Gia Dinh Gieo Giong

Phục Hưng Một Dân Tộc Bị Tàn Lụi ( tiếp theo)



Đề tài: Phục Hưng Một Dân Tộc Bị Tàn Lụi ( tiếp theo)
Kinh Thánh: Ê-xê-chi-ên 37: 1-10

Trong danh Chúa Cứu Thế Giê xu, tôi trân trọng kính chào quý vị!
Hôm nay, thật là một ngày phước hạnh và tràn đầy niềm vui cho Hội thánh và đời sống mỗi chúng ta khi cùng nhau vui thỏa trong sự hiện diện của Chúa.
Trong niềm vui mừng đó, tôi xin gởi đến quý vị lời chào mừng hân hoan và thật nồng nhiệt.
Tôi gởi lời cảm ơn tới quý Mục sư , quý ban điều hành Hội Thánh cũng như toàn thể quý Hội Thánh đã yêu thương cho tôi cơ hội được học chung với nhau Lời của Chúa trong buổi sáng hôm nay.

Trước khi cùng học với nhau Lời của Chúa, tôi có vài hình ảnh muốn cho quý Hội Thánh cùng xem.
Minh họa: Khi xem xong nói vài lời về sự phát triển của Hội Thánh và chuyển ra cơ sở rộng hơn.
Khi chúng ta ý thức bản thân mình chỉ là bình sành, bình đất dễ vỡ, và đầy giới hạn. Nhưng bình sành, bình đất đó biết ở trong tay Chúa chúng ta trở thành những tác phẩm có giá trị vượt thời gian.
Mẹ Tê-rê-sa của người Công giáo đã cầu nguyện: “ Lạy Chúa! Con chỉ là cây bút chì, nhưng cây bút chì đó ở trong tay Chúa.

Bây giờ, chúng ta cần trở lại với Lời của Chúa không hết thời gian.
Mời Hội Thánh mở Lời Chúa trong sách Ê-xê-chi-ên 37: 1-10.
Hôm nay, mời Hội Thánh cùng học chung với tôi qua đề tài: Phục Hưng Một Dân Tộc Bị Tàn Lụi.

Nhập đề:
Thưa quý vị!
Ba nhà đại tiên tri lớn như: Giê-rê-mi, Đa-ni-ên và Ê-xê-chi-ên. Ba nhà đại tiên tri này họ đã sống như những chòm sao sáng trên bầu trời đen tối nhất. Giữa những xã hội, chính trị, và văn hóa thời bấy giờ đầy xáo trộn và bất ổn. Nhưng cuộc đời và sứ mạng của họ luôn chứa đầy hương thơm, và sức mạnh trên từng trang giấy của Thánh Kinh.
Và Ê-xê-chi-ên là một nhà tiên tri có đời sống nội tâm rất sâu sắc, Ê-xê-chiên là sứ giả phục hưng, ông được Chúa sai đến để uốn nắn tấm lòng của Y-sơ-ra-ên, để từ chỗ mất lòng trông cậy, không còn niềm tin đem họ trở về với một Đức Chúa Trời nhân từ, một Đức Chúa Trời đầy quyền năng.
I. Sứ Giả Phục Hưng
Qua bối cảnh của bản văn Thánh Kinh chúng ta vừa đọc, chúng ta thấy!

Đức Chúa Trời đã đưa nhà đại tiên tri Êxêchiên vào một thung lũng đầy xương khô của người chết, và Chúa cho ông nhìn thấy những bộ xương khô nằm rải rác khắp trên mặt đất trong thung lũng.

Trong câu 11 Đức Chúa Trời phán cùng Ê-xê-chi-ên rằng: Hỡi con người, những hài cốt nầy, ấy là cả nhà Y-sơ-ra-ên. Nầy, chúng nó nói rằng: Xương chúng ta đã khô, lòng trông cậy chúng ta đã mất, chúng ta đã tuyệt diệt cả!

Chúng ta chú ý đến động từ “ hài cốt khô, hay mồ mả” nó diễn tả một tình trạng chết tuyệt vọng, bất lực
Động từ “ hài cốt khô, hay mồ mả ” nó diễn tả một tình trạng tuyệt chết chóc của dân tộc Y-sơ-ra-ên.

