ra thảm kịch này? Người chăn bầy (những người cai
trị Giu-đa) đã ích kỷ bóc lột bầy chiên của mình mà không chịu vâng theo lời
Chúa (23:1). Tiên tri Giê-rê-mi nói với Vua
Giê-hô-gia-kin và mẹ người Nê-hu-ta (IIVua 24:8-20)
và khuyên nhủ họ ăn năn, hạ mình xuống nhưng họ không chịu nghe theo.Đạo quân
Ba-by-lôn sẽ tràn xuống từ phương Bắc và cả dân tộc sẽ bị hủy diệt." Sự
kiêu ngạo đi trước , sự bại hoại theo sau, và tánh …sa ngã" (Ch 16:18).
f. Như người đàn bà trong khi sinh nở (13:21): Đây là một hình ảnh quen
thuộc mà Kinh Thánh hay dùng đến để nói về sự đau đớn, thường có liên hệ đến sự
đoán phạt (Gie 4:31 6:24
22:23 30:6
49:24 50:43
ITe 5:3). Thông điệp của câu Kinh Thánh là
"Những người mà các ngươi kết bạn như những đồng minh sẽ đến và làm chủ
ngươi. Vậy thì các ngươi sẽ nói gì? Các ngươi sẽ đau đớn đến nỗi không còn nói
chi được nữa." Nếu dân sự đã tìm đến Đức Giê-hô-va để làm đồng minh của mình, thì Ngài chắc đã sẽ không để họ bị thất
bại. Thế nhưng họ lại tin tưởng vào Ba-by-lôn và Ba-by-lôn đã trở thành kẻ thù
của họ.
g. Như phường đĩ điếm đáng xấu hổ (13:22-27): Theo luật
Môi-se, phường đĩ điếm không được ở trong xứ (Le
19:29 21:7,14) và sự có mặt của họ giữa công chúng là một
điều xấu hổ cho họ. Nếu một người đĩ điếm nhận ra mình loã lồ, xấu hổ và bị lạm
dụng, tại sao họ lại ngạc nhiên ? Vì đó là điều mà cô ta muốn ! Dân Giu-đa đã
phạm tội tà dâm với các thần tượng ngoại bang và quay sang các nước không thờ
kính Chúa để xin giúp đỡ. Bây giờ, họ lại hỏi rằng " Vì sao tất cả những
điều này lại xảy đến với chúng ta?" Mọi người có thể sống như thể tội lỗi
sẽ không đem lại hậu quả gì, nhưng những hậu quả đó rồi sẽ đến ngay. Cũng giống
như người Ê-thi-ô-pi không thể thay đổi được màu da của mình, hoặc như con báo
không thể thay đổi các đốm trên mình nó, cũng vậy,
một dân tộc gian ác không thể tự nhiên làm điều tốt được. Đối với những người
đã quá quen với việc phạm tội, thì chỉ có Chúa mới có thể làm thay đổi được
lòng họ mà thôi.
h. Như trấu bay khắp nơi (13:24-25): Chúa so sánh một dân tộc độc ác với rơm rác bay đi
khắp nơi (Thi 1:4 Mat
3:12) là vật không còn dùng chi được sau một quá trình thu hoạch mùa
màng. Những người nông dân tung lúa lên không và gió sa mạc sẽ thổi bay đi phần
rơm rác. Tội lỗi đã hạ thấp vương quốc Giu-đa đến đỗi con người không còn có
giá trị nữa, mà chỉ còn để bị thổi bay đi mà thôi. Họ
đã quên Đức Chúa Trời của mình, tin vào điều giả dối và không chịu ăn năn tội
lỗi.
Thật Đức Chúa Trời đã
nhẫn nại với dân Ngài biết bao và tôi tớ Ngài cũng như thế trong chức vụ của
mình. Tiên tri Giê-rê-mi sẵn lòng bước đi một mình và "theo Chúa" để
dân tộc ông có cơ hội được cứu nhưng buồn thay dân sự đã không nghe theo sứ
điệp của ông.
Chúa vẫn "lấy lòng nhịn nhục
đối với anh em, không muốn cho người nào chết mất…ăn năn" (IIPhi 3:9). Ngày nay, chúng ta chớ nên bắt chước
theo người Giu-đa nhưng ta hãy lắng nghe Lời Chúa, vâng theo Ngài, vì có như
vậy chúng ta mới tránh được sự sửa phạt của Chúa và vui hưởng những phước lành của Ngài.
Gie 13:1-27; xem giải nghĩa Gie 12:7-17
5. NHỮNG BÀI GIẢNG, LỜI
CẦU XIN VÀ TIẾNG THAN KHÓC (Gie 14:1-17:27)
“Kỷ
nguyên hiện đại của chúng ta ngày nay thật là xô bồ vì người ta sống quá nông
cạn và hời hợt. Chúng ta ai nấy muốn thay đổi mọi thứ ngoại trừ lòng dạ con
người"
J.Wallace Hamilton
[47] “Nếu việc rao giảng không phải trá giá gì thì sẽ chẵng đem lại kết
quả gì" [48].
Nhà truyền giáo nổi
tiếng người Anh, John Henry Jowett đã phát biểu như vậyvà dĩ nhiên câu nói này
có thể áp dụng cho tiên tri Giê-rê-mi. Đau khổ trước tội lỗi của dân sự, phải
rao giảng những thông điệp khó nghe liên quan đến sự đoán phạt và bối rối với
những gì Chúa cho phép ông chịu đựng, tiên tri Giê-rê-mi đã phải trả một giá
rất đắt cho việc đi theo tiếng gọi của Chúa. Nếu trong Cựu Ước có một tôi tớ
nào sẵn sàng "vác thập tự giá" để theo Chúa thì đó chính là tiên tri
Giê-rê-mi.
Trong chương này, nhà
tiên tri rao giảng 4 thông điệp và đan xen với những thông điệp này là lời cầu
nguyện của ông với Chúa cũng những câu trả lời ông nhận được. Tiên tri
Giê-rê-mi rất thẳng thắng trước dân sự nhưng lại là một người có tấm lòng tan
vỡ trước mặt Chúa. Tuy nhiên, chính sự tan vỡ đó đã truyền thêm sức mạnh cho
ông.
1. Sứ điệp về hạn hán (Gie 14:1-22)
Khác với xứ Ai Cập nơi
mà lương thực mùa màng có được nhờ vào lượng nước tưới từ sông Nile, còn vùng
đất Ca-na-an lại phụ thuộc vào lượng mưa Chúa ban cho (Phu 11:10-12). Nếu dân Ngài vâng theo Luật pháp Ngài, Chúa sẽ ban mưa [49] và đem đến
cho họ vụ mùa bội thu (Le 26:3-5)
nhưng nếu họ không vâng lời, thì bầu trời sẽ cứng như sắt và đất sẽ rắn như
đồng (Le 26:18-20 Phu
11:13-17 28:22-24). Qua nhiều năm,
chính tội lỗi của dân Giu-đa đã đưa đến nhiều cuộc hạn hán trong xứ [50] (Gie 3:3
5:24 12:4
23:10) và tiên tri Giê-rê-mi đã dùng chính
vấn đề đau thương này nhưng đúng thời điểm để làm nền
tảng cho bài giảng của mình giảng cho dân sự.
a. Cảnh đau thương của xứ (c.1-6): Bất cứ ở thành nào (14:1-3), trang trại
(c.4) hoặc ngoài đồng (c.5-6), bất cứ nơi đâu khắp Giu-đa, thảy đều nhan nhản
cảnh khốn khó và thiếu thốn. Đất rên siếc và dân sự than khóc, như những người
ở một đám tang vậy. Do tội lỗi của dân sự, Chúa đã cầm giữ mưa và nguồn nước
đem đến sự sống - Ngài đã làm theo lời hứa trong giao ước của Ngài với dân Y-sơ-ra-ên.
Không ngoại trừ cho bất cứ một ai, cho dù bạn là người sang trọng giàu có thế
nào đi nữa thì lúc ấy vẫn không tìm được nước. Các con sông khô cạn, các giếng
không có nước và tất cả mọi người ở thành phố hay nông thôn đều che đầu mình
lại như trong một đám tang . Ngay cả súc vật cũng phải chịu đựng khốn khổ do
tội lỗi của con người gây nên. Thường thì nai cái là con vật rất gắn bó với con
mình cũng phải bỏ nai con để mặc cho khát đến chết. Những con lừa hoang, với
đôi mắt loà, cũng chỉ có thể đứng trên đồi cao nứt nẻ và vô vọng vì thèm nước.
Bước vào một mối quan hệ theo giao
ước với Chúa la một điều rất quan trọng bởi vì Chúa luôn giữ lời cho dù là chúc
phước hay sửa phạt. Nếu chúng ta là người nhận lãnh tình yêu của Chúa, chúng ta
cũng phải sẵn sàng là người nhận lãnh sự sửa trị của Ngài nếu chúng ta không
vâng lời Ngài (Ch 3:11-12). Chúa là Đấng luôn thành tín.
b. Lời nài xin của, dân sự (c.7-12): Cũng giống như phản ứng của mọi người khi gặp rắc rối,
dân Do Thái đã chạy đến Chúa và cầu
nguyện, nhưng những lời cầu xin này đều không thật lòng và không liên quan đến
một thái độ ăn năn nào cả. Tiên tri Giê-rê-mi đã phải đối diện với thái độ sùng
đạo giả hình này và tội lỗi của họ khi ông đặt câu hỏi rằng: "các ngươi há
chẳng ….sự gớm ghiếc ấy" (Gie 7:9,10).
Dân Do Thái đã cầu xin với thái độ
không ăn năn và không dựa theo lời hứa trong Giao ước của Chúa (Phu 30:1-10 IISu
7:12-15), họ cho rằng họ đã cầu xin Chúa giúp đỡ chỉ vì cớ Ngài. Họ biện
luận "Xét cho cùng, chính là Danh Chúa đang bị đe doạ, bởi vì chúng tôi
được gọi theo tên của Ngài". Họ hi vọng về Đấng Cứu Thế của Y-sơ-ra-ên chỉ
giống như mong đợi một du khách đến trong xứ mà không hề quan tâm đến tình hình
hiện tại hay sự huỷ diệt trong tương lai của họ. Trong suy nghĩ của họ lúc bấy
giờ thì Chúa chẳng khác gì một người đột nhiên bị bại liệt hoặc như một chiến
binh đã mất hết sức mạnh mà thôi.
Khi Chúa sửa phạt chúng ta, nếu
chúng ta chỉ cầu nguyện và cầu xin sự giúp đỡ của Ngài thì không đủ vì bất cứ
ai cũng có thể làm như vậy. Chúng ta phải ăn năn tội lỗi của mình, nhận biết và
xưng những tội lỗi đó ra cũng như thành thật tìm kiếm Chúa, còn sự than khóc
đau đớn vì tội lỗi gây ra chính là bày tỏ sự hối hận chớ không phải là thái độ
ăn năn. "Hãy sé lòng các ngươi và đừng xé áo các ngươi" (Gio 2:13) là lời mà tiên tri Giô-sên đã khuyên dân Do Thái khi trong xứ xảy ra một tai ương lớn. Đa-vít, khi
cầu xin Chúa tha thứ cũng đã nói rằng "Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời
ấy là tâm thần đau thương: Đức Chúa Trời ôi, lòng đau thương thống hối Chúa
không khinh dễ đâu" (Thi 51:17).
Chúa đã trả lời cho dân sự, không
phải qua việc ban mưa xuống mà bằng cách cảnh báo về sự đoán phạt! (Gie 14:10). Đây là lần thứ ba, Chúa phán bảo
Giê-rê-mi không được cầu nguyện cho dân sự (c.11 7:16
11:14). Sự nhẫn nại của Chúa đã không còn,
và Ngài quyết định đoán phạt dân sự về tội lỗi của họ. Họ đã kiêng ăn, cầu
nguyện và dâng của lễ cho Chúa nhưng những điều đó đến lúc ấy không còn làm
thay đổi quyết định của Chúa được. Đất nước sẽ bị gươm đao, đói kém, và bệnh
dịch (14:12). Đạo
quân Ba-by-lôn sẽ đem gươm đao đến và hậu quả của sự xâm chiếm tàn phá này
chính là đói kém và bệnh dịch. [51]
c. Lời phản đối của nhà tiên tri (c.13-16): Có lẽ tiên tri Giê-rê-mi đã hỏi Chúa "Nhưng đó có
phải thật sự là lỗi của dân sự? Chẳng phải dân sự đã bị những tiên tri giả,
ngườivốn hứa với dân sự thực phẩm và hoà bình dẫn đi sai đường đó sao? Chính những tiên tri giả mới là thủ phạm" (5:12
6:14 8:11).
Chúa đồng ý với Giê-rê-mi rằng đúng là các tiên tri giả đã dùng những khải
tượng, những lời nói giả dối để dẫn dân sự đi lạc lối và Ngài cũng cho
Giê-rê-mi biết chắc điều này: các tiên tri giả ấy cùng với tất cả những ai nghe
lời họ thảy đều sẽ phải nhận lãnh những gì mà bọn họ đã làm. Ngày đó sẽ tới khi
mọi người và gia đình họ sẽ bị giết và không ai được chôn cất những xác đó cả,
đây là một trong những điều sỉ nhục nhất sẽ xảy đến với dân Do Thái.
Dân sự phải chịu trách nhiệm về
những hành động của mình vì họ hẳn đã phải biết Chúa không gởi những tiên tri
này đến. Có hai điều để có thể kiểm chứng một nhà tiên tri thật trong xứ
Y-sơ-ra-ên: (1) những điều dự đoán của họ phải chính xác (Phu 8:20-22). [52] và (2) sứ
điệp của họ phải thích hợp với Luật pháp của Chúa (13:1-18). Bất cứ một tiên tri nào cho phép việc thờ hình tượng, vốn
là điều trái với Luật pháp của Chúa, đều là tiên tri giả. "Hãy
theo Luật pháp và lời chứng… rạng đông cho nó" (Es
8:20). Ngay cả khi có một người tự xưng là tiên tri và thực hiện những
phép lạ, nhưng nếu lẽ thật của Chúa bày tỏ trong Lời Ngài không giống như vậy
thì đó cũng chỉ là một tiên tri giả mà thôi. Phép lạ chưa phải là sự đảm bảo
cho một sự kêu gọi cuả Chúa (IITe 2:7-12).
d. Nỗi đau đớn và lời cầu nguyện của nhà tiên tri (c.17-22): Tiên tri Giê-rê-mi đã nghĩ gì về dân sự mình? Ông cũng
có cùng một cảm nhận như Chúa: ông khóc cho dân sự mình (Gie 9:18 13:17) cũng giống như một người cha khóc cho con
gái trong trắng của mình bị người ta nggược đãi, đánh đập và bỏ mặc cho đến
chết. Trong một khải tượng tiên tri Giê-rê-mi thấy cả xứ bị tàn phá và dân sự
bị bắt qua Ba-by-lôn (14:18) và chính điều
này đã khiến ông quay sang cầu khẩn Chúa.
Vì Chúa đã cấm Giê-rê-mi cầu nguyện
cho dân sự (14:11) cho nên, ông đã tự xem
mình đồng số phận với dân sự và xưng là "chúng tôi" chớ không phải
xưng là "họ" (Ne 1:4-10 Exo 9:1-15 Da 9:1-27
Ro 9:1-3). Khi cầu nguyện cho chính mình,
ông không quên cầu thay cho dân sự. Ông xin Chúa làm vinh hiển Danh Ngài và giữ
lời giao ước Ngài để chữa lành vết thương cho cả xứ. Mặc dù Chúa sẵn lòng giữ
lời Ngài trong giao ước nhưng dân sự lại không chịu giữ lời hứa của mình. Vì
vậy lời cầu nguyện của nhà tiên tri không được Chúa nhậm. Vì Chúa là Đấng thành
tín nên Ngài không thể làm trái lại Lời Ngài đã phán ra.
Thỉnh thoảng, Chúa cho phép những
tai họa xảy đến để khiến cả quốc gia, Hội Thánh và mỗi cá nhân ăn năn tội lỗi
mình. Những bệnh dịch xảy đến trong xứ Ê-dip-tô là để giúp cho Pha-ra-ôn biết
ăn năn tội nhưng rốt cuộc ông chỉ cứng lòng, thậm chí còn chống lại Chúa (Xu 7:1-12:50). Cách mà dân Do Thái đã đối xử với
các nước trong xứ Ca-na-an cũng là một sự đoán phạt của Chúa vì những nước này
không chịu từ bỏ tội lỗi của mình (Sa 15:16 Da 8:23 Mat 23:32-35).
Mặc dù chúng ta không nên giải thích mọi thiên tai là cơn thịnh nộ của Chúa,
nhưng chúng ta cũng phải trở nên nhạy bén với cơn giận của Ngài, sãn sàng nhìn lại
mình và xưng ra những tội lỗi của mình.
2. Sứ điệp về việc bị
bắt làm phu tù sắp tới (Gie
15:1-21)
Trước khi dân Do Thái
bước vào vùng Đất Hứa, Môi-se đã nhắc lại với dân sự những lời trong giao ước và cảnh cáo họ rằng Chúa sẽ đuổi họ ra khỏi
xứ nếu họ không vâng theo tiếng Chúa phán (Phu
28:63-68). Chẳng bao lâu sau khi Giô-suê và thế hệ kính sợ Chúa đó qua
đi (Cac 2:7-15), thì cả dân tộc liền quay
sang việc thờ hình tượng và Chúa đã phải sửa phạt họ. Ban đầu, Chúa sửa phạt họ
ngay trong xứ qua việc cho phép các nước khác tấn công và cai trị dân
sự. Về sau, khi dân sự khóc lóc kêu cầu sự giúp đỡ, Chúa đã dấy lên những người
giải cứu (c.16-23). Tuy nhiên, vào thời của tiên tri Giê-rê-mi, tội lỗi của dân
sự nhiều đến nỗi Chúa đã phải đuổi họ ra khỏi xứ và trừng phạt họ tại
nước Ba-by-lôn xa xôi.
Hai câu trả lời được ghi lại trong chương này: Chúa đáp lời cầu nguỵên của Giê-rê-mi (Gie 15:1-9) và Giê-rê-mi đáp lời Chúa (c.10-21).
a. Chúa đáp lời cầu nguyện của Giê-rê-mi (c.1-9): Bất kể là người nào lúc ấy cầu thay cho dân Giu-đa đi
chăng nữa thì cũng không thể làm lay chuyển được quyết
định của Chúa và Ngài không hế bớt nghiêm khắc. Có những thời điểm quan trọng
trong lịch sử của dân tộc Do Thái, Môi-se với Sa-mu-ên đã từng cầu thay cho dân
sự và được Chúa nhậm lời (Xu 32:1-34:35 Dan 14:1-45 ISa 7:1-17
12:1-25 Thi
99:6-8). Nhưng bấy giờ thì Chúa không còn mềm lòng với dân sự nữa. Thay
vào đó, dân Ngài phải chịu lâm vào cảnh bị bắt làm phu tù. "Hãy đuổi chúng
nó khỏi trước mắt Ta, cho chúng nó đi ra" (Gie
15:1).
Dân sự phải đối diện với
4 sự đoán phạt sẽ xảy đến: chết vì bệnh tật, chiến tranh, nạn đói hoặc nếu còn
sống sót, họ sẽ bị đày sang Ba-by-lôn [53]. Thi
thể của những người bị đạo quân Ba-by-lôn giết sẽ bị nhạo báng và bị chó, chim,
hoặc thú dữ ăn mất vì không ai trong số họ sẽ được chôn cất tử tế. Chúa đã cho
dân sự thấy một tương lai không sáng sủa gì cả nhưng đó là tương lai mà họ đã
tự chọn lấy khi họ không chịu ăn năn tội lỗi của mình. Bạn đã chọn điều bạn
muốn trong cuộc sống và bây giờ bạn phải trả giá cho điều đó.
Chúa đã chọn dân Do Thái làm một
nguồn phước cho tất cả các dân tộc khác trên khắp thế gian (Sa 12:1-3). Nhưng giờ đây, họ đã trở thành
"một dân tộc bị ném đi ném lại trong các nước"(c.4, 24:9 29:18 34:17 Phu 28:25),
một dân tộc bị nhạo báng, "một tục ngữ giữa các nước" (Thi 44:14). Không những thế, Giê-ru-sa-lem và cả
xứ đều phải chứng kiến sự đoán phạt của Chúa đối với tội lỗi của họ nữa".
Nên đất nó trở nên gở lạ…lắc đầu" (Gie 18:16
19:8 25:9,18 29:18).
Một trong những nguyên nhân đưa đến
sự đoán phạt khủng khiếp này là do Vua Ma-na-se, người đã trị vì đất nước trong
55 năm ( 697TC-642TC) và là vị vua độc ác nhất trong lịch sử của Giu-đa (IIVua 21:1-18 IISu
33:1-10). Ông là con của vua Giê-hô-gia-kim và là cháu của vua Giô-sia,
vốn là những người biết kính sợ Chúa. Tuy nhiên, chính ông lại là một người độc
ác và là người đã dung dưỡng cho đất nước Giu-đa phạm tội. Chính điều này đã
đưa tới sự sụp đổ của vương quốc Giu-đa. Chúa không phạt cả nước vì những tội
lỗi do vua Ma-na-se gây ra nhưng vì cả dân sự đều đã bắt chước vua phạm tội.
Thực ra, Đức Chúa Trời cũng than
khóc về những tai hoạ sắp đến với dân Ngài vì sự không vâng lời của họ (Gie 15:5-9). Liệu có còn ai thương tiếc cho thành
Giê-ru-sa-lem và sự phồn vinh của thành này? Nê-hê-mi đã bày tỏ sự thương tiếc
đó (Ne 1:1-3) và hàng thế kỷ sau, Chúa
Giê-xu đã khóc cho thành này (Mat 23:37).
Đối với Chúa, việc trì hoãn sự đoán phạt thành này có nghĩa là khuyến khích dân
sự phạm tội càng thêm, và đây là điều mà Ngài sẽ không làm. Ngài đã "chán
sự đổi ý" (Gie 15:6). [54]
Sự đoán phạt sắp xảy đến cũng giống
như việc phân tách hạt lúa mì với rơm rác (c.7 51:2).
Những người vợ sẽ trở nên goá bụa và các bà mẹ sẽ phải chịu mất con mình. Một
người mẹ có 7 con trai xem ra thật phước hạnh biết bao, nhưng nếu tất cả các
con trai của bà đều bị giết nơi chiến trận thì sự phước hạnh đó sẽ lụi trần tựa
hồ như việc mặt trời tắt nắng lúc ban trưa và ngày trở nên ngắn lại. Ánh sáng
của cuộc đời bà đã khép lại vì tương lai của gia đình đã bị huỷ diệt.
Chúng ta không nên nghĩ rằng Chúa
thích giáng sự đoán phạt xuống dân Ngài. Nếu Chúa không hề vui khi thấy cái
chết của kẽ gian ác thì Ngài cũng không thể vui khi đối diện với cái chết của
Dân Ngài (Exe 18:23,32). Chúa rất nhẫn nại nhưng khi dân Ngài chống
lại sự kêu gọi đầy sự vị tha của Chúa và chống nghịch
lại ý muốn của Ngài thì Ngài không còn lựa chọn nào khác hơn là phải sửa phạt
họ.
b. Giê-rê-mi đáp lời Chúa (c.10-21): Đây là lần thứ ba ghi lại lời than khóc của Giê-rê-mi (11:18-23). Nếu mẹ của
những chiến binh đã tử trận có lý do để khóc vì con mình (15:8-9) thì mẹ của tiên tri Giê-rê-mi lại càng có
lý do để khóc hơn nữa, vì dân sự đối đãi với nhà tiên tri như một kẻ thù. Những
chiến binh chết trận được xem như những anh hùng, còn tiên tri Giê-rê-mi thì bị
xem như một kẻ phản bội với chính dân tộc mình vậy. Giê-rê-mi không phải là chủ
nợ, nhưng lại cứ phải luôn đi đòi nợ các con nợ. Dĩ nhiên là mọi người rất ghét
ông. Chúa hứa sẽ giải cứu ( c.5) và Ngài đã giữ lời hứa của Ngài, Ngài đã không
hứa ông sẽ che chở cho ông thoát khỏi sự bắt bớ (12:5).
Khi chiến đấu chống lại vua Nêbucát
nết sa, Giu-đa đã bị bại trận vì không gì có thể lay chuyển nổi "tượng sắt
phương bắc" Ba-by-lôn. Giu-đa đã bị mất mọi của
cải và trở thành nô lệ cho dân Ba-by-lôn. Đây không phải là một sứ điệp bình
thường để rao giảng, và Giê-rê-mi biết rằng nó sẽ gây ra sự chống đối từ phía
những người lãnh đạo dân sự và toàn thể dân sự. Vì vậy, ông nài xin Chúa hãy
giúp ông để ông có thể tiếp tục rao giảng sứ điệp này. Ông nài xin rằng:
"Xin hãy nhớ đến tôi, thăm viếng tôi và trả thù những kẻ bắt bớ tôi”.
Gie 15:15-18 cho thấy sự xáo trộn trong tâm
trí của nhà tiên tri. Một phút trước, ông còn khẳng định về nhịn nhục của Chúa
và sự thành tín của chính mình đối vời Lời Ngài [55], nhưng một phút sau đó, ông lại khóc lóc vì đau đớn khi
thấy những cảnh khốn khó mà dân sự phải gánh chịu cũng như những gian truân mà
ông sẽ gặp phải. Thậm chí ông còn cho rằng Chúa đã dối gạt ông khi kêu gọi ông
bước vào chức vụ" (Chúa) như cái khe giả dối, cái suối tắt mạch" (c.18,
Giop 6:15-20)
Giê-rê-mi cũng chỉ là một con người
với những thiếu sót yếu đuối, nhưng ít ra ông cũng đã trung thực bày tỏ những
điểm yếu của mình với Chúa. Thay vì giả dối che đậy cảm nghĩ thật của mình, ông
lại dốc đổ lòng mình với Chúa và Ngài đã trả lời ông. Câu trả lời của Chúa có
thể khiến nhà tiên tri sững sờ nhưng Chúa lại phán rằng chính ông cần phải ăn
năn! "Nếu ngươi trở lại thì ta sẽ đem ngươi … miệng Ta" (Gie 15:19). Vì thái độ mà ông đã đối với Chúa và với sự kêu của Ngài suýt nữa thì ông đã
đánh mất chức vụ của mình. Trong một phương diện nào đó, ông đã thể hiện lời
nói, thái độ của mình như thế là của dân Giu-đa khi họ hỏi Chúa.
Đức Chúa Trời luôn luôn
tỏ sự công bằng khi Ngài lời khiển trách ai cùng với những lời hứa chắc chắn
của Ngài. Một lần nữa Chúa lại hứa sẽ khiến
Giê-rê-mi trở nên một tường thành vững bền và ông sẽ chiến thắng các kẻ thù
mình (c.20 1:18-19). Giê-rê-mi đã học biết
cách bước đi bằng đức tin, điều đó có nghĩa là ông phải vâng theo Lời Chúa mặc
cho ông đã suy nghĩ gì, nhìn thấy gì và người ta đã đối đãi với ông ra sao
chăng nữa. Chúa không bao giờ hứa với ông một công việc dễ dàng nhưng Ngài hứa
sẽ ban cho ông mọi điều có thể để giúp ông thực hiện chức vụ mình cách trung
tín.
Liệu có phải là một điều bất thường
khi những tôi tớ được Chúa chọn lựa lại trở nên nản lòng và có nguy cơ rời bỏ
chức vụ mình? Không, bởi vì những tôi tớ của Chúa vốn vẫn chỉ là con người yếu
đuối và đều bị chi phối bởi bản tính con người. Môi-se đã từng nản lòng và muốn
chết (Dan 11:10-15), Giô-suê đã sẵn sàng ý
định rời bỏ vùng Đất Hứa (Gios 7:6-11), Ê-li
đã từng rời bỏ chức vụ của mình và tuyệt vọng muốn chết (IVua 19:1-21) Giô-na cũng đã rất giận dữ đến nỗi
từ chối giúp đỡ những người mà Chúa đã sai ông phải đến để cứu họ (Gion 4:1-11). Chúa không muốn chúng ta bỏ qua
những cảm xúc của mình vì điều đó sẽ khiến chúng ta không còn giống con người
nữa. Trái lại, Chúa muốn chúng ta tin cậy Ngài sẽ thay đổi những cảm xúc ấy và
bắt đầu bước đi bằng đức tin (IICo 1:3-11)
3. Sứ điệp qua hành
động lạ lùng của Giê-rê-mi (Gie 16:1-21)
Thỉnh thoảng, để gây sự
chú ý cho dân sự, Chúa cũng sai những tiên tri của Ngài làm một vài hành động
lạ lùng. Ê-sai đã đặt cho hai con trai mình
những cái tên lạ lùng và dùng ý nghĩa của những tên ấy làm nội dung cho thông
điệp của mình (Es 8:1-23). Ong còn ăn mặc
như một tù nhân chiến tranh để nói về cuộc xung đột sắp tới (20:1-6). Xin chúng ta hãy chú ý đến nhiều
"bài giảng bằng hành động" của cả Giê-rê-mi lẫn Ê-xê-chi-ên.
a. Những sự cấm đoán của Giê-rê-mi (Gie 16:1-9): Đức Chúa
Trời đã cấm Giê-rê-mi không được tham dự vào 3 hoạt động bình thừơng và được
mọi người chấp nhận, đó là cưới hỏi, than khóc cho người chết và dự những buổi
tiệc. Tất cả những đàn ông Do Thái đều được cưới vợ ở tuổi 20. Thật ra, các
giáo sĩ Do Thái giáo còn rủa sả những ai không chịu lấy vợ và sinh con. Dĩ
nhiên, Giê-rê-mi chắc hẳn đã rất tán thưởng việc có một người vợ yêu thương
khích lệ ông nhưng ơn phước này đã không thuộc về ông. Khi nhìn lại những thử
thách Giê-rê-mi đã chịu đựng và những điều kẻ thù đã gây ra cho ông, chúng ta
nhận thấy rằng Giê-rê-mi tốt hơn không nên có vợ. Mặc khác, hành động từ chối
kết hôn của ông cũng có một ý nghĩa nhất định vì tất cả con trai, con gái của
mọi gia đình Do Thái đều sẽ bị giết bởi gươm đao hay bị đói khát cho đến chết
khi đạo quân Ba-by-lôn xâm chiếm xứ . Mỗi khi có ai hỏi Giê-rê-mi vì sao ông
không lấy vợ, ông lại có cơ hội để chia sẻ sứ điệp của Chúa về sự đoán phạt sắp
xảy đến.
Dân Do Thái trong thời
bấy giờ được xem là những người chuyên than khóc và cưới hỏi thế nhưng riêng
Giê-rê-mi lại bị cấm không được tham gia vào các đám tang, đám cưới hay những
bữa tiệc tùng liên quan đến những lễ lạc này. Hành động lạ thường nói lên điều
gì với dân sự? Trước hết, Chúa sẽ cất sự bình an và thịnh vượng ra khỏi vương
quốc này. Ngoài ra, sự đoán phạt sắp đến sẽ khinh khủng đến nỗi không ai còn có
thể bày tỏ nỗi khổ đau của mình nữa. Sẽ có quá nhiều xác chết đến nỗi số người
sống sót còn lại quá ít ỏi nên họ chẳng tài nào chôn cất người chết cho xuể.
Còn về những tiệc cưới,
làm sao mọi người có thể tổ chức lễ cưới giữa lúc đám mây của sự huỷ diệt đang
treo lơ lửng trên đầu họ như thế? Ngày đoán phạt đó sẽ đến và tiếng reo vui
hạnh phúc của cô dâu, chú rể sẽ không còn nữa. Thực vậy, những niềm vui, hạnh
phúc sẽ không còn tồn tại trong xứ. Những người bị bắt đi đày sẽ tạo thành một
đám tang và đi đến Ba-by-lôn.
b. Lời giải thích của tiên tri Giê-rê-mi (16:10-13,16-18): Việc dân sự đặt câu hỏi tại sao
Chúa lại giáng một sự đoán phạt khủng khiếp như thế cho dân sự Ngài là một điều
lạ. Chắc chắn rằng dân sự biết rõ những lời trong giao ước Ngài và trong một
chừng mực nào đó, họ cũng phải nhận biết tội lỗi mình, thế nhưng họ lại để cho
những tiên tri giả dẫn dụ đi sai đường và cảm thấy hoàn toàn bình thường trong
tội lỗi vì sự nhận thức của họ đã không còn nữa. Nội dung những thuyết thần học
khác với các lẽ thật trong Kinh Thánh đã tạo cho họ một sự yên tâm giả tạo rằng
Chúa không bao giờ từ bỏ dân Ngài hay cho phép dân ngoại phỉ báng thành thánh
và đền thờ. Họ đã sai lầm biết bao!
Lời giải thích của tiên
tri Giê-rê-mi thật đơn giản: họ đã dẫm lại vết xe đổ lỗi lầm của cha ông mình
thay vì lắng nghe Luật pháp của Chúa và tránh xa tội lỗi. Ngoài ra, họ lại
không chịu học hỏi gì qua những sự đoán phạt trong quá khứ của Chúa. Điều này
đã khiến họ nặng tội hơn cả cha ông mình. Chẳng phải đế quốc A-si-ri đã chiếm
lấy vương quốc Y-sơ-ra-ên ở phía Bắc và bắt dân sự làm phu tù vì tội thờ hình
tượng đó sao? Chẳng phải những tiên tri trước đây đã từng rao giảng Lời Chúa và
cảnh báo dân sự?
Tiên tri Giê-rê-mi đã dùng một vài
hình ảnh để miêu tả việc dân sự sẽ bị bắt làm phu tù. Động từ "ném" (Gie 16:13) được dùng để nói về hành động phóng một
ngọn giáo hay khiến nổi một trận bão lớn (Gion 1:4).
Chúa đã dùng vũ lực để đuổi dân Ngài và để đất được chữa lành và cả đất nước
được thanh tẩy (IISu 36:14-21). Giê-rê-mi
cũng dùng hình ảnh ẩn dụ của việc đánh cá, săn bắn và gởi tiền bạc (Gie 16:16-18). Dân Ba-by-lôn ssẽ tung lưới ra để
bắt dân Do Thái (Exe 12:13) và không một
"con cá" nào có thể thoát được cả. Nếu có ai cố trốn trên các đồi,
những người đánh cá sẽ trở thành những thợ săn và bắt họ xuống. Tại sao vậy?
Bởi vì dân sự đã mắc một món nợ lớn với Chúa về cách họ đối đãi với Luật pháp
của Chúa và với xứ của Ngài. Bây giờ "tờ hoá đơn nợ " đã được thanh
toán. "Trước hết ta sẽ báo sự gian ác nó gấp hai" (Gie 16:18). Điều này có
nghĩa là sự đoán phạt của Chúa sẽ rất rộng và triệt để.
c. Lời yên ủi của tiên tri Giê-rê-mi (Gie 16:14-15): Trong cơn giận, Chúa vẫn nhớ đến sự thương xót (Ha 3:2) và tiên tri Giê-rê-mi đã báo cho mọi người
một thông điệp của hi vọng : những người bị lưu đày một ngày nào đó sẽ được trở
về xứ của mình. Sự giải cứu này vĩ đại đến nỗi được xem như một cuộc "hồi
hương thứ hai". Vinh quang của cuộc hồi hương này sẽ chói lọi hơn vinh
quang của cuộc trở về thứ nhất từ Ai Cập của dân Y-sơ-ra-ên trước đó. Về sau,
Giê-rê-mi giải thích rằng dân sự sẽ bị lưu đày ở Ba-by-lôn trong 70 năm (Gie 25:1-37) và số người sống sót rồi đây sẽ được
hồi hương để xây dựng lại đền thờ và lập lại đất nước (23:3
31:7-9). Họ sẽ trở về như những người đã bị
đuổi đi và sẽ không bao giờ trở lại với các thần tượng của các nước ngoại bang.
d. Lời cam đoan của Giê-rê-mi (16:19-21): Trong niềm vui sướng với niềm tin nồng
cháy của người làm tiên tri, Giê-rê-mi thấy khải tượng không chỉ có những người
còn sống sót tụ hội lại mà cả những người từ các dân ngoại khác nhau từ cùng
trời cuối đất cũng họp nhau lại để thờ lạy Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật
của Y-sơ-ra-ên. Tiên tri Ê-sai và Ê-xê-chi-ên cũng có cùng một khải tượng (Es 2:1-5 11:10-16
45:14 Exe
8:20-23). Các dân ngoại sẽ xưng nhận tội thờ hình tượng của mình và nhìn
nhận rằng các thần tượng đều vô giá trị cả. Họ sẽ được dạy dỗ để được biết về Đức Chúa Trời. Trong lúc đó, nhiệm vụ
của Hội Thánh ngày nay là rao truyền Phúc âm cho đến tận cùng trái đất để tội
nhân có thể từ bỏ những thần tượng giả dối, là bất kỳ những thần tượng nào và
tin cậy nơi Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế cho thế gian.
4. Sứ điệp về tội lỗi
của Giu-đa (Gie 17:1-27)
Một ngày chủ nhật nọ,
tổng thống Calvin Cooldge trở về nhà sau khi đi nhà thờ và vợ ông hỏi "Hôm
nay ông mục sư đã giảng về đề tài gì vậy?". Calvin đáp: "Về tội
lỗi". Sau đó, vợ ông hỏi tiếp "Thế mục sư nói gì về tội lỗi?"
"Mục sư đã kịch liệt chống đối tội lỗi". Calvin trả lời.
Tiên tri Giê-rê-mi cũng
đã chống lại tội lỗi của dân sự và trong chương này ông đã đề cập đến sáu tội
sau đây:
a. Tội thờ hình tượng (c.1-4): Thay vì hết lòng và vâng phục Đức Chúa Trời Hằng Sống
chân thật là Đấng ban phước lành cho họ, người Do Thái lại đi thờ phượng những
thần tượng của các dân tộc lân cận và lập những thần giả dối này lên cao hơn
Đức Giê-hô-va. Tại các nơi cao trên đồi, dân sự xây những đền thờ cho những
thần khác nhau và dựng những tượng khiêu dâm của nữ thần A-sê-ra . Điều này đã
làm ô uế đất, vốn là sản nghiệp quý báu mà Đức Giê-hô-va đã để lại cho họ,
nhưng vì tội thờ hình tượng nên họ đã bị mất cả xứ. Họ sẽ mất mọi thứ và tất cả
đều do lỗi của họ.
Thay vì Luật pháp thánh khiết của Đức Chúa Trời được ghi khắc
trong lòng họ thì nơi đó chỉ có tội lỗi ngự trị (Ch
3:3 7:3 Phu
6:6 11:18 IICo
3:1-3). Chúng ta có thể quên những tội lỗi của mình nhưng tội lỗi thì
không bao giờ quên chúng ta. Tội lỗi ngự trị trong lòng chúng ta cho đến khi
chúng ta nài xin Đức Chúa Trời tha thứ. Ngài sẽ tẩy sạch tấm lòng chúng ta và
khiến chúng trở nên mới. (IGi 1: 9 He 10:15-18).
Lời khiển trách cuối cùng của sứ đồ
Giăng đối với các tín hữu trong thư tín đầu tiên của ông là: "Hỡi các con
cái bé mọn, hãy giữ mình về hình tượng" (IGi
5:21). Thời đó đã có rất nhiều hình tượng. Xã hội chúng ta ngày nay cũng
đang tồn tại rất nhiều thần tượng, chẳng hạn như tiền bạc, của cải, danh vọng,
"sự thành đạt", quyền lực, thú vui, tiện nghi v. v…và nhiều nữa. Bất
cứ điều gì chúng ta yêu thương, tin cậy hơn Đức Chúa Trời Hằng sống, chân thật
vốn là Chúa là Cha của Chúa Giê-xu Christ chúng ta
thì đó đều là thần tượng cần được loại bỏ khỏi tấm lòng chúng ta.
b. Sự vô tín (c.5-10): Những người đứng đầu Giu-đa có khuynh hướng tin cậy vào
các liên minh chính trị và nhờ cậy xác thịt
hơn là nương tựa nơi năng quyền của Chúa. Để nhấn mạnh những điểm khác nhau,
Giê-rê-mi đưa ra sự đối lập giữa hai hình ảnh là thạch thảo trong sa mạc và một
cây sai trái gần bờ suối (Thi 1:3-4). Sự vô
tín sẽ biến đời sống thành một hoang mạc nóng bỏng còn đức tin sẽ đem lại một
đời sống như một vườn cây sai trái. Chẳng bao lâu, đạo quân Ba-by-lôn sẽ tràn
vào vương quốc Giu-đa và sẽ biến vùng đất đượm sữa và mật trở thành hoang mạc.
Điểm mấu
chốt của mỗi vấn đề là ở tấm lòng. Tấm lòng con ngươi thì hay dối gạt. Tiếng
Hê-bơ-rơ gọi là “Jacob” và không thể chữa được. Chúng ta vẫn thường nói rằng:
"À, tôi biết lòng tôi mà!" nhưng thực sự chúng ta chẳng biết tấm lòng của chính mình. Chỉ có Chúa mới biết. Ngài dò xét lòng trí và
biết tấm lòng chúng ta ra sao. Chúng ta phải đọc Lời Chúa và để Thánh Linh dẫn dắt chúng ta. Tấm lòng của những
người đứng đầu Do Thái đã rời xakhỏi Đức Chúa Trời và lẽ thật của Ngài. Hậu quả
là, họ đã có những quyết định thiếu khôn ngoan và đưa dân tộc đến chỗ diệt
vong.
Dân Do Thái có tiếng là
vô tín. Chính thái độ vô tín đã dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi vùng Dất Hứa ( Dân
số 13-14). Chính sự vô tín đã xúi giục thờ hình tượng và nhận lấy sự đoán phạt
từ nơi Chúa trong thời kỳ các quan xét. Trong suốt thời kỳ lập vương quốc,
chính thái độ vô tín đã khiến những người lãnh đạo dân sự không chịu ăn năn
quay về với Chúa để cầu xin sự vùa giúp của Ngài. Sau đó, họ đã phải trả một
giá quá đắt cho việc liên minh chính trị với các nước: A-si-ri, Ai Cập và
Ba-by-lôn. Vậy liệu họ đã rút ra được bài học gì qua vấn đề này?
c. Lòng tham (c.11): Trong những ngày
hỗn loạn này, bọn người giàu lợi dụng cơ hội cố bóc lột kẻ nghèo và trở nên
giàu hơn. Trong khi đó, các quan toà cũng chẳng can thiệp gì vào điều này.
"Trong vòng họ, từ kẻ rất nhỏ cho đến người rất lớn đều tham lam" (Gie 6:13).
