CÁC QUAN XÉT
MỤC LỤC
01.ĐÓ LÀ THỜI KỲ TỒI TỆ NHẤT
02.NHỮNG VŨ KHÍ CỦA CUỘC CHIẾN CHÚNG TA
03.“ 2 TỐT HƠN 1 VÀ 3 VẪN TỐT HƠN
05.ĐỨC TIN LÀ SỰ CHIẾN THẮNG
06.THẮNG TRẬN, ĐÁNH MẤT CHIẾN THẮNG
07.VƯƠNG QUỐC CỦA TA ĐÃ ĐÉN
08.NHỮNG NGƯỜI BỊ CHỐI BỎ TRONG ĐỊA PHƯƠNG TRỞ NÊN THÀNH
CÔNG
09.ÁNH SÃNG LUNG LINH
10.ÁNH SÁNG ĐÃ TẮT
11.TRUNG ƯƠNG KHÔNG THỂ CẦM GIỮ
12.CHIẾN TRANH VÀ HÒA BÌNH
1. ĐÓ LÀ THỜI KỲ TỒI TỆ
NHẤT (Cac 1:1-2:23)
- Mối hận gia đình làm
cho 69 anh em chết!
- Lãnh đạo chính quyền
đầy mạnh mẻ đã vướng “lưới tình”.
- Sự hãm hiếp của bọn
găng-tơ dẫn đến cái chết và sự chặt tay chân của nạn nhân.
- Những cô gái tại buổi
tiệc đã bị bắt cóc và bị ép gả cho những người lạ!
- Nữ quan toà nói rằng
người đi lại không còn an toàn trên đường cái.
Những dòng tít gây xúc
động mạnh như vậy thường được thấy trên trang đầu của những bài báo Mỹ giật gân
tại siêu thị, nhưng những dòng tít trên thật sự mô tả một số sự kiện được kể
trong sách Các quan xét. Chúng thật là một tương phản với những chương cuối của
sách Giô-suê, nơi bạn thấy một dân tộc được yên nghỉ thoát khỏi chiến tranh và
vui hưởng của cải Đức Chúa Trời ban cho họ trong Đất Hứa. Nhưng sách Các quan
xét mô tả Y-sơ-ra-ên chịu khổ vì sự xâm lược, sự nô lệ, sự nghèo khổ và nội
chiến. Điều gì đã xảy ra?
Dân tộc Y-sơ-ra-ên nhanh
chóng suy sụp sau khi một thế hệ mới kế tục, một thế hệ chẳng biết Giô-suê lẫn
Đức Chúa Trời của Giô-suê. “Dân sự phục sự Đức
Giê-hô-va trong trọn đời Giô-suê và trọn đời các trưởng lão còn sống lâu hơn Giô-suê,
là những kẻ đã thấy các công việc lớn lao mà Đức Giê-hô-va đã làm ra vì
Y-sơ-ra-ên… rồi một đời khác nổi lên, chẳng biết Đức Giê-hô-va, cũng chẳng biết
các điều Ngài đã làm nhơn vì Y-sơ-ra-ên” (2:7,10 Gios 24:31). Thay vì bày tỏ nhiệt tình thuộc linh,
Y-sơ-ra-ên đã chìm đắm trong sự thờ ơ. Thay vì vâng lời Chúa, dân sự đi vào sự
bỏ đạo, và thay vì dân tộc vui hưởng luật pháp và trật tự, xứ đã đầy dẫy tình
trạng vô chính phủ. Thật vậy, đối với Y-sơ-ra-ên đó là thời kỳ tồi tệ nhất.
Một trong những câu quan trọng trong
sách Các quan xét là Cac 21:25 “Đương lúc
đó, không có vua trong Y-sơ-ra-ên; ai nấy làm theo ý mình lấy làm phải.” (17:6 18:1 19:1). Tại núi Si-na-i, Chúa đã chọn Y-sơ-ra-ên
làm “nước thầy tế lễ”, tuyên bố rằng chỉ một mình Ngài cai trị trên họ (Xu 19:1-8). Môi-se đã khẳng định lại vương quyền
của Đức Giê-hô-va khi ông giải thích giao ước với thế hệ mới trước khi họ vào
Ca-na-an (Phu 29:1-29). Sau cuộc chinh phạt
thành Giê-ri-cô và thành A-hi, Giô-suê tuyên bố với Y-sơ-ra-ên những trách nhiệm
về vương quốc họ (Gios 8:30-35) và ông đã
nhắc nhở dân sự lần nữa về nững trách nhiệm đó trước khi ông qua đời (24:1-33). Ngay cả Ghê-đê-ôn, có lẽ là người cao
trọng nhất trong Các quan xét, cũng đã chối từ lập lên một triều vua. Ông nói
“Ta chẳng cai trị các ngươi, con trai ta cũng không cai trị các ngươi đâu: Đức
Giê-hô-va sẽ cai trị các ngươi” (Cac 8:23).
Phục truyền đoạn 6 phác họa những
trách nhiệm cơ bản của dân tộc: yêu mến và vâng phục Đức Giê-hô-va là Đức Chúa
Trời chân thật có một (c.1-5), dạy cho con cái bạn luật pháp Đức Chúa Trời
(c.6-9), cảm tạ về những phước hạnh của Đức Chúa Trời (c.10-15), và biệt mình
khỏi sự thờ phượng các thần ngoại đạo trong xứ Ca-na-an (c.16-25). Đáng tiếc,
thế hệ mới đã thất bại trong mỗi nhiệm vụ này. Dân sự không muốn “trước hết tìm
kiếm Nước Đức Chúa Trời và sự công bình của Ngài” (Mat
6:33). Họ thích cuộc thí nghiệm với sự thờ thần tượng của các dân tộc
bất kính quanh họ, kết quả là Y-sơ-ra-ên đã chìm đắm trong tai họa về đạo đức,
thuộc linh và chính trị.
Một trong hai điều là đúng: Hoặc thế
hệ trước đã không dạy dỗ con cháu họ trong đường lối của Chúa, hoặc là thế hệ
mới đã chối từ đầu phục luật pháp Đức Chúa Trời và đi theo đường lối Đức Chúa
Trời “sự công bình tôn cao một nước, nhưng tội lỗi là sự sỉ nhục cho bất cứ dân
tộc nào” Ch 14:34 NKJV). Sách Các quan xét
mô tả bốn giai đoạn trong sự suy thoái và sụp đổ của Y-sơ-ra-ên.
1. Chiến đấu với kẻ thù
(Cac 1:1-21)
Sách Các quan xét bắt đầu bằng một
loạt những chiến thắng và chiến bại xảy ra sau sự chết Giô-suê. Những ranh giới
cho mười hai chi phái đã được quyết định những năm trước đó (Gios 13:1-22:34), nhưng dân sự vẫn chưa hoàn toàn
xác nhận di sản của mình bằng cách đánh bại và đuổi những cư dân cũ trong xứ
đi. Khi Giô-suê trở về già, Chúa phán với ông: “Ngươi đã già, tuổi đã cao, và
hãy còn rất nhiều phần đất chưa được chiếm hữu” (Gios
13:1 NKJV). Dân Y-sơ-ra-ên làm chủ mọi đất đai, nhưng họ không chiếm hữu
tất cả nó, và vì vậy họ không thể hưởng tất cả.
Những chiến thắng của
Giu- đa (Cac 1:1-20). Ban đầu dân Y-sơ-ra-ên khôn
ngoan tìm kiếm sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời và hỏi Chúa chi phái nào phải
đương đầu kẻ thù trước. Có lẽ Đức Chúa Trời bảo Giu-đa đi trước vì Giu-đa là
chi phái nhà vua (Sa 48:8-9). Giu-đa tin lời
hứa của Đức Chúa Trời, vâng theo mưu luận của Đức Chúa Trời, và thậm chí yêu
cầu chi phái Si-mê-ôn đi đánh trận với họ. Vì Lê-a đã sanh Giu-đa và Si-mê-ôn
nên những chi phái này là anh em ruột thịt (Sa
35:23). Một cách tình cờ, Si-mê-ôn thật sự đã có di sản của mình trong
chi phái Giu-đa (Gios 19:1).
Khi Giô-suê là lãnh đạo của
Y-sơ-ra-ên, mọi chi phái đã đồng công với nhau trong việc vâng phục ý muốn Đức
Chúa Trời. Tuy nhiên, trong sách Các quan xét bạn không thấy dân tộc đồng công
nhau như một sự đồng nhất khi Chúa cần ai đó để giải cứu dân Ngài, Ngài gọi
người đó từ một trong các chi phái và bảo người ấy điều phải làm. Trong sự vâng
lời Chúa, Môi-se chỉ định Giô-suê làm người kế tục ông, nhưng sau đó Đức Chúa
Trời không ra lệnh cho Giô-suê chỉ định một người kế tục. Những trường hợp này
phần nào đó tương tự với hoàn cảnh của Hội Thánh trên thế giới ngày nay. Đáng
tiếc, dân sự Đức Chúa Trời không đồng công với nhau để đánh bại kẻ thù, nhưng
đây đó, Đức Chúa Trời đang dấy lên những người nam người nữ có đức tin sẽ kinh
nghiệm ơn phước cùng quyền năng của Ngài và sẽ dẫn dân sự Ngài đi đến chiến
thắng.
Có sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời, hai
chi phái đã chinh phạt dân Ca-na-an ở Bê-xéc (Cac
1:4-7), bắt giữ, làm nhục, và làm một trong các vua của họ bị bất lực
bằng cách cắt bỏ ngón tay cái và ngón chân cái của ông ta (Cac 16:21 ISa 11:2
IIVua 25:7 về những trường hợp khác bị làm
tàn tật) với những sự tàn tật này ông ta sẽ không thể chạy dễ dàng hay sử dụng
thành công một vũ khí. Vì vậy “chúa của Bê-réc” được trả lại điều ông đã làm
cho 70 vua khác, dù ông có thể đã thổi phồng một chút khi ông tuyên bố điều
này.
Bảy mươi vua đó minh họa thảm cảnh
của bất cứ ai bị rơi vào tay kẻ thù, họ không thể đi hoặc chạy một cách chính
xác, họ không thể sử dụng gươm hiệu quả, họ ở trong vị trí nhục nhã thay cho vị
trí trên ngôi, và họ đang sống nhờ vào những mảnh thức ăn vụn và cặn bã thừa
thay cho bữa tiệc tại bàn. Thật là một sự khác biệt khi bạn sống bởi đức tin và
sự ngự trị trong đời sống bởi Chúa Giê-xu Christ (Ro
10:17).
Giê-ru-sa-lem (Cac 1:8) là chiến tích kế tiếp của Y-sơ-ra-ên,
nhưng mặc dù dân Y-sơ-ra-ên chinh phạt thành, nhưng họ đã không chiếm thành
(c.21). Điều đó đã không được thực hiện mãi cho đến thời của Đa-vít (IISa 5:7). Giu-đa và Bên-gia-min là những chi phái
lân cận, và vì thành nằm ở biên giới của họ, cả 2 chi phái đều có liên quan
trong việc tấn công thành (Gios 15:63). Sau
đó Giê-ru-sa-lem sẽ trở thành “thành Đa-vít” và là thủ đô của Y-sơ-ra-ên.
Kế tiếp họ tấn công địa phận miền Nam và miền Tây
Giê-ru-sa-lem, kể cả Hếp-rôn (Cac 1:9,10,20). Điều này nghĩa
là đánh trận trong vùng đồi, miền Nam
(Negev ) và chân núi. Giô-suê đã hứa ban
Hếp-rôn cho Ca-lép vì sự trung tín của ông đối với Chúa tại Ca-đe Ba-nê-a (Dan 13:1-14:45 Gios
14:6-15 Phu 1:34-36). Sê-sai,
A-hi-man và Tanh-mai là con cháu của dân A-nác khổng lồ là dân đã làm hoảng sợ
mười hai thám tử Do Thái lần đầu tiên do thám xứ (Dan
13:22,28).
Dù Ca-lép và Giô-suê, hai thám tử khác, có đức tin cần thiết để chiến thắng kẻ
thù, nhưng dân sự không muốn lắng nghe họ.
Đức tin hẳn đã vận hành trong gia
đình của Ca-lép, vì thành Đê-bia (Cac 1:11-16)
đã bị chiếm bởi Ốt-ni-ên, cháu trai của Ca-lép (3:9
Gios 15:17). Thay cho một phần thưởng, ông
đã nhận con gái của Ca-lép là Ạc-sa làm vợ. Ốt-ni-ên sau đó được kêu gọi hầu
việc với tư cách quan xét đầu tiên của Y-sơ-ra-ên (Cac
3:7-11). Vì nước là một phương tiện quý báu và đất hầu như vô dụng nếu
không có nước, nên Ạc-sa giục chồng nàng xin cha nàng cho họ xứ có những nguồn
nước họ cần. Rõ ràng Ốt-ni-ên giỏi về việc chiếm giữ các thành hơn là về việc
xin những đặc ân từ cha vợ, nên Ạc-sa phải tự làm điều đó. Cha nàng sau đó cho
nàng những nguồn nước phía trên và phía dưới. Có lẽ món quà phụ trội này có
liên quan cách nào đó đến của hồi môn của nàng.
Dân Kê-nít (1:16)
là một dân lâu đời (Sa 15:19) mà người ta
nghĩ họ là những thợ kim loại du mục (từ hê-bơ-rơ “qayin” nghĩa là “thợ kim
loại, thợ rèn”. Theo Cac 4:11 dân Kê-nít
được thừa kế từ Hô-báp anh em vợ của Môi-se và vì vậy là đồng minh của
Y-sơ-ra-ên. Thành có những cây cọ là thành Giê-ri-cô, một thành hoang vắng và
bị kết án (Gios 6:26), vì vậy dân Kê-nít đã
đi đến phần đất khác dưới dự bảo vệ của chi phái Giu-đa.
Sau khi Giu-đa và Si-mê-ôn đã hủy
diệt Họt-ma (Cac 1:17), đạo quân Giu-đa
chuyển sự chú ý sang các thành Ga-xa, Ách-ca-lôn và Éc-rôn (c.18-19). Vì dân Phi-li-tin
có những xe ngựa sắt, dân Do Thái không thể dễ dàng đánh bại họ trên đất bằng,
họ chỉ chiếm vùng đồi núi thôi.
Điều quan trọng về lịch sử quân đội
đó là “Đức Giê-hô-va ở cùng Giu-đa” (c.19) và đó là điều đã cho họ chiến thắng
(Dan 14:42-43 Gios
1:5 6:2 Cac
6:16). “Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, ai có thể nghịch với chúng
ta?” (Ro 8:31).
Chiến thắng của
Giô-sép (Cac 1:22-26). Chi
phái Ép-ra-im kết hợp với khu vực phía Tây của chi phái Ma-na-se, và với sự
giúp đỡ của Chúa, họ đã chiếm thành Bê-tên.
Thành này quan trọng đối với dân Do Thái vì mối quan hệ của nó và các trưởng
tộc (Sa 12:8 13:3
28:10-12 35:1-7).
Rõ ràng nó đã không bị chiếm suốt sự chinh phạt dưới quyền Giô-suê, hoặc nếu nó
đã bị chiếm, dân Do Thái chắc đã mất sự điều khiển. Sự cứu gia đình người chỉ
điểm nhắc nhở chúng ta về sự cứ sự cứu gia đình Ra-háp khi thành Giê-ri-cô bị
phá hủy (Gios 2:6). Người được cứu này dại dột biết bao khi không ở cùng với dân
Y-sơ-ra-ên, nơi họ được an toàn và có thể học biết về Đức Chúa Trời hằng sống
và chân thật.
2. Tha cho kẻ thù (Cac 1:21,27-36)
Bên-gia-min, Ép-ra-im, Ma-na-se, Sa-bu-lôn, A-se, Nép-ta-li và Đan đều
không chiến thắng kẻ thù và phải để những dân tộc bất kính này tiếp tục sống
trong những địa phận của chi phái họ. Kẻ thù thậm chí đã đuổi chi phái Đan ra
khỏi đồng bằng vào trong vùng núi! Dân Giê-bu-sít đã ở lại Giê-ru-sa-lem (c.21)
và dân Ca-na-an còn ở lại cuối cùng bị ép vào “lao động cưỡng chế” khi dân Do
Thái trở nên mạnh hơn (c.28, NIV). Cuối cùng, Sa-lô-môn đã bắt những người Ca-na-an
này xây đền thờ (IVua 9:20-22 IISu 8:7-8), nhưng đây không phải là sự đền bù cho
những vấn đề mà dân Ca-na-an đã gây ra cho dân Do Thái. Chuỗi những thất bại
này của các chi phái là sự bày tỏ đầu tiên rằng Y-sơ-ra-ên không còn bước đi
bởi đức tin và tin cậy Đức Chúa Trời ban cho họ chiến thắng.
Các thầy tế lễ có một bản sao Phục
Truyền và được lệnh đọc nó công khai trước dân tộc mỗi năm Sa-bát suốt kỳ lễ
Lều Tạm (Phu 31:9-13). Nếu các lãnh đạo
thuộc linh trung tín làm công việc này, có lẽ họ đã đọc Phục truyền đoạn 7 và
cảnh cáo dân Y-sơ-ra-ên đừng tha cho những láng giềng ngoại đạo. Các thầy tế lễ
cũng sẽ nhắc nhở dân sự về những lời hứa của Đức Chúa Trời rằng Ngài sẽ giúp họ
đánh bại những kẻ thù của họ (Phu 31:1-8).
Chính bởi sự tiếp nhận và vâng theo sách luật pháp mà Giô-suê đã tăng trưởng
trong đức tin cùng sự can đảm (Gios 1:1-9 Ro 10:17) và bởi đó mà cùng một Lời Chúa sẽ có thể
giúp cho thế hệ mới chiến thắng kẻ thù họ và giành lấy di sản của mình.
Bước đầu tiên mà thế hệ mới hướng
đến sự chiến bại và sự nô lệ là bỏ qua Lời Đức Chúa Trời, và các thế hệ từ đó
đã phạm sai lầm tương tự. “Vì sẽ có một thời kia, người ta không chịu nghe đạo
lành; nhưng vì họ ham nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo
sư xung quanh mình, bịt tai không nghe lẽ thật, mà xây hướng về chuyện huyễn (IITi 4:3-4). Tôi sợ rằng có quá nhiều tín đồ ngày
nay sống nhờ vào thức ăn nhanh của tôn giáo đã được pha chế để dễ tiêu thụ
(không cần nhai) bởi những giáo sư giả chỉ cho người ta điều họ muốn, không
phải điều họ cần. Có gì ngạc nhiên khi nhiều Hội Thánh không kinh nghiệm quyền
năng Đức Chúa Trời hành động trong chức vụ của họ?
Phải chăng Đức Chúa Trời nhẫn tâm và
bất công khi ra lệnh Y-sơ-ra-ên tiêu diệt các dân tộc ở Ca-na-an? Không một tí
nào! Trước hết Ngài đã kiên nhẫn với những dân tộc này từ bao thế kỷ và đã
thương xót rút lại sự xét đoán của Ngài (Sa 15:16
IIPhi 3:9). Xã hội của họ và đặc biệt là tôn
giáo của họ gian ác không thể diễn tả được Ro 1:18)
và lẽ ra phải bị tiêu diệt từ lâu trước khi Y-sơ-ra-ên có mặt trong xứ.
Điều khác nữa thật đúng: những dân
tộc này đã bị cảnh cáo bởi những sự xử đoán mà Đức Chúa Trời giáng trên các dân
tộc khác, đặc biệt trên Ê-díp-tô và những dân tộc ở phía Đông sông Giô-đanh (Gios 2:8-13). Ra-háp cùng gia đình nàng có đầy đủ
thông tin để có thể ăn năn và tin nhận, và Đức Chúa Trời đã cứu họ (Gios 2:1-24 6:22-25).
Do đó, chúng ta có mọi quyền để kết luận rằng Đức Chúa Trời sẽ cứu bất cứ ai
trở lại với Ngài. Những quốc gia này phạm tội nghịch với nước sự sống trong
việc chối bỏ lẽ thật Đức Chúa Trời và đi theo con đường riêng của mình.
Đức Chúa Trời không muốn sự bẩn thỉu
của xã hội và tôn giáo Ca-na-an làm ô uế dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Y-sơ-ra-ên là
dân đặc biệt của Đức Chúa Trời, được chọn để thực hiện những mục đích thiêng
liêng trên thế giới này, Y-sơ-ra-ên sẽ bày tỏ cho thế giới tri thức về Đức Chúa
Trời chân thật, Lời Kinh Thánh và Chúa Cứu Thế. Để hoàn thành những mục đích
của Đức Chúa Trời, dân tộc này phải được biệt riêng khỏi mọi dân tộc khác, vì
nếu Y-sơ-ra-ên bị ô nhiễm thì làm sao Con Thánh của Đức Chúa Trời có thể đến
thế gian? G. Campbell Morgan đã viết: “Đức Chúa Trời mãi mãi tranh chiến với
tội lỗi. Đó là toàn bộ giải thích về sự tiêu diệt dân Ca-na-an”.
Thần chính ở Ca-na-an là thần
Ba-anh, thần mưa và sự màu mỡ, và thần Ashtoreth là vợ người. Nếu bạn muốn có
vườn cây ăn quả với vườn nho trĩu quả, mùa màng thịnh vượng và bầy chiên với
bầy gia súc gia tăng, bạn phải thờ phượng Ba-anh bằng cách đến với một kỵ nữ
trong đền thờ. Sự kết hợp việc thờ thần tượng, sự đồi bại và sự thành công về
nông nghiệp thật khó cho con người chống lại, giải thích vì sao Đức Chúa Trời
bảo Y-sơ-ra-ên tiêu diệt hoàn toàn tôn giáo Ca-na-an (Dan
33:51-56 Phu 7:1-5).
3. Bắt chước kẻ thù (Cac 2:1-13)
Hiểm họa: Trong thời này về “thuyết đa nguyên” khi xã
hội chứa đựng những con người chống lại những niềm tin và những lối sống, thật dễ dàng để nhầm lẫn và bắt đầu suy nghĩ rằng
sự khoan dung giống như sự đồng ý, không phải thế. Trong một nền dân chủ, luật
pháp cho người dân sự tự do để thờ phượng theo như họ thích, và tôi phải thực
hành sự kiên nhẫn và khoan dung với những người tin và thực hiện những điều mà
tôi cảm thấy Đức Chúa Trời đã lên án trong Lời Ngài. Hội Thánh ngày nay không
sử dụng gươm (Ro 13:1-14) và do đó không có
quyền hạn để loại ra những người không đồng ý với đức tin Cơ Đốc. Nhưng chúng
ta có nhiệm vụ trước mặt Đức Chúa Trời để duy trì một đời sống biệt riêng hầu
chúng ta sẽ không trở nên bị ô uế bởi những người bất đồng với chúng ta (IICo 6:14-7:1). Chúng ta phải bằng sự cầu nguyện
tìm kiếm chứng cớ, và sự thuyết phục đầy yêu thương để chinh phục những người
chưa tin đến với Đấng Christ.
Dân Do Thái cuối cùng đã trở nên
quen thuộc với những con đường tội lỗi của người láng giềng ngoại đạo đến nỗi
những con đường đó dường như không tội lỗi gì cả. Dân Do Thái sau đó trở nên
quan tâm cách những người láng giềng của họ thờ phượng, cho đến khi Y-sơ-ra-ên
cuối cùng bắt đầu sống giống như kẻ thù của họ và bắt chước con đường của họ.
Đối với các tín đồ ngày nay, bước đầu tiên xa cách Chúa là “làm bạn với thế
gian” (Gia 4:4 NKJV) rồi dẫn đến việc chúng
ta bị thế gian làm ô uế (Cac 1:27). Bước kế
tiếp là “yêu thế gian” (IGi 2:15) và dần dần
“làm theo thế gian” (ICo 11:32), loại xét
đoán đã đến với Lót (Sa 19:1-38), Sam-sôn (Cac 16:1-32) và Sau-lơ (ISa
15:1-35 31:1-13).
Sự bất tuân (Cac 2:1-15): Trong thời
Cựu Ước “Thiên sứ của Chúa” thường được giải thích là chính Chúa, Đấng thỉnh
thoảng đến thế gian (một sự hiện thân) để rao ra một sứ điệp quan trọng. Đó có
thể là Chúa Giê-xu Christ, Ngôi Hai của Đức Chúa Trời, trong một hình dạng hiện
thân tạm thời (Sa 16:9 22:11 48:16 Xu 3:2 Cac 6:11
13:3 IIVua 19:35).
Sự kiện chính Đức Chúa Trời đã đến để ban sứ điệp bày tỏ các sự việc đã trở nên
nghiêm trọng ra sao ở Y-sơ-ra-ên.
Lều tạm từ đầu đã ở tại Ghinh-ganh (Gios 4:19-20), và nó ở đó để dân Y-sơ-ra-ên được
làm phép cắt bì và được “cất bỏ” sự sỉ nhục của Ê-díp-tô (Gios 5:2-9). Nó cũng ở đó để Chúa hiện ra với
Giô-suê , thiên sứ của Chúa đã đem đến một sứ điệp về sự yên ủi, nhưng đối với
thế hệ mới được mô tả trong sách Các quan xét Ngài đã đem đến một sứ điệp về sự
xét đoán.
Chúa đã giữ giao ước Ngài với
Y-sơ-ra-ên, không một lời nào trong những lời hứa của Ngài ;đã sai sót (Gios
23:5,10,15 IVua 8:56). Ngài đã yêu cầu họ giữ giao ước của họ
với Ngài bằng cách vâng theo luật pháp Ngài và phá hủy hệ thống tôn giáo
Ca-na-an, bàn thờ, đền thờ và hình tượng của họ (Trong Xu
23:20-25 hãy chú ý sự kết hợp giữa thiên sứ của Chúa và mệnh lệnh hủy
diệt tôn giáo sai lầm, và cũng xem Xu 34:10-17
Phu 7:1-11). Nhưng Y-sơ-ra-ên đã bất tuân
Chúa, không chỉ để lại dân Ca-na-an và hệ thống tôn giáo bất kính của họ mà còn
bắt đầu đi theo lối sống của kẻ thù.
Trong giao ước của Ngài, Đức Chúa
Trời hứa chúc phước cho Y-sơ-ra-ên nếu dân sự vâng phục Ngài và kỷ luật họ nếu
họ bất tuân Ngài (Phu 27:1-28:68). Đức Chúa
Trời luôn thành tín với Lời Ngài, dù trong việc chúc phước chúng ta hay sửa
phạt chúng ta, vì qua cả hai việc, Ngài bày tỏ sự chính trực và tình yêu của
Ngài (He 12:1-11). Đức Chúa Trời thích ban
những phước hạnh tích cực của đời sống đem đến cho chúng ta sự vui thoả, nhưng
Ngài không ngần ngại cất đi những phước hạnh đó nếu hoạn nạn của chúng ta sẽ
thúc đẩy chúng ta trở lại với Ngài trong sự ăn năn.
Bởi sự bất tuân, dân tộc Y-sơ-ra-ên
cho thấy rõ rằng họ muốn dân Ca-na-an ở lại trong xứ. Đức Chúa Trời đã để họ
theo ý riêng của mình (Thi 106:15), nhưng
Ngài cảnh cáo họ về những hậu quả bi thảm. Các dân tộc trong xứ Ca-na-an sẽ trở
nên những cái gai làm Y-sơ-ra-ên khổ sở và là những cái bẫy gài họ. Y-sơ-ra-ên
sẽ nhìn dân Ca-na-an về những thú vui nhưng chỉ kinh nghiệm sự đau đớn, họ sẽ
vui mừng trong sự tự do của mình chỉ để thấy sự tự do đó biến thành sự nô lệ.
Dĩ nhiên dân sự khóc khi họ nghe sứ
điệp! (Từ Hê-bơ-rơ ‘bochin’ nghĩa là “những kẻ khóc”). Tuy nhiên, sự buồn rầu
của họ là vì cớ những hậu quả của tội lỗi họ chớ không phải vì sự gian ác của
tội lỗi họ đã làm họ nhận biết tội. Đó là một sự buồn rầu hời hợt và tạm thời
không bao giờ dẫn họ đến sự ăn năn thật (IICo
7:8-11)
4. Vâng phục kẻ thù (Cac 2:6-23)
Chúng ta không dẹp bỏ
tội lỗi trong đời sống được cuối cùng nó sẽ đánh gục chúng ta. Dân Y-sơ-ra-ên
đã thấy mình bị nô lệ cho một dân tộc ngoại đạo này đến dân tộc ngoại đạo khác
như Chúa đã giữ lời Ngài và quở phạt dân sự Ngài. Hãy xem xét những tội lỗi của
thế hệ mới đó.
Họ quên điều Đức Chúa
Trời đã làm (Cac 2:6-10). Tại thời điểm đó trong lịch sử Y-sơ-ra-ên, Giô-suê kế tiếp
Môi-se như một đại anh hùng, nhưng hế hệ mới không nhận biết ông là ai hoặc ông
đã làm gì. Trong tiểu thuyết nổi tiếng của mình năm 1984, George Orwell đã
viết: “Ai điều khiển quá khứ thì điều khiển tương lai: ai điều khiển hiện tại
thì điều khiển quá khứ”. Khi bước vào điều khiển hiện tại, cả Hitler và Stalin
đã viết lại lịch sử quá khứ để họ có thể điều khiển những sự kiện tương lai, và
trong một thời gian điều đó đã có kết quả. Quan trọng biết bao đối với mỗi thế
hệ để nhận biết và cảm kích những người nam người nữ cao trọng đã giúp xây dựng
và bảo vệ dân tộc họ! Đáng lo ngại khi các sử gia “theo chủ nghĩa xét lại” vạch
trần các nam nữ anh hùng của quá khứ và hầu như khiến họ trở nên những tội
phạm.
Họ từ bỏ điều Chúa đã
phán (Cac 2:11-13). Nếu họ nhớ Giô-suê, họ sẽ biết “những bài diễn thuyết tạm biệt”
của ông dành cho các lãnh đạo và dân Y-sơ-ra-ên
(Gios 23:1-24:33). Nếu họ biết những bài diễn thuyết này, họ sẽ biết luật Môi-se,
vì trong những bài diễn thuyết cuối cùng của ông, Giô-suê nhấn mạnh giao ước
Đức Chúa Trời đã lập với Y-sơ-ra-ên và trách nhiệm Y-sơ-ra-ên phải giữ nó. Khi
bạn quên Lời Đức Chúa Trời, bạn ở trong hiểm họa từ bỏ Đức Chúa Trời của Lời
Ngài, là điều giải thích lý do Y-sơ-ra-ên quay sang sự thờ phượng thần Ba-anh
thấp hèn và đồi bại.
Họ không lãnh lấy điều
Chúa đã hứa (Cac 2:14-15). Khi họ đi ra chiến đấu với kẻ
thù, Y-sơ-ra-ên đã bị thất bại, vì Chúa không ở cùng dân sự Ngài. Đây là điều
Môi-se nói sẽ xảy ra (Phu 28:25-26), nhưng
đó chưa phải là tất cả. Những kẻ thù của Y-sơ-ra-ên cuối cùng trở thành những
người chủ của họ! Đức Chúa Trời đã cho phép dân tộc này đến dân tộc khác xâm
lấn Đất Hứa và bắt dân Ngài làm nô lệ, khiến đời sống
trở nên quá khổ sở cho họ đến nỗi họ kêu cầu sự giúp đỡ. Nếu dân Do Thái vâng
lời Chúa, những đạo quân của họ ắt đã chiến thắng, nhưng họ đã trái lời nên bị
thất bại và nhục nhã.
Họ đã không học biết
từ những điều Chúa đã làm (Cac 2:16-23). Mỗi khi dân Y-sơ-ra-ên xây bỏ Chúa để thờ thần tượng, Ngài quở
phạt họ nghiêm khắc và khi họ trở lại với Ngài trong sự khốn khổ của mình, Ngài
giải cứu họ. Nhưng ngay khi họ được tự do và hoàn cảnh họ dễ chịu trở lại,
Y-sơ-ra-ên trở lại ngay những tội lỗi cũ tương tự. “Và con cái Y-sơ-ra-ên đã
làm ác trước mặt Đức Giê-hô-va… vì vậy thiên sứ của Đức Giê-hô-va nổi giân với
Y-sơ-ra-ên, và Ngài phó chúng vào tay của…” là lời tuyên bố thường được lặp lại, ghi lại bản chất tuần hoàn
đáng buồn về những tội lỗi của Y-sơ-ra-ên (Cac
3:7-8,12
4:1-4 6:1
10:6-7 13:1).
Dân sự đã hoang phí hoạn nạn của mình. Họ đã không học những bài học Đức Chúa
Trời muốn họ học và được ích lợi từ sự sửa phạt của Ngài.
Đức Chúa Trời giải cứu dân Ngài bằng
cách dấy lên những quan xét, là những người đánh bại kẻ thù và giải phóng
Y-sơ-ra-ên. Từ Hê-bơ-rơ được dịch là “quan xét” nghĩa là “cứu, giải cứu”. Các
quan xét là những người giải cứu đã giành những chiến thắng lớn về quân sự với
sự giúp đỡ của Chúa. Nhưng các quan xét cũng là những quan trưởng giúp dân sự
giải quyết những tranh chấp của họ (4:4-5).