Cả nhà Y-sơ-ra-ên là nói đến cả một dân tộc, cả một quốc gia đang ở trong sự chết, khô héo, đó không phải là một cá nhân, một nhóm người mà cả đất nước đang trong tình trạng tuyệt vọng, chết chóc.

Vào năm 587 TC thì bị đi lưu đày bởi người Ba-by-lôn mãi đến năm 538 TC thì mới được trở về.

Nhà đại tiên tri Ê-xê-chi-ên đã phục vụ Chúa trong một thời kỳ trước lưu đày và bị lưu đày trong khoảng thời gian 50 năm - ăn với dân, ngủ với dân, sống với dân. Suốt triều dài thời gian, và trải qua những biến cố đau thương, tang tóc, hằng ngày phải chứng kiến những cảnh dân tộc của mình bị hà hiếp, bị chà đạp, và đặc biệt phải chứng kiến dân của mình sống trong cảnh tuyệt vọng, chắc chắn tấm lòng ông đau đớn như đứt từng khúc ruột.

Nếu chúng ta đặt mình vào bối cảnh, và thời kỳ tiên tri Ê-xê-chi-ên lúc bấy giờ thì chắc chắn chúng ta dễ mà chán nản, bỏ cuộc, thối lui phải không? thưa quý vị!

Vì không ai muốn phục vụ một dân tộc mà tất cả đều đã bại xuội, ngã lòng, không có đức tin nơi Chúa nữa, cũng không ai muốn phục vụ Chúa trong một Hội Thánh mà chỉ toàn bàn đến chuyện lùi bước, và sợ hãi, bỏ cuộc phải không?
Trong khi tấm lòng của dân sự mà tấm lòng của họ đã khô cứng, băng giá, chết chóc, nguội lạnh và không còn chút sức lực nào thì?
Ngược lại, Ê-xê-chi-ên nhận thấy rõ trọng trách và sứ mạng của mình khi được Chúa giao phó đó là đem sự hy vọng vào nơi tuyệt vọng, đem ánh sáng vào trong đêm tối, đem phục hưng vào trong chỗ chết.
Tên của ông nó diễn tả phần nào đời sống và sứ mạng của ông, Ê-xê-chi-ên có nghĩa là: Đức Giê Hô va là sức lực của tôi.

Ê-xê-chi-ên đã học để bước đi trong sự nương cậy và hằng ngày có thể lắm ông đã tuyên bố rằng: Chính Đức Giê Hô va là sức lực của tôi.
Và buổi sáng hôm, chúng ta hãy cùng nhau nói rằng: Đức Giê hô va ôi, Đức Giê hô va ôi, Ngài là sức lực của chúng con. Đức Chúa Trời là sức lực của tôi.
Thưa quý vị!
Chúng ta không thể hầu việc Chúa bền bỉ, và dài lâu nếu không học bài học của Ê-xê-chi-ên. Rất khó có thể phục vụ Chúa có kết quả dài lâu nếu không có năng lực của Chúa ban cho.

Làm sao chúng ta có thể sống và phục vụ Chúa một cách mạnh mẽ giữa một dân tộc đang bại xuội và ngã lòng?
Làm sao chúng ta có thể trở nên những sứ giả phục hưng, đem lại sự phấn hưng cho Hội Thánh, cho cộng đồng của mình.

Câu trả lời nằm ở chỗ đó: chính Đức Giê Hô va là sức lực của chúng ta.
Sứ đồ Phao lô đã kêu gọi và nhắn nhủ toàn thể các con cái của Chúa đang sống tại thành phố Ê-phê-sô rằng: “ Vả lại, anh em phải làm mạnh dạn trong Chúa, nhờ sức toàn năng của Ngài.” (  Eph 6:10 )

Phải làm mạnh dạn trong Chúa, không phải là nhờ sức riêng của mình, nhờ sự khôn riêng của mình và không phải là nhờ sự khéo léo của mình, Phải làm mạnh dạn trong Chúa nhờ sức toàn năng của Chúa.
Vì sức của con người vốn chẳng thấm vào đâu, nhưng quyền phép của Đức Chúa Trời là vô địch.