Giê-rê-mi đã trích dẫn một câu thành ngữ rất quen thuộc về chim đa đa. Loài
chim này thường ấp trứng không phải do nó đẻ ra để
rồi sau đó bầy chim con do nó ấp nở ra sẽ bỏ nó lại mà bay đi. Đây là một hình
ảnh minh hoạ cho việc của cải vật chất của những kẻ giàu có là những người đã
làm giàu bằng con đường bất chính sẽ bị bỏ lại. Liệu những của cải ấy phỏng có
ích gì cho họ khi sự đoán phạt giáng xuống khắp xứ ?
d. Từ bỏ Đức Chúa Trời (c.12-13): Ngôi nước Giu-đa đã bị tội lỗi xâm phạm làm cho ô nhơ
và bị sự xấu hổ bao phủ, dẫu thế ngôi của Chúa vẫn cứ mãi vinh hiển và luôn được tôn cao. Dân Do Thái cho rằng hòm giao ước được đặt
trong nơi chí thánh chính là ngôi cuả Chúa (Thi
80:1 99:1) nhưng ngay cả khi đền thờ
bị phá huỷ , ngôi trên thiên đàng của Ngài vẫn còn mãi đến đời đời (Es 6:1). Chúa không bao giờ bỏ rơi dân Ngài, trái
lại chính dân sự đã từ bỏ Ngài. Đây là lý do tại sao Giu-đa phải đối diện với
một sự đoán phạt khủng khiếp như vậy. Thay vì được ghi tên vào Sách Sự Sống thì
những người từ bỏ Chúa sẽ được ghi vào bụi đất - nơi tên tuổi của họ sẽ bị tiêu
huỷ và bị diệt vong cùng với họ (Xu 32:32 Thi 69:28 Phi 4:3).
e. Chống đối tôi tớ Chúa (c.14-18): Đây là lần thứ tư tiên tri Giê-rê-mi cầu nguyện xin
Chúa giúp đỡ và đây là lần ông nhấn mạnh đến việc xin Chúa sự giải cứu ông
thoát khỏi những kẻ thù nghịch. Mọi người gọi ông là tiên tri giả và không
ngừng hỏi về thời điểm sự đoán phát khủng khiếp sẽ xảy ra. Họ không nhận ra
rằng sự lần lữa của Chúa chính là cơ hội cho
dân tộc ăn năn để được cứu khỏi sự hủy diệt. Trừ phân đoạn Gie 15:15-21 có nội dung
ghi lại nghi thái độ nghi ngờ của Giê-rê-mi, ngoài ra, chúng ta thấy ông đã
không còn tìm cách chạy trốn khỏi trách nhiệm và trễ nải trong việc rao báo lời
Chúa cho dân sự nữa. Đồng thời, Giê-rê-mi vẫn luôn cần đến sự trợ giúp cũng như
sự bảo vệ của Chúa và Chúa đã đáp lời cầu nguyện của ông.
f. Vì xúc phạm đến ngày Sa-bát (c.19-27): Chúa đã lập và ban
cho dân Y-sơ-ra-ên ngày Sa-bát như một dấu chỉ đặc biệt về mối tương giao giữa
Chúa và dân sự (Xu 16:29 20:8-11 31:13-17).
Đó là ngày nghỉ của mọi người, súc vật và của cả đất. Tuy nhiên, dân sự đã
nhiều lần coi thuờng Luật pháp và xem ngày Sabát cũng giống như những ngày
thường khác. Tội lỗi của họ là một bằng chứng cho
thấy rằng tấm lòng của dân sự chỉ hướng về của cải chớ không hướng về Chúa.
Vâng giữ ngày Sa-bát một
cách máy móc cũng không phải là điều Chúa muốn. Điều Ngài muốn chính là sự vâng
giữ phải xuất phát từ tấm lòng yêu mến và kính sợ Ngài thực sự. Giá như dân sự,
đã hết lòng vâng giữ tất cả Luật pháp của Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ ban phước cho dân sự, vua
và thành của họ. Tuy nhiên, nếu dân sự cứ tiếp tục bất tụân Luật pháp và vi
phạm ngày Sa-bát thì Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt họ bằng cách huỷ diệt thành và
đền đài của họ. [56]
Tiên tri Giê-rê-mi vẫn
trung tín và can đảm trong việc giảng dạy; ông dâng lời nài xin Chúa; đau buồn
trườc tội lỗi của dân tộc, thế nhưng dân sự vẫn một mực cứng lòng và bướng bỉnh
chống nghịch lại lẽ thật của Chúa.
Sống giữa một thời đại
đầy dẫy những con người thờ ơ, do dự, Giê-rê-mi lại tỏ ra là một người luôn có
lòng cưu mang tha nhân và có quyết định dứt khoát nên ông đã được Chúa đã tôn
cao. Nói theo phương diện loài người, chức vụ của Giê-rê-mi là một sự thất bại
nhưng theo quan điểm thuộc linh, ông là người hầu việc Chúa thành công vượt
bậc. Ngày nay, Hội Thánh và đất nước chúng ta hiện đang rất cần đến những người
nam, người nữ có phẩm chất như tiên tri Giê-rê-mi vậy. Sẽ có một giá phải trả
nhưng cũng có một mão triều thiên để giật được.
6. NHÀ TIÊN TRI, NGƯỜI
THỢ GỐM VÀ NGƯỜI BẢO VỆ ĐỀN THỜ (Gie 18:1-20:18)
"Đất
sét tự thân nó không có một chút đẹp đẽ nào cả, nhưng khi nó được người thợ gốm
chạm bàn tay khéo léo và truyền tải, thể hiện ý tưởng của ông ta qua nó thì lúc
đó sẽ xảy ra một sự chuyển hoá thực sự” J. Willbur Chapman [57]
Nhà tiên tri mà chúng ta
đang đề cập ở đây dĩ nhiên chính là Giê-rê-mi. Chúng ta không biết người thợ
gốm là ai mặc dù người thợ này giữ một vai trò rất quan trọng trong vở kịch
này. Người bảo vệ đền thờ chính là Pha-su-rơ, ấy cũng chính thầy tế lễ chịu
trách nhiệm về vấn đề an ninh của đền thờ có nhiệm vụ bảo đảm trật tự tron đền
thờ và bắt phạt những kẻ quấy rối. Do Pha-su-rơ xem tiên tri Giê-rê-mi như một
kẻ quấy rối nên đã bắt cùm ông lại suốt một đêm .
Tiên tri Giê-rê-mi là
nhân vật chính trong vở kịch dài 3 hồi này.
1. Giê-rê-mi , nhà tiên
tri bị đe dọa (Gie 18:1-23)
Những sự kiện này có lẽ
xảy ra vào thời vua Giê-hô-gia-kin , người đã đốt sách tiên tri của Giê-rê-mi.
Khác với cha mình là vua Giô-sia, vua Giê-hô-gia-kim không hề yêu mến Đức Chúa
Trời hay tiên tri của Ngài. Vua cũng không quan tâm chút nào đến những điều
tiên tri Giê-rê-mi nói về mặt chính trị hay thuộc linh.
a. Quyền tể trị của Chúa (c.1-17): Trong số từ vựng Hê-bơ-rơ thì đã có hơn 30 từ đề cập
trực tiếp đến nghề gốm, vì đây là nghề chủ yếu của khu vực Cận Đông vào thời
đó. Có lẽ Giê-rê-mi đã đi ngang qua nhà người thợ gốm rất nhiều lần, nhưng lần
này Chúa đã gởi một thông điệp đặc biệt cho nhà tiên tri đến nỗi sau khi rao
giảng xong ông đã bị bắt giam vì cớ thông điệp ấy. Khi bước theo Chúa, bạn sẽ
không bao giờ biết được điều gì sẽ xảy đến với bạn tiếp theo.
Charles E. Jefferson
từng viết: "Giê-rê-mi đã không nhận được một sự mặc khải khi đang cầu
nguyện nhưng lại nhận được khi nhìn người thợ gốm làm công việc của mình. Chúa
thường bày tỏ chính mình Ngài tại nhửng nơi rất lạ lùng và vào những thời điểm
rất đặc biệt. Chẳng hạn như đã có lần Chúa bày tỏ chính Ngài trong một chuồng
ngựa” [58]
Người thợ gốm ngồi trước
hai bánh xe làm bằng đá song song được nối với nhau bằng một trục. Ông ta dùng
chân để quay bánh xe dưới và nhào nặn đất sét ở bánh xe trên. Khi đứng nhìn,
Giê-rê-mi nhận thấy đất sét không theo bàn tay của người thợ gốm nên bình bị vỡ
[59], thế nhưng người thợ vẫn rất nhẫn nại nhào nặn đất sét để làm một
cái bình khác.
Đây là một hình ảnh mang tính dân tộc, liên quan đến nhà
Y-sơ-ra-ên (c.6-10) nhưng vẫn có ứng
dụng cho mỗi cá nhân (c.11-17), kêu gọi
lời đáp trả từ dân Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. Lời kêu gọi đó cũng cần lời đáp trả của mỗi chúng ta ngày nay.
LỜI GIẢI THÍCH (Gie 18:5-10) Giống như
người thợ gốm có quyền trên đất sét, Đức Chúa Trời cũng có quyền trên các dân
tộc [60]. Điều này không có nghĩa là Chúa vô trách nhiệm hay tuỳ
hứng trong những việc Ngài làm mặc dù Chúa có quyền hành động theo ý
thích. Việc làm của Ngài luôn thể hiện tính nhất quán với bản chất của Ngài vốn
là thánh khiết, công bình, khôn ngoan, và yêu thương. Chúa không cần một lời
khuyên nào của Chúng ta hay chúng ta cũng không có quyền gì để chỉ trích những
việc Chúa làm. "Vì ai biết ý tưởng Chúa …Ngài ?" (Ro 11:34 Es 40:13
Gie 23:18) "Nhưng …như vậy?" (Ro 9:20)
Đức Chúa Trời đưa ra hai cảnh tượng
để minh hoạ cho quyền tể trị của Ngài trên các nước (Gie
18:7-10). Nếu Chúa đe dọa sẽ đoán xét một dân tộc và dân tộc đó
biết ăn năn, Ngài sẽ rút lại sự đoán phạt. Chúa đã làm như vậy với thành
Ni-ni-ve khi lời giảng dạy củ Giô-na đã khiến thành này ăn năn (Gion 3:1-10). Mặt khác. Chúa cũng hứa sẽ chúc
phước cho một dân tộc nào đó như Ngài đã làm với dân Y-sơ-ra-ên theo như
giao ước của Ngài. Nhưng nếu dân tộc ấy đã làm điều
ác trước mặt Ngài thì Chúa ắt sẽ rút lại sự ban phước và giáng sự đoán
phạt trên họ. Chúa không cần phải thay đổi bản tính của Ngài hay hối hận về
những điều Ngài làm (Ma 3:6 Dan 23:19) nhưng Ngài có
quyền tự do tể trị và thay đổi những hành động của Ngài tuỳ theo sự đáp ứng của
dân sự.
Chắc chắn, có một bí ẩn
trong mối quan hệ giữa quyền tể trị của Chúa và trách nhiệm của con người,
nhưng chúng ta không cần phải giải thích ý muốn của Chúa trước khi chúng ta
vâng theo. Chúng ta cần sống bằng những lời hứa và qui luật thuộc linh chớ
không phải bằng những lời giải thích thần học và không bắt buộc Chúa phải giải thích điều gì cho chúng ta. (Giả định, nếu Chúa có
giải thích thì chắc chúng ta cũng không thể hiểu được!) “Những sự bí mật thuộc
về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta; song những sự bày tỏ thuộc về chúng ta, và
con cháu chúng ta đời đời, để chúng ta làm theo mọi lời của luật pháp
này"(Phu 29:29) Chúa Giê-xu hứa rằng
nếu chúng ta vâng theo những điều chúng ta biết, Chúa sẽ bày tỏ nhiều lẽ thật
của Ngài hơn cho chúng ta.(Gi 7:17)
ỨNG DỤNG (Gie 18:11-17) Các dân tộc được tạo thành từ những
cá nhân và mỗi cá nhân có thể nhận lãnh hay chống nghịch lại Lời Chúa. Thật
vậy, con người được tạo nên từ bụi đất (Sa 2:7)
và sống trong một thể xác yếu ớt (Giop 4:19 10:9 IICo 4:7).
Tuy nhiên, không giống như đất sét trong tay người thợ gốm, con người chúng ta
có khả năng chống nghịch. Chúa dùng nhiều bàn tay khác nhau để uốn nắn cuộc
sống của chúng ta chẳng hạn như cha mẹ, con cái, thầy cô, mục sư và nhà văn và
chúng ta vẫn có thể chống lại họ. Nhưng nếu chúng ta
làm như vậy, tức là chúng ta chống lại chính Chúa.
Đức Giê-hô-va phán rằng
Ngài sẽ “gây” tai vạ (Theo tiếng Hê-bơ-rơ thì từ “gây” đồng nghĩa với từ “sửa
soạn” và “nhào nặn” là những từ có liên quan đến từ “người thợ gốm” để chống
lại vương quốc Giu-đa. Tuy nhiên, nếu mọi người ăn năn, Chúa sẽ giải cứu họ.
Nhưng dân sự đã lún quá sâu vào tội lỗi đến nỗi họ đã chọn đi theo những dự
tính tội lỗi của bản thân mình. Họ thà thờ phượng những thần tượng chết và chịu
đựng vì nó hơn là hầu vịêc cho Đức Chúa Trời Hằng sống chân thật cũng như hưởng những ơn phước của Ngài! Thật vậy, lòng
người ta là dối trá và thật độc ác (Gie 17:9)
Khi chống nghịch lại Chúa và lực
chọn những thần tượng câm điếc, dân Giu-đa đã hành động trái ngược lại những
điều cho phép. Chúa đã tạo dựng họ cho Ngài, và họ không thể thành công khi
tách rời khỏi Ngài. Chim chóc còn biết vâng lời theo những điều Ngài bảo chúng
(8:7). Ngay cả những dân ngoại cũng không
chịu từ bỏ thần tượng của mình cho dù họ đều biết đó chỉ là những thần giả dối.
Nước trong thiên nhiên luôn luôn có tính chất cố định như: khi ở trên cao thì
nước đóng băng còn lúc ở dưới thấp thì nước chảy
thành dòng suối. Tuy nhiên, dân sự của Chúa lại thường tỏ ra bất định. Họ sẵn
sàng nhận lãnh những ơn phước của Chúa nhưng lại không bằng lòng vâng theo Luật
pháp của Ngài, Đấng tể trị trên mọi ơn phước. Nếu thiên nhiên cũng có phản ứng
như thế thì chúng ta sẽ ở đâu?
Thay vì bước đi với Chúa trên con
đường an toàn và ngay thẳng của sự thánh khiết (Es
35:8), dân sự lại đang đi trên con đường vòng nguy hiểm đầy khổ đau vì
họ đã từ bỏ con đường của tổ phụ là con đường đi theo Luật pháp thánh của
Chúa.Vì dân sự không ăn năn, nên Chúa đã đoán phạt họ; điều này có nghĩa là đất
sẽ bị huỷ diệt và dân sự sẽ bị đày đi nơi khác.Thay vì mặt Chúa sẽ chiếu sáng
trên dân sự và chúc phước cho họ thì giờ đây Ngài quay lưng lại với họ và bỏ
mặc họ bước theo ý riêng của mình.
Giống như người thợ gốm nhẫn nại
kia, Chúa cũng luôn sẵn lòng "nhào nặn" chúng ta trở lại khi chúng ta chống nghịch và tự huỷ diệt cuộc
sống. Một nhà truyền giáo nổi tiếng người Scotland đã từng nói rằng cuộc sống
Cơ đốc nhân đắc thắng là "một chuỗi những khởi điểm". Không có một
thất bại nào trong cuộc sống chúng ta phải là kết thúc của mọi sự, mặc dù, dĩ
nhiên chúng ta sẽ phải chịu đau đớn vì cớ tội lỗi mình. Chúa đã dành cho
Áp-ra-ham, Môi-se, Đa-vít, Giô-na và Phi-e-rơ nhiều khởi điểm mới khi họ thất
bại. Ngài vẫn làm như vậy đối với chúng ta ngày nay.
b. Âm mưu của kẻ thù (c.18): Những tội nhân kiêu ngạo thường không thích nghe về quyền
tể trị của Chúa hoặc sự đe doạ về một sự đoán phạt sắp đến. Họ cho rằng bằng
cách bịt miệng tiên tri của Chúa thì họ sẽ làm ngưng
đựợc tiếng phán của Ngài. “. “Đấng ngự trên trời sẽ cười, Chúa sẽ nhạo báng
chúng nó” (Thi 2:4). Họ biện luận rằng
"chúng ta có rất nhiều thầy tế lễ, tiên tri, và các trưởng lão. Vì vậy,
chúng ta có thể làm mọi thứ mà không cần đến Giê-rê-mi"
Đây không phải là lần đầu tiên tiên
tri Giê-rê-mi đối diện với một âm mưu đe doạ mạng sống và chức vụ của ông (Gie 11:18-23 12:6
15:15) và đây cũng không phải là lần cuối
cùng. Những kẻ thù của ông dự định một "chiến dịch bôi nhọ" gồm toàn
những lời vu cáo dối trá về Giê-rê-mi (9:3).
Am mưu đó có lẽ là việc lợi dụng ngay những lời trích dẫn từ các bài giảng của
ông để ghép tội ông là một kẻ phản bội vương quốc Giu-đa. Cũng giống như những
người lập mưu chống lại Chúa Giê-xu, những kẻ thù của Giê-rê-mi đã cố gắng
chứng minh rằng ông đã vi phạm luật pháp và đã sách động dân chúng (Lu 23:1-7).
Những tôi tớ trung thành
của Chúa không thích sự chống đối nhưng họ phải biết dự đoán trước. Chúa Giê-xu
đã phán "Các ngươi sẽ cósự hoạn
nạn trong thế gian nhưng hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thếgian rồi" (Gi 16:33). Ngài cũng phán rằng "Ví bằng người
đời ghét các ngươi, thì hãy biết rằng họ đã ghét ta trước các ngươi” (15:18). Sứ đồ Phao-lô cũng nhắc nhở Ti-mô-thê và
chúng ta "Vả lại, hết thảy mọi người mou61n sống cách nhơn đức trong Đức
Chúa Giê-xu Christ, thì sẽ bị bắt bớ" (IITi
3:12)
c. Nỗi thống khổ của nhà tiên tri (Gie 18:19-23): Đây là lần thứ năm tiên tri Giê-rê-mi "than
khóc" riêng tư với Chúa về hoàn cảnh và chức vụ của ông (Gie 11:18-23 12:1-5
15:10-18 17:14-18
20:7-18). Lời lẽ của nhà tiên tri dường như
thật khó nghe đối với chúng ta và khác với tinh thần của Chúa Giê-xu. Tuy
nhiên, hãy nhớ rằng Giê-rê-mi là một tiên tri được Chúa chọn, người đại diện
cho Ngài trước mặt dân sự. Những ai chống lại Giê-rê-mi là chống lại Chúa và
Giê-rê-mi cầu xin Chúa đối diện với chúng (Phu
32:35 Ro 12:17-19)
Tương tự Ê-sai và những tiên tri
khác, Giê-rê-mi vốn là " gười yếu đuối như chúng ta" (Gia 5:17) và ông thật sự đau đớn khi nhìn thấy
những nhà lãnh đạo chống lại lẽ thật. Giả sử rằng bạn và tôi bị những kẻ ghét
chúng ta hãm hại bằng cách nói xấu, lập mưu và đào huyệt chôn chúng ta, chúng
ta cũng sẽ rất bối rối và chắc sẽ xin Chúa đối diện với họ. Ít ra, Giê-rê-mi
cũng đã bày tỏ chính mình thật lòng với Chúa và để Ngài giải quyết mọi việc.
Ong buộc phải nhớ đến lời hứa của Chúa khi Ngài kêu gọi ông (Gie 1:7-10,17-19) và an lòng trong sự tin chắc rằng Chúa sẽ
giúp ông vượt qua.
Thái độ tức giận đối với tội lỗi là
thái độ đúng và được Chúa chấp nhận "đang khi nổi giận thì chớ phạm
tội" (Eph 4:26 Thi
4:4) "Hỡi những kẻ yêu mến Đức Giê-hô-va hãy ghét sự ác" (Thi
97 :10). Chúa Giê-xu tức giận trước thái độ cứng lòng của những kẻ chỉ trích
Ngài (Mac 3:5) và Phao-lô tức giận khi những
tín hữu lâu năm lại dẫn dắt những người khác đi sai đường "Nào có ai vấp
ngã mà tôi chẳng như nung như đốt?" (IICo
11:29). Cơn giận sai thường là cơn giận kèm theo hành động hồ đồ khiến
kẻ giận cố sức tìm cách huỷ diệt những ai cáo buộc và chống đối mình. Trong khi
đó, cơn giận đúng là cơn giận biết giao phó nan vấn đề cho Chúa giải quyết và tìm
cách giúp đỡ kẻ cáo buộc. Cơn giận vì tình yêu thương
làm chúng ta khổ tâm biết bao, và để giữ được đời sống thánh khiết luôn luôn
không phải là chuyện dễ. Nếu Giê-rê-mi tỏ ra quá tức giận đối với chúng ta, thì
e rằng sẽ có một số người trong chúng ta lại không nỡ tức giận đối với tội ác
trong thế gian này. Nhờ vào phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta được biết
đến quá nhiều bạo lực và tội ác đến nỗi chúng ta có khuynh hướng xem nó như
những việc bình thường của cuộc sống và không muốn thay đổi gì về những điều đó
cả. Đấu tranh là con đường đưa đến sự dàn xếp nhưng đó không phải là giải pháp
hoàn toàn đúng đắn mà đó có thể chỉ là những ý tưởng giáo điều, máy móc hoàn
toàn phủ Kinh Thánh.
2. Giê-rê-mi, nhà tiên
tri bị bắt bớ (Gie 18:1-23) (Gie 19:1-20:6)
Đề tài liên quan đến
người thợ gốm vẫn được tiếp tục với một "bài giảng bằng hành động"
khác của Giê-rê-mi, một bài giảng đã khiến cho nhà tiên tri bị đánh đập và phải
trải qua một đêm trong gông cùm.
a. Giê-rê-mi giảng dạy (19:1-9): Theo lời Chúa phán, Giê-rê-mi đi đến nhà
người thợ gốm lần thứ hai. Lần này ông đến với tư cách là một khách hàng chớ
không phải là một người đứng xem nữa và đi cùng với ông còn có một vài vị
trưởng lão người Do Thái. Đây quả là một bằng chứng
về đức tin của Giê-rê-mi khi ông sẵn sàng đi cùng với những vị trưởng
lão và ông đã dạn dĩ tuyên bố trước sự hiện diện
của những người này rằng một thảm hoạ sẽ đến trong xứ do tội lỗi của
họ gây ra cho dù ông biết rõ bọn họ đang có âm mưu độc ác chống lại ông. Chắc
chắn rằng lời cầu nguyện của ông với Chúa đã khiến ông có thêm sự bình an và
lòng can đảm.
Cổng thành phía đông là cổng Bốt-sơ,
nơi những thợ gốm làm việc và những bình gốm vỡ bị bỏ ra ngoài. Nơi đây nhìn ra
Thung lũng Hi-nôm, là nơi chứa rác của Giê-ru-sa-lem (Gehenna). Nhưng Giê-rê-mi
đã biến cổng này thành tòa giảng và rao báo về thảm họa sắp xảy đến vì những gì
mà các vua đã làm như: từ bỏ Chúa, thờ lạy hình tượng, phỉ báng đền thờ, giết
người vô tội và dâng con cái mình trên bàn thờ lửa cho thần Ba-anh.
Thung lũng này đã từng là trung tâm
của lễ thờ phượng thần tượng nhưng vua Giô-sia đã biến nó thành một nơi chứa
rác. Tô-phết có nghĩa là "lò
lửa" bởi vì trẻ con đã bị thiêu trong lửa ở đây.
Tuy nhiên, sau khi quân Ba-by-lôn xâm chiếm đất, nơi này đã đổi tên là
"Thung lũng sát sinh". Thành này đã bị đội quân Ba-by-lôn vây hãm, cô
lập đến nỗi dân Do Thái đã phải ăn thịt chính con cái mình để sống!
b. Tiên tri Giê-rê-mi rao báo sự đoán phạt (Gie 19:10-15): "Trong nơi này Ta sẽ làm
hư không [61] mưu của Giu-đa và của Giê-ru-sa-lem (19:7). Để minh họa cho điều này, Giê-rê-mi đã làm
vỡ chiếc bình đất sét và nói rằng "đây là điều mà Đấng Toàn năng phán:
"Ta …được"( c.11). Cả dân tộc không còn trong kỷ luật (2:23), trong sự cầu nguyện (7:16) và giờ đây, không còn sửa trị được nữa! Dân
sự đã quá cứng lòng chống nghịch lại Chúa đến đỗi mất hết tất cả mọi hi vọng.
Vào thời đó, tại khu vực Trung đông,
vua và các quan thường đập vỡ những chiếc bình sành sứ trong một lễ quan trọng
trước khi họ đi ra chiến trận. Hành động này mang ý nghĩa rằng họ sẽ chiến
thắng quân thù hoàn toàn. Hình ảnh này cũng được dùng để chỉ tới Đấng Mê-si mà Thi 2:9 đã ghi nhận "Con sẽ dùng cây gậy sắt
mà đập bể chúng nó; con sẽ làm vỡ nát chúng nó khác nào bình gốm" . Nhưng
giờ đây chính Chúa lại là Đấng “đập vỡ” dân sự của Ngài!
Chúng ta có thể hình dung ra được
phần nào thái độ tức giận của các trưởng lão đi cùng
với Giê-rê-mi đến cổng Bốt-sơ. Xét cho cùng, họ và những thầy tế lễ (Giê-rê-mi
cũng là thầy tế lễ ) đã rất ủng hộ "những sứ điệp hoà bình"
của các tiên tri giả rao báo cũng như những chính sách ngoại giao của những
lãnh đạo dân sự là những người vốn hi vọng sẽ nhận được sự giúp đỡ từ các đồng
minh ngoại bang. Nhưng những gì Giê-rê-mi làm tiếp theo chỉ khiến họ thêm giận
dữ mà thôi bởi vì ông đã đi vào đền thờ và rao
giảng sứ điệp ấy một lần nữa! Đối với một người đã có tấm lòng tan
vỡ ra trước mặt Chúa Giê-xu thì chắc chắn ông sẽ có can đảm khi đứng trước kẻ thù. Và tiên tri Giê-rê-mi cứ luôn vẫn tin vào
Lời hứa của Chúa (Gie 1:7-10,17-19) và Chúa đã
khiến ông trở nên vững vàng.
Phải chăng khi các nước hoặc các cá
nhân nào đó phạm tội quá nhiều thì Chúa sẽ không thể phục hồi họ lại được nữa
không? Chẳng phải thế, họ vẫn có thể được phục hồi. Miễn là đất sét vẫn còn mềm
dẻo trong tay người thợ gốm thì người thợ vẫn có thể nhào nặn lại nó được ngay
cả khi nó đã hỏng (18:4). Nhưng khi đất sét
đã cứng thì đã quá muộn nên người thợ sẽ không thể nào nào nặn nó lại được nữa.
Sự đoán phạt chính là sự báo trả cho thái độ cố ý
bội đạo của dân sự. Vương quốc Y-sơ-ra-ên ở phía Bắc đã không chịu
ăn năn nên đã bị phó vào tay đế quốc Asiri. Giờ đây,
vương quốc Giu-đa ỡ phía Nam cũng chống nghịch lại lẽ thật của Chúa nên
Ba-by-lôn sẽ huỷ diệt xứ và đày dân sự ra khỏi xứ. Người Do Thái đã chống
nghịch lại Vua mình khi đòi Phi-lát đóng đinh Chúa Giê-xu. Bốn mươi năm sau đó,
người La Mã cũng đã làm những điều tương tự như những gì người Ba-by-lôn
đã làm đối với thành Giê-ru-sa-lem vào trước đó sáu thế kỷ. "Cũng có tội
đến nỗi chết" (IGi 5:16)
c. Giê-rê-mi kinh nghiệm sự đau đớn (Gie 20:1-6): Những gì
trước đây chỉ là lời đe doạ thì giờ đây đã trở thành sự thật đối với Giê-rê-mi.
Con trai của Y-mê [62] là Pha-su-rơ làm phụ tá cho thầy tế lễ thượng phẩm và là
người gìn giữ an ninh trật tự trong đền thờ. Y vốn không thích những điều
Giê-rê-mi rao giảng. Vì vậy, y đã cho bắt giam Giê-rê-mi, đánh đập và cùm ông
lại mãi cho đến ngày hôm sau. Nơi giam giữ Giê-rê-mi đã phải được đặt tại một
nơi nổi bật trong đền thờ nhằm khiến cho Giê-rê-mi càng thêm hổ thẹn đớn đau.
Giê-rê-mi đã phải trải qua một đêm với tay chân bị cột trói cong gập lại quả là
điều không dễ chịu chút nào, thêm vào đó thân thể ông còn bị đánh đập nữa khiến
ông đau đớn biết bao. Vậy bạn hãy thử hình dung ra được Giê-rê-mi đã trãi qua
đêm đó như thế nào.
Đánh đập và bắt giam là một trong những sự bắt bớ đầu tiên mà những nhà
lãnh đạo dân sự đã áp dụng đối với Giê-rê-mi. Họ đe doạ giết Giê-rê-mi (Gie 26:1-24), họ vu khống cho ông, cáo tội ông và
bắt giam ông (37:11-21) sau đó họ đã ném ông
xuống hố (38:1-13). Ông đã trở thành tù nhân
thực sự mãi cho đến khi Nê-bu-cát- nết-sa giải cứu ông (39:11-18)
Tuy nhiên, Chúa đã gặp gỡ Giê-rê-mi
đêm đó (xin tham khảo thêm Cong 18:9-11 23:11 27:23-24)
Ngài phán với ông một thông điệp đặc biệt và đặt tên mới cho Pha-su-rơ là
Mago-Misabíp, có nghĩa là "kinh hãi mọi bề". Trước đây, Giê-rê-mi đã
dùng cụm từ này (Gie 6:25) và sẽ dùng lại
cụm từ này nữa (46:5 49:5,29).
Cụm từ này gợi cho ta hình ảnh về những điều sẽ xảy ra với thành Giê-ru-sa-lem
khi quân Ba-by-lôn tràn vào.
Lần đầu tiên, Giê-rê-mi chỉ đích
danh vua Ba-by-lôn là kẻ xâm chiếm (20:4) [63]. Trước đây, Giê-rê-mi chỉ nói đến sự xâm lăng sẽ đến từ
"phương Bắc" (1:13-15 3:12,18 4:5-79 6:1,22-26 10:22) và
không đề cập gì đến dân tộc xâm lăng. Giờ đây, công cụ mà Chúa dùng để sửa phạt
dân sự Ngài chính là Ba-by-lôn và Giê-rê-mi sẽ đề cập đến Ba-by-lôn theo cách
này 200 lần nữa trong sách của mình.
Cách mà Pha-su-rơ đã đối xử với
Giê-rê-mi đã đem đến cho y sự báo trả: y và cả gia đình y sẽ bị bắt làm phu tù
qua Ba-by-lôn làm phu tù và chết ở đó. Đối với một người Do Thái, việc bị chôn
ở ngoài xứ mình bị xem như là một sự đoán phạt vì đất ngoại bang được xem là
không thánh sạch.Tuy nhiên, đối với Pha-su-rơ và bạn bè của y thì việc bị chôn
ở đâu đâu có thành vấn đề! Họ là những kẻ đã nhân danh Chúa mà dạy dỗ giả dối
và xúi giục dân sự việc thờ hình tượng trong đền thờ của Đức Chúa Trời thánh
khiết. Vậy thì đáng lý ra họ phải sống trong một sự dối trá thờ cúng hình tượng
và thậm chí sẽ bị chôn vùi nơi xứ ấy chớ! Thế mà lúc bấy giớ họ vẫn đang được
ung dung tự tại rời nhà của họ!
Nếu những sự kiện được miêu tả trong
Gie 18:1-20:18 xảy ra trong thời của vua Giê-hô-gia-kim (607-597 TC) thì lời tiên tri
của Giê-rê-mi đã không cần phải chờ lâu để ứng nghiệm. Năm 605 TC, vua
Nê-bu-cát-nết-sa cướp lấy đền thờ và bắt vua Giê-hô-gia-kim cùng các quan viên
sang Ba-by-lôn. Năm 597 TC, vua bắt đày đi hơn 10.000 người 11 năm sau đó, vua
đốt cháy đền thờ, phá thành và để mặc cho mọi thứ hoang tàn. Kế tiếp, 5 năm sau
đó, vua lại bắt đày đi thêm một nhóm dân sự khác nữa.
Gie 19:1-15; xem giải
nghĩa Gie 18:1-23
Gie 20:1-6; xem giải nghĩa Gie 18:1-23
3. Giê-rê-mi, nhà tiên
tri nản lòng (Gie 20:7-18)
Đây là đoạn cuối của lời
than khóc của tiên tri Giê-rê-mi. Ay là những lời than vãn chứa đựng sự pha
trộn giữa những cảm xúc con người sự thống khổ và niềm vui mừng, chứa đựng lời
cầu nguyện với sự thất vọng, sự ca ngợi với thái độ bối rối. Khi nghĩ tới bản
tính nhạy cảm của vị tiên tri này, bạn sẽ không ngạc nhiên khi thấy ông đang
đứng trên đỉnh cao của một ngọn núi trong một phút trước đó để rồi chỉ một phút
sau ông lại rơi xuống một thung lũng sâu thẳm. Tuy nhiên, tiên tri Giê-rê-mi đã
sống vượt lên trên những cảm xúc của mình và làm theo ý muốn Chúa bất kể ông
cảm thấy ra sao đi nữa. Trong thái độ chân thành bộc lộ những cảm xúc sâu xa
nhất, nhà tiên tri đã đối diện với ba vấn đề chính: sự kêu gọi của Chúa
(c.7-9), hiểm hoạ hằng ngày của mình (c.10-13) và sự thất vọng sâu thẳm bên
trong con người ông (c.14-18)
a. Tiếng gọi " phỉnh gạt" (c.7-9): Khi các tôi tớ Chúa nhận thấy họ gặp phải khó khăn vì cớ
họ đã trung tín trong chức vụ hầu việc Ngài thì họ thường bị cám dỗ nghi ngờ
khiến họ đặt lại vấn đề về sự kêu gọi của Chúa và xem xét lại công việc mà họ đã làm. Thế thì họ sẽ phải làm gì ? Một
trong những điều đầu tiên họ phải làm là trò
chuyện với Chúa về điều đó và bày tỏ sự thật với Ngài.
Từ ngữ "phỉnh gạt" hàm
chứa ý nghĩa bị lôi kéo, quyến dụ. Dĩ nhiên, Chúa
không hề nói dối (Tit 1:2) nhưng
Giê-rê-mi cảm thấy rằng Chúa đã lợi dụng ông và lôi kéo ông vào chức vụ này.
"Ngài mạnh hơn tôi và đã được thắng" (Gie
20:7). Giê-rê-mi thấy mình như một thiếu nữ bị "người tình"
phỉnh gạt lôi kéo và lợi dụng. Đây là những lời lẽ thật khiếm nhã nhưng ít ra
Giê-rê-mi đã dùng những lời này khi trò chuyện riêng với Chúa chớ không phải nói
trước dân sự.
Khi xem lại chương ghi nhận việc
Chúa đã kêu gọi Giê-rê-mi, bạn sẽ thấy rằng chẳng có bằng chứng nào về việc
Chúa lôi kéo ông cả. Đức Chúa Trời nói rất rõ ràng
với Giê-rê-mi rằng ông sẽ có những lúc khó khăn. Tuy nhiên, nếu ông tin cậy Chúa
, Ngài sẽ khiến ông trở nên một thành vững vàng và một tường đồng trước kẻ thù
nghịch mình. Chúa đã nói trước với tôi tớ Ngài rằng những đòi hỏi của chức vụ
sẽ ngày càng tăng và chính ông cũng phải trưởng thành để theo kịp với những đòi
hỏi đó (12:5). Những gì mà chức vụ
của Giê-rê-mi đã làm cho dân tộc đều rất quan trọng nhưng những gì mà chức vụ của ông làm cho chính
bản thân ông thậm chí còn quan trọng hơn nữa. Khi hầu việc Chúa, khả
năng để hoàn thành chức vụ của chúng ta sẽ ngày càng phát triển và giúp chúng
ta có thể làm được nhiều việc hơn những điều chúng ta tưởng.
Sau khi bày tỏ với Chúa điều bạn cảm
nhận, bạn sẽ làm gì nữa? Đối với Giê-rê-mi ông đã có
ý định từ bỏ chức vụ làm tiên tri của mình! Ông quyết định sẽ im lặng và không
nói về Chúa cho bất cứ một ai nữa cả. Nhưng mọi việc không được như vậy
vì sứ điệp của Chúa như lửa đốt cháy trong lòng ông (Lu
24:32). Giê-rê-mi rao giảng chẳng phải vì lý do ông phải nói ra điều gì
đó mà là vì ông có điều phải nói và nếu ông không chịu nói ra điều ấy thì chắc
hẳn ông sẽ bị huỷ diệt. Phao-lô cũng có cùng một thái độ như vậy: "Ví bằng
tôi rao truyền Tin Lành, tôi chẳng có cớ gì khoe mình, vì có lẽ cần buộc tội;
còn không rao truyền Tin Lành, thì khốn khó cho tôi thay" (ICo 9:16).
b. Hiểm họa hằng ngày của Giê-rê-mi (c.10-13): Sau khi giải quyết xong việc Chúa kêu gọi ông,
Giê-rê-mi nhìn sang những kẻ thù xung quanh ông. Người Cơ Đốc tin là người
không lảng tránh vấn đề, trái lại càng phải đối diện thật thẳng thắn với chúng
và tìm kiếm sự trợ giúp của Chúa để giải quyết chúng. Mặc cho Giê-rê-mi có bị
ràng buộc trong việc giảng lời Chúa như thế nào đi nữa thì bắt buộc ông cũng
phải đối diện với việc nhiều người muốn ông phải im lặng và họ sẽ làm những
việc cần thiết để khiến ông im lặng.
Mượn ý nghĩa của tên mới
mà Chúa đã đặt cho Pha-su-rơ (Gie
20:3), những kẻ thù của Giê-rê-mi gán sự "kinh hãi mọi bề" như
một biệt danh cho nhà tiên tri. Đó là một cách để nhạo báng những lời tiên tri
của Giê-rê-mi trước mặt mọi người. Họ theo dõi và ghi nhận những hành động và
lời nói của Giê-rê-mi để cố tìm xem hễ ông có phạm pháp điều gì thì họ liền báo
cáo, ton hót với các nhà cầm quyền. Đa-vít cũng từng có kinh nghiệm tương tự (Thi 31:13) và đây cũng là cách mà những kẻ thù
nghịch Chúa đã làm đối với Ngài (Mat 22:15).
Tâm trạng của Giê-rê-mi thay đổi từ
việc ông bày tỏ lòng can đảm để trả thù đến việc ông bày tỏ niềm vui khi thờ
phượng (Gie 20:11-13). Tiên tri Giê-rê-mi
nhớ lại những lời hứa Chúa ban cho khi được Ngài kêu gọi, ông lại tin chắc hơn
rằng bị hổ thẹn thì Chúa luôn ở cùng với ông và Ngài
sẽ đối phó với những kẻ thù nghịch của ông. Thay vì làm cho Giê-rê-mi, chính
những kẻ thù của ông đã bị hổ thẹn. Những lời trong câu 12 của Giê-rê-mi xem ra
rất giống với lời cầu nguyện của ông trong Gie
11:20 và có lẽ đây là lời mà ông vẫn thường
cầu nguyện.
c. Sự thất vọng sâu xa (c.14-18): Sau khi bày tỏ nguyên nhân với Chúa, Giê-rê-mi có đủ lý
do để ca hát tôn vinh Ngài vì giờ đây Chúa đã mang lấy gánh nặng của ông và sẽ
giúp ông trong cuộc chiến đấu. "Hỡi bá tánh, khá nhờ cậy nơi Ngài luôn
luôn. Hãy dốc đổ sự lòng mình ra tại trước mặt Ngài: Đức Chúa Trời là nơi nương
náu của chúng ta" (Thi
62:8).
Tuy nhiên, sự vui mừng của Giê-rê-mi
kéo dài không được bao lâu vì ngay sau đó, ông lại rủa sả ngày sinh của mình (Gie 15:10 Giop 3:1-26).
Những bậc cha mẹ người Do Thái thường rất vui mừng khi sinh con trai, vì con
trai đó sẽ là người mang tên của gia đình và có thể đỡ đần cha mẹ khi tuổi già.
Thế thì một gia đình của thầy tế lễ như gia đình của Giê-rê-mi đặc biệt đó sẽ
rất biết ơn vì họ đã có đứa con nhận lãnh công việc từ nơi Đức Chúa Trời.
Nhưng Giê-rê-mi lại không nghĩ như
vậy. Người đưa tin về sự ra đời của một bé trai sẽ đem niềm vui tới cho gia
đình của em bé đó và mong đợi một phần thưởng vì đã đem lại tin tức tốt lành
cho gia đình ấy. Thế nhưng Giê-rê-mi lại nói rằng người đưa tin nên được đối xử
như Sô-đôm và Gô-mô-rơ! Nhà tiên tri muốn người này thức dậy khóc lóc lúc sáng
và nghe tiếng la chiến trận vào buổi chiều! Nhà tiên tri hỏi rằng: "Sao
lòng mẹ tôi không là mồ mả của tôi?". "Cuộc đời tôi chẳng là gì ngoài
sự rắc rối và sỉ nhục! Thà rằng tôi đừng sống còn hơn ! "
"Tại sao tôi đã được chào
đón?" là một câu hỏi dễ trả lời: bởi vì Chúa có một mục đích đặc biệt cho
cuộc đời của bạn Ngài cho phép và bạn ra đời để làm tròn điều đó (Gie 1:4-5 Thi
139:13-16) Chúa không hề nhầm lẫn trong việc kêu gọi các tôi tớ Ngài và
chúng ta không nên quan tâm đến việc đặt vấn đề nghi vấn sự khôn ngoan của
Ngài. Tất cả chúng ta đều có những lúc nản lòng khi chúng ta cảm thấy muốn từ
bỏ công việc Chúa giao nhưng đó cũng là lúc mà chúng ta phải nhìn vượt mọi cảm
xúc, hoàn cảnh để chiêm ngưỡng sự vĩ đại và khôn ngoan của Chúa.
Như V. Raymond Edman,
cựu chủ tịch của đại học Wheaton vẫn thường nói với những sinh viên rằng "Đừng nên bỏ cuộc quá sớm!”
Và quả thật như thế !
7. CÁC VUA ĐANG DIỄU
BINH (Gie 21:1-24:10)
“Tiếng la hét hoan hô giờ đã vãn
vua chúa quan quân lần lượt kéo ra
về
Chỉ còn lại nơi đây phần của lễ
Là những tấm lòng hèn hạ, ăn năn.
Đức Giê-hô-va ôi! Xin Ngài thương
xót
Xin cứ ở cùng gìn giữ chúng con
Kẻo e rằng chúng con quên Ngài!
Kẻo e rằng chúng con xa Ngài!”
(Trích “Bài Ca Cuối Lễ”
của Rudyard Kipling.)