Các quan xét đến từ các chi phái khác nhau, và thực hiện chức năng mang tính
địa phương hơn là tính quốc gia, và trong vài trường hợp, thời hạn chức vụ của
họ chồng chéo lên nhau. Từ “quan xét” được áp dụng chỉ cho tám trong số mười
hai người mà chúng ta thường gọi là “các quan xét”, nhưng tất cả họ đã thực
hiện chức năng như người cố vấn và giải cứu. Tám người đó là: Ốt-ni-ên (3:9), Thô-la (10:1-2),
Giai-rơ (10-:3-5), Giép-thê (11:1-40), Lếp-san
(12:8-10), Ê-lôm (12:11-12),
Áp-đôn (12:13-15) và Sam-sôn (15:20 16:31).
Chu kỳ của sự bất tuân, kỷ luật, sự
tuyệt vọng và sự giải cứu được nhìn thấy ngày nay một khi dân sự Đức Chúa Trời
từ bỏ Lời Ngài và đi con đường riêng của họ. Nếu sự bất tuân không được kèm
theo sự kỷ luật thiêng liêng, thì người đó không thật sự là con cái Đức Chúa
Trời, vì Đức Chúa Trời sửa trị tất con cái Ngài (He
12:3-13). Đức Chúa Trời có sự thương xót lớn đối với dân sự Ngài, nhưng
Ngài giận dữ với tội lỗi của họ.
Sách Các quan xét là lời được thần
cảm ghi lại những thất bại của Y-sơ-ra-ên và sự thành tín của Đức Chúa Trời.
Nếu chúng ta nghiên cứu sách này chỉ như lịch sử của quá khứ, chúng ta sẽ hoàn
toàn bỏ lở sứ điệp. Sách này nói về dân sự Đức Chúa Trời ngày nay khi người
viết Thi Thiên nhìn lại thời kỳ các quan xét (Thi
106:40-46), ông kết luận bằng một lời cầu nguyện mà chúng ta cần cầu
nguyện ngày nay: “Hỡi Giê-hô-va chúng tôi, xin hãy cứu chúng tôi, và nhóm hiệp
cho tôi từ các nước, hầu cho chúng tôi có thể cảm tạ danh thánh Chúa và khoe
mình về sự ngợi khen Chúa” (Thi 106:47 NIV).
2. NHỮNG VŨ KHÍ CỦA
CUỘC CHIẾN CHÚNG TA (Cac
3:1-30)
“Những vũ khí mà chúng
ta chiến đấu không phải là những vũ khí của thế gian”.
Nhận định đó có thể được
trình bày bởi một người xa lạ trong một tiểu
thuyết “sci-fi”, nhưng không phải thế. Sứ đồ Phao-lô đã viết những lời ấy cho
tín đồ ở thành Cô-rinh-tô (IICo 10:4 NIV),
nhắc nhở họ về một nguyên tắc mà mọi Cơ Đốc nhân cần ghi vào lòng. Khi Đức Chúa
Trời đi đến chiến tranh Ngài thường chọn lựa những chiến sĩ ít hứa hẹn nhất
trao cho họ những vũ khí ít dùng nhất, và thực hiện qua họ những kết quả không
thể ngờ nhất.
Ví dụ, Đức Chúa Trời đã ban cho
Sam-ga một cây đót bò, và với nó ông đã giết 600 người (Cac 3:31), Gia-ên đã dùng một cái búa và cái cọc lều để giết
một thống lãnh (4:21), và Ghê-đê-ôn đã dẫn
đi cả một đạo quân Ma-đi-an chỉ bằng những cái bình và những cây đuốc làm vũ
khí (7:20). Sam-sôn đã giết một ngàn người
Phi-li-tin bằng cách sử dụng một hàm lừa (15:15)
và Đa-vít trẻ tuổi đã giết Gô-li-át khổng lồ bằng một cục đá được ném từ một
cái trành của người chăn chiên (ISa 17:1-58).
Dù thế giới chúng ta đã thay đổi một
cách kịch tính kể từ thời các quan xét “hệ thống thế gian” vẫn y nguyên vì bản
chất con người đã thay đổi (IGi 2:15-17).
Bao lâu chúng ta hiện diện trên thế giới này, dân sự Đức Chúa Trời có liên quan
trong cuộc chiến thuộc linh chống lại Sa-tan và các đạo quân của nó (Eph 6:10-19), và Đức Chúa Trời vẫn đang tìm kiếm
những người nam người nữ có những điều cần có để chiến thắng: sức mạnh, chiến
lược và sự can đảm. Ba yếu tố cần thiết này cho sự chiến thắng được minh hoạ
trong chương này qua đời sống của ba vị quan xét đầu tiên.
1. Ốt ni-ên: Quyền lực
của Đức Chúa Trời (Cac
3:1-11)
Trong chương này, bạn sẽ
thấy “năm vua của Phi-li-tin” (c.3) và vua Mô-áp được gọi là “chứa” (c.25),
nhưng quan trọng hơn “Chúa” nghĩa là Giê-hô-va Đức Chúa Trời, được kể tên mười
lăm lần trong 31 câu này. Điều đó cho chúng ta biết ai thật sự đảm trách. Lãnh
đạo truyền giáo hội trưởng lão A.T.Pierson thường nói rằng “lịch sử là câu
chuyện của Ngài” và ông đã đúng. Khi thi hành những sắc lệnh thiêng liêng của
Ngài, Đức Chúa Trời không bao giờ xâm phạm trách nhiệm của con người, nhưng
Ngài điều khiển và tể trị trong những công việc của các cá nhân và các dân tộc
để hoàn thành những mục đích lớn của
Ngài trên đất này.
Hội Thánh đầu tiên đã cầu nguyện:
“Lạy Chúa, Ngài là Đức Chúa Trời!” và họ vui mừng xưng nhận rằng kẻ thù của họ
chỉ có thể làm “điều gì tay Ngài và mục đích của Ngài đã định trước để được
thực hiện” (Cong 4:24,28 NKJV). Thi sĩ T.S.Eliot đã nói: “Vận mệnh chờ đợi trong tay Đức Chúa Trời,
không phải trong tay của các chính khách”.
Sự thương xót của Đức
Chúa Trời đối với dân sự Ngài (Cac 3:1-4). Chi phái Giu-đa không thể cầm giữ các thành
chính của Phi-li-tin mà họ đã chiếm lấy (Cac 1:18 3:3),
và như chúng ta thấy trong chương 1, những chi phái khác đã không chinh phạt
các dân tộc Ca-na-an. Những dân tộc còn sống sót này đã chọn một chính sách
“láng giềng tốt” đối với Y-sơ-ra-ên để cuối cùng đánh bại Y-sơ-ra-ên từ bên
trong. Đôi khi Sa-tan đến như sư tử cắn xé, nhưng nó thường đến như một con rắn
dụ dỗ (IPhi 5:8 IICo
11:3).
Đức Chúa Trời lẽ ra có thể xét đoán
Y-sơ-ra-ên vì đã tha cho những dân tộc Ca-na-an gian ác, nhưng trong sự thương
xót Ngài đã tha thứ họ vì Ngài có những mục đích cho họ thực hiện. Y-sơ-ra-ên
đã phạm một sai lầm nghiêm trọng là không tin cậy Đức Chúa Trời ban cho họ
chiến thắng, nhưng Đức Chúa Trời tìm cách sử dụng lầm lỗi của họ vì lợi ích của
họ Ro 8:28 có hiệu quả thậm chí trong thời
Cựu Ước.
Ngài sẽ dùng kẻ thù để rèn luyện
Y-sơ-ra-ên, giúp thế hệ mới học biết ý nghĩa của chiến tranh (Cac 8:1-2 Xu 13:17).
Đời sống tương đối dễ chịu cho dân Do Thái trong Đất Hứa, và họ cần thử thách
của nguy hiểm thường trực để giữ cho họ cảnh giác và có kỷ luật. Điều này không
nên nói rằng Đức Chúa Trời luôn tán thành chiến tranh hay việc dự phần vào sự
xung đột gây dựng tính cách, kinh nghiệm trận chiến có thể chỉ thực hiện điều
ngược lại. Vấn đề là dân Do Thái phải giữ loại quân đội nào đó thường trực, nếu
không kẻ thù họ có thể nhanh chóng hiệp lại và áp chế họ, đặc biệt khi
Y-sơ-ra-ên ở vào thời kỳ thấp kém về mặt thuộc linh. Trong những năm sắp đến,
cả Sau-lơ và Đa-vít sẽ cần những đội quân hiệu quả để chiến thắng nhiều kẻ thù
và thiết lập vương quốc.
Đức Chúa Trời cũng sử dụng các dân
tộc Ca-na-an để thử thách Y-sơ-ra-ên và cho thấy dân Ngài sẽ vâng theo những
luật lệ mà Ngài cậy Môi-se truyền cho họ hay không (Cac
3:4). Đức Chúa Trời đã cho dân Do Thái biết rõ rằng họ không được học “tôn
giáo so sánh” và quan tâm những tập tục ngoại đạo của dân Ca-na-an (Phu 7:1-11). Chính kiểu tò mò đó đã đem đến sự xét
đoán thiêng liêng trên Y-sơ-ra-ên trong xứ Mô-áp (Dan
25:1-18), vì sự tò mò thường là bước đầu tiên hướng đến sự tuân theo.
Dĩ nhiên, Y-sơ-ra-ên lẽ ra phải là
một nhân chứng cho các dân tộc ngoại đạo còn sót lại và tìm cách thu phục họ
đến đức tin nơi Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật, nhưng họ cũng thất bại
trong trách nhiệm đó. Thật là một khác biệt lẽ ra nó sẽ thực hiện trong lịch sử
quốc gia tiếp nối nếu dân Do Thái thu phục dân Ca-na-an cho Chúa thay vì dân
Ca-na-an thu phục dân Do Thái cho Ba-anh!
Cơn giận của Đức Chúa
Trời đối với dân sự Ngài (Cac 3:5-8). Đức Chúa Trời đã đặt một bức tường giữa Y-sơ-ra-ên và các láng
giềng của họ, không phải vì Y-sơ-ra-ên tốt hơn bất cứ dân tộc nào khác, nhưng
vì nó khác biệt. Thay vì thờ phượng thần tượng, dân Do Thái đã thờ phượng một
Đức Chúa Trời chân thật là Đấng dựng nên trời và đất.
Con người không sáng chế ra luật pháp và giao ước của Y-sơ-ra-ên: Đức Chúa Trời
đã làm điều đó. Chỉ dân Y-sơ-ra-ên mới có nơi thánh thật, một nơi Đức Chúa Trời
ngự trong vinh hiển Ngài, nơi đó chức tế lễ thật, do Đức Chúa Trời chỉ định, và
họ có bàn thờ thật cùng những của lễ được Đức Chúa Trời tôn trọng (Ro 9:4-5). Chỉ nhờ dân Y-sơ-ra-ên mà mọi dân tộc
trên đất sẽ được phước (Sa 12:1-3).
Khi Y-sơ-ra-ên vâng lời Chúa, Ngài
chúc phước cho họ dồi dào. Và hạnh kiểm của họ cùng sự chúc phước của Đức Chúa
Trời là một chứng cớ cho những láng giềng vô tín (Sa
29:6 26:26-26-33 30:27 39:5).
Dân ngoại đạo sẽ nói: những người Do Thái này khác biệt! Đức Chúa Trời mà họ
thờ phượng và hầu việc là một Đức Chúa Trời vĩ đại!” Và dân Do Thái lúc đó sẽ
có những cơ hội để nói với những láng giềng của mình cách tin cậy Đức Giê-hô-va
và nhận sự tha thứ cùng sự chúc phước của Ngài (Phu
4:13).
Than ôi, thay vì tin cậy Đức Chúa
Trời thay đổi những láng giềng của mình, các thần của láng giềng họ đã thay đổi
dân Do Thái, và mọi điều Môi-se đã cảnh cáo họ không nên làm, họ đã làm. Dân Do
Thái đã phá sập bức tường ngăn cách giữa họ với những láng giềng bất kính, và
những kết quả thật bi thảm. Trái với luật pháp Đức Chúa Trời, dân Do Thái đã
cưới những người vợ ngoại bang, và những người đàn bà Do Thái đã lấy chồng
ngoại bang (Sa 24:3 26:34-35
27:46 Xu
34:15-16 Phu 7:3-4 Gios 23:12). Những kẻ thờ thần tượng dần dần đã
đánh cắp tấm lòng của người bạn đời họ từ sự thờ phượng Đức Giê-hô-va đến sự
thờ phượng các tà thần. Vua Sa-lô-môn đã phạm sai lầm tượng tự này. Xét cho
cùng, khi bạn cưới gả ngoài ý muốn Đức Chúa Trời, bạn phải làm điều gì đó để
giữ hòa bình trong gia đình! (IVua 11:1-13 IICo 6:14-7:1).
Có gì ngạc nhiên khi Đức Chúa Trời
trở nên giận dữ? Có gì ngạc nhiên khi Ngài làm dân Y-sơ-ra-ên nhục nhã bằng
cách sử dụng những dân tộc ngoại đạo để kỷ luật dân của Ngài? Vì Y-sơ-ra-ên
hành động như những kẻ ngoại đạo, Đức Chúa Trời phải đối xử với họ như những kẻ
ngoại đạo! “Đối với kẻ trung tín, Chúa tỏ mình trung tín, đối với kẻ trọn vẹn,
Chúa tỏ mình trọn vẹn, đối với kẻ tinh sạch, Chúa tỏ mình tinh sạch nhưng đối
với kẻ trái nghịch Chúa tỏ mình nghiêm nhặt” (Thi
18:25-26 NIV).
Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của
mọi dân tộc, “vì quyền thống trị thuộc về Đức Giê-hô-va và Ngài cai trị trên
muôn dân” (Thi 22:27-28 NIV). Vua
Nê-bu-cát-nết-sa kiêu ngạo đã phải học cách khổ sở “rằng Đấng Rất Cao cai trị
trong nước loài người, và Ngài muốn ban cho ai tùy ý” (Da
4:25 NKJV).
Bốn lần trong sách Các quan xét,
chúng ta được cho biết rằng Đức Chúa Trời đã “bán dân Ngài cho kẻ thù (Cac 2:14 3:8 4:2 10:7 ISa 12:9 IVua 21:25
Thi 44:12). Dân Do Thái đã hành động như nô
lệ, vì vậy Đức Chúa Trời đã bán họ như nô lệ. Nếu dân Do Thái trung tín với
Chúa Ngài sẽ bán kẻ thù vào tay Y-sơ-ra-ên (Phu
32:20).
Tên của vua nước Mê-sô-bô-ta-mi
nghĩa là “Cu-san gian ác gấp 2”, có thể là một biệt hiệu mà các kẻ thù ông đã
cho ông. Chúng ta không được cho biết ông xâm lấn Y-sơ-ra-ên ở đâu, dù theo
lô-gíc thì cuộc tấn công sẽ đến từ phía Bắc, chúng ta cũng không được biết bao
nhiêu phần đất ông đã chinh phạt trong 8 năm khốn khổ đó. Vì người giải cứu mà
Đức Chúa Trời dấy lên đến từ Giu-đa, có thể đội quân xâm lược đã xâm nhập phía
Nam Y-sơ-ra-ên thì Chúa can thiệp thay cho dân khốn khổ của Ngài.
Charles Spurgeon nói rằng Đức Chúa
Trời không bao giờ để cho dân Ngài phạm tội, một cách thành công. Tội lỗi của
họ hủy diệt họ hoặc nó sẽ mời gọi bàn tay quở phạt của Đức Chúa Trời. Nếu lịch
sử dạy cho Hội Thánh đương thời bất cứ điều gì, đó là bài học hiển nhiên rằng
“sự công bình tôn cao một nước, nhưng tội lỗi là một sự sỉ nhục cho bất cứ dân
tộc nào” (Ch 14:34 NIV).
Sự cứu rỗi của Đức
Chúa Trời cho dân sự Ngài (Cac 3:9-11). Không có chứng cớ nào
cho thấy dân sự ăn năn về tội lỗi họ khi họ kêu cầu Đức Chúa Trời đã được giúp
đỡ, nhưng Chúa đã đáp ứng nghịch cảnh của họ và ban cho họ một người giải cứu.
Đó là kinh nghiệm rời khỏi Ê-díp-tô một lần nữa: “Và Đức Chúa Trời nghe tiếng
than thở của chúng, Đức Chúa Trời nhớ đến giao ước Ngài với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Đức Chúa Trời đoái đến con cái Y-sơ-ra-ên, và
Đức Chúa Trời đã lưu tâm đến chúng” (Xu 2:24-25).
Từ “biết” có nghĩa nhiều hơn là sự hiểu biết về trí tuệ, vì Đức Chúa Trời biết
mọi sự. Nó có nghĩa là Đức Chúa Trời đồng cảm với hoạn nạn của họ và cảm thấy
một mối quan tâm về phúc lợi của họ.
Người giải cứu do Đức Chúa Trời dấy
lên là Ốt-ni-ên, người đã chiếm Hếp-rôn và cưới con gái của Ca-lép (Cac 1:10-13). Các học giả Kinh Thánh không đồng ý
về mối liên hệ ruột thịt chính xác mà Ốt-ni-ên đã có đối với Ca-lép. Có phải
Ốt-ni-ên là cháu Ca-lép nghĩa là con trai Kê-na, em Ca-lép hay ông đơn giản là
em Ca-lép? Nói về phần bản văn, cả hai cách giải thích đều có khả năng xảy ra.
Nếu ông là em trai Ca-lép, vậy tại
sao tên của cha ông là Kê-na thay vì Giê-phu-nê? (ISu
4:13 Gios 14:6). Có lẽ Giê-phu-nê đã
chết, và mẹ của Ca-lép đã lấy Kê-na và sinh ra ốt-ni-ên. Như vậy, Ốt-ni-ên sẽ
là em cùng mẹ khác cha của Ca-lép ISu 4:13
chỉ ra rằng Ốt-ni-ên là con trai Kê-na, nhưng từ “con trai” được sử dụng khá
rộng rãi trong các gia phả Do Thái và không phải lúc nào cũng có ngĩa là mối
liên hệ cha con trực tiếp.
May mắn thay, chúng ta không phải gỡ
rối những chi nhánh trong phả hệ của Ốt-ni-ên trước khi chúng ta có thể được
ích lợi từ mẫu mực về đời sống và chức vụ của ông. Bởi huyết thống và bởi hôn
nhân, ông đã thuộc về một gia đình được chú ý về đức tin can đảm và sự sẵn sàng
để đối diện với kẻ thù và nhờ cậy Đức Chúa Trời để có chiến thắng. Khi Đức Chúa
Trời kêu gọi Ốt-ni-ên, ông sẵn sàng cho Chúa, và Thánh Linh Đức Chúa Trời đã
giáng trên ông và ban quyền năng cho ông để đánh trận (Cac
3:10).
“Ấy chẳng phải bởi quyền thế cũng
chẳng phải bởi năng lực, nhưng là bởi Thần ta. Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy”
(Xa 4:6 NKJV). Đây là bí mật về sức mạnh của
Ốt-ni-ên, cũng như với Ghê-đê-ôn (Cac 6:34),
Giép-thê (11:29) và Sam-sôn (14:6,19 15:14). Và
đó phải là nguồn năng lực của tín đồ ngày nay (Cong
1:8 2:4 4:8,31 Eph 5:18). Là một trong những người hướng dẫn đầu
tiên của hội The Evangelical Alliance Mission (Hiệp hội truyền giảng Phúc Âm),
T.J.Bach đã nói: “Đức Chúa Trời mong bày tỏ cho bạn những điều sâu sắc hơn về
Đức Chúa Trời Ngài mong yêu thương qua bạn Ngài mong hành động qua bạn. Qua Đức
Thánh Linh phước hạnh, bạn có thể có: năng lực cho mọi nhiệm vụ, sự khôn ngoan
cho mọi vấn đề, sự yên ủi trong mọi buồn rầu, sự vui mừng trong sự hầu việc
Ngài cách dư dật”.
Ốt-ni-ên không chỉ cứu dân tộc ông
khỏi ách nô lệ, mà còn phục vụ dân tộc ông với tư cách quan xét bốn mươi năm.
Điều này có nghĩa là ông đã thực hiện quyền hạn trong việc quản lý những công
việc của quốc gia, và chính chức lãnh đạo thuộc linh và dân sự của ông đã đem
sự yên nghỉ đến cho xứ. Đừng bao giờ đánh giá thấp ích lợi mà một người có thể
làm được, là người được đầy dẫy Thánh Linh Đức Chúa Trời và vâng phục ý muốn
Đức Chúa Trời.
2. Ê-hút: chiến lược
hiệu quả (Cac 3:12-30)
Không như Môi-se, người
đã chỉ định Giô-suê lãnh đạo Y-sơ-ra-ên, các quan xét đã không có quyền hạn để
chỉ định người kế tục. Khi Đức Chúa Trời gọi những người nam người nữ hầu việc
như những quan xét, họ vâng lời làm công việc Ngài, và sau đó biến khỏi hiện
trường. Ai đó sẽ hy vọng rằng ảnh hưởng tin kính của họ sẽ thực hiện một thay
đổi lâu dài trong đời sống thuộc linh của dân tộc, nhưng đó không phải là
trường hợp này. Ngay sau khi một quan xét đi qua khỏi hiện trường, thì dân sự
trở lại với việc thờ phượng Ba-anh và từ bỏ Chúa.
Bạn sẽ nghĩ rằng chỉ có
lòng biết ơn sẽ thôi thúc dân Y-sơ-ra-ên vâng lời Chúa và trung tín với giao
ước của Ngài, đặc biệt là sau suốt tám năm của sự nô lệ đau khổ. Và hãy nghĩ
đến mọi điều Đức Chúa Trời đã làm cho Y-sơ-ra-ên trong quá khứ! Họ sẽ là một dân
tộc nhỏ bé bị quên lãng nếu Đức Chúa Trời không ban cho họ sự chiến thắng trên
những kẻ thù của họ. Họ sẽ dầm mình trong vũng bùn sa đọa về đạo đức nếu Chúa
không ban cho họ luật pháp của Ngài và các thầy tế lễ để dạy luật cho họ. Họ có
sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong đền tạm và những lời hứa của Đức Chúa Trời
trong giao ước, vậy họ có thể muốn điều gì nữa?
Ở nơi nào đó hệ thống
này bị sụp đổ, và tôi nghĩ rằng nó có
liên quan đến các thầy tế lễ và các bậc cha mẹ. Các thầy tế lễ và người Lê-vi
không phải chỉ hành lễ tại đền tạm nhưng họ cũng phải dạy luật pháp cho dân sự
và khiến họ vâng theo (Le 10:11 Phu 33:8-10 17:8-9
ISa 2:12-17 Ma
2:1-9). Các bậc cha mẹ Do Thái được mong mỏi dạy cho con cái họ đường
lối của Chúa (Phu 6:6-25 11:18-21 Sa 18:17-19
Giop 1:5) và làm những người tốt cho con cái
noi theo. Tuy nhiên, suốt thời kỳ các quan xét, có vẻ như thế hệ đi trước đã
xao lãng chức vụ quan trọng về việc dạy dỗ thế hệ mới về sự kính sợ Chúa (Thi 34:11).
Éc- lôn, kẻ áp bức (Cac 3:12-14). Các
đạo quân của Mê-sô-bô-ta-mi đã đến từ xa để xâm lược Y-sơ-ra-ên, nhưng dân Mô-áp dân Am-môn và dân A-ma-léc không chỉ
là láng giềng mà còn là những bà con của dân Do Thái, Lót cháu của Áp-ra-ham là
tổ phụ của Mô-áp và Am-môn (Sa 19:30-38). Và
Ê-sau anh của Gia-cốp, là tổ phụ của A-ma-léc (Sa
36:12,16
Phu 25:17,19).
Éc-lôn, vua Mô-áp đã dàn xếp liên
minh và lập tổng hành dinh tại Giê-ri-cô, “thành cây chà là” (Phu 34:3). Giê-cô đã bị sự rủa sả (Gios 6:26), và không có chứng cớ nào cho thấy
thành đã được xây lại, nhưng vị trí lý tưởng cho việc chỉ huy những hoạt động
quân sự, và có nước dư dật ở đó. Trong 18 năm, Éc-lôn và các đồng minh đã khiến
đời sống trở nên khổ sở cho dân Do Thái. Chắc đã gây cay đắng cho họ cách đặc
biệt khi ở dưới gót sắt của những người bà con ruột
thịt cũng là kẻ thù lâu dài của họ.
Ê-hút,
người giải cứu (Cac 3:15-30). Ốt-ni-ên, quan xét đầu tiên, đã đến từ chi phái Giu-đa. Quan
xét thứ hai, Ê-hút, một người thuận tay trái đến
từ người láng giềng của Gui-đa, chi phái Bên-gia-min tên “Bên-gia-min” nghĩa là
“con trai tay hữu của ta” (những người Bên-gia-min nổi tiếng về sự thuận cả hai
tay). (Cac 20:16 và ISu
12:2). Tuy nhiên, bản văn ở Cac 3:15
có thể được dịch “một người có tật ở tay hữu” gợi ý rằng ông không phải thuận
cả hai tay nhưng chỉ có thể sử dụng tay trái. Nếu đó thật sự là ý nghĩa của bản
văn, vậy kế hoạch giết Éc-lôn của Ê-hút là một kiệt tác về chiến lược. Nó cũng
là một sự khích lệ lớn cho những người có những bất lực về thuộc thể, là những
người có thể có ý tưởng sai lầm mà Đức Chúa Trời không thể sử dụng họ trong sự
hầu việc Ngài.
Ê-hút có nhiều vấn đề để giải quyết
và ông đã giải quyết chúng cách thành công. Vấn đề đầu tiên là làm thế nào để
đến gần vua Éc-lôn mà không làm cho bất cứ ai nghi ngờ. Ông đã hoàn thành điều
này bằng cách khiến mình trở thành lãnh đạo nhiệm vụ đem đến cho vua cống vật
hằng năm của mình. Việc dâng cống vật không chỉ làm gia tăng sự giàu có của
vua, điều mà ông sẽ vui thích, nó còn thừa nhận quyền lực của vua trên
Y-sơ-ra-ên, và Éc-lôn cũng vui mừng điều đó. Dĩ nhiên, Éc-lôn không biết rằng
Ê-hút là lãnh đạo được chỉ định của Đức Chúa Trời để giải cứu Y-sơ-ra-ên, nếu
không, ông sẽ ra lệnh giết chết người tại chỗ.
Vấn đề thứ hai là bảo đảm một cuộc
hội kiến riêng tư với vua mà không khích động sự ngờ vực của những kẻ hầu và
lính canh của ông ta. Ê-hút đã làm việc này trước tiên bằng cách rời khỏi sự
hiện diện của vua cùng với người của ông sau khi họ đã thực hiện sự kính trọng
đối với Éc-lôn, và rồi Ê-hút trở lại sau đó một mình như thể ông có một thông
điệp khẩn cấp cho vua. Một người cô thế với một tay phải tàn tật không thể là
một hiểm hoạ đối với một vị vua đầy thế lực, và có lẽ người Do Thái bị xem
thường này thật sự có một lời từ Đức Chúa Trời. Éc-lôn có thể cảm thấy tự hào
rằng Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có một sứ điệp cho ông. Và vì ông chắc chắn
không sợ lắng nghe điều đó, ông đã giải tán lính canh và người hầu của mình rồi
cho Ê-hút một cuộc gặp gỡ cá nhân trong phòng kín của ông.
Vì Ê-hút phải giết Éc-lôn một cách
nhanh chóng và lặng lẽ lúc vua không ngờ, nên ông đã lợi dụng sự tàn tật của
mình. Ê-hút đã làm một dao găm sắt bén và giấu nó dưới quần áo ở bên phải của
ông. Cho dù lính canh khám xét ông, có khả năng nhất là họ xem xét bên trái
thân thể ông nơi mà đa số người mang vũ khí. Thấy rằng ông là một người tàn
tật, có thể họ đã không khám xét ông gì cả.
Ngay cả một vị vua cũng phải đứng
lên để tiếp nhận một sứ điệp từ Đức Chúa Trời. Khi Éc-lôn đứng lên, Ê-hút có
thể đã ra điệu bộ bằng tay phải của ông để chi phối vua và cho vua thấy không
có gì trong tay ông, rồi Ê-hút rút dao và đâm vào thân thể mập mạp của vua. Đó
chắc là một nhát dao mạnh mẽ vì lưỡi dao xuyên qua lưng vua, và Éc-lôn chết lập
tức.
Vấn đề kế tiếp là cách để thoát khỏi
cung điện mà không bị bắt, và ông đã thực hiện điều này bằng cách khoá cửa
phòng riêng và trì hoãn sự phát hiện xác chết. Khi Ê-hút đã đi xa, các người
hầu kết luận rằng cuộc nói chuyện đã xong. Vì vậy họ đến xem vua họ có cần gì
không. Ba nhận định “kìa” trong các c.24-25 cho thấy ba điều ngạc nhiên mà họ
kinh nghiệm: cửa đã bị khóa vua không trả lời tiếng gõ cửa với tiếng kêu của
họ, và vua đã chết. Mọi việc này chiếm thời gian và cho Ê-hút cơ hội thoát ra.
Vấn đề cuối cùng của ông là tập hợp
các toán quân và tấn công kẻ thù. Hiệu lệnh kèn đã triệu tập mọi người, và ông
dẫn họ đến những chỗ cạn của sông Giô-đanh, bảo đảm với họ rằng Chúa đã phó
Mô-áp vào tay họ. Chiến thắng sẽ xảy đến bởi sự tin cậy Chúa không phải bởi tin
cậy nơi chính sức của họ. Bằng cách canh giữ những chỗ cạn, dân Y-sơ-ra-ên đã
cản trở dân Mô-áp thoát ra hoặc đưa vào những toán quân mới. Vì Ép-ra-im là một
trong những chi phái mạnh mẽ nhất ở Y-sơ-ra-ên, Ê-hút có những chiến sĩ xuất
sắc để ra lệnh. Theo đó, họ đã giết mười ngàn binh lính Mô-áp giỏi nhất, không
chỉ Mô-áp bị đánh bại, mà tình thế cũng thay đổi và dân Mô-áp trở thành thần
dân của Y-sơ-ra-ên. Chúng tôi cho rằng thất bại của Mô-áp là dấu hiệu cho các
liên minh Am-môn và A-ma-léc của họ rời bỏ chiến trường.
Nếu dân Do Thái được yêu cầu chọn
một lãnh đạo, Ê-hút có lẽ đã vắng bóng trong lá phiếu đầu tiên. Nhưng ông là
người được chọn của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời đã sử dụng ông để giải
phóng dân tộc. Môi-se chậm chạp về lời nói, và Phao-lô không gây ấn tượng mạnh
mẽ qua bề ngoài, nhưng giống như Ê-hút, Môi-se và Phao-lô là những người có đức
tin đã lãnh đạo người khác đi đến chiến thắng. Ê-hút đã biến sự tàn tật của
mình thành một khả năng vì ông nhờ cậy nơi Chúa.
3. Sam-ga: Sự can đảm
bền bỉ (Cac 3:30)
Chỉ một câu được dành cho Sam-ga, và
nó thậm chí không xác định rằng ông là quan xét. 5:6-7
cho thấy ông cùng thời với Đê-bô-ra và Ba-rác. “Con trai của A-nát” có thể
nghĩa là ông đến từ thành Bết-a-nát ở Nép-ta-li (1:33),
cũng là nơi chi phái Ba-rác xuất xứ (4:6 5:18). Vì A-nát là tên của một nữ thần chiến tranh
của Ca-na-an, có lẽ “con trai của A-nát” là biệt hiệu có nghĩa “con trai của
chiến trận” đó là một chiến sĩ mạnh mẽ.
Điều ý nghĩa về Sam-ga là vũ khí mà
ông đã sử dụng. Một cây đót bò là một cái sào chắc chắn, dài khoảng tám bộ. Ở
một đầu là mũi kim loại nhọn để thúc bò và ở đầu kia là cái xuổng để quét bụi
khỏi cái cày. Nó là vật thân thiết nhất mà Sam-ga có thể tìm thấy để làm một
cái mác vì kẻ thù đã tịch thu những vũ khí của Y-sơ-a-ên (5:8 ISa 13:19-22).
Đây là một người đã vâng lời Đức
Chúa Trời và đánh bại kẻ thù dù các tiềm lực có giới hạn. Thay vì phàn nàn về
việc không có một cây gươm hay mác, Sam-ga đã dâng vật ông có cho Chúa, và Chúa
đã sử dụng nó. Joseph Parker đã nói: “Cái gì là công cụ yếu ớt trong tay của
một người, là một công cụ mạnh mẽ trong tay của người khác, đơn giản vì tinh
thần của người khác đó đốt cháy bằng sự cương quyết thánh khiết để thực hiện
công việc phải được thực hiện”.