Trong  chuyến truyền giáo thứ nhì của mình, sứ đồ Phao lô đã viết thư gửi các tín hữu sống tại thành phố Phi-líp trong thư ông đã quả quyết cách mạnh mẽ rằng: “ Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi.”  (Phi 4:13 )
Thánh đồ Gia cơ bảo rằng: Ê-li vốn là người yếu đuối như chúng ta, nhưng khi nhìn vào con người và chức vụ của ông. Chúng ta thấy ông quả thật đã phục vụ Chúa giống như những cơn gió lốc thổi qua các triều đại có tôn giáo mà không có Đức Chúa Trời. Ông đã đem lại cơn phấn hưng lẫy lừng trên núi Cạt mên, ông đã đem những tấm lòng đang bại buội, bỏ cuộc, ngã lòng trở về với Đức Chúa Trời.
Đây cũng chính là điều chúng ta được Chúa đang gọi mời, hiệu triệu để mỗi chúng ta hãy tiếp nhận sự sống và sức mạnh của Ngài để đem sự sống ấy vào trong thế giới hư vong này.

Chúng ta cần phải sống mạnh mẽ cho Ngài.

Đó là điều chúng ta tìm hiểu đôi nét về người sứ giả Phục hưng Ê-xê-chi-ên.

Bây giờ, chúng ta đi đến điểm nhấn thứ hai của sự phục hưng đó là:

II. Nền tảng phấn hưng.

Khi chúng ta đọc suốt 48 chương của sách Ê-xê-chi-ên, và đem so sánh với Ê-xê-chiên chương 37 thì chúng ta sẽ thấy được toàn bộ bức tranh, nội dung và bối cảnh lúc bấy giờ là dường như Do thái bị xóa tên trên bản đồ.
Nếu chúng ta đi xuyên suốt 36 chương đầu của sách Ê-xê-chiên, chúng ta rất dễ nhận ra dân tộc Y-sơ-ra-ên có bốn biểu tượng, bốn niềm tự hào và đây chính là bốn điểm tựa mà họ cho là vững chắc, bất bại.

Bốn điểm tựa này cũng được đề cập ở cuối chương 37 đó là:
Đất, Vua, Đền Thờ, Và Luật Pháp.
36 chương đầu của sách cả bốn điểm tựa của họ đều bị kẻ thù đánh bại và tàn phá, cướp mất.
Toàn thể vùng đất màu mỡ, chảy sữa và mật bị cướp mất. Mất đất là mất quê hương, mất quyền tự chủ, phải bị làm nô lệ. Quê hương không phải là chùm khế ngọt, cho con trèo hái mỗi ngày nữa. Tại đất nước ngoại quốc họ mơ về những chùm nho đỏ mọng, họ mơ được thả hồn vào những mé nước trong, được ngã lưng vào đồng cỏ xanh. Nhưng niềm khát vọng của họ cũng chỉ dừng ở chỗ ước mơ mà thôi.

Đền thờ Giê-ru-sa-lem vinh quang hiện diện giữa lòng thành phố mà người ta tự hào, người ta ca ngợi như là sự sức mạnh, thành tụ, sự hãnh diện thế mà bây giờ cũng bị tàn phá. Vào thời bấy giờ, đền thờ đóng vai trò rất quan trọng, nếu mất đền thờ đồng nghĩa rằng: Họ đã đánh mất Đức Chúa Trời, và họ bị Đức Chúa Trời trừng phạt.

Rồi vị vua được Đức Chúa Trời sai đến để hướng dẫn, lãnh đạo dân sự nhưng bây giờ, vua Sê-đê-kia cũng bị đâm thủng mắt và bị xiềng xích đi lưu đày.
Và cuối cùng là Luật pháp như ngọn đèn dẫn dắt và ban cho họ sự tự do cũng bi tiêu tan, đốt cháy.

Cả bốn cái điểm tựa và niềm hy vọng này trở thành ZeZo con số không, đất nước chẳng còn gì hy vọng nữa, bây giờ, chúng ta thử nghĩ xem những điều này xảy ra liệu họ có còn tin vào một Đức Chúa Trời thành tín, liệu họ có còn tin vào một Đức Chúa Trời chí ái không? Một Đức Chúa Trời yêu thương không?