Bài thơ "Bài Ca
Cuối Lễ" của Kipling xuất bản vào năm 1897 lễ mừng 50 năm của nữ hoàng Victoria được tổ chức tại Anh quốc. Bài thơ như một lời cảnh
cáo lặng lẽ rằng người dân Anh quốc không nên quá tự mãn trong giờ phút vinh
quang của hoàng gia. Có lẽ, Kipling đã nhớ đến lời của Đa-ni-ên: "Đấng rất
cao cai trị trong nước loài người và Ngài muốn ban cho ai tuỳ ý" (Da 4:25) hay những lời trong Ch 16:18 "Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại
theo sau và tánh tự cao đi trước sự sa ngã"
Giê-rê-mi đã viết một bài thơ
"Recessional" sâu sắc hơn cho vương quốc Giu-đa khi ông miêu tả lần
lượt từng vị vua rời khỏi ngai mình và đi đến chỗ bị
đoán phạt thật hổ thẹn. Trong những ngày vinh quang của Đa-vít, Ê-xê-chia, và
Giô-sia, cả dân tộc đều tôn vinh danh Chúa. Nhưng giờ đây, Giu-đa đang nhanh
chóng đi đến chỗ bị suy bại và nhục nhã. Trong những chương mấu chốt này,
Giê-rê-mi đã rao giảng 4 thông điệp quan trọng cho những nhà lãnh đạo và dân
sự.
1. Chúa chống lại những
nhà lãnh đạo Giu-đa (Gie
21:1-14)
Có lẽ, những sự kiện này
xảy ra vào năm 588 TC khi quân đội thiện chiến vô địch Ba-by-lôn đóng trại
quanh thành Giê-ru-sa-lem. Hi vọng sẽ nhận được sự giúp đỡ của Ai Cập, vua Sê-đê- kia chống nghịch lại vua Nê-bu-cát-nết-sa qua
việc không chịu cống nộp cho người (IISu 6:13
Exe 17:11-18) và giờ đây, Giu-đa phải lãnh
chịu hậu quả đáng sợ vì quyết định ngu ngốc ấy của vua. Trong nỗi tuyệt vọng,
vua đã sai Sô-phô-ni, thầy tế lễ và Pha-su-rơ, một trong các quan triều đình đến gặp tiên tri Giê-rê-mi để tìm xem sự chỉ
dẫn từ nơi Đức Chúa Trời [64] Nhà vua đã hi vọng rằng Đức Giê-hô-va sẽ thực hiện một sự
giải cứu kỳ diệu cho thành Giê-ru-sa-lem như Ngài đã từng làm trong thời vua
Ê-xê-chia (IIVua 18:1-19:23). Tuy
nhiên, Giê-rê-mi đã đưa ra những câu trả lời thật khủng khiếp cho nhà vua (Gie 21:3-7) cho dân sự (c.8-10) và cho nhà Đa-vít
(c.11-14).
a. Lời tuyên bố với vua Sê-đê-kia (c.3-7)
Không những Chúa từ chối
giải cứu thành mà Ngài còn phối hợp với kẻ thù để chiến đấu và đánh bại
Giê-ru-sa-lem! Quân đội Giu-đa sẽ trở nên vô tích sự khi chống lại quân Canh-đê. Trái lại, trong quá khứ,
"cánh tay quyền năng giơ thẳng" của Chúa đã từng chiến đấu cho dân sự (Phu 4:34
5:15 26:8)
còn bây giờ, Ngài sẽ chiến đấu nghịch cùng
dân sự vì cả dân tộc đã quay lưng lại với Chúa. "kẻ hay thương
xót…trọn vẹn lại" (Thi 18:25-26).
Có vẻ là một việc lạ khi Đức Chúa
Trời dùng những chữ như "nổi nóng", "phát giận" và "sự thạnh nộ lớn" (Gie 21:5) để bày tỏ tính khí của Chúa đối với dân
Ngài. Vì những lời này là một phần trong giao ước của Ngài với dân sự, nên dĩ
nhiên là cả dân tộc đều đã biết những lời lẽ ấy trong giao ước (Phu 29:23,28 32:16-17,21,29 Le 26:27-28). Chúa đã nhiều lần cảnh cáo dân Do
Thái rằng chính thái độ không vâng phục của họ đã khiến cho Chúa nổi giận và
buộc Ngài sẽ phải đoán phạt cả xứ, dù thế, những người đứng đầu dân sự vẫn
không chịu lắng nghe. Họ ưa chuộng những thần tượng chết hơn là Chúa Hằng sống, ưa thích quyền lực chính trị hơn là tin cậy vào Lời Ngài.
Giê-rê-mi đã tuyên bố
rằng dân thành Giê-ru-sa-lem sẽ bị chết vì đói kém, bệnh dịch, hay gươm đao và
nhiều người còn sống sót sẽ bị bắt làm phu tù sang Ba-by-lôn. Vua Sê-đê-kia và
các quan sẽ bị phó vào tay vua Nê-bu-cát-nết -sa và bị xử phạt. Những điều này
đã xảy ra thật chính xác. Thành Giê-ru-sa-lem bị kẻ thù bao vây vào ngày 15.1.
588 và bị tiêu diệt vào ngày 18.7.586 TC, nội tình xảy ra chớp nhoáng chỉ trong
vòng hơn 30 tháng [65]. Sau Sê-đê-kia, con trai và các quan của vua cũng bị bắt. Nhà vua
phải chứng kiến cảnh các con trai mình bị giết trước khi bản
thân vua bị chọc mù mắt, bị dẫn sang Ba-by-lôn và chết tại đó (Gie 39:1-10 52:8-11,24-27 IIVua 25:1-31)
b. Lời tuyên bố với dận sự (c.8-10): Không còn một hy vọng nào cho nhà vua nhưng Đức Chúa
Trời vẫn cho dân sự một hi vọng nếu họ đầu hàng vua Nê-bu-cát-nết-sa (Gie 38:17-23). Chúa
đặt trước mặt dân sự 2 con đường: một con đường của sự sống và một con đường
dẫn đến sự chết; một sự chọn lựa khiến họ nhớ đến những lời trong giao ước (Phu 11:26-32 30:15-20
Gie 27:12-13 38:2-3,17-18). Đối với
Chúa, chúng ta phải chọn lựa con đường này hoặc con đường kia (Thi 1:1-8) chớ không thể đứng ở giữa (Mat 7:13-29 12:22-30)
Dĩ nhiên, hành động đầu hàng kẻ thù
là một hành động phản quốc và Giê-rê-mi cuối cùng đã gặp rắc rối vì đưa ra kế
hoạch này (Gie 37:11-21 38:1-6). Cụm từ "sự sống của người đó sẽ làm
của cướp cho người đó" (21:9) nguyên
nghĩa là "người đó sẽ giữ được mạng sống mình như giữ của cướp được"
(38:2 39:18
45:5). Dân Ba-by-lôn sẽ cư xử với những
người còn sót lại như những chiến lợi phẩm và người Do Thái, sau khi bị mất
thành sẽ rất vui mừng khi trốn đi với toàn vẹn sự sống.
Vua Nê-bu-cát-nết-sa đã làm công
việc của Chúa là đoán phạt vương quốc Giu-đa (50:9,23 51:20) và chính Chúa đã hỗ trợ quân Ba-by-lôn đánh
chiếm Giu-đa buộc dân sự Ngài phải đầu hàng Ba-by-lôn tức là đầu phục ý muốn
của Chúa. Ý muốn của Ngài là dân sự hãy mau thú nhận tội lỗi mình và trao phó
mọi sự vào tay Ngài. Còn nếu dân sự chống nghịch lại dân Ba-by-lôn thì có nghĩa
là chống nghịch lại Đức Chúa Trời và đó là con đường dẫn đến sự chết mà thôi.
Cũng vậy ngày nay, là con dân Chúa,
nếu chúng ta muốn không bị Chúa đoán phạt thì chỉ có cách duy nhất là hãy đầu
phục Ngài “Cha về phần xác…sao?" (He 12:9).
Hàm ý của câu hỏi này chính là nếu chúng không đầu phục ý muốn của Chúa thì
chúng ta sẽ không có được sự sống đâu! (IGi 5:17).
c. Lời tuyên bố với nhà Đa-vít (c.11-14): Ở đây, Đức Chúa Trời phán với dòng dõi vua Đa-vít, những
vị vua được ngồi trên ngai là nhờ bởi giao ước của Chúa với Đa-vít (IISa 7:1-29). Nếu họ vâng phục theo Luật pháp của Ngài và xử đoán công bình
trong xứ thì Ngài sẽ giữ lời hứa Ngài và duy trì dòng dõi hoàng tộc nhà Đa-vít.
Tuy nhiên, nếu họ không vâng lời Ngài thì họ sẽ phải mất ngôi nước của mình.
Một lần nữa, Chúa đã nhắc cho họ nhớ đến những lời trong giao ước và thúc giục
họ vâng theo Lời Ngài [66]
Dân thành Giê-ru-sa-lem
tin chắc rằng thành của họ là bất khả xâm phạm nên không cần phải sợ hãi. Thực
tế thì cả 3 mặt của thành đều có thung lũng bao quanh: Hinnom ở phía Tây và
phía Nam, Kidron ở phía đông, vì vậy họ chỉ còn phải lo canh phòng ở phía Bắc
của thành mà thôi. Cư dân thành Giê-ru-sa-lem tự cho rằng họ đã "được lên
ngôi" ở khu vực cao nguyên đồi núi ấy, nhưng chẳng mấy chốc Đức Chúa Trời
sẽ truất ngôi họ và khiến họ mất ngai vàng của
mình. Đội quân Ba-by-lôn đã châm lửa đốt thành, và quả thật Chúa đã "đốt
lửa trong rừng nó" (Gie 21:14). Cụm từ
"rừng" có lẽ ám chỉ đến các cấu trúc trong thành đặc biệt là cung
vua, "cái cung rừng Liban" (IVua 7:2
10:17,22). Gỗ bá hương ở Li-ban thường được dùng để xây
cất nhà cửa trong thành .
Chương này được mở đầu
bằng tiếng than khóc nài xin sự giúp đỡ của vua và kết thúc bằng lời tuyên bố
của nhà tiên tri về sự huỷ diệt. Thật là một bi kịch!
2. Chúa cho biết trước
số phận của các vua (Gie
21:1-14) (Gie 22:1-23:8)
Vua Giô-sia, một minh
quân tin kính Chúa cai trị trong 31 năm và đã dẫn dắt dân sự quay trở lại với
Chúa. Nhưng bốn vị vua sau cùng của Giu-đa lại là những vị vua độc ác, mặc dù
ba người trong số họ là con của vua Giô-sia và một người là cháu
(Giê-hô-gia-kim)
Giô-a-cha, hay Salum nối ngôivua Giô-sia và trị vì chỉ trong 3 tháng (Gie 22:10-12 IIVua 23:30-33). Pha-ra-ôn Nê-ô đã truất ngôi và
đày vua sang Ai Cập và đã vua chết tại đó.
Giê-hô-gia-kim, cũng được gọi là
Ê-li-a-kim, trị vì trong 11 năm (Gie 22:13-23
IIVua 23:34-24:6) và chết tại Giê-ru-sa-lem.
Con trai vua là Giê-hô-gia-kin lên nối ngôi, còn được gọi là Giê-cô-nia hay
Cô-ni-a và trị vì chỉ trong 3 tháng (Gie 2:24-30
IIVua 24:6-12). Nê-bu-cát-nết-sa bắt dẫn vua
về Ba-by-lôn và vua chết ở đó.
Vị vua cuối cùng của Giu-đa là
Sê-đê-kia. Người trị vì trong 11 năm và tận mắt chứng kiến cảnh thành thánh bị
đế quốc Ba-by-lôn hủy diệt (Gie 22:1-9 IIVua 24:17-25:21). Thế rồi, vua bị chọc mù mắt,
bị dẫn sang Ba-by-lôn và chết tại đó. Thật như Kipling đã viết: "Các quan
trưởng và các vua đều ra đi".
Tiên tri Giê-rê-mi đã tiết lộ sự
thật về 4 vua đó như vậy, đồng thời ông cũng có hứa về Đấng Mê-si-a -Nhánh (Vua)
Công bình là Đấng rồi đây sẽ trị vì và phán xét dân sự.
Sê-đê-kia- một vị vụa -sự cứng lòng (Gie
22:1-9). Nhà vua này đã sai nhiều sứ giả đến với tiên tri Giê-rê-mi
nhưng đích thân Giê-rê-mi đã tự đi đến cung điện rao giảng thông điệp của Chúa.
Sê-đê-kia đang ngồi trên ngai Đa-vít, trong nhà Đa-vít làm bằng gỗ bá hương (IISa 5:11; 7:2,7), hưởng đặc ân
từ giao ước mà Chúa đã lập với Đa-vít (IISa 7:1-29);
thế nhưng nhà vua lại không hầu việc Chúa như điều Đa-vít đã làm. Giê-rê-mi lặp
lại những gì ông đã rao giảng trước đây (Gie 21:12),
rằng đây là lúc mà vua và các quan cần phải vâng theo Luật pháp Chúa và xử đoán
công bình trong xứ.
Trong IISa
7:1-29, chữ "nhà" mang hai nghĩa: một là căn “nhà ở” theo
nghĩa đen (đền thờ mà Đa-vít muốn xây cho Chúa) và hai là “gia đình hoàng tộc”
(triều đại) mà Chúa đã lập qua Đa-vít bởi giao ước của Ngài. Cả hai ý nghĩa này
đều được chứa đựng trong sứ điệp của Giê-rê-mi: Chúa sẽ huỷ diệt cả cung điện
lẫn dòng dõi Đa-vít vì cớ tội lỗi của các vua. Cung điện bằng gỗ bá hương sẽ bị
phá và đốt cháy khi những người lính Canh-đê đi vào thành như những người đốn
cây trong rừng Li-ban.
Cùng lúc đó, Giê-rê-mi xuất hiện rao
báo cho những người lãnh đạo nhà Giu-đa một tia hi vọng : Nếu họ ăn năn và làm
điều công bình, Chúa sẽ giải cứu họ và lập lại ngôi Đa-vít (Gie 22:4). Thế nhưng, tấm lòng của họ đã chai cứng
và họ không chịu lắng nghe. Sự đổ nát của thành Giê-ru-sa-lem sẽ là tấm bia
tưởng niệm nhắc cho họ luôn nhớ về sự gian ác của họ.
Giô-a-cha (Salum)- vị vua của sự tuyệt vọng ( 22:10-12).
Cái chết của vua Giô-sia là vị vua kính sợ Chúa trước đó một thập niên đã để
lại sự thương tiếc vô cùng trong dân sự. Ngay cả Giê-rê-mi cũng đã viết những
lời than khóc cho vị vua đã băng hà này (IISu 35:25).
Thế nhưng dân sự Chúa không còn một hy vọng nào để nhìn lại và than khóc tiếc
nuối cho một quá khứ đã chết mất cũng chẳng còn hi vọng rằng vua Giô-a-cha sẽ
được phóng thích khỏi Ai Cập, nơi ông đang là tù nhân của Pha-ra-ôn Nê-cô (IISu 36:1-4). Lúc bấy giờ, vẫn tổ chức một bữa
tiệc theo hình thức mà vua Giô-a-cha thường ưa thích tại Giu-đa để đánh dấu
niềm hi vọng của dân sự rằng nhà vua sẽ trở về và một số nhà tiên tri giả vẫn
khuyến khích dân sự nuôi dưỡng hy vọng ấy. Tuy nhiên, Giê-rê-mi lại nói rằng
Giô-a-cha sẽ không bao giờ trở về nữa và sẽ chết tại Ai Cập.
Đáng lý ra dân sự nên đối phó với
những vấn đề đang xảy đến và tìm kiếm sự trợ giúp của Đức Chúa Trời. Thay vì
nhìn về quá khứ đã chết hay trông cậy vào người đứng đầu đã bị phế truất, Vua
Giô-sia đã chết, còn vua Giô-a-cha thì bị đày khỏi xứ, đây chính là lúc mà vua
Sê-đê-kia cần phải theo gương người cha kính sợ Chúa của mình và dẫn dắt dân sự
quay trở lại thờ phượng Chúa chân thật.
Giê-hô-gia-kim (Ê-li-a-kim)- vị vua vua sự tham muốn (22:13-23) [67] Trong khi
khắp nơi đang lộn xộn Giê-hô-gia-kim lại quan tâm đến việc xây dựng một cung
điện rộng lớn cho mình hơn là tạo dựng một vương quốc công bình. Thậm chí nhà
vua còn dùng đến lực lượng lao động nô lệ là người Do Thái nhưng lại không trả
công cho họ sòng phẳng! Điều này đi ngược lại với lụât về tiền lương và
bắt anh em người Do Thái làm nô lệ (Xu 21:1-11
Le 15:12-23 19:13
Phu 24:14-15 Gia
5:1-6). Cả đất nước đang suy tàn và chết mất trong khi nhà vua chỉ lo
chiêm ngưỡng cung điện của mình với những gian phòng rộng lớn nguy nga, những
khung cửa sổ sang trọng và những tường lót vát bằng gỗ bá hương. Giê-hô-gia-kim
sống chẳng khác gì so với những chính trị gia hiện đại. Ay là những kẻ sống
hưởng lợi từ những nguồn thu nhập bất chính và không
dễ quan tâm đến tiếng khóc của những người nghèo khổ thiếu thốn.
Nhà tiên tri hỏi rằng
"Ngươi lấy gỗ bá hương … vua sao?"
(Gie 22:15). Sau đó, ông nhắc nhà vua nhớ
đến cha mình là vua Giô-sia sống trong giàu sang nhưng vẫn làm những điều công
bình và ngay thẳng. Giô-si-a bảo vệ người nghèo khó và Chúa đã chúc phước cho
vua. Còn Giê-hô-gia-kim chỉ nghĩ đến bản thân mình mà thôi. Nhà vua không hề
bận tâm rằng Chúa đang nhìn thấy vua cướp của người nghèo, giết hại người vô
tội và chèn ép sự công bình để có thể thỏa mãn cho lòng tham muốn của mình.
Giê-rê-mi đã thay đổi từ đại từ
"kẻ" (ngôi thứ 3) trong câu 13 sang từ "ngươi" (ngôi thứ 2)
trong câu 15 và sau đó, đề cập thẳng đó là vua trong câu 18. Ông rao báo rằng
đám tang của vua sẽ diễn ra rất lặng lẽ khác với đám tang của người cha kính
yêu của vua. Cả dân tộc đã than khóc cho cái chết không đúng lúc của vua
Giô-si-a nhưng người Do Thái sẽ không khóc khi Giê-hô-gia-kim chết và cũng sẽ
chẳng chôn cất người theo nghi lễ của một ông vua. Lẽ nào người ta lại đi tổ
chức một đám tang sang trọng tốn kém cho một con lừa chết chớ? Xác súc vật cần
phải được ném vào thùng rác nơi những chim chóc ăn thú vật chết sẽ đến ăn (Gie 36:30). Cuộc đời của Giê-hô-gia-kim được kết
thúc chính là sự ứng nghiệm của lời rủa sả trong giao ước (Phu 28:26) [68].
Trước khi tiếp tục bàn đến
vị vua tiếp theo, Giê-rê-mi dừng lại nói về dân thành Giê-ru-sa-lem và chỉ rõ
ra tình trạng tồi tệ kinh khủng của họ (Gie 22:20-23). Sự tiến công của đội quân Canh-đê
đã đánh bại liên minh của họ ("là những kẻyêu họ") ấy là những kẻ
cũng sẽ bị bắt đày đi khỏi xứ mình. Như một cơn gió lốc trong sa mạc, đội quân
Ba-by-lôn đã "cuốn" những người đứng đầu độc ác của Giu-đa và quét
sạch họ. Vua và các quan đang sống phè phởn chủ quan trong cung điện Được xây
bằng gỗ bá hương ("Liban") chẳng mấy chốc cũng sẽ phải chịu đau đớn
như người đàn bà đang khi sinh nở vậy. Đức Chúa Trời đã cảnh cáo họ nhưng họ
chẳng thèm nghe vì họ cảm thấy sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra với họ cả. Sự bình
an mà các tiên tri giả đã hứa với họ sẽ không bao giờ thành hiện thực. Đối với
thành Giê-ru-sa-lem, đó là điểm kết thúc.
Giê-hô-gia-kin (Cô-ni-a và cũng là Giê-cô-nia)- là vị vua của sự tuyệt tự (22:24-30).
Là con trai của Giê-hô-gia-kim, ông lên ngôi chỉ được 3 tháng 10 ngày trước khi
bị truất ngôi và bị đày sang Ba-by-lôn cùng với mẹ. Sau đó, Sê-đê-kia, chú của
Giê-hô-gia-kin lên ngôi thay vua (IISu 36:9-10
IIVua 24:8-17). Giê-hô-gia-kin là một người
độc ác và Gie 22:26 cho thấy rằng mẹ của vua
cũng đáng trách như người cha không tin kính Chúa của vua. Giê-rê-mi đã cảnh
cáo cả nhà vua lẫn hoàng hậu nhưng họ đã không chịu lắng nghe (13:18-19).
Nếu nhà vua chính là cái ấn trên tay
phải của Chúa, thì Chúa cũng sẽ dễ dàng tháo bỏ nó và cho người Ba-by-lôn (22:24-27). Cái ấn của nhà vua là vật rất có giá
trị vì nó chứng tỏ quyền lực, sở hữu và được dùng để "ký" các văn bản
chính thức. Nhưng Giê-hô-gia-kin bấy giờ đã trở nên
vô dụng đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời cho nên chỉ còn nước Chúa đem ném vua
cho quân Ba-by-lôn mà thôi [69].
Câu hỏi trong câu 28
được viết theo cấu trúc mà người nghe có thể chờ đợi một câu trả lời
"không". Dân Giu-đa không hề xem Giê-hô-gia-kim như một cái bình bể
là thứ chỉ có thể để cho người ta đem ném vào đống rác. Thật ra, một trong các
tiên tri giả còn tiên đoán rằng
Giê-hô-gia-kim sẽ trở về Giu-đa, giải cứu dân tộc và cai trị trong sự hùng mạnh
một lần nữa (28:1-4). Tuy nhiên, Chúa lại có
một kế hoạch khác cho con người độc ác này và gia đình của ông ta. Nhà vua, mẹ
của vua và các con trai vua đều sẽ bị đày sang Ba-by-lôn và sẽ chết tại đó.
Giê-hô-gai-kin có ít nhất là 7 người
con (ISu 3:17-18) với vài người vợ (IIVua 24:15) nhưng không ai trong số đó sẽ được
ngồi trên ngôi Đa-vít. Chúa phán rằng Ngài sẽ đối xử với vua như thể đối với
người không có con cái. Sê-đê-kia, vị vua cuối cùng của Giu-đa nhìn thấy quân
Ba-by-lôn giết các con mình và có lẽ vua đã chết trước khi Giê-hô-gia-kim được
thả tự do (Gie 52:10-11,31-34). Điều này
có nghĩa là Giê-hô-gia-kim là vị vua cuối cùng của dòng dõi Đa-vít còn sót lại.
Dĩ nhiên, Chúa Giê-xu là "con
trai của Đa-vít" (Mat 1:1 Ro 1:3) một ngày nào đó Ngài sẽ phục hồi lại vận
mệnh của Y-sơ-ra-ên và cai trị trên ngôi Đa-vít (Lu
1:30-33,67-79).
Gia phả trong Mat 1:1-25 đã truy tìm tổ tiên
của Đấng Christ theo người cha của Ngài trên phưtơng diện luật pháp loài người
là Giô-sép. Tuy nhiên, từ Giê-hô-gia kin trở đi trong gia phả đó, thì không một
ai thuộc hậu tự của ông được ngồi trên ngôi Đa-vít vì để ứng nghiệm lời rủa sả
trong Gie 22:24-30. Đức Chúa Trời lập quyền
cai trị cho ngôi Đa-vít qua mẹ Ngài là Ma-ry, người có gia phả được ghi lại
trong Lu 3:21-38. Từ Ap-ra-ham đến Đa-vít,
các tên đều giống nhau nhưng từ Đa-vít trở đi thì hai bảng gia phả lại khác
nhau. Lu-ca truy theo dòng dõi qua Na-than, con trai của Đa-vít nên bỏ qua
Giê-hô-gia-kim, hậu tự của Sa-lô-môn. Chúa Giê-xu Christ có đủ quyền ngồi trên
ngai của Đa-vít và tương lai của Ngài sẽ được tiên tri Giê-rê-mi đề cập đến
trong phần tiếp theo.
Đấng Mê-si-a, Nhà vua của sự công bình (Gie
23:1-8). Tiên tri Giê-rê-mi đã tố cáo tất cả những người đứng đầu
("những người chăn") của Giu-đa về cách họ đối đãi độc ác đối với
những người không có khả năng tự vệ (c.1-4). Thay vì dẫn dắt cả bầy chiên trong
tình yêu thương, họ lại đuổi bầy không thương xót và lợi dụng nó. Người chăn
bầy đã quan tâm thăm viếng ("chăm sóc") bầy chiên và Chúa sẽ thăm
phạt những người chăn bầy đó. Chính vì lý do bất tuân Luật pháp và từ chối nhờ
cậy Chúa nên những người lãnh đạo đã hủy diệt cả dân tộc và làm tan lạc cả bầy
chiên của Chúa trong các nước ngoại bang. Tuy nhiên, Chúa hứa sẽ nhóm dân Ngài
lại và khôi phục những người còn sót lại trở thành một dân tộc (từ ngữ
"những người sót lại" được dùng tất cả 19 lần trong Giê-rê-mi). Những
người sót lại đã thật sự trở về Giu-đa sau khi bị bắt làm phu tù, họ xây dựng
lại đền thờ và lập lại đất nước.
Tuy nhiên, Giê-rê-mi còn cho biết sẽ
có một sự nhóm họp lớn hơn nữa của người Do Thái- một phép lạ còn lớn lao hơn
cả việc giải cứu dân sự ra khỏi Ai Cập (c.7-8 16:14-15).
Đức Chúa Trời sẽ kêu gọi dân Ngài từ các dân tộc trên thế giới, nhóm họp họ lại
trong xứ, xóa mọi tội lỗi của họ và phái Đấng Mê-si-a đến với họ theo lời mà
Ngài đã hứa cho họ (Gie 30:1-24 Es 2:1-5 4:1-6 9:1-7 11:1-12:6
Exe 12:1-14:23). "Cây của nhà
Đa-vít" có thể sẽ bị chặt nhưng một nhánh sẽ mọc lên từ gốc cậy đó và sẽ
trở thành Đấng cai trị mọi dân tộc (Es 11:1 53:2).
Trái với những vị vua không công
bình mà Giê-rê-mi đã miêu tả, vị Vua này là Vua công bình và cai trị theo công
lý. Các vương quốc của Y-sơ-ra-ên (phía Bắc) và Giu-đa ( phía Nam) sẽ hợp nhất
lại thành một. Họ sẽ kinh nghiệm được sự cứu rỗi và sống trong yên bình. Tên
của vị Vua này là "Đức Giê-hô-va- Sự Công bình của chúng ta" (Gie 33:15-16). Theo ICo
1:30 và IICo 5:21, danh xưng này chỉ
dùng cho Chúa Giê-xu Christ mà thôi. Khi bạn đặt đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ
thì sự công bình của Ngài sẽ được đặt vào đời sống bạn và bạn sẽ được xưng công
bình trước mặt Chúa. Điều này được gọi là "được xưng công bình bởi đức
tin" (Ro 3:21-5:11)
Dù cho ngày tháng có tăm tối thế nào
đi nữa, Chúa vẫn đem lại ánh sáng hi vọng cho chúng ta qua lời hứa của Ngài.
Những người tin kính Chúa còn sót lại có lẽ rất được khích lệ khi nghe những
lời của Giê-rê-mi và những lời hứa này sẽ giúp họ đứng vững trong những ngày
khó khăn đang khi bị bắt làm phu tù. Việc những người Do Thái quay trở về xứ
mình chính là một lời báo trước cho một sự nhóm họp vĩ đại trên khắp đất sẽ xảy
ra vào những ngày cuối cùng khi "Ngài sẽ sai thiên sứ …kia" (Mat 24:31).
Gie 22:1-30; xem giải nghĩa Gie
21:1-14
Gie 23:1-8; xem giải nghĩa Gie 21:1-14
3. Chúa phơi bày tội
lỗi của các tiên tri giả (Gie 23:9-40)
Những điều Chúa phán, vốn được ghi
lại trong Gie 14:14 đã tóm tắt nội dung của
toàn bộ chương này. Tiên tri Giê-rê-mi đã tập trung vào 3 lĩnh vực đặc biệt gớm ghê trong đời sống của họ.
a. Họ đã làm những việc tồi bại ghê tởm (c.9-15): Những nhà tiên tri thật là những người luôn nhận thức
được tầm quan trọng của việc được Chúa kêu gọi rao giảng lời Ngài và họ nhận
lãnh trách nhiệm với lòng run sợ. Khi nhìn thấy những người tự cho mình là tiên
tri nhưng lại có đời sống như những tội nhân, họ cảm thấy buồn lòng biết bao.
Vì vậy, không có gì là ngạc nhiên khi tiên tri Giê-rê-mi lại xót xa tan nát cõi
lòng và run rẩy như người say rượu! Ông đã nhìn thấy những nguy hiểm điều mà
các tiên tri giả đang làm cho dân sự cho khắp xứ và những điều đó đã khiến ông
ưu tư “Nhơn vì kẻ ác bỏ luật pháp Chúa, cơn giận nóng nảy [70] hãm bắt tôi” (Thi
119:53)
Các tiên tri giả phạm tội tà dâm
thường tụ tập tại nhà của phường đĩ điếm (Gie 5:7).
Sau đó, họ lại đi vào đền thờ và thờ phượng Đức Giê-hô-va một cách giả hình (23:11); biến nhà Chúa thành hang trộm cướp (7:9-11). Tuy nhiên, từ ngữ "tà dâm" cũng
chỉ đến việc họ thờ phượng các thần tượng, quay lưng lại với Đức Chúa Trời chân
thật (Đấng đã “cưới” dân Y-sơ-ra-ên) và bội ước với Ngài.
Các tiên tri giả đã dẫn dắt vương
quốc Y-sơ-ra-ên ở phía Bắc đi sai đường (23:13)
và bây giờ họ lại dẫn vương quốc Giu-đa ở Phía Nam đi lạc đường (c.14). Ba-anh
là vị thần mưa của người Ca-na-an, vị thần mà dân Do Thái đã quay sang cũng
lạy, dâng tế lễ ô uế và cầu xin sự giúp đỡ khi gặp hạn hán (IVua 17:1-18:46). Giê-ru-sa-lem trở nên giống như
thành Sô-đôm và Gô-mơ-rơ là những thành gian ác đến nỗi Đức Chúa Trời đã phải
huỷ diệt họ (Gie 20:16 Sa 18:1-19:38)
Cả xứ gặp phải cơn hoạn nạn lớn (Gie 23:10 xem chương 14) vì các tiên tri giả dẫn
dắt dân sự vi phạm giao ước của họ vớí Chúa. Đức Chúa Trời hứa sẽ ban mưa cho
họ vào mùa thu và mùa xuân nếu họ vâng lời Ngài (Phu
11:10-15 28:12), nhưng Ngài cũng cảnh
cáo họ sẽ khiến bầu trời rắn như đồng và đất như cứng sắt nếu họ không vâng lời
Ngài (11:16-17 28:23-24).
"Vì cớ bị rủa sả nên đất nên sầu thảm" (Gie
23:10). Tuy nhiên, những kẻ tội lỗi ấy vẫn không chịu trốn chạy mặc dù
họ đã nghe rõ rằng Chúa hứa sẽ đoán phạt họ theo đúng thời điểm (c.12,15).
Hễ có một dân tộc nào đó cần được
chữa lành thì thường ấy chính là vì lý do dân của
Chúa đã không vâng lời và hầu việc Ngài. Chúng ta thường thích trách cứ những
nhà chính trị không trung thực và những công ty tổ chức đã cung cấp những hình
thức giải trí khác nhau đưa đến tình trạng suy đồi đạo đức của dân tộc,
còn Chúa thì khiển trách chính dân sự của Ngài.
"Nhược bằng dân sự Ta, là dân gọi bằng danh
Ta, hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt ta …tai vạ" (IISu 7:14)
b. Họ đã nói tiên tri giả dối (c. 16-32): Trước hết, các tiên tri giả tạo cho dân sự một niềm hi
vọng giả dối (Gie
23:16-20). Đức Chúa Trời phán "các ngươi sẽ được bình an… Chẳng có
tai họa nào sẽ đến trên các ngươi hết" (c.17, 6:13-15
8:10-12). Dĩ nhiên, đây là một sứ điệp
thường gặp và những người đang sợ hãi này chộp lấy rồi bám vào đó. Nhưng các
tiên tri giả không hề nghe sứ điệp đó từ Chúa, họ đã tự bịa ra mà thôi. Thay
cho sự bình an, một cơn bão tố từ Đức Chúa Trời đang đến với họ (23:20). Chúa sắp sửa thổi bùng cơn giận thánh
khiết của mình lên và trút nó xuống đầu dân sự tội lỗi của Ngài. Cuối cùng khi
dân sự hiểu được mục đích của Chúa thì mọi việc đã quá trễ để có thể ngăn cơn gió lốc lại.
Các tiên tri giả không
chỉ đem lại một niềm hi vọng hão huyền giả dối cho dân sự mà họ còn thực hiện
chức vụ bằng quyền
năng giả mạo (23:21-24). Chúa
không hề phán bảo họ nói tiên tri nhưng họ lại nói tiên tri. Chúa không hề kêu
gọi họ nhưng họ lại chạy đi rao giảng các sứ điệp. Nếu họ thật sự là tiên tri
của Chúa, họ đã thì ắt hẳn sống một đời sống tin kính Chúa và khuyến khích dân
sự từ bỏ những sự gian ác của họ. Thay vì vậy, họ lại giảng dạy "thuyết
thần học" thường gặp là thuyết khiến mọi người trở nên sùng đạo giả hình
nhưng cứ sống trong tội lỗi mình.
Đức Giê-hô-va không phải là một thần
tượng như những thần tượng ngoại bang khác mà là Đức Chúa Trời siêu việt, Đấng
cai trị trên muôn vật trên cả trời và đất (c.23-24). Ngài cũng không nhắm mắt
làm ngơ trước tội lỗi của dân sự như những thần tượng khác (Thi 115:5). "Có người nào ….chăng ?" (Gie 23:24). Vì chỉ mãi lắng nghe các tiên tri giả,
nên dân sự đã tin vào những lời dối trá về Chúa. Thường thì nhưng điều chúng ta
tin vào Chúa sẽ quyết định lối sống của chúng ta.
Cuối cùng, các tiên tri giả đã nói
tiên tri bằng linh cảm giả dối
(c.25-32). Họ dựa vào những giấc mơ và ảo tưởng của tâm trì mình, thậm
chí họ còn ăn cắp lời tiên tri của nhau nữa! Nếu đem
ví sánh Lời Chúa với những hạt lúa mì đầy chất dinh dưỡng thì sứ điệp của các
tiên tri giả chẳng khác nào rơm rạ mà thôi; bạn không thể ăn nuốt rơm rạ được,
cũng chẳng dùng để xây nhà cửa được, hoặc thậm chí không thể dùng nó để sưởi ấm
được.
Sứ điệp của nhà tiên tri
thật được ví như cái búa, là dụng cụ mà người ta có thể dùng
để phá huỷ thứ gì đó và xây dựng lại (1:10)
hay thậm chí có thể đập vỡ cả đá (23:29).
Lời Chúa như lửa có thể đốt cháy mọi rác rến và thanh tẩy bất cứ thứ gì khi nó
chạm đến. Tiên tri Giê-rê-mi đã từng bị Lời Chúa thiêu đốt trong lòng (20:9 Lu 24:32)
và trên môi miệng ông (Gie 5:14). Ong chính
người Chúa sai đến dùng lửa của Lời Ngài thử nghiệm đời sống dân sự (6:27).
Ngày nay, cũng có những giáo sư,
những tiên tri giả dang sống và hành sự trong thế giới của chúng ta (IIPhi 2:1 IGi 4:1-6),
những người tự xưng là biết ý muốn của Chúa qua những giấc mộng, qua thuật
nghiên cứu chiêm tinh hoặc qua các ân tứ "thuộc linh" đặc biệt của
họ. Một số họ đã xâm nhập vào Hội Thánh (Giu 1:3-4).
Bất cứ ai tự xưng là đang nói thay cho Đức Chúa Trời củng phải được kiểm chứng
bằng Lời của Chúa (Es 8:20).
c. Họ đã có thái độ bất kính (c.33-40): Từ chính bằng tiếng Hê-bơ-rơ trong chương này là massa , có nghĩa là
"gánh nặng". Giê-rê-mi dùng từ này để chỉ đến việc khiêng gánh trong
ngày Sabát (Gie 17:21-27). Nhưng ở đây, từ
ngữ này ám chỉ đến gánh nặng sứ điệp mà Đức Chúa Trời đã đặt để trên vai các
tiên tri của Ngài (Ne 1:1 Ha 1:1 Ma 1:1).
Do đó, một số học giả đã dịch từ này là "lời sấm" dầu vậy, nghĩa
"gánh nặng" vẫn có thể được chấp nhận (xem bản dịch NIV và NASB, cả
hai đều dùng ghi "gánh nặng" ngoài lề).
Chúa đã khuyến cáo tiên tri
Giê-rê-mi không được tạo thêm cơ hội cho các thầy tế lễ, dân sự và các tiên tri
giả có thái độ bất kính khi họ hỏi rằng: "Gánh nặng của Đức Chúa Trời là
gì?”. Cụm từ "gánh nặng của Đức Chúa Trời" gần như là một lời sáo
rỗng mà người ta vẫn thường chỉ dùng để cười nhạo tiên tri thật của Chúa mà thôi.
(Cụm từ "được tái sinh" cũng hay bị dùng như thế).
Tại sao các tiên tri giảlại hỏi lời
sấm từ Đức Chúa Trời khi tiên tri Giê-rê-mi đã
giảng dạy cho họ những điều mà Chúa muốn họ lắng nghe ? Nếu họ đã
không chịu nghe theo những điều Chúa đã truyền dạy, tại sao Ngài lại phải dạy
bảo họ thêm nữa? Thái độ của họ thật thờ ơ và bất kính đối với sứ điệp của Chúa
và sứ giả của Ngài. Các tiên tri giả đã bóp méo lẽ thật theo ý họ muốn và gọi
những sứ điệp đó chỉ là "những lời sấm của Chúa".
Tiên tri Giê-rê-mi phải trả lời họ
rằng: "Chính các ngươi là gánh nặng!" (c.33, bản dịch NIV ngoài lề). Bản dịch Lời Hằng Sống là bản
dịch có nội dung đã nắm bắt tinh thần của phân đoạn (Gie
23:33):
“Nếu dân này…”
Hội Thánh thuộc về thế
gian là Hội Thánh thường nhấn mạnh đến "sự vui vẻ" và "giải
trí" mà quên mất những giọt nước mắt. Ngày nay chúng ta có những
"diễn viên hài Cơ Đốc Nhân" là những người có khả năng gây cười trong
30 phút cộng thêm một khoản thời gian ít ỏi nói về Phúc Âm và đưa ra lời mời
gọi tội nhân. Thay vì phí thì giờ cho việc cười đùa thì Hội Thánh ngày nay nên
hãy lắng nghe lời khuyên của Gia-cơ (Gia 4:9-10). Giữa lúc thế
giới đang gặp phải nhiều nan đề rắc rối mà Hội Thánh không xem trọng Lời Chúa
thì thật là nguy cơ.
4. Chúa chỉ ra sự bội
nghịch của Ngài (Gie 24:1-10)
Vào năm 597 TC, vua
Giê-hô-gia-kim (còn được gọi là Giê-cô-nia hoặc Cô-ni-a) đã bị đội quân
Ba-by-lôn phế truất cùng với nhiều quan
trưởng, những người giàu có và quân thù chỉ để lại những người nghèo khó làm
việc trong xứ (IIVua 24:14-16). Đây chính là
khởi điểm sự suy tàn của Giu-đa và chắc chắn rằng Giê-rê-mi cũng rất đau xót.
Nhận biết rằng tôi tớ của Ngài cần
sự khích lệ, Đức Chúa Trời đã cho Giê-rê-mi nhìn thấy một khải tượng về hai giỏ
đựng trái vả ở trước đền thờ của Chúa. Một giỏ đựng toàn những trái vả tươi tốt
mới chín đầu mùa và giỏ còn lại chỉ đựng những trái vả hư thối mà không ai muốn
ăn cả. Sau đó, Đức Chúa Trời giải thích với ông rằng những trái vải tươi tốt
tượng trưng cho những người bị bắt dẫn qua Ba-by-lôn trong khi những trái xấu
tượng trưng cho vua Sê-đê-kia và các quan cũng như những nguời còn sót lại
trong xứ hoặc trốn sang Ai Cập.
Bạn sẽ làm gì với những trái vải đã
hư ? Bạn sẽ ném chúng đi! Bạn sẽ làm gì với những trái vả tươi tốt? Bạn sẽ gìn
giữ và thưởng thức chúng! Chúa hứa sẽ chăm sóc cho những người bị đày, làm việc
trong lòng họ và một ngày nào đó, Ngài sẽ đưa họ trở về xứ mình. Giê-rê-mi thậm
chí đã viết thư cho những người bị bắt làm phu tù, khuyên bảo họ sống nhịn nhục
trong xứ họ bị đày và tìm kiếm Chúa hết lòng (Gie
29:1-4). Đối với vua Sê-đê-kia, người nối ngôi Giê-hô-gia-kin và đối với
các quan đã cho vua những lời cố vấn ngu ngốc thì
chẳng còn hi vọng gì nữa. Tuy nhiên, vẫn có hi vọng cho những người còn sót lại
biết kính sợ Chúa và tìm kiếm Chúa hết lòng.
Vào những lúc đất nước
gặp hoạn nạn và cuộc sống gia đình ra sao đi nữa, Chúa vẫn sẽ không bỏ rơi
những người tin kính Chúa còn sót lại. Những người nổi loạn chống nghịch Ngài
sẽ bị tan lạc và bị huỷ diệt, còn những tín đồ thật sự sẽ trung tín tìm kiếm
Chúa sẽ được Ngài nhậm lời cầi xin và làm thành kế hoạch của Ngài. Những người
trở lại xứ sau khi bị lưu đày chưa phải là những người hoàn toàn tốt đẹp nhưng
họ đã học biết được rằng phải nhờ cậy nơi Đức Chúa Trời Hằng sống chân thật và
không thờ hình tượng nữa.
Việc tàn phá thành Giê-ru-sa-lem và
sự sụp đổ của Giu-đa không phải là những tai nạn mà là một chương trình rõ rệt
do Chúa chủ động đưa ra. Giờ đậy cả xứ đều vui hưởng ngày Sa-bát (IISu 36:21 Le 25:14)
và những người bị lưu đày ở Ba-by-lôn ắt hẳn sẽ có thời gian đễ ăn năn và tìm
kiếm Đức Chúa Trời. Ở xứ Ba-by-lôn xa xôi, Đức Giê-hô-va, Người thợ gốm sẽ uốn
nắn lại dân Ngài (Gie 18:1-23) và họ sẽ quay
trở về xứ là nơi đã bị đoán phạt và tẩy sạch.