Sam-ga có thể đã giết sáu trăm người
Phi-li-tin cùng một lúc ở một ơi (IISa 8:8-12),
nhưng cũng có khả năng sáu trăm người là một tổng số tích lũy. Một cây đót bò
sẽ là một vũ khí khó sử dụng nếu sáu trăm quân lính tấn công Sam-ga cùng một
lúc. Vì chúng ta không biết chi tiết, chúng ta không nên suy đoán. Thật đáng
khích lệ để biết rằng Đức Chúa Trời đã giúp ông có thể chiến thắng kẻ thù dù
tiềm lực của ông bị hạn chế.
Ít lời được ghi lại về Sam-ga cho
tôi ấn tượng rằng ông là một người có sự can đảm bền bỉ, mà dĩ nhiên xuất phát
từ đức tin của ông nơi Chúa. Để giữ lập trường mình chống lại kẻ thù, việc chỉ
có một công cụ của nhà nông thay cho sự trang bị quân sự đầy đủ của một chiến
binh, khiến Sam-ga nổi bật như một người gan dạ với sự can đảm kiên định.
Charles Spurgeon có lần đã trình bày
một diễn thuyết tại Đại học Mục sư của ông với tựa đề “dành cho những người làm
việc với thiết bị yếu ớt”. Sam-ga đã không nghe bài diễn thuyêt đó, nhưng tôi
chắc ông có thể trình bày nó! Và tôi nghĩ rằng ông sẽ kếtt thúc bài diễn thuyết
của ình bằng cách nói: “Hãy dâng bất cứ công cụ nào bạn có cho Chúa, hãy giữ
vững lập trường của bạn cách can đảm và hãy tin cậy Đức Chúa Trời sử dụng những
gì trong tay bạn để thực hiện những việc lớn vì vinh hiển của Ngài”.
Xin chú giải E.M.Bounds thế giới
đang tìm kiếm những phương pháp tốt hơn, nhưng Đức Chúa Trời đang tìm kiếm
những người nam người nữ tốt hơn là những người hiểu những điều cơ bản: quyền
năng của Thánh Kinh chiến lược khôn ngoan và sự can đảm kiên định.
Ốt-ni-ên, Ê-hút và Sam-ga đã cho
chúng ta thấy con đường đó. Chúng ta sẽ noi theo chớ?
3. “2 TỐT HƠN 1, VÀ 3
VẪN TỐT HƠN” (Cac 4:1-5:31)
Bản phân vai các nhân
vật trong vở kịch này như sau:
Gia-bin: Vua Hát-so ở
Ca-na-an, một bạo Chúa
Đê-bô-ra: Một quan xét
Do Thái, người đàn bà có đức tin và sự can đảm
Ba-rác: Một tướng Do
Thái miễn cưỡng
Si-sê-ra: Thống lãnh của
đạo quân Gia-bin
Hê-be: Một láng giềng
người Kê-nít, hòa hảo với Gia-bin.
Gia-ên: Vợ Hê-be, khéo
tay với một cái búa.
Giê-hô-va Đức Chúa Trời:
Đảm trách những cuộc chiến và thời tiết.
Giờ đây vở kịch mở màn.
1. Màn 1: Một hoàn cảnh
bi thảm (Cac 4:1-3)
Gia-bin là người chính
trong màn 1, vì Đức Chúa Trời đã giấy ông lên để kỷ luật dân Y-sơ-ra-ên. Trong
80 năm, dân Do Thái đã vui hưởng sự yên nghỉ bởi sự lãnh đạo của Ê-hút, thời kỳ hoà bình dài nhất được ghi lại trong sách Các quan
xét. Nhưng ngay khi vị quan xét tin kính này ra đi, thì dân sự lại sa vào việc
thờ hình tượng, và Đức Chúa Trời đã phải trừng phạt họ (2:10-19).
Y-sơ-ra-ên như được mô tả trong sách
Các quan xét minh họa sự khác nhau giữa “sự cải cách tôn giáo” với “sự phục
hưng thuộc linh”. Sự cải cách tạm thời thay đổi hạnh kiểm bên ngoài, trong khi sự phục hưng biến đổi thường xuyên tính
cách bên trong. Khi Ê-hút cất bỏ những hình tượng và ra lệnh cho dân sự chỉ thờ
phượng Đức Giê-hô-va, họ vâng lời ông. Nhưng khi sự ép buộc đó được cất đi, đân
sự vâng theo những ham muốn của riêng họ. Dân tộc Y-sơ-ra-ên giống như người
trong câu chuyện của Chúa Giê-xu, là người đã đuổi một quỉ, dọn sạch nhà cửa,
và rồi kết thúc với bảy quỉ dữ hơn (Mat
12:43-45). Tấm lòng trống rỗng là miếng mồi cho mọi hình thức tội lỗi.
Ca-na-an được hình thành từ một số
bang thành phố, mỗi bang được cai trị bởi một vua (Gios
12:1-24). “Gia-bin” là danh hiệu chính thức hoặc tên của vua ở Hát-so (Gios 11:1). Ông cũng được gọi là “vua Ca-na-an”.
Danh hiệu này có thể nghĩa là ông là người đứng đầu một liên bang các vua.
Giô-suê đã đốt cháy Hát-so (Gios 11:13)
nhưng dân Ca-na-an đã xây dựng lại và chiếm cứ nó với đạo quân đông đảo và chín
trăm xe ngựa sắt của mình, Gia-bin chắc chắn cai trị xứ. Tuy nhiên, khi bạn đọc
câu chuyện bạn có cảm tưởng rằng Si-sê-ra thống lãnh đạo quân của Gia-bin là
người quyền thế thật sự trong xứ. Gia-bin thậm chí không được đề cập trong bài
ca của Đê-bô-ra ở Cac 5:1-31!
Một lần nữa, dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu
Đức Chúa Trời không phải để tha thứ tội lỗi họ, nhưng để giải cứu hoạn nạn của
họ (xem c.6-8 để có một gợi ý về đời sống ra sao trong thời đó). Nếu họ thật sự
ăn năn, Đức Chúa Trời sẽ thực hiện nhiều việc hơn là giải cứu họ khỏi sự nô lệ
thuộc thể. Ngài sẽ giải cứu họ khỏi ách nô lệ thuộc linh nữa. Cầu xin Đức Chúa
Trời sự yên ủi chớ không phải sự thanh tẩy chỉ là gieo những gạt giống ích kỷ
mà cuối cùng sẽ sinh ra mùa gặt khác cay đắng hơn. Lời cầu nguyện của Đa-vít là
điều mà Y-sơ-ra-ên cần cầu nguyện: “Đức Chúa Trời tôi ôi, xin hãy dựng nên
trong tôi một lòng trong sạch và làm mới lại trong tôi một thần linh ngay
thẳng” Thi 51:10).
2. Màn 2: một sự mạc
khải thiêng liêng (Cac
4:4-7)
Đức Chúa Trời đã dấy lên một người
phụ nữ can đảm tên là Đê-bô-ra (“con ong”) làm quan xét trong xứ. Đây là một
hành động của ân điển nhưng cũng là một hành động của sự làm sỉ nhục đối với
dân Do Thái, vì họ đã sống trong một xã hội mà người nam trội hơn, chỉ muốn
chức lãnh đạo chính chắn của phái nam “Về phần dân ta, con nít là kẻ hà hiếp
chúng, và đàn bà cai trị trên chúng” (Es 3:12).
Đối với Đức Chúa Trời ban cho dân Ngài một quan xét nữ là đối xử với họ như con
nít, chính xác là tình trạng của họ khi nói đến những điều thuộc linh.
Đê-bô-ra là một quan xét và là một
nữ tiên tri. Mi-ri-am chị của Môi-se là một nữ tiên tri (Xu 15:20) và lịch sử Kinh Thánh sau đó giới thiệu
với chúng ta thêm Hun-đa (IIVua 22:14),
Nô-a-đa (Ne 6:14), An-ne (Lu 2:36) và bốn con gái của Phi-líp (Cong 21:9). Đức Chúa Trời đã gọi Đê-bô-ra làm tiên
tri và quan xét, nhưng bà thấy mình như một người mẹ đối với dân tộc bà. “Ta
Đê-bô-ra đã chổi dậy, ta đã chổi dậy như một người mẹ trong Y-sơ-ra-ên” (Cac 5:7). Dân Do Thái ương ngạnh là con cái bà,
nên bà ân cần với họ và khuyên bảo họ.
Đức Chúa Trời mạc khải cho Đê-bô-ra
rằng Ba-rác (“tia chớp”) phải tập hợp và lãnh đạo đội quân Y-sơ-ra-ên và kéo những
đoàn quân của Si-sê-ra vào một cái bẫy gần núi Tha-bô, và ở đó Chúa sẽ đánh bại
họ. Núi Tha-bô nằm ở giao điểm của Sa-bu-lôn, Nép-ta-li và Y-sa-ca, không xa
sông Ki-sôn. Nếu Ba-rác sẽ dẫn đạo quân Y-sơ-ra-ên hướng đến núi Tha-bô, Đức
Chúa Trời sẽ cho Ba-rác chiến thắng.
Khi Đức Chúa Trời muốn quy vinh hiển
cho Ngài qua dân sự Ngài, Ngài luôn có một kế hoạch hoàn hảo cho chúng ta làm
theo. Đức Chúa Trời đã chọn lãnh đạo của quân đội Ngài, nơi dành cho cuộc
chiến, và kế hoạch cho quân đội Ngài làm theo. Đức Chúa Trời cũng bảo đảm chiến
thắng. Điều đó giống như “những ngày tốt đẹp đã qua” của Giô-suê trở lại!
3. Màn 3: một người
tham gia miễn cưỡng (Cac
4:8-10)
Chúng ta không được cho biết Ba-rác
là một quan xét. Điều này giải thích lý do ông nhận những mệnh lệnh từ
Đê-bô-ra, người lãnh đạo được chỉ định của Đức Chúa Trời trong xứ. Ba-rác đến
từ Nép-ta-li, một trong những chi phái sẽ sai đi những người tình nguyện đến
chiến trường (c.6). Giống như Môi-se trước mình (Xu
3:1-4:31) và Ghê-đê-ôn (Cac 6:1-40) cùng
Giê-rê-mi (Gie 1:1-19) sau mình, Ba-rác do
dự khi được cho biết điều Đức Chúa Trời muốn ông làm.
Chúng ta biết rằng “những điều răn
của Đức Chúa Trời là những điều có thể làm được của Đức Chúa Trời” và chúng ta
phải vâng theo ý muốn Ngài bất chấp hoàn cảnh, cảm xúc hay hậu quả. Nhưng chúng
ta không phải lúc nào cũng làm vậy! Đáp ứng của Ba-rác là một bằng chứng của sự
vô tín hay một dấu hiệu của sự khiêm nhường? Ông đã không tố cáo Đức Chúa Trời
thực hiện một sai lầm; tất cả những gì ông làm là yêu cầu Đê-bô-ra đi với ông
đến chiến trường. Phải chăng đó là vì bà là một tiên tri và ông có thể có một
lời từ Chúa? Hay điều đó để giúp ông tuyển nhiều người tình nguyện cho đội
quân? Việc Đê-bô-ra đồng ý đi cùng Ba-rác gợi ý rằng yêu cầu của ông không
ngoài ý muốn Đức Chúa Trời, dù trong việc chấp nhận điều đó, Đức Chúa Trời đã
cất sự vinh dự từ phái nam và ban nó cho phái nữ.
Ba-rác đã tuyển mười ngàn người từ
chi phái Nép-ta-li của ông và chi phái Sa-bu-lôn lân cận (Cac 4:6,10 5:14,18). Sau đó,
những người tình nguyện từ các chi phái Bên-gia-min,
Ép-ra-im, Ma-na-se ở phía Tây (c.14) và Y-sa-ca (c.15) đã gia nhập với những
người này, và đội quân lên đến bốn mươi ngàn người (c.8). Có thể mười ngàn
chiến sĩ ban đầu mở chiến dịch để nhử Si-sê-ra vào bẫy và sau đó ba mươi ngàn
chiến sĩ khác tham gia với họ vì cuộc chiến thật sự và hoạt động “quét sạch”. Những
chi phái được kêu gọi nhưng từ chối đến là Ru-bên, Đan, A-se, và Ma-na-se ở
phía Đông (c.15-17).
Khi bạn xem xét rằng những vũ khí
thật khan hiếm ở Y-sơ-ra-ên (5:8 ISa 13:19-22) và không có đội quân thường trực
hiệu quả nào, thì điều Đê-bô-ra và Ba-rác đã làm thật sự là một hành động của
đức tin. Nhưng Đức Chúa Trời đã hứa ban cho họ chiến thắng và họ tin cậy nơi
lời hứa của Ngài (Ro 10:17).
4. Màn 4: một cuộc chạm
trán chiến thắng (Cac 4:11-23)
Chúa là diễn viên chủ
đạo trong bối cảnh này. Ngài không chỉ điều khiển đội quân của kẻ thù và đem
chúng vào bẫy, mà Ngài còn điều khiển thời tiết và sử dụng một cơn bão để đánh
bại đoàn quân của Si-sê-ra.
Si-sê-ra
được cảnh báo (Cac 4:11-12). Câu 12 gợi ý rằng chính Hê-be va gia đình ông trước tiên đã cảnh
báo cho Si-sê-ra rằng dân Do Thái sắp nổi dậy và quân đội Y-sơ-ra-ên đang tập
hợp tại đâu. Chúng ta đã gặp những người Kê-nít ở 1:16
và khám phá rằng họ là bà con xa của dân Do Thái qua Môi-se. Có vẻ lạ rằng
Hê-be người Kê-nít sẽ biệt riêng ông khỏi dân tộc ông, là dân thờ phượng Đức
Giê-hô-va, và thân thiết với những bạo chúa thờ hình tượng như Gia-bin và
Si-sê-ra (4:17). Có lẽ ông cần sự bảo vệ và
việc kinh doanh của dân Ca-na-an khi ông thực hiện công việc thương mại của
mình như một thợ kim loại lưu động. Dân Kê-nít dường như gắn liền với chi phái
Giu-đa (1:16), nhưng người Giu-đa không có
mặt trong vòng những người tình nguyện trong đội quân của Ba-rác.
Tuy nhiên, có thể nhìn Hê-be theo
khía cạnh khác và thấy ông như một phần kế hoạch của Đức Chúa Trời để nhử
Si-sê-ra vào bẫy. Hê-be không phải là một đồng minh trong số những đồng minh
của Gia-bin, ông chỉ đang tìm cách duy trì một vị trí trung lập trong một xã
hội phân chia. Nhưng một khi quân đội Do Thái có mặt tại núi Tha-bô, Hê-be chạy
đi và đưa tin cho Si-sê-ra, và Si-sê-ra không có lý do gì để nghi ngờ sự báo
cáo. Si-sê-ra bắt đầu di chuyển đội quân của ông và rơi ngay vào bẫy.
Si-sê-ra
bị đánh bại (Cac 4:13-16). Dân Ca-na-an cậy vào chín trăm xe ngựa sắt của họ để cho họ sự
tiện lợi họ cần khi họ gặp đội quân Do Thái (1:19
Gios 17:18). Điều họ không biết đó là Chúa
sẽ giáng một cơn mưa bão ác liệt khiến cho sông Ki-sôn tràn ngập và biến chiến
trường thành một biển bùn lầy (Cac 5:20-22).
Nước và bình sẽ hết sức làm trở ngại sự chuyển động của xe và ngựa Ca-na-an, và
hoàn cảnh này sẽ làm cho các chiến sĩ Y-sơ-ra-ên dễ dàng tấn công và giết kẻ
thù. Cái bẫy đã hoạt động và đội quân kẻ thù bị tiêu diệt sạch.
Cùng với cơn bão từ trời và nước lụt
từ sông dâng lên, Đức Chúa Trời đã giáng sự bối rối trong tâm trí của đoàn quân
thù địch. Từ được dịch là “vỡ chạy” (7:15
NKJV) nghĩa là “bối rối, bị rơi vào sự hoang sợ. Đây là điều Đức Chúa Trời làm
cho những người đánh xe ngựa của Pha-ra-ôn tại Biển Đỏ (Xu 14:24) và sau đó làm cho dân Phi-li-tin trong thời Sa-mu-ên
(ISa 7:10).
Một điều gây cho dân Ca-na-an bối
rối và sợ hãi là sự xuất hiện bất ngờ của cơn mưa như trú nước suốt mùa khô
theo truyền thống. Vì Si-sê-ra sẽ không sử dụng xe ngựa cho chiến trường nếu
ông nghi ngờ bất cứ thời tiết xấu nào, chúng ta có thể giả thuyết một cách an
toàn rằng cuộc chiến này đã được đánh suốt mùa khô tháng 6 đến tháng 9. Khi bạn
nhớ rằng thần Ba-anh của Ca-na-an là thần bão, bạn có thể thấy sự thay đổi bất
ngờ về thời tiết có thể ảnh hưởng ra sao đến dân Ca-na-an mê tín. Phải chăng
thần ba-anh của họ đã nghịch với họ? Phải chăng Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên
mạnh hơn Ba-anh? Nếu vậy, thì cuộc chiến hoàn toàn thất bại và điều khôn ngoan
nhất mà các binh lính có thể làm là chạy trốn.
Si-sê-ra
bị giết (Cac
4:17-23). trong khi Ba-rác và người của ông đang đuổi theo và giết những
người Ca-na-an chạy trốn, một số người trong xe ngựa và số khác đi bộ, thống
lãnh Ca-na-an là Si-sê-ra đang chạy để toàn mạng, có lẽ hướng đến Hát-so là nơi
an toàn. Nhưng sự mệt mỏi đã thắng thế ông, và theo định mệnh ông đến gần những
cái trại của Hê-be tại cây dẻ bộp Sa-na-im (c.11). Cây dẻ bộp nổi tiếng này nằm
trên biên giới Nép-ta-li (Gios 19:33),
khoảng 6 dặm phía Đông núi Tha-bô.
Vì Si-sê-ra biết rằng Hê-be và dân
tộc ông thân thiết với Gia-bin, nên nơi định cư này dường như là một nơi tốt
lành để dừng lại và nghỉ ngơi. Khi Gia-ên, vợ của Hê-be đi ra gặp Si-sê-ra và
mời ông vào trại của bà, thống lãnh Ca-na-an chắc chắn rằng cuối cùng đã được
an toàn. Xét cho cùng, trong nền văn hóa thời đó, không ai sẽ dám đi vào trại
của một người vợ trừ chồng nàng. Gia-ên đã cho ông ta sữa thay cho nước và rồi
trùm ông bằng một cái mền, và ông tin rằng ông đa tìm thấy một đồng minh đáng
tin cậy và có thể nghỉ ngơi trong sự bình an.
Nhưng Si-sê-ra đã phạm sai lầm bảo
Gia-ên nói dối nếu ai hỏi ông có ở đó chăng, là một người đàn bà khôn ngoan,
nàng kết luận rằng Si-sê-ra đang trốn khỏi chiến trường, nghĩa là dân Do Thái
đã thắng trận và gọng kềm Ca-na-an trên xứ đã bị bẽ gãy. Nếu nàng bảo vệ
Si-sê-ra nàng sẽ gặp rắc rối với dân Do Thái, bà con của nàng. Chắc chắn ai đó
đang đuổi Si-sê-ra, và bất cứ ai cũng sẽ không thỏa lòng cho đến khi nào thấy
thống lãnh chết.
Nhưng Si-sê-ra không có lý do gì để
nghi ngờ hiểm họa. Xét cho cùng, thị tộc của Hê-be thân thiết với dân Ca-na-an,
Gia-ên đã tỏ cho ông thấy sự hiếu khách và sự tử tế, và không có quân lính Do
Thái nào đang đuổi theo sẽ dùng vũ lực xông vào trại một người đàn bà. Điều
Si-sê-ra không biết đó là Đức Chúa Trời đã hứa rằng một người đàn bà sẽ cất
mạng sống ông (Cac 4:9).
Khi Si-sê-ra rơi vào giấc ngủ sâu.
Gia-ên đã giết ông ta bằng cách đóng một cái cọc lều vào đầu ông ta. Ở các chi
phái du mục phía Đông, chính đàn bà là người dựng và dỡ trại, vì vậy Gia-ên
biết cách sử dụng búa. Khi Ba-rác đến hiện trường, ông khám phá rằng kẻ thù của
ông đã chết và lời tiên tri của Đê-bô-ra đã ứng nghiệm. Đối với một thống lãnh,
chạy trốn khỏi một cuộc chiến là điều gây lúng túng, bị giết trong lúc chạy
trốn là điều sỉ nhục cho ông, nhưng bị giết bởi một người đàn bà là điều nhục
nhã hơn hết (9:54).
Chúng ta nên chúc phước hay khiển
trách Gia-ên về điều nàng đã làm. Nàng đã mời Si-sê-ra vào trại mình, đối xử
ông ta tử tế, và bảo ông ta đừng sợ, như vậy bà đã giả dối. Dân Kê-nít hòa hảo
với Gia-bin, vì vậy nàng đã phạm một hiệp ước. Nàng đã cho Si-sê-ra ấn tượng
rằng nàng sẽ canh giữ cửa, vì vậy nàng đã phá vỡ lời hứa. Nàng đã giết một
người không có sự bảo vệ, đang ở dưới sự bảo vệ của nàng, vì vậy nàng là một kẻ
giết người. Nhưng Đê-bô-ra đã hát, “Nguyện cho Gia-ên, vợ Hê-be người Kê-nít,
được phước giữa các người đàn bà! Nguyện người được phước giữa các người đàn bà
trong trại!” (5:34)
Trước hết chúng ta đừng đọc lại thời
đại các quan xét mà những tiêu chuẩn thuộc linh được dạy dỗ bởi Chúa Giê-xu và
các sứ đồ. Cũng vậy, chúng ta hãy nhớ rằng dân Do Thái đã ở dưới ách nô lệ kinh
khiếp vì Gia-bin và Si-sê-ra, và ý muốn Đức Chúa Trời là dân tộc được giải cứu.
Cả Gia-bin và Si-sê-ra đã phạm tội ngược đãi dân Do Thái hằng bao năm qua, và
nếu quân đội Ca-na-an thắng trận, hằng trăm người nữ Do Thái sẽ bị bắt và bị
cưỡng hiếp (c.30). Gia-ên không chỉ giúp giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi ách nô lệ, mà
nàng còn giúp bảo vệ những người phụ nữ khỏi sự tàn bạo đồi bại nhất. Nàng
không phải là một “nàng Macbeth” người Xê-mít đã giết khách của mình vì tư lợi.
Có một cuộc chiến đang tiếp diễn và người phụ nữ can đảm này cuối cùng ngưng
thái độ trung lập và đứng về phía dân sự Đức Chúa Trời.
5. Màn 5: một sự ca
tụng vinh quang (Cac 5:1-31)
Khi muốn tổ chức những dịp đặc biệt,
dân Do Thái thường bày tỏ chính mình bằng bài hát. Vì vậy tác giả chuyển từ bài
ca tụng thuộc lối văn ký thuật sang bài thơ hân hoan. Những thế hệ tương lai có
thể quên điều mà sách sử đã nói, nhưng họ có lẽ không quên một bài ca ngày hội
(Để có những ví dụ khác, xem Xu 15:1-27 Phu 32:1-52 IISa
1:17-27 Thi 18:1-50). Những đại danh
từ trong Cac 5:7,9,13 chỉ ra rằng đây là bài ca chiến thắng của
Đê-bô-ra, nhưng như Ba-rác đã tham gia với bà trong chiến trận, nên ông đã dự
phần với bà trong sự ca tụng chiến thắng.
Một bài thơ hay một bài ca không
phải là điều mà bạn dễ dàng có thể tóm tắt vì nó là một bày tỏ tự phát đầy xúc
cảm thường bất chất sự phân tích. Không giống như bài thơ cổ điển tiếng Anh.
Bài thơ tiếng Hê-bơ-rơ chứa đựng những chủ đề tái
hiện, được bày tỏ trong những cách khác nhau và sự trào dâng thường xuyên về sự
ngợi khen và cầu nguyện. Bố cục sau đây chỉ là một tiếp cận gợi ý về bài ca
chiến thắng uy nghi này.
Hãy
ngợi khen Chúa hỡi mọi người! (Cac 5:1-12). Trong Các c.1-9, Đê-bô-ra và ba-rác ngợi khen Chúa vì mọi điều
Ngài đã làm cho dân sự Ngài. Ngài ban sự hiệp nhất cho các quan trưởng để
Ba-rác có thể tập hợp một quân đội (c.2,9). Chính Đức Chúa Trời Đấng đã ban cho
Y-sơ-ra-ên chiến thắng trong quá khứ sẽ ban cho họ chiến thắng lần nữa (c.4-5).
Y-sơ-ra-ên đã bước vào một giao ước với Chúa tại núi Si-nai và Ngài sẽ làm trọn
những lời hứa của Ngài cho dân đặc biệt của Ngài. Vì những hoàn cảnh rất tồi tệ
trong xứ đến nỗi điều gì đó phải được thực hiện, Đức Chúa Trời đã dấy lên
Đê-bô-ra làm một người mẹ trong Y-sơ-ra-ên (c.6-9). Kẻ thù đã thắng thế vì dân
sự từ bỏ Giê-hô-va để thờ phượng các tà thần. Đê-bô-ra quan tâm về đời sống
thuộc linh của dân sự cũng như phúc lợi về vật chất và chính trị của họ. Hãy
chú ý rằng phân đoạn đầu này (c.2-9) bắt đầu và kết thúc bằng “Hãy ngợi khen
Đức Giê-hô-va” và “Đáng ngợi khen Đức Giê-hô-va”.
Theo câu 10,11 Đê-bô-ra
với Ba-rác đã mời đến những người quyền quý giàu có (“những người cỡi con lừa
bạch”) và những thường dân qua lại để gia nhập với những người ca hát tại các
giếng nước và ngợi khen Chúa về điều Ngài đã làm cho đạo quân của Gia-bin. Giờ
đây thật an toàn để đi trên những con đường, nhóm lại tại các giếng nước, và
nói chuyện nhàn nhã với nhau. Dân sự có thể rời khỏi các thành có tường bao bọc
nơi họ đã chạy đến để được sự bảo vệ và có thể trở về các làng mạc của mình
trong sự bình an. Đó là lúc để mọi dân Y-sơ-ra-ên ngợi khen Đức Chúa Trời vì
những sự thương xót của Ngài dành cho họ.
Khổ thơ ca ngợi này kết
thúc bằng một lời kêu gọi hành động (c.12). Đức Chúa Trời đã ra lệnh Đê-bô-ra
tỉnh thức và hát, còn Ba-rác phải tỉnh thức và tấn công kẻ thù. Bởi đức tin của
mình, Đê-bô-ra đã có thể hát trước khi chiến trận bắt đầu cũng như sau khi
chiến trận kết thúc.
Hãy
ngợi khen Chúa về những người tình nguyện (Cac 5:13-18). Đê-bô-ra biết ơn rằng dân sự đã sẵn sàng dâng
mình trong sự hầu việc Chúa (c.2,9) và những người quyền quý đã dự phần trong
việc tuyển mộ chiến sĩ từ các chi phái (c.13). Sáu chi phái đã hiệp nhất trong
việc sai đi những người tình nguyện. Trừ ra những người trong thành Mê-rô
(c.23), những người Nép-ta-li đã đáp ứng, người Sa-bu-lôn, Y-sa-ca,
Bên-gia-min, Ép-ra-im và Ma-na-se phía Tây cũng vậy (Maoki). Nhóm từ trong c.14
“những kẻ cầm cây bút của người viết “ (nghĩa đen là “cây phủ việt của một chi
phái”) có thể chỉ về những quan chức tuyển quân đã ghi tên những chiến sĩ. Họ
không phải là những “chiến sĩ mùa hè” nhưng là những người can đảm nghiêm túc
về việc đánh trận của Chúa.
Tuy nhiên, có bốn chi
phái không tình nguyện và dự phần đánh trận. Chi phái Ru-bên suy nghĩ lệnh động
viên nhưng cuối cùng đã ở nhà. Có thể họ xem
xét Phu 20:1-9 luật Y-sơ-ra-ên về chiến
trận, và xét lòng họ để thấy mình có đủ tư cách ra trận hay không. Vì Ma-na-se
phía Đông (Ga-la-át) được an toàn ở bên kia sông Giô-đanh, nên họ cũng ở nhà (Cac 5:17). Đan và A-se trên bờ biển cũng quyết
định không chú ý đến sự kêu gọi ra trận. Trái ngược với những người trốn tránh
trách nhiệm này, chi phái Sa-bu-lôn và Nép-ta-li đặc biệt được ca ngợi vì sự
liều mạng của họ trong sự hầu việc Chúa và quê hương họ (c.18).
Hãy nhớ rằng suốt thời kỳ này trong
lịch sử “mọi người làm điều đúng theo mắt mình” (21:28).
Khi Giô-suê là người chỉ huy các đội quân Y-sơ-ra-ên, mọi chi phái điều tham
gia, nhưng khi Ba-rác kêu gọi các lực lượng, chỉ có phân nửa trong số họ ra
trận chống lại Gia-bin. Dân sự Đức Chúa Trời ngày nay chẳng khác gì dân
Y-sơ-ra-ên khi có sự kêu gọi hầu việc của Đức Chúa Trời: một số tình nguyện
ngay và theo Chúa, một số liều mình, một số xem sự
kêu gọi là nghiêm túc nhưng nói không, và số khác nép mình như thể sự kêu gọi
chưa bao giờ được rao ra.
Hãy
ngợi khen Chúa về chiến thắng của Ngài (Cac 5:19-23). bày tỏ về nhiệm vụ một việc, và ra trận hoàn
toàn là một việc khác. Si-sê-ra đã dàn xếp một đồng minh các vua Ca-na-an, và
hai lực lượng hiệp nhất của họ (với chín trăm xe ngựa) gặp quân đội Do Thái tại
Mê-ghi-đô trên đồng bằng Jezreel. Vì đó là mùa khô trong năm những người đánh
xe ngựa mong tiêu diệt đội quân Y-sơ-ra-ên. nhưng Đức Chúa Trời có những kế
hoạch khác. Ngài giáng một cơn mưa bão dữ dội biến sông Ki-sôn thành một dòng
nước lũ chảy xiết và chiến trường biến thành một đầm lầy. Một giọt nước mưa là
một vật rất mỏng manh, nhưng nếu bạn kết hợp chúng với nhau đủ, bạn có thể đánh
bại một quân đội! Đội quân Y-sơ-ra-ên tin cậy Đức
Chúa Trời ban cho họ chiến thắng, vì đây là điều Ngài đã hứa (4:6-9).
Đê-bô-ra và Ba-rác đã không rủa sả dân Mê-rô, chính thiên sứ của Chúa đã làm điều đó. Chắc
Ba-rác đã lúng túng khi biết rằng một thành trong chi phái Nép-ta-li của ông đã
chối từ sai đi những người tình nguyện để giúp trong trận chiến quan trọng này.
Phillips Brooks đã nói trong một bài giảng nổi tiếng: “Mê-rô đại diện cho người
trốn trách nhiệm, vì họ sẵn sàng nhìn người khác tham gia những cuộc chiến của
đời sống, trong khi họ chỉ bước vào và hưởng lộc”. Hãy chú ý rằng tội lỗi của
họ không phải đơn giản là việc cứu viện Y-sơ-ra-ên, lại đã không giúp đỡ Chúa!
Hãy
ngợi khen Chúa về một người phụ nữ can đảm (Cac 5:24-31). Sự chúc
phước của Đê-bô-ra trên Gia-ên nhắc chúng ta về những lời của thiên sứ
Gáp-ri-ên với Ma-ri (Lu 1:42). Vì sự do dự
của Ba-rác, Đê-bô-ra tuyên bố rằng một người nữ sẽ có uy tín để giết thống lãnh
của đội quân thù địch (Cac 4:8-9). Nhóm từ
“bửa đầu hắn ra” trong c.26 không có nghĩa là nàng chém đầu hắn bằng một cây
búa và một cái cọc lều. Từ này có nghĩa là “ấn vào” hoặc “đập tan ra”. Với một
cú đánh, nàng đã đưa cái cọc lều xuyên qua màng tang của hắn, làm vỡ đầu hắn và giết chết hắn.
Sự mô tả về cái chết của
Si-sê-ra trong c.27 gây ấn tượng rằng ông đang đứng trong trại thì Gia-ên đập
ông và ông ngã chết tại chân nàng. Nhưng ông đang nằm ngủ thì ông bị giết
(c.18). Ở đây chúng ta có sự phóng túng nào đó về thơ Hê-bơ-rơ, nhưng cũng có
thể rằng trong sự hấp hối Si-sê-ra đã vùng dậy khỏi cửa trại và rồi ngã tại
chân nàng và tắt thở.
Người ca hát chuyển từ
việc mô tả cái chết của Si-sê-ra đến việc phác hoạ chân dung người mẹ của
Si-sê-ra đang chờ đợi sự trở về của con trai mình (c.28-30). Quả là một bức
tranh cảm động về sự hy vọng nơi không có hy vọng nào cả! Có biết bao người
ngày nay đang nhìn ra cửa sổ của những sự ngộ nhận và mong điều gì đó xảy ra,
là điều sẽ không bao giờ xảy ra. Si-sê-ra đã chết, ông sẽ không bao giờ trở về
nhà với tình yêu của mẹ ông lần nữa. Mẹ ông và những người hầu của bà cứ tự nhủ
và nói với nhau rằng mọi sự đều tốt đẹp, nhưng không phải vậy.