Liên hệ đến đời sống đức tin của chúng ta, nếu một ngày nào đó, những điểm tựa của cuộc đời chúng ta bị sụp đổ, công ăn việc làm mất, tình yêu tan vỡ, gia đình đổ bể, bệnh tật sâm lấn, chúng ta sẽ thế nào? Lúc đó chúng ta sẽ nghĩ gì về Ngài.

Liệu chúng ta có còn trông cậy Ngài nữa không? Trong hoàn cảnh tuyệt vọng sâu xa, chỉ thấy tang thương và cái chết thôi, liệu chúng ta có còn tiếp tục tin vào một Đức Chúa Trời thành tín và một Đức Chúa Trời chí ái  hay không?
Minh họa: Khi Cứu Chúa Giê xu yêu dấu của chúng ta bị treo trên thập tự, trong lúc đau đớn tột cùng, trong lúc sắp sửa đối diện với cái chết, từ trên cao Cứu Chúa đã kêu lên một tiếng kêu thổn thức rất lớn: Đức Chúa Trời tôi ôi, Đức Chúa Trời tôi ôi, sao Ngài lìa bỏ con.
Và có thể lúc này kẻ thù cười đắc chí lắm, nó nói rằng Đức Chúa Cha đã bỏ ngươi rồi, nếu không bỏ ngươi thì hãy cứu ngươi đi.
Nhưng chúng ta chú ý: Chúa Giê xu đã không dừng lại ở chỗ đó, mà Ngài đã kêu lớn tiếng rằng: “ Con phó thác linh hồn trong tay Cha”
Ngay trong cái đau đớn tột cùng, ngay trong sự chết, ngay trong chỗ cô đơn ấy Cứu Chúa Giê xu Ngài vẫn phó thác, tín thác, tin cậy hoàn toàn nơi Đức Chúa Cha.

Chúng ta cũng hãy sống phó thác, tin cậy Đức Chúa Trời như người thầy nghèo khó Na-xa-rét năm xưa.

Minh họa: Ông Gióp cũng mất đi tất cả bốn điểm tựa ấy: Nhà cửa, con cái, bò lừa, tôi tớ.
Nhưng ông Gióp có thể mất tất cả nhưng không bao giờ đánh mất Đức Chúa Trời được. vì mất Đức Chúa Trời là mất tất cả, còn Đức Chúa Trời là còn tất cả.
Cho đến nỗi: Thân thể ghẻ nở, ung nhọt, lấy tay gãi, móng tay gãy đến nỗi cùn đi và lấy mảnh sành gãi, nhưng trong chỗ khốn cùng, đau đớn, tang thương ấy.
Gióp đã thốt lên rằng: “ Dẫu Chúa giết ta, ta cũng còn nhờ cậy nơi Ngài;”
( Giop 13:15  )
Tại sao dân Y-sơ-ra-ên họ đã cùng nhau nói rằng: “ Nầy, Xương chúng ta đã khô, lòng trông cậy chúng ta đã mất, chúng ta đã tuyệt diệt cả!”
Đọc câu Kinh Thánh này, chúng ta thấy sự bất lực của Y-sơ-ra-ên, bất lực từ tấm lòng cho đến lời nói, từ bên trong cho đến bên ngoài đều là chản nản, bại xuội, ngã lòng. Lúc này, chúng ta có cảm tưởng dường như Chúa bỏ dân Ngài, hoặc Ngài đứng rất xa cuộc đời chúng ta.
Tại sao họ lại tuyệt vọng, tại sao họ thất bại trước kẻ thù, tại sao họ toàn bộ đức tin của họ bị đổ vỡ, bị bẻ gẫy.
Họ ở trong sự tuyệt vọng, và niềm tin của họ đã bị đổ vỡ là bởi vì họ đã đặt niềm tin của họ vào bốn cái điểm tựa mà tôi đã trình bày phía trên.
Cả một dân tộc đã đặt điểm tựa vào những gì họ có, những gì họ thấy, và những gì họ sỡ hữu, chứ không phải là đặt nơi Đức Chúa Trời.
 Họ đã đặt điểm tựa vào những gì chóng qua, dễ thay đổi, cho lên chính những điều đó đã khiến họ bị đổ vỡ đức tin. Nếu chúng ta biết đặt cuộc đời mình vào trong Chúa, thì chẳng có gì có thể đánh đổ được, chẳng có kẻ thù nào bẻ gãy được, chẳng kẻ thù nào xâm chiếm được. Vì Chúa là Đức Chúa Trời q   uyền năng, Ngài là vầng đá của muôn thời đại. Trong Ngài chẳng có bóng của sự biến cải nào hết.
Bài học của chúng ta là đây: Điểm tựa của cuộc đời chúng ta là gì? Chúng ta đang đặt điểm tựa vào con người, vào đất đai, nhà cửa, vào sự khôn ngoan, riêng hay vào chính mình Đức Chúa Trời.
Điều kiện để sống một đời sống phấn hưng là đặt cuộc đời tín thác vào một mình Đức Chúa Trời. Vì nếu chúng ta đặt điểm tựa vào những gì chúng ta có, chúng ta sở hữu rồi cũng sẽ qua đi mà thôi, nhưng nếu chúng ta đặt vào trong Chúa thì Ngài là vầng đá vững chắc muôn thời đại. Đặt cuộc đời ngoài Chúa là sẽ hư mất, đặt cuộc đời trong Chúa thì còn lại đời đời.
Chúng ta đã tin vào ai? Chúng ta đang tin điều gì? Chúng ta có đang dựa vào ai những thế lực hay chúng ta tin vào sự thành tín và quyền năng của Đức Chúa Trời.