"Thật các sự sửa phạt ………như
vậy" (He 12:11).
8. ĐỐI DIỆN VỚI LẼ THẬT
VÀ CHỐNG LẠI NHỮNG LỜI GIẢ DỐI (Gie 25:1-30:24)
“An Idealist believes the short run doesn’t count. A cybic
beieves the long run doesn’t matter. A realist believes that what is done or
left undone in the short run determines the long run” Sidney J. Harris [71]
Trong những chương này,
chúng ta nhận thấy nhà tiên tri Giê-rê-mi đề cập đến 4 kinh nghiệm khác nhau
trong chức vụ khi ông hầu việc Đức Chúa Trời và tìm cách đưa vương quốc Giu-đa
quay trở lại với việc tìm cầu Chúa.
1. Tiên tri Giê-rê-mi
tiết lộ bí mật (Gie 25:1-38)
Tiên tri Giê-rê-mi đã hầu việc Chúa
được 23 năm khi ông giảng dạy những sứ điệp được ghi lại trong chương 25và 26 (25:3 26:1). Ông
được kêu gọi vào chức vụ nói tiên tri vào năm 626 TC (1:2)
và tiếp tục chức vụ của mình đến sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị phá huỷ vào năm
587 TC, một khoảng thời gian hơn 40 năm. Bấy giờ, ông đang đứng tại điểm mốc ở
giữa của chức vụ mình. Khi bạn nhìn lại những phản ứng
không thiện cảm của dân sự đối với nhà tiên tri cũng như đối với sứ điệp của
ông, bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy rằng Giê-rê-mi không những không ngã lòng từ bỏ
chức vụ của mình mà còn tiếp tục trung tín bước theo tiếng gọi của Chúa.
Nhà tiên tri đã giảng
dạy 2 sứ điệp- một cho người Do Thái và một cho các dân tộc ngoại bang (
c.15-38)
a. Sự đoán phạt dân Giu-đa (25:1-14): Bốn lần trong phân đoạn này,
Giê-rê-mi đưa ra lời cáo buộc thật nghiêm trọng: "Các ngươi không nghe
lời" (c.3-4,7-8). Những tiên tri trước đây, đa số họ không được chúng ta
biết đến, cũng đã cảnh báo về một sự đoán phạt lớn nếu cả dân tộc không ăn năn
và quay trở lại với Đức Giê-hô-va, vậy mà chức vụ của họ đã không được dân sự
chú ý đến. Tiên tri Giê-rê-mi đã giảng dạy cho những người lãng đạo và cả dân
sự trong 23 năm và cũng đã nhận được một thái độ tương tự. Do không vâng theo
Luật pháp, lại đi thờ lạy các hình tượng và chống lại tôi tớ Chúa, dân sự đã
chọc giận Chúa và mỗi lúc của cơn giận Chúa ngày càng đến gần họ hơn.
Một lần nữa, Giê-rê-mi
lại nói rằng vua Nê-bu-cát-nết-sa. [72] và
những đạo quân Ba-by-lôn là công cụ của Chúa trong việc đoán phạt Giu-đa (21:7,10) thậm chí ông
còn đề cập đến vua Nê-bu-cát-nết-sa với danh xưng "tôi tớ ta" (25:9 27:6 43:10). Nê-bu-cát-nết-sa không phải là một người
tin vào Đức Chúa Trời chân thật của Y-sơ-ra-ên nhưng trong những cuộc chinh
phục các xứ, vua đã làm thành ý muốn của Ngài (51:20-23).
Dân sự của Chúa lại không vâng phục Ngài khi họ đã có mọi thứ. Còn những người
đứng đầu các dân ngoại bang như các Pha-ra-ôn Ai Cập (Ro
9:17), Si-ru (Es 44:28 45:1) và Nê-bu-cát-nết-sa lại là những kẻ đi hoàn
thành ý muốn của Chúa. Hội Thánh ngày nay cũng cần nhớ rằng Đức Chúa Trời là
Đấng tể trị và có thể dùng bất cứ công cụ nào Ngài dự định, thậm chí ngay cả
những người lãnh đạo chưa tin Chúa để làm thành mục đích của Ngài trên đất.
Lần đầu tiên, Giê-rê-mi tiết lộ
"bí mật" rằng cuộc lưu đày tại Ba-by-lôn sẽ kéo dài trong 70 năm (Gie 25:11-14 29:10
Dan 9:1-2). Một lý do khiến Chúa quyết định
thời hạn 70 năm ấy, là để đất có thời gian được nghỉ ngơi, điều mà dân Do Thái
đã bỏ qua (IISu 36:20-21 Le 25:3-5). Đó chính là
Luật về Năm Sa-bát đã bị dân sự quên lãng gần 500 năm!. [73]
Tuy nhiên, Giu-đa không phải là nước duy nhất phải chịu sự xâm chiếm
của đạo quân Ba-by-lôn vì "các nước ở chung quanh" (Gie 25:9) cũng sẽ bị đoán phạt, gồm có những nước
được liệt kê trong 25:18-25 và 27:3. Bằng cách này hay
cách khác, những nước này đã liên minh với Giu-đa để chống lại Ba-by-lôn, nhưng
mạng lệnh của Chúa là các nước phải đầu phục Nê-bu-cát-nết-sa. Thật ra, Chúa sẽ
khiến cho cả súc vật phải vâng phục vua Ba-by-lôn!
Kết thúc 70 năm lưu đày không chỉ có
nghĩa là tự do đối với số dân Do Thái còn sót lại mà
cũng là sự đoán phạt đối với đế quốc Ba-by-lôn vì cách đối xử độc ác của họ đối
với dân Do Thái và các dân ngoại (25:12-14).
Việc vua Nê-bu-cát-nết-sa làm thành công việc của Chúa là một chuyện nhưng khi
vua trở nên kiêu ngạo và đáng ghét, vua đã vượt qua giới hạn của mình.
Ba-by-lôn rơi vào tay của đạo quân người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ vào năm 539
TC (Dan 5:1-31)
b. Sự đoán phạt đối với dân ngoại (Gie 25:15-38): Giê-rê-mi được Chúa kêu gọi để thực
hiện chức vụ không chỉ đối với dân Giu-đa mà còn đối với cả dân ngoại nữa (Gie 1:5). Chúa đã lập ông “trên dân các nước"
(c.10) và ban cho ông năng quyền để rao giảng Lời Chúa (c.10). Mặc dù Đức Chúa
Trời không ban Luật pháp Ngài cho dân ngoại và lập một mối quan hệ theo giao
ước với họ, Ngài vẫn khiến họ phải lãnh chịu tội lỗi của mình (Ro 1:18 Am 1:1-2:16)
Trong phân đoạn Kinh Thánh này,
Giê-rê-mi sử dụng 8 hình ảnh sống động để miêu tả sự
đoạn phạt của Chúa sẽ giáng trên các dân ngoại.
- CHÉN THỊNH NỘ (Gie 25:15-29) Tương tự
như các tương tri, các tác giả Thi thiên đã sử dụng hình ảnh quen thuộc này để
miêu tả sự đau khổ và sự đoán phạt (Thi 60:3
75:8) cũng như các tiên tri (Es 29:9 51:17,22 63:6 Gie 25:15-16
49:12 Exe
23:32-34 Ha 2:16). Bạn sẽ tìm thấy
hình ảnh này được lặp lại rất nhiều lần trong Tân Ước (Kh
14:8-10 16:19 18:6). "Ba-by-lôn …..điên cuồng" (Gie 51:7)
Mặc dù phân đoạn này chủ yếu tập
trung nói về các dân tộc ngoại bang nhưng Giê-rê-mi cũng bắt đầu danh sách của
mình bằng "Cho Giê-ru-sa-lem và cho các thành của Giu-đa" (25:18). Sự đoán phạt luôn bắt đầu từ dân sự của
Chúa (Exe 9:6 IPhi
4:17) "Vả ấy là thành …..cả sao?" (Gie
25:29)
Giê-rê-mi đã bắt các dân ngoại phải uống chén thịnh nộ của Đức Chúa Trời bằng cách nào?
Chắc chắn là nhà tiên tri sẽ không đi từ nước này sang nước khác để gặp gỡ
những người đứng đầu các dân tộc. Đây không phải lúc dành cho một chuyến hành
trình như vậy và những người đứng đầu dẫu sao cũng sẽ không sẵn lòng
chào đón ông. Có lẽ nhà tiên tri đã đi thăm viếng những người đại diện của các
nước khác nhau đang có mặt tại Giê-ru-sa-lem lúc đó (27:3)
để ăn một bữa cơm với ông và Giê-rê-mi sẽ rao giãng sứ điệp cho họ rồi chuyền
chén thịnh nộ tượng trưng ấy sang tay họ một vòng. Đây ắt hẳn là một "bài
giảng bằng hành động" khác để thu hút sự chú ý trong thành và khi các sứ
thần trở về nước mình, họ sẽ thuật lại những điều mà vị tiên tri lạ lùng này đã
nói và làm.
Uống chén là hành động thể hiện sự
đầu phục ý muốn của Chúa. "Ta há chẳng uống chén mà Cha đã ban cho ta uống
sao?" (Gi 18:11). Giê-rê-mi kêu gọi các
dân tộc đầu phục ý muốn của Chúa, đầu hàng vua Nê-bu-cát-nết-sa để tránh sự huỷ
diệt. Về sau, Giê-rê-mi cũng minh hoạ thông điệp này bằng cách mang ách vào cổ
mình (Gie 27:1-22). Nếu các nước không uống
chén của sự thuận phục, thì kết cuộc họ sẽ phải uống chén của sự thịnh nộ và
"say mửa, ngã xuống, đừng dậy nữa" (25:27)
- SỬ TỬ GẦM RỐNG (Gie
25:30,38)
Sư tử thường gầm rống để khiến các con mồi tê liệt vì sợ hãi và Chúa cũng sẽ
gầm thét trong ngày đoán phạt khi Ngài thăm viếng các nước (Os 11:10 Gio 3:16
Am 1:2 3:8).
Chúa đã dùng tình yêu để phán bảo với dân sự nhưng họ đã không chịu vâng lời
Ngài nên giờ đây Ngài sẽ nói chuyện với họ bằng cơn giận dữ. Trong những ngày
sau rốt, Chiên Con của Chúa sẽ trở nên như sư tử và dốc đổ cơn thịnh nộ của
Ngài lên thế giới gian ác này. (Kh 5:5-7)
-
MÁY ÉP NHO (Gie 25:30) Đây là một
hình ảnh ẩn dụ quen thuộc chỉ sự đoán phạt (Es 63:3
Gio 3:13 Kh
14:19-20). Khi chia sẻ niềm vui trong mùa thu hoạch, những người đạp nho
vừa la lớn tiếng vừa hát với nhau (16:10) và
Chúa cũng sẽ hét lớn tiếng khi Ngài đoán xét các nước chống lại ý muốn của
Ngài.
- VIỆC KIỆN TỤNG (Gie 25: 31). "Đức Chúa Trời sẽ tranh cạnh
cùng các nước" (Os 4:1 Mi 6:2). Trước hết, Đức Chúa Trời sẽ kiện tụng
chính dân Ngài vì họ đã từ bỏ Ngài và quay sang các thần tượng khác (Gie 2:9-13). Trong vụ "xét xử" này, sẽ
chỉ có quan toà nhưng không có bồi thẩm đoàn, có lời cáo buộc nhưng không có
lời biện hộ, có kết án nhưng không có lời kháng án. Chúa đã ban cho dân Ngài
nhiều cơ hội để nhìn nhận và ăn năn về tội lỗi của mình, nhưng họ đã từ chối
tất cả. Bây giờ thì đã quá muộn.
- CƠN BÃO (Gie 25:32-33) Như một cơn bão, đạo quân của vua
Nê-bu-cát-nết-sa đi từ xứ này qua xứ khác, thành này qua thành khác và chỉ để
lại sự đổ nát sau lưng. "Nầy, cơn giận của …kẻ dữ " (23:19 30:23 Es 30:30)
- RÁC RƯỞI (Gie 25:33). việc không được chôn cất tử tế là một
điều sỉ nhục, vì thây người bị xem như là rác rưởi (8:2
9:22 16:4
22:19). Tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là:
"phân", thậm chí còn tệ hơn như vậy (Es
25:10-11)
- CÁI BÌNH VỠ (Gie 25:34) "Các ngươi sẽ ngã xuống như bình
quý giá". Điều này khiến chúng ta nhớ đến bài giảng bằng hành động của
Giê-rê-mi khi ông công khai làm vỡ bình gốm (Gie
19:1-3 13:14 48:38).
Một ngày nào đó, Chúa Giê-xu Christ cũng sẽ đập vỡ các dân tộc như đập vỡ những
chiếc bình gốm (Thi 2:9). Theo tiếng
Hê-bơ-rơ thì cuụm từ "bình quý giá" (Gie
25:34) được dùng để chỉ đến một chiếc bình tốt, không giống như những
bình khác. Chúa muốn những chiếc bình của Ngài luôn luôn được sạch sẽ và dễ uốn
nắn. Nếu không, Chúa có quyền đập vỡ những bình đó.
- BẦY CHIÊN BỊ GIẾT (Gie 25:34-38). Những người
chăn bầy vốn là nhà lãnh đạo dân sự như nhà vua, các quan, thầy tế lễ và các tiên
tri đã lợi dụng bầy của Chúa chớ không hết lòng chăm sóc cho dân Ngài.Bây giờ
chính là lúc họ sẽ bị giết hại và sẽ không còn có chỗ nào cho họ ẩn náu
cả ! Thay vì nghe tiếng kêu la của bầy chiên, những nguời chăn giờ đây sẽ nghe
chính tiếng la của mình khi họ nhìn thấy đồng cỏ của họ (Giu-đa) bị phá nát.
Như một con sư tử hung dữ (Gie 25:38,30) Chúa sẽ chộp
lấy những người chăn lẫn bầy chiên và sẽ không có ai có thể trốn thoát được.
"Vì thời kỳ đã đến… thế
nào?" (IPhi 4:17)
2. Tiên tri Giê-rê-mi liều mạng sống mình (Gie 26:1-24)
Chúng ta cần nghiên cứu
chương này chung với đoạn 7 vì cả hai đều đề cập đến bài giảng táo bạo của tiên
tri Giê-rê-mi trong đền thờ. Bài giảng đã được
tóm tắt trong câu 3-7 và xin bạn chú ý đến sự nhấn mạnh cụm từ “nghe lời Ta” (25:3-8).
Giê-rê-mi đã giảng dạy đúng như điều Chúa đã phán dạy ông và ông không ngừng
rao truyền sứ điệp đó để làm thoả lòng dân sự. Các tiên tri giả giảng dạy những
điều dân sự muốn nghe còn Giê-rê-mi rao giảng những điều mà mọi
người cần phải nghe: "(ngươi) sẽ
nói mọi điều Ta truyền cho nói" (1:7)
Tuy nhiên, những người
trong đền thờ được sự hỗ trợ của thầy tế lễ và các tiên tri giả đã chống lại
thông điệp của Giê-rê-mi và đối xử với ông như một tiên tri giả, người đáng bị
chết mất. Đối với họ, quả là một điều
báng bổ khi Giê-rê-mi rao giảng rằng Đức Giê-hô-va sẽ cho phép thành thánh và
đền thánh Ngài rơi vào tay dân ngoại cũng giống như hòm giao ước bị rơi vào tay
dân Phi-li-tin tại Si-lô vậy (ISa 4:22). Vì
Đức Chúa Trời đã hứa với Đa-vít rằng Ngài sẽ bảo vệ thành phố và đền thờ cho
nên dân sự cho rằng Giê-rê-mi chắc chắn đang chối bỏ giao ước, ông đang dẫn mọi
người đi sai đường và đáng phải chết mất! (Phu
18:20).
Nhận được tin có náo loạn tại đền
thờ, các quan rời cung điện và đến ngay đền thờ để xem đã xảy ra việc gì. (điều
này khiến chúng ta liên tưởng đến kinh nghiệm của Phao-lô được ký thuật lại
trong sách Cong 21:27-40). Sau khi nghe dân
sự, các thầy tế lễ và các tiên tri kết tội Giê-rê-mi phạm tội báng bổ thánh
thần, họ cho nhà tiên tri một cơ hội để giải thích. Tiên tri Giê-rê-mi đã trình
bày 3 luận điểm trong lời bào chữa của mình.
Trước hết, ông cho biết những gì ông
nói là do chính Đức Chúa Trời sai bảo vì Chúa đã chọn ông (Gie 26:12,15). Nếu dân sự giết ông tức là giết một trong số
các tiên tri của Chúa và ông thà chết trung tín với Chúa hơn là sống bội nghịch
Ngài. Kế đến, dân sự lại là những người đang gặp nguy
nan và ông là người đang tìm cách cứu họ! (c.13) Nếu họ ăn năn và vâng theo lời
Chúa, Đức Chúa Trời sẽ hoãn cơn đoán phạt của Ngài lại và giải cứu họ. Cuối
cùng, nếu dân sự giết ông, họ sẽ làm đổ máu người vô tội và điều đó chỉ làm cho
sự đoán phạt sắp đổ xuống với họ thêm nặng nề mà thôi.
Ba luận điểm này đã giải
thoát tiên tri Giê-rê-mi. Trước hết, sau khi nghe ông trình bày một cách xác
thực, các quan chức đã kết luận rằng những lời cáo buộc về nhà tiên tri là giả
dối và Giê-rê-mi không phải chết (c.16). Kế đến, một vài
người khôn ngoan trong số các trưởng lão đã trưng dẫn câu chuyện xảy ra trong
quá khứ: ấy là câu chuyện nói về chức vụ của tiên tri Mi-chê trong thời vua
Ê-xê-chia (c.18-19 Mi 1:1 3:12). Lúc đó, người A-si-ri cũng đe doạ thành
Giê-ru-sa-lem (Es 36:1-37:38) nhưng vua
Ê-xê-chia đã vâng lời Đức Chúa Trời và dẫn dắt dânsự xưng nhận tội mình và ăn
năn với Ngài. Thứ ba, A-hi-cam, một trong các quan đã chứng minh là bạn của
Giê-rê-mi và giải thoát người (Gie 26:24).
A-hi-cam đã phục vụ cho vua Giô-sia (IIVua 22:11-14)
và là cha của Ghê-đa-lia, người cai trị Giu-đa trong tương lai (25:22 40:5).
Thoạt đầu, mới đọc qua, sự kiện về
tiên tri U-ri (Gie 26:20-23) dường như không
liên quan gì đến lời biện hộ của Giê-rê-mi vì nhà vua đã xử tử U-ri, sau khi
ông trốn sang Ai Cập rồi bị bắt về cho vua Giê-hô-gia-kin. Vả lại, lúc ấy
Giê-rê-mi vẫn đang ở trong xứ Giu-đa và thậm chí còn
thi hành chức vụ trong khu vực đền thờ! Giê-rê-mi đã có mọi bằng chứng là một
người trung thành với đất nước mặc dù ông không đồng ý với đường lối chính trị
của những người lãnh đạo. Chúng ta không thể trách U-ri về việc để cố cứu mạng
sống mình, ông đã vi phạm luật pháp khi cố nói tiên tri cho Chúa , và điều này
đã dẫn đến cái chết của ông.
3. Tiên tri Giê-rê-mi
mang ách (Gie 27:1-28:17)
Một lần nữa, Giê-rê-mi
lại dùng "bài giảng bằng hành động" để lôi kéo sự chú ý của mọi người
và ông đã hành động như vậy khi vua Sê-đê-kia đang gặp gỡ đại diện của 5 nước láng
giềng. Những nước này là liên minh của Giu-đa và họ cùng nhau chuẫn bị âm mưu
chống lại vua Nê-bu-cát-nết-sa.
a. Thông điệp về cái ách (27:1-22): Cái ách nói lên sự vâng phục và đó cũng chính là thông
điệp mà Giê-rê-mi đang gắng truyền đạt. Trước hết, Giê-rê-mi chuyển sứ điệp đến
công sứ của các nước (c.1-11). Điều
mà các nhà chính trị này cần không phải là một âm mưu chiến lược mà là sự đầu
phục quân Ba-by-lôn. Khi mọi người hỏi Giê-rê-mi vì sao lại mang lấy ách, ông
liền nói cho họ biết thông điệp của Đức Chúa Trời rằng: Giu-đa và các nước phải
đầu hàng Nê-bu-cát-nết-sa bằng không sẽ bị huỷ diệt. Chúa đã phó các nước vào
tay vua Ba-by-lôn và nhưng nước đó nếu chống lại vua tức là chống nghịch lại
chính Chúa (c.7-8,11-12). Tiên tri gởi sứ điệp này cho các công sứ đang tụ họp
tại Giê-ru-sa-lem là những người chắc chắn đã được nghe về việc có một người Do
Thái đeo ách vào cổ và đi quanh thành một cách kỳ quặc (28:10).
"Mọi dân tộc sẽ
phục vua (Nê-bu-cát-nết-sa) và con vua cũng như cháu vua" chỉ là một thanh
ngữ dễ hiểu có nghĩa là "họ sẽ phục
vua trong khoảng thời gian rất lâu". Con trai vua Nê-bu-cát-nết-sa là
Ê-vinh Mê-rô-đác đã lên ngôi kế vị cha (52:31-34
IIVua 25:27) thế rồi người anh rể của vua là
Nẹt-gan Sa-rết-sê (Gie 39:3) lại tiếp tục kế
vị ngôi vua chớ không phải là cháu của vua Nê-bu-cát-nết-sa.
Giu-đa có các tiên tri giả và những
nước ngoại bang cũng có những thầy bói (người giải thích các điềm), người giải
mộng (người giải thích các giấc mơ), kẻ thôi miên và thầy phù thủy (những người
cầu các quỷ để khám phá hay điều khiển tương lai) nhưng cả Giu-đa lẫn các dân
tộc ngoại đều không dám nghe những lời giả dối này. Mặc dù người Do Thái đã bị
cấm không được nhúng tay vào các hoạt động huyền bí (Le
19:26 Phu 18:10-11), thế thì tại sao
vua Sê-đê-kia lại muốn nghe theo lời cố vấn chính trị từ điạ ngục? (IICo 6:14-18)
Kế đó, Giê-rê-mi truyền sứ điệp cho vua Sê-đê-kia
Gie 27:12-15). Do vua đã chống lại
Ba-by-lôn và từ chối cống nạp, cho nên vua hiện đang gặp rắc rối. Khi nhìn thấy
tiên tri Giê-rê-mi đeo ách, nhà vua chắc hẳn đã quên mất sứ điệp: "Hãy đặt
cổ mình…sống" (c.12). Giê-rê-mi đã cảnh cáo vua chớ nghe theo những sứ
điệp giả dối của các tiên tri giả vì họ đã mượn danh Chúa mà nói lên những lời
giả dối mà thôi.
Giê-rê-mi tiếp tục ban phát
"thông điệp cái ách" cho các thầy tế
lễ và dân sự (c.16-22). Các tiên tri giả đã tự nói rằng các báu vật
bằng vàng và đồng trong đền thờ đã bị đạo quân Ba-by-lôn cướp đi sẽ sớm được
đem trở về thành Giê-ru-sa-lem, nhưng tiên tri Giê-rê-mi biết rằng đó chỉ là những lời dối trá. Thật ra, những bửu vật này đã
không được đem trở về mãi cho tới khi Chúa thăm viếng người Do Thái và
những ngưòi còn sót lại được trở về sau sắc lệnh của vua Si-ru (Exo 1:1-2:70). Điều quan trọng không phải là việc
lấy lại những khí dụng và bửu vật trong đền thờ mà là cứu dân sự thoát chết và
thành phố khỏi sự huỷ diệt. Điều này chỉ có thể xảy ra khi cả dân sự Chúa đầu
phục vua Ba-by-lôn.
Tiên tri Giê-rê-mi khiêu khích các
tiên tri giả bằng cách thúc đẩy họ cầu nguyện về vấn đề này. Xét cho cùng, nếu
họ là tiên tri thật của Chúa thì Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ đáp lời cầu nguyện
của họ. Ông yêu cầu họ cầu nguyện không phải cho những châu báu hiện đang ở
Ba-by-lôn sẽ được đem về nhưng cho việc gìn giữ những khí vật hiện đang còn
trong đền thờ. Việc quân Ba-by-lôn tổ chức cuộc tấn công thứ hai vào năm 597
nhằm đầu triều đại vua Sê-đê-kia (Gie 27:1 28:1), đã chứng minh rằng các tiên tri giả thật sự
là những kẻ dối trá và lời cầu nguyện của họ đã không
được Chúa đáp lời.
Giê-rê-mi kết thúc sứ
điệp của mình cho thầy tế lễ và dân sự bằng một lời hứa đầy hy vọng : sau thời
gian 70 năm bị bắt làm phu tù, Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ thăm viếng dân Ngài
tại Ba-by-lôn và đem họ trở về cố hương. Ngay
khi đang trong cơn thịnh nộ Chúa vẫn thương xót dân Ngài (Ha 3:2)
b. Việc bẽ gãy cái ách (28:1-17): Trong khi Giê-rê-mi mang cái ách và kêu gọi
dân sự đầu hàng quân Ba-by-lôn thì Ha-na-nia một trong số các tiên tri giả đứng
ra đương đầu với nhà tiên tri. Theo các ghi chép lịch sử thì vào cùng khoảng
thời gian này, vua Nê-bu-cát-nết-sa đang dẹp loạn trong xứ mình. Ha-na-nia đã
nhầm lẫn cho rằng cuộc nổi loạn là dấu hiệu của sự chấm dứt triều đại vua
Nê-bu-cát-nết-sa. Ha-na-nia tuyên bố rằng Đức Chúa Trời đã tháo cái ách của vua
xứ Ba-by-lôn, các khí mạnh trong đền thờ sẽ được mang trở lại thành
Giê-ru-sa-lem chỉ trong vòng hai năm. Đồng thời vua Giê-cô-nia cùng với những
người bị lưu đày cũng sẽ quay trở lại với họ.
Những sứ điệp này hoàn
toàn khác với điều mà tiên tri Giê-rê-mi đã nói trong danh Đức Chúa Trời. Đức
Chúa Trời đã phán với Giê-rê-mi rằng những người bị lưu đày và những khí mạnh
trong đền thờ sẽ không quay trở về xứ cho
đến khi Chúa thăm viếng họ sau 70 năm bị bắt làm phu tù (Gie 27:16-22). Ngoài ra, vua Giê-cô-nia sẽ không
quay trở về Giu-đa mà chết tại Ba-by-lôn (22:24-27
52:31-34)
Giê-rê-mi đã trả lời Ha-na-nia như sau: "A-men, nguyền xin Đức Giê-hô-va làm như
vậy! Nguyền xin Đức Giê-hô-va làm những lời ông đã nói tiên tri ! "Chúng
ta giải thích câu trả lời này như thế nào đây? Chắc chắn đó không phải là một
lời đồng ý với điều mà gã tiên tri giả đã nói vì Giê-rê-mi biết nhiều hơn. Có
lẽ chúng ta viết lại những lời của Giê-rê-mi như thế này: " Ô, mong sao
Đức Chúa Trời làm thành những điều ông đã nói! Nếu như vậy thì tôi sẽ vui mừng
biết bao! Bởi lẽ Giê-rê-mi biết rằng những lời tiên tri về hoà bình sẽ không
được thực hiện, vì nếu điều ấy xảy ra thì sẽ trái ngược với mọi lời tiên tri về
sự đoán phạt mà các tiên tri trước đó đã nói.
Ha-na-nia đã tức giận,
tháo cái ách ra khỏi cổ Giê-rê-mi và bẻ gãy trước mặt dân sự. Nếu Giê-rê-mi có
thể dùng các "bài giảng bằng hành động" để giảng thì Ha-na-nia cũng
có thể chớ! Ha-na-nia tuyên bố như thế này: "Đức Giê-hô-va ….như vậy" (28:11). Và ông ta còn khẳng định rằng không chỉ Giu-đa sẽ được trả tự
do mà tất cả mọi dân tộc đều
sẽ tháo cái ách của Ba-by-lôn. Một lần nữa, lời tiên tri của Ha-na-nia lại trái
ngược với sứ điệp Giê-rê-mi đã rao giảng cho các dân
tộc.
Giê-rê-mi đã không phản
đối lại khi Ha-na-nia tháo cái ách ra khỏi cổ ông hay đáp lời sứ điệp của nhà
tiên tri giả này. "Tiên tri Giê-rê-mi bèn đi" (c.11). Khi các thầy tế
lễ và dân sự chứng kiến cảng tượng này thì họ có thể cho rằng Giê-rê-mi im lặng
tức là đã đồng tình với Ha-na-nia. Nhưng thực ra, Giê-rê-mi đang chờ đợi sứ
điệp của Đức Chúa Trời và chờ đúng thời điểm nói rao giảng mà thôi.
Sứ điệp dành cho
Ha-na-nia vừa mang tính quốc gia vừa mang tính cá nhân. Về phía đất nước, do họ đi theo lời khuyên giả dối nên cái ách gỗ trên
vai họ sẽ được thay thế bằng cái ách sắt (Phu 28:48).
Các nước sẽ không trốn thoát được ách nô lê của vua Nê-bu-cát-nết-sa sẽ bắt họ
làm nô lệ. Mọi việc sẽ xảy ra tương tự như khi chúng ta từ chối những cái ách
nhẹ của Chúa đặt để trên chúng ta nên kết cục chúng ta sẽ phải mang lấy cái ách
nặng do chính chúng ta tạo ra. Sứ điệp cá nhân là nhà tiên tri giả ấy sẽ phải
chết vào hai tháng sau đó trong cùng năm ấy, và thực vậy Ha-na-nia đã chết (Gie 28:1,17). Nhưng ngay cả sự kiện này cũng không làm thức
tỉnh dân sự, họ vẫn hướng về những việc làm độc ác.
Chúa không thường khiến mọi người phải chết trong những trường
hợp tương tự nhưng điều này đã xảy ra cho những người đi theo Cô-rê (Dan 16:1-50), cho U-xa (IISa
6:1-23), cho đạo quân A-si-ri (IIVua 19:35)
và cho A-na-nia, Sa-phi-ra (Cong 5:1-42).
"Sa ..thay" (He 10:31)
Gie 27:1-22; xem giải nghia Gie 26:1-24
Gie 28:1-17; xem giải nghĩa Gie 26:1-24
4. Một số lá thư của
tiên tri Giê-rê-mi (Gie
29:1-32)
Trong chương này có một
vài lá thư: thư của Giê-rê-mi gởi cho những người bị lưu đày (c.1-14), thư
Giê-rê-mi trả lời cho các tiên tri giả người Do Thái tại Ba-by-lôn (c.15-23),
thư của Sê-ma-gia gởi cho các thầy tế lễ có quen biết với Giê-rê-mi mà ông đã
có dịp đọc được (c.24-29) và thư của Giê-rê-mi gởi cho những người bị lưu đày
có liên quan đến Sê-ma-gia (c.30-32). Vào thời bấy giờ, quan hệ thư từ như thế
cũng không có gì khó khăn trở ngại vì có rất nhiều cuộc gặp gỡ ngoại giao
thường xuyên giữa Giê-ru-sa-lem và Ba-by-lôn (c.3) và Giê-rê-mi cũng có rất
nhiều bạn bè làm việc ở chức vụ cao trong hàng những người lãnh đạo.
a. Lời khích lệ của tiên tri Giê-rê-mi (c.1-14): Sau khi dân sự bị lưu đày tại
Ba-by-lôn vào năm 597 TC. Thỉnh thoảng Giê-rê-mi lại gởi một lá thư cho họ để
chỉ dạy họ cách ăn nết ở nơi xứ người. Là một người chăn bầy có tấm lòng nên
Giê-rê-mi rất biết cách chỉ dạy và khích lệ dân sự trong cuộc sống tại
Ba-by-lôn. Vì bị những luật lệ liên quan đến những vật "tinh sạch" và
"không tinh sạch" chi phối quá nặng nề nên người Do Thái đã phải mất
một thời gian khó khăn mới hội nhập được với xã hội của người ngoại. Giê-rê-mi
muốn họ trở thành những chứng nhân tốt cho Chúa giữa vòng những người Ba-by-lôn
thờ hình tượng, và ông cũng muốn họ trở thành những người Do Thái gương mẫu dù
họ đã sống cách xa đền thờ và nhựng nghi lễ thờ phượng. Ông lưu tâm đến ba hạng
người sau:
- NHỮNG NGƯỜI ĐANG VÔ VỌNG (c.4-6): Những người bị lưu đày đã mất tất cả mọi thứ ngoại trừ
chính mạng sống của mình và chỉ với một ít của cải mà họ đã đem theo mình khi
đi sang Ba-by-lôn. Họ đã mất tự do và giờ đây đang là tù nhân. Họ đã bị đem ra
khỏi nhà mình và không còn phương tiện kiếm sống. Họ bị tách rời khỏi người
thân và bạn bè, một vài người trong số đó có thể bị giết chết trong suốt cuộc
hành trình dài từ Giê-ru-sa-lem đến Ba-by-lôn. Cho dù họ có cái nhìn sự việc
như thế nào đi nữa thì tình cảnh của họ lúc bấy giờ dường như thật vô vọng.
Chúng ta sẽ xoay sở như thế nào trong hoàn cảh tuyệt vọng như vậy? Hãy chấp nhận (c.4) và để Chúa dẫn theo con đường Ngài. Ngay cả việc
chúng ta có treo đàn mình trên cây liễu và ngồi xung quang đi chăng nữa thì đó
chỉ là một than khóc cũng quả làm một việc vô ích mà thôi cho dù đó là phản ứng
thông thường của chúng ta khi đối diện với tang thương (Thi 137:1-4). Một trong những bước đầu tiên để biến đau thương
thành vui mừng đó là hãy can đảm chấp nhận hoàn cảnh
và đặt chính mình trong bàn tay yêu thương của Chúa là Đấng không phạm sai lầm
bao giờ.
- NHỮNG NGƯỜI SỐNG TRONG HI VỌNG HÃO HUYỀN (Gie 29:6-9). Các tiên tri giả thuyết phục dân sự
rằng họ sẽ phải ở lại Ba-by-lôn chỉ trong một thời gian ngắn mà thôi, có lẽ là
hai năm (c.8-9), vì vậy, họ không cần phải ổn định và bắt đầu lại cuộc sống
bình thường. Nhưng Giê-rê-mi lại bảo họ điều ngược lại. Rằng họ sẽ phải ở đó
trong khoảng 70 năm (c.10), nên họ sẽ có rất nhiều thời gian để xây dựng nhà
cửa và gia đình. Việc những người bị lưu đày lập gia
đình sinh con đẻ cái là một điều rất quan trọng vì cần có đông đủ người cho
cuộc trở về Giu-đa sau thời kỳ bị bắt làm phu tù. Số người Do Thái ít ỏi còn
sót lại này đang nắm giữ trong tay mình tương lai của một kế hoạch vĩ đại về sự
cứu chuộc của Chúa và họ phải vâng lời Ngài, trung tín với Ngài và tăng trưởng
dân số thêm nhiều (c.6).
Việc người Do Thái tiến
hành một cuộc chiến tranh chống lại những người bắt nô lệ ngoại bang thờ hình
tượng là một điều rất dễ nhưng Giê-rê-mi đã chỉ dẫn họ nên sống hoà thuận với
người Ba-by-lôn, phải là những người biết hoà giải, chớ không phải là những
người gây rối, đồng thời họ còn phải còn cầu nguyện hết lòng cho kẻ thù mình.
Trở thành những người Do Thái gương mẫu là điều mà
dân sự Chúa vẫn có thể thực hiện được ngay cả trong xứ ngoại bang. Hãy nhớ
rằng, nếu chúng ta chống lại cái ách gỗ của sự thuận phục thì chúng ta sẽ phải
kết thúc với cái ách sắt của sự nô lệ (Gie 28:12-14).
Do vậy, cách tốt nhất là chúng ta hãy đầu phục Chúa
và những người lãnh đạo chúng ta cho dù họ cư xử tệ với chúng ta đến đâu đi
nữa. Mù quáng tin theo hi vọng giả dối sẽ khiến chúng ta bỏ lỡ điều Chúa đã
định sẵn cho chúng ta.
- NHỮNG NGƯỜI CÓ HI VỌNG THẬT (c.10-14). Hi vọng thật là hy vọng được dựa
trên Lời Chúa, chớ không phải dựa vào "những sứ điệp từ giấc mộng"
của những người tự xưng là tiên tri (c.10). Chúa đã ban cho dân Ngài "một
lời hứa thật phước hạnh" là Ngài sẽ giải cứu họ và Chúa sẽ giữ lời hứa
Ngài. Chúa đã định sẵn các chương trình cho dân Ngài và đó là những điều thật
tốt đẹp nên cuối cùng những điều ấy sẽ đem lại hi vọng và bình an cho họ. Vì
vậy, họ không có gì phải sợ hãi hay nản lòng cả.
Tuy nhiên, trong mỗi
hoàn cảnh, dân Chúa cần phải luôn có trách nhiệm tìm biết ý Chúa, cầu khẩn Ngài làm thành lời hứa của Ngài vì lời Chúa và sự cầu
nguyện phải luôn đi đôi với nhau (Cong 6:4).
Mục đích của sự sửa phạt là để chúng ta trở lại tìm kiếm Chúa, xưng nhận tội
lỗi mình và đến gần Ngài (He 12:3-13). Theo Gie 29:14, những lời hứa này không chỉ dành cho
những người Do Thái bị bắt làm phu tù tại Ba-by-lôn mà còn dành cho tất cả
những người Do Thái trên khắp thế giới. Tiên tri Giê-rê-mi đã nhìn thấy trước
điểm kết thúc của thời kỳ khi dân Y-sơ-ra-ên sẽ tái hợp để gặp Đấng Mê-sia và
bước vào vương quốc của họ (Es 10:20-12:6).
b. Lời giải thích của Giê-rê-mi (c.15-23): Các tiên tri giả tại Ba-by-lôn đã đưa ra những hi vọng
giả tạo cho dân sự liên quan đến Giê-ru-sa-lem và Giu-đa và những lời này đã
được truyền đến tai Giê-rê-mi. thật vậy, vua Sê-đê-kia đang còn trên ngôi và
vẫn còn sót lại một số người Do Thái trong thành Giê-ru-sa-lem, nhưng không có
điều gì đảm bảo rằng thành và đất nước được giải cứu. Dân sự vẫn ở trong xứ mà
"những trái vải xấu" phải bị ném đi
(Gie 24:1-10 29:17).
Điều quan trọng ở đây không phải là những gì xảy ra với dân trong xứ mà là
những người bị lưu đày sẽ làm gì với Lời Chúa. Nếu họ
vâng lời Chúa, Ngài sẽ làm thành những mục đích của Ngài và chúc phước cho họ.
Giê-rê-mi cũng nêu tên
hai vị tiên tri giả là A-háp và Sê-đê-kia, vốn là những người không chỉ giảng dạy
lời dối trá cho dân sự mà còn sống đời sống không tin kính. Giê-rê-mi đã tuyên
bố về ngày kết cuộc của họ ở Ba-by-lôn. Tên của họ trở nên những câu cửa miệng
trong Y-sơ-ra-ên để cảnh cáo những ai còn có ý định chống nghịch lại Lời Chúa.
c. Lời cảnh cáo của Giê-rê-mi (c.24-32): Lời cảnh cáo này là câu trả lời cho Sê-ma-gia, một tiên
tri giả khác tại Ba-by-lôn, người đã mượn “danh của Đức Chúa Trời” viết thư cho
dân sự tại thàn Giê-ru-sa-lem, thúc đẩy họ phải bắt giam Giê-rê-mi vì cho rằng ông là một người điên. Người cai quản đền thờ là
Sô-phô-ni đã cho tiên tri Giê-rê-mi đọc thư này (21:1).
Vì Sê-ma-gia có một nhóm ngưòi ủng hộ ông ta tại Ba-by-lôn, nên Giê-rê-mi đã
lên tiếng cảnh cáo những người đang bị đày ở đó rằng Sê-ma-gia chính là người
chống nghịch Chúa và Đức Chúa Trời đã không hề sai phái hay truyền sứ điệp cho
Sê-ma-gia. Rằng ông ta sẽ bị đoán phạt do tội lỗi mình gây ra, sẽ bị tuyệt tự,
bị bỏ mạng tại Ba-by-lôn và không bao giờ được trở lại nhìn thấy quê hương mình
nữa.
Những gì cuộc sống làm
cho chúng ta phụ thuộc phần lớn vào những điều cuộc sống tìm thấy trong chúng
ta. Nếu chúng ta tìm kiếm Chúa và mong muốn những điều tốt nhất của Ngài thì
cuộc sống sẽ tôi luyện và chuẩn bị cho chúng ta về điều Ngài dự định. Nếu chúng
ra chống nghịch lại ý Chúa hay tìm kiếm những con đường tắt hầu để đạt cho được
mục đích của mình nhanh hơn thì hoàn cảnh sẽ huỷ diệt chúng ta và cướp đi niềm
vui mà Chúa muốn chúng ta được hưởng. Cùng một ánh nắng mặt trời có thể làm tan
băng giá nhưng cũng có thể khiến cho đất cứng lại.
Những dự tính, chương
trình của Chúa liên quan đến chúng ta đều xuất phát từ tấm lòng của Ngài và dẫn
tới sự bình an trong Chúa. Vậy tại sao chúng ta phải lo mưu toan tìm kiếm những
điều thay thế khác?
9. ĐỨC CHÚA TRỜI, ĐẤNG
LÀM CHO MỌI SỰ TRỞ NÊN MỚI (Gie 30:1-33:26)
"Một
người tầm thường vẫn có thể nhìn thấy khi trời đang tối dần… nhưng anh ta,
không thể nhìn thấy xa hơn trong bóng tối. Anh ta cũng chẳng biết phải mô tả
ánh nắng mặt trời như thế nào trong bức tranh của mình. Còn một ngưòi vĩ đại
thì biết xua tan bóng tối và nhìn thấy quang cảnh huy hoàng của bình minh đang
ẩn sau bóng đêm" Charles E. Jefferson [74].
Các học giả về Kinh
Thánh vẫn thường gọi bốn chương này là "Sách an ủi". Trong đó, Đức
Chúa Trời làm rõ thêm lời hứa tuyệt diệu Chúa ban cho dân Ngài trong lá thư mà
Giê-rê-mi đã gởi cho những người đang bị lưu đày.
"Đức Giê-hô-va
phán: Vì ta biết ý tưởng ta nghĩ đối cùng các ngươi, là ý tưởng bình an, không
phải tai họa, để cho các ngươi được sự trông cậy trong lúc cuối cùng của mình" (29:11)
Gie 30:1-33:26 miêu tả quang cảnh huy hoàng của bình minh trong một ngày
mới dành cho dân Y-sơ-ra-ên, không chỉ cho những người bị lưu đày tại Ba-by-lôn
mà cho cả những người Do Thái trong những ngày sau rốt trước khi Chúa tái lâm.