Lời
cầu nguyện sau cùng (c.31) so sánh kẻ thù của Chúa – giống như Si-sê-ra đi
vào sự tối tăm – với những người yêu mến Đức Chúa Trời, giống như mặt trời giữa
trưa. Trận chiến ở Mê-ghi-đô không chỉ là một sự xung đột giữa những đội quân
thù địch. Đó là một xung đột giữa thế lực của sự tối tăm và thế lực của sự
sáng. Chúng ta hoặc yêu mến Đấng Christ và bước đi trong sự sáng, hoặc chúng ta
là kẻ thù của Ngài và hư mất trong sự tối tăm.
Bức màn hạ xuống trên vở
kịch của chúng ta, nhưng tôi đoán rằng sự phân vai sẽ khiến bức màn vén lên nếu
con người đọc và nghiên cứu Kinh Thánh. “Vì bất cứ điều gì đã được chép trước
đều được chép vì sự học hỏi của chúng ta, để chúng ta nhờ sự nhịn nhục và sự
yên ủi của Kinh Thánh mà có hy vọng” (Ro 15:4 NKJV).
4. NGƯỜI CỦA ĐỨC CHÚA
TRỜI Ở MA-NA-SE (Cac 6:1-40)
Bạn có một khu vườn, và
bạn làm việc chăm chỉ trọn mùa xuân cùng mùa hè để làm cho khu vườn ấy kết quả
dư dật. Nhưng mỗi năm, ngay thời gian bạn chuẩn bị thu gặt trong vụ mùa, các
láng giềng của bạn tấn công và lấy đi sản phẩm của bạn bằng vữ lực. Điều này
tiếp diễn năm này sang năm khác và không có điều gì bạn có thể làm cho vấn đề
đó.
Nếu bạn có thể hình dung ra kịch bản đó, vậy bạn sẽ có ý niệm
nào đó về sự chịu khổ mà dân Do Thái đã kinh nghiệm mỗi vụ mùa khi dân Ma-đi-an
thực hiện những vụ cướp bóc hằng năm. Trong bảy năm, Đức Chúa Trời cho phép dân
Ma-đi-an và các đồng minh cướp phá “xứ đượm sữa và mật”, để dân sự trong cảnh
nghèo khổ cùng cực nhất.
Vào lần xâm lược thứ tám của dân
Ma-đi-an, Đức Chúa Trời đã kêu gọi một nông dân tại Ma-na-se tên là Ghê-đê-ôn
để trở thành người giải cứu dân sự Ngài. Ghê-đê-ôn khởi đầu sự nghiệp của ông
như một người có chút nhát gan (Cac 6:1-40),
sau đó ông trở thành một người chiến thắng (7:1-8:21)
và kết thúc sự nghiệp mình như một người dàn xếp (8:22-35).
Nhưng nhiều chỗ được dành cho Ghê-đê-ôn trong sách Các quan xét (100 câu) hơn
bất cứ vị quan xét nào khác; và Ghê-đê-ôn là quan xét duy nhất có những cuộc
đấu tranh cá nhân bằng đức tin của ông được ghi lại. Ghê-đê-ôn là một sự khích
lệ lớn cho những người có một thời gian khó khăn chấp nhận chính mình và tin
rằng Đức Chúa Trời có thể làm bất cứ điều gì từ họ và làm bât cứ điều gì với họ.
Nhưng trước khi Đức Chúa Trời có thể
sử dụng Ghê-đê-ôn trong sự hầu việc Ngài, Ngài phải giải quyết bốn sự nghi ngờ
gây tai hại cho ông và làm những trở ngại cho đức tin của ông. Những nghi ngờ
này có thể được bày tỏ trong 4 câu hỏi.
1. “Đức Chúa Trời có
thật sự quan tâm chúng tôi?” (Cac 6:1-13)
“Đức Giê-hô-va đã từ bỏ
chúng tôi!” là đáp ứng của Ghê-đê-ôn đối với sứ điệp của Chúa (c.13, NKJV).
Nhưng Chúa đã ban cho Y-sơ-ra-ên chứng cớ về sự quan tâm riêng tư của Ngài.
Ngài
đã sửa phạt họ (Cac 6:1-6) “Hỡi con, chớ khinh điều sửa phạt của Đức Giê-hô-va, chớ ghét
sự quở trách của Ngài, vì Đức Giê-hô-va yêu thương ai thì Ngài sửa dạy như một
người cha mà đứa con trai vui mừng trong người” (Ch
3:11-12 NKJV He 12:5-11). Charles
Spurgeon đã nói: “Chúa không cho phép con cái Ngài phạm tội một cách thành
công”. Đức Chúa Trời không phải là “người cha dễ dãi” cho phép con cái Ngài làm
điều họ thích, vì mục đích cuối cùng của Ngài là để họ có thể “trở nên giống
như hình ảnh của Con Ngài” (Ro 8:29). Cha
muốn có thể nhìn mỗi thành viên gia đình thuộc linh của Ngài và phán: “Này là
con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đàng” (Mat 3:17
12:18 17:5).
Sự sửa phạt là chứng cớ Đức Chúa
Trời ghét tội lỗi và Ngài yêu dân sự Ngài. Chúng ta không thể quan niệm về một
Đức Chúa Trời thánh khiết muốn bất cứ điều gì thấp kém hơn điều thật tốt đẹp
nhất của Ngài cho con cái Ngài và điều tốt nhất có thể ban cho chúng ta là một
tính cách thánh khiết giống như tính cách của Chúa Giê-xu Christ. Sự vâng phục
Chúa gây dựng tính cách, nhưng tội lỗi phá hoại tính cách, và Đức Chúa Trời
không thể ngồi nhàn nhã và xem con cái Ngài huỷ hoại chính chúng.
Y-sơ-ra-ên đã kinh nghiệm bốn mươi
ba năm chịu khổ dưới sự cai trị hà khắc của các dân tộc láng giềng, nhưng họ
vẫn chưa học bài học của mình và từ bỏ những hình tượng ngoại đạo. Nếu hoạn nạn
của chúng ta không dẫn đến sự ăn năn, nó chẳng thực hiện ích lợi lâu dài nào.
Và nếu sự ăn năn của chúng ta không phải là chứng cớ của một khao khát để từ bỏ
tội lỗi, chớ không chỉ thoát khỏi sự đau đớn, thì sự ăn năn chỉ là sự hối hận.
Sự sửa phạt bảo đảm cho chúng ta rằng chúng ta thật sự là con cái Đức Chúa
Trời, rằng Cha chúng ta yêu chúng ta và chúng ta không thể theo khỏi sự sửa
phạt bằng sự chống nghịch.
Dân Ma-đi-an tổ chức một
liên minh các quốc gia để xâm lược xứ (Cac 6:3) và tất cả những gì Y-sơ-ra-ên có thể làm
là chạy trốn lên các ngọn đồi và ẩn khỏi kẻ thù khi dân Do Thái trở về nhà trọ, họ chỉ thấy sự tàn phá, và họ phải
đối diện với năm sắp tới mà không có thức ăn đầy đủ.
Ngài
đã quở trách họ (Cac 6:7-10). Trước sự kiện này, một thiên cứ của Chúa, có lẽ là Con Đức Chúa Trời, đã đến Bô-kim
để quở trách Y-sơ-ra-ên về tội lỗi (2:1-5).
Và giờ đây một tiên tri vô danh đã đến để lặp lại sứ điệp. Thường trong Cựu Ước
khi Chúa lên án dân sự Ngài về sự bất tuân của họ, Ngài nhắc họ về cách kỳ diệu
Ngài đã giải cứu họ khỏi Ê-díp-tô. Ngài cũng nhắc họ về sự rộng rãi của Ngài
khi ban cho họ xứ và giúp họ chiến thắng các kẻ thù của họ. Nếu dân Do Thái
chịu khổ vì ách nô lệ ngoại bang, đó không phải là lỗi của Đức Chúa Trời! Ngài đã ban cho họ mọi thứ họ cần.
Khi bạn đọc các thư tín
Tân Ước, bạn không khỏi chú ý rằng các sứ đồ đã sử dụng cùng một phương cách
khi họ khuyên những tín đồ mà họ viết thư gởi đến. Các sứ đồ nhiều lần nhắc nhở các Cơ Đốc nhân đã cứu họ để họ có thể
sống vâng phục và hầu việc Chúa trung tín. Là con cái Đức Chúa Trời, họ phải
bước đi xứng đáng với sự kêu gọi cao trọng từ trên trời (Eph 4:1) và sống như những người đã được ngồi với
Đấng Christ trong vinh hiển (Co 3:1). Động
cơ để Cơ Đốc nhân sống không phải để chúng ta có thể được điều gì chúng ta
không có nhưng là để chúng ta có thể sống theo những gì chúng ta đã có trong
Đấng Christ.
Mục đích của sự sửa phạt là để khiến
con cái Đức Chúa Trời sẵn sàng lắng nghe Lời Đức Chúa Trời. Thường sau khi đánh
một đứa con, cha mẹ sẽ bảo đảm với đứa con một lần nữa về tình yêu của họ và
nhẹ nhàng khuyên đứa con lắng nghe điều họ nói và vâng theo. Đức Chúa Trời phán
với con cái Ngài qua tiếng phán yêu thương của Kinh Thánh hoặc qua bàn tay sửa
phạt nặng nề. Và nếu chúng ta phớt lờ lần đầu chúng ta phải chịu đựng lần thứ hai. Cách này hay cách khác, Chúa sẽ kéo sự chú ý của
chúng ta và đối phó với chúng ta.
Giờ đây Ngài ngự xuống để giúp họ (Cac 6:11-13). Dân sự đang kêu cầu Chúa để được giúp đỡ (Cac 6:7) như
dân sự thường làm khi họ gặp hoạn nạn. Dân Y-sơ-ra-en không bày tỏ chứng cớ nào
về sự ăn năn thật, nhưng sự khốn khổ của họ đã cảm động tấm lòng yêu thương của
Đức Chúa Trời. “Trong mọi sự khốn khổ của họ Ngài cũng khốn khổ” (Es 63:9). “Ngài không đãi chúng tôi theo tội lỗi
chúng tôi đáng lãnh hoặc trả chúng tôi theo sự gian ác của chúng tôi” (Thi 103:10 NKJV). Đức Chúa Trời trong sự thương
xót của Ngài, không cho chúng ta điều chúng ta đáng lãnh, và trong ân điển Ngài
ban cho chúng ta điều chúng ta không đáng nhận.
Khi bạn xem xét con người Ghê-đê-ôn
bấy giờ, bạn không hiểu vì sao Đức Chúa Trời chọn ông nhưng Đức Chúa Trời
thường chọn “những sự yếu của thế gian này” để thực hiện những việc lớn vì vinh
hiển Ngài (ICo 1:26-29). Gia đình của
Ghê-đê-ôn thờ phượng Ba-anh (Cac 6:25-32),
dù chúng ta không có lý do gì tin rằng Ghê-đê-ôn tham gia với họ, khi Ghê-đê-ôn
gọi ông là “nhỏ hơn hết trong nhà cha tôi” (c.15), ông có thể gợi ý rằng gia
đình ông đã đối xử với ông như một kẻ bị bỏ rơi vì ông đã không thờ phượng Ba-anh.
Ghê-đê-ôn không phải là một người có đức tin mạnh mẽ hay sự can đảm, và Đức
Chúa Trời đã phải kiên nhẫn làm việc với ông để chuẩn bị cho ông chức lãnh đạo.
Đức Chúa Trời luôn sẵn sàng khiến chúng ta trở nên loại người chúng ta cần nếu
chúng ta sẵn sàng đầu phục ý muốn Ngài (Eph 2:10
Phi 2:12-13).
Đáp ứng tiêu cực của Ghê-đê-ôn đối
với lời của Chúa cho thấy ông thiếu đức tin và nhận thức thuộc linh. Đây là Đức
Chúa Trời toàn năng đang cho ông biết rằng Ngài ở cùng ông và sẽ khiến ông trở
nên người chiến thắng, và Ghê-đê-ôn đáp đáp lại bằng cách phủ nhận mọi điều Đức
Chúa Trời đã phán! Đức Chúa Trời sẽ phải mất thời gian với Ghê-đê-ôn để biến
những dấu hỏi của ông thành những dấu chấm than. Ghê-đê-ôn đang sống bởi ngoại cảnh, không phải bởi đức tin, và nếu ông duy trì
cách đó, ông sẽ không bao giờ được kể tên trong số những anh hùng đức tin ở He 11:1-29.
2. “Đức Chúa Trời có
biết Ngài đang làm điều gì không?”(Cac 6:14-24)
Đáp ứng đầu tiên của
Ghê-đê-ôn là chất vấn sự quan tâm của Đức Chúa Trời đối với dân sự Ngài, nhưng
sau đó ông chất vấn sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời trong việc chọn ông làm
người giải cứu của dân tộc. Những tuyên bố của Chúa
được chép trong c.12 và c.14 lẽ ra đã cho Ghê-đê-ôn mọi sự đảm bảo ông cần,
nhưng ông không tin Lời Đức Chúa Trời. Trong điều này, ông giống như Môi-se (Xu 3:7-12), mà câu chuyện của người Ghê-đê-ôn chắc
chắn đã biết vì ông đã quen với lịch sử Hê-bơ-rơ (Cac
6:13).
Người ta thường nói rằng: “Những
điều răn của Đức Chúa Trời là những điều có thể làm được của Đức Chúa Trời”.
Một khi Đức Chúa Trời đã kêu gọi và giao nhiệm vụ cho chúng ta, mọi điều chúng
ta phải làm là vâng phục Ngài bằng đức tin, và Ngài sẽ làm phần còn lại. Đức
Chúa Trời không hề nói dối và Đức Chúa Trời không bao giờ thất bại. Đức tin
nghĩa là sự vâng lời Đức Chúa Trời bất chấp chúng ta nhìn thấy điều gì, cảm
thấy ra sao hoặc những hậu quả có thể là gì. Thế giới “thực dụng” ngày nay của
chúng ta cười vào đức tin mà không nhận biết rằng con người sống bởi đức tin
suốt cả ngày. Nhà văn hài hước John Billings đã viết gần một thế kỷ trước, “Nếu
không có đức tin, sẽ không có sự sống trên thế giới này. Chúng ta thậm chí
không thể thậm chí không thể ăn món thịt băm với sự an toàn”.
Nhận định của Ghê-đê-ôn về sự nghèo
nàn của gia đình ông gây một chút khó hiểu dưới ánh sáng của việc ông có 10 đầy
tớ giúp đỡ ông (c.27). Có thể là thị tộc A-bi-ê-xê-rít mà gia đình Ghê-đê-ôn
thuộc về thị tộc đó, không phải là một thị tộc quan trọng ở Ma-na-se, hoặc có
thể nhận định của Ghê-đê-ôn chỉ là cách nói tiêu chuẩn để đáp ứng với một lời
khen, như khi người ta thường ký tên vào bức thư của họ “Tôi tớ vâng phục của
Ngài”. Trong bất cứ sự kiện nào, Ghê-đê-ôn dường như nghĩ rằng Đức Chúa Trời
không thể làm được điều gì vì ông và gia đình ông chẳng là gì cả.
Một khi Đức Chúa Trời đã bày tỏ ý
muốn Ngài cho chúng ta, chúng ta đừng bao giờ chất vấn sự khôn ngoan của Ngài
hay lý luận với những kế hoạch của Ngài. “Ai biết ý tưởng Chúa? Hay ai là kẻ
bàn luận của Ngài?” (Ro 11:34 NIV Es 40:13 ICo 2:16).
“Ông há có thể dò xét những điều sâu nhiệm của Đức Chúa Trời? Ông có thể tìm ra
những giới hạn của Đấng toàn năng sao?” (Giop 11:7
NVI). A.W.Tozu đã viết: “Mọi hành động của Đức Chúa Trời được thực hiện trong
sự khôn ngoan trọn vẹn, trước hết vì vinh hiển Ngài, và sau đó vì ích lợi cao
nhất của số lượng lớn nhất cho thời gian dài nhất”. Điều đó đúng, chúng ta là
ai để chất vấn Ngài?
Khi bạn xem lại những lời hứa nhân
từ của Đức Chúa Trời đối với Ghê-đê-ôn, bạn không biết vì sao người trai trẻ
này dao động trong đức tin mình. Đức Chúa Trời đã hứa ở cùng ông. Đức Chúa Trời
đã gọi ông là một “người mạnh mẽ có lòng can đảm” và hứa rằng Ngài sẽ cứu
Y-sơ-ra-ên khỏi dân Ma-đi-an và đánh bại họ “như một người”. Lời Đức Chúa Trời
là “lời của đức tin” (Ro 10:8) và “đức tin
đến bởi sự nghe, và sự nghe bởi Lời Đức Chúa Trời” (Ro
10:17). Nhưng Ghê-đê-ôn đã không tiếp nhận lời đó và cần sự đảm bảo vượt
xa hơn tính cách của Đức Chúa Trời Toàn Năng.
Ghê-đê-ôn cầu xin một dấu hiệu để
bảo đảm với ông rằng thật sự Chúa đã phán với ông (ICo
1:22) và Chúa đã thích ứng với sự vô tín của Ghê-đê-ôn. Ghê-đê-ôn chuẩn
bị một của lễ, là một thứ đắt giá để thực hiện vào một thời điểm khi thực phẩm
khan hiếm. Một ê-pha bột mì khoảng nửa giạ (36 lít), đủ để làm bánh cho một gia
đình trong nhiều ngày. Có lẽ ông đã mất một giờ đồng hồ để làm thịt và chuẩn bị
những bánh không men, nhưng Đức Chúa Trời chờ đợi ông trở lại và sau đó thiêu
của lễ bằng cách gây lửa từ hòn đá.
Sự xuất hiện bất ngờ của lửa cùng sự
biến mất của vị khách khiến Ghê-đê-ôn tin rằng ông thật sự đã thấy Đức Chúa
trời và được nói chuyện với Ngài, và điều này làm ông hoảng sợ nhiều hơn. Vì
dân Do Thái tin rằng nhìn Đức Chúa Trời là định mệnh không tránh khỏi cái chết
đối với người tội lỗi, nên Ghê-đê-ôn tin chắc ông sẽ chết. Lòng người thật sự
dối trá Ghê-đê-ôn đã cầu xin một dấu hiệu, và sau khi nhìn thấy nó, ông chắc
rằng Đức Chúa Trời Đấng ban cho ông dấu hiệu giờ đây sẽ giết ông! Luôn có “niềm
vui và sự bình an trong đức tin” (Ro 15:13)
nhưng sự vô tín đem đến nỗi sợ hãi và lo lắng.
Đức Chúa Trời đã phải ban cho
Ghê-đê-ôn một sứ điệp về sự hoà bình để chuẩn bị cho ông đánh một chiến trận.
Nếu chúng ta không hoà bình với Đức Chúa Trời, chúng ta không thể đối diện với
sự tin quyết và chiến đấu những cuộc chiến của Đức Chúa Trời. Theo phong tục,
người Do Thái nhận biết sự kiện và những nơi chốn đặc biệt bằng cách dựng lên
những bia kỷ niệm. vì vậy Ghê-đê-ôn đã xây dựng một bàn thờ và gọi nó là
“Giê-hô-va là sự hòa bình”. Từ Hê-bơ-rơ cho “sự hòa bình” (Shalom) có nghĩa cao
hơn là một sự đình chiến nhưng mang theo nó những ý niệm về hạnh phúc, sức khoẻ
và sự thịnh vượng. Ghê-đê-ôn giờ đây tin Chúa có thể sử dụng ông, không phải vì
ông là ai, nhưng vì Đức Chúa Trời là ai.
Khi nào Đức Chúa Trời kêu gọi chúng
ta vào một nhiệm vụ mà chúng ta nghĩ nó quá tầm của mình, chúng ta phải thận
trọng nhìn lên Chúa chớ không phải bản thân mình. Đức Chúa Trời đã hỏi
Áp-ra-ham “Há điều chi quá khó đối với Đức Giê-hô-va chăng?” (Sa 18:14) và câu trả lời là “Vì với Đức Chúa Trời,
không việc chi sẽ không thể làm được” (Lu 1:39).
Gióp đã khám phá rằng Đức Chúa Trời có thể làm được mọi sự (Giop 42:2) và Giê-rê-mi thừa nhận rằng không điều
gì quá khó đối với Đức Chúa Trời (Gie 32:17).
Chúa Giê-xu đã bảo các môn đồ Ngài: “Với Đức Chúa Trời, mọi việc có thể làm
được” (Mat 19:26) và Phao-lô đã làm chứng
rằng “Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng Christ ban thêm sức cho tôi” (Phi 4:13 NKJV).
3. “Đức Chúa Trời sẽ
chăm sóc tôi ư?” (Cac 6:24-32)
Ghê-đê-ôn đã có một ngày
ra sao sau cuộc gặp gỡ Chúa đầy kịch tính của ông? Hãy nhớ, ông thuộc về một
gia đình thờ Ba-anh, và nếu ông thách thức dân Ma-đi-an trong danh Đức
Giê-hô-va, điều đó có nghĩa là coi thường cha ông, gia đình ông, láng giềng ông
và vô số người trong Y-sơ-ra-ên đang thờ Ba-anh. Tôi đoán rằng Gê-đê-ôn đã có
những thăng trầm về cảm xúc trong ngày ấy, vui mừng rằng Đức Chúa Trời đang
vạch kế hoạch giải cứu Y-sơ-ra-ên, nhưng run sợ về ý nghĩ được kể là người lãnh
đạo quân đội.
Biết rằng Ghê-đê-ôn vẫn
sợ hãi, Đức Chúa Trời đã giao cho ông một nhiệm vụ tại nhà để cho ông thấy rằng
Ngài sẽ giúp ông vượt qua khó khăn. Xét cho cùng, nếu chúng ta không thực hành
đức tin tại gia đình, làm sao chúng ta có thể thực hành nó cách thành thật ở
bất cứ nơi nào khác? Ghê-đê-ôn đã phải giữ lập trường của ông trong làng của
ông trước khi ông dám đối diện với kẻ thù trên chiến trường.
Trước khi Đức Chúa Trời
ban cho các tôi tớ Ngài những chiến thắng lớn trước công chúng, Ngài đôi khi
chuẩn bị cho họ bằng cách ban cho họ những chiến thắng nhỏ hơn tại gia đình.
Trước khi Đa-vít giết Gô-li-át khổng lồ trước mặt hai đạo quân, ông đã học tin
cậy Đức Chúa Trời bằng cách giết một sư tử và một con gấu trong đồng nơi không
ai nhìn thấy ngoài Đức Chúa Trời (ISa 17:32-37). Khi chúng ta chứng tỏ rằng chúng ta
trung tín trong một số việc nhỏ, Đức Chúa Trời sẽ giao phó chúng ta những việc
lớn hơn (Mat 25:21).
Sự giao việc không phải là một điều
dễ dàng. Đức Chúa Trời bảo ông phá hủy bàn thờ dành cho Ba-anh, xây một bàn thờ
cho Chúa và hy sinh một trong những con bò tơ quý giá của cha ông, sử dụng gỗ
của cột tượng A-sê-ra làm nhiên liệu. Các bàn thờ Do Thái được làm băng những
cục đá chưa cắt và đơn giản, nhưng các bàn thờ Ba-anh rất tỉ mỉ và cạnh bàn thờ
là một trụ gỗ (“rừng cây” Cac 6:26 “cột trụ
A-sê-ra” NIV) được dành cho nữ thần A-sê-ra mà sự thờ phượng có liên quan đến
những hành động đê hèn không thể tả xiết vì các bàn thờ cho Ba-anh được xây
trên những nơi cao, nên sẽ khó khăn để vâng theo những mệnh lệnh của Đức Chúa
Trời mà không gây chú ý.
Ghê-đê-ôn đã có mọi quyền để hủy
diệt sự thờ phượng Ba-anh vì đây là điều Đức Chúa Trời đã ra lệnh trong luật
pháp Ngài (Xu 34:12-13 Phu 7:5). Vì vấn đề đó, ông có quyền để ném đá mọi
người có liên quan trong việc thờ phượng Ba-anh (Phu
13:1-18), nhưng Đức Chúa Trời không kể đến điều đó trong những lời chỉ
dạy của Ngài.
Ghê-đê-ôn quyết định vâng lời Chúa
vào ban đêm khi làng đang ngủ. Điều này cho thấy sự sợ hãi của ông (Cac 6:27). Ông không chắc Đức Chúa Trời có thể
hoặc sẽ giúp ông vượt khó khăn. “Sao các ngươi sợ hãi như thế? Các ngươi không
có đức tin sao? (Mac 4:40 NKJV). “Này, Đức
Chúa Trời là sự cứu rỗi tôi, tôi sẽ tin cậy và không sợ hãi” (Es 12:2 NKJV). Sau mọi sự khích lệ Đức Chúa Trời
đã dành cho ông, đức tin của Ghê-đê-ôn lẽ ra phải mạnh mẽ, nhưng trước khi
chúng ta xét đoán ông, chúng ta nên nhìn chính mình và xem mức độ chúng ta tin
cậy Chúa.
Đáng chú ý rằng những tín đồ thật
không thể xây một bàn thờ cho Chúa nếu họ không trước tiên đánh sập các bàn thờ
mà họ đã xây cho các tà thần được họ thờ phượng. Đức Chúa Trời của chúng ta là
một Đức Chúa Trời ghen tương (Xu 20:5) và sẽ
không chia sẻ vinh hiển Ngài hay tình yêu của chúng ta với ai khác. Ghê-đê-ôn
đã xây bàn thờ riêng của ông cho Chúa cách bí mật (Cac
6:24), nhưng giờ đây ông phải giữ lập trường mình, và phải làm điều đó
mà không có sự thương lượng. Trước khi ông có thể tuyên chiến trên Ma-đi-an,
ông phải tuyên chiến trên Ba-anh.
Khi 10 người khác dự phần vào, không
dễ giữ cho những kế hoạch của bạn được bí mật, vì vậy không bao lâu thì cả
thành đều đã biết rằng Ghê-đê-ôn là người hủy phá những hình tượng của cha ông.
Những người trong thành xem đây là một sự vi phạm đáng chết và muốn giết
Ghê-đê-ôn (theo luật pháp Đức Chúa Trời, chính những kẻ thờ hình tượng phải bị
giết! Phu 13:6-9). Ghê-đê-ôn dĩ nhiên không
biết điều gì sẽ xảy đến với ông, nhưng Đức Chúa Trời chứng minh chính Ngài có
thể giải quyết hoàn cảnh.
Giô-ách, cha của Ghê-đê-ôn, có mọi
lý do để giận dữ con trai ông Ghê-đê-ôn đã đập phá bàn thờ của cha ông dành cho
Ba-anh và thế vào bằng một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va. Ông đã hy sinh con bò đực
quý giá của cha ông cho Chúa và đã sử dụng cột trụ A-sê-ra thiêng liêng làm
nhiên liệu (Es 44:13-20). Nhưng Đức Chúa
Trời đã hành động trong lòng Giô-ách đến nỗi ông bênh vực Ghê-đê-ôn trước đám
đông trong thành và thậm chí sỉ nhục Ba-anh! Giô-ách đã hỏi: “Ba-anh là thần nào
mà hắn thậm chí không thể tự bảo vệ mình?” (Ê-li sẽ sử dụng cách tiếp cận tương
tự những năm sau đó, xem IVua 18:27).
Giô-ách hỏi: “Ba-anh là thần nào mà hắn thậm chí không thể biện hộ cho việc
kiện của chính mình?”. Bởi điều này, dân trong thành đã cho Ghê-đê-ôn biệt hiệu
“Giê-ru-ba-anh” nghĩa là “hãy để Ba-anh tranh luận” hoặc “được địch thủ của
Ba-anh”.
Thế gian vô tín thường gán những
biệt danh thấp hèn cho những tôi tớ trung tín của Đức
Chúa Trời. D.L.Moody được biết như “Moody điên” khi ông xây dựng Trường Chủ
Nhật nổi tiếng của mình ở Chicago, nhưng không ai sẽ gọi ông như thế ngày hôm
nay, và Charles Spurgeon thường bị đả kích và biếm họa trong báo chí Anh quốc.
Nếu chúng ta bị gán cho những biệt danh vì chúng ta tôn trọng danh Chúa Giê-xu,
vậy hãy mang lấy chúng như những huy chương và tiếp tục làm vinh hiển Ngài.
Ghê-đê-ôn đã học một bài
học quý giá ngày ấy, nếu ông vâng lời Chúa, thậm chí với sự sợ hãi trong lòng,
Chúa sẽ bảo vệ ông và được sự vinh hiển, Ghê-đê-ôn cần nhớ điều này khi ông tập
hợp đội quân của ông và chuẩn bị tấn công kẻ thùc
4. “Đức Chúa Trời có
giữ những lời hứa của Ngài chăng?” (Cac 6:33-40)
Dân Ma-đi-an và các đồng minh thực
hiện cuộc xâm lược hằng năm vào thời gian đó khi hơn một trăm ba lăm ngàn người
(8:10 7:12)
đi vào trũng Gít-rê-ên. Đó là thời gian cho Ghê-đê-ôn hành động, và Thánh Linh
Đức Chúa Trời đã ban cho ông sự khôn ngoan cùng sức mạnh ông cần (Cac 3:10 11:29 13:25 14:6,19 15:4). Khi chúng ta tìm cách thực hiện ý muốn Đức
Chúa Trời, Lời Ngài dành cho chúng ta luôn là “chẳng phải bởi quyền thế, cũng
chẳng bởi năng lực, nhưng bởi thần ta” (Xa 4:6).
Khi một nhóm mục sư Anh quốc bàn
luận về tính thích hợp của việc mời nhà truyền giáo D.L.Moody đến thành phố họ
vì chiến dịch, một người hỏi “Tại sao phải là Moody? D.L.Moody có một sự độc
quyền về Thánh Linh sao?” Một trong những mục sư ôn tồn đáp “Không phải, nhưng
rõ ràng là Thánh Linh có một sự độc quyền trên D.L.Moody”.
Ghê-đê-ôn thổi kèn trước tiên trong
thành quê hương mình, và những người A-bi-ê-xê-rít tập hợp đằng sau ông. Cuộc
cải cách của Ghê-đê-ôn trong thành thật sự đã thực hiện điều gì đó! Sau đó, ông
sai các sứ giả đi khắp chi phái Ma-na-se của ông cũng như các chi phái A-se,
Sa-bu-lôn và Nép-ta-li lân cận. Bốn chi phái này ở gần trũng Gít-rê-ên, và vì
vậy đội quân xâm lược ảnh hưởng đến họ nhiều nhất. Do
đó với sự kêu gọi của Ghê-đê-ôn, ba mươi hai ngàn người đã hưởng ứng.
Nhưng ba mươi hai ngàn người có cơ hội nào chống lại một đội quân một trăm ba mươi
lăm ngàn người cùng vô số lạc đà? (Cac 7:12).
Đây là sự đề cập đầu tiên trong Kinh Thánh về những lạc đà được sử dụng trong
chiến trận, và chắc chắn chúng sẽ cho người cỡi tốc độ và sự linh động trên
chiến trường. Dân Do Thái bị lấn át và chắc chắn sẽ bị thua chiến thuật, trừ
một điều: Giê-hô-va Đức Chúa Trời ở bên cạnh họ, và Ngài hứa ban cho họ chiến
thắng.
Tuy nhiên, Ghê-đê-ôn đã nghi ngờ lời
hứa của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời có thật sự muốn ông lãnh đạo đội quân
Y-sơ-ra-ên? Ông biết gì về chiến trận? Xét cho cùng,
ông chỉ là một nông dân bình thường, và có những người khác trong những chi
phái có thể thực hiện một công việc tốt hơn. Vì vậy trước khi chỉ huy cuộc tấn
công, ông xin Đức Chúa Trời ban cho ông hai dấu hiệu nữa.
Nhóm từ, “vắt lốt chiên”
là một nhóm từ quen thuộc trong những nhóm tôn giáo. Nó có nghĩa là cầu xin Đức
Chúa Trời hướng dẫn chúng ta một trong một quyết định bằng cách thực hiện điều
kiện nào đó do chúng ta đặt ra. Trong chức vụ mục sư của tôi, tôi thấy nhiều
hạng người đã đặt chính mình vào sự rắc rối bằng cách “vắt lối chiên”. Nếu họ nhận
được một cú điện thoại vào một giờ nhất định nào đó từ một người nhất định nào
đó, thì Đức Chúa Trời đang bảo họ làm điều này, hoặc nếu thời tiết thay đổi tại
một thời điểm nhất định nào đó, thì Đức Chúa Trời đang bảo họ làm điều gì khác.