III. Đức Chúa Trời quyền năng chắc chắn sẽ phục hưng.
36 chương đầu của sách cả bốn điểm tựa của họ đều bị kẻ thù đánh bại và cướp đi – nhưng mãi đến chương số 37 này, niềm hy vọng mới được khêu lên, sự sống đã xuất hiện ngay trong cái chết.

Trong câu số 3 Đức Chúa Trời phán cùng Ê-xê-chi-ên rằng: “ Hỡi con người, những hài cốt nầy có thể sống chăng? Ta thưa rằng: Lạy Chúa Giê-hô-va, chính Chúa biết điều đó!”
Khi Chúa hỏi Ê-xê-chi-ên không có câu trả lời, là được, hay không được, mà ông trả lời rằng: Chỉ có Chúa biết được điều đó.
Con người không thể nào làm cho những hài cốt khô héo có thể sống lại được, vì đó là chuyện ngoài sức tưởng tưởng, đối với con người thì hoàn toàn bất lực, tuyệt vọng – nhưng đối với Đức Chúa Trời thì chẳng có gì là không thể.
Có những nan đề quá khó, quá lớn mà con người không có câu trả lời, không có giải pháp nào cả thì Đức Chúa Trời luôn luôn có câu giải đáp cho bất cứ mọi nan đề trong đời sống của chúng ta.
Vì Đức Chúa Trời của chúng ta đang thờ phượng là Đức Chúa Trời quyền năng.
Nhà tiên tri Giê –rê-mi đã thốt lên rằng: 
“  Ôi! Hỡi Chúa Giê-hô-va! Chính Ngài đã dùng quyền phép lớn và cánh tay giơ ra mà làm nên trời và đất; chẳng có sự gì là khó quá cho Ngài cả.” ( Gie 32:17 )
“  Nầy, ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của mọi xác thịt; có sự gì khó quá cho ta chăng?” ( Gie 32:27 )
Minh họa:  Ma-ri khi nghe lời của vị thiên sứ báo tin: Mình sẽ sinh một con trai, và đặt tên là Giê xu. Và Ma-ri nói với thiên sứ rằng: “ Tôi chẳng hề nhận biết người nam nào, thì làm sao có được sự đó? ”  ( Luca 1:37)

Câu trả lời của Đức Chúa Trời là: “ Bởi vì không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được.”

Khi thiên sứ Gáp-ri-ên báo tin cho hai vợ chồng nhà Xa-cha-ri và Ê-li-ra-bét rằng: Đức Chúa Trời đã nhận lời cầu nguyện của ông bà: Và Ngài sẽ cho ông bà sinh ra một người con là Giăng Báp tít. Xa-cha-ri bèn thưa cùng Chúa rằng: Làm sao tôi có thể sinh được vì tôi đã già và vợ tôi đã cao tuổi.