Khi nghiên cứu, bạn sẽ khám phá ra rằng Giê-rê-mi đã nhìn thấy hai " chân trời": chân trời gần hơn là sự trở về Giu-đa của
những người bị lưu đày và chân trời xa hơn là sự tái hợp của dân Y-sơ-ra-ên từ
các dân tộc trên trái đất vào thời kỳ cuối cùng.
1. Sự cứu chuộc: một
khởi điểm mới (Gie 30:1-24)
Giê-rê-mi nhận được
những lời đựoc ghi lại trong 30:1-31:25 trong khi ngủ (31:26)
vì thỉnh thoảng Chúa cũng phán với tôi tớ Ngài qua giấc mơ (Dan 10:9 Xa 4:1).
Chúa chỉ dẫn Giê-rê-mi viết những lời Ngài vào một quyển sách (cuộn sách) để cả
dân tộc đều có chung một về lời hứa mà Chúa đã ban cho dân Ngài (Gie 36:1-4)
Trong lời Chúa chỉ dẫn Giê-rê-mi,
Ngài đưa ra điểm của thông điệp Ngài là: Y-sơ-ra-ên (vương quốc phía Bắc bị
quân A-si-ri chiếm đánh vào năm 722 T.C) và Giu-đa (vương quốc phía Nam) cuối
cùng sẽ trở lại xứ mình như một dân tộc thống nhất (30:3).
Trong khi lời hứa này đề cập đến sự tái hợp của dân Do Thái vào cuối thời kỳ,
chắc chắn đó cũng là một lời khích lệ đối với những người bị lưu đày tại
Ba-by-lôn vì nếu Chúa có thể tụ họp dân Ngài từ mọi dân tộc trên thế giới thì
Ngài chắc chắn sẽ giải cứu Giu-đa khỏi ách phu tù của
một dân tộc.
"Sự cứu chuộc"
này được miêu tả qua nhiều cách :
a. Cái ách bị gãy (c.4-11): "Đức Giê-hô-va vạn
quân phán: Trong ngày đó, ta sẽ bẻ ách nó khỏi cổ ngươi; sẽ dứt dây trói ngươi,
dân ngoại sẽ không bắt nó phục dịch nữa" (c.8). Khi các tiên tri sử dụng
cụm từ "trong ngày đó", họ thường đề cập đến tương lai khi Chúa đoán
xét các nước trên thế giới và lấy lại xứ cho người Do Thái [75]
Tuy nhiên, trước khi
Y-sơ-ra-ên được giải cứu, các dân tộc trên đất phải trải qua " kỳ tai hại của Gia-cốp" ( c.7). Đây là
cụm từ để chỉ đến thời kỳ khó khăn sẽ xảy ra trên đất (Mat
24:21-31 Mac 13:19-27 Kh 6:1-19:21). Một hình ảnh quen thuộc trong Kinh
Thánh là sự đau đớn của người phụ nữ khi sinh nở (Gie
30:6) và hình ảnh này cũng đựoc dùng để miêu tả sự khó khăn vào thời kỳ
cuối cùng (Es 13:8 và ngữ cảnh Mi 4:9-13 ITe 5:1-3) [76]
Lời hứa trong Gie 30:9 được áp
dụng cho tương lai của thời kỳ Vương quốc, kế tiếp theo là thời kỳ khó khăn khi
Đấng Mê-si-a sẽ cai trị dân Ngài. Bạn cũng có thể tìm thấy lời hứa tương tự
trong 23:5 và 33:14-26.
Khi Chúa Giê-xu còn tại thế, dân Ngài đã nói rằng: "Song dân ấy ghét
ngươi, thì sai sứ theo đặng nói rằng: Chúng tôi không muốn người này cai trị
chúng tôi!" (Lu 19:14). Nhưng vào ngày
đó, họ sẽ nhận ra Đấng Mê-si-a, vị Vua của mình và chào đón Ngài (Xa 12:8-14:21).
b. Vết thương được chữa lành (c.12-17): Vào thời Ê-sai, Giu-đa là một dân tộc "bệnh hoạn" (Es 1:5-6) và vì
việc giảng dạy nông cạn của các tiên tri giả (Gie
6:14 8:11) nên bệnh tật của họ càng
trở nên trầm trọng hơn vào thời của Giê-rê-mi (Gie
10:19 14:17 15:18).
Những vết thương trên "một cơ thể vốn khoẻ mạnh" là dân tộc
Y-sơ-ra-ên bấy giờ trở nên quá trầm trọng đến nỗi không một phương thuốc nào có
thể chữa lành cho nó và cho cả những nước đồng minh của nó nữa ấy là những nước
mà những người lãnh đạo Do Thái đã tin cậy hoàn toàn vào đó thì nay chúng đã bỏ
rơi Giu-đa, phó mặc cho số phận của nó ra sao thì ra. Đức Chúa Trời đã nhắc cho
dân sự nhớ rằng chính Chúa là người đã dùng các dân tộc khác làm cho Giu-đa bị
thương vì cớ Giu-đa đã không vâng lời Chúa (30:14)
Ngài đã dùng cường quốc A-si-ri để sửa phạt Y-sơ-ra-ên và dùng Ba-by-lôn sửa
phạt Giu-đa. Rồi đây, trong những ngày sau rốt, Ngài sẽ dùng các nước ngoại
bang để sửa trị Y-sơ-ra-ên, và chuẩn bị cho người Do Thái quay về với Đấng
Mê-si-a. Thế nhưng, Chúa sẽ sửa phạt các nước ngoại bang về cách họ cư xử với
Y-sơ-ra-ên trong những ngày cuối cùng (30:6 Gio 3:1-21) cũng như Ngài đã sửa phạt A-si-ri và
Ba-by-lôn. "Đức Giê-hô-va phán: Ta sẽ chữa lành thân thể ngươi, và chữa vết thương ngươi, vì chúng nó đã gọi
ngươi là kẻ bị bỏ, mà rằng”Ay là Si-ôn, chẳng ai ngỡ ngàng đến!” (Gie 30:17)
c. Sự yên tĩnh sau cơn giông bão (c.18-24): Giê-rê-mi lại dùng hình ảnh giông bão (c.23) mà ông đã
dùng trước đó (23:19-20)
để miêu tả cuộc tấn công của quân đội Ba-by-lôn. Nhưng giờ đây ông dùng hình
ảnh này để diễn tả sự khó khăn "trong ngày sau rốt" (30:24). Chúa hứa rằng thành Giê-ru-sa-lem và các
thành của Giu-đa sẽ được xây dựng lại. [77]. và tài sản của dân sự sẽ được khôi phục lại. Sự than khóc
của họ sẽ đổi ra vui mừng và con cái họ sẽ một lần nữa được trở lại với cuộc
sống bình thường.
Thay vì sống dưới quyền
cai trị của những ngưòi ngoại ban, người Do Thái sẽ có Đấng Mê-si-a Đấng cai
trị họ là Đấng "xuất thân trong chính
họ” ấy là một người Do Thái. Ở đây, chúng ta nhận được một sự mạc khải đặc
biệt rằng Đấng Mê-si-a không chỉ là Vua mà còn là Thầy Tế Lễ của họ nữa!
(c.21). Đây là ngôn ngữ đặc biệt chỉ được dùng để nói về thầy tế lễ thượng phẩm
Do Thái, là người duy nhất được phép vào nơi chí thánh trong những dịp
đại lễ chuộc tội hằng năm (Le 16:1-34). Và
chỉ có Chúa Giê-xu Christ độc tôn là vị Vua cũng là Thầy Tế Lễ mới có đầy đủ
phẩm chất để làm thành lời tiên tri này (He
7:1-8:13).
Tóm lại: Dân Giu-đa sẽ phải trải qua
những thử thách kinh khủng dưới tay người Ba-by-lôn.
Họ sẽ nhận lấy kết cục là phải mang ách của người ngoại bang, chịu đựng vết
thương do tội lỗi của chính họ gây ra và cơn giận của Chúa. Nhưng cuối cùng
Chúa sẽ giải cứu họ, bẻ gãy ách, chữa lành vết thương và đem lại sự bình an sau
cơn giông tố. Tất cả những điều này là điềm báo trước về những điều sẽ xảy ra
với dân Do Thái vào thời kỳ cuối cùng khi họ đã trải qua thời kỳ khó khăn sẽ
gặp gỡ Đấng Mê-si-a và bước vào vương quốc của họ.
2. Sự giải hòa: một dân
tộc mới (Gie 31:1-30)
Sự tồn tại của một dân
tộc còn quan trọng hơn cả đất đai, và các thành phố. Dân sự cần phải hiệp lại
mà sống, làm việc và thờ phượng Chúa. Trong chương này, Giê-rê-mi đã miêu tả về
dân sự Chúa và những điều mới mẻ mà Ngài đã
làm cho họ. Đầu tiên, Chúa phán với cả một dân tộc thống nhất (31:1,27-30), sau đó Ngài phán dạyY-sơ-ra-ên (31:2-20) và cuối cùng Ngài phán dạy Giu-đa (31:21-26)
a. Một dân tộc thống nhất (Gie 31:27-30): Do những tội lỗi của Sa-lô-môn và sự ngu ngốc của
Rô-bô-am, con trai Sa-lô-môn mà đất nước Do Thái đã bị chia lìa làm hai trở
thành Y-sơ-ra-ên (vương quốc phía Bắc) và Giu-đa (vương quốc phía Nam) (IIVua 11:1-12:21). Nhưng trong những ngày cuối
cùng, Đức Chúa Trời sẽ nhóm họp dân Ngài lại hiệp nhất họ và Ngài sẽ trở thành
"Đức Chúa Trời của hết thảy họ hàng Y-sơ-ra-ên" (Gie 31:1). Thật ra, Chúa so sánh Y-sơ-ra-ên và
Giu-đa như một hột giống gieo xuống đất và sẽ cho một vụ mùa chớ không phải là
hai (Gie 31:27).
Công việc của Giê-rê-mi là phá vỡ
hay cày xới lên và xây hay trồng lại (1:10)
nhưng mãi cho tới bây giờ, chỉ mới là công việc đầu
tiên. Tuy nhiên, trong tương lai, Chúa sẽ xây hay trồng để người và cả xứ có
thể được phục hồi trở lại. Sẽ không còn "khiển trách các người cha"
nữa về những gì đã xảy ra (Exe 18:1-4,19-23 Phu 24:16) vì mỗi người
sẽ nhận lãnh trách nhiệm về tội lỗi do chính mình gây ra. Nguyên tắc này cũng
sẽ đượcáp dụng cho số người còn sót lại và quay trở về xứ sau thời kỳ bị bắt
làm phu tù, chính sự thất bại của mỗi cá nhân trong việc vâng lời Chúa đã dẫn
tới sự sụp đổ của một đất nước. Nếu các vua và các thầy tế lễ đều giống như vua
Giô-sia và Giê-rê-mi thì cả dân tộc đã được giải cứu.
b. Dân tộc Y-sơ-ra-ên được khôi phục (Gie 31:2-20): Những tên
gọi Ép-ra-im hay Sa-ma-ri là để chỉ đến vương quốc Y-sơ-ra-ên ở phía Bắc, có
thủ đô là Sa-ma-ri (31:4-6,9,18,20) Dân sự ở
vương quốc phía Bắc đã bị người A-si-ri bắt làm phu tù vào năm 722 TC. Bọn xâm
lược này đã bắt dân sự Chúa về xứ họ để tạo ra một dân tộc pha trộn (IIVua 17:1-41). Khi người Giu-đa trở về xứ mình
sau thời kỳ bị bắt làm phu tù, họ không còn liên hệ gì với người Sa-ma-ri nữa (Exo 4:1-4 Ne 2:19-20
13:28). Điều này vẫn còn tồn tại cho đến
thời Tân Ước (Gi 4:9) [78]. Vì vậy, người Sa-ma-ri tự mình lập ra tôn giáo riêng cho
mình, xây dựng đền thờ, lập chức thầy tế lễ và điều này càng khiến cho họ và
người Do Thái kỳ thị nhau hơn nữa.
Những lời hứa được ghi
lại trong Gie
31:2-22 không ứng dụng cho Ep-ra-im sau thời
kỳ bị bắt làm phu tù vì người Sa-ma-ri được dự một phần trong việc tái dựng lại
xứ. Những lời hứa này dành cho mười chi phái [79] rải rác khắp nơi vào thời kỳ cuối cùng khi Chúa sẽ kêu gọi
người Do Thái tái hợp trở lại và khôi phục họ trong xứ mình. Kế đến, sẽ chỉ có
một dân tộc hiệp nhất và người Sa-ma-ri sẽ thờ phượng không phải trên núi
Giê-ri-xim mà là trên núi Si-nai (31:6
Gi 4:20-24). Giê-rê-mi đã vẽ ra một bức
tranh Chúa giảng dạy cho gia đình mình, tụ họp bầy của Ngài và dẫn dắt họ ra
khỏi sa mạc mà vào vườn cây sai trái. Vì chưa có việc nào trong số những đã xảy
ra nên chúng ta có thể kết luận rằng chúng sẽ xảy ra vào thời kỳ cuối cùng khi
Ep-ra-im ăn năn và quay trở về với Chúa (Gie
31:18-20). Khi đọc đến những lời hứa này, xin chúng ta hãy chú ý đến sự
nhấn mạnh của việc ca hát, ngợi khen và niềm vui mừng.
Về sau, Ma-thi-ơ đã đề cập đến các
câu 15-17 (Mat 2:16-18), Ra-chên là mẹ của
Giô-sép và Bên-gia-min, còn Giô-sép là cha của
Ep-ra-im và Ma-na-se, là hai chi phái đứng đầu ở vương quốc phía Bắc (Sa 30:22-24) Giê-rê-mi nghe tiếng than khóc của
Ra-chên tại Ra-ma, là nơi các tù nhân Do Thái bị nhốt để chuẩn bị cho cuộc hành
trình sang Ba-by-lôn( Gie 40:1). Hậu duệ của
Ra-chên qua Giô-sép đã bị người A-si-ri bắt đi và bây giờ con cháu của bà qua Bên-gia-min (vương quốc phía Nam) cũng đã bị đày
qua Ba-by-lôn. Sự nhọc nhằn của bà trong vai trò một người mẹ đã thành vô ích!
(Hãy nhớ rằng Ra-chên qua đời khi sanh Bên-gia-min). Nhưng Chúa đã hứa
với bà rằng cả Ép-ra-im và Giu-đa đều sẽ được hồi phục (31:16-17), do vậy, sự hi sinh của bà
sẽ không còn là vô ích nữa [80]
c. Dân tộc Giu-đa được khôi phục (c.21-26): Khi dân Do Thái bị bắt đi qua Ba-by-lôn, Chúa đã chỉ
dẫn họ cách nhớ đường và đánh dấu dọc đường để mọi người có thể đi đúng đường
này khi trở về xứ mình. Giê-rê-mi đã vẽ ra một bức tranh có hình ảnh Giu-đa là
một cô gái ngu ngốc, chạy từ người yêu này sang người
yêu khác và giờ đây phải tập trung tâm trí tìm đường trở về nhà. (Trước đó, ông
cũng đã dùng hình ảnh này, (2:1-2,20 3:1-11). Theo luật Môi-se thì người con gái đã hư
hỏng sẽ phải bị giết (Le 21:9 Phu 22:21) nhưng ở đây Chúa đã làm một việc hoàn
toàn mới: Ngài sẽ chào đón nàng về nhà và tha thứ cho nàng.!
Cụm từ "người nữ sẽ bao bọc
người nam" (Gie 31:22) đã có nhiều cách
giải thích đến nỗi nếu xem xét tất cả chỉ gây thêm bối rối mà thôi. Từ ngữ được
dịch là "bao bọc" còn có nghĩa là "bao quanh chăm sóc, bảo
vệ". Từ ngữ này được sử dụng để chỉ về sự chăm sóc của Chúa đối với dân
Y-sơ-ra-ên trong đồng vắng (Phu 32:10). Từ
ngữ "người nam" dùng để ám chỉ về "người mạnh mẽ, nhà vô
địch", như vậy điều mới mẽ mà Chúa làm ở đây là khiến người nữ trở nên mạnh mẽ đến nỗi họ có thể bảo vệ Được những người nam!
(hãy nhớ rằng xã hội thời đó nghiêng về sức mạnh nam giới). Nói một cách khác,
sự trở về của những người bị lưu đày không phải là sự trở về của một đoàn người
mệt mỏi mà là một cuộc hành quân của các những người lính chiến, kể cả phụ nữ,
những người bị xem là yếu đuối không thể chiến đấu được vào thời đó [81]
Đây là hình ảnh tương
lai của việc tái hợp dân Y-sơ-ra-ên vào thời kỳ cuối cùng. Họ sẽ vui hưởng vùng
đất được làm mới lại, nơi nhưng cư dân sinh sống sẽ chúc phước cho người hàng
xóm của mình trong danh Chúa. Người nông dân và người thành thị sẽ chung sống
hoà hợp với nhau nhờ sự chúc phước của Chúa.
3. Sự tái sinh: giao
ước mới (Gie 31:31-40)
Bất cứ một dự định nào
nhằm khiến cho xã hội loài người trở nên tốt đẹp hơn nhưng lại bỏ qua vấn đề
tội lỗi cơ bản dẫn tới sự thất bại. Chỉ thay đổi môi trường bên ngoài không
thôi thì chưa đủ vì điểm mấu chốt của mọi vấn đề đều là ở tấm lòng con người.
Chúa phải thay đổi tấm lòng của dân sự để họ trở lại yêu Chúa và làm theo ý
muốn của Ngài. Đó là lý do tại sao Chúa đã truyền dạy một giao ước mới thay thế
cho giao ước cũ, vốn là giao ước mà dân Do Thái đã sống theo từ thời Môi-se,
một giao ước chỉ dẫn dân sự hành động chớ không làm thay đổi con người họ.
Lịch sử Do Thái đã được
đánh dấu với nhiều "thay đổi trong giao ước" vốn chỉ đem lại sự chúc
phước tạm thời chớ không làm thay đổi tấm lòng dân sự. Sách Phục Truyền Luật Lệ
ký có ghi lại một sự thay đổi giao ước dưới thời Môi-se, trước khi dân sự bước vào vùng đất hứa. Ngoài ra, trước khi chết, Giô-suê đã
dạy dân sự xác quyết giao ước một lần nữa (Gios
23:1-24:33). Sa-mu-ên đã kêu gọi dân sự làm mới lại lời thề của họ với
Chúa (ISa 12:1-25)và cả Ê-xê-chia lẫn
Giô-sia cũng đã khởi xướng những ngày "phục hưng" khi họ dẫn dắt dân
sự quay trở lại với Luật pháp của Chúa.
Trong thời kỳ phục hưng lúc bấy giờ,
việc các ơn phước của Chúa không cứ tuôn chảy hoài trên dân sự Ngài chẳng phải
là điều để tranh cãi. Khi có người với Billy Sunday
rằng không cần đến những cuộc phục hưng vì chúng không kéo dài thì nhà truyền
giáo đã trả lời: "Mỗi lần tắm thì chúng ta không thể tắm lâu được nhưng
chúng ta lại phải thường xuyên tắm mới tốt". Một dân tộc được xây trên
nguyên tắc đạo đức và tâm linh phải thường xuyên có những thời gian làm mới
lại, nếu không cái nền sẽ bị sụp đổ.
Nhưng giao ước mới không
phải chỉ là sự thay đổi của giao ước cũ mà Chúa đã ban tại núi Si-nai, mà đó
còn là một giao ước mới trong mọi mặt. Giao ước mới đưa con người hướng về nội
tâm để Lời Chúa được khắc ghi trong tâm chớ không phải được ghi trên đá nữa (IICo 3:1-18 Exe 11:19-20 18:31
36:26-27) và mang tính cá nhân chớ không
mang tính quốc gia. Mỗi người phải đặt niềm tin nơi Chúa và nhận lãnh "một
tấm lòng mới", hướng về sự thánh khiết.
Giao ước cũ cố gắng kiểm soát hành
động còn giao ước mới thì đóng vai trò thay đổi con người để dân sự có thể kính
Chúa yêu người và vâng theo ý muốn của Chúa (Ro 3:20)
Trong giao ước mới, Chúa có hứa rằng "…Hãy nhận biết Đức Giê-hô-va! Vì
chúng nó thảy đều sẽ biết ta, kẻ nhỏ cũng như kẻ lớn. Đức Giê-hô-va phán: Ta sẽ
tha sự gian ác chúng nó, và chẳng nhớ tội chúng nó nữa" (Gie 31:34). Đây chính là giao ước mà dân Do Thái
sẽ kinh nghiệm trong ngày tận thế khi họ gặp Đấng Mê-si-a và ăn năn (Xa 12:10-13:1)
Nền tảng của giao ước mới là sự hi
sinh của Chúa Giê-xu trên cây thập tự (Mat 26:27-28
Mac 14:22-24 Lu
22:19-20). Bởi vì Hội Thánh ngày nay được cùng dự phần vào di sản thuộc
linh của Y-sơ-ra-ên (Ro 11:12-32 Eph 3:1-6), cho nên bất cứ ai đặt niềm tin vào
Chúa Giê-xu Christ thảy đều sẽ được cùng chia sẻ giao ước mới này (He 8:6-13 10:14-18).
Đó chính là kinh nghiệm của sự tái sinh, tức là "được sinh lại" trong
nhà của Chúa (Gi 3:1-21)
Đức Chúa Trời cũng đã đảm bảo rằng
dân sự Chúa sẽ được vững lập và Ngài sẽ luôn thành tín giữ mối quan hệ với họ (Gie 31:35-37). Việc mặt trời tắt nắng để trăng sao
ló dạng còn dễ hơn cả việc Chúa không giữ lời hứa Ngài với dân Y-sơ-ra-ên. Trải
qua thời kỳ dân sự Chúa bị bắt sang Ba-by-lôn làm phu
tù, thành Giê-ru-sa-lem được tái thiết và sẽ được hồi phục sau "kỳ tai hại
của Gia cốp" và trở nên thánh khiết đối với Đức Chúa Trời. Bởi lẽ có mối
quan hệ lâu đời với Y-sơ-ra-ên với Hồi giáo, với Chúa Giê-xu và với Hội Thánh
Chúa cho nên Giê-ru-sa-lem đã được gọi là "thành thánh". Tuy
nhiên nó chỉ thật sự trở nên thánh khiết khi được Đức Chúa Trời phục hồi và cai
trị trong sự vinh hiển vào thời kỳ cuối cùng.
3. Sự phục hồi : vương
quốc và xứ mới (Gie 30:31-40) (32:1-33:26)
Một nhà tiên tri chỉ rao
giảng lời hứa của Chúa không thôi thì vẫn chưa đủ; người đó còn phải chứng minh
cho những người nghe thấy rằng chính ông cũng tin vào những lời hứa đó.
"Đức tin không có việc làm thì chết"
(Gia 2:26). Vì vậy, Chúa đã chỉ dạy tiên tri
Giê-rê-mi thực hiện "một bài giảng bằng hành động khác" và mua cho
mình một phần tài sản ngay khi vật giá ở Giu-đa lúc bấy giờ đang lên. Làm như
vậy, Giê-rê-mi đã gây được sự chú ý cho dân sự và có
thể cam đoan với họ về lời hứa của Chúa. Giê-rê-mi đã dám “đem miếng cơm manh
áo của mình ra đầu tư” cho công việc Chúa và Ngài đã chúc phước cho ông về điều
đó.
a. Một "điều vô lý" (Gie 32:1-44): Năm thứ
mười đời vua Sê-đê-kia trị vì nhằm năm 587 TC, ấy là năm trước khi thành
Giê-ru-sa-lem bị sụp đổ dưới tay quân Ba-by-lôn và Giê-rê-mi đã bị vua
bắt giam nơi hành lang trong hoàng cung (37:21).
Vua Sê-đê-kia không thích những sứ điệp mà Giê-rê-mi nói ra có liên quan đến
vua và thành phố (32:3-5). Thế nhưng, việc
vua bắt giam Giê-rê-mi có lẽ là một phương cách Đức Chúa Trời đã dùng để bảo vệ
Giê-rê-mi thoát khỏi tay kẻ thù và chu cấp cho ông thức ăn hàng ngày trong suốt
cuộc vây thành khủng khiếp của bọn chúng. Người ta có thể bắt giữ tôi tớ Chúa
nhưng họ không thể nào trói buộc được Lời Chúa (IITi
2:9). Chúa đã phán bảo Giê-rê-mi làm một việc thật phi lý: Hãy đi mua
một đám ruộng!
- VIỆC MUA BÁN (Gie 32:6-15): Chúa phán với Giê-rê-mi rằng một người bà con của ông là Ha-na-mê-ên sắp sửa đến
để đề nghị bán tài sản của mình tại quê nhà ở A-na-tốt. Giả gử Ha-na-mê-ên đột
nhiên xuất hiện, thì có lẽ Giê-rê-mi đã từ chối lời đề nghị của ông ta rồi. Xét
cho cùng, đồng ruộng đã ở trong tay quân Ba-by-lôn , còn Giê-rê-mi đang bị cầm
tù và tương lai của đất nước chắc chắn sẽ thật tăm tối. Vậy thì lúc bấy giờ
đồng ruộng đó phỏng có ích gì cho Giê-rê-mi, một người không thể sống đến 70
năm nữa?
Tuy nhiên, đây chính là
vấn đề đức tin: Hãy vâng lời Chúa mặc cho chúng ta có nhìn thấy, chuyện gì hoặc
có sự cảm nhận về vấn đề gì đó ra sao đi nữa. Người ta thường nói rằng tin
không có nghĩa là chỉ tin thôi cho dù đã có chứng cớ rõ ràng hiển nhiên đến đâu
chăng nữa mà đó còn là sự vâng phục bất chấp hậu quả. Hành động của Giê-rê-mi
đã hoàn toàn chứng minh cho câu phương ngôn này. Khi những lời về việc Giê-rê-mi
đang đầu tư vào một bất động sản vô giá trị lọt ra ngoài, chắc hẳn nhiều người
sẽ cười nhạo, kẻ khác thì lắc đầu không tin và một số thì cho rằng Giê-rê-mi là
một người điên khùng.
Việc mua bán có lẽ đã
được thực hiện nơi hành lang nhà giam với mọi thủ tục pháp lý. Giê-rê-mi ký văn
bản, trả tiền và trao khế ước cho Ba-rúc, người được đề cập ở đây lần đầu tiên [82] Các nhân chứng chứng thực chữ ký, các văn bản và có lẽ vừa đi ra
vừa tự hỏi vì sao Giê-rê-mi lại mất trí như thế. Bạn có thể chắc chắn rằng cuộc
mua bán sẽ là đề tài bàn tán trong thành và người ta cho rằng Ha-na-mê-ên là
một người tài tình. Có lẽ Ha-na -mê-ên cũng nghĩ rằng ông ta đã thực hiện được
một cuộc mua bán khôn ngoan nhưng điều đó chỉ là bằng chứng về sự vô tín của
ông mà thôi.
- PHẢN ỨNG (Gie 32:16-25): Một trường hợp rất thường gặp với
Giê-rê-mi, đó là kinh nghiệm sự nghi ngờ sau trải nghiệm đức tin. Sau khi vâng theo mạng lệnh của Chúa bằng đức tin, giờ đây Giê-rê-mi
đang tự hỏi không biết rồi đây Chúa sẽ ban tài sản cho ông như thế nào. Và ông
đã làm một điều đúng là cầu nguyện cho vấn đề này. Cách tốt nhất để khống chế
sự nghi ngờ là trò chuyện với Chúa, thành thật với cảm nghĩ của bạn và chờ đợi
thông điệp của Chúa qua Lời Ngài.
Lời cầu nguyện thật là
lời thường được sự bắt đầu bằng sự thờ phượng
(32:17-19) và tập trung hướng đến sự vĩ đại
của Chúa. Cho dù nan đề của chúng ta có lớn đến đâu đi nữa thì Chúa vẫn vĩ đại
hơn và chúng ta càng chiêm ngưỡng sự vĩ đại của Chúa bao nhiêu thì nan đề của
chúng ta dường như sẽ càng bớt đáng sợ bấy nhiêu. Lời cầu nguyện thật là lời
luôn nhắc lại những điều Chúa đã làm cho chúng ta trong quá khứ và nhắc chúng
ta nhớ rằng Chúa luôn giữ lời hứa của Ngài và hay đáp lời kêu cầu của dân Ngài
(32:20-23). Giê-rê-mi đã kết thúc lời cầu
nguyện của mình bằng những lời tiên tri chia sẻ sự những tình huống khó khăn
với Chúa và giao phó chúng cho Ngài (32:24-25).
Bên ngoài thành quân Ba-by-lôn đang bao vây, còn bên trong thì nạn đói, bệnh
tật đang hoành hành, dân sự lại không vâng lời Chúa. Trong lòng Giê-rê-mi lại
tràn ngập một nỗi nghi ngờ rằng có lẽ ông đã tự biến mình thành một kẻ ngu
ngốc, điên rồ.
- SỰ XÁC QUYẾT (Gie 32:26-44). Chúa đã đáp ứng nhu cầu của tôi tớ
Ngài và xác quyết rằng quyết định của ông là đúng. Nội dung chủ yếu trong lời
cầu nguyện của Giê-rê-mi là "Chẳng có sự gì là
quá khó cho Ngài cả" (c.17) và một lần nữa Chúa lại xác quyết lẽ thật ấy
với tôi tớ Ngài (c.27) [83]
Tư tưởng thần học đúng
bao giờ cũng dẫn đến một tấm lòng chân thật nếu chúng ta đặt để đức tin của
mình nơi Lời chúa, vì “Như vậy, đức tin đến
bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao
giảng” Ro 10:17)
Câu trả lời của Chúa với Giê-rê-mi
đã xác quyết một lần nữa những điều Ngài đã nói với ông trong quá khứ: Thành
Giê-ru-sa-lem sẽ bị huỷ diệt vì tội lỗi của dân sự (Gie
32:28-35). Tội thờ hình tượng của dân sự đã khiến Đức Chúa Trời nổi giận
và giải pháp duy nhất của Ngài là phó họ vào tay quân
Ba-by-lôn, họ sẽ bị đày sang Ba-by-lôn để làm mồi cho những thần tượng của
mình. Do dân sự đã chống lại các tiên tri của Chúa và bất tuận theo Luật pháp
Ngài nên họ sẽ phải gánh chịu hậu quả.
Kế đó, Đức Chúa Trời
khẳng định với Giê-rê-mi rằng hoàn cảnh của dân sự lúc bấy giờ như thế nhưng
không phải là vô vọng, vì Ngài sẽ tụ họp họ lại và đem họ trở về xứ của mình
(c.36-44). Lời hứa này dường như ứng dụng cho thời kỳ cuối cùng khi Y-sơ-ra-ên
sẽ được tụ họp lại " từ mọi nước " (c.37) và giao ước mới sẽ được ứng
nghiệm vì dân sự đã thay đổi tấm lòng mình để hướng về Đức Chúa Trời. Kế đến,
Giê-rê-mi lại nhận được lời phán của Chúa là lời đem lại niềm vui cho ông
(c.43). Ngày đó sẽ đến khi việc mua bán của Giê-rê-mi ắt trở nên có giá trị và
"bài giảng bằng hành động" của ông sẽ được chứng minh là đúng.
Ứng dụng của phân đoạn Kinh Thánh
này đối với các tín hữu ngày nay thật rõ ràng : thế gian có thể cười nhạo chúng
ta về cách chúng ta đầu tư cho tương lai, nhưng đến một ngày nào đó, Chúa sẽ
giữ Lời hứa của Ngài và chứng thực cho chúng ta trước mặt mọi người và các
thiên sứ rằng chúng ta hành động như thế là đúng. Thay vì sống trong những thú
vui tội lỗi của thế giới này, chúng ta hãy tìm kiếm niềm vui của thế giới vĩnh
cửu sẽ đến. Chúng ta vẫn thường mắc phải sai lầm làtừ chối hi sinh cho đời sống
vĩnh hằng để đón lấy đời sống tạm thời này. Thế giới vô tín hiện nay có thể sẽ
cười nhạo chúng ta, nhưng cuối cùng Chúa sẽ minh chứng cho con dân Ngài.
b. "Những điều không thể dò được" (Gie 33:1-26): Từ
ngữ "Không thể dò được” vẽ ra một bức tranh của một thành từ vững chắc có
tường bao bọc chung quanh- một hình ảnh rất giống với thành Giê-ru-sa-lem. Ở
đây, nhà tiên tri muốn ngụ ý rằng nếu là dân Chúa muốn không hiểu được những
điều giấu kín của Đức Chúa Trời thì họ không thể dựa vào việc "ông qua các cửa " bằng sức mạnh của mình nhưng họ phải dựa vào việc tìm kiếm
chính Chúa bằng những lời cầu nguyện hết lòng. Vì Giê-rê-mi đã xin Chúa chỉ dạy
ông nên Ngài đã bày tỏ cho ông biết "những điều giấu kín" liên quan
đến tương lai của dân tộc ông. Nhà tiên tri biết rằng thành này sẽ đi đến chỗ
bị đoán phạt (c.4-5), đồng thời Chúa cũng đã phán bảo với ông những lời khẳng
định, xác quyết và khích lệ- là những lời hứa có liên quan đến thời kỳ cuối
cùng.
Dân sự Chúa bấy giờ đã
bị ô uế nên cần phải được chữa lành và làm cho tinh sạch (c.6-8) còn thành trì
nhơ nhuốc của dân sự rồi đây sẽ đem lại niềm vui và tiếng tăm cho Đức Chúa
Trời, đồng thời nó chính là bằng chứng cho mọi dân tộc trên thế giới biết đến
về sự tốt lành và ân điển của Chúa (c.9). Mặc dầu bấy giờ thành bị hoang vu
nhưng một ngày nào đó nó sẽ trở nên đông đúc, dân sự sẽ ngợi khen Chúa và bày
tỏ niềm vui của họ với người khác (c.10-11). Đồng cỏ bị huỷ hoại bởi sự đoán
phạt nhưng đến một ngày nào đó sẽ có nhiều bầy gia súc, và những thị trấn lân
cận sẽ lại vui hưởng niềm vui mừng (c.12-13). Do những phước lành của Chúa đã
không tuôn đổ trên dân sự trong khoảng thời gian sau khi bị lưu đày, cho nên
chúng ta càng biết chắc rằng các phước lành ấy sẽ được Ngài ban xuống khi Ngài
trở lại và khôi phục lại dân Ngài và xứ của họ.
Lời chúc phước có ý nghĩa nhất là
Nhà Vua theo lời hứa sẽ đến trị vì muôn dân trong sự công bình! (c.14-16 23:5). Giê-rê-mi đã cho chúng ta biết danh Ngài là
"Đức Giê-hô-va sự công bình chúng ta?" (c.6), Chúa lại bày tỏ rằng
Giê-ru-sa-lem cũng sẽ mang danh ấy (33:16).
Điều này chắc chắn đã không xảy ra khi những người bị lưu đày trở về xây dựng
lại đền thờ và thành phố của họ. Vậy nên đương nhiên, lời hứa phán đó sẽ được
ứng nghiệm trong ngày sau rốt. Mọi người sẽ gọi Giê-ru-sa-lem là "thành
thánh", một tên gọi hoàn toàn thích hợp với nó.
Một lần nữa, Đức Chúa Trời đã dùng
sự thành tín trong "giao ước ban đầu" của Ngài (Sa 8:22) để làm nền vững chắc cho lời hứa đáng tin
cậy của Ngài và sự vững lập của dân Ngài (Gie
33:19-26 31:35-37). Ngài còn bày tỏ
thêm rằng: Ngài sẽ khiến dân này trở nên đông như sao trên trời, một trong
những lời hứa Ngài mà đã lập với Ap-ra-ham (Sa
15:1-5). [84]
"Thì cũng vậy, ta
sẽ bỏ dòng dõi của Gia-cốp và dòng dõi của Đa-vít,
tôi tớ ta, đến nỗi ta sẽ chẳng lấy trong vòng dòng dõi người những kẻ cai trị
dòng dõi của Ap-ra-ham, của Y-sác, và của Gia-cốp. Vì ta sẽ đem những phu tù
trở về, và thương xót chúng nó” (Gie 33:26).
Rồi đây, dân tộc Y-sơ-ra-ên sẽ có một tương lai sáng lạng với nhiều ơn phước và
lúc bấy giờ Giê-rê-mi đã đầu tư cho tương lai đó.
Là con dân của Chúa, chúng ta hiện
có đang dám đem miếng cơm manh áo của mình đầu tư cho sự sống đời đời như
Giê-rê-mi đã từng làm không?
Gie 32:1-44; xem giải nghĩa Gie 31:31-40
Gie 33:1-26; xem giải nghĩa Gie 31:31-40
10. NHỮNG BIẾN CỐ TẠM
THỜI VÀ LẼ THẬT VĨNH CỬU (34:1-39:52)
"Nếu
quốc gia nào không tự bảo vệ được chính mình thì ắt hẳn nó sẽ bị huỷ diệt trong
tay của những kẻ độc ác bởi lẽ nó quá yếu ớt nên nó không thể đương đầu nổi với
kẻ thù mình". Sanator Morris
Shepherd. [85]
Mặc cho sự kiên nhẫn của
Chúa và sự trung tín trong chức vụ của các tiên tri Ngài, vương quốc Giu-đa vẫn
sắp sửa bị huỷ dịêt. Đó là một dân tộc có một di sản huy hoàng, có luật pháp
Được ban cho từ trời qua Môise, được sở hữu xứ do Giô-suê chinh phục, có vương
quốc do vua Đa-vít lập nên và trở nên thịnh vượng nhờ Sa-lô-môn Ấy là một dân
tộc có Đức Giê-hô-va ngự trị tại đền thờ rực rỡ. Tuy nhiên, di sản quý báu đó
vẫn không ngăn cản được sự huỷ diệt nhục nhã của Giu-đa trong tay của những
người Ba-by-lôn ngoại bang. Giờ cuối đã đến.
Điều gì đã gây ra sự hư
hoại dần dần và sự đổ vỡ sau đó của Giu-đa? Các sử gia sẽ vịn vào và đổ lỗi cho
chính sách chính trị thiếu khôn ngoan của Giu-đa đặc biệt là việc dựa vào sự
giúp đỡ của Ai Cập. Và chúng ta không thể phủ nhận rằng các nhà lãnh đạo đã
từng đưa ra những quyết định xuẩn ngốc. Nhưng đằng sau "các chính sách
chính trị thiếu khôn ngoan "còn có một lý do sâu xa hơn, đó là: những
người đứng đầu không thật sự tin vào Lời Chúa. Trong suốt thời kỳ hưng thịnh và
sự suy vong của các đế quốc của kỷ nguyên bão tố lúc bấy giờ, Giu-đa đã nhìn
quanh tìm kiếm đồng minh thay vì nhìn lên và trông đợi sự giúp đỡ từ nơi Chúa.
Thay vì ăn năn và quay lại với Chúa, dân sự lại cứng lòng chống lại Lời Chúa và
chỉ tin tưởng vào sự khôn ngoan của mình.
Giê-rê-mi đã ghi lại
những sự kiện trong những ngày cuối của Giu-đa, ấy là những điều chứng minh
rằng chúng ta không thể cư xử với Lời Chúa theo cách chúng ta thích hay chẳng
đoái hoài gì đến Lời Ngài.
1. Lời Chúa bị khinh
thường (Gie 34:1-22) (Gie 34:1-35:19)
Vào năm 588 T.C đạo quân
vua Nê-bu-cát-nết-sa đã đánh chiếm thắng lợi
vương quốc Giu-đa. Hai thành vững chắc cuối cùng đã sụp đổ. Đó là thành La-ki,
cách Giê-ru-sa-lem 23 dặm và thành A-xê-ca, cách thành Giê-ru-sa-lem 18 dặm (34:7). Vua Nê-bu-cát-nết-sa không chỉ đem theo
mình những đạo quân vô địch mà còn ra lệnh cho các chư hầu mà vua đã chiếm đánh
phải gia nhập một phần lính chiến. Trên một phương diện nào đó, thì toàn bộ khu
vực Trung đông đã tấn công tuyển dân của Chúa (Thi
74:1-23)
a. Số phận của nhà vua (Gi 34:1-17): Chúa lại ban cho vua Sê-đê-kia
một cơ hội nữa để ăn năn và cứu thành ra khỏi sự huỷ diệt, nhưng vua đã không
chịu nghe. Giê-rê-mi cảnh cáo vua rằng cả hoàng gia cùng với các quan trong
triều sẽ không thoát khỏi sự đoán phạt vua sẽ bị bắt sang Ba-by-lôn và chết tại
đó. Nếu có hành động dũng cảm thể hiện đức tin thì có lẽ vua Sê-đê-kia đã cứu
thành phố và dân sự khỏi sự huỷ diệt, thế nhưng, vua lại sợ các cố vấn của mình
(38:1-6) và bản thân
vua chẳng khác nào một quân cờ trong tay họ mà thôi.
b. Âm mưu của dân sự (34:8-22): Vào lúc thành đang bị bao vây, vua Sê-đê-kia và dân sự đã
lập giao ước với Đức Chúa Trời trong đền thờ (34:15)
để giải phóng các nô lệ Do Thái. Họ giết một con bê, xẻ làm hai rồi các thầy tế
lễ, các quan, và dân sự cùng nhau bước qua giữa hai phần nửa của con vật như
một dấu hiệu rằng họ sẽ vâng giữ giao ước (c.28-29 Sa
15:18). Làm như vậy, có nghĩa là mọi người đã đồng ý giải phóng các nô
lệ Do Thái hay sẵn lòng chịu đựng những gì như con bê đã phải chịu.
Theo Luật Môi-se, một người chủ Do
Thái phải thả những nô lệ của mình sau khi các nô lệ ấy phục vụ trọn 7 năm (Xu 21:1-11 Phu
15:12-18). Nhưng người Do Thái đã không thực hiện điều này trong nhiều
năm và giờ đây họ nhận thấy và quyết định ấy là điều tốt cần làm. Tại sao lại
như vậy? Có lẽ họ cảm thấy rằng Chúa sẽ tôn trọng sự vâng lời của họ và sẽ đánh
bại kẻ thù họ bằng một cách kỳ dịêu nào đó, như Ngài đã từng làm cho Ê-xê-chia
(Es 36:1-37:38). Thay vì tin vào Lời Chúa và
đầu hàng Ba-by-lôn thì người Giu-đa lại cứ cố kỳ kèo với Đức Chúa Trời và "hối lộ" Ngài hầu mong Ngài giúp đỡ họ.
Dĩ nhiên, cũng có một
vài mục đích thực tế khác đằng sau giao ước này. Nếu các nô lệ được giải phóng,
họ sẽ phải tự lo cho mình, vì những người chủ của họ không còn lo lắng hay cung
cấp thức ăn cho họ nữa. Là một người tự do, họ cũng sẽ muốn chiến đấu để bảo vệ
sự tự do mà họ mới có được. Nhưng cho dẫu vì lý do gì đi nữa thì hiệu quả của
giao ước này cũng không kéo dài được khi có cuộc nổi
dậy trong thành và Nê-bu-cát-nết-sa chuyển sang nghênh chiến với quân đội Ai
Cập (c.21-22 37:5-11) và những chủ nô lại
buộc các nô lệ phục vụ họ trở lại. Thế là giao ước trang trọng đã được lập
trong đền thờ hôm nào giờ chẳng còn ý nghĩa gì cả.