“Vắt lốt chiên” không
phải là một phương pháp của Kinh Thánh để xác định ý muốn Đức Chúa Trời. Đúng
hơn, đó là một phương cách được sử dụng bởi những người như Ghê-đê-ôn là người
thiếu đức tin để tin cậy Đức Chúa Trời làm
điều Ngài đã phán rằng Ngài sẽ làm. Hai lần Ghê-đê-ôn nhắc Đức Chúa Trời về
điều Ngài đã phán (Cac 6:36-37), và hai lần
Ghê-đê-ôn yêu cầu Đức Chúa Trời tái xác định những lời hứa của Ngài bằng một
phép lạ. Việc Đức Chúa Trời hạ mình trước sự yếu đuối của Ghê-đê-ôn chỉ chứng
minh rằng Ngài là một Đức Chúa Trời nhân từ Đấng hiểu chúng ta được dựng nên ra
sao (Thi 103:14). Chúng ta là ai để cho Đức
Chúa Trời biết những điều kiện nào Ngài phải đáp ứng, đặc biệt khi Ngài đã phán
với chúng ta qua Lời Ngài? “Vắt lốt chiên” không chỉ là một chứng cớ về sự vô
tín của chúng ta, nhưng đó cũng là một chứng cớ về sự kiêu ngạo của chúng ta.
Đức Chúa Trời phải làm điều tôi bảo Ngài làm trước khi tôi sẽ làm điều Ngài bảo
tôi làm!
Gê-đê-ôn đã trải qua hai ngày chơi
trò chơi lốt chiên với Đức Chúa Trời tại sân đạp lúa.Đêm thứ nhất, ông đề nghị
Đức Chúa Trời làm cho lốt chiên ướt nhưng giữ cho đất khô (trong sự kiện này
Kinh Thánh sử dụng “dân” và “đất” có thể thay thế nhau) và Đức Chúa Trời đã làm
điều đó. Đêm thứ hai, cuộc thử nghiệm khó hơn nhiều, vì ông muốn sân đạp lúa bị
ướt nhưng lốt chiên khô. Đất của một sân đạp lúa thường rất cứng và thường sẽ
không bị ảnh hưởng nhiều bởi sương. Nhưng sáng hôm sau, Ghê-đê-ôn thấy lốt
chiên khô nhưng đất ướt.
Không có gì để Ghê-đê-ôn làm ngoài
việc đương đầu với kẻ thù và tin cậy Đức Chúa Trời để được chiến thắng. “Và đây
là sự chiến thắng, thắng hơn thế gian là đức tin của chúng ta” (IGi 5:4 NKJV).
5. ĐỨC TIN LÀ SỰ CHIẾN
THẮNG ( (Cac 7:1-25)
Tôi không nhớ nhiều
những sứ điệp ở nhà thờ nhỏ từ các năm khi tôi còn là một sinh viên thần học,
nhưng Vance Havner đã trình bày một sứ điệp đã ở cùng tôi và thường khích lệ
tôi. Nói từ He
11:43 ông cho chúng ta biết rằng vì Môi-se là người có đức tin, ông có
thể “nhìn thấy những điều không thể thấy, chọn những điều không thể hư mất và
làm những điều không thể làm được”. Tôi cần sứ điệp ấy lúc bấy giờ và vẫn cần
nó hôm nay.
Điều đúng với Môi-se hằng thế kỷ
trước có thể đúng đối với dân sự Đức Chúa Trời ngày nay, nhưng những người nam
người nữ có đức tin dường như rất ít. Cho dù Hội Thánh của chúng ta được biết
là gì ngày nay, chúng đặc biệt không được dí dởm đã nói: “Hội Thánh thường được
biết về những việc thiện, nhưng ngày nay nó được biết nhiều hơn về những sự cấm
cố xấu xa.
“Vì hễ sự gì sanh bởi đức Chúa Trời
thì thắng hơn thế gian. Và đây là sự chiến thắng thắng hơn thế gian - đức tin
của chúng ta” (IGi 5:4 NKJV), Cơ Đốc nhân
hoặc bị chiến thắng bởi sự vô tín của mình, hoặc chiến thắng bởi đức tin mình.
Và hãy nhớ, đức tin không tuỳ thuộc vào cách chúng ta cảm nhận điều chúng ta
thấy hoặc điều gì có thể xảy ra. Nhà thơ giáo phái Quaker (phái giáo hữu) john
Greenleaf Whittier diễn tả phương diện này trong “My soul and I” (Linh hồn của
tôi và tôi):
“Không có gì phía trước,
không có gì phía sau.
Những bước của đức tin
Đặt trên chỗ dường như
trống rỗng
Và tìm thấy đá phía dưới
Đá đó là Lời Đức Chúa
Trời”
Câu chuyện quen thuộc và
hứng thú về chiến thắng kỳ diệu của Ghê-đê-ôn trên dân Ma-đi-an thật sự là một
câu chuyện về đức tin trong hành động và nó bày tỏ cho chúng ta ba nguyên tắc
quan trọng của đức tin. Nếu chúng ta muốn làm những người chiến thắng, chớ
không phải bị chiến thắng, chúng ta cần hiểu và áp dụng những nguyên tắc này.
1. Đức Chúa Trời thử
nghiệm đức tin chúng ta (Cac 7:1-8)
Một đức tin không thể
được thử nghiệm thì không thể tin cậy được. Rất thường điều mà con người nghĩ
là đức tin thì thật sự chỉ là một “xúc cảm nồng nhiệt mờ nhạt” về đức tin hoặc
có thể chỉ là “đức tin trong đức tin”. Tôi nhớ đã dự một cuộc họp hội đồng về
chức vụ quốc tế, thì một trong những thành viên hội đồng đã nói một cách nhiệt
tình: “Chúng ta đơn giản sẽ phải bước ra bởi đức tin!” Thành viên hội đồng khác
ôn tồn hỏi: “Đức tin của ai?” Câu hỏi đó khiến cho tất cả chúng ta dò xét lòng
mình.
J.G.Stipe đã nói rằng
đức tin giống như một bàn chải đánh răng: Mọi người nên có một cái và sử dụng
nó thường xuyên nhưng không an toàn để sử dụng cái của người khác. Chúng ta có
thể hát lớn về “đức tin của tổ phụ chúng ta”, nhưng chúng ta không thể thực
hành đức tin của tổ phụ chúng ta. Chúng ta có thể đi theo những người nam người
nữ có đức tin và dự phần trong những kỳ công của họ, nhưng chúng ta không thể
thành công trong đời sống cá nhân mình bằng cách lệ thuộc vào đức tin của ai
khác.
Đức Chúa Trời thử nghiệm
đức tin chúng ta vì ít nhất hai lý do. Thứ nhất, để cho chúng ta thấy đức tin
chúng ta là thật hay giả, và thứ hai để củng cố đức tin chúng ta cho những
nhiệm vụ Ngài đã đặt trước mặt chúng ta. Tôi để ý trong đời sống và chức vụ của
tôi rằng Đức Chúa Trời thường để chúng ta đi qua thung lũng của cuộc thử nghiệm
trrước khi cho phép chúng ta lên đến đỉnh núi của sự chiến thắng. Spurgeon đã
đúng khi ông nói rằng những lời hứa của Đức Chúa Trời chiếu sáng nhất trong lò
lửa của hoạn nạn, và chính trong việc tuyên bố những lời hứa đó mà chúng ta đạt
đến chiến thắng.
Sự
chọn lọc thứ nhất (Cac 7:1-3). Đức Chúa Trời thử nghiệm đức tin Ghê-đê-ôn
bằng cách chọn lọc đội quân ba mươi ngàn người tình nguyện của ông cho đến khi
chỉ ba trăm người còn để lại. Nếu đức tin Ghê-đê-ôn ở nơi tầm cỡ của đội quân
ông. Vậy đức tin ông sẽ rất yếu đuối vào lúc Đức Chúa Trời ở với họ! Chưa đến
1% của ba mươi hai ngàn người ban đầu cuối cùng theo Ghê-đê-ôn đến chiến
trường. Những lời của Winston Churchill nói về RAF trong Đệ nhị thế chiến chắc
chắn áp dụng cho con số 300 của Ghê-đê-ôn: “Chưa bao giờ trong lãnh vực xung
đột của con người lại quá ít người được mang ơn đối với nhiều người”.
Đức Chúa Trời đã cho
Ghê-đê-ôn biết vì sao Ngài giảm tầm cỡ của quân đội: Ngài không muốn các chiến
sĩ khoe khoang rằng họ đã giành chiến thắng trên dân Ma-đi-an. Những chiến
thắng đạt được bởi đức tin đem đến vinh hiển cho Đức Chúa Trời vì không ai có
thể giải thích chúng đã xảy ra thế nào. Tiến sĩ Bob Cook thường nhắc nhở chúng
ta”. Nếu bạn có thể giải thích điều gì đang diễn tiến trong chức vụ của bạn,
vậy Đức Chúa Trời đã không làm điều đó”. Khi tôi hầu việc trong nhóm “Youth for
Christ” (Tuổi trẻ cho Đấng Christ), tôi thường nghe những người hướng dẫn cầu
nguyện “Lạy Chúa, xin hãy giữ nhóm ‘tuổi trẻ cho Đấng Christ’ trên một nền tảng
phép lạ”. Điều đó nghĩa là sống bởi đức tin.
Rất thường, chúng ta giống như vua
Ô-xia là người “được giúp đỡ cách lạ thường, cho đến trở nên cường thạnh. Nhưng
khi người trở nên cường thânh, lòng người nổi lên sự bại hoại” (IISu 26:15-16). Những người sống bởi đức tin biết
sự yếu đuối của chính mình càng hơn khi họ nhờ cậy năng lực Đức Chúa Trời. “Vì
khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ” (IICo
12:10).
Khi bảo những chiến sĩ sợ hãi trở về
nhà, Ghê-đê-ôn đơn giản là vâng theo luật pháp Môi-se đã ban từ đầu: “Có người
nào sợ và nhát: Hãy để người ấy đi và trở về nhà mình, kẻo lòng của anh em
người yếu đuối như lòng người” (Phu 20:8
NKJV). G.Campbell Morgan đã nói: “Người sợ hãi và run rẩy, Đức Chúa Trời không
thể sử dụng. Sự rắc rối ngày nay đó là người sợ hãi và run rẩy cứ khăng khăng ở
lại trong quân đội. Một sự giảm bớt mà sàng lọc hàng ngũ của Hội Thánh những
người sợ hãi và run rẩy là một lợi ích đầy ân điển và vinh hiển” (c.1).
Sự kiêu ngạo sau cuộc chiến cướp đi
của Đức Chúa Trời sự vinh hiển, và nỗi sợ hãi suốt cuộc chiến cướp đi của những
chiến sĩ Đức Chúa Trời sự can đảm và sức mạnh. Sự sợ hãi có một con đường lan
truyền, và một chiến sĩ rụt rè có thể gây thiệt hại hơn toàn bộ một đại đội của
địch quân. Sự sợ hãi sẽ thắng đức tin và chúng ta sẽ rút lui hoặc cùng một tấm
lòng. Hoặc sự sợ hãi sẽ thắng đức tin và chúng ta sẽ rút lui, hoặc đức tin sẽ
thắng sự sợ hãi và chúng ta sẽ đắc thắng. John Wesley có thể đã nghĩ đến đội
quân của Ghê-đê-ôn khi ông nói “Hãy cho tôi trăm người chẳng sợ điều gì ngoài
tội lỗi và chẳng yêu mến điều gì ngoài Đức Chúa Trời,
thì tôi sẽ làm lay động các cửa địa ngục!”.
Sự
chọn lọc thứ hai (Cac 7:4-8). Đức Chúa Trời đặt mười
ngàn người còn lại của Ghê-đê-ôn vào một cuộc thử nghiệm thứ hai bằng cách yêu
cầu tất cả họ uống nước ở dưới sông. Chúng ta chẳng bao giờ biết khi nào Đức
Chúa Trời đang thử nghiệm chúng ta trong từng trải bình thường nào đó của đời
sống. Tôi nghe về một mục sư lãnh đạo là người luôn đi xe chung với một thành
viên trong ban mục sư tương lai trong xe của người khác, chỉ để xem chiếc xe có
ngăn nắp và người ấy có lái cẩn thận hay không, không biết sự ngăn nắp cùng
những thói quen lái xe cẩn thận có luôn là một sự bảo đảm về thành công trong
chức vụ hay không, là điều có thể tranh luận, nhưng bài học đáng được xem xét.
Có hơn một người làm việc trong tương lai đã phá hỏng những cơ hội của mình về
một việc làm trong khi dùng bữa với ông chủ, mà không nhận biết mình đang được
đánh giá. “Hãy làm cho mọi cơ hội của bạn trở nên một cơ hội lớn, vì bạn không
bao giờ xác định khi nào ai đó có thể sẽ xem xét tiêu chuẩn của bạn cho một vị
trí lớn hơn”. Lời ấy được nói bởi một người tên Marsden, và tôi đã có sự trích
dẫn, giờ đây màu vàng với tuổi tác, vở dưới mặt kính trên bàn làm việc của tôi
từ nhiều năm. Việc suy gẫm nó từng lúc đã gây ích lợi cho tôi.
Có ý nghĩa gì qua hai
cách khác nhau mà những người nam uống nước ở sông? Vì Kinh Thánh không cho
chúng ta biết, chúng ta nên khôn ngoan để đừng hiểu bản văn như là bài học
thuộc linh nặng ký nào đó mà Đức Chúa Trời không bao giờ đặt ở đó. Đa số những
người trình bày nói rằng những người cúi xuống uống nước để bị kẻ thù tấn công,
trong khi ba trăm người liếm nước từ tay có sự cảnh giác. Nhưng kẻ thù ở xa bốn
dăm (c.1), chờ xem điều dân Do Thái sẽ làm, và Ghê-đê-ôn sẽ không dẫn người của
ông vào một hoàn cảnh nguy hiểm như thế. Một mục sư nổi tiếng tuyên bố rằng ba
trăm người uống nước như thế để họ có thể chú ý Ghê-đê-ôn, nhưng bản văn không
nói vậy.
Tôi cho rằng Đức Chúa
Trời chọn phương pháp này để chọn lọc quân đội vì nó đơn giản, khiêm tốn (không
chiến sĩ nào biết mình đang được thử nghiệm), và dễ áp dụng. Chúng ta đừng nghĩ
rằng tất cả mười ngàn người uống nước một lúc, vì việc đó sẽ kéo đội quân dài
ra dọc mé nước đến hai dặm. Vì những người này chắc chắn đến mé nước theo các
nhóm, Ghê-đê-ôn có thể quan sát họ và nhận ra ba trăm người. Mãi cho đến sau sự
kiện này những người ấy mới phát hiện mình đã được thử nghiệm.
“Không có hạn chế nào
đối với Đức Giê-hô-va để cứu nhiều người hay ít người” (ISa 14:6). Một số Hội Thánh ngày nay bị mê hoặc
bởi những con số thống kê và nghĩ họ mạnh mẽ vì họ đông và giàu có, nhưng số
lượng không phải là sự đảm bảo về phước hạnh của Đức Chúa Trời. Môi-se đã đảm
bảo với dân Do Thái rằng nếu họ vâng lời Chúa, thì một chiến sĩ có thể đánh
đuổi một ngàn người và hai chiến sĩ sẽ “đuổi mười ngàn người trốn đi” (Phu 32:30). Mọi điều Ghê-đê-ôn cần là hai mươi bảy
chiến sĩ đánh bại toàn bộ đạo quân Ma-đi-an một trăm ba mươi lăm người (Cac 8:10), nhưng Đức Chúa Trời đã ban cho ông ba
trăm người.
Rõ ràng theo 7:14 thì dân Ma-đi-an đã biết Ghê-đê-ôn là ai, và chắc chắn họ
đang theo dõi điều ông sẽ làm. Tôi thường tự hỏi những thám tử kẻ thù nghĩ gì
khi họ thấy đội quân Do Thái có vẻ như ly khai. Điều đó phải chăng khiến cho
dân Ma-đi-an quá tự tin và do đó thiếu thận trọng? Hoặc phải chăng những lãnh
đạo của họ trở nên thậm chí và do đó thiếu thận trọng? Hoặc phải chăng những
lãnh đạo của họ trở nên thậm chí cảnh giác hơn, không biết Ghê-đê-ôn có đang
đưa họ ra làm một bài bản chiến lược đầy mưu mẹo hay không?
Đức Chúa Trời đầy nhân từ đã ban cho
Ghê-đê-ôn một lời hứa nữa về sự chiến thắng: “Ta sẽ dùng ba trăm người đã liếm
nước đó mà giải cứu các ngươi” (c.7). Bằng cách tuyên bố lời hứa này và vâng
theo những sự chỉ dẫn của Chúa, Ghê-đê-ôn đã đánh bại kẻ thù và đem hòa bình
đến cho xứ trong bốn mươi năm (8:28).
Những chiến sĩ đã ra đi để lại một
số trang bị của họ với ba trăm người, do đó mỗi người có thể có một cây đuốc,
một cái kèn và một cái bình những vũ khí kỳ lạ thật sự cho việc đánh một cuộc
chiến.
2. Đức Chúa Trời khích
lệ đức tin chúng ta (Cac
7:9-15a)
Đức Chúa Trời muốn Ghê-đê-ôn và ba
trăm người của ông tấn công trại quân Ma-đi-an vào ban đêm, nhưng trước hết
Ngài phải giải quyết sự sợ hãi vẫn còn dai dẳng trong lòng Ghê-đê-ôn. Đức Chúa
Trời đã bảo với Ghê-đê-ôn ba lần rằng Ngài sẽ cho Y-sơ-ra-ên chiến thắng (6:14,16 7:7), và
Ngài đa bảo đảm lại với ông bằng cách ban cho ông ba dấu hiệu đặc biệt: lửa từ
hòn đá (6:19-21), lốt chiên ướt (6:36-38) và lốt chiên khô (6:39-40). Sau mọi sự giúp đỡ thiêng liêng này, Ghê-đê-ôn lẽ ra
phải mạnh mẽ trong đức tin mình, nhưng trường hợp này không phải vậy.
Chúng ta nên biết ơn dường nào khi
Đức Chúa Trời hiểu chúng ta và không kết án chúng ta vì chúng ta có những sự
nghi ngờ và sợ hãi! Ngài tiếp tục ban cho chúng ta sự khôn ngoan và không trách
mắng chúng ta khi chúng ta cứ kêu cầu (Gia 1:5).
Thầy tế lễ thượng phẩm cao trọng của chúng ta trên trời thông cảm với những sự
yếu đuối của chúng ta (He 4:14-16) và tiếp
tục ban cho chúng ta thêm ơn (Gia 4:6). Đức
Chúa Trời nhớ rằng chúng ta chỉ là bụi đất (Thi
103:14) và xác thịt (78:39).
Đức Chúa Trời khích lệ đức tin của Ghê-đê-ôn bằng hai cách.
Đức
Chúa Trời ban cho Ghê-đê-ôn lời hứa khác (Cac 7:9). Chúa cho Ghê-đê-ôn biết lần thứ 4 rằng Ngài
đã phó đạo quân Ma-đi-an vào tay ông (chú ý thì của động từ và xem Gios 6:2). Mặc dù chiến trận phải được đánh, Y-sơ-ra-ên đã thắng! ba trăm
người có thể tấn công vô số kẻ thù với sự tin quyết rằng Y-sơ-ra-ên là người
chiến thắng.
Một số người có tư tưởng rằng đức
tin chắc chắn và can đảm là một loại kiêu ngạo tôn giáo, nhưng điều ngược lại
mới là đúng. Những Cơ Đốc nhân tin lời hứa của Đức Chúa Trời và nhìn xem Ngài
làm những việc lớn đều hạ mình để biết rằng Đức Chúa Trời của vũ trụ quan tâm
đến họ và ở cạnh họ. Mọi vinh hiển quy về Chúa vì Ngài đã làm mọi việc đó! Đứa
con vô tín của Đức Chúa Trời là người làm Chúa buồn lòng và xem Ngài là một kẻ
nói dối (IGi 5:10).
Hy vọng và tình yêu là những đạo đức
quan trọng của Cơ Đốc nhân, nhưng Đức Thánh Linh dành cả chương trong Tân Ước He 11:1-42 cho những chiến thắng của đức tin dành
được bởi những người bình thường đã dám tin Đức Chúa Trời và hành động dựa trên
những lời hứa của Ngài. Đó có thể là một lời nói xưa
đối với một số người, nhưng công thức cũ vẫn đúng: “Đức Chúa Trời nói điều đó
Tôi tin rằng nó giải quyết điều đó!”
Đức
Chúa Trời đã ban cho Ghê-đê-ôn dấu hiệu khác (Cac 7:10-14). Ghê-đê-ôn và tôi tớ ông phải có can đảm để
tiến vào địa phận của kẻ thù và đến đủ gần với trại quân Ma-đi-an để nghe lỏm
cuộc nói chuyện của hai quân lính. Đức Chúa Trời đã cho một trong những quân
lính một giấc mơ, và giấc mơ đó cho Ghê-đê-ôn biết rằng Đức Chúa Trời sẽ phó
dân Ma-đi-an vào tay ông. Chúa đã cho Ghê-đê-ôn biết sự kiện này, nhưng giờ đây
Ghê-đê-ôn nghe điều đó từ môi miệng của kẻ thù!
Trong sự ghi chép của Kinh Thánh,
bạn thường thấy Đức Chúa Trời thông tin lẽ thật của Ngài qua những giấc mơ.
Trong số những tín đồ được Ngài phán qua giấc mơ là Gia-cốp (Sa 28:1-22 31:1-55),
Giô-sép (Sa 37:1-36), Sa-lô-môn (IVua 3:1-28), Đa-ni-ên (Da
7:1-28), và Giô-sép, chồng của Ma-ri (Mat 1:20-21;
2:13-22). Nhưng Ngài cũng phán với những kẻ
vô tín cách này, kể đến A-bi-mê-léc (Sa 20:1-18),
Nê-bu-cát-nết-sa (Da 2:1-49 4:1-37). Tuy nhiên, chúng ta không nên kết luận từ
những ví dụ này rằng đây là phương pháp thông thường của Chúa để thông tin với
con người hay chúng ta phải tìm kiếm sự hướng dẫn của Ngài qua giấc mơ của
chúng ta ngày nay. Những giấc mơ có thể lầm lẫn (Gie
23:32 Xa 10:2) và nằm ngoài sự chỉ
dẫn thiêng liêng mà chúng ta không thể biết sự giải thích đúng đắn. Cách tốt
nhất để có sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời là qua Lời Đức Chúa Trời, sự cầu nguyện và tính nhạy cảm với Thánh Linh khi chúng ta
xem xét những hoàn cảnh.
Vì lúa mạch là một loại
lúa chủ yếu được người nghèo sử dụng hình ảnh bánh lúa mạch về Ghê-đê-ôn và đội
quân ông nói đến một cái bánh cứng cũ rích có thể lăn như một bánh xe, không
phải một sự so sánh ca ngợi gì cả! Người giải nghĩa giấc mơ chẳng có ý niệm
rằng mình đang nói lẽ thật của Đức Chúa Trời và khích lệ tôi tớ Đức Chúa Trời.
Ghê-đê-ôn đã không để tâm việc bị so sánh với một ổ bánh cũ, vì giờ đây ông
biết chắc rằng Y-sơ-ra-ên sẽ đánh bại dân Ma-đi-an và giải phóng xứ khỏi ách nô
lệ.
Thật ý nghĩa rằng
Ghê-đê-ôn đã tạm nghĩ để thờ phượng Chúa trước khi ông làm bất cứ điều gì khác.
Ông cũng quá tràn ngập sự nhơn từ và lòng thương xót của Chúa đến nỗi ông cúi
mặt trong sự đầu phục và lòng biết ơn.
Giô-suê đã làm điều tương tự trước khi chiếm thành Giê-ri-cô (Gios 5:13-15) và đó là một sự thực hành tốt lành
cho chúng ta noi theo ngày nay. Trước khi chúng ta có
thể là những chiến sĩ thành công, chúng ta trước hết phải trở nên những người
thờ phượng thành thật.
3. Đức Chúa Trời tôn
trọng đức tin chúng ta (Cac
7:15b-25)
“Không có đức tin thì chẳng thể nào
làm đẹp lòng Ngài, vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời,
và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ chuyên tâm tìm kiếm Ngài” (He 11:6 NKJV). Đức tin có nghĩa cao hơn là chỉ tin
cậy Đức Chúa Trời; Nó cũng có nghĩa là tìm kiếm Đức Chúa Trời và muốn làm đẹp
lòng Ngài. Chúng ta đừng tin cậy Đức Chúa Trời chỉ để khiến Ngài làm mọi sự cho
chúng ta. Chúng ta tin cậy Ngài vì điều đó đem đến vui mừng cho lòng Ngài khi
con cái Ngài nhờ cậy Ngài, tìm kiếm Ngài và làm đẹp lòng Ngài.
Đức Chúa Trời đã ban thưởng cho đức
tin của Ghê-đê-ôn ra sao?
Đức Chúa Trời đã ban cho ông sự khôn
ngoan để chuẩn bị cho đội quân (Cac 7:15b-18).
Ghê-đê-ôn là một người mới khi ông và tôi tớ ông trở lại trại quân Y-sơ-ra-ên.
Những nỗi sợ hãi và nghi ngờ của ông đã biến mất khi ông điều động đội quân nhỏ
và truyền sự can đảm trong lòng họ bởi điều ông nói và làm. Ông tuyên bố với
mọi người: “Đức Giê-hô-va đã phó trại quân Ma-đi-an vào tay các ngưoi! (c.15,
NKJV). Như Vance Havner đã nói, đức tin nhìn thấy những điều không thể thấy
(thắng trận với một số ít ngưtời và những vũ khí khác thường).
Kế hoạch của Ghê-đê-ôn đơn giản
nhưng hiệu quả. Ông cho mỗi người của mình một cái kèn để thổi, một cái bình để
đập bể và một cây đuốc để đốt. Họ sẽ vây trại quân kẻ thù, những cây đuốc trong
bình và những chiếc kèn trong tay họ. Kèn là những chiếc sừng của chiên đực
(kèn làm bằng sừng) như Giô-suê đã sử dụng tại Giê-ri-cô và có lẽ sự liên hệ
này với chiến thắng lớn đó đã giúp khích lệ Ghê-đê-ôn cùng những người của ông
khi họ đối đầu với cuộc chiến. Theo hiệu lệnh của Ghê-đê-ôn mọi người sẽ thổi
kèn, đập bể bình để lộ ánh sáng và rồi la lên “Gươm của Đức Giê-hô-va và của
Ghê-đê-ôn!” Đức Chúa Trời sẽ làm phần còn lại.
Ghê-đê-ôn là tấm gương cho chúng ta
noi theo. “Hãy ngó ta… Hãy theo sự hướng dẫn của ta. Hãy làm y như ta làm”
(c.17 NIV). Ghê-đê-ôn đã đi một con đường dài kể từ ngày Đức Chúa Trời tìm thấy
ông trốn trong máy ép rượu! Chúng ta không còn nghe ông hỏi “Nếu tại sao ở đâu”
(Cac 6:13). Ông không còn tìm kiếm một dấu
hiệu nữa. Trái lại, ông đầy tự tin ra lệnh cho người của ông, biết rằng Chúa sẽ
ban cho họ chiến thắng.
Người ta thường nói rằng tin mừng
của Phúc Âm là chúng ta không phải cứ ở trong tình trạng của mình. Bởi đức tin
nơi Chúa Giê-xu Christ, bất cứ ai cũng ó thể được thay đổi. “Vậy nếu ai ở trong
Đấng Christ, thì ấy là người dựng nên mới, những sự cũ đã qua đi, này mọi sự
đều trở nên mới” (IICo 5:17 NKJV). Chúa
Giê-xu đã phán với em của Anh-rê “Ngươi là Si-môn” (người nghe) Ngươi sẽ được
gọi là Sê-pha (đá). (Gi 1:42 NKJV) “Ngươi là
- ngươi sẽ là!”. Đó là tin mừng cho bất cứ ai muốn có một khởi đầu mới trong
đời sống. Đức Chúa Trời có thể sử dụng một miếng đất sét mềm mại như Si-môn và
làm ra một cục đá từ ông! Đức Chúa Trời có thể sử dụng một kẻ nghi ngờ như
Ghê-đê-ôn và tạo ra một vị tướng từ ông!
Đức
Chúa Trời đã ban cho ông sự can đảm để chỉ huy đội quân (Cac 7:19-22).
Ghê-đê-ôn đã chỉ huy đội quân nhỏ của ông từ Suối Ha-rốt (“run rẩy”) đến trũng
Gít-rê-ên, nơi họ đều chiếm chỗ quanh trại quân. Theo hiệu lệnh của Ghê-đê-ôn,
họ đều thổi những chiếc sừng của chiên đực, đập bể bình và la lên “Gươm của Đức
Giê-hô-va và của Ghê-đê-ôn!” Thấy mình bị bao vây bởi ánh sáng bất ngờ và những
tiếng động lớn, quân Ma-đi-an cho rằng họ đang bị tấn công bởi một đạo quân
đông đảo, và kết quả là sự hoang sợ. Chúa đã can thiệp và đặt một tinh thần rối
loạn trong trại quân, và quân Ma-đi-an bắt đầu giết lẫn nhau. Khi ấy họ nhận ra
rằng điều an toàn nhất phải làm là chạy trốn. Vì vậy, họ chạy trốn theo đường
bộ đến phía Đông Nam với sự đuổi bắt của đội quân Y-sơ-ra-ên.
Đức
Chúa Trời đã ban cho ông cơ hội mở rộng quân đội (Cac 7:23-25). Rõ ràng là ba trăm người không thể điểm theo
hằng ngàn địch quân, nên Ghê-đê-ôn truyền ra một lời kêu gọi thêm những người
tình nguyện. Tôi chắc rằng nhiều người từ đội quân ban đầu của 32.000 người đã
hưởng ứng lời kêu gọi của Ghê-đê-ôn và thậm chí chi phái Ép-ra-im kiêu ngạo
cũng đến giúp đỡ ông. Họ được ban cho vinh dự bắt và giết Ô-rép (‘quạ’) và
Xê-ép (‘chó sói’), hai quan trưởng của
dân Ma-đi-an. Câu chuyện về Ghê-đê-ôn bắt đầu với một người trốn trong một máy
ép rượu (Cac 6:11), nhưng kế thúc với quan
trưởng kẻ thù bị giết tại một máy ép rượu.
Đại thắng của Ghê-đê-ôn trên dân
Ma-đi-an đã trở thành một sự kiện bước ngoặt trong lịch sử Y-sơ-ra-ên, không
giống như Trận Chiến Waterloo đối với Anh quốc, vì nó nhắc nhở dân Do Thái về
quyền năng Đức Chúa Trời để giải phóng họ khỏi kẻ thù của họ. Ngày của dân
Ma-đi-an là một ngày lớn mà Y-sơ-ra-ên sẽ không bao giờ quên (Thi 83:11 Es 9:4
10:26).
Hội Thánh ngày nay cũng
có thể học từ sự kiện này và được khích lệ bởi đó. Đức Chúa Trời không cần
những số lượng lớn để thực hiện những mục đích của Ngài, Ngài cũng không đặc
biệt cần những lãnh đạo tài năng. Ghê-đê-ôn cùng ba trăm người của ông sẵn sàng
cho Đức Chúa Trời sử dụng, và Ngài giúp họ có thể chiến thắng kẻ thù và đem hòa
bình đến cho xứ. Khi Hội Thánh bắt đầu nhờ cậy nơi “đại quy mô, những tòa nhà
lớn, những đám đông lớn, những ngân quỹ lớn thì đức tin trở nên bị đặt không
đúng chỗ, và Đức Chúa Trời không thể ban phước của Ngài. Khi những lãnh đạo cậy
nơi học thức, kỹ năng và kinh nghiệm hơn là cậy nơi Đức Chúa Trời, vậy Đức Chúa
Trời từ bỏ họ và tìm kiếm một Ghê-đê-ôn.
Điều quan trọng đối với
chúng ta là sẵn sàng cho Đức Chúa Trời sử dụng ngay khi Ngài thấy thích hợp.
Chúng ta có thể không hiểu đầy đủ những kế hoạch của Ngài, nhưng chúng ta có hể
tin cậy hoàn toàn những lời hứa của Ngài, và chính đức tin nơi Ngài ban cho sự
chiến thắng.
6. THẮNG TRẬN, ĐÁNH MẤT
CHIẾN THẮNG (Cac 8:1-27)
Hãy cẩn thận nơi bạn di
đến vì kinh doanh hay kỳ nghỉ. Bạn có thể chọn một nơi nguy hiểm.
Theo một bài báo ngày
25/6/1993 của hãng báo Pulse, có sáu mươi bảy quốc gia có những vấn đề nghiêm
trọng về mìn dưới đất. Angola có hai mươi triệu trái mìn đang chờ cắt bỏ hoặc
thủ tiêu, Afghanistan mười triệu, và Campodia bốn triệu rưỡi, và phí tổn để dời
bỏ chúng cao hơn những nước này có thể giải quyết. Các cuộc chiến tranh có thể
chấm dứt, nhưng những hiểm họa vẫn chưa biến mất.
Mục sư thánh thiện Hội
trưởng lão Ê-cốt Andrew Bonar không nghĩ đặc biệt về những mìn dưới đất khi ông
nói điều đó, nhưng điều ông nói là lời khuyên tốt lành cho tất cả chúng ta.