Câu trả lời của Đức Chúa Trời là: “ Bởi vì không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được.”

Kinh thánh cho chúng ta biết rằng lúc đó Ông Áp ra ham đã 99 tuổi, và vợ của Ông là Bà Sa ra bao nhiêu tuổi? - 89 tuổi.

Đức Chúa Trời báo tin cho hai vợ chồng ông rằng: độ nầy sang năm, vợ ngươi sẽ sanh một con trai, Sa-ra ở nơi cửa trại sau lưng đấng đó, nghe các lời nầy.

Sa-ra cười thầm mà rằng: Già như tôi thế nầy, dễ còn được điều vui đó sao? Đức Giê-hô-va phán hỏi Áp-ra-ham rằng: Cớ sao Sa-ra cười như vậy mà rằng: Có quả thật rằng tôi già đến thế nầy lại còn sanh sản chăng?

Câu trả lời của Đức Chúa Trời: “ Há có điều chi Đức Giê-hô-va làm không được chăng?” ( Sáng-thế-ký 18: 9-15)


Đối với con người thì không thể nào, đối với con
Nhiều nhà giải kinh đã phân chia sách Ê-xê-chi-ên thành ba phần: phần đầu là báo họa, còn phần thứ hai là Đức Chúa Trời hỏi tội, hạch kết tội dân sự.
Chỉ mãi đến chương thứ 37 trở về cuối chúng ta mới thấy được bóng dáng của sự hy vọng, của sự sống, của sự hồi sinh.

Trong phần thứ ba của sách này báo hiệu một tin mừng hồi sinh cho một dân tộc đang bị ngã lòng, và tin mừng ở đây là: Đức Chúa Trời không muốn dân sự của Ngài phải chết, và sống trong tuyệt vọng nữa, Đức Chúa Trời Đấng chúng ta đang thờ phượng, trông cậy là Đức Chúa Trời thành tín và yêu thương.
Vậy, hãy nói tiên tri, và bảo chúng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi dân ta, nầy, ta sẽ mở mồ mả các ngươi, làm cho các ngươi lại lên khỏi mồ mả, và ta sẽ đem các ngươi về trong đất của Y-sơ-ra-ên.” ( 37:11-12)

Chúng ta chú ý đến những động từ liên tiếp là: “ mồ mả” hai lần động từ mồ mả để nhấn mạnh và diễn tả cái chết chóc sẽ không còn nữa, sự khô héo và tình trạng tuyệt vọng sẽ được làm cho sống. Ngài sẽ mở mồ mả ra.

Đức Chúa Trời không chỉ hồi sinh, phục sinh và làm sống lại tình trạng chết chóc, tuyệt vọng nhưng Ngài còn ban cho họ đất nữa.
Ngài phán: “ và ta sẽ đem các ngươi về trong đất của Y-sơ-ra-ên” họ không phải đi lang thang, cầu bơ cầu bất nữa mà họ chắc chắn sẽ có đất.

Quá khứ họ đã hưởng thụ một miền đất đượm sữa và mật thế nào thì bây giờ Ngài sẽ ban cho họ trở lại vùng đất ấy đây chính là niềm hy vọng tuyệt vời.

Đọc hết chương 37 này chúng ta thấy Đức Chúa Trời thành tín với dân tộc của Ngài.
Đất được ban cho trở lại ( câu )
Vị vua lý tưởng được Chúa ban ( câu )
Đền thờ sẽ hiện diện ở giữa họ, biểu tượng cho sức mạnh, và vinh quang ( câu )
Luật pháp được ban lại cho họ ( câu )

Mục đích của những điều này dạy cho chúng ta bài học: ĐỨc Chúa Trời không phải là Đức Chúa Trời của sự trừng phạt, Ngài không phải là Đức Chúa Trời của sự chết mà Ngài là Đức Chúa Trời của sự sống, Ngài là Đức Chúa Trời luôn trung thành ban sự sống cho dòng dõi của Áp-ra-ham.
Chúa Giê xu phán: Ta đến để ban cho chiên được sống và được sống dư dật.





Related link

Latest Features

Weather

June - 2025
SMTWTFS
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
2930     
       

Facebook comments