Trước khi chúng ta lên án gay gắt
những người chủ không trung thực này thì chúng ta hãy thừa nhận rằng con cái Chúa
thường hay hứa với Chúa khi họ đang gặp phải khó khăn và chối bỏ những lời hứa
đó khi hoàn cảnh trở nên tốt đẹp hơn. Trong chức vụ mục sư của mình, tôi đã
từng nghe nhiều về những mẫu chuyện đại loại như một người nào đó đang đau đớn
trên giường bệnh hứa sẽ trở thành một tín đồ tốt nhất trong nhà thờ nếu Chúa
chữa lành cho, thế nhưng khi đã được Chúa chữa lành thì anh ta sẽ lập tức quên
ngay lời hứa của mình.
Giê-rê-mi đã tận dụng ngay sự việc
này để giảng dạy về sự lật lọng của Giu-đa chống lại Đức Chúa Trời (34:12-22). Chúa đã giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi
ách nô lệ tại Ai Cập và lập một giao ước với họ rằng Ngài sẽ trở thành Chúa của
họ, nhưng họ đã vi phạm giao ước và quay sang thờ
thần tượng. Giờ đây, họ lại vi phạm Luật pháp bằng cách bắt chính đồng bào của
mình làm nô lệ cho mình một cách bất công. Qua những điều họ đã làm trong đền
thờ và cách họ cư xử với anh em Do Thái của mình, họ đã làm sỉ nhục danh Chúa.
Họ đã không thật sự rao ban quyền tự do cho của các nô lệ họ nên buộc Chúa phải
rao ban “sự tự do" cho họ. Ay là "sự tự do" rơi vào gươm dao,
bệnh tật và đói kém" (c.17). Tiên tri Giê-rê-mi đã nói tiên tri về cái
chết khủng khiếp dành cho tất cả những kẻ phản bội Chúa và lời đó đã thành sự
thật. (c.19-20)
c. Sự trung thành của nhà Rê-cáp (35:1-19): Sự kiện này đã
xảy ra 18 năm trước đó, trong thời vua Giê-hô-gia-kin (609 TC-597 TC). Có lẽ
Giê-rê-mi đã ký thuật lại sự việc này vào để cho chúng ta thấy được sự tương
phản sau: dân Giu-đa tỏ ra không tôn trọng Đức Chúa Trời qua việc bất tuân Luật
pháp của Ngài, trong khi người Rê-cáp lại rất tôn trọng cha ông mình qua việc
làm theo lời dạy của họ.
Rê-cáp là một thị tộc người du mục
sống rất trung thành với tổ tiên mình là Giô-na-đáp (IIVua
10:15-23). Chính Giô-na-đáp là người đã ra truyền dạy dân này rằng không
được ở trong nhà, không được lập trang trại hay vườn nho và không được uống
rượu. Thị tộc này có họ hàng với ông gia của Môi-se (Cac
1:16 4:11) và họ đã sống thành một
nhóm nhỏ “tách biệt” với dân sự Chúa trong suốt hơn 250 năm. Do xảy ra cuộc xâm
chiếm của người Ba-by-lôn, họ đã phải từ bỏ lều trại của mình và dời đến sống
trong thành Giê-ru-sa-lem.
Chúa không yêu cầu Giê-rê-mi mời họ
uống rượu để cám dỗ họ vì Chúa không bao giờ cám dỗ chúng ta (Gia 1:13-15). Đây là một "bài giảng bằng hành
động" khác tạo cơ hội cho Giê-rê-mi để ông có thể lên tiếng cảnh tỉnh các
nhà lãnh đạo Giu-đa biết rằng họ đã bất tín với giao ước của Chúa đến mức nào.
Việc một người Do Thái uống rượu không có gì là sai trái cả miễn sao họ không
bị say là được. Nhưng việc người Rê-cáp uống rượu là điều hoàn toàn sai vì họ
đã lập giao ước không được uống rượu. Chúa đã không
đòi hỏi những người này phải tuân theo các chuẩn mực của bản thân họ nhưng theo
sự trung thành đối với các yêu cầu của cha ông họ.
Sứ điệp dành cho dân sự
Chúa ở đây thật rõ ràng. Nếu mệnh lệnh của một người bình thường là Giô-na-đáp
nhưng vẫn được dân tộc ông tôn trọng và vâng lời trong hơn 2 thế kỷ như vậy thì
tại sao dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa lại không vâng theo mệnh lệnh của Đức Chúa
Trời Toàn Năng- một mệnh lênh mà các tiên tri đã nói đến nhiều lần? Nếu truyền
thống gia đình được gìn giữ hết lòng như vậy, tại sao Luật pháp của Chúa lại bị
khinh thường? Trong khi việc tuân theo lời của Giô-na-đáp chỉ có ý nghĩa tạm
thời và hạn hẹp nhưng việc bất tuân Lời Chúa lại đem đến những hậu quả vĩnh
viễn !
Dân sự Chúa thật phải
xấu hổ biết bao khi chứng kiến những người khác là những người thậm chí không
biết Chúa nhưng họ một mực trung tín với gia đình với đạo giáo của họ, hay với
những mưu cầu sự nghiệp của bản thân. Ngay cả những người không quan tâm đến gì
với Lời Chúa nhưng họ vẫn sống trung tín với
truyền thống hay những chuẩn mực do con ngưòi đề ra. Nếu những Cơ đốc nhân
chúng ta sống đời sống thuộc linh có kỷ luật như người vận động viên tuân thủ
các kỷ luật trong thể thao, thì chắc chắn Hội Thánh Chúa sẽ tưng bừng trong
không khí phục hưng.
Gie 35:1-19; xem giải nghĩa Gie 34:1-22
2. Lời Chúa Được bảo vệ
(Gie 36:1-32)
Vào năm 605 TC nhằm năm
thứ tư đời vua Giê-hô-gia-kin là vào năm 605 TC, đó là năm của trận chiến định
mệnh tại Cạt-kê-mít khi Pha-ra-ôn Nê-cô đánh bại vua
Giô-si-a và biến Giu-đa thành nước chư hầu của Ai Cập (Gie
46:2 IISu 35:20-27). Giê-hô-gia-kin
được lên ngôi được là nhờ Ai Cập phế truất Giô-a-cha - anh vua. Giê-rê-mi đã
thi hành chức vụ được 23 năm và giờ đây Chúa lại bảo ông viết những sứ điệp của
ông vào một cuộn giấy đễ những lời đó còn lại mãi và nihều người khác có thể
đọc chúng. Lưu ý rằng các sứ điệp của Giê-rê-mi điều có liên quan đến
Y-sơ-ra-ên, Giu-đa và tất cả các dân tộc khác nên khi thực hiện cuộn thứ hai,
ông đã có bổ sung thêm (Gie 36:32). Bốn mươi
lăm chương đầu tiên của sách Giê-rê-mi chủ yếu tập
trung vào Y-sơ-ra-ên và Giu-đa và từ chương 45 đến chương 51 có nội dung liên
quan đến các dân tộc khác ở vùng Trung Đông.
a. Chúa ban Lời Ngài (Gie 36:1-4,17-18): Đây là điều mà các nhà thần học
gọi là sự mạc khải- một công việc lạ lùng của Đức Thánh Linh thông qua một
người viết để những gì được viết ra chính là Lời thánh mà Chúa muốn ghi lại (IITi 3:16 IIPhi
1:20-21). [86] Sự mạc khải không phải là hình thức "đọc chính tả từ
trời" như thể Chúa không để ý gì đến người viết vì mỗi người đều mang một
phong cách viết riêng và có cách dùng từ đặc trưng của mình. Không cần biến
Giê-rê-mi thành một người máy, Chúa vẫn hướng dẫn ông trong cách chọn lựa từ
ngữ và diễn đạt. Rồi đến Giê-rê-mi đã đọc những lời này cho thư ký của mình là
Ba-rúc nghe và ghi ra cuộn giấy.
b. Chúa phán dạy Lời Ngài (Gie 36:5-25): Một lần nữa Chúa dùng con người làm công cụ để rao giảng
lời Ngài cho dân sự (Ro 10:14). Vì Giê-rê-mi
không được phép vào đền thờ nên ông đã phái Ba-rúc thay thế vị trí ông. Ba-rúc
đã lợi dụng cơ hội một ngày nọ có đám đông trong đền thờ thì liền trà trộn đi
vào đó Ấy là dịp có sự kiêng ăn cầu nguyện của dân sự vì lo sợ hiểm họa tấn
công của người Ba-by-lôn.
Thật thú vị khi được chứng kiến
nhiều phản ứng khác nhau của dân sự đối với Lời Chúa. Có ba đối tượng cần được
nghe đọc sách của Giê-rê-mi. Và đối tượng đầu tiên chính là dân sự đang có mặt
trong đền thờ. Lúc bấy giờ, đám đông không tỏ ra phản ứng đặc biệt nào. Tuy
nhiên, có một người tên là Mi-chê tỏ ý quan tâm đến những điều ông nghe đựoc
(c.11). Mi-chê là cháu của Sa-phan, người đã đọc sách Luập pháp là cuốn sách
được tìm thấy lại đuợc trong đền thờ cho vua Giô-si-a (IIVua
22:1-20) vì vậy chúng ta không có gì là ngạc nhiên khi thấy Mi-chê quan
tâm đến Lời Chúa.
Mi-chê nói lại cho các quan trưởng
về những lời mình nghe được và họ cũng muốn nghe nên Ba-rúc đã đem sách đọc
trước các quan (Gie 36:12-19). Cùng với
Mi-chê, các quan trưởng cũng tỏ ra run sợ khi nghe đọc những Lời đó (c.16) vì
họ biết rằng các dân tộc đang bị đe doạ. Họ giấu cuộn
sách rồi và bảo Giê-rê-mi và Ba-rúc trốn đi. Sau đó, họ tâu rồi bảo với vua
rằng cần phải nghe Lời mà Giê-rê-mi đã viết.
Kế đó, Giê-hy-đi một
người trong số các chi phái đã đọc sách của Giê-rê-mi trước mặt vua. Ấy là lần
thứ ba sách được đọc (36:21-26).
Nghe đọc Lời Chúa vua đã tỏ thái độ nổi giận bừng bừng như dầu gặp phải lửa!
Mặc cho những lời can gián của ba vị quan trưởng, vua vẫn tiếp tục xé và đốt
sách của Giê-rê-mi cho đến khi những trang sách đó bị cháy rụi. Những người có
mặt trong hoàng cung lúc ấy dù có được nghe Lời Chúa nhưng cũng không tỏ ra sợ
hãi gì và còn rất ủng hộ việc làm độc ác của Giê-hô-gia-kin.
Qua nhiều thế kỷ, nhiều kẻ thù của Chúa
vẫn ra sức tìm cách huỷ diệt Lời Ngài nhưng chúng luôn bị thất bại. Chúng đã
quên mất lời Chúa Giê-xu từng phán rằng: "Trời đất sẽ qua, nhưng lời ta
nói chẳng bao giờ qua đi” (Mat 24:35).
"cỏ khô, hoa rụng, nhưng lời của Đức Chúa Trời chúng ta còn mãi đời đời!”
(Es 40:8 IPhi
1:25). Những dịch giả và người giảng dạy Lời
Chúa luôn bị bắt bớ và tử đạo, nhưng Lời Chúa vẫn luôn được đứng vững.
c. Đức Chúa Trời bảo vệ Lời Ngài (Gie 36:27-32): Bất cứ vị vua nào cho rằng
mình sẽ có thể dùng gươm dao và lửa hừng để bắt Đức
Chúa Trời phải câm nín thì chắc chắn vị vau ấy đã đánh giá sai về mình và về
Đức Chúa Trời.
Bấy giờ, Giê-hô-va Đức
Chúa Trời đã phán bảo tiên tri Giê-rê-mi hãy bắt tay thực hiện cuốn sách thứ
hai để Ngài bổ sung thêm nội dung vào án vua Giê-hô-gia-kim (c.27-32).
Đức Chúa Trời là Đấng đã
ban ra Lời Ngài và chính Ngài cũng là Đấng có quyền năng bảo vệ gìn giữ Lời
Ngài. Vua Giê-hô-ga-kim đã cố ra sức huỷ diệt Lời Đức Chúa Trời, nhưng ngược
lại, Lời Ngài đã huỷ diệt ông ta! Kết cuộc, vua và bọn quần thần của vua đã bị
trừng phạt vì tội bất kính đối với Lời Thánh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Vua
không được kể vào triều đại, cũng không được mai táng ở cương vị của một nhà
vua. Con trai vua là Giê-hô-va-kin lên kế vị và trị vì chỉ vỏn vẹn được ba tháng.
Kế đó, anh trai Giê-hô-gia-kin là Sê-đê-kia được lập làm vua thế cho người.
Giá như Giê-hô-gia-kin
và bọn quần thần nịnh hót hèn hạ của vua biết kính sợ Đức Chúa Trời và vâng
theo Lời Ngài thì ắt hẳn họ đã cứu dân tộc, quốc gia mình thoát khỏi sự huỷ diệt.
Thế nhưng, tiếc thay, họ lại ưa thích đi theo con đường riêng của mình và chẳng
chịu quan tâm, đoái hoài gì đến tiếng gọi của Đức Chúa Trời.
3. Lời Chúa bị khước từ
(Gie 36:1-32) (Gie 37:1-38:28)
"Chẳng có nan đề
nào là quá lớn hay quá phức tạp mà không thể thoát ra được" dưới một hình
vẽ khôi hài trên một bức tường ở đường phố Luân đôn người ta đã viết như vậy
vào năm 1979, ấy là câu phương ngôn có lẽ đã được trích từ dưới những bức tranh
"Peanuts" hài hước của Charles schulz. Cho dù có nguồn gốc ở đâu đi
nữa, thì câu nói này vẫn rất thích hợp với cách giải quyết của vua Sê-đê-kia
đối với những vấn đề nghiêm trọng tại Giu-đa vào thời điểm kẻ thù dang vây
ngoài cổng thành.
Ngoài quan tổng đốc Phi-lát (Gi 18:1-19:42),
chẳng có một người lãnh đạo nào theo Kinh Thánh từng ghi nhận lại tỏ ra dao
động và không quyết đoán như vua Sê-đê-kia cả. Cả hai chương này ký thuật lại
việc vua gặp gỡ Giê-rê-mi bốn lần nhưng lại khước từ Lời Chúa tiên tri
Giê-rê-mi. Hãy nghe những lời yếu ớt này của vua.
"Xin cầu nguyện cho chúng tôi
với!" (Gie 37:1-10). Vua sợ rằng khi
vua đi đến một mình sẽ không còn đuợc các quan ủng hộ nữa, nên vua đã sai
Giê-hu-can và Sô-phô-ni cầu xin Giê-rê-mi cầu nguyện cho vua và cả dân tộc.
Giê-hu-can không phải là bạn của Giê-rê-mi nên cuối cùng y đã xúi giục vua giết
hại Giê-rê-mi (Gie 38:1,4). Chúa đã phán
dặn với Giê-rê-mi không được cầu xin cho dân sự, còn đạo quân Ba-by-lôn đánh
chiếm Ai Cập rồi thì mọi lời cầu nguyện dường như không còn cần thiết nữa (37:5-10). Chắc chắn các tịên tri giả đã cho rằng
sự kiện này ắt là một phép lạ giống như việc giết quân A-si-ri trong thời vua
E-xê-chi-ên vậy (Es 36:1-37:38). Một lần nữa
họ lại sống trong niềm hi vọng giả tạo mặc dù Giê-rê-mi đã nói với họ rằng vua
Nê-bu-cát-nết-sa sẽ trở lại và hoàn tất công việc mà
Đức Chúa Trời muốn vua làm.
a. "Đức Giê-hô-va có phán lời gì
chăng?" (Gie 37:11-21): Cho đến lúc
này, Giê-rê-mi vần là một người tự do (c.4) nhưng những kẻ thù ông vẫn luôn tìm
cách bắt giam nhà tiên tri. Suốt thời gian yên ổn tạm thời trong thành, Giê-rê-mi
cố đi về nhà tại A-na-tốt để lo việc trong gia đình nhưng người gác cỗng thành
lại bắt ông vì tội bỏ trốn sang đội quân của kẻthù. Dĩ nhiên, Giê-rê-mi đã rao
giảng về việc cần phải đầu hàng quân Ba-by-lôn (21:9)
và ông sẽ còn tiếp tục nói về điều đó nữa (38:2,19 39:9) nhưng chắc chắn ông không phải là một kẻ
phản bội. Ông rất yêu dân tộc mình, dám hi sinh cả mạng sống mình để cứu dân tộc. Và trên hết, ông luôn trung tín với
Đức Chúa Trời .
Giê-rê-mi đã bị đánh đập
và bị tống vào ngục. Khi vua Sê-đê-kia biết về điều đó, vua hiểu rằng đây là cơ
hội để nói chuyện một cách bí mật với Giê-rê-mi vì các quan trưởng sẽ cho rằng
vua đang xem xét trường hợp của Giê-rê-mi. Sau khi đem ông vào cung, nhà vua đã
hỏi Giê-rê-mi: "Đức Giê-hô-va có phán gì chăng?". Nhà tiên tri liền
đáp: "Có, đoạn tiếp rằng: Vua sẽ bị nộp trong tay vua Ba-by-lôn” (37:17) Tại sao
Giê-rê-mi lại nói rõ ra như vậy? Vì ông đã rao giảng sứ điệp của Chúa nhiều lần
nhưng lần nào cũng bị vua chống cự và khước từ.
Cho nên, Giê-rê-mi nhân cơ hội này
phơi trần những sứ điệp lạc quan giả tạo của các tiên tri giả. Nếu họ nói đúng
sự thật thì chắc chắn nhà vua đã hỏi họ về sứ điệp của Đức Chúa Trời! Cùng lúc
ấy, Giê-rê-mi xin được tha và lời thỉnh cầu đã được Sê-đê-kia chấp thuận.
Giê-rê-mi được ở trong nơi hành lang lính canh và đuợc chu cấp cho ông bánh ăn
hàng ngày cho đến khi nguồn bánh đó hết sạch. Khi
chúng ta tán thưởng việc Sê-đê-kia quan tâm cứu sống Giê-rê-mi, chúng ta có
thắc mắc vì sao vua lại không quan tâm đến việc cứu dân mình? Vua sợ việc thay
đổi chính sách chính trị vì vua sợ các viên cố vấn và các quan trưởng.
b.
"Hắn đang ở trong tay các ngươi" (38:1-13). Tức giận vì những
lời của Giê-rê-mi làm tổn hại đến nổ lực trong trận chiến, bốn vị quan trưởng
của vua Sê-đê-kia buộc vua phải giết Giê-rê-mi. Chúng ta không biết gì về
Sê-pha-tia. Nếu Ghê-đa-lia là con trai của Pha-su-rơ, người đã bắt cùm
Giê-rê-mi, thì chắc chắn người này không phải là bạn của Giê-rê-mi và cũng
chẳng phải là người tốt. Còn Giê-hu-can là người mà chúng ta đã gặp trước đây (37:3). [87], người này
có lẽ là người bà con với viên gác cổng đã bắt giữ Giê-rê-mi (c.13). Pha-su-rơ
này không phải là người đã được nhắc đến trong Giê-rê-mi chương 20 trước đây.
Bọn họ đã cáo buộc Giê-rê-mi vì tội không nghĩ đến quyền lợi của dân tộc, thế
nhưng thực tế thì quyền lợi của cả dân sự Chúa lại chính là điều đã khiến
Giê-rê-mi ông hiến dâng cả cuộc đời mình!
Quá nhu nhược trước các
quan trưởng, nhà vua đã nhượng bộ lời yêu cầu của họ. Thay vì chỉ đơn giản giết
Giê-rê-mi là việc làm sẽ gây đổ máu người vô tội thì những người này lại ném
ông xuống một cái hố cũ, để mặc ông bị lút dưới bùn. Các quan trưởng này hi
vọng rằng nhà tiên tri sẽ bị bỏ quên và sẽ chết ở đó. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời
đã dùng Ê-bết-mê-lết, một người trong dân tộc đồng minh giải cứu Giê-rê-mi.
Ê-bết-mê-lết đã trở thành "người Sa-ma-ri nhơn lành" trong Cựu Ước.
Sê-đê-kia là vị vua dể
giao động, không có lập trường nên Ê-bết-mê-lết đã lợi dụng nhược điểm này của
vua. Và nhà vua đã đồng ý cho phép Ê-bết-mê-lết giải cứu Giê-rê-mi. Đáng lý ra
không cần phải dùng đến 30 người để kéo Giê-rê-mi ra khỏi hố, nhưng có lẽ nhà
vua muốn bảo vệ viên quan trưởng của mình và Giê-rê-mi khỏi sự tấn công của các
kẻ thù nghịch của Giê-rê-mi.
Về sau, Giê-rê-mi đã gởi
một sứ điệp khích lệ Ê-bết-mê-lết (39:15-18)
rằng ông sẽ được giải cứu khi thành bị đánh chiếm và
Chúa sẽ không đoán phạt ông.
c.
"Chớ giấu ta gì hết"
(c.14-28). Theo những điều Được ghi lại, đây là lần thứ tư và cũng là lần cuối
cùng vua Sê-đê-kia gặp tiên tri Giê-rê-mi trước khi Giê-ru-sa-lem rơi vào tay
quân Ba-by-lôn. Lời yêu cầu của vua đã đưa Giê-rê-mi vào một thế tiền thoái
lưỡng nan: Nếu Giê-rê-mi cho nhà vua biết sự thật thì nhà vua có thể sẽ giết
ông vì vua chẳng bao giờ chịu vâng theo Lời Chúa! Chúa đã cho nhà vua cơ hội
cuối cùng để ăn năn nhưng vua lại đánh mất. Nếu vua đầu hàng Nê-bu-cát-nết-sa,
vua có thể bị bắt bớ và bị những ngưòi Do Thái đã đứng về phía kẻ thù ngược
đãi, và chuyện gì sẽ xảy ra với gia đình của vua còn lại trong cung? Có lẽ
những người đã muốn giết Giê-rê-mi cũng sẽ giết cả họ.
Giê-rê-mi cam đoan với
vua rằng nếu vua vâng lời Chúa, Ngài sẽ bảo vệ vua và cả thành. Còn nếu vua không vâng lời Ngài thì ngay cả những ngưòi phụ nữ cũng sẽ
sỉ nhục vua trước mặt người Ba-by-lôn (38:21-23).
Chúng ta có thể đánh giá cao sự quan tâm của vua đối với vợ và các con mình ,
nhưng cách tốt nhất để bảo vệ họ là vua hãy vâng lời Chúa.
Vì e sợ các quan trưởng nên vua đã
yêu cầu Giê-rê-mi giữ bí mật về cuộc nói chuyện của họ. Và như thế không có
nghĩa là Giê-rê-mi đã nói dối các quan trưởng khi họ gạn hỏi ông. Thật sự thì
chúng ta không có tài liệu nào ghi chép đầy đủ cuộc nói chuyện giữa Giê-rê-mi
và vua Sê-đê-kia và có lẽ Giê-rê-mi đã cầu xin vua cho ông được phép không trở
về nhà Giô-na-than thật. Và đúng là, trong lần nói chuyện kỳ trước, Giê-rê-mi
đã đưa ra lời yêu cầu đó (37:17-21). Ong
không bị bắt buộc phải nói hết mọi điều với các quan trưởng và ông cũng không
phải nói dối để giữ bí mật về cuộc nói chuyện.
Đôi khi Chúa đoán phạt một dân tộc
tội lỗi bằng cách sai phái những người lãnh đạo do dự, dễ giao động đến với họ
và sự cai trị của các nhà lãnh đạo ấy càng khiến cho dân sự lún sâu vào nhiều
rắc rối hơn (Es 3:4). Tổng thống J. F Kenedy
thứ hai đã nói thế này: "Là những chủ nhân của đất nước, chúng ta cần phải
có một thể chế chính sách lãnh đạo chính trị nào đó
riêng cho mình vì dù sao đi nữa thì chúng ta vẫn có quyền đòi hỏi và hưởng
thụ" [88]
Nhưng Giu-đa không phải
là nước dân chủ, mọi người đã không bỏ phiếu cho vua của họ. Chính Chúa đã đem lại cho họ những gì họ đáng được hưởng .
Gie 37:1-21; xem giải nghĩa Gie 36:1-32
Gie 38:1-28; xem giải nghĩa Gie 36:1-32
4. Lời Chúa được ứng
nghiệm (Gie 39:1-18) (Gie 52:1-34)
Cả hai chưong này cùng với IIVua 25:1-30 và IISu 36:1-23 miêu tả về sự sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem,
sự cướp phá và sự huỷ diệt của nó cũng như việc hàng
ngàn người Do Thái bị bắt làm phu tù và bị đày khỏi xứ. Những điều này sẽ không
xảy ra nếu chỉ một trong các vua thật lòng ăn năn trước mặt Chúa và đầu hàng
Ba-by-lôn .
a. Sự đoán phạt của Chúa dành cho vua Sê-đê-kia (Gie 39:1-7 52:1-11): Thành
Giê-ru-sa-lem bị quân Ba-by-lôn bao vây vào ngày 15.1.588 TC (Gie 52:4) và hai năm rưỡi sau tức nhằm ngày
18.7.596 TC thì họ đã chiếm lấy thành. Các quan của Ba-by-lôn lập chức vị mình
ở cổng Giữa và bắt đầu cai trị dân sự Chúa. "Kỳ của các dân ngoại" đã
bắt đầu làm nên lịch tiên tri của Đức Chúa Trời (Lu
21:24). Khi thời kỳ này chấm dứt, Đấng Mê-si-a sẽ trở lại để giải cứu
dân Ngài va làm thành lời hứa mà Chúa đã phán qua các tiên tri .
Vua Sê-đê-kia và cả gia quyến mình
cùng các quan trưởng tìm cách chạy trốn nhưng quân Ba-by-lôn đã đuổi kịp họ và
bắt giải về cho Vua Nê-bu-cát-nết-sa tại Ríp-la, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 200
dặm về phía Bắc. Tại đó, vua Nê-bu-cát-nết-sa đã xét xử tất cả bọn họ, và người
Ba-by-lôn là giống người là tàn bạo. Vua Nê-bu-cát-nết-sa giết các con trai của
vua Sê-đê-kia, và chọc mù mắt vua. Vì vậy, những hình ảnh cuối cùng mà vua
Sê-đê-kia còn thấy được sẽ luôn ám ảnh vua. Tất cả E-xê-chi-ên đã từng nói tiên
tri rằng Sê-đê-kia sẽ không thấy xứ Ba-by-lôn (Exe
12:13) và lời tiên tri của ông đã thành sự thật. Nhà vua đã bị trói, bị
giải về Ba-by-lôn và chết tại đấy.
b. Sự đoán phạt của Chúa giáng xuống thành (Gie 39:8-10 52:12-34). “Thành này đã
làm cớ cho ta giận và tức, từ ngày đã xây lên cho đến ngày nay. Vậy nên, ta
muốn cất nó đi khỏi trước mặt ta” (Gie 32:31).
Qua chức vụ của mình, Giê-rê-mi đã cảnh báo dân sự rằng thành Giê-ru-sa-lem sẽ
bị bắt và hủy diệt. (6:6 19:8-9,11-12,15 21:10 26:6,11 27:17)
Cùng lúc đó, quân Ba-by-lôn cướp phá
thành, đem hết mọi của cải trong đền thờ về Ba-by-lôn. Quân lính bắt trói tất
cả nhũng người khoẻ mạnh dẫn về Ba-by-lôn. Vào năm 597 TC, dân Giu-đa đã bị bắt
đi đợt một (52:28) và bị bắt đi đợt ba vào
năm 582 TC (52:30). Còn những người nghèo khổ và những người vụng về thô kệch thì
bị bỏ lại trong xứ để trồng trọt. Dẫu sao, bọn lính Ba-by-lôn ở lại vây thành
cũng cần phải có người cung cấp lương thực cho chúng.
c. Chúa chăm sóc tôi tớ Ngài (39:11-14): Vì Chúa đã hứa rằng Giê-rê-mi
sẽ đứng vững qua mọi khó khăn và bắt bớ (1:17-19
15:20-21) nên Ngài
khiến vua Nê-bu-cát-nết-sa thả Giê-rê-mi ra và cư xử rất tử tế với ông. [89] Vua giao
Giê-rê-mi cho Ghê-đa lia là người sau này làm quan tổng đốc trong xứ (40:7) (Ghê-đa-lia này không phải là người muốn giết
Giê-rê-mi ).
Để kết thúc chương này, tôi xin
trích dẫn lời của G. Campell Morgan: "Cho dù
hiện tại chúng ta đang trong sự an ninh của mình nhưng hãy luôn nhớ rằng chúng
ta vẫn có thể bất ngờ gặp phải sự kiện “năm thứ 11, tháng tư ngày mồng chín” –
ấy là khi Chúa sẽ ném chúng ta ra khỏi nơi tưởng chừng như yên ổn của mình và
Ngài chắc chắn sẽ làm như vậy nếu chúng ta không thật sự tin cậy nơi Ngài"
[90]
11. BI KỊCH NỐI TIẾP BI
KỊCH (Gie 40:1-45:5)
"Cuộc
sống luôn đòi hỏi sức mạnh tiềm tàng nơi bạn. Hãy lập nên chiến công chứ đừng
bỏ chạy” Dag Hammarskjold [91]
Nhiều học giả từng nói
rằng có một điều mà chúng ta học được từ lịch sử là chúng ta không học được từ lịch sử. Điều này hoàn toàn đúng với số người
Do Thái nghèo khổ còn sót lại Giu-đa sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá.
Thay vì tìm kiếm Chúa và khởi đầu cho một bắt đầu mới thì những người còn sót
lại đã tiếp tục tái phạm những tội lỗi gây nên sự huỷ diệt đất nước và thành
phố. Họ đã không chịu lắng nghe Lời Chúa mà họ quay sang Ai Cập cầu xin sự giúp
đỡ của Ai Cập và thờ cúng các thần tượng.
Hành động tội lỗi của
dân sự đã khiến Giê-rê-mi thật đau lòng nhưng ông vẫn ở lại với họ và cố giúp
họ quay về với Lời của Đức Chúa Trời. Chúa đã đoán phạt cả dân tộc nhưng ngay
cả sự đoán phạt kinh khiếp đó cũng không làm họ thay đổi lòng mình. Họ vẫn tiếp
tục phạm tội.
Vở kịch với những vai
diễn thật bi thương này vẫn thường được người ta xem thấy trong mọi thời đại.
Thỉnh thoảng, kịch bản của lịch sử có thể được thay đổi chút ít nhưng vai diễn
của các nhân vật vẫn như cũ.
1. Giê-rê-mi, người
chăn bầy trung tín (Gie
40:1-6)
Giê-rê-mi Được trả lại tự do sau khi
quân Ba-by-lôn chiếm lấy thành Giê-ru-sa-lem (39:11-14)
nhưng chẳng rõ vì lý do nào đó, ông đã bị lạc trong nhóm những tù nhân chờ tại
Rama để chuẩn bị đi sang Ba-by-lôn. Ong được thả ra và có quyền chọn lựa hoặc
sẽ đi sang Ba-by-lôn để hưởng sự hậu đãi của vua Nê-bu-cát-nết-sa hoặc ở lại xứ
chăm sóc dân sự. Là một người có tấm lòng của người chăn bầy, Giê-rê-mi đã chọn
ỡ lại với dân sự (c.14 40:5-6)
Viên chỉ huy đám lính người
Ba-by-lôn cũng rao giảng những điều rất giống với những điều Giê-rê-mi đã tuyên
bố trong 40 năm qua! Những người Do Thái chắc hẳn rất bối rối khi nghe một
người Ba-by-lôn ngoại bang bảo họ là những kẻ có tội nhưng ông ta đã nói đúng.
Là con dân Chúa, chúng ta phải cúi đầu hổ thẹn khi người thế gian lên tiếng xì
xào bàn tán, chỉ trích những tội lỗi củacác thánh đồ (Sa
12:10-20 20:1 IISa 12:14)
Giê-rê-mi đã chọn gia nhập với
Ghê-đa-lia, người mà vua Nê-bu-cát-nết-sa chỉ định cai quản trong xứ. Nếu dân
sự nghe theo nhà tiên tri và người cai trị thì những ngưòi Do Thái còn sót lại
chắc đã có một cuộc sống an toàn và tương đối dễ chịu trong sự đổ nát nhưng
đằng này, họ đã không chịu vâng lời. Ngay cả một sự sửa phạt khủng khiếp mà đế quốc Ba-by-lôn đã gây ra cho Giu-đa cũng không làm thay
đổi tấm lòng của dân sự, vì chỉ có ân điển của Chúa mới có thể làm thay đổi
được lòng người mà thôi.
Liệu Giê-rê-mi có phá huỷ sứ điệp
của mình khi ông ở lại trong xứ với dân sự không? (24:4-10).
Tại sao ông lại ở lại với "những trái vả hư" khi tương lai thuộc về
"những trái vải tươi" tức là những người đã bị bắt sang Ba-by-lôn?
Chắc chắn Giê-rê-mi biết cách nhận biết ý muốn của Chúa và Chúa cũng biết rất
rõ nhà tiên tri yêu xứ sở và dân tộc mình ra sao. E-xê-chi-ên bị dẫn sang
Ba-by-lôn vào năm 597 TC và khởi đầu chức vụ của mình vào 5 năm sau đó (Exe 1:1-2) còn Đa-ni-ên thì cũng bị dẫn sang đó
năm 605 TC. Đã có những nhà tiên tri đi thực hiện chức vụ với giữa vòng những
người bị đày nên Giê-rê-mi đã hoàn toàn đúng khi ông quyết định ở lại với dân
sự trong xứ. Giê-rê-mi đã phải chọn lựa rất khó khăn khi khởi đầu và kết thúc
chức vụ của mình. Có lẽ sẽ dễ dàng hơn khi phục vụ Chúa với chức vụ là một thầy
tế lễ nhưng ông đã vâng Lời Chúa để trở thành một nhà tiên tri. Tương tự, có lẽ
sẽ thoải mái hơn khi sang ở tại Ba-by-lôn nhưng Giê-rê-mi đã chọn ở lại trong
xứ của tổ phụ mình. Giê-rê-mi là một người chăn bầy chân thật chớ không phải là
một kẻ vụ lợi (Gi 10:12-13)
2. Ích-ma-ên, kẻ phản
bội dối trá (Gie 40:1-6) (Gie 40:7-41:18)
Khi biết được tin tức
tốt lành về việc Ghê-đa-lia cai trị Giu-đa, những người đã bỏ trốn lúc xảy ra
cuộc vây thành bấy giờ bắt đầu trở về xứ (Gie 40:7,11-12). Ghê-đa-lia là
một người tốt, xuất thân từ một gia đình tử tế mặc dù mọi sự kiện đều cho thấy
ông là người rất non nớt trong lĩnh vực chính trị.
a. Người tổng đốc trung tín (40:7-12): Ghê-đa-lia truyền đạt lại cho dân sự đúng
theo những điều Giê-rê-mi đã nói trong suốt nhiều năm: rằng nếu dân sự bằng
lòng phục vụ người Ba-by-lôn thì sẽ được sống yên ổn trong xứ. Dân sự lúc ấy
không thể thu hoạch được mùa màng vì cánh đồng không được gieo trồng trong suốt
thời gian thành bị vây, nhưng họ có thể thu lượm những sản vật còn lại không bị
hư hại trong cuộc chiến. Những người còn sót lại tại Giu-đa cần phải làm đúng
theo lời chỉ dẫn của Giê-rê-mi và đó cũng là những lời iê-rê-mi dùng rao bảo
cho những người bị đày ở Ba-by-lôn: Rằng hãy sống một cuộc sống bình thường,
hết lòng quay về với Chúa và chờ đợi Ngài giải cứu
(29:4-14). Chúa đã
hứa ban cho một tương lai sáng lạng cho cả dân sự vì họ có một nhiệm vụ quan
trọng phải thực hiện.
b. Người chỉ huy biết quan tâm (40:13-16): Giô-ha-nan ban đầu là một nhà lãnh đạo dũng
cảm, nhưng về sau ông đã dẫn dân sự đi sai đường. Chúng ta không biết vì sao
ông và những người thân cận biết được âm mưu của Ích-ma-ên muốn giết hại
Ghê-đa-lia, nhưng những thông tin của họ hoàn toàn chính xác. Nếu Ghê-đa-lia
nghe theo họ, ông đã không bị giết chết.
Tại sao Ích-ma-ên muốn
giết Ghê-đa-lia? Lý do là vì vua của người Am-môn đã mướn ông làm điều đó,
nhưng ở phía sau việc ấy còn có nhiều vấn đề khác. Dân Am-môn cũng có tham dự
trong "hội nghị cấp cao" tại Giê-ru-sa-lem, nơi các
nước đồng minh với Giu-đa bàn mưu bẻ gảy ách của Ba-by-lôn (27:1-3). Là bạn của vua Sê-đê-kia và của vua
Am-môn, Ích-ma-ên không muốn nhìn thấy dân Do Thái đầu hàng quân Ba-by-lôn ngay
cả khi chiến tranh đã kết thúc. Ong là một người yêu nước nhưng lòng yêu nước
của ông chỉ là lòng yêu nước vị kỷ mà thôi.
Nhưng lý do chủ yếu có lẽ là vì đến
lòng tự ái dân tộc và tham vọng ích kỷ trong ông trỗi dậy. Bản thân Ích-ma-ên
là một hậu tự của Đa-vít theo dòng con cháu Ê-li-sa-ma (41:1 IISa 5:16) và chắc chắn
ông cảm thấy rằng ông phải được là tổng đốc vì cớ ông là người thuộc dòng tôn
thất. Chớ Ghê-đa-lia là ai lại dám chiếm lấy vị trí mà đáng lý ra là của ông?
Chính cái cách mà người Ba-by-lôn đã đối xử với vua Sê-đê-kia là người bà con
của Ích-ma-ên, đã không khích lệ ông đầu phục sự cai trị của họ chút nào.
Giô-ha-nan muốn giết Ích-ma-ên nhưng
Ghê-đa-lia không đồng ý. Trong việc này, người Ghê-đa-lia đã cư xử đúng nhưng
ông lại hoàn toàn sai khi không tập họp những người trung thành với ông để bảo
vệ ông đêm ngày. Điều đó không chỉ nói cho Ích-ma-ên biết rằng người tổng đốc
ấy đã không hề biết chuyện gì đang xảy ra với mình mà còn khiến cho Ích-ma-ên
rõ hơn rằng Ghê-đa-lia đã không lo tự vệ để bảo vệ mạng sống mình khỏi những kẻ
muốn giết hại ông. Viên tổng đốc ấy đáng lẽ phải nghe theo lời của Giô-ha-nan
và không nên coi thường Ích-ma-ên. " …" (Ch
11:14)
c. Kẻ giết người quỷ quyệt (Gie 41:1-18): Tại khu
vực Trung Đông, khi mọi người cùng nhau ăn uống, họ thường hay giao kết tình
bạn và lòng trung thành với nhau. Còn Ích-ma-ên đã dùng bữa ăn như một cái bẫy
để bắt Ghê-đa-lia và lính của ông để Ích-ma-ên có thể giết chết tất cả họ.
Chúng ta không biết có bao nhiêu người đi với quan tổng đốc Ghê-đa-lia nhưng 10
người của Ích-ma-ên đã bắt giết họ một cách nhanh gọn.
Ngoài sự thù hận sâu sắc, Ích-ma-ên
còn tỏ ra đaọ đức giả, khóc than trước 80 người Do Thái đi hành hương thờ
phượng trong đền thờ và rồi ông đã sai người giết chết 70 người trong số họ. Hành động này cho thấy rằng Ích-ma-ên
thả 10 người còn lại ông có thể lần theo dấu vết họ để tìm ra chỗ giấu lương
thực của họ. Ích-ma-ên đúng là một người quỷ quyệt, tàn nhẫn và sẽ không dừng
lại một bước nào miễn là đạt được mục đích của mình.
Cao trào của tội ác của
Ích-ma-ên là tập trung vào việc bắt cóc những người Do Thái còn sót lại và bắt
đầu rời xứ để đến với người Am-môn. Tuy nhiên, Giô-ha-nan đã giải cứu những
người còn sót lại khỏi tay Ích-ma-ên nhưng Ích-ma-ên đã trốn thoát. Đây là một
chuỗi những bi kịch có lẽ đã không xảy ra nếu Ghê-đa-lia nghe theo lời các bạn
hữu của mình và hành động thận trọng hơn .
Giô-ha-nan đã chứng tỏ
lòng can đảm của mình khi giải cứu những người Do Thái, nhưng cuối cùng khi ông
nhận lãnh trách nhiệm, ông lại tỏ ra thiếu đức tin khi muốn dẫn những người còn
sót lại qua Ai Cập! Ông đã không nhớ đến lời khuyên của Ghê-đa-lia (Gie 40:9) và đó cũng là sứ điệp của Giê-rê-mi, là những lời cảnh cáo người Do
Thái phải ở trong xứ và không được đi sang Ai Cập. Người tốt vẫn có thể
dễ đi lầm đường nếu người ấy quay lưng lại với Lời Chúa !
Gie 40:7-16; xem giải nghĩa Gie 40:1-6
Gie 41:1-18; xem giải nghĩa Gie 40:1-6
3. Giô-ha-nan : người lãnh
đạo đạo đức giả (Gie 42:1-43:13)
(Gie 42:1-22). Giô-ha-nan đã từng là một người rất can đảm khi giết Ích-ma-ên,
nhưng giờ đây, ông lại không đủ can đảm để đi theo điều mà ông biết là đúng.
Ong sợ nếu tin cậy Đức Chúa Trời thì phải ở lại trong xứ Giu-đa, có lẽ đó là vì
ông sợ những điều người Ba-by-lôn có thể sẽ làm khi họ biết Ghê-đa-lia đã chết
và Ích-ma-ên đã lấp một hố đầy xác người.
a. Lời cầu xin không thật lòng (42:1-6): Họ đến thỉnh cầu Giê-rê-mi với lời cầu
xin nghe có vẻ như rất chân thành và thuộc linh, nhưng sự thực thì lòng họ đầy
dối trá kể cả Giô-ha-nan (42:19-22). Họ đã
quyết định sẽ sang Ai Cập và hi vọng rằng Giê-rê-mi sẽ đồng ý với họ. Đôi khi,
dân sự Chúa đã dùng những cách không đúng để nhận biết ý muốn của Ngài, họ đi
từ người cố vấn này sang người cố vấn khác để xin lời
khuyên và hi vọng sẽ tìm được một người nào đó sẽ đồng ý với ý định giấu kín
của họ.
b. Câu trả lời của Chúa (c.7-22): Đức Chúa Trời bắt dân sự chờ trong 10 ngày, có lẽ là để
họ nhìn lại mình và xưng tội lỗi của mình ra. Trong suốt 10 ngày đó, họ có thể
nhận thấy rằng Chúa vẫn chăm sóc họ và họ không có điều gì phải lo lắng cả.