“Chúng ta hãy cẩn thận sau cuộc chiến cũng như trước cuộc chiến”. Đó là lời
khuyên Ghê-đê-ôn cần sau khi ông đã đuổi dân Ma-đi-an đi, vì những vấn đề của
ông vẫn chưa chấm dứt. Ông đã khám phá một số “mìn” sẵn sàng nổ.
Cho đến lúc này trong
bài học của của chúng ta về đời sống Ghê-đê-ôn, chúng ta đã thấy những đáp ứng
của ông trước sự kêu gọi của Đức Chúa Trời để đánh bại kẻ thù. Trước tiên
Ghê-đê-ôn đầy những câu hỏi và những nghi ngờ, nhưng sau đó ông tăng trưởng trong
đức tin mình, tin những lời hứa của Đưc Chúa Trời, và chỉ
huy đội quân đi đến chiến thắng. Trong 8:1-27
câu chuyện tập trung vào những đáp ứng của Ghê-đê-ôn đối với nhiều người sau
khi ông đã thắng trận, và điều đó cho chúng ta biết cách ông đã giải quyết một
số tình thế khó khăn ra sao.
Bảng niên đại trong đoạn
8 diễn biến như sau: Việc Ghê-đê-ôn đuổi theo hai vua (c.4-12), việc ông kỷ
luật những người Do Thái ương ngạnh trên hành tinh ông về nhà (c.13-17), sự
phản đối của dân Ép-ra-im sau khi ông về nhà (c.1-3), giết hai vua (c.18-31),
và sự “về hưu” của Ghê-đê-ôn (c.22-35). Mỗi sự kiện này trình bày một thách
thức mới đối với Ghê-đê-ôn, và ông đã đáp ứng mỗi sự kiện một cách khác nhau.
1. Một câu trả lời nhẹ
nhàng cho những người chỉ trích ông (Cac 8:1-3)
Lý do phân đoạn này được
đặt ở đây có phần khó hiểu. Có lẽ không phải là những người Ép-ra-im phàn nàn
với Ghê-đê-ôn trong khi họ bắt giữ Ô-rép và Sê-ép (7:24-26) và trong khi ông đang đuổi theo Sê-bách
và Sanh-mu-na (8:12). Việc chiến đấu kẻ thù
có lẽ đã tiêu phí toàn bộ nghị lực cùng sự chú ý của họ và lời đáp của
Ghê-đê-ôn trong c.3 cho thấy rằng những người Ép-ra-im đã bắt và giết Ô-rép với
Sê-lép. Có lẽ một phái đoàn từ chi phái này đã chờ Ghê-đê-ôn khi những chiến
lợi phẩm đang được phân phối sau khi ông trở về nhà, và đó là lúc họ phàn nàn.
Biết họ là một chi phái lớn và quan
trọng, đứng thứ nhì sau chi phái Giu-đa, dân Ép-ra-im là một dân kiêu ngạo.
Ghê-đê-ôn từ chi phái Ma-na-se, chi phái “anh em” với Ép-ra-im và Ép-ra-im bị
sỉ nhục vì ông đã không gọi họ đến chiến trận. Nhưng tại sao một chi phái quan
trọng như thế lại muốn đi theo một nông dân vào cuộc chiến? Họ đã giúp đỡ Ê-hút
(3:26-29) và Đê-bô-ra với Ba-rác (5:13-14) nhưng điều đó không phải là sự bảo đảm họ
sẽ giúp Ghê-đê-ôn.
Khi bạn suy nghĩ lại cách tấn công
Ma-đi-an được giải quyết, chính sự khôn ngoan của Ghê-đê-ôn mà ông đã không kêu
gọi những người tình nguyện từ Ép-ra-im. Chi phái kiêu ngạo này sẽ được ca tụng
nếu Ghê-đê-ôn bảo những người sợ hãi về nhà, và những người tình nguyện của họ
sẽ không tha thứ cho việc ông giảm đội ngũ chỉ còn ba trăm chiến sĩ! Nếu
Ghê-đê-ôn gọi họ và sau đó cho đa số họ trở về, họ sẽ tạo một vấn đề tồi tệ
trước cuộc chiến hơn là điều họ làm sau đó. Ép-ra-im sẵn sàng để giúp đỡ trong
những hoạt động “càn quét” và đó là điều thật sự có giá trị.
Tuy nhiên Ép-ra-im đã bỏ lở việc thu
được một số chiến lợi phẩm quý giá từ hơn một trăm ngàn quân lính, và điều này
có thể là điều làm họ phát cáu (Có khi người ta chỉ trích điều gì bạn đã làm,
có một lý do riêng tư đằng sau sự chỉ trích của họ, và bạn không bao giờ có thể
tìm ra lý do thật sự là gì). Vì luật vô vụ lợi của Đa-vít điều khiển việc chia
những chiến lợi phẩm chưa được thiết lập (ISa
30:21-25), những ai không tham gia trong trận chiến đã không dự phần
trong bổng lộc, khi những người Ép-ra-im lẽ ra phải cảm ơn Ghê-đê-ôn đã giải
cứu dân tộc, họ chỉ trích ông và thêm vào những gánh nặng của ông.
Là một tướng thắng trận, một anh
hùng dân tộc và là người đầu tiên được chọn làm vua của dân sự, Ghê-đê-ôn có
thể sử dụng quyền hạn và sự nổi tiếng của ông để đặt chi phái Ép-ra-im trong vị
trí của nó, nhưng ông đã quyết định sử dụng một phương cách tốt hơn. “Lời đáp
êm nhẹ làm nguôi cơn giận, còn lời xẳng xớm trêu sự giận dữ” (Ch 15:1 NKJV). Có lẽ những cảm xúc tức thời của
Ghê-đê-ôn không phải là điều chân thành, nhưng ông tự chủ và đối xử với anh em
mình bằng sự tử tế. “Người chậm nóng giận thắng hơn người mạnh mẽ, và ai cai
trị tinh thần mình thắng hơn kẻ chiếm lấy thành” (Ch
16:32 NKJV). Ghê-đê-ôn đã chứng minh rằng ông có thể điều khiển không
chỉ một đội quân, mà còn điều khiển tính khí và lưỡi mình.
Đáng buồn khi những người anh em
tuyên chiến lẫn nhau sau khi họ đã đứng chung với nhau để đánh bại kẻ thù.
“Kìa, thật tốt đẹp và dễ chịu làm sao khi anh em ăn ở với nhau trong sự đoàn
kết” (Thi 133:1). Ghê-đê-ôn đã không mất gì nhiều để nuốt sự kiêu ngạo của ông và ngợi
khen những người Ép-ra-im. Ông cho họ biết rằng việc họ bắt Ô-rép và Xê-ép là
một kỳ công lớn hơn bất cứ điều gì những người của ông đã làm từ thành A-bi-ê-xê-rít
quê hương ông. Sự hoà bình đã được phục hồi và Ghê-đê-ôn trở lại với những
nhiệm vụ sắp tới quan trọng hơn.
Trong “Poor Richard’s
Almanack” (1734), Benjamin Franklin đã viết:
“Hãy cất sự chú ý khỏi
Richard tầm thường và què quặt,
Bất cứ điều gì được bắt
đầu trong sự giận dữ đều kết thúc trong sự nhục nhã”.
Và vua Sa-lô-môn đã
viết: “Sự khởi đầu tranh cạnh giống như mở nước chảy,
vậy hãy thôi sự cạnh tranh trước khi một cuộc cãi lộn bắt đầu” (Ch 17:14 NKJV).
2. Một sự cảnh cáo
nghiêm khắc cho những kẻ hoài nghi (Cac 8:4-17)
Ghê-đê-ôn và người của
ông đang đuổi theo hai vua Ma-đi-an, Sê-bách và Xanh-mu-na, biết rằng nếu họ
bắt và giết hai vua ấy, sức mạnh của kẻ thù sẽ bị làm tê liệt và cuối cùng bị
phá vỡ. Đội quân vượt qua sông Giô-đanh, đến Su-cốt trong xứ Gát, hy vọng tìm
thấy thực phẩm nào đó, nhưng những người Su-cốt không muốn giúp đỡ anh em của
họ. Hai và một nửa chi phái chiếm đất
phía Đông sông Giô-đanh đã không cảm thấy gần gũi với những chi phái khác như
họ đáng phải có, và Gát đã không sai đi chiến sĩ nào để giúp Đê-bô-ra với
Ba-rác (5:17) hay Ghê-đê-ôn. Trong khi những
người khác liều mạng, dân Gát chẳng làm gì cả.
Dân Am-môn và Mô-áp, bà con của dân
Do Thái qua Lót, đã không giúp Y-sơ-ra-ên bằng lương thực, và Đức Chúa Trời đã
tuyên chiến trên họ (Phu 23:3-6). Sự hiếu
khách là một trong những luật cơ bản của Đông phương, và phong tục đòi hỏi rằng
dân sự phải đáp ứng những nhu cầu của khách lạ cũng như bà con. Sự hiếu khách
cũng là một chức vụ quan trọng trong Hội Thánh đầu tiên, vì không có khách sạn
nơi khách có thể ở, và trong những thời kỳ bắt bớ, nhiều khách lạ đang chạy
trốn (Ro 12:13 ITi
5:10 He 13:2 IPhi
4:9). Thật vậy, việc giúp đỡ một người anh em đói khát là một cơ hội để
giúp Chúa Giê-xu (Mat 25:34-48).
Những người Su-cốt nghi ngờ về khả
năng Ghê-đê-ôn có thể đánh bại đội quân Ma-đi-an đang chạy trốn và bắt hai vua.
Nếu Su-cốt giúp Ghê-đê-ôn và Ghê-đê-ôn thất bại, vậy dân Ma-đi-an sẽ thăm viếng
Su-cốt và trả thù. Những người Su-cốt không nghĩ rằng việc cho một người anh em
đói khát ăn uống là một cơ hội để bày tỏ tình yêu mà là một sự liều lĩnh mà họ
không muốn có, và họ khá vô liêm sĩ trong cách họ nói với Ghê-đê-ôn. Vì
Ghê-đê-ôn đã nhận đáp ứng tương tự từ những người ở Phê-nu-ên, ông đã cảnh cáo
cả hai thành rằng ông sẽ trở lại và kỷ luật họ.
Đức Chúa Trời đã ban cho Ghê-đê-ôn
cùng người của ông chiến thắng trên đạo quân Ma-đi-an đang chạy trốn và giúp
ông có thể bắt hai vua kẻ thù. Một cách hoan hỉ ông hồi tưởng lại những bước
của mình và giữ lời hứa của ông với những người Su-cốt và Phê-nu-ên. Do ý Chúa,
ông đã tìm thấy một người trai trẻ có thể cung cấp cho ông tên của bảy mươi bảy
quan trưởng trong Su-cốt đã chối từ giúp đỡ ông cùng đội quân của ông. Ông cho
họ thấy hai vua mà các trưởng lão đã nói rằng Ghê-đê-ôn sẽ chẳng bao giờ bắt
được, và sau đó ông trừng phạt họ, hiển nhiên bằng cách đánh họ với những nhánh
gai. Sau đó ông đến Phê-nu-ên và phá hủy tháp của họ, giết những người đã chống
đối ông.
Vì sao Ghê-đê-ôn đã không bày tỏ với
dân Su-cốt và Phê-nu-ên sự tử tế tương tự mà ông đã bày tỏ với dân Ép-ra-im và
chỉ tha thứ những xúc phạm của họ? Thứ nhất, những sự xúc phạm của họ không
giống nhau. Sự kiêu ngạo của Ép-ra-im chẳng là gì so với sự chông nghịch của
Su-cốt và Phê-nu-ên. Ép-ra-im đang bảo vệ sự tự hào về chi phái của họ, một tội
lỗi nhưng không phải là một điều tai hại, nhưng Su-cốt và Phê-nu-ên đang chống
nghịch người lãnh đạo được chọn của Đức Chúa Trời và đồng thời giúp kẻ thù. Tội
của họ là tội cứng lòng đối với anh em mình và mưu phản với Đức Chúa Trời trên
trời. Có ích lợi gì cho Ghê-đê-ôn và người của ông để liều mạng giải phóng
Y-sơ-ra-ên nếu họ có những kẻ phản bội ngay trong dân tộc mình?
Các lãnh đạo phải có sự sáng suốt,
nếu không sẽ thực hiện những quyết định sai lầm khi họ giải quyết những tình
thế khác nhau. Những sỉ nhục cá nhân là một việc, nhưng sự chống nghịch với
Chúa và dân sự Ngài hoàn toàn là một việc khác.
3. Một câu hỏi long
trọng cho kẻ thù của ông (Cac 8:18-21)
Khi Ghê-đê-ôn trở về nhà
tại Óp-ra, dẫn theo tù binh Sê-bách và Xanh-mu-na, đoàn diễu hành chắc thú vị
như một cuộc diễu hành có băng giấy điện báo. Ghê-đê-ôn là một anh hùng thật.
Chỉ với ba trăm người, ông đã đánh lui trận địch quân và sau đó đuổi theo những
binh lính chạy trốn qua sông Giô-đanh và đến phía Nam Karkor. Ông đem về những
tù binh hoàng gia, cùng bất cứ chiến lợi phẩm nào mà những người của ông đạt
được trên đường.
Ghê-đê-ôn có một vấn đề
riêng tư để giải quyết với 2 vua này vì họ đã phạm tội giết anh em ông tại
Tha-bô. Bản văn không cho chúng ta biết hành động gian ác này đã xảy ra khi
nào, nhưng nó chắc đã xảy ra suốt thời kỳ một trong những vụ tấn công hằng năm
của dân Ma-đi-an trước đó. Anh em Ghê-đê-ôn có liên quan ra sao và vì sao họ bị
giết thì không được giải thích cho chúng ta, nhưng gợi ý cho thấy hành động này
là một hành động tán tận lương tâm.
Theo luật pháp Môi-se,
gia đình phải trả thù những tội ác như vầy
bằng cách giết những kẻ có trách nhiệm về tội giết người, không có hệ thống
cảnh sát trong xứ, và mỗi gia đình được mong lần bắt và trừng phạt những kẻ đã
giết bà con họ, nếu bị cáo phạm tội (Dan 35:9-34).
Trong trường hợp của Sa-bách và Xanh-mu-na, các bị cáo không chỉ là những kẻ
sát nhân mà còn là kẻ thù của Y-sơ-ra-ên.
Hai vua khôn khéo trong cách họ trả
lời Ghê-đê-ôn, tâng bốc ông bằng cách so sánh ông và các anh em ông với những
hoàng tử. Ai đó đã nói rằng sự tâng bốc và một thứ tốt để nếm nhưng là một thứ
xấu để nuốt, và Ghê-đê-ôn đã không nuốt nó! Làm sao ông có thể tha cho hai kẻ
gian ác đã lấy đi thức ăn từ miệng của những phụ nữ với trẻ em Do Thái và giết
những người nam Do Thái một cách tàn bạo?
Trong thời đó, cách một người lính
chết là quan trọng đối với thanh danh người ấy. A-bi-mê-léc không muốn chết bởi
tay của một người đàn bà (Cac 9:53-54), và
vua Sau-lơ không muốn rơi vào tay dân Phi-li-tin (ISa
31:1-6). Để một đứa trẻ giết một vị vua là điều tận cùng trong sự nhục
nhã, vì vậy Ghê-đê-ôn bảo con trai nhỏ của ông là Giê-the xử tử hai phạm nhân
bằng cách làm như vậy, Giê-the sẽ không chỉ củng cố luật pháp của xứ và làm
nhục hai vua, mà cậu bé cũng sẽ đem vinh dự cho chính mình. trong phần đời còn
lại của mình, cậu sẽ được biết như cậu bé đã xử tử Sê-bách và Xanh-mu-na.
Nhưng cậu bé chưa sẵn sàng cho trách
nhiệm hay vinh dự này. Ngay cả khi người ta phạm tội, việc thi hành sự công
bằng trong xứ là một điều nghiêm túc và không nên được đặt vào tay trẻ con. Vì
sự sợ hãi của mình, Giê-the do dự trong việc trả thù những kẻ giết chú bác
mình, vì vậy hai vua yêu cầu Ghê-đê-ôn làm điều đó.
Dường như có một chút mỉa mai trong
lời nói của họ, mà có thể được chú giải: “Ngươi hãy giết chúng ta, hỡi
Ghê-đê-ôn. Chúng ta hãy xem người là một người loại nào hay ngươi cũng chỉ là
một đứa trẻ?” Sê-bách và Xanh-mu-na không muốn Giê-the thiếu kinh nghiệm xử tử
họ vì cậu sẽ làm hỏng toàn bộ sự việc và khiến cho cái chết của họ đau đớn hơn
nhiều. Hai vua cố ý khích sự giận dữ của Ghê-đê-ôn, biết rằng ông là một tay
kiếm giỏi và sẽ giết họ nhanh chóng và đó chính là điều ông đã làm.
4. Một lời đáp gây
hoang mang cho các bạn ông (Cac 8:22-32)
Câu chuyện tập trung vào
hai yêu cầu, một từ dân sự đối với Ghê-đê-ôn và một từ Ghê-đê-ôn đối với dân
sự.
Dân sự yêu cầu một vị
vua (c.2-23,29-32). Ghê-đê-ôn quá nổi tiếng đến nỗi dân sự yêu cầu ông lập một
triều vua, một điều gì đó hoàn toàn mới đối với dân tộc Y-sơ-ra-ên. Đây là một
cách họ có thể ban thưởng cho Ghê-đê-ôn về điều ông đã làm cho họ. Nhưng đó
cũng là phần nào một sự bảo đảm rằng sẽ có những phương sách để sự hiệp nhất
giữa các chi phái cũng như loại chức lãnh đạo sẽ động viên họ chống lại những
kẻ xâm lược có thể trong tương lai.
Yêu cầu của họ là một
xưng nhận về sự vô tín, vì như Ghê-đê-ôn đã nhắc nhở họ. Đức Chúa Trời là Vua
của họ. Ghê-đê-ôn khước từ đề nghị hào phóng của họ hoàn toàn trên những lý lẽ
thần học. Ông sẽ không chiếm chỗ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Mọi người Do Thái
lẽ ra phải biết rằng ngôi thương xót trong đền tạm là ngôi Đức Chúa Trời mà từ đó Ngài đã cai tri giữa dân sự Ngài. “Hỡi Đấng
ngự giữa các chê-ru-bin, hãy chiếu sáng ra” (Thi
80:1 NIV). “Đức Giê-hô-va cai trị, các dân hãy run sợ, Ngài ngự trên các
chê-ru-bin, trái đất khá rúng động” (Thi 99:1
NIV). Lập lên một ngôi đối địch là sẽ phải truất phế Chúa (5).
Môi-se đã cảnh cáo rằng Y-sơ-ra-ên
ngày nào đó sẽ muốn có một vị vua như những dân tộc khác và quên rằng họ là một
dân tộc duy nhất, không giống dân ngoại (Phu 4:5-8
14:2 17:14-20
Xu 19:4-5). Có quốc gia nào khác có Chúa
sáng tạo Chúa của trời và đất như Vua của họ?
Điều Ghê-đê-ôn nói thật đáng khen
ngợi, nhưng điều ông làm sau đó rất khó hiểu. Sau khi khước từ ngôi vua, ông đã
sống như một vị vua! Cac 8:29-32 mô tả lối
sống của một ông vua, không phải lối sống của một quan xét hay một quân nhân về
hưu. Ghê-đê-ôn hoàn toàn giàu có, một phần từ những món quà của dân sự. Và ông
đã có nhiều vợ với ít nhất một vợ lẽ, Những người vợ của ông sanh cho ông bảy
mươi con trai, vợ lẽ của ông sanh cho ông một con trai. Thật ra, ông đặt tên
cho con trai của vợ lẽ là A-bi-mê-léc, nghĩa là “cha tôi là một vị vua”, Và đứa
con này sau đó đã tìm cách sống theo cái tên của mình và trở thành người cai
trị khắp xứ. Ghê-đê-ôn dường như cũng có những nhiệm vụ được cho là tế lễ, vì
ông đã làm ê-phót cho mình và có lẽ đã tham khảo điều đó đại diện cho dân sự.
Không ai phủ nhận rằng vị quan xét
kiêm chiến sĩ can đảm này xứng đáng được vinh dự và phần thưởng, nhưng “kế hoạch
về hưu” của ông dường như có một chút quá độ.
Ghê-đê-ôn yêu cầu vàng (c.24-28).
Dân sự chỉ quá nôn nóng dự phần những chiến lợi phẩm với Ghê-đê-ôn. Xét cho
cùng, ông đã đem lại hoà bình cho xứ (c.28) và từ chối trở thành vua của họ. Vì
vậy, đó là quyền duy nhất để ông nhận điều gì đó cho những công lao của mình.
Dân Ma-đi-an đeo những hình lưỡi liềm bằng vàng trên tai hoặc mũi (Sa 24:47), và các chiến sĩ Y-sơ-ra-ên nhanh chóng
lấy những vật quý giá này khi họ thu chiến lợi phẩm. Ghê-đê-ôn kết thúc với hơn
40 found vàng, cộng với của cải ông lấy từ Sê-bách với Xanh-mu-na. Chắc chắn,
ông có thể sống như một vị vua!
Nhưng vào thời điểm này, người có
đức tin đã dẫn dân sự vào sự thờ thần tượng, vì Ghê-đê-ôn đã làm một ê-phót, và
dân sự “chơi trò gian dâm” với nó (c.27, NKJV). Điều này nghĩa là họ ngưng dành
sự dâng mình thật cho Chúa và sử dụng ê-phót làm một thần tượng. Trong Kinh
Thánh, sự thờ thần tượng bị xem như sự mãi dâm (Es
50:1-3 54:6-8 Gie 2:1-3 3:1 Os 2:1-23 Gia 4:4
Kh 2:4). Ghê-đê-ôn có thể đã làm ê-phót như
một sự tiêu biểu về Đức Giê-hô-va, để “giúp dân sự” trong sự thờ phượng của họ,
nhưng một động cơ tốt không bao giờ có thể đền bù cho một hành động xấu. Ông đã
biết làm một hình tượng là điều sai trái (Xu 20:4-6).
Ê-phót này có phải là phần dịch được
thêm thắt về quần áo được thầy tế lễ cả sử dụng (Cac
28:6) hay là loại hình tượng thường trực nào đó (Cac 17:5 18:14,17), chúng ta
không thể xác định được, nhưng cho được sử dụng trong sự thờ phượng và trở
thành cái bẫy cho Ghê-đê-ôn cùng dân sự (Thi 106:36).
Có lẽ Ghê-đê-ôn đã dùng nó để xác định ý muốn Đức Chúa Trời và giúp dân sự với
những vấn đề của họ. Nếu ê-phót thật sự là một bản sao của quần áo thầy tế lễ
cả, vậy Ghê-đê-ôn dứt khoát ở ngoài ý muốn Đức Chúa Trời trong việc sao lục nó
và sử dụng nó, vì Ghê-đê-ôn không phải là một thầy tế lễ. Nếu đó là một hình
tượng thường trực, Ghê-đê-ôn đang bất tuân luật pháp Đức Chúa Trời (Xu 20:4-6) và cũng làm hư hỏng dân sự. Đó chỉ là
một bước ngắn từ sự thờ phượng ê-phót đến sự thờ phượng Ba-anh (Cac 8:33).
Ghê-đê-ôn đã bỏ lỡ một cơ hội lớn để
đem sự cải cách và có lẽ là sự phục hưng đến cho xứ. Ông đã phá sập các hình
tượng của cha mình, nhưng có nhiều gia đình trong Y-sơ-ra-ên vẫn hiến dâng cho
Ba-anh, và những hình tượng này cũng cần bị huỷ phá. Đại chiến trên dân
Ma-đi-an đã cho Ghê-đê-ôn lý do tốt đẹp để kêu gọi dân tộc trở lại với Đức Chúa
Trời và vâng phục luật pháp Ngài. Nhưng thay vì sử dụng cơ hội cho vinh hiển
Đức Chúa Trời, ông đã sử dụng nó vì tư lợi, và dân tộc cuối cùng sa vào tội lỗi
lần nữa.
Với sự giàu có vô kể và thanh danh
lớn trong dân tộc, Ghê-đê-ôn có lẽ đã nghĩ rằng con cái ông được chu cấp nhiều,
nhưng điều ngược lại mới chứng tỏ đúng. Sáu mươi chín trong số bảy mươi con
trai của ông đã bị giết bởi người anh em cùng cha khác mẹ là kẻ đã bị giết bởi
một người đàn bà ném một hòn đá trên đầu ông. Không có sự an toàn nào khi xa
rời ý muốn Đức Chúa Trời. Nếu Ghê-đê-ôn thực hành Mat
6:33 những sự kiện theo sau có lẽ đã khác một cách triệt để.
Điều gì đã gây ra sự suy sụp thuộc
linh của Ghê-đê-ôn? Tôi nghĩ đó là sự kiêu ngạo. Trước khi có cuộc chiến với
Ma-đi-an, Ghê-đê-ôn đã khiêm nhường nhờ cậy nơi Chúa. Tuy nhiên, suốt những
hoạt động “càn quét” ông đã trở nên có quyền hạn và thậm chí hay trả thù. Khi
ông chối từ vương quyền, ông có vẻ ngoan đạo (“Đức Giê-hô-va sẽ cai trị các
ngươi”), nhưng tôi nghi ngờ rằng ông đã có một chương trình ẩn giấu trong lòng.
Bạn không thấy Ghê-đê-ôn tôn trọng Chúa hay gọi dân sự lại để lập một giao ước
mới vâng lời Chúa. Ghê-đê-ôn đã khởi đầu như một tôi tớ, nhưng giờ đây ông là
người nổi danh quan trọng. Kết quả là sự suy sụp cho ông, gia đình ông và dân
tộc ông.
Thật thú vị và đáng học hỏi để so
sánh Áp-ra-ham với Ghê-đê-ôn trong những quyết định họ thực hiện sau những
chiến thắng tương ứng của họ (Sa 14:1-24),
Áp-ra-ham không lấy gì cho mình, nhưng đảm bảo rằng những người khác nhận được
phần chiến lợi phẩm của họ (14:22-24). Ông
đặc biệt từ chối lấy bất cứ vật gì từ vua Sô-đôm ngoại đạo (14:17,21). Ngược lại, Áp-ra-ham đã kết bạn với
Mên-chi-xê-đéc, vua Sa-lem, một điển hình về Chúa Giê-xu Christ của chúng ta (He 7:1-8:13) và trong mọi điều ông nói và làm,
Áp-ra-ham đã quy vinh hiển cho Chúa của trời và đất.
Andrew Bonar đã đúng: “Chúng ta hãy
cẩn thận trước cuộc chiến cũng như sau cuộc chiến”. Xét cho cùng, có thể vẫn
còn một số mìn dưới đất rải rác xung quanh!
7. VƯƠNG QUỐC CỦA TA ĐÃ
ĐẾN (Cac 9:1-57)
Khi quân đội của George
Washington đánh bại tướng Anh quốc Charles Cornwallis tại Yorktown, sự kết thúc
của cuộc chiến cách mạng bắt đầu. Thắng trận không phải tự động kết thúc những
vấn đề mà các thuộc địa đã đương đầu. Mọi sự trở nên quá tồi tệ về mặt kinh tế
đến nỗi một đại tá của George Washington đã viết cho Washington một mật thư,
giục ông dùng quân đội ông để khiến mình trở thành vua hoặc kẻ độc tài. Đối với
đại tá, đây là cách duy nhất để nhận những công việc của quốc gia non trẻ dưới
sự điều khiển. Washington phản đối kế hoạch, nhưng với sự nổi tiếng cùng thế
lực, ông có thể trở thành vua nếu ông muốn như vậy.
A-bi-mê-léc thì ngược
lại. Ông có một khao khát nồng nhiệt muốn làm vua đến nỗi ông không để bất cứ
điều gì ngăn lối ông, thậm chí là mạng sống của hằng trăm người vô tội. Đây là
chương dài nhất trong sách Các quan xét và là một trong những đoạn gây phiền
muộn nhất. Chương này ghi lại ba giai đoạn trong sự nghiệp chính trị của
A-bi-mê-léc.
1. Chiếm vương quốc (Cac 9:1-21)
A-bi-mê-léc và con trai
của Ghê-đê-ôn sanh bởi một người đàn bà nô lệ đã sống với gia đình của cha bà
tại Si-chem (8:30-31
9:18). Tên của ông nghĩa là “cha tôi là một
vị vua”. Dù Ghê-đê-ôn chắc chắn đã sống như một vị vua, nhưng A-bi-mê-léc cảm thấy rằng cha ông đã phạm một sai lầm. Sau khi cha
ông chết, A-bi-mê-léc quyết định rằng ông phải là vua, vì vậy ông đi từ Óp-ra
đến Si-chem, nơi ông khởi đầu chiến dịch của mình. Qua điều ông làm,
A-bi-mê-léc đã vi phạm nhiều luật của Đức Chúa Trời, và kết quả là đem đến sự
bại hoại cho chính ông và hoạn nạn cho dân sự.
Khát
vọng ích kỷ (Cac 9:1-2). “Ngươi chớ tham lam” là
điều răn cuối cùng trong 10 điều răn (Xu 20:17 NKJV), nhưng vi phạm nó là bước đầu tiên
tiến đến việc vi phạm 9 điều răn kia. Tự khát vọng không phải là một điều xấu,
miễn là nó được hoà lẫn với sự khiêm nhường thật và được điều khiển bởi ý muốn
Đức Chúa Trời. Nếu đó là ngọn gió của Đức Chúa Trời nâng bạn lên và bạn sẽ bay
trên đôi cánh mà Đức Chúa Trời đã ban cho bạn, khi ấy hãy bay cao như Ngài nâng
bạn. Nhưng nếu bạn tạo ra gió và đôi cánh, bạn sẽ hướng đến một sa ngã khủng
khiếp.
Helen Keller đã nói: “Người ta không
bao giờ có thể đồng ý bò trườn khi người ta cảm thấy một xung lực để bay”, và
lời khuyên của bà là tốt lành, nếu sự thôi thúc đó đến từ Đức-giê-hô-va thì ta
sẽ tiến tới thành công. Câu nói “Ta sẽ lên trời!” đã biến một thiên sứ thành ma
quỉ (Es 14:13 NKJV), và “Đây chẳng phải là
Ba-by-lôn lớn mà ta đã dựng sao? đã biến một vua thành thú vật (Da 4:28-37 NKJV). Nếu chúng ta tôn cao chính mình,
Đức Chúa Trời có nhiều cách để hạ chúng ta xuống (Mat
23:12).
Dân Do Thái đã quen biết với người
Si-chem từ thời các trưởng tộc (Sa 12:6 33:18-20 34:1).
Cả dân Do Thái và dân Ca-na-an đã sống ở Si-chem suốt thời của A-bi-mê-léc,
điều này giải thích vì sao ông khởi đầu chiến dịch của mình ở đó. Mẹ ông là
người Si-chem và cha ông là người Do Thái. Vì vậy, nếu A-bi-mê-léc trở thành
vua, ông có thể đại diện hai khu vực bầu cử!
A-bi-mê-léc đã có tấm ván khác trên
bục chính trị của ông: Dân Ca-na-an ở Si-chem không mắc nợ gì với những con
trai của Ghê-đê-ôn, trong khi A-bi-mê-léc hoàn toàn là một người của họ. Hơn
nữa, ai trong số bảy mươi con trai của Ghê-đê-ôn phải là vua được chọn và người
ấy sẽ được chọn cách nào? Hay bảy mươi người tất cả sẽ tìm cách cai trị xứ với
nhau? Với loại lô-gíc này, A-bi-mê-léc giành được sự
giúp đỡ của bà con ông và những người trong thành, và giờ đây ông sẵn sàng đi
vào hành động.
Sự
thờ hình tượng (Cac 9:4). “Trước mặt ta ngươi chớ có các thần khác” và “ngươi chớ làm tượng chạm cho mình” là điều răn thứ
nhất và thứ nhì trong Mười điều răn (Xu 20:3-4),
nhưng A-bi-mê-léc đã vi phạm cả hai điều răn. Rõ ràng ông là thần của chính
mình và ông không quan tâm gì đến ý muốn Đức Chúa Trời đối với dân tộc. Việc
ông nhận tiền từ những người thờ Ba-anh để cung cấp cho chiến dịch của ông là
một tuyên bố công khai rằng ông đã từ bỏ Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và đứng
về phía Ba-anh.
Nhưng A-bi-mê-léc đã có thần khác
bên cạnh sự khát vọng và Ba-anh, và đó là thế lực. Với tiền nhơ nhuốc từ đền
thờ ngoại đạo, ông mướn một nhóm tay sai hoang đàng giúp ông đạt lấy và giữ sự
điều khiển trên dân sự. Những kẻ khủng bố hèn hạ này cũng giúp ông trong âm mưu
gian ác của ông để giết chết bảy mươi người anh em cùng cha khác mẹ và thủ tiêu
mọi địch thủ tranh giành ngôi.
Triết gia Hy Lạp Plato đã nói: “Thế
lực là quyền” và ba thế kỷ sau, triết gia La Mã Seneca viết: “Thế lực tạo nên
quyền” (3). Nhà tiểu thuyết người Pháp Joseph Joubert bảy thế kỷ sau đã viết:
“Thế lực và quyền cai trị mọi sự trên thế giới; thế lực cho đến quyền ở trong
tầm tay”. Nhưng khi thế lực ở trong tay những kẻ độc tài ích kỷ, thì quyền hiếm
khi có một cơ hội để sẵn sàng hay để kế tục. Thế lực nắm lấy sự điều khiển và
sẽ giữ nó trừ khi một quyền lực mạnh hơn chiến thắng và đem lại sự tự do. Tiên
tri Ha-ba-cúc đã mô tả những người này là “những kẻ phạm tội, có sức mạnh mình
là thần mình” (Ha 1:11 NIV).
Kẻ
sát nhân (Cac 9:5). Điều răn thứ sáu “ngươi chớ giết người” (Xu 20:13 NKJV) đã bị
A-bi-mê-léc cùng những tay sai ông vi phạm nhiều lần, bắt đầu ở Óp-ra với việc
họ giết hại sáu mươi chín người trong số bảy mươi anh em cùng cha khác mẹ của
A-bi-mê-léc. Vì sao ai đó không ngăn cản những kẻ sát nhân này và bảo vệ gia
đình Ghê-đê-ôn? Vì dân Y-sơ-ra-ên đã quên sự nhân từ của Chúa và cả sự tử tế
của Ghê-đê-ôn (Cac 8:33-35). Họ không có
nhận thức để quan tâm, cũng không có can đảm để can thiệp. Xã hội không phải
mất thời gian lâu để thay đổi anh hùng của hôm qua thành tên vô lại của hôm
nay. Điều mà nhà thơ Ai-len William Butler Yeats đã mô tả trong bài thơ nổi
tiếng của ông “The Second Coming” (Sự đến lần thứ hai) là đúng trong dân tộc
Y-sơ-ra-ên.
Sự thiếu thốn nhiều nhất về mọi nhận
thức, trong khi điều tồi tệ nhất đầy cuồng độ sôi động.
”Khốn thay cho kẻ dựng thành bằng sự
đổ huyết và lập ấp bằng tội ác!” (Ha 2:12
NIV). Kh 21:8 và 22:15
cho biết rõ rằng kẻ giết người sẽ đi vào địa ngục. Dĩ nhiên, một kẻ giết người
có thể kêu cầu Chúa và được cứu giống như bất cứ tội nhân nào khác có thể,
nhưng không có chứng cớ nào cho thấy A-bi-mê-léc và đám người của ông ăn năn về
tội lỗi của họ. Chân của họ “nhanh chóng làm đổ máu” (Ro
3:15 Es 59:7) và máu mà họ làm đổ ra
cuối cùng đổ lại trên đầu họ.
Tội sát nhân là đủ xấu xa, nhưng khi
anh em giết anh em, tội này thậm chí ghê tởm hơn. Bằng cách giết những anh em
cùng cha khác mẹ của mình, A-bi-mê-léc đã gia nhập hàng ngũ của những người
khác trong Kinh Thánh là những người phạm tội giết anh em, kể đến Ca-in (Sa 4:1-26), Áp-sa-lôm (IISa
13:23) và Giô-ram (IISu 21:4). Thật
không phải là đám người tử tế cho lắm.
Sự
bất lương (Cac 9:6). Điều răn thứ ba nói: “Ngươi chớ lấy danh Giê-hô-va Đức Chúa
Trời ngươi mà làm chơi” (Xu
20:7 NKJV)), và điều răn thứ chín cấm chúng ta làm chứng dối (20:16). A-bi-mê-léc đã vi phạm cả hai điều răn khi
ông được tôn làm vua. Nếu ông lập một lời thề về chức vụ trong danh Chúa, đó là
sự báng bổ hoàn toàn, và nếu ông hứa bảo vệ dân sự và vâng theo luật pháp, đó
là sự lừa dối hơn nữa (Phu 17:14-20). Cho dù
ông hứa điều gì trong lễ đăng quang, A-bi-mê-léc có chương trình riêng của mình
và dự định thực hiện nó.
Nhà báo hoài nghi Ambrose Bierce đã
định nghĩa “chính trị” là “một cuộc xung đột về quyền lợi giả trang như một
cuộc tranh luận về những nguyên tắc; sự chỉ đạo những công việc chung vì ích
lợi riêng”. Chắc chắn lịch sử ghi lại tên của những người nam người nữ tận tuỵ
đã đặt ích lợi của đất nước họ lên trên ích lợi của nhóm họ và ích lợi cá nhân,
nhưng trong trường hợp của A-bi-mê-léc định nghĩa của Bierce ứng dụng một cách
hoàn toàn.
“Lễ đăng quang” của A-bi-mê-léc là
một trò hề, một nghi thức rỗng tuếch không bao giờ được Chúa chấp nhận hay chúc
phước. “Vua” mới không chỉ báng bổ Đức Chúa Trời bởi những lời hứa ông đã lập,
ông còn làm ô uế một nơi thiêng liêng trong lịch sử Do Thái. Lễ đăng quang xảy
ra tại “cây lớn ở cột trụ tại Si-chem” (Cac 5:9
NIV). Đây có lẽ là “cây dẻ bọp của Mô-rê” nơi Chúa đã hiện ra cho Áp-ra-ham và
hứa ban cho ông cùng con cháu ông xứ này (Sa 12:6).
Chính gần địa điểm này mà dân tộc Y-sơ-ra-ên đã nghe những lời chúc phước cùng
những lời rủa sả được đọc từ luật pháp và hứa vâng lời Chúa (Phu 11:26-32 Gios
8:30-35). Gia-cốp đã chôn các hình tượng ở đây khi ông gọi gia đình mình
trở lại với Đức Chúa Trời (Sa 35:1-5), và ở
đây Giô-suê đã rao ra bài diễn thuyết cuối cùng của ông và hướng dẫn dân sự
trong việc xác định lại sự vâng phục của họ đối với Chúa (Gios 24:25-26). Toàn bộ lịch sử thiêng liêng này đã bị làm mất giá trị và bị làm ô danh bởi những
hành động ích kỷ của một người bất kính.
Sự
kiêu ngạo (Cac 9:7-21). Giô-tham là người em
trai duy nhất thoát khỏi cuộc tàn sát (c.5). Có lẽ kỷ niệm lễ đăng quang vẫn đang tiến hanh thì Giô-tham làm gián đoạn bằng câu chuyện
của ông từ núi Ga-ri-xim, kế bên Si-chem và cây dẻ bộp của Mô-rê. Chính từ núi
Ga-ri-xim mà những sự chúc phước đã được đọc (Phu
27:12,28),
nhưng câu chuyện của Giô-tham là điều gì đó ngoại trừ một sự chúc phước. Đáng
chú ý rằng chi phái của Giô-sép (Ép-ra-im và Ma-na-se) phải đứng trên núi của
sự chúc phước, nhưng A-bi-mê-léc chắc chắn đã không đem lại bât cứ phước hạnh
nào cho chi phái Ma-na-se của Ghê-đê-ôn.
Đây là câu chuyện ngụ ngôn đầu tiên
được ghi lại trong Kinh Thánh. Nhiều người có ý niệm rằng Chúa Giê-xu đã đặt ra
những câu chuyện ngụ ngôn và chúng chỉ được tìm thấy trong bốn sách Phúc Âm,
nhưng trường hợp này cũng không phải vậy. Bên cạnh “Câu chuyện về các cây” này,
Cựu Ước cũng chứa đựng “Câu chuyện về con chiên cái” (IISa
12:1-4). Câu chuyện của người đàn bà ở Thê-cô-a (IISa 14:5-20) câu chuyện về cây gai (IIVua
14:8-14), và “câu chuyện về vườn nho” (Es
5:1-7). Những lời tiên tri của Giê-rê-mi và Ê-xê-chi-ên chứa đựng những
câu chuyện tiêu chuẩn cũng như những câu chuyện “hành động” (Gie 13:1-22 18:1-19:15
27:1-28:17 Exe
4:1-5:17 16:1-63 31:1-18).
Giô-tham mô tả những cây tìm kiếm
một vua. Chúng đến gần cây ô-li-ve với dầu quý giá của nó, cây vả với trái ngọt
của nó, và cây nho với những chùm của nó có thể được làm thành rượu; nhưng tất
cả chúng đều từ chối chấp nhận vinh dự này. Chúng đều phải hy sinh cái gì đó để
cai trị, và chúng chưa được chuẩn bị để thực hiện sự hy sinh đó.
Tất cả những gì còn lại là gai gốc,
một bụi gai là mối thiệt hại vô ích trong xứ, chỉ ích lợi để làm nhiên liệu cho
lửa. Dĩ nhiên, đây là một biểu tượng về A-bi-mê-léc, vua mới. Đối với một bụi
gai, mời các cây cối khác cậy nơi bóng của nó là một lời đề nghị nực cười thật
sự! Thường vào mùa hè, lửa sẽ phát sinh trong những bụi gai, và lửa này sẽ lan
ra, đe doạ sự an toàn cua các cây (xem cách Đa-vít sử dụng hình ảnh này trong IISa 23:6-7 và cũng xem Es
9:18-19).
Giô-tham đã đưa ra quan đểm của ông:
A-bi-mê-léc “vua gai gốc” sẽ không thể bảo vệ dân sự, nhưng ông sẽ gây ra sự
xét đoán hầu đến sẽ huỷ diệt những ai tin cậy ông. Dân Si-chem lẽ ra phải xấu
hổ về cách họ đã khước từ nhà của Ghê-đê-ôn và tôn trọng một kẻ cơ hội không
xứng đáng như A-bi-mê-léc. Cuối cùng, cả A-bi-mê-léc và những kẻ theo ông sẽ
hủy diệt lẫn nhau.
A-bi-mê-léc xem mình là một cây oai
nghi có giá trị lớn, nhưng Giô-tham nói ông ta chỉ là một loài cỏ dại vô dụng.
Thật là một đòn đối với sự kiêu ngạo của vua mới! Khi chọn A-bi-mê-léc làm vua
mình, dân Si-chem đã không nhận được dầu hữu ích, trái vả ngon, hay rượu vui
mừng, họ chỉ được nhiên liệu gai góc cho lửa.
A-bi-mê-léc thật sự đang tìm cách
giật lấy vương quốc khỏi Đức Chúa trời (Cac 8:23),
và Chúa cho phép ông có một phương sách thành công. Nhưng Đức Chúa Trời vẫn ngự
trên ngôi và sẽ bảo đảm rằng những mục đích ích kỷ của con người sẽ bị thất
bại.
Thật là một điều nguy hiểm cho chúng
ta khi suy nghĩ về chính mình cao hơn điều chúng ta đáng phải nghĩ (Ro 12:3). Chúng ta đều cần phải khám phá những món
quà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta và rồi sử dụng chúng ở nơi Ngài đặt để chúng
ta. Mỗi chi thể trong thân Đấng Christ là quan trọng (ICo
12:12-31) và chúng ta đều cần nhau để giúp đỡ lẫn nhau. Vì không có sự
cạnh tranh trong công việc của Chúa (Gi 4:34-38
ICo 3:5-9), nên không cần thiết để chúng ta
đề cao chính mình. Điều quan trọng là Đức Chúa Trời nhận được vinh hiển.
2. Bảo vệ vương quốc (Cac 9:22-49)
Sau ba năm tương đối
thành công, A-bi-mê-léc thấy mình ở trong sự rắc rối. Chiếm được ngôi là một
việc và bảo vệ với cầm giữ nó hoàn toàn là một việc khác. Thị dân Si-chem đã
giúp tôn ông làm vua, bắt đầu gây rắc rối cho ông, cũng như cho ông một kẻ xâm
phạm tên là Ga-anh. Mọi điều này đến từ Chúa, Đấng sắp trừng phạt cả
A-bi-mê-léc và dân Si-chem về tội giết các con trai của Ghê-đê-ôn. “Dù những
cối xay của Đức Chúa Trời nghiến chậm, nhưng chúng nghiến hết sức nhỏ”
(Longfellow, Retribution – sự trừng phạt).
Những hoạt động ít nhất
trong ba ngày được mô tả trong phân đoạn này.
Ngày 1- Sự khoe khoang của Ga-anh (Cac 9:25-33).
Chúa tạo ra một khóa nòng giữa vua và những người theo ông, đến nỗi dân Si-chem
bắt đầu hành động chống lại vua. Họ bắt đầu cướp giựt những đoàn bộ hành đi qua
thành trên những tuyến đường buôn bán gần bên. A-bi-mê-léc đang sống tại
A-ru-ma (c.41) và những hoạt động của bọn cướp này cướp đi của ông tiền bạc và
thanh danh. Những lái buôn sẽ nghe về nguy hiểm, đi một con đường buôn bán
khác, và không phải trả cho A-bi-mê-léc bất cứ loại thuế khóa nào thường được
đánh thuế trên họ. Nhưng thậm chí hơn thế, tin này sẽ loan ra rằng vua mới
không thể điều khiển dân mình và bảo vệ khu vực thương mại.
Một người mới đã bước
vào hoàn cảnh dễ thay đổi này, Ga-anh con trai của Ê-kết, một người biết một
thời cơ thuận lợi khi ông nhìn thấy nó. Trong một thời gian ngắn, ông dành được
lòng tin của dân Si-chem, những người không hạnh phúc với vua của họ, và khi
một đám người tụ tập lại để tổ chức một lễ
hội thu hoạch, Ga-anh công khai chỉ trích chính quyền của A-bi-mê-léc, ông nhắc
dân sự rằng vua của họ có một người cha Do Thái, trong khi họ là con cái của
Hê-mô, không phải con cái Gia-cốp (Sa 34:1-31).
Tấm ván ở bục của A-bi-mê-léc mà ông nghĩ nó chắc chắn nhất (c.9) đã trở thành
cái gai trong thịt ông.
Cách tiếp cận của ông trong c.29 có
hiệu quả. Ga-anh đang sống tại Si-chem trong khi A-bi-mê-léc đang sống tại
A-ru-ma. Dân sự có thể cho Ga-anh biết những vấn đề của họ, và ông có thể cho
họ điều họ cần, nhưng làm sao họ có thể đi đến A-ru-ma để được giúp đỡ? Những
năm sau đó, Áp-sa-lôm sẽ sử dụng sự tiếp cận tương tự này và cướp đi lòng của
Y-sơ-ra-ên (IISa 15:1-6). Ga-anh kết thúc
bài diễn thuyết trong lễ hội của ông bằng cách nói: “Ta sẽ nói với A-bi-mê-léc
‘hãy triệu tâp toàn bộ quân đội của ngươi’” (Cac
9:29 NIV). Đó là một lời thách thức mà ông đã thách vua nhận lấy.
Người đại diện của A-bi-mê-léc ở
Si-chem là Xê-bun là người không lãng phí thời gian khi thông tin về Ga-anh cho
vua. Xê-bun không chỉ trình bày những nội dung của bài diễn thuyết, ông còn cho
vua chiến lược nào đó để đối phó với kẻ xâm nhập khoe khoang này. Xê-bun sẽ làm
việc cho vua trong thành và vua sẽ triệu tập những đoàn quân của ông ngoài thành.
Ngày 2 –Sự thất bại của Ga-anh (Cac 9:34-41).
A-bi-mê-léc đã sử dụng chiến lược nào đó của Ghê-đê-ôn (c.34), dù ông không có
đức tin hay những vũ khí của Ghê-đê-ôn mà Ghê-đê-ôn cùng người của ông đã sử
dụng. Bạn có cảm tưởng rằng Xê-bun đã thuyết phục Ga-anh tin rằng ông là bạn
của ông ta, vì Ga-anh thật sự tin điều giả dối Xê-bun nói với ông. Khi hai
người đứng gần cửa thành sáng sớm hôm đó, A-bi-mê-léc đang đặt bẫy và Xê-bun sẽ
đặt con mồi vào.
Khi rõ ràng là một đội
quân đang tấn công Si-chem, Ga-anh phải hành động. Trong những lời quả quyết
của tiếng Mỹ lóng, ông phải “trình diễn hoặc câm mồm”. Nếu ông trốn trong
thành, ông sẽ mất những người theo mình, bị sỉ nhục, cuối cùng bị bắt và bị
giết. Nếu ông tìm cách chạy đi, người của A-bi-mê-léc sẽ đuổi bắt ông và giết
ông. Tất cả những gì ông có thể làm là triệu tập những người theo mình và đi ra
đối mặt với A-bi-mê-léc. Đội quân của ông đã bị đuổi chạy, ông và bọn người của
ông đã bị đánh ra khỏi thành.
Ngày 3 –Sự trừng phạt Si-chem (Cac 9:42-49).
A-bi-mê-léc có nợ nữa để giải quyết và đó là với dân thành Si-chem những người
đã rủa sả ông (c.27) và đang tấn công những đoàn bộ hành, cướp của ông tiền và
danh tiếng. Sáng hôm sau, khi dân Si-chem đi ra ngoài thành, và giết những thị
dân bị mắc bẫy. Như vậy Chúa đã báo thù máu của các con trai Ghê-đê-ôn. Thật
vậy, lửa đã “ra từ gai và thiêu nuốt những cây bá hương của Li-ban” (c.15).
Nhóm từ “những cây bá hương của Li-ban” tượng trưng cho những công dân đứng đầu
của thành, những người đã ủng hộ sự cai trị của A-bi-mê-léc (c.20).
Để chắc chắn thành không
chống nghịch lại mình lần nữa, A-bi-mê-léc đã tiêu diệt thành và rắc muối lên
nó. Việc rắc muối lên một thành thị chinh phạt là một hành động tượng trưng kết
án thành cho sự tan hoang để không ai muốn sống ở đó. “Hãy rắc muối trên Mô-áp,
vì nó sẽ bị bỏ hoang, các thành của nó sẽ trở nên hoang vu, chẳng còn ai ở” (Gie 48:9 Gie 17:6).
“Tháp Si-chem” có thể chính là “nhà
của Mi-lô” được đề cập trong Cac 9:6. Đó là
nơi giới thượng lưu Si-chem sống, dù họ không biết nó nằm ở đâu có liên hệ đến
thành chính. Dân sự trốn khỏi Mi-lô đến đền thờ Ba-anh Bê-rít (“thần của giao
ước” c.4 8:33). Rõ ràng họ cảm thấy an toàn
hơn khi ở trong một tòa nhà dành cho một trong các thần của họ, hy vọng rằng
A-bi-mê-léc sẽ tôn trọng nó và để yên cho họ. Nhưng ông đã biến đền thờ thành
một lò lửa và giết tất cả những người ở trong đó.
3. Mất vương quốc (Cac 9:50-57)
Sự đổ máu vô tội là điều mà Đức Chúa
Trời xem rất nghiêm trọng và cuối cùng Ngài báo thù (Phu
19:10,13
21:9 IVua 2:31
Ch 6:17 Es 59:7
Gie 7:6 22:3,17 Gio 3:19). Năm 1990 là một năm kỷ lục về những vụ
giết người ở nước Mỹ, với 23.438 người bị giết, trung
bình gần ba người một giờ suốt cả năm. Khi bạn thêm vào sự việc này hằng ngàn
trẻ vô tội bị giết trong tử cung của mẹ, thật dễ thấy rằng “xứ của những kẻ tự
do” bị vấy máu vô tội, và một ngày nào đó chúng ta sẽ trả giá cho điều đó.
A-bi-mê-léc đã trả giá
cho những vụ giết người ông đã phạm, và điều đó xảy ra trong khi ông đang tìm
cách bảo vệ ngôi vua của mình. Vì dân trong thành Thê-bết, cách Si-chem khoảng
mười dặm, rõ ràng đã tham gia vào cuộc tổng nổi loạn chống lại A-bi-mê-léc, nên
ông đi đến đó với quân đội mình để trừng phạt họ. Giống như dân ở Beth –Millo,
thị dân Thê-bết chạy trốn đến tháp của họ và A-bi-mê-léc tìm cách sử dụng
phương pháp tấn công tương tự mà ông đã sử dụng rất thành công ở Si-chem.
Tuy nhiên, ông đã phạm
sai lầm khi đến quá gần tháp, và một người đàn bà đã ném một thớt cối lên đầu
ông và giết chết ông. A-bi-mê-léc đã kinh nghiệm một sự nhục nhã gấp ba: 1. Ông
bị giết, nhưng thật sự không phải ở chiến trận, 2. Ông bị giết bởi một người
đàn bà, là một sỉ nhục cho một chiến sĩ và 3. Ông bị giết bằng một thớt cối,
không phải một cây gươm. Việc người mang binh khí của ông đã hoàn thành công việc với một cây gươm không làm
thay đổi bất cứ điều gì, vì những thế kỷ sau đó, cái chết nhục nhã của
A-bi-mê-léc đã được nhớ đến là bị thực hiện bởi một người đàn bà (IISa 11:21).
A-bi-mê-léc đã mất mạng và mất vương
quốc của mình. Sự rủa sả được rao ra bởi Giô-tham người em cùng cha khác mẹ của
ông đã được ứng nghiệm trên A-bi-mê-léc và cả dân Si-chem (Cac 9:20). “Sự dữ sẽ giết kẻ ác, kẻ thù của người
công bình sẽ bị kết án” (Thi 34:21 NIV). “Đấng
Công Bình để ý nhà kẻ ác và đem kẻ ác đến sự sụp đổ” (Ch
21:12 NIV).
8. NGƯỜI BỊ CHỐI BỎ
TRONG ĐỊA PHƯƠNG TRỞ NÊN THÀNH CÔNG (Cac 10:1-12:15)
Đời sống và văn chương
đầy dẫy “truyền thuyết về cô bé lọ lem” những câu chuyện về những người bị từ
bỏ cuối cùng “được phát hiện” và được nhắc lên những vị trí danh dự và quyền
hạn Horatio Alger đã viết trên một trăm tiểu thuyết về những cậu bé, tập trung
vào chủ đề “từ giẻ rách đến sự giàu có” và ông đã trở thành một trong những nhà
văn Mỹ có ảnh hưởng nhất của nửa cuối thế kỷ 19. Dù đó là Áp-ra-ham Lincoln đi
từ “chiếc lều gỗ đến Nhà Trắng” hay Giô-sép từ nhà tù đến ngôi Ê-díp-tô, câu
chuyện về “người thua thiệt” thành công là câu chuyện sẽ luôn được quan tâm.
Chúng ta thích nhìn thấy những người thua cuộc trở thành những người chiến
thắng.
Câu chuyện về Giép-thê,
nhân vật chính trong những chương này, là một câu chuyện loại như thế, ngoại
trừ nó không kết thúc với người anh hùng sống “hạnh phúc mãi mãi sau đó”. Sau
đại thắng của Giép-thê trên dân Am-môn và dân Phi-li-tin, ông đã kinh nghiệm
điều gì đó ngoại trừ hạnh phúc. Và câu chuyện kết thúc với một ghi chép bi
thảm. Câu chuyện có thể được chia thành 4 cảnh.
1. Một dân tộc trong sự
suy tàn (Cac 10:1-18)
Có 3 sự thiếu hụt trong
Y-sơ-ra-ên bày tỏ chứng cớ rằng dân tộc đang suy tàn về thuộc linh.
Y-sơ-ra-ên
thiếu lòng biết ơn đối với Chúa (Cac 10:1-5).Trong bốn mươi lăm năm, Y-sơ-ra-ên đã vui
hưởng hoà bình và sự an ninh, nhờ vào sự lãnh đạo của Thô-la và Giai-rơ. Chúng
ta chẳng biết gì nhiều về hai quan xét này, nhưng việc họ giữ những kẻ thù của
Y-sơ-ra-ên tránh xa gần nửa thế kỷ cho thấy họ là những người trung tín, hầu
việc Chúa và dân tộc giỏi. Thô-la từ chi phái Y-sa-ca, và Giai-rơ từ những chi
phái bên kia sông Giô-đanh, khu vực được
biết là Ga-la-át.
Nếu Giai-rơ có ba mươi con trai, ông
chắc có nhiều vợ và khá nhiều của cải. Vào thời đó, chỉ những người giàu có mới
có thể cung cấp cho con cái họ những con lừa của họ (5:10
12:9,14). Thêm vào đó, mỗi con trai có một thành ở dưới
quyền của mình. Đối với chúng ta, sự sắp xếp này có vẻ như gia đình trị nhưng
ít nhất nó giúp giữ sự hoà bình.
Tuy nhiên, dân Y-sơ-ra-ên đã không
lợi dụng những năm hòa bình này để tăng trưởng trong mối liên hệ của họ với
Chúa. Sau khi Giai-rơ chết, dân tộc công khai trở lại với sự thờ hình tượng và
một lần nữa mời gọi sự quở phạt của Chúa. Họ đã hưởng bốn mươi lăm năm hòa bình
và thịnh vượng nhưng không để thời gian cảm tạ Chúa về điều Ngài đã làm cho họ.
Bản chất của sự thờ thần tượng là hưởng những sự ban cho của Đức Chúa Trời nhưng
không biết ơn Đấng ban cho, và Y-sơ-ra-ên đã phạm
tội.
Một trong những người
bác của tôi là một mục sư và ông ta thỉnh thoảng dùng cơm trưa vào Chúa nhật ở
gia đình chúng tôi nếu ông tình cờ giảng dạy ở nhà thờ nơi chúng tôi tham dự.
Là một chú bé, tôi có ấn tượng bởi ông, đặc biệt là cách ông yêu cầu sự ngợi
khen sau bữa ăn. Cầu nguyện trước bữa ăn là hợp lý và hợp Kinh Thánh, nhưng tại sao phải cầu nguyện sau khi bạn đã dùng xong món tráng
miệng và cà phê? Khi ấy tôi phát hiện Phu 8:10
“khi ngươi đã ăn và no nê, vậy ngươi hãy ngợi khen Chúa là Đức Chúa Trời ngươi
vì cớ xứ tốt mà Ngài đã ban cho ngươi” (NKJV). Bác Simmo của tôi xem lời khuyên
này là nghiêm túc, và có lẽ chúng ta phải noi theo gương của ông. Nếu chúng ta
làm theo, điều đó có thể giữ chúng ta khỏi sự thờ ơ với Chúa trong khi hưởng
những phước hạnh của Ngài. Sự cảm tạ quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời (Thi 69:30) và là một sự bảo vệ mạnh mẽ chống lại
sự ích kỷ và sự thờ thần tượng.
Y-sơ-ra-ên
thiếu sự đầu phục Chúa (Cac 10:6-16). Nếu dân sự chỉ nhìn lại lịch sử của chính họ và học từ đó, họ
sẽ không bao giờ từ bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời để thờ phượng những tà thần của
láng giềng họ. Từ thời Ốt-ni-ên đến thời Ghê-đê-ôn, dân Do Thái đã chịu đựng trên năm mươi năm đau đớn về sự áp bức của
kẻ thù. Giờ đây lẽ ra họ phải biết rằng Đức Chúa Trời chúc phước cho họ khi họ
vâng lời, và sửa phạt họ khi họ chống nghịch (Cac
3:17 4:1 6:1).
Xét cho cùng, đây không phải là những điều khoản của giao ước mà Đức Chúa Trời
đã lập với Y-sơ-ra-ên, một giao ước họ đã chấp nhận khi họ vào xứ đó sao? (Gios 8:30-35).
Khi Đức Chúa Trời sửa phạt chúng ta
trong tình yêu và chúng ta chịu khổ vì tội lỗi mình, thật dễ để kêu cầu Ngài về
sự giải cứu và lập mọi loại lời hứa. Nhưng khi chúng ta tiện nghi và hưởng
những ơn phước của Ngài, chúng ta có xu hướng quên Đức Chúa Trời và cho rằng
mình có thể phạm tội, và thoát được sự trừng phạt. Đời sống tiện nghi thường
tạo ra tính cách yếu đuối. Henry Ward Becher đã nói: “Hạnh phúc không phải là
đích của đời sống, đó là tính cách”. Nhưng tính cách
được xây dựng khi chúng ta thực hiện những quyết định đúng đắn trong đời sống,
và những quyết định đó được thực hiện trên cơ sở những điều chúng ta quý trọng
nhất. Vì Y-sơ-ra-ên đã không quý trọng những điều thuộc về Đức Chúa Trời, họ đã
đi đến chỗ hủy diệt chính tính cách dân tộc của riêng mình.
Chúa đã ban cho Y-sơ-ra-ên chiến
thắng trên bảy dân tộc khác nhau (Cac 10:11-12),
nhưng giờ đây Y-sơ-ra-ên đang thờ lạy bảy thần ngoại đạo khác nhau (c.6) không
có gì ngạc nhiên khi cơn giận của Đức Chúa Trời “nổi phừng cùng Y-sơ-ra-ên”
(c.7). Quả là sự dại dột khi thờ lạy các thần của những kẻ thù chiến bại của
bạn! Y-sơ-ra-ên phải bị sửa phạt lần nữa, và lần này Đức Chúa Trời đã để dân
Phi-li-tin và dân Am-môn làm công việc này. Dân Am-môn là bà con xa của dân Do
Thái, là con cháu của Lót cháu trai Áp-ra-ham (Sa
19:38). Điều đó chắc đã cho những lãnh đạo của Am-môn và Phi-li-tin sự
vui mừng lớn để chinh phục kẻ thù xưa là Y-sơ-ra-ên và áp bức họ. Các đội quân
của họ đã xâm lược miền Ga-la-át phía Đông sông Giô-đanh và sau đó vượt qua
sông để tấn công Giu-đa, Ép-ra-im và Bên-gia-min. Đó là một sự xâm chiếm gây
tàn phá và làm nhục nhã.
Lịch sử lặp lại chính nó, và dân
Y-sơ-ra-ên đã kêu cầu Đức Chúa Trời về sự giải cứu (Cac
10:10 2:11-19). Nhưng Chúa không ban
sự cứu giúp tức thời. Ngược lại, Ngài sai một sứ giả
đến với dân sự để quở trách họ về sự thiếu cảm kích của họ đối với mọi
điều Đức Chúa Trời đã làm cho họ trong quá khứ. Sau đó Đức Chúa Trời tuyên bố
rằng Ngài sẽ không giúp họ nữa. Họ có thể cầu xin những thần mới của họ để được
giúp đỡ! (Phu 32:36-38).
Dân sự từ bỏ Đức Chúa Trời là một
việc, nhưng Đức Chúa Trời từ bỏ dân Ngài hoàn toàn là một việc khác. Sự xét
đoán lớn nhất Đức Chúa Trời có thể giáng cho dân sự Ngài là để họ theo con
đường riêng của họ và không can thiệp. “Cho nên Đức Chúa Trời cũng phó họ… Đức
Chúa Trời đã phó họ… Đức Chúa Trời đã phó họ…” (Ro
1:24,26,28). Điều này quá
sức đối với dân Do Thái, nên họ đã ăn năn, cất bỏ những tà thần của họ, và cho
Đức Chúa Trời biết Ngài có thể làm cho Y-sơ-ra-ên bất cứ điều gì Ngài muốn làm
(Cac 10:15-16).
Hy vọng của họ không phải ở việc họ
ăn năn hay cầu nguyện nhưng ở tính cách của Đức Chúa Trời. “Lòng Ngài buồn rầu
vì sự khốn khổ của Y-sơ-ra-ên” (c.16). “Ngài khốn khổ trong mọi sự khốn khổ của
họ” (Es 63:9). “Song, vì lòng thương xót lớn
lao của Chúa, Chúa không tận diệt chúng, cũng không lìa bỏ chúng, vì Chúa là
Đức Chúa Trời, nhơn từ và thương xót” (Ne 9:31
NKJV). “Nhưng Ngài đầy thương xót, Ngài chuộc những tội ác của chúng nó và
không hủy diệt chúng nó. Nhiều khi Ngài kiềm chế cơn giận Ngài và chẳng nổi
giận đến cực kỳ” (Thi 78:38 NIV).
Y-sơ-ra-ên
thiếu sự lãnh đạo thích hợp (Cac 10:17-18). Dân sự được chuẩn bị để hành động, nhưng từ mọi chi phái của
Y-sơ-ra-ên, không có ai nhận sự lãnh đạo. Dù trong một quốc gia hay trong một
Hội Thánh địa phương, sự vắng mặt những lãnh đạo có khả
năng. Thường là một sự xét đoán của Đức Chúa Trời và là chứng cớ về mức độ
thuộc linh thấp kém của dân sự. Khi Thánh Linh hành động giữa vòng các tín hữu,
Ngài sẽ trang bị và kêu gọi các tôi tớ thực hiện ý muốn Ngài và chúc phước dân
sự Ngài (Cong 13:1-4).
Trong cuốn sách của mình “Profiles
in Courage” (Những tiểu sử về sự can đảm), John F.Kennedy đã viết: “Chúng ta,
những người là ông chủ, và chúng ta sẽ có loại lãnh đạo về chính trị, dù tốt
hay xấu, là điều mà chúng ta đòi hỏi và xứng đáng được”. Điều gì đúng về sự
lãnh đạo chính trị thường đúng về sự lãnh đạo thuộc linh: Chúng ta được điều
chúng ta xứngđáng. Khi dân sự Đức Chúa Trời đầu phục Ngài và hầu việc Ngài, Ngài
ban cho họ những tôi tớ tài năng để chỉ dạy và dẫn dắt họ. Nhưng khi những khao
khát của họ quay sang những điều thuộc về thế gian và xác thịt, Ngài xét đoán
họ bằng cách lấy đi của họ những lãnh đạo tốt và tin kính. “Người công bình
chết, và chẳng ai suy nghĩ điều đó trong lòng” (Es
57:1 NIV).