Đáng lý ra họ phải hiểu rằng kế hoạch đi sang Ai Cập của họ là một điều ngu
ngốc.
Nội dung câu trả lời của
Giê-rê-mi chia làm 3 phần. Trước hết, ông cho họ một lời hứa (c.7-12).
Giê-rê-mi nói với dân sự rằng nếu họ ở lại trong xứ, Chúa sẽ dựng họ và trồng họ (1:10). Nhà tiên tri
khích lệ họ đừng e sợ vì Chúa ở cùng với những người ở lại và sẽ chăm sóc họ.
Chính Chúa là Đấng cai trị họ chớ không phải là vua Nê-bu-cát-nết-sa. Thật vậy,
ngày đó sẽ tới khi những người còn sót lại có thể thu lợi từ những mảnh đất đã
bị cướp mất và bắt đầu vui hưởng một cuộc sống bình thường trở lại.
Phần thứ hai trong sứ điệp của
Giê-rê-mi là một lời cảnh cáo (42:13-18). Kể
từ khi Ap-ra-ham mắc phải lỗi lầm về đức tin trong chuyến đi đến Ai Cập (Sa 12:10-20), người Do Thái bắt đầu có khuynh
hướng theo gương Ap-ra-ham. Vài lần trong đồng vắng, bất-cứ khi nào gặp khó
khăn hay thử thách, dân Y-sơ-ra-ên thuờngnói về việc quay trở về Ai Cập. Thật
ra, đây cũng chính là tiếng la ó khóc lóc của dân sự tại Cạt-đe khi họ từ chối
vào Miền Đất Hứa (Dan 13:1-14:45). Trong
suốt những năm cuối cùng của vương quốc Giu-đa, xuất hiện một bè phái nằm trong
hàng ngũ nội bộ những nhà lãnh đạo Giu-đa ra sức ủng
hộ Ai Cập vì họ xem Ai Cập là liên minh mạnh mẽ nhất và gần gủi nhất và của họ.
Nhà tiên tri cảnh cáo
dân sự và chống lại việc họ đi qua Ai Cập, nơi họ nghĩ rằng họ có thể tìm thấy
sự bìn yên, của cải và sự an toàn. Nhưng nỗi sợ hãi mà họ đã cố né tránh ở
Giu-đa sẽ theo họ đến Ai Cập, và chính sự đoán phạt mà Chúa đã giáng xuống
Giu-đa trong thời kỳ thành bị vây, cũng sẽ
giáng trên họ trong xứ của Pha-ra-ôn. Chúa biết rằng vua Nê-bu-cát-nết-sa sẽ
tiến vào Ai Cập và trừng phạt xứ này, điều mà vua đã thực hiện vào năm 568
TC-567 TC (Gie 46:13-19).
Giê-rê-mi kết thúc bài giảng của
mình bằng sự phơi trần tấm lòng của dân sự (c.19-22). Ong công khai tuyên bố
rằng họ đã cố lừa gạt ông khi họ hứa sẽ vâng lời của Đức Chúa Trời (42:5-6). Họ thật sự không cần đến lời cầu nguyện
của ông hay kế hoạch của Chúa, họ muốn Chúa ủng hộ
điều họ đã quyết định rồi. Nhưng đây lại là một quyết định gây ra tai hoạ cho
chính họ vì nếu họ thực hiện kế hoạch của mình, họ sẽ chết tại Ai Cập.
Đây cũng chính là một lời
cảnh báo cho chúng ta nếu chúng ta không thành thật khi tìm biết ý muốn Chúa.
Trong công tác truyền giáo của mình, tôi thường gặp những người muốn nghe lời
khuyên của tôi, và khi tôi hỏi họ đã nói chuyện với vị mục sư chủ toạ Hội Thánh
của họ chưa thì câu trả lời của họ thường là "à, chưa, nhưng ông ấy không
thật sự biết hay hiểu tôi gì cả"
Tôi trả lời :
"Nhưng còn tôi lại là một người hoàn toàn là một người xa lạ đối với
anh!"
"Đúng vậy, nhưng
tôi thấy dường như ông hiểu vấn đề của tôi rõ hơn!". Và đây chỉ toàn là
những lời nịnh bợ mà thôi!
Tôi tin chắc rằng những
người này đã nói chuyện với hết người này đến người khác, tìm kiếm một ngưòi có
cùng ý kiến với những điều họ dự định làm. Khi tìm gặp được người đó, họ sẽ cho
mục sư của mình biết rằng "người của Chúa" đã cho họ lời khuyên khôn
ngoan. Đó chính là hội chứng Giô-ha-nan đấy!
a. Sự chống nghịch kiêu ngạo (43:1-7): Tin chắc rằng Chúa đã sai và họ đúng,
Giô-ha-nan cùng với bạn bè mình bèn nói rằng là kẻ nói láo là một tiên tri giả,
và rằng Chúa không hề sai Giê-rê-mi hay khiến ông nói tiên tri gì cả. Có lẽ
Giê-rê-mi rất đau lòng khi nghe những lời cáo buộc gian dối như vậy từ chính
dân sự ông, những người mà vì họ ông đã phải chịu đựng quá nhiều. Mặc cho những điều ông đã làm cho dân mình, Giê-rê-mi vẫn bị cáo
buộc như những tiên tri giả là những kẻ chỉ nói những điều gian dối, những lời
đã khiến cho đất nước suy tàn. Giô-ha-nan thậm chí còn cáo buộc Ba-rúc về tội
đã xúi giục Giê-rê-mi, mặc dù ông ta chẳng hiểu nổi Ba-rúc đã nhờ vào sức mạnh
đặc biệt nào để có thể tác động được đến nhà tiên tri can đảm. Tuy nhiên ông ta
cần phải khiển trách một ai đó.
"Vào đất Ê-díp-tô,
đến Ta-pha-nết; vì họ không vâng theo tiếng Đức Giê-hô-va” (43:7). Một lần nữa dân của Chúa lại bước đi theo những gì họ thấy chớ
không phải bằng đức tin của mình.
b. Lời cảnh cáo đúng lúc (Gie 43:8-13): Đây là "bài giảng bằng hành động" cuối cùng của Giê-rê-mi. Trong khi những người Do Thái đứng nhìn, ông đã
xếp những hòn đá lớn lại và đặt chúng trong đất sét ở trước nhà của Pha-ra-ôn ở
Tác-pha-nết. Sau đó, ông tuyên bố rằng ngai vua Nê-bu-cát-nết-sa sẽ được đặt
lên trên những hòn đá đó khi vua này trừng phạt dân này. Như những điều vua đã
làm với đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, thì người cũng sẽ làm với các thần tượng và
đền đài ở Ai Cập. Chiến thắng của vua thật dễ dàng như người chăn chiên khoác
chiếc áo choàng của mình vậy. Dẫu thế,đó lại chính là những tàthần tượng
mà dân Do Thái sẽ thờ lạy tại Ai Cập, những tà thần ấy sẽ bị huỷ diệt!
Gie 43:1-13; xem giải nghĩa Gie 42:1-22
4. Dân Do Thái còn sót
lại : những kẻ thờ thần tượng bất hạnh (Gie 44:1-30)
Đây là bài giảng cuối
cùng của Giê-rê-mi dành cho dân sự tại Ai Cập và có lẽ là vào năm 580 TC. Nếu
ông được Chúa kêu gọi vào năm 626 TC nhằm, năm thứ mười ba đời vua Giô-si-a (1:2). Như vậy, ông đã thực hiện chức vụ của mình trong 46 năm. Bạn
không thể không ngưỡng mộ Giê-rê-mi vì lòng trung tín của ông cho dù ông đã gặp
phải biết bao tai ương, khốn khó.
a. Lời cảnh cáo gay gắt (c.1-14): Chẳng bao lâu, sau khi những người Do Thái còn sót lại
sang Ai Cập , họ bắt đầu thờ lạy các thần tượng vốn có rầt nhiều trong xứ trước
đó. Giê-rê-mi nhắc dân sự nhớ về những điều
họ đã thấy trong cơn đoán phạt của Đức Chúa Trời tại Giu-đa (44:2-3). Chính vì sự thờ hình tựơng của dân sự mà
Chúa đã huỷ diệt cả xứ, hủy diệt thành Giê-ru-sa-lem và cả đền thờ nữa. Kế đó,
ông nhắc họ nhớ những điều họ đã nghe những sứ điệp của các tiên tri mà Chúa đã
sai đến để khiển trách dân sự hết lần này đến lần khác (43:4-6).
Tuy vậy, dân sự vẩn chưa chịu rút ra
bài học cho mình, và giờ đây, họ đang từ huỷ hoại
tương lai của mình bằng cách chọc giận Đức Chúa Trời qua việc họ lại tái phạm
tội lỗi mà họ đã phạm tại Giu-đa. Phải chăng họ đã quên mất quá khứ? Hay là họ
không quan tâm đến tương lai của mình? Hay là họ không nhận ra rằng Chúa có thể
lại sẽ đoán phạt họ tại Ai Cập cũng dễ dàng như điều Ngài đã làm trong xứ của
họ? Chúa đã gọi những người Do Thái trong xứ là "trái vả xấu đến nỗi không
ai ăn được". Tương lai dân sự lúc bấy giờ được đặt trong tay những người
bị lưu đày sang Ba-by-lôn, một ngày kia những người ấy sẽ trở về xứ mình và
thực hiện công việc Chúa muốn họ làm.
b. Cuộc biện luận vô lý (c.15-19): Những người lắng nghe Giê-rê-mi đều cố tìm cách biện hộ
cho mình qua việc đưa ra những kinh nghiệm. Họ biện luận rất thực tế: "Nếu
như điều đó xảy ra thì điều đó chắc phải đúng". Khi còn sống tại Giu-đa
dân sự đã lén lút thờ lạy nữ thần Nữ vương của bầu trời (Tức là thần At-tạt-tê
– nữ thần của sự sinh sản), và mọi việc dường như đều diễn ra tốt đẹp với họ.
Họ có rất nhiều thực phẩm và vui hưởng mọi điều. Nhưng khi vua Giô-si-a buộc
dân sự từ bỏ hình tựơng của họ thì họ thấy mọi việc như thể trở nên tồi tệ hơn.
Nói tóm lại, họ cho rằng họ đã thật khôn ngoan khi không vâng lời Chúa và đi
thờ lạy các thần tượng!
Có lẽ những người đàn bà
đã rất sốt sắng trong việc thờ các thần tượng và các đức ông chồng họ cũng đồng
ý với họ. Họ đã thề thờ lạy trước thần Át-tạt-tê, và chồng họ lại tán thưởng
việc họ làm (c.24-26). Theo luật Do Thái, nếu người
chồng đồng ý với lời thề của ngườ vợ thì lời thề đó mới có giá trị (Dan 30:1-17). Hậu quả là những ngưòi vợ đã trách
móc chồng mình còn những người đàn ông thì không thèm quan tâm đến những điều Giê-rê-mi nói! Và như thế họ lại tiếp
tục thờ lạy thần At-tạt-tê như điều họ đã làm trong xứ Giu-đa và họ cho rằng
chắc chắn họ làm như vậy là đúng.
c. Lời tuyên bố khủng khiếp (c.20-30): Thật bi thảm biết bao khi chỉ trong một vài năm ngắn
ngủi mà Đức Chúa Trời đã phải hai lần tuyên bố sự đoán xét trên dân Ngài với
cùng một tội! Giê-rê-mi bảo với họ rằng: “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời
của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Các ngươi và vợ các ngươi đã nói ra từ miệng
mình, và lấy ta làm trọn điều mình đã nói rằng: Thật chúng ta sẽ làm thành lời
mình đã khấn nguyện, đốt hương, và làm lễ quán cho nữ vương trên trời. Vậy các
ngươi khá giữ vững lời nguyện mình và làm trọn lời nguyện. Cho nên, hỡi cả dân
Giu-đa hiện ở trong đất Ê-díp-tô, hãy nghe lời Đức Giê-hô-va. Đức Giê-hô-va phán: Này ta lấy danh lớn mình mà thề, trong
khắp đất Ê-díp-tô sẽ chẳng có một người Giu-đa nào còn mở miệng xưng danh ta
nữa, mà rằng: Thật như Chúa Giê-hô-va hằng sống!" (Gie 44:25-26) Người Do Thái tại Ai Cập sẽ bị tiêu diệt và chỉ
có số còn lại trong số người Do Thái còn sót lại sẽ được trở về xứ mình mà
thôi.
Giê-rê-mi đã cho họ một dấu hiệu:
Pha-ra-ôn Hốp-ra, người mà dân sự tin tưởng sẽ chăm
óc cho họ sẽ bị Đức Chúa Trời phó vào tay kẻ thù vua y như Ngài đã phó vua
Sê-đê-kia vào tay vua Nê-bu-cát-nết-sa vậy. Hãy nhớ rằng Pha-ra-ôn Hốp-ra đã
đồng ý giúp đỡ vua Sê-đê-kia chống lại Ba-by-lôn nhưng thực tế đã chứng mình
rằng sự giúp đỡ đó không có ích chi cả. Các nhà sử học cho chúng ta biết rằng
có một số lính tại Ai Cập đã nổi dậy chống Hốp-ra và có một viên chỉ huy đội
lính đã ngăn chặn được cuộc bạo loạn, rồi ông tự mình xưng vương. Ong ta đã
đồng cai trị với Hốp-ra. Ba năm sau, Hốp-ra bị xử tử và vua Nê-bu-cát-nết-sa
xuất hiện. Như vậy lời tiên tri của Giê-rê-mi đã được ứng nghiệm.
Và Giê-rê-mi đã qua đời
khi những sự kiện này đang xảy ra, nhưng liệu những người Do Thái tại Ai Cập có
ghi nhớ lời của nhà tiên tri trong lòng không? Liệu dân sự có nhận ra rằng
Giê-rê-mi đã rất trung tín trong việc rao giảng Lời Chúa và tất cả những gì ông
nói đều đã ứng nghiệm? Liệu họ có ăn năn và vâng lời rao giảng của ông không?
5. Barúc: người tôi tớ
trung thành (Gie 45:1-5)
Xét theo thời gian thì chương này có
cùng thời điểm với Gie 36:1-32 nhưng lại
được xếp ở đây nhằm trình bày một số điều đáng lưu ý sau đây:
Trước hết, chương này giới thiệu lại
những lời tiên tri đã được đề cập trong chương 46-51, những lời mà Ba-rúc đã
ghi theo lời của Giê-rê-mi vào năm 605 TC. Xin nhớ rằng trong chương 25, những
lời tiên tri của Giê-rê-mi về các dân tộc được nhấn mạnh và chương này được
viết cùng thời điểm với chương 45, vào năm thứ tư đời vua Giê-hô-gia-kim. Phần
lớn các nước có mặt trong chương 46-51 đều được đề cập đến trong Gie 25:15-26.
Kế đến, chương 45 đã cho chúng ta
một cái nhìn sâu hơn về Ba-rúc. Như chúng tôi đã nói đến trước đây, Ba-rúc có
một người họ hàng làm việc trong nội bộ các quan của vua, ấy là người có thể
giúp ông có được một công việc tốt trong cung. Thay vì nhân công việc béo bở
ấy, Ba-rúc lại chọn đi theo Giê-rê-mi và làm theo ý muốn của Chúa. Chúng ta cám
ơn Chúa về những điều mà tiên tri Giê-rê-mi đã làm, song chúng ta cũng nên cảm
tạ Chúa về sự giúp đở của Ba-rúc cho Giê-rê-mi để nhà tiên tri có thể hoàn
thành công việc của mình. Môise có được 70 trưởng lão
phụ giúp. Đa-vít có những người mạnh mẽ bên mình, Chúa Giê-xu có các môn đồ của
Ngài; sứ đồ Phao-lô có những người cùng làm việc như Ti-mô-thê, Tít, Si-lơ, và
Giê-rê-mi cũng có một người tôi tớ trung thành là Ba-rúc.
Không phải tất cả mọi
người đều trở thành nhà tiên tri hay sứ đồ, nhưng tất cả chúng ta đều có thể
thực hiện ýmuốn của chúa bằng cách giúp đỡ ngưòi khác trong công việc của họ.
Dưới mắt chúng ta ngày nay thì Ba-rúc chỉ là: "một thường dân" mà
thôi. Thế nhưng ông là người đã giúp đỡ nhà tiên tri rất nhiều trong việc ghi
lại Lời của Chúa. Trong chức vụ của chính mình, tôi đã rất tôn trọng sức lao
động của các thư ký, phụ tá trung tín, những người đã giúp đỡ tôi theo nhiều
cách. Tôi có thể đứng trên "sân khấu" nhưng nếu không có sự giúp đỡ
của họ đằng sau hậu trường, thì chắc chắn tôi không thể nào hoàn tất công việc
của mình được. Ba-rúc đã bằng lòng đứng đàng sau và hầu việc Chúa qua việc phục
vụ tiên tri Giê-rê-mi.
Điều thứ ba đáng học hỏi
ở đây là: Ngay cả những tôitớ tận tuỵ nhất
vẫn có những lúc ngã lòng. Ba-rúc cũng đã gặp lúc nản lòng và muốn từ bỏ công
việc của mình (45:3). Có lẽ sự bắt bớ
Giê-rê-mi được ghi lại trong chương 26 là nguyên nhân của sự ngã lòng này. Chắc
Ba-rúc cũng đang nghĩ tới việc rời bỏ Giê-rê-mi và nhờ người bà con của mình
tìm cho mình một công việc nào đó dễ dàng hơn trong cung.
Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã an ủi
tôi tớ Ngài. Trước hết, Chúa cảnh báo ông không được hi vong vào tương lai của
Giu-đa vì mọi sự sẽ bị tiêu diệt khi quân Ba-by-lôn vây thành. Rằng "một
công việc nhẹ nhàng" trong hàng lãnh đạo sẽ có thể dẫn tới cái chết hay bị
lưu đày sang Ba-by-lôn. Chúa phán hứa với ông rằng: Ông sẽ không bị tiêu diệt
và ông sẽ không cần phải sợ kẻ thù. Chúa đã chứng minh với ông về thực tế của
một lời hứa được ghi lại một thế kỷ sau đó: "Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm
nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi
điều ấy nữa" (Mat 6:33)
Khi chúng ta phục vụ Chúa và dân
Ngài, chúng ta không nên chỉ lo tìm kiếm những điều cho bản thân mình. Điều
quan trọng nhất là công việc của Chúa được hoàn thành
và danh cao trọng của Chúa được vinh hiển. Giăng Báp-tít đã nói ngắn gọn
thế này: "Ngài phải dấy lên, ta phải hạ xuống" (Gi 3:30)
Một cuộc khủng hoảng không "tạo
nên con người" nhưng sẽ phơi bày ra bản chất của người đó. Cuộc khủng
hoảng theo sau sự tàn phá thành Giê-ru-sa-lem cũng giống như lò lửa của người
thợ rèn cho biết đâu là đồng, đâu là vàng. Và thật tệ khi không có vàng.
Thế thì bạn và tôi nên phản ứng như
thế nào khi gặp "hoạn nạn thử thách"? (IPhi
4:12-19) Tôi hi vọng rằng cũng giống như Gióp, chúng ta sẽ trở nên vàng
ròng (Giop 23:10)
12. CHÚA PHÁN VỚICÁC
DÂN TỘC (Gie 46:1-49:39)
"Tôi
đã sống trong thời gian dài, và tôi sống càng lâu thì tôi càng nhận thấy rõ hơn
những bằng chức của lẽ thật này - đó là Chúa luôn luôn tể trị trên mọi công
việc của con người" Bengiamin Franklin [92]
Giê-rê-mi đã rao giảng
Lời Chúa cho dân mình trong hơn 40 năm nhưng họ đã không chịu nghe. Giờ đây,
ông lại tiếp tục rao bảo cho các dân tộc có liên hệ đến người Do Thái. Là người phát ngôn của Chúa, Giê-rê-mi đã
"chuyền cái chén" cho các dân tộc này (25:15)
và tuyên bố rằng Chúa đã có dự định với họ. Ong được gọi là "nhà tiên tri
cho các dân tộc" (1:5) và ông đã hoàn
thành sứ mệnh của mình.
Những tên gọi, nơi chốn và những sự
kiện trong những chương sách này đều đã được ghi nhận trong những trang lịch sử
cổ đại của chúng ta. Những bài học đằng sau các sự kiện này cho chúng ta thấy
bàn tay của Chúa luôn tể trị trong sự hưng thịnh và suy vong của những nhà cầm
quyền và các dân tộc. Một trong những cụm từ được lặp lại nhiều lần trong những
chương này là lời của Chúa "Ta sẽ" như A.T Pierson đã từng nói
"Lịch sử loài người chính là câu chuyện của Đức Chúa Trời". Sau đây,
bạn cũng sẽ thấy được rằng Chúa đã đoán phạt các thần của các dân tộc này như
điều Ngài đã làm đối với các thần của Ai Cập trước cuộc hồi hương của dân
Y-sơ-ra-ên (Xu 12:22)
1. Sự đoán phạt trên Ai
Cập (Gie 46:1-28)
Pha-ra-ôn Nê-cô đã đánh
bại Giu-đa và giết vua Giô-si-a tại Mê-ghi-đô vào năm 609 TC (IISu 35:20-27) nhưng
sau đó, vua Nê-bu-cát-nết-sa đã đánh bại Nê-cô tại trận chiến Cạt-kê-mít nổi
tiếng vào năm 605 TC, nhằm năm thứ tư đời vua Giê-hô-gia-kim trị vì. Cuộc chiến
bại đó đã phá vỡ sức mạnh của Ai Cập và khiến Ba-by-lôn trở nên hùng mạnh tại
vùng Trung Đông. Giê-rê-mi đã miêu tả trận đánh theo quan điểm của Ai Cập (Gie 46:3-12). Kế đó, ông miêu tả sự xâm chiếm đất Ai Cập của Ba-by-lôn (c.13-26) và cuối cùng là lời
dành cho dân Y-sơ-ra-ên (c. 27-28)
a. Cuộc chiến bại nhục nhã của Ai Cập (c.3-12): Giê-rê-mi đã miêu tả địa hình của trận Cạt-kê-mít. Ong
miêu tả những người chỉ huy đầy tự tin chuẩn bị cho lực lượng của mình (c.3-4)
và rồi ông đã nhìn thấy họ sợ hãi bỏ chạy trước quân Ba-by-lôn (c.5-6).
Giê-rê-mi thậm chí không miêu tả trận đánh! Cụm từ "sự kinh khiếp khắp tứ bề "cũng giống như cụm từ" mọi nơi đều có
sự kinh hải" mà chúng ta đã gặp trước đây (6:25
20:3) và sẽ còn gặp lại (49:29)
Khi quân Ai Cập tiến vào trận địa,
họ nhìn thấy sông Ni-lơ có vẻ như đang vào mùa lũ (46:8). Những người chỉ huy binh lính đã cầm chắc chiến thắng
(c.8b) và những lính đánh thuê của họ cũng rất nô nức được chiến đấu (c.9)
nhưng Đức Chúa Trời đã quyết định Ai Cập sẽ bị thua trận (c.10) [93] Đó là một
cuộc "thánh chiến" mà Chúa đã chọn Ai Cập làm của lễ (c.10). Vết
thương của Ai Cập sẽ không thể chữa được và sự xấu hổ của dân tộc này là không
thể tránh khỏi (c.11-12).
b. Cuộc đánh chiếm vẻ vang của Ba-by-lôn (c.13-26): Các nhà sử học cho chúng ta biết rằng điều này đã xảy
ra vào năm 568 TC-567 TC và như thể nó không những đã được ứng nghiệm lời tiên tri mà còn ứng nghiệm cho cả "bài
giảng bằng hành động" của Giê-rê-mi trước đây (43:8-13).
Ban đầu, quân Ai Cập đứng chực sẵn một cách vững vàng khi quân Ba-by-lôn tràn
xuống. Tuy nhiên, chẳng bao lâu, quân lính Ai Cập bắt đầu không những ngã xuống
mà còn đè lên nhau khi tìm cách trốn chạy (46:13-15).
Những lính đánh thuê la lớn (c.16) và họ từ bỏ vị trí của mình
Quân Ba-by-lôn gọi
Pha-ra-ôn Nê-cô là "một kẻ ồn ào". Ngày nay, chúng ta sẽ gọi ông ta
là "tên to mồm" vì ông chẳng làm gì được ngoài việc nói khoác lác [94] Trong khi Nê-cô mãi lo khoác lác thì Nê-bu-cát-nết-sa đã xuất
hiện nơi chân trời như một gọn núi khổng lồ vậy (c.18)
Hãy xem xét những hình
ảnh mà Giê-rê-mi đã dùng. Ai Cập giống một con bò cái tơ (c.20). Các lính đánh
thuê của Pha-ra-ôn cũng giống như bò con béo chạy tán loạn (c.21) và lính của
Ai Cập mhư những con rắn (c.22) và họ đã ngã xuống truớc quân lính của
Ba-by-lôn như cây ngã trước người thợ rừng (c.23). Đạo quân xâm lược Ba-by-lôn
như một đám châu chấu không thể đếm được (c.23). Ai Cập giống như một cô gái
trẻ bị tấn công và không thể trốn thoát đuợc (c.24)
Sự thất bại của Ai Cập cũng
chính là sự bại trận của các thần Ai Cập
(c.25). Điều này không có nghĩa là thần của Ba-by-lôn mạnh hơn các thần của Ai
Cập , vì tất cả những thần tượng đều không có nghĩa gì cả. Ý ở đây muốn nói là
Đức Giê-hô-va đã bày tỏ Ngài mạnh hơn tất cả các thần của Ba-by-lôn và Ai Cập
vì chính Ngài đã làm chủ cuộc chiến. Vua Nê-bu-cát-nết-sa đã thắng và Pha-ra-ôn
Nê-cô đã thua vì Chúa ra lệnh như vậy. Nhưng Chúa còn muốn rằng Ai Cập sẽ được
hồi phục (c.26). Đây cũng lời hứa Ngài đã ban cho Mô-áp (48:47), Am-môn (49:6)
và cho dân Ê-lam.
c. Tương lai chắc chắn của Y-sơ-ra-ên (46:17-18): Đáng lý ra dân sự Chúa không nên đến Ai Cập, vậy mà vẫn
có một số người đến đó và cuộc xâm lăng của quân Ba-by-lôn tại Ai Cập đã ảnh
hưởng nặng nề đối với họ. Những người còn sót lại ở Giu-đa và những người bị
lưu đày tại Ba-by-lôn có lẽ khi nghe tin chiến thắng
của quân Ba-by-lôn thì họ đã tự hỏi tại sao không có điều gì trên thế gian này
có thể ngăn chặn được vua Nê-bu-cát-nết-sa? Chúa đã hứa rằng những người bị lưu
đày sẽ Được giải cứu khỏi Ba-by-lôn sau 70 năm, nhưng ngay thời điểm ấy
Ba-by-lôn dường như lại mạnh hơn bao giờ hết.
Nhưng dù thế nào đi nữa
thì Lời Chúa vẫn luôn đứng vững mặc cho báo chí của loài người có đưa tin gì đi
nữa! Chúa đã hứa rằng "Ta sẽ diệt hết các nước mà ta đã đuổi ngươi đến,
còn ngươi thì ta không diệt hết đâu!”. [95]
Và Ngài phán dặn dân
Ngài hai lần rằng "Đừng sợ hãi ". Dù cho tháng ngày có tăm tối thế
nào đi nữa thì Chúa vẫn luôn ban cho dân Ngài ánh sáng của Lời hứa Ngài (IIPhi 1:19-21)
2. Sự đoán phạt trên
dân Phi-li-tin (Gie 47:1-7)
Dân Phi-li-tin có lẽ đến
từ Cáp-tô (c.4). Họ đã xây dựng một đất nước giàu có bằng việc phát triển buôn
bán bằng đường thuỷ dọc theo bờ biển Địa Trung
Hải và thâu được nhiều hàng hoá từ nhiều xứ. Nhưng số phận của họ là sự huỷ
dịêt. Ty-rơ và Si-đôn là liên minh của Giu-đa trong việc cố gắng ngăn chặn bước
tiến của vua Nê-bu-cát-nết-sa (27:3)
Lần này, Giê-rê-mi đã sử dụng hình
ảnh nước sông dâng tràn để chỉ về quân lính Ba-by-lôn khi họ tràn vào xứ (42:7). Cuộc xâm chiếm kinh khủng đến nỗi các bậc
cha mẹ sẽ bỏ mặc con cái của mình lại đằng sau để chạy trốn (c.3, 49:11). Dân sự sẽ trở nên giống như những người
than khóc tại đám tang (47:5) và cầu hỏi Đức
Chúa Trời khi nào thì Ngài sẽ cất gươm đoán phạt kinh khủng của Ngài vào vỏ
(c.6). Nhưng lưỡi gươm này sẽ tiếp tục nuốt cả xứ cho đến khi cơn đoán phạt của
Chúa kết thúc.
3. Sự đoán phạt trên
dân Môáp (Gie 48:1-47)
Người Mô-áp là hậu tự
của Lót (Sa
19:20-38) và giống như dân Am-môn, đó là kẻ thù của dân Do Thái. Tuy
nhiên, trong suốt thời kỳ khủng hoảng vì quân Ba-by-lôn, cả Mô-áp lẫn Am-môn
đều liên minh với Giu-đa để chống lại Nê-bu-cát-nết-sa (Gie 27:3). Hơn 20 địa danh được kể
đến trong chương này, có một số tên trong danh sách ấy chúng ta không thể xác
định rõ, nhưng qua đó, cho thấy Đức Chúa Trời rất tường tận từng chi tiết khi
Ngài muốn nói về tương lai [96]
Vào năm 582 TC, quân của Nê-bu-cát-nết-sa đã xâm chiếm xứ Mô-áp, huỷ diệt
dân sự và các thành, để lại sự hoang tàn và chết chóc sau lưng. Nguyên nhân của
sự đoán phạt này là do thái độ kiêu ngạo, tự mãn của dân Mô-áp (48:7,11,29-30). Dân Mô-áp đã tin chắc rằng vị thần của họ
là thần Kê-mốt sẽ che chở cho họ (c.7,3,35,46) cũng như sẽ không có một kẻ thù
nào dám động đến họ để bắt họ trong vùng cao nguyên bình yên của họ (c.8).
Hình ảnh trong câu 11-13 cho thấy
Mô-áp là một dân tộc tự mãn. Họ luôn tin rằng họ sẽ rất an toàn, giống như rượu
chưng cất trong bình trở nên ngon hơn vậy. Do đất
nước trở nên phồn thịnh và đầy đủ, nên họ đã không chuẩn bị gì cho điều sẽ xảy
ra. Dân Ba-by-lôn đã đổ sạch rượu từ bình này sang bình khác và đập vỡ các bình
(xem câu 38 có một hình ảnh khác về cái bình bị vỡ). Thay vì ngồi trên ngôi
cao, cả dân tộc Mô-áp đã bị hạ xuống và phải phủ phục trên đất nung nóng
(c.17-18). Cái sừng và cánh tay là hình ảnh tượng trưng cho sức mạnh (c.25)
nhưng sừng của dân Mô-áp đã bị cắt và cánh tay đã bị gãy. Dân tộc này không còn
sức mạnh gì nữa.
Hình ảnh rượu được lặp lại một lần nữa trong câu 26-27. Cả dân tộc đều say
sưa vì chén của Đức Chúa Trời ban cho họ (25:15-16,27-29) và như
người say trong bữa tiệc, cả dân tộc đã nôn mửa và ăn lại ngay chính những thứ
mình đã nôn mửa ra. Quả thật, đây là một bức tranh đáng kinh rợn. Kế đến, hình
ảnh lại thay đổi; đó là một con chim bồ câu ẩn mình trong tổ tự hỏi điều gì sẽ
xảy ra tiếp theo. Dân Ba-by-lôn được miêu tả như con chim ưng, lao xuống con
mồi của mình (c.40 Phu 28:49 Exe 17:3), một con chim bồ câu chẳng là gì so với
chim ưng cả.
Có một điều đáng nói ở đây là Giê-rê-mi đã than khóc cho sự sụp đổ của xứ Mô-áp (Gie 48:13) và than vãn như người thổi sáo trong
một đám tang vậy (c.36-38). Dĩ nhiên, sự đau buồn của ông là một bằng chứng cho
thấy sự thương xót của Chúa dành cho những dân tộc bị huỷ diệt do tội lỗi của
chống nghịch lại Đức Chúa Trời của họ. Chúa "không vui đâu về sự chết của
kẻ phải chết" (Exe 18:32 18:23 33:11) và
Ngài sẽ làm tất cả mọi điều Ngài có thể để kêu gọi họ ăn năn trước khi cơn đoán
phạt giáng xuống.
Vâng, dân Mô-áp đã không còn có lối
thoát nào (Gie 48:44-46 Am 5:19). Nếu họ trốn thoát khỏi kẻ thù mình thì họ sẽ bị rơi xuống hố. Nếu họ trèo lên khỏi hố thì
họ sẽ bị sụp bẫy. Nếu họ thoát khỏi bẫy thì họ sẽ bị rơi vào lửa. Và nếu họ
thoát khỏi lửa, họ sẽ bị bắt và bị đem sang Ba-by-lôn. Những tội nhân cần phải
đối diện với điều này sẽ không có một chỗ nào đễ ẩn nấp khi Chúa bắt đầu ra tay
đoán phạt (Kh 20:11-15). Đối với những tội
nhân hư mất ngày nay, hi vọng duy nhất của họ là đức tin đặt nơi Chúa Giê-xu,
Đấng đã chết thay cho tội lỗi của cả thế gian. Chúng ta cần phải chạy đến ẩn
náu nơi Đấng Christ (He 6:18) - nơi ẩn náu
duy nhất cho linh hồn chúng ta.
Sau khi viết một chương dài về sự
đoán phạt, tiên tri Giê-rê-mi đã kết thúc bằng lời hứa (Gie 48:47). Lời này có liên quan đến tương lai của thời kỳ
vương quốc khi Chúa Giê-xu Christ trị vì.
4. Sự đoán phạt trên
dân Am-môn (Gie 49:1-6)
Giống như dân Mô-áp, dân Am-môn là
hậu tự của Lót từ một trong hai người con gái của ông (Sa
19:20-38) và là kẻ thù của dân Do Thái.
Lời tố cáo đầu tiên của Giê-rê-mi là
dân Am-môn đã tiến vào đất của Y-sơ-ra-ên khi quân A-si-ri xâm chiếm vương quốc
phía Bắc vào năm 722 T. C. Dân Am-môn đã chiếm lấy Gát và các thành khác như
thể dân Do Thái không bao giờ trở về vậy. Từ "Minh-côm" trong Gie 49:1,3 có thể dịch là Mo-lóc, tên của vị thần chính ở
Am-môn (IVua 11:5,7,33). Họ khoe khoang rằng thần của họ mạnh hơn Đức
Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên nhưng đến một ngày nào đó, dân Y-sơ-ra-ên sẽ
"đuổi" dân Am-môn ra khỏi xứ mình (Gie
49:2)
Dân Am-môn huênh hoang
rằng thung lũng đầy hoa quả của họ rất an toàn vì có núi bảo vệ cả 3 mặt (c.4).
Nhưng điều đó cũng không ngăn chặn được cuộc xâm chiếm xứ. Chúa đã tuyên bố
giáng sự đoán phạt lên Am-môn và không điều gì mà họ tin tưởng có thể ngăn cản
được cuộc xâm chiếm xứ.
Tuy nhiên, một lần nữa,
chúng ta lại thấy sự tốt lành và sự thương xót của Đức Chúa Trời khi Ngài hứa
sẽ hồi phục lại dân Am-môn khi Ngài khôi phục lại Giu-đa và Y-sơ-ra-ên trong
vương quốc tương lai. Chúa khôi phục lại họ không phải vì họ xứng đáng nhưng vì
họ Ngài muốn họ cùng hưởng sự vinh hiển mà
Y-sơ-ra-ên sẽ nhận được có khi Chúa Giê-xu ngồi trên ngôi Đa-vít (Gi 4:22)
5. Sự đoán phạt trên
dân Ê-đôm (Gie 49:7-22)
Dân Ê-đôm là hậu tự của Ê-sau, anh của Gia-cốp, người mà Chúa đã cất
sự chúc phước để ban cho Gia-cốp (Sa 25:19-34
36:1-43). Người Ê-đôm không thân thiện gì
mấy với người Do Thái nhưng kẻ thù chung của họ là Ba-by-lôn đã khiến Ê-đôm có
mặt tại "cuộc họp cấp cao tại Giê-ru-sa-lem" vào thời Ê-xê-chi-ên (Gie 27:3)
Bạn sẽ muốn đọc lời tiên tri của
Áp-đia và xem thử vị tiên tri này với tiên tri Giê-rê-mi đã có lời nói giống
nhau như thế nào. Vì chúng ta không biết sách Áp-đia được viết khi nào nên
chúng ta không chắc là Giê-rê-mi đã mượn lời Áp-đia hay ngược lại. Các nhà tiên
tri đôi lúc cũng trích dẫn lời của nhau. Đây cũng là một bằng chứng cho việc
cùng một Chúa là tác giả của các sứ địêp này. Ngoài ra, còn có những điểm tương
đồng giữa hai tiên tri Ê-sai và Giê-rê-mi.
Sự đoán phạt của dành cho Ê-đôm cũng
giống như một vụ gặt không còn gì sót lại cho người đi mót lúa (49:9-10 Le 19:10
Phu 24:21). Chúa sẽ làm hoàn tất công việc
lần đầu tiên. Giống như những dân tộc khác, Ê-đôm cũng sẽ "uống chén
" (Gie 49:12) vì sự kiêu ngạo của mình
và và vì tội chồng nghịch lại Đức Chúa Trời (c.16). Dựa vào những thành trên
núi hiểm trở của mình như thành Bốt-ra, họ nghĩ rằng không thể đột nhập được
(c.16-18). Nhưng cuối cùng họ đã bị huỷ diệt như những thành đồng bằng Sô-đôm
và Gô-mô-rơ (Sa 19:1-38)
Vua Nê-bu-cát-nết-sa sẽ
tấn công Ê-đôm như sư tử nhảy ra từ bụi gai rậm rạp
quanh sông Giô-đanh, và vua sẽ không dung tha cho bầy chiên (Gie 49:19-21). Vua sẽ xuất hiện như chim ưng và
đáng sợ đến nỗi người Ê-đôm sẽ đau đớn như người đàn bà trong khi sinh nở. (c.2
Gie 48:40-41). Người Ê-đôm nổi tiếng về sự
khôn ngoan (49:7 Giop
2:11) nhưng giờ đây họ không thể vạch ra cho mình một chiến lược nào khả
dĩ để có thể cứu dân tộc họ khỏi sự xâm lăng của quân Ba-by-lôn.
Trong cơn đoán phạt, Đức Chúa Trời
vẫn nhớ đến sự thương xót (Ha 3:2) và bày tỏ
điều đó đối với các góa phụ người mồ côi (Gie 49:11
Exe 22:21-24 23:9
Le 19:33 Phu
10:18 27:19). Nhưng sự kiêu ngạo của
Ê-đôm sẽ khiến dân tộc này hạ xuống như hậu quả thường
thấy của sự kiêu ngạo.
6. Sự đoán phạt trên
Sy-ri (Đa-mách) (Gie 47:25-27)
Tiên tri Ê-sai đã lên án
Đa-mách, thủ đô của Sy-ri (Es
17:1-14). A-mốt đã lên tiếng tố cáo người Sy-ri về cách cư xử với người
Ga-la-át như lúa trên sàn đập lúa (Am 1:3-5).
Chúa sẽ đoán phạt họ về cách cư xử tàn bạo , vô nhân đạo của họ đối với dân
Ngài.
Theo Giê-rê-mi thì khi nghe tin về
việc tiến công của quân Ba-by-lôn, dân Đa-mách đã trở nên giống như biển động,
yếu ớt như người bệnh, và đau đớn như người phụ nữ trong khi sinh nở (Gie 49:23-24). Họ sẽ rời các thành cổ của mình và
cố tìm cách trốn thoát nhưng những người trai trẻ khoẻ mạnh nhất của họ sẽ bị
giết trên đường và pháo đài của họ sẽ bị đốt phá.
Thông điệp này rất ngắn gọn nhưng
chứa đựng đầy sức mạnh. Vậy, Chúa còn phải rao báo như thế nào nữa thì mới
thuyết phục loài người biết rằng cơn giận của Ngài
sắp giáng xuống cho chính họ?
7. Sự đoán phạt trên
Kê-đa và Hát-so (Gie 47:28-33)
Đây là hai dân tộc sống
rất biệt lập. Kê-đa có liên hệ với Ích-ma-ên (Sa 25:13). Chúng ta không rõ về nguồn gốc của
Hát-so và không nên nhầm lẫn dân này với một thành có trùng tên ở phía Bắc
Palestine (Gios 11:1-23).
Hai dân tộc người Ả-rập sống du mục
này mưu sinh bằng nghề chăn cừu và lạc đà. Tuy nhiên, Khi vua Nê-bu-cát-nết-sa
tấn công họ vào năm 599 TC-598 TC, họ đã mất tất cả. Một lần nữa, chúng ta lại
gặp cụm từ "sự kinh hãi bao bọc tư bề" (Gie
49:29 20:3). Hai dân tộc này sống rất
buông thả, thoải mái và tách biệt ra khỏi các dân tộc khác, họ luôn lấy làm tự
mãn và rất kiêu ngạo (49:31). Họ không cần
đến Đức Chúa Trời cũng như sự giúp đỡ của người khác! Và khi vua
Nê-bu-cát-nết-sa xuất hiện, họ mới nhận ra rằng họ đã thật ngu ngốc biết bao.
8. Sự đoán phạt trên
Ê-lam (Gie 47:34-39)
Người Ê-lam thuộc dân tộc Sê-mê-mốt,
dân tộc láng giềng của người Ba-by-lôn. Cùng với đoạn này, họ được đề cập đến
trong Sa 14:1 Es
11:11 21:2 22:6
Gie 25:25 Exe
32:24 Dan 8:2). Lãnh thổ của họ nằm
cách xa bờ sông Ty-rơ chảy qua Ba-by-lôn và cuối cùng đã trở thành một phần đất
của đế quốc Mê-đô Ba-tư. Chúa đã phán với Giê-rê-mi lời tiên tri này vào năm
597 TC , trong thời Sê-đê-kia trị vì.
Do quân lính Ê-lam nổi tiếng về tài
nghệ bắn cung nên Chúa hứa sẽ bẽ gãy cung của họ (Gie
49:35). Ngài so sánh quân Ba-by-lôn như một
trận bão không chỉ thổi từ mọi phía mà còn đánh tan lạc dân sự khắp nơi.
(c.36). Bất cứ khi nào một dân tộc bị đánh bại thì những người chiến
thắng sẽ đặt vương miệng của vua họ ở cổng thành (1:15
39:3 43:8-13)
và đó là điều mà Chúa hứa sẽ làm với Ê-lam (49:38).