Sau mười tám năm hoạn nạn, dân
Y-sơ-ra-ên tập hợp lại để đối diện với những kẻ áp bức mới của họ (Cac 10:11). Có nhiều nơi trong Kinh Thánh được gọi
tên là “Mích-ba”, nơi này ở Ga-la-át (11:29 Gios 13:26). Y-sơ-ra-ên có một quân đội, nhưng họ
không có một tướng lãnh. Để có một người tình nguyện chỉ huy cho quân đội của
họ, những quan trưởng của Y-sơ-ra-ên hứa rằng người chỉ huy của họ sẽ được gọi
là quan trưởng hết thảy dân Ga-la-át. Nếu các quan trưởng của Y-sơ-ra-ên triệu
tập một buổi nhóm cầu nguyện thay cho một cuộc họp chính trị, họ sẽ thực hiện
nhiều việc hơn.
Khi tôi còn là một Cơ Đốc nhân trẻ,
tôi nghe một nhà truyền giáo giảng một bài giảng mạnh mẽ về câu Kinh Thánh
“Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Ê-li ở đâu?” (IIVua
2:14). Ông nói: “Chúng tôi biết Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Ê-li ở đây.
Ngài ngự ngôi trên trời và ngày nay Ngài đầy quyền năng y như trong thời của
Ê-li”. Rồi ông ngừng lại “Câu hỏi không phải là ‘Giê-hô-va Đức Chúa Trời của
Ê-li ở đâu?’ mà đúng hơn là ‘những Ê-li ở đâu?’”.
Thật vậy, những Ê-li ở đâu? Đâu rồi
những lãnh đạo thuộc linh có thể tập hợp dân sự Đức Chúa Trời và đương đầu với
những thế lực của tội lỗi?
2.Một lãnh đạo trong sự
yêu cầu (Cac 11:1-29,32-33)
Giờ đây chúng ta được
giới thiệu về Giép-thê, người mà Đức Chúa Trời chọn để dẫn dắt Y-sơ-ra-ên đến
chiến thắng. Ông là loại người nào?
Người
anh em không ai cần đến (Cac 11:1-3).Giép-thê không nên đổ lỗi
cho sự ra đời của mình. Ga-la-át cha ông chỉ có một vợ, nhưng ông đã giao thiệp
với một kỵ nữ và sinh ra một con trai. Ít nhất Ga-la-át đã thừa nhận cậu bé và
đem cậu bé vào gia đình mình, nhưng những con trai khác không chấp nhận “con
trai của người đàn bà lạ” này. Khi Ga-la-át chết và của thừa kế phải được phân
chia, những con trai hợp pháp đuổi Giép-thê đi. Họ chẳng nhận biết mình đang
khước từ một quan xét của Y-sơ-ra-ên trong tương lai.
Giép-thê rời địa phận
của cha ông và đi về hướng Bắc đến xứ Tóp, gần với Sy-ri-a, và ở đó ông trở
thành thủ lĩnh của một băng “những kẻ phiêu lưu” (c.3 NIV). Từ Hê-bơ-rơ nghĩa là “làm cho rỗng tuếch” và chỉ về những người thất
nghiệp tìm kiếm việc gì đó để làm (xem Cac 9:4
“những kẻ vô ích và nông nổi” đã đi theo A-bi-mê-léc. Ở đây từ này có nghĩa
“liều lĩnh”). Giép-thê đã được biết là “một người mạnh mẽ có lòng can đảm”
(c.1). Vì vậy ông không có rắc rối gì để lập một băng
cướp.
Người
lãnh đạo không bị chống đối (Cac 11:4-11). Các anh em của Giép-thê không cần ông, nhưng các trưởng lão
Y-sơ-ra-ên cần ông và phái một đại diện đi tám mươi dặm đến xứ Tóp để yêu cầu
ông đảm nhận nhiệm vụ. Lời đáp của Giép-thê
nghe như điều Đức Chúa Trời đã phán với dân sự khi họ trở lại với Ngài để được
giúp đỡ (10:13-14). Rõ ràng, các quan trưởng
Do Thái đã hợp tác với những con trai của Ga-la-át trong việc trục xuất người
anh em không ai cần khỏi xứ, nhưng Giép-thê lắng nghe họ và bảo đảm lời đề nghị
của họ có căn cứ hay không. Ông sẵn sàng chỉ huy họ chống lại kẻ thù nếu các
trưởng lão sẽ chỉ định ông là quan trưởng Ga-la-át.
Bạn không khỏi cảm kích cách
Giép-thê nhấn mạnh Chúa trong mọi sự thương lượng của ông với các quan trưởng
Y-sơ-ra-ên. Chính Chúa sẽ ban chiến thắng (11:9)
chớ không phải Giép-thê, và sự đồng ý giữa ông với các trưởng lão phải được phê
chuẩn trước Chúa tại Mích-ba (c.11 ISa 11:15).
Giép-thê đã không xem sự thách thức như một cơ hội chính trị cho bản thân nhưng
như một cơ hội để tin cậy Chúa và hầu việc Ngài. Hơn nữa, tác giả sách Hê-bơ-rơ
cho biêt rõ ràng Giép-thê là một người có đức tin, chớ không phải chỉ là một kẻ
cơ hội (He 11:32).
Chúng ta không khỏi thắc
mắc các anh em ông cảm thấy ra sao khi người mà họ từ bỏ đã trở về nhà với tư
cách chỉ huy của quân đội và quan trưởng của xứ! Hơn một “người thua thiệt”
trong Kinh Thánh đã có từng trải tương tự. Giô-sép bị các anh em mình từ bỏ và
sau đó đã trở thành vị cứu tinh của họ. Vua Đa-vít cũng mất bảy năm để dành
được sự ủng hộ hoàn toàn của mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên. Đối với vấn đề đó,
Chúa Giê-xu Christ đã bị dân Ngài khước từ nhưng sẽ được họ tiếp nhận khi Ngài
trở lại lần nữa.
Nhà
ngoại giao không thành công (Cac 11:12-23). Trước khi tuyên chiến Giép-thê thử thực hiện những thương lượng
hòa bình với dân Am-môn nhưng những thương lượng đã thất bại. Tuy nhiên, phân
đoạn này thật sự cho chúng ta biết hai điều về Giép-thê: 1. Ông biết Lời Kinh
Thánh cùng lịch sử của dân tộc mình, và 2. Ông không phải là một người nóng nảy
tìm kiếm một cuộc chiến có thể dẫn đến hằng ngàn người Do Thái bị giết, và ông
muốn tránh điều đó nếu có thể.
Vua Am-môn tuyên bố rằng
ông và người của ông chỉ đòi lại xứ mà dân Do Thái, dưới sự lãnh đạo của
Môi-se, đã đánh cắp của họ. Nếu Y-sơ-ra-ên hoàn lại xứ đó, ông ta sẽ rút quân
những Giép-thê trình bày 4 lý lẽ mạnh mẽ mà lẽ ra phải thuyết phục dân Am-môn
tin rằng họ đã sai.
Thứ
nhất, ông trình bày những sự kiện lịch sử (Cac 11:14-22). Môi-se và dân sự ông đã yêu cầu dân Am-môn về
việc đi qua an toàn trong địa phận của họ, một yêu cầu mà dân Am-môn không chấp
nhận. Điều này đã dẫn đến cuộc chiến và Đức Chúa Trời đã ban cho dân Do Thái
chiến thắng. Y-sơ-ra-ên không đánh cắp xứ nào cả, họ đã chiếm nó khỏi dân Am-môn và dân A-mô-rít (Dan
21:21-35). Hơn nữa dân A-mô-rít vốn đã chiếm đất của dân Mô-áp (21:29), vì vậy nếu những tuyên bố của Y-sơ-ra-ên
về chủ quyền bằng sự chinh phạt là không căn cứ, thì
những tuyên bố của dân A-mô-rít cũng vậy!
Lý
lẽ thứ 2 của ông là Chúa đã ban xứ cho Y-sơ-ra-ên (Cac 11:23-24).
Giép-thê luôn thận trọng quy vinh hiển cho Chúa về bất cứ chiến thắng nào
Y-sơ-ra-ên đã giành được (c.9,21,23-24). Khi những dân tộc khác chiếm địa phận
của kẻ thù họ tuyên bố rằng đó là “ý muốn của thần họ” mà họ chiếm xứ, và họ
tin các thần tượng ban cho chiến thắng. Giép-thê tuyên bố rằng Đức Chúa Trời
của Y-sơ-ra-ên là Đức Chúa Trời chân thật và ý muốn Ngài đã được làm trọn trong
việc để cho Y-sơ-ra-ên nhận lấy xứ. Chính Đức Giê-hô-va là Đấng đã ban cho
Y-sơ-ra-ên chiến thắng.
Lý
lẽ thứ 3 của Giép- thê là Y-sơ-ra-ên đã sống nhờ xứ này bao thế kỷ (Cac 11:25-26).Được
ban năng lực bởi Thánh Linh Đức Chúa Trời (3:10 6:34).
Giép-thê đã kêu gọi những người tình nguyện (12:1-2)
và tập hợp quân đội của ông. Để chắc chắn về chiến thắng, ông đã dại dột thực
hiện một mặc cả với Đức Chúa Trời, một chủ đề mà chúng ta sẽ xét đến sau đó.
Chúa đã ban cho ông chiến thắng trên dân Am-môn, và ông chiếm được hai mươi
thành trì của họ khi ông đuổi theo địch quân đang chạy trốn. Điều này sẽ bảo
đảm sự tự do và an toàn cho dân Do Thái khi họ đi lại trong địa phận Ga-la-át.
Tác giả sách Hê-bơ-rơ viết rằng
Giép-thê là một người có đức tin và chiến thắng của ông là một chiến thắng của
đức tin (He 11:32). Những hoàn cảnh về sự ra
đời hay về gia đình không phải là một sự bất lợi cho một người sẽ sống bởi đức
tin. “Vì vậy đức tin đến bởi sự nghe, và sự nghe đến bởi Lời Đức Chúa Trời” (Ro 10:17 NKJV). “Và đây là sự chiến thắng, thắng
hơn thế gian đức tin của chúng ta” (IGi 5:4
NKJV). Nhờ có đức tin và sự can đảm của Giép-thê, dân Am-môn đã không đe dọa
dân Y-sơ-ra-ên trong 50 năm nữa (ISa 11:1).
3. Một người cha thất
vọng (Cac 11:30-31,34-40)
Trong khi đi ra trận, Giép-thê đã
lập một lời thề nguyện với Chúa việc dân Do Thái lập những lời thề nguyện chắc
chắn được chấp nhận đối với Đức Chúa Trời, miễn là họ không theo luật pháp Ngài
đã ban qua Môi-se để cai trị việc xử dụng những lời thề nguyện (Le 27:1-34 Dan 30:1-16
Phu 23:21-25). Những thề nguyện hoàn toàn tự
nguyện, nhưng Chúa mong dân sự thực hiện chúng (Tr
5:1-6).
Lời thề nguyện của Giép-thê thật sự
là một mặc cả với Đức Chúa Trời: Nếu Đức Chúa Trời ban cho dân Y-sơ-ra-ên chiến
thắng trên dân Am-môn, Giép-thê sẽ tế lễ cho Đức Chúa
Trời bất cứ cái gì ra khỏi nhà ông khi ông về nhà ở Mích-ba. Đưc Chúa Trời đã
ban cho ông chiến thắng, và Giép-thê đã giữ lời hứa của ông. Nhưng lời hứa của
ông là gì và ông đã giữ lời hứa ấy thế nào? Điều gì thật sự đã xảy đến cho con
gái của Giép-thê, đứa con một của ông?
Lời
thề nguyện Bản dịch King James
viết: “Nếu Ngài nhất định phó dân Am-môn vào tay tôi, thì đó sẽ là, bất cứ vật
gì ra khỏi cửa nhà tôi để đón rước tôi, khi tôi
trở về trong sự hòa bình từ dân Am-môn, thật sự sẽ là của Chúa, và tôi sẽ dâng
nó làm của lễ thiêu” (Cac 11:30-31).
The New American Standard Bible dịch
câu này rằng: “Nếu Ngài quả thật ban dân Am-môn trong
tay tôi, thì đó sẽ là bất cứ vật gì ra khỏi cửa nhà tôi để đón rước tôi khi tôi
trở về trong sự hòa bình từ dân Am-môn, nó sẽ là của Chúa, và tôi sẽ dâng nó làm
của lễ thiêu”.
Những
câu hỏi Bạn càng nghiên cứu lời thề nguyện của Giép-thê,
nó càng trở nên gây bối rối hơn lẽ ra ông chỉ có thể nói: “Lạy Chúa, nếu Ngài
giúp tôi đánh bại kẻ thù, khi tôi về nhà, tôi sẽ dâng cho Ngài một của lễ thiêu
rời rộng”. Nhưng ông đã diễn tả lời thề nguyện của mình bằng những thuật ngữ mơ
hồ. Làm sao ông biết ai hay cái gì sẽ ra khỏi cửa nhà ông? Điều gì xảy ra nếu
vật đầu tiên chào đón ông vô tình là một con vật không thanh sạch không thể
chấp nhận đối với Đức Chúa Trời? Như vậy ông không thể làm trọn lời thề nguyện
của mình! Từ Hê-bơ-rơ được dịch là “dù vật gì” hay “bất cứ vật gì” là giống đực
và gợi ý rằng ông mong gặp một người, nhưng sẽ ra sao nếu người đó hoá ra là
một đứa con của người láng giềng hay một người hoàn toàn xa lạ? Giép-thê có
quyền gì để cất mạng sống người này hoặc
người kia và bởi đó dâng cho Đức Chúa Trời một của lễ mà ông chẳng tốn kém gì
cả (IISa 24:24).
Hơn nữa, chắc chắn Giép-thê biết
rằng Đức Giê-hô-va không đồng ý hay chấp nhận những của lễ là con người.
Giép-thê cho thấy chứng cớ về sự hiểu biết những lời Kinh Thánh Cựu Ươc, và lẽ
ra ông sẽ biết về Áp-ra-ham và Y-sác (Sa 22:1-24)
của những điều răn của luật pháp (Le 18:21 20:1-5 Phu 12:31
18:10). Thật vậy, thời kỳ các quan xét là
một kỷ nguyên tối tăm về thuộc linh trong lịch sử Y-sơ-ra-ên và dân Do Thái đã
làm nhiều điều sai trái, nhưng không chắc rằng bạn bè và láng giềng của
Giép-thê đã để ông giết đứa con gái của mình để làm trọn một lời thề dại dột.
Các lính của vua Sau-lơ đã không để ông giết Giô-na-than con trai mình, là
người đã vi phạm lời thề dại dột của cha mình (ISa
14:24-46).
Và Giép-thê sẽ dâng con gái ông làm
của lễ ở đâu? Chắc chắn ông biết rằng Chúa chấp nhận những của lễ chỉ tại bàn
thờ đền tạm (Le 17:1-9), và Chúa phải được
dâng lên bởi những thầy tế lễ dâng Lê-vi. Ông sẽ phải đi đến Si-lô để làm trọn
lời thề nguyện mình (Phu 16:2,6,11,16) và không chắc
rằng ngay cả thầy tế lễ thuộc linh nhất cũng sẽ dâng một tế lễ con người trên
bàn thờ được thánh hóa của Đức Chúa Trời, thắng lợi hoặc không có thắng lợi
(4). Thật ra, nếu dân sự biết rằng Giép-thê sẽ
đi đến Si-lô để giết con gái ông, họ có thể sẽ ngăn trở ông trên đường và bắt
cóc người con gái! Một anh hùng dân tộc như Giép-thê không thể dễ dàng giấu
điều ông sắp làm, và chắc chắn câu chuyện đã làm nhanh chóng giữa vòng dân sự
suốt thời gian hai tháng chờ đợi (Cac 11:37-39).
Nhưng thậm chí nếu ông đã đến Si-lô một cách an toàn, ông có thể học từ bất
cứ thầy tế lễ nào rằng trả một số tiền thích đáng có thể chuộc được con gái ông
(Le 27:1-8). Với tư cách một chiến sĩ thành
công vừa mới trở về từ sự tấn công kẻ thù, Giép-thê có thể dễ dàng trả giá
chuộc.
Những câu hỏi thích đáng khác xuất
hiện. Bất chấp Dan 30:1-2 Đức Chúa Trời sẽ
xem một lời thề nguyện là quan trọng mà vi phạm cả những quyền lợi con người và
luật pháp thiêng liêng sao? Một người được Thánh Linh cảm động (Cac 11:29) đầu phục Chúa (11:11),
thậm chí lập một lời thề nguyện như vậy sao? Tôi càng suy gẫm những câu hỏi
này, lời thề nguyện của ông càng trở nên khó hiểu và càng làm tôi tin rằng
Giép-thê đã không hứa dâng bất cứ của lễ con người nào cho Chúa và không giết
con gái mình.
Những
giải pháp Hơn một người trình bày đã chỉ ra rằng từ nhỏ
“và” trong nhóm từ “và tôi sẽ dâng nói” (Cac 11:31) có thể được dịch là “hoặc’. (Trong tiếng
Hê-bơ-rơ, đó là chữ “waw” thường có nghĩa là “và”. Hãy xem mở đầu của Thi 119:41 làm một ví dụ về tính chất của từ
Hê-bơ-rơ “waw”). Nếu chúng ta dùng phương pháp này, vậy lời thề nguyện có hai
ý: Bất cứ vật gì tiếp đón ông khi ông trở về nhà sẽ được dâng cho Chúa (nếu là
một người) hoặc hy sinh cho Chúa (nếu là một con vật).
Vì ông được con gái mình đón rước,
Giép-thê đã dâng cô bé cho Chúa để hầu việc Ngài tại đền tạm (Xu 38:8 ISa 2:22).
Nàng vẫn là một gái đồng trinh, nghĩa là nàng sẽ không biết những niềm vui của
chức làm mẹ và làm bất diệt di sản của cha nàng trong Y-sơ-ra-ên. Đây sẽ là một
lý do để nàng và các bạn nàng trải qua hai tháng buồn rầu, vì mọi con gái cần
có một gia đình và mọi người cha cần con cháu để duy trì di sản gia đình.
Không chỗ nào trong bản văn mà chúng
ta được cho biết rằng Giép-thê thật sự đã giết con gái ông, chúng ta cũng không
thấy ai khóc than cái chết của người con gái. Sự nhấn mạnh trong Cac 11:37-40 là việc nàng vẫn là gái đồng trinh.
Thật khó tin rằng “các con gái Y-sơ-ra-ên” sẽ lập một tập tục để kỷ niệm (không
phải “than khóc” như trong KJV) của lễ con người đáng kính, nhưng chúng ta có
thể hiểu rõ rằng họ sẽ tưởng nhớ sự dâng mình và vâng phục của con gái Giép-thê
trong việc giúp cha nàng làm trọn thề nguyện của ông. Nàng xứng đáng sánh với
Y-sác như một đứa con trung tín, sẵn sàng vâng lời cha và Đức Chúa Trời, dù cái
giá là gì.
4. Một quan trưởng
trong sự phòng thủ (Cac
12:1-5)
Sự
tố cáo (Cac 12:1). Các quan trưởng của chi phái Ép-ra-im bày tỏ trước Giép-thê sự
kiêu ngạo và tức giận tương tự như họ đã tỏ trước Ghê-đê-ôn (8:1). Như trước
đó, họ muốn dự phần vinh quang của chiến thắng, nhưng họ đã không quá hăng hái
để liều mạng trong cuộc chiến. Người Ép-ra-im quá tức
giận đến nỗi họ dọa đốt nhà Giép-thê. Họ hoàn toàn không có sự tôn trọng đối
với vị quan trưởng mới của các chi phái bên kia sông Giô-đanh.
Lời
giải thích (Cac 12:2-3). Ghê-đê-ôn đã làm dân Ép-ra-im nguôi giận bằng sự tán tụng,
nhưng Giép-thê sử dụng một phương cách trực tiếp hơn. Trước hết, ông nhắc họ rằng
mối quan tâm đầu tiên của ông là đánh bại dân Am-môn, không phải làm hài lòng
những láng giềng của ông. Thứ hai, suốt tám năm Am-môn đã hà hiếp dân Ga-la-át,
không ai từ Ép-ra-im đề nghị đến cứu họ. Thứ ba, Giép-thê đã đưa ra một lời kêu
gọi các chi phái giúp đỡ ông trong cuộc tấn công kẻ thù của ông, nhưng Ép-ra-im
đã không hưởng ứng. Không cần sự giúp đỡ của họ, Chúa đã ban chiến thắng cho
Giép-thê và quân đội của ông, vì vậy dân Ép-ra-im kiêu ngạo (những kẻ không
thích bị bỏ quên) không có gì để phàn nàn.
Cuộc
chạm trán (Cac 12:4-7). Có lẽ Giép-thê nên thực hành Ch 15:1 17:14
và tránh một cuộc chiến, nhưng sau đó có thể đã đến lúc ai đó gợi lên sự lừa
gạt của Ép-ra-im và dạy họ một bài học. Dân Ép-ra-im thường rủa sả và nhạo báng
dân Ga-la-át bằng cách gọi họ là “những kẻ phản bội từ Ép-ra-im và Ma-na-se” (Cac 12:4 NIV). Thật sự, các chi phái phía Tây sông
Giô-đanh. Ru-bên, Gát và nửa chi phái Ma-na-se – đã được Môi-se và Giô-suê ban
cho xứ họ (Dan 32:1-42 Gios 22:1-34). Vì vậy, những lời của dân Ép-ra-im
là một sự sỉ nhục đối với Chúa và các tôi tớ Ngài.
Khi người ta sai trái và không chịu
chấp nhận lý lẽ lô-gíc và nhận lỗi mình, họ thường quay sang bạo lực để bảo vệ
thanh danh mình. Đây là nguyên nhân gây ra những bất đồng gia đình, những mâu
thuẫn trong Hội Thánh, và những xung đột thế giới (Gia
4:1-12). Nhưng Giép-thê đã bắt những kẻ kiêu ngạo nhất của Ép-ra-a-im và
giết bốn mươi hai ngàn chiến sĩ của họ. Dân Ép-ra-im tự họ đã trở nên “những kẻ
phản bội”, vì từ “trốn thoát” trong Cac 12:5
chính là từ “kẻ trốn tránh (kẻ phản bội)” trong c.4. Họ phải ăn những lời nói
của mình và mất mạng!
Dân Ép-ra-im có sự phát âm riêng
theo vùng của họ về từ “Si-bô-lết” nghĩa là “lòng sông” hoặc “nước sông”. Họ
nói “si-bô-lít” và điều này để lộ họ ra (Mat 26:73).
Đó là một thử nghiệm đơn giản, nhưng nó hiệu quả. Vì câu chuyện này, từ
“si-bô-lết” đã trở thành một phần của một từ vựng tiếng Anh và giờ đây được tìm
thấy trong các từ điển của chúng ta. Nó đại diện cho bất cứ loại thử nghiệm nào
mà một nhóm người đưa ra cho những người ngoài cuộc để thấy họ có thật sự thuộc
về nhóm đó không. Thường thì “Si-bô-lết” là một ý niệm hoặc học thuyết cũ kỹ mà
thật sự không quan trọng. Tuy nhiên, trong trường hợp của Ép-ra-im, nó trị giá
bốn mươi hai ngàn mạng người.
Sau sự thất bại của Am-môn và sự
trừng phạt Ép-ra-im, dân Do Thái có ba mươi mốt năm hòa bình và yên ổn dưới sự
lãnh đạo của Giép-thê và ba người tiếp nối ông. Nghịch lý làm sao khi Giép-thê
người vô địch chẳng có gia đình trong khi Lếp-san có ba mươi con trai với ba mươi
con gái và Áp-đôn có bốn mươi con trai với ba mươi cháu trai.
Tuy nhiên, Sam-sôn, quan xét cuối
cùng được Đức Chúa Trời ban cho dân sự Ngài là người nghịch lý nhât trong tất
cả: một người giải cứu không thể giải cứu chính mình, một người chinh phục
không thể chinh phục chính mình, một người mạnh mẽ không biết khi nào mình yếu
đuối.
Cac 12:6-15; xem giải nghĩa Cac 10:1-18
9. ÁNH SÁNG LUNG LINH (Cac 13:1-14:20)
“Đó là một điều khó hiểu
được bao bọc trong một bí mật bên trong một người khó hiểu”. Trong một bài diễn
thuyết phát thanh ngày 1/10/1939, đó là cách ông Winston Churchill mô tả những
hành động của người Nga trong thời của ông. Nhưng điều ông nói về những hành
động của người Nga có thể được áp dụng cho Sam-sôn, vị quan xét cuối cùng, vì
cách cư xử của ông là “một điều khó hiểu được bao bọc trong một bí mật bên
trong một người khó hiểu.”
Sam-sôn thuộc dạng không
thể đoán trước được và không thể tin cậy được vì ông phân
tâm, và “một người phân tâm không ổn định trong mọi việc của mình” (Gia 1:8). Người ta
thường nói rằng “khả năng lớn nhất là tính có thể tin cậy được” và bạn có thể
tin cậy nơi Sam-sôn để không thể trông mong gì được.
Can đảm trước những
người đàn ông, Sam-sôn đã yếu đuối trước những người đàn bà và không thể cưỡng
lại việc cho họ biết những bí mật của mình. Được Thánh Linh Đức Chúa Trời ban
năng lực, ông đã nộp thân thể mình cho những tham muốn của thể xác. Được kêu gọi để tuyên chiến với dân Phi-li-tin, ông đã kết
thân với kẻ thù và thậm chí tìm cách cưới một người nữ Phi-li-tin. Ông tham gia
những cuộc chiến của Chúa ban ngày, và bất tuân những điều răn của Chúa ban
đêm. Được đặt cho cái tên Sam-sôn, có nghĩa là “nắng”, ông đã kết thúc trong sự
tối tăm, bị làm mù lòa bởi chính kẻ thù mà ông tưởng đã chinh phục.
Bốn chương trong sách Các quan xét
được dành cho lịch sử về Sam-sôn. Trong Cac 13:14
chúng ta được giới thiệu về “nắng” và cha mẹ ông, và chúng ta thấy ánh sáng
lung linh khi Sam-sôn đùa với tội lỗi. Trong Cac
15:16 ánh sáng tắt và Sam-sôn chết như một người tử đạo dưới sự đổ nát
của một đền thờ ngoại đạo, một kết thúc đáng buồn đối với một đời sống đầy hứa
hẹn (1).
Chúng ta hãy mở album gia đình của
Sam-sôn và nghiên cứu ba bức tranh của Sam-sôn được
chụp đầu tiên trong sự nghiệp của ông.
1. Đứa trẻ với lời hứa
khó tin (Cac 13:1-23)
Hãy xem xét lời hứa lớn
lao được bao bọc trong con người tên Sam-sôn này.
Ông có một dân tộc để
bảo vệ (Cac 13:1). Với sự đều đặn tẻ
nhạt mà chúng ta đã đọc nhóm từ này trong sách Các quan xét (3:7,12 4:1-2 6:1 10:6-7), và ở đây nó xuất hiện lần cuối. Nó giới
thiệu thời kỳ áp bức dài nhất mà Đức Chúa Trời giáng cho dân sự Ngài, 40 năm
thống trị của dân Phi-li-tin.
Dân Phi-li-tin (2) ở giữa vòng “dân
biển” là những người trong thế kỷ thứ 12 TC đã di trú từ một vùng của Hy Lạp
đến đồng bằng ven biển của Ca-na-an. Dân Do Thái đã không thể chiếm địa phận đó
suốt cuộc chinh phạt xứ của họ (Gios 13:1-2).
Khi bạn nghiên cứu bản đồ, bạn sẽ để ý rằng đời sống dân tộc tập trung quanh
năm thành chính: Ách-đốt, Ga-xa, Ách-kê-lôn, Gít, và Éc-rôn (ISa 6:17). Xứ giữa vùng đồi của Y-sơ-ra-ên và đồng
bằng ven biển được gọi là “Shephelah”, nghĩa là “vùng thấp”, và nó phân cách
Phi-li-tin với Y-sơ-ra-ên. Sam-sôn được sinh ra ở Xô-rê-a, một thành hay chi
phái Đan gần biên giới Phi-li-tin, và ông thường vượt biên giới đó để hầu việc
Đức Chúa Trời hoặc để thỏa mãn những khao khát của mình.
Sam-sôn xét đoán Y-sơ-ra-ên “trong
thời kỳ dân Phi-li-tin” (Cac 15:20) nghĩa là
hai mươi năm trong chức vụ của ông là suốt bốn mươi năm thống trị của
Phi-li-tin. Tấn sĩ Leon Wood ghi niên hiệu khởi đầu sự áp bức của Phi-li-tin
khoảng năm 1095 TC và kết thúc vào năm 1055 TC với chiến thắng của Y-sơ-ra-ên
tại Mích-ba (ISa 7:1-17). Khoảng giữa thời
kỳ này xảy ra cuộc chiến A-phéc khi Y-sơ-ra-ên bị dân Phi-li-tin đánh bại một
cách nhục nhã và mất hòm giao ước cùng ba thầy tế lễ (ISa
4:22). Tiến sĩ Wood gợi ý rằng chức quan xét của Sam-sôn bắt đầu khoảng
thời gian bi kịch tại A-phéc và công việc chính của ông là quấy rầy dân
Phi-li-tin và ngăn trở họ tràn vào xứ thành công và đi dọa dân sự (3).
Đáng chú ý rằng không có chứng cớ
nào được trình bày trong bản văn cho thấy Y-sơ-ra-ên đã kêu cầu Đức Chúa Trời
về sự giải cứu bất cứ lúc nào suốt 40 năm thống trị của Phi-li-tin. Dân
Phi-li-tin đã lột vũ khí của dân Do Thái (ISa
13:19-23) và vì vậy chẳng sợ gì về một cuộc nổi dậy. Cac 15:9-13 cho thấy rằng dân Do Thái rõ ràng bằng
lòng với số phận của họ và không muốn Sam-sôn “lắc lư chiếc thuyền”. Thật đáng
sợ cách chúng ta có thể nhanh chóng quen với ách nô lệ và biết cách chấp nhận
hiện trạng. Nếu dân Phi-li-tin hà khắc hơn đối với dân Do Thái, có lẽ dân Do
Thái sẽ cầu xin Đức Giê-hô-va giúp đỡ.
Không giống đa số các quan xét
trước, Sam-sôn đã không giải cứu dân sự ông khỏi sự thống trị ngoại bang nhưng
ông bắt đầu công việc giải cứu mà những người khác sẽ hoàn thành (13:5). Là một anh hùng mạnh mẽ và không thể đoán
trước được, Sam-sôn đã làm sợ hãi và gây rối cho dân Phi-li-tin (16:24) và ngăn trở họ tàn phá Y-sơ-ra-ên như những
quốc gia xâm lược khác đã làm. Nhưng sẽ cần những lời cầu nguyện của Sa-mu-ên (ISa 7:1-17) và những cuộc chinh phạt của Đa-vít (IISa 5:17-25) để hoàn thành công việc mà Sam-sôn
đã bắt đầu và cho Y-sơ-ra-ên chiến thắng hoàn toàn trên dân Phi-li-tin.
Ông có một Đức Chúa
Trời để hầu việc (Cac
13:2-5). Chi phái Đan vốn là xứ được phân định gần kề Giu-đa và
Bên-gia-min, kéo dài đến Biển Địa Trung Hải (Gios
19:40-48). Tuy nhiên, vì dân Đan không thể đuổi cư dân ven biển được,
nên chi phái này đã đặt lại vị trí mới và đi đến phía Bắc (Cac 18:1-19:30), dù một số người ở lại trong địa
phương ban đầu. Xô-rê-a cách Giê-ru-sa-lem khoảng mười lăm dặm ở trong vùng đồi
gần biên giới Phi-li-tin.
Khi Đức Chúa Trời muốn làm điều gì
thật sự lớn lao trong thế giới của Ngài, Ngài không sai một đạo quân ngoài một
thiên sứ. Thiên sứ này thường thăm viếng một cặp vợ chồng và hứa ban cho họ một
đứa con. Kế hoạch lớn lao của Ngài về sự cứu rỗi đã bắt đầu tiến hành khi Ngài
gọi Áp-ra-ham Sa-ra và ban cho họ Y-sác. Khi Ngài muốn giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi
ách nô lệ của dân Ê-díp-tô, Đức Chúa Trời đã ban em bé Môi-se cho Am-ram với
Giô-kê-bết (Xu 6:20) và khi trong những năm
sau đó Y-sơ-ra-ên hết sức cần sự phục hưng. Đức Chúa Trời đã ban em bé Sa-mu-ên
cho An-ne (ISa 1:1-28). Khi thời điểm trọn
đã đến, Đức Chúa Trời đã ban Hài nhi