Ngài sẽ cho họ biết chính Ngài là Vua.
Đức Chúa Trời kết thúc quang cảnh
của sự đoán phạt bằng một lời hứa đầy thương xót. Lý do Ngài lại khôi phục lại
Ai Cập, Mô-áp, Am- môn và Ê-lam không được giải thích nhưng họ sẽ được dự phần
trong vương quốc của Chúa nhờ ân điển Ngài.
Khi nghiên cứu những chương này, có
lẽ bạn sẽ rất lo lắng khi đọc cùng một sứ điệp: sự đoán phạt sẽ đến và không
thể trốn thoát được. Những điều Chúa phán với chín dân tộc đều có cùng điểm chung,
và nếu không đọc cẩn thận, điểm giống nhau đó có thể sẽ gây ra "sự đơn
điệu" và sẽ khiến chúng ta không còn nhạy bén với thông điệp của Chúa nữa.
Tuy nhiên, hãy nhớ rằng những lời
tiên tri này được viết về những con người thật và
những gì Giê-rê-mi đã viết sẽ trở thành sự thật. Tất cả mọi nền văn minh đều bị
quét sạch vì tội lỗi của mình và cuối cùng Ba-by-lôn cũng sẽ bị huỷ diệt. Điều
này có nghĩa là càng ngày càng có thêm nhiều người phải chết và đi vào cõi tăm
tối đời đời .
Các nước các dân tộc làm
gì Chúa đều biết cả và Ngài sẽ thưởng phạt họ công bằng. Điều mà vua Sê-đê-kia
xưa kia để nói về Đức Chúa Trời thì ngày nay càng phải đuợc nhấn mạnh:
"Hỡi Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là Đấng ngự
trên các chê-ru-bin, chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời của mọi nước trên đất, Ngài đã dựng nên trời và
đất" (Es 37:16). Giô-suê gọi Ngài là
"Chúa cả thế gian" (Gios 3:11), cả
Chúa Giê-xu và Phao-lô cũng đều gọi Ngài là "Chúa của trời đất" (Lu 10:21 Cong 17:24)
Chúa chưa bao giờ ban Luật Môise cho
bất cứ một dân tộc nào trong số các dân tộc Giê-rê-mi đề cập đến nhưng Ngài vẫn
không bỏ qua những tội lỗi họ đã phạm với Chúa và với đồng loại. Bằng sự chứng
kiến của tạo vật quanh mình và lương tâm của chính mình, họ đã "không thể
chữa mình được" (Ro 1:17-32 đặc biệt là
câu 20 ) và họ đã phạm tội trước Chúa.
Trong lịch sử gần đây, các dân tộc
trên đất này cũng chẳng tỏ ra khá hơn những dân tộc đã từng được đề cập đến
trong Gie 46:1-49:39. Máu vô tội vẫn đổ.
Viết bao con trẻ vẫn bị giết từ trong bụng mẹ. Nạn
khủng bố quốc tế, tội diệt chủng, nạn bóc lột người và khai thác cạn kiệt tài
nguyên thiên nhiên, chiến tranh, tội ác, nạn lạm dụng trẻ em, và nhiều
tội lỗi khác đã khiến tay các dân tộc vấy máu. Họ sẽ làm gì khi Vị Quan toà nổi
giận và bắt đầu báo thù cho kẻ vô tội? "Sa vào tay của Đức Chúa Trời hằng
sống là sự đáng kinh khiếp thay!” (He 10:31)
13. BA-BY-LÔN BỊ SỤP
ĐỔ! (Gie 50:1-51:64)
"Xét cho cùng, chúng ta bị đoán phạt không phải
vì chúng ta phạm tội nhiều bao nhiêu mà vì chúng ta đã từ chối Lẽ thật bao
nhiêu lần" Vance
Havner. [97]
Sau khi tuỵên bố về số
phận của các dân tộc ngoại bang (46:1-49:54), nhà tiên tri bắt đầu tập trung vào kẻ
thù đáng ghét nhất của Giu-đa là đế quốc Ba-by-lôn. Giê-rê-mi đã dành 122 câu
để miêu tả về tương lai của chín dân tộc và 44 câu nói về sự chiến bại và sụp
đổ của Ba-by-lôn. Tuy nhiên, Khi chúng ta đếm số câu trong đoạn 50 và 51, nhà
tiên tri đã dành 110 câu để nói về sự sụp đổ của
Ba-by-lôn. Quả thật đây là một đề tài rất quan trọng!
Kinh Thánh mô tả thành Ba-by-lôn
hoàn toàn trái ngược với thành Giê-ru-sa-lem. Đó là thành của những con người
kiêu ngạo tương phản với một thành thánh của Chúa. Trong tiếng Hê-bơ-rơ, tên
Ba-bên (Babel) có nghĩa là "cổng của Chúa" nhưng từ này rất gần với
từ Ba-lan (Balal) có nghĩa là "sự lộn xộn", vốn
có liên quan đến tên tháp Ba-bên nổi tiếng và sự hỗn độn của ngôn ngữ loài
người (Sa 11:1-9). Người khai sinh ra nước
Ba-by-lôn là Nim-rốt (10:10). Ay là một người thợ săn can đảm trước mặt Đức Chúa Trời
(c.9). “A mighty rebel
against the Lord” [98]. Ba-bên hoặc Ba-by-lôn
là biểu tượng của sự chống nghịch Chúa - một thành tráng lệ của loài người hoàn
toàn đối ngược với thành thánh là thành làm vinh hiển Chúa. Tất cả những
điều này dẫn đến kết thúc cuối cùng của Ba-by-lôn được đề cập trong Kh 17:1-19:10 "Ba-by-lôn lớn", vốn là
biểu tượng cho thế lực chống nghịch lại Chúa đang thống trị thế gian vào thời
kỳ cuối cùng và rồi sẽ bị Đức Chúa Trời tiêu diệt. Có rất nhiều điểm tương đồng
giữa Gie 50:1-51:64 Kh
17:1-18:24 nên tôi đề nghị bạn hãy đọc thật kỹ cả 4 chương này.
Giê-rê-mi đã viết lời tiên tri này
vào một cuốn sách trong suốt năm thứ 4 đời vua Sê-đê-kia trị vì (594-593 TC) và
trao sách cho anh trai của Ba-rúc là Sê-ra-gia đọc tại Ba-by-lôn và sau khi đọc
xong thì ném sách ấy xuống sông Ơ-phơ-rát (Gie
51:59-64). Do Sê-ra-gia là quan nội đại thần của vua Sê-đê-kia, ông có
liên quan đến những việc về vấn đề ngoại giao. Có lẽ đây là "bài giảng
bằng hành động" cuối cùng của Giê-rê-mi, được thể hiện mà không có sự hiện
diện của Giê-rê-mi, là dấu hiệu tượng trưng cho sự sụp đổ hoàn toàn của đế quốc
hùng mạnh Ba-by-lôn.
Gie 50:1-51:64 như một lời tuyên bố nhưng cũng được xem như một cuộc trò
chuyện. Thông thường, chính Đức Chúa Trời phán dạy dân sự qua tiên tri của
Ngài, nhưng thỉnh thoảng chúng ta vẫn được nghe người
Do Thái trò chuyện với Chúa và Ngài đáp lời cho họ. Chúa đã tuyên phán về số
phận của Ba-by-lôn. Ngài cũng tuyên phán với đạo quân xâm lược này, và với
những người Giu-đa đang bị lưu đày. Có 3 việc xảy ra trong lời tuyên bố sau
đây: Chúa tuyên chiến với Ba-by-lôn (50:1-28),
Chúa tập hợp lực lượng chống nghịch lại Ba-by-lôn (50:29-51:26)
và Chúa báo tin chiến thắng Ba-by-lôn (c.27-58)
Lời tiên tri của Giê-rê-mi được ứng
nghiệm cả trong tương lai gần và xa. Người Mê-đi và người Ba-tư đã chiếm đóng
Ba-by-lôn vào năm 539 TC (Dan 5:1-31) nhưng
họ không phá huỷ thành. Vua Si-ru đã ban chiếu chỉ cho phép dân Do Thái trở về
xứ mình (Exo 1:1-4), và dân sự đã thực hiện
chiếu chỉ ấy theo ba giai đoạn: vào năm 538 TC (1:1-6:22),
458 TC (7:1-10:44) và 444 TC (Nê-hê-mi).
Chính vua Alexander đại đế đã tiêu diệt Ba-by-lôn vào năm 330 và biến nó thành
một đống đổ nát. Tuy nhiên, vì Ba-by-lôn tượng trưng cho thế lực chống nghịch
Chúa nên sự kết thúc cuối cùng của nó đã được ghi lại trong Kh 17:1-18:24. Hãy nhớ rằng, các nhà tiên tri luôn nhìn thấy " hai chân trời", gầnvà
xa khi họ nói hay viết về tương lai.
1. Chúa tuyên chiến với
Ba-by-lôn (Gie 50:1-28)
Đức Chúa Trời đã ban
mệnh lệnh "Hãy rao, hãy bảo". "Hãy dựng cờ xí lên!", Ngài
tuyên chiến với Ba-by-lôn và tuyên bố rằng thần tượng chính của Ba-by-lôn là
thần Bên (còn được gọi là thần Mê-rô-đác) sẽ bị đánh bại nhục nhã.
Chúa tuyên chiến với cả
Ba-by-lôn và các thần tượng trong xứ. Từ ngữ "thần tượng" có nghĩa là
"những khúc gỗ" và từ "hình tượng" có nghĩa là "những
cục phân". Đức Chúa Trời đã không thèm bận tâm đến các thần của họ! Quân
xâm lược sẽ đến từ phương Bắc cũng như vua Nê-bu-cát-nết-sa đã từ phương Bắc
kéo đến xâm lược Giu-đa vậy.
a. Chúa phán với dân Do Thái về số phận của họ (c.4-10): Ngài nhìn thấy họ như một bầy chiên lạc, không có người
chăn, một bầy chiên đã bị những người lãnh đạo và những kẻ săn bắt gian trá lợi
dụng quá nhiều. Việc dân Giu-đa bị lưu đày tại Ba-by-lôn được trở về xứ mình
chỉ là hình ảnh tạm thời ngụ ý sâu xa cho việc nhóm họp dân Do Thái trong những
ngày sau rốt. Chúa cảnh cáo họ phải chạy
trốn khỏi Ba-by-lôn để không bị bắt trong cơn đoán phạt sắp tới. (Es 48:20 Kh 18:4).
Ngài sẽ khiến người Mê-đi và người Ba-tư chống lại
Ba-tư và họ sẽ hoàn toàn chiến thắng.
b. Chúa phán với Ba-by-lôn (c.11-13): Bây giờ chúng ta sẽ biết đượcvì sao Chúa lại tiêu diệt
đế quốc hùng mạnh này. Ban đầu, người Ba-by-lôn lấy làm vui mừng khi họ đánh
bại và tiêu diệt được Giu-đa. Thật vậy, Ba-by-lôn chính là công cụ mà Chúa đã
dùng để đoán phạt dân sự tội lỗi của Ngài. Tuy nhiên, người Ba-by-lôn đã đi quá
xa và họ quá sau sưa với chiến thắng của mình. Họ
hành động như một con bò hớn hở trong khi đạp lúa vậy! Bất cứ một dân tộc nào
rủa sả dân Do Thái thì cuối cùng dân tộc đó cũng sẽ bị Đức Chúa Trời rủa sả (Sa 12:1-3). Chúa sẽ đối xử với họ như cách họ đã
đối xử với dân Giu-đa (Gie 51:24,35,49)
c. Chúa phán với các đạo quân xâm lược (c.14-16): Cũng như Ba-by-lôn là công cụ mà Chúa đã dùng để đoán
phạt Giu-đa, các đạo quân xâm lược như vua Si-ru với người Mê-đi và Ba-tư và
sau này là Alexander Đại đế với quân đội Hy Lạp cũng đã trở thành công cụ của
Chúa để Ngài dùng đánh bại Ba-by-lôn. Chúa phán với các đạo quân xâm lược này
hãy chuẩn bị vũ khí sẵn sàng và tiếng hét mừng chiến thắng vì họ sẽ được thắng
trận. Đây không phải là một cuộc chiến bình thường mà là "sự báo thù của
Đức Chúa Trời" (c.15)
d. Chúa phán về người Do Thái (c.17-20): Một lần nữa, Giê-rê-mi lại dùng hình ảnh một bầy chiên
tan tác. Quân A-si-ri đã xâm chiếm Y-sơ-ra-ên (vương quốc phía Bắc) và
Ba-by-lôn xâm chiếm Giu-đa (vương quốc phía Nam) nhưng giờ đây Chúa sẽ đoán
phạt Ba-by-lôn như Ngài đã đoán phạt A-si-ri vậy. (A-si-ri đã đánh bại liên
minh Ba-by-lôn-Mêđi vào năm 609 TC). Chúa sẽ đem dân Ngài về xứ của họ là nơi
các bầy chiên có thể ăn cỏ an toàn và yên bình. Nhà tiên tri nhìn tới những
ngày sau khi Chúa sẽ rửa sạch tội lỗi của dân tộc và lập Giao ước mới của Ngài
với họ. Một lần nũa, chúng ta lại thấy "hai chân trời" trong một lời
tiên tri.
e. Chúa phán với những kẻ xâm lược (c. 21-27): Chúa chỉ huy cuộc xâm chiếm và mệnh lệnh của Ngài được
thi hành triệt để. Ba-by-lôn "cây roi" (dc Es 10:5), cũng đã bị tưa ra. Ba-by-lôn sụp vào bẫy của Đức Chúa Trời và
không thể thoát ra khỏi các khí giới của Ngài. Những người trai trẻ mạnh khoẻ
sẽ bị giết như súc vật và ngày đoán phạt Ba-by-lôn sẽ đến.
f. Những người Do Thái còn sót lại lên tiếng (c.28): Chúng ta hãy nghe những người bị lưu đày trốn chạy khỏi
thành Ba-by-lôn và trở về Giu-đa khi họ kể lại sự sụp đổ của Ba-by-lôn. Tội
nặng nhất của Ba-by-lôn là việc đốt đền thờ, và vì tội lỗi đó, họ đã phải nhận
hình phạt là thành quách của họ bị huỷ diệt hoàn toàn.
2. Chúa tập họp lực
lượng chống lại Ba-by-lôn (Gie 50:1-28) (Gie 50:29-51:26)
Mệnh lệnh đầu tiên của
Đức Chúa Trời là "Hãy bảo cho hết thảy các nước!" Nhưng bấy giờ mệnh
lệnh lại là "Hãy gọi hết thảy những kẻ cầm cung!" Chúa ra lệnh cho
lực lượng của người Mê-đi và Ba-tư (sau này là Hy Lạp) bắn, giết và không cho
một người Ba-by-lôn nào được trốn thoát.
a. Chúa phán với Ba-by-lôn (50:31-51:4): Chúa phán với dân Ba-by-lôn
rằng Ngài sẽ chống lại dân này vì họ quá kiêu ngạo (50:31-32) và cố tình hà hiếp dân Do Thái (c.33).
Những người bị lưu đày không thể tự giải thoát mình được, nhưng Đấng Cứu Chuộc
mạnh mẽ đã cứu họ! Cụm từ "đối nại chúng nó" chỉ đến một phiên toà do
Đức Giê-hô-va làm thẩm phán xét xử và Ngài phán quyết rằng Ba-by-lôn có tội.
Giờ đây, Chúa phán cho Ba-by-lôn
biết về những điều sẽ xảy ra trong ngày đoán phạt của họ. Bức tranh đầu tiên là
hình ảnh gươm đao tủa ra trên khắp xứ và giết hại dân sự (c.35-38). Lưỡi gươm
của chúa thậm chí chém vào nước và khiến chúng trở nên khô hạn (c.38). Tại sao
vậy? Bởi vì "đây là xứ tượng chạm" (c.38) và Chúa muốn chứng minh
rằng những thần tượng chẳng có ý nghĩa gì. Giống như sự sụp đổ của Gô-mơ-rơ và
Sô-đôm, sẽ không còn gì sót lại cả. Đó sẽ là nơi trú ẩn của chim chóc và thú
rừng. Còn thành phố thì sẽ không bao giờ được khôi phục lại nữa.
Đức Chúa Trời đã chỉ cho Ba-by-lôn
thấy một đội quân hùng mạnh sẽ đến từ phương Bắc - một đội quân độc ác không có
lòng thương xót với tiếng chân đi như biển động (c.42). Điều này đã khiến cho
vua Ba-by-lôn kinh hái. Tựa như một con sư tử đói, đang săn tìm con mồi (49:19-21), vua Si-ru và kế đó là Alexander Đại đế
sẽ tấn công Ba-by-lôn và không ai có thể địch lại nổi. Vâng, hễ Đức Chúa Trời
chọn dùng người nào thì người đó sẽ luôn thành công. Sự đoán phạt của Chúa trên Ba-by-lôn sẽ trở nên giống như việc sẩy thóc:
"Ba-by-lôn hùng mạnh" sẽ bị thổi bay đi như tro trấu cùng với các
thần tượng của nó.
b. Chúa phán với dân Do Thái (51:5-10): Chúa phán hứa với dân Ngài rằng Chúa sẽ
không bỏ họ và Ngài ra lệnh cho dân sự lần thứ hai (50:8)
hãy trốn khỏi Ba-by-lôn khi có cơ hội. Khi vua Si-ru mở cửa cho họ trở về xứ
mình thì có khoảng 50.000 người Do Thái đã quay trở lại Giu-đa và tái thiết
Giê-ru-sa-lem cùng với đền thờ. Ba-by-lôn đã trở nên "chén rượu"
trong tay Chúa (25:15) khiến cho mọi dân tộc
ở đó sống buông tuồng như những người say (Kh 18:3).
Nhưng giờ đây, chén đó đã vỡ ra và quyền lực của Ba-by-lôn đã sụp đổ. Lời
"hãy vì nó than khóc" (Gie 51:8)
đã được ứng nghiệm trong Kh 18:9. Bất cứ ai
hi vọng vào Ba-by-lôn sẽ rất thất vọng tương tự như những ai đang đeo bám hi
vọng vào thế giới hiện tại này vậy. "Vả, thế gian đều sẽ qua đi" (IGi 2:17)
Đại từ nhận xưng "chúng
ta" trong Gie 51:9 đã đề cập đến là ai
vậy? Là dân Do Thái hay liên minh của Ba-by-lôn đã bỏ rơi Giu-đa? Trong Gie 51:10 chúng ta thấy đại từ sở hữu “của chúng
ta” rõ ràng là chỉ về những người Do Thái cho nên “chúng ta” trong Gie 51:9 chính là nói đến những người bị lưu đày
là những người đã được Giê-rê-mi hướng dẫn sống đời sống trở nên nguồn phước
tại Ba-by-lôn (29:4-14). Chắc chắn, đã có
nhiều người Do Thái trở lại tìm kiếm Chúa, xưng nhận tội lỗi mình và tin vào
lời hứa Ngài sẽ giải cứu họ. Một vài người trong số
họ đã chuẩn bị cho con trai, con gái mình trở về xứ. Họ đã bày tỏ Lẽ thật về
Giê-hô-va Đức Chúa Trời cho người Ba-by-lôn và chia sẻ Lẽ thật ấy cho những kẻ
bắt bớ họ, thế nhưng dân Ba-by-lôn lại thích cười cợt người Do Thái hơn
là nghe họ nói về tôn giáo của mình. (Thi 137:1-9).
c. Chúa lại phán với Ba-by-lôn (Gie 51:11-19): Chúa cảnh cáo họ hãy chuẩn bị khí giới sẵn sàng, dựng các
tường thành và cắt người canh gác vì cuộc xâm đã sắp bắt đầu. Gie 51:13). Họ đang mãi say sưa với quyền lực, sức
mạnh và sự giàu có xa hoa của mình thì Đức Chúa Trời đã đến cất các điều đó đi và chấm dứt mọi mưu lược của họ (c.13) [99]
Quân địch sẽ tràn xuống
Ba-by-lôn như đàn châu chấu và chứng minh cho Ba-by-lôn thấy rõ các thần tượng
của họ là hư không và vô ích mà thôi. Giê-rê-mi đã từng phơi bày sự ngu ngốc
của việc làm và thờ lạy các thần tượng (c.15-19) và ngợi khen sự vĩ đại của
Chúa Hằng Sống, Chân Thật (10:12-16
Es 40:12-26)
d. Chúa phán với các tướng của mình (c.20-24) [100].Tương tự như A-si-ri là "cây roi" của Chúa (Es 10:5-19) và các tướng
lĩnh của Ngài (vua Si-ru, và sau này là Alexander Đại đế) cũng sẽ là "cây
búa "của Chúa để Ngài dùng đập tan quyền lực của Ba-by-lôn. Động từ
"đập tan" được dùng 9 lần trong đoạn này.
Họ sẽ đối đãi với Ba-by-lôn y như cách mà vua Nê-bu-cát-nết-sa đã đối đãi với
các dận tộc khác. Có một đạo luật báo ứng trong công việc của Chúa trong lịch
sử và Đức Chúa Trời sẽ thực thi đạo luật này.
e. Chúa tiếp tục phán với Ba-by-lôn (c.25-26): Thành Ba-by-lôn nằm trên khu vực đồng bằng nhưng dưới
cái nhìn của các dân tộc thì đó lại là một ngọn núi hủy diệt khộng lồ xuất hiện
trong lịch sử. Tuy nhiên, khi Đức Chúa Trời đoán phạt nó, Ba-by-lôn sẽ chẳng là
gì khác ngoài một ngọn núi lửa đã tắt ("núi bị cháy", Gie 51:25). Sẽ không ai đến khai quật đống đổ nát ấy để tìm đá xây
dựng nữa; thành phố sẽ bị bỏ hoang mãi mãi.
Gie 50:29-46; xem giải nghĩa Gie 50:1-28
Gie 51:1-26; xem giải nghĩa 50:1-28
3. Chúa báo tin chiến
thắng Ba-by-lôn (Gie 51:27-58)
Xuyên suốt lời tiên tri
này, Chúa thường nói về sự sụp đổ của Ba-by-lôn, nhưng ở chương kết thúc này
Lời Chúa dường như chỉ tập trung vào việc báo tin chiến thắng kẻ thù hoàn toàn.
a. Chúa miêu tả chiến thắng (c.23-33): Đạo quân của Chúa đã được chuẩn bị,
các tướng lĩnh đã sẵn sàng và trận chiến bắt đầu. Còn đạo quân Ba-by-lôn đã trở
nên hoàn toàn bất lực, chúng chỉ mới leo lên tới trên các tường thành thì đã
kiệt sức, hồn xiêu phách lạc. Thành bị đốt và các thanh chắn cổng thành bị bẻ
gãy. Không gì có thể ngăn cản được kẻ địch tiến vào thành và làm những điều mà
người Ba-by-lôn đã xử với thành Giê-ru-sa-lem. [101]
Người Ba-by-lôn có một
hệ thống thông tin hiệu quả và họ có thể truyền tin nhanh chóng đến các nước
chư hầu. Sự thật, Giê-rê-mi đã miêu tả cuộc gặp gỡ của những người đưa tin và
báo tin cho nhà vua thế này: "đồng lầy bị đốt cháy bằng lửa! ",
"lính chiến đã hoảng hồn!", "thành vua bị vây chặt khắp tư
bề!" (c.31-32). Đó chính là mùa gặt của Đức Chúa Trời và Ba-by-lôn đã ở
trên sân đạp lúa [102]
b. Chúa phán với dân Do Thái (c.34-50): Trước hết, người Do Thái nhắc Chúa nhớ lại về những
điều mà Nê-bu-cát-nết-sa đã làm với họ (c.34-35). Như một quái vật hung dữ,
Ba-by-lôn đã chộp lấy Giu-đa như thể chập một cái bình đựng thức ăn và nó đã
vội ăn nuốt mọi thức ăn trong đó rồi lại ói ra và cuối cùng nó đập vỡ bình! Qua
là như thế, dân Ba-by-lôn đã nuốt dân vào rồi lại nhả họ ra. Giờ đây, dân Do
Thái muốn Đức Chúa Trời báo ứng lại người Ba-by-lôn những đau khổ mà họ đã gây
ra cho nguời Do Thái.
Câu trả lời của Chúa là
một lời khích lệ: như vị luật sư biện hộ tại toà án, Chúa sẽ xem xét vụ kiện
này, ào chữa và minh oan cho họ (c.36) Đức Chúa Trời đã miêu tả rất rõ ràng
điều sẽ xảy ra với Ba-by-lôn: khu đổ nát của thành phố sẽ là nơi trú ẩn của thú
dữ và chim chóc, là nghĩa địa cho những người bị giết trong cuộc xâm lăng và là
lò sát sinh nơi dân Ba-by-lôn sẽ bị giết như bò, chiên và dê.
Sê-sác trong Gie 51:41 là tên
mật mã của Ba-by-lôn (25:26). Theo một hệ
thống chữ cuối cùng của mẫu tự được thay thế bằng chữ đầu tiên, chữ kế cuối cho
chữ thứ nhì và cứ tiếp tục cho đến hết. Còn lý do tại sao lại dùng tên mật mã
của kẽ thù trong một câu và tên thật trong câu tiếp theo thì quả là một điều
khó hiểu.
Tuy nhiên, kẻ thù của Ba-by-lôn sẽ
tiến công Ba-by-lôn như nước biển tràn bờ (51:42)
và "khi thuỷ triều xuống" thì đó sẽ chỉ còn lại hoang mạc. "Quái
vật" Ba-by-lôn đã từng ăn nuốt dân Chúa nhưng Chúa sẽ khiến nó phải nhả họ
ra (c.44) và vị vua mới (Si-ru) sẽ cho phép dân Ngài được trở về xứ mình. "Tường thành Ba-by-lôn sẽ xiêu
đổ" theo nghĩa đen đã trở thành sự thật dưới tay Alexander Đại đế và
"tường thành sụp đổ" thực sự khi vua Si-ru ban chiếu lệnh cho những
người Do Thái bị lưu đày được trở về xứ mình và xây dựng lại đền thờ.
Lần thứ ba, Chúa ra lệnh
cho dân Ngài ra khỏi xứ Ba-by-lôn (c.45 50:8 51:6) và không
được chần chừ, chậm trễ (51:50 Sa 19:16). Chúa bảo họ chớ sợ hãi những tin đồn mà
họ đã nghe được, tức là những điều sắp sửa xảy ra. Họ không cần phải sợ hãi
những tượng chạm hư không của Ba-by-lôn là những thần tượng chẳng thể làm gì để
ngăn cản họ được cả. Lúc đó, các từng trời và đất sẽ cất tiếng reo vui khi
Ba-by-lôn sụp đổ (Gie 51:48 Kh 18:20)
c. Dân Do Thái thưa chuyện với Chúa và Ngài đáp
lời (c.51-58): Những người Do Thái bị lưu đày cảm
thấy thật nhục nhã trước mọi dân tộc vì những điều mà người Ba-by-lôn đã làm
đối với thành Giê-ru-sa-lem. Nếu Đức Chúa Trời không đủ khả năng sức mạnh để
bảo vệ nhà Ngài thì làm sao Chúa có thể đánh bại được Ba-by-lôn? Nếu rời khỏi
Ba-by-lôn, họ chỉ trở về với sự đổ nát và xấu hổ mà thôi. Trong suốt những năm
bị cầm tù, nhữngai vâng theo lời dạy của Giê-rê-mi
(Gie 29:4-14) thì có lẽ người đó đã có một cuộc sống khá dễ chịu. Vì vậy, họ sẽ
đổi sự an toàn để chuốc lấy nguy hiểm, và đổi sự sung túc cho điều mình muốn. [103]
Tuy nhiên, Chúa đã bày
tỏ rõ rằng Ba-by-lôn sẽ chẳng có tương lai nữa, vì Ngài đã quyết định huỷ diệt
thành này (51:56).
Vì vậy, nếu dân của Chúa vẫn còn nán lại ở Ba-by-lôn thì họ sẽ phải chịu chung
số phận với thành. Còn nếu họ vâng lời Chúa quay về xứ thì họ sẽ kinh nghiệm
được một sự khởi đầu mới mẻ dưới sự ban phước của Chúa.
Đây là vấn đề bước đi bằng đức tin
chớ không theo những gì mắt thấy, tin vào Lời Chúa thay vì dựa vào sự đánh giá
của con người. Những người Do Thái bị lưu đày khi nhìn thấy những tường thành
cao, những cổng lớn của thành Ba-by-lôn thì đã vội kết luận rằng với sự phòng
thủ như vậy sẽ làm lui bước bất cứ một kẻ thù nào dám tấn công Ba-by-lôn, thế
nhưng họ đã lầm. Những tường và cổng đó chỉ như "dầu gặp lửa" khi các
kẻ thù Ba-by-lôn tiến vào mà thôi (c.58).
"Ba-by-lôn lớn kia đã đổ rồi,
đã đổ rồi" (Kh 14:8)
Và Ba-by-lôn sẽ còn sụp đổ mãiu mãi!
Gie 52:1-34; xem giải nghĩa Gie 39:1-18
LỜI KẾT
"Không phải sự thất
bại mà chính là sự bỏ cuộc đã đánh gục một con người. Bạn bị gục ngã khi bạn bỏ
cuộc chớ không phải khi bạn thất bại” (Richard M.Nixon)
Giê-rê-mi qua đời lúc
tuổi cao tác lớn là tại Ai Cập. Cũng giống như mộ phần của Môi-se, nơi chôn cất
của Giê-rê-mi vẫn còn là một điều bí ẩn. Mộ của nhà tiên tri đã trở thành các
bụi nhưng những lời ông viết vẫn còn ở với chúng ta luôn vì Lời Chúa còn lại
đời đời. Ông đã viết ra một quyển sách có nội dung khó hiểu và chúng vẫn chưa
thể hiểu hết mọi điều ông viết. Tuy nhiên, bạn không thể không thể rút ra được
từ cuộc đời và chức vụ của ông một vài bài học quan trọng, cụ thể nào đó cho mình
và ứng dụng chúng vào trong cuộc sống làm con dân Chúa ngày nay.
1. Trong những lúc khó
khăn, chúng ta cần phải nghe và lưu ý đến Lời Chúa: Trước một sự việc nào đó
thì mỗi người thường có mỗi đánh giá và nhìn nhận khác nhau. Đối với chúng ta
thì thật rõ ràng rằng các nhà lãnh đạo Giu-đa đã làm một việc dại dột khi họ
chống lại những điều mà Giê-rê-mi bảo họ làm. Giu-đa đã phạm tội và điều đó đã
dẫn đến rắc rối với sự đoán phạt cho chính họ dù họ nghĩ rằng họ có thể thương
thuyết để tìm ra giải pháp cứu vãn tình thế nhưng kết cuộc họ đã không làm
được. Những gì họ cần làm là đặt niềm tin nơi Lời của Chúa và vâng theo ý muốn
Ngài. Nếu dân Giu-đa chịu xưng nhận tội lỗi của mình, quay trở lại với Chúa và
đầu hàng vua Nê-bu-cát-nết-sa, thì chắc hẳn họ đã cứu đựoc mạng sống, đền thờ
và thành của mình.
2. Những tiên tri thật
của Chúa thường bị bắt bớ. Các nhà lãnh đạo tôn giáo và dân sự của Giu-đa ưa
thích những thông điệp êm tai, tốt lành của các tiên tri giả hơn là những lời
thẳng thắn từ tôi tớ thật của Chúa bởi vì lòng người ưa thích yên ổn hơn là ăn
năn, bình an hơn là đối diện với lý do cơ bản của sự bất an.
Dân Do Thái đã chống cư
lại các sứ giả của Chúa và thách thức quyền năng của họ kể từ thời Môi-se cho
đến thời các sứ đồ. Thật khó để kể ra tên một nhà tiên tri hay một vi sứ đồ nào
mà không bị bắt bớ. Thời nay, Nếu Giê-rê-mi xuất hiện tại Hoa kỳ tại một vài
thượng nghị viện hay tại quốc hội nào đó và nói những điều ông đã rao giảng cho
những người lãnh đạo Giu-đa thời xưa, thì chắc chắn ông sẽ bị chế nhạo và bị
bắt ném ra ngoài. Tuy nihên, làm "một nhà tiên tri được mọi người yêu
mến" không có kẻ thù nào và luôn làm vừa lòng mọi người lại là một điều
thật nguy hiểm. Vance Havner đã nói “Trong tình hình tôn giáo ngày nay, các nhà
tiên tri thật hiếm hoi. Hội Thánh ngày nay chỉ là “một tổ chức không có nhà
tiên tri". [104]
3. Người có lòng yêu
nước thật sự sẽ không làm ngơ với tội lỗi: Charles Jefferson đã viết :
4. “Ông (Giê-rê-mi) đã
yêu dân tộc mình đến nỗi sẵn sàng chết cho dân tộc mình như một kẻ phản bội.
ông yêu dân tộc mình thiết tha đến nỗi ông sẽ không rời bỏ nó ngay cả khi thành
Giê-ru-sa-lem đã bị đổ nát”. [105].
Hãy tưởng tượng một
người yêu nước như Giê-rê-mi lại bị gọi là kẻ phản bội! Thực tế, vẫn thường
nhiều nhà lãnh đạo can đảm, những người dám phơi bày sự dối trá và kêu gọi đất
nước hãy ăn năn lại bị gọi là kẻ phản bội và bị dân chúng lên án.
Cơ Đốc nhân yêu nước là
người không làm ngơ trước tội lỗi của dân tộc mình nhưng tìm cách giải quyết
chúng một cách toàn diện và thực tế. Cả Chúa Giê-xu và Giê-rê-mi đều có lòng
yêu nước thật sự nên đã định bệnh thật chính xác cho căn bệnh của "hết
thảy dân sự" lúc bấy giờ và đưa ra phương pháp chữa trị đúng đắn. Cả hai
Chúa và Giê-rê-mi đã không chữa các vết thương của dân sự một cách sơ sài bằng
những lời nói suông rằng: "bình an, bình an. Cả hai đều nhận ra rằng nan
đề lớn nhất cần được giải quyết của dân tộc chính là vấn đề tội lỗi chớ không
phải là nạn thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế hay an ninh quốc phòng. Nếu dân sự
không lo giải quyết tội lỗi trước mà lại mãi lo đi giải quyết các vấn đề khác
vốn chỉ là các triệu chứng của một vấn đề ga cấn thật là vấn đề tội lỗi thì
việc họ làm đó chỉ tổ hao phí thời gian và tốn kém sức lực, tài nguyện mà thôi.
5. Những tôi tớ của Chúa
đôi khi cũng nghi ngờ Chúa và có khiếm khuyết. Giê-rê-mi rất yếu đuối trước
Chúa nhưng lại rất dạn dĩ truớc dân sự. Ong không e ngại phải nói với Chúa
những điều ông thật sự nghĩ và biết lắng nghe Chúa khi Ngài bảo ông làm những
điều cần làm. Mặc dù có lần ông đã muốn từ bỏ chức vụ của mình, nhưng ông đã
dừng lại và tiếp tục hầu việc Đức Chúa Trời.
Giê-rê-mi là một nhà
tiên tri có tấm lòng. Ong không vui khi chỉ rao truyền những thông điệp liên
quan đến các vấn đề hời hợt; ông muốn thâm nhập vào bề trong con người và nhìn
thấy tấm lòng họ được thay đổi. Ong dạn dĩ nói với dân sự rằng rồi sẽ đến những
ngày sẽ đến khi họ không còn nhớ đến hòm giao ước và thấy thật cần nó. Thật ra,
những ngày đó họ trở thành một phần của giao ước mới vốn được khắc vào lòng chớ
không phải ghi trên đá như trước nữa. Đó chính là tôn giáo cấp tiến nhưng sứ
điệp của Đức Chúa Trời thì vẫn như cũ.
Bất cứ tôi tớ nào của
Chúa cố chạm đến và thay đổi những tấm lòng đều sẽ kinh nghiệm được sự đau buồn
và thất bại nhưng Chúa biết tấm lòng chúng ta và khiến chúng ta vững vàng.
6. Điều quan trọng không
phải là sự thành công mà là sự trung tín: Theo tiêu chuẩn ngày nay của con
người trong công việc, Giê-rê-mi thật sự là một gương thất bại thảm hại. Ông
giảng dạy cho dân sự Chúa trong suốt 40 năm nhưng chỉ có một ít người tin và
làm theo lời ông mà thôi. Dân tộc mà ông cố cứu thoát khỏi sự huỷ diệt đã từ bỏ
Chúa của họ và đi đến chỗ hiểm hoạ. Những lời ký thuật của ông ắt cũng chẳng
không gây được ấn tuợng cho các thành viên của phần lớn các hội truyền giáo
ngày nay.
Giê-rê-mi có lẽ nghĩ
rằng ông đã thất bại nhưng Chúa đã nhìn thấy ông là một tôi tớ trung tín và đó
mới là điều quan trọng. "Vả lại, cái điều người ta trông mong nơi người
quản trị là phải trung thành" (ICo 4:2). Chúng ta tưởng
chừng như Giê-rê-mi đã bỏ cuộc, thế nhưng ông đã không làm như vậy. Cũng như V.
Raymond Edman thuờng nói: "Chớ bỏ cuộc quá sớm!"
7. Phần thưởng lớn nhất
của chức vụ là được trở nên giống như Chúa Giê-xu: Khi Chúa Giê-xu hỏi các môn
đồ rằng dân chúng nói Ngài là ai thì họ đã trả lời rằng: "Nguời nói là
Giăng Báp-tít; kẻ nói là Ê-li, kẻ khác lại nói là Giê-rê-mi" hay là một
đếng tiên tri nào đó (Mat
16:14). Quả là một lời khen quý báu cho bạn
khi mọi người nói "Bạn thật giống Chúa Giê-xu!"
Có nhiều điểm tương đồng
thật thú vị giữa Chúa Giê-xu và Giê-rê-mi. Cách thức giảng dạy của cả hai đều
giống nhau. Cả hai đều dùng "những bài giảng bằng hành động" và rất
nhiều hình ảnh từ thực tế cuộc sống và thiên nhiên. Cả hai đều nói về tôn giáo
"bề ngoài" trong đền thờ. Cả hai đều bị tố cáo là kẻ phản bội dân sự,
phải chịu những đau đớn về thể xác, thậm chí bị bắt bị đánh đập và bị bắt giữ.
Cả hai đều khóc cho thành Giê-ru-sa-lem và bị gia đình bắt bớ. Cả hai đều nhấn
mạnh đến đức tin ở trong lòng và chống lại " cái vỏ bề ngoài" của tôn
giáo vốn chỉ là hình thức rỗng và không có ích gì cả.
Tôi còn có thể tiếp tục
đưa ra nhưng ở đây nhiều điểm tương đồng khác nữa, có một điểm thật hiển nhiên:
Giê-rê-mi trở nên giống Chúa Giê-xu vì ông đã cùng chia sẻ
"sự thông công thương khó của Ngài" (Phi
3:10). Giê-rê-mi đã bước vào lò lửa luyện của cuộc sống, để "trở
nên giống như hình bóng Con Ngài" (Ro 8:29).
Có lẽ Giê-rê-mi đã không nhận ra quá trình này diễn
ra trong đời sống ông nhưng sự biến hoá ấy thật sự đã diễn ra.
8. Chúa là Vua tất cả và
mọi dân tộc đều phải phục duới quyền cai trị của Ngài: Không có gì làm Chúa
phải ngạc nihên cả. Hễ dân tộc nào dám coi thường Ngài và không vâng theo Lời
Ngài thì chắc chắn cuối cùng dân tộc đó sẽ phải gánh chịu hậu quả do thái độ
sống ấy của họ. Những ai tuyên bố là biết Chúa mà không vâng theo Ngài thì cũng
sẽ có cùng rốt cuộc như thế. Thật vậy chúng ta càng biết rõ húa thì lại càng
phải có trách nhiệm đối với sự hiểu biết ấy. Không một dân tộc nào đã được Đức
Chúa Trời ban phước như dân Y-sơ-ra-ên, nhưng sự ban phước đó đã đem lại sự
đoán phạt cho họ khi họ phạm tội khước từ dòng ánh sáng ngập tràn tuôn xuống từ
trời.
Quả là một trách nhiệm
lớn lao cho một người nhận biết Chúa và đầu phục ý muốn Ngài. Trách nhiệm ấy
không phải chỉ thể hiện ở việc chúng ta ghi câu "chúng ta tin vào Đức Chúa
Trời" trên tờ giấy bạc hoặc nhắc tới Chúa trong lời thề trịnh trọng truớc
quốc kỳ hoặc “ra mát Ngài" bằng cách trích dẫn Lời Ngài trong những bài
diễn văn chính trị. Trách nhiệm đó phải thể hiện bằng việc làm công bình chớ
không phải ở các nghi thức tôn giáo nhằm tán dương một quốc gia. Điều khiến
Chúa vui lòng là: "làm sự công bình … ưa
sự nhơn từ… và bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời" (Mi 6:8).
Đức Chúa Trời đã vùa giúp Giê-rê-mi
thì Ngài cũng sẽ vùa giúp chúng ta
Và thế gian đã chống lại Giê-rê-mi
ắt cũng sẽ chống lại chúng ta
Đã đến lúc con dân của Chúa phải dứt
khoát.
"Người nào đứng
giữa đường ắt sẽ bị xe đụng phải” (Aneurin Bevin một nhà lãnh đạo Anh quốc).
Tiên tri Giê-rê-mi không
phải là một người đứng giữa đường. Mọi người luôn biết rõ ông đã đứng ở đâu.
Ông đứng với Chúa
Mặc cho những bắt bớ và
những kết quả dường như là thất bại, suốt hơn 40 năm, tiên tri Giê-rê-mi vẫn
can đảm rao giảng sứ điệp của Chúa cho một dân tộc chìm trong tội lỗi và sắp bị
đoán phạt. Khi nghiên cứu sách Giê-rê-mi, bạn sẽ khám phá ra những vấn đề sau:
- Làm thế nào để dạn dĩ
trước dân sự nhưng tan vỡ trước mặt Chúa
- Bí quyết vượt qua
những nản lòng trong chức vụ
- Những nguyên tắc mà
Chúa đã áp dụng trên các dân tộc
- Điều gì khiến bạn trở
nên giống Chúa Giê-xu
- Điều gì sẽ xảy đến cho
các dân tộc trên thếc giới trong tương lai.
Chúa Giê-xu phán:
"Ai không ở với Ta thì nghịch cùng Ta"
(Mat 12:30). Ngày nay, con cái của Chúa phải
DỨT KHOÁT
Tiến sĩ Dr. Warren W.
Wiersbe là nhà văn đang sống tại trường ở đại học Cornerstone ở Grand Rapids
thuộc bang Michigan và là giáo sư giảng dạy tại trường thần học Grand Rapids
Baptist. Ông vốn là mục sư chủ tọa của ba Hội Thánh, kể cả Hội Thánh Moody ở
Chicago và Hội Thánh General Director, ông còn là giáo sư giảng dạy Kinh Thánh
cho viện “Back to the Bible”. Ông cũng chính là tác giả của hơn 100 cuốn sách,
kể cả loạt sách nghiên cứu Tân Cựu Ước được mở đầu là " Hãy.." ( Be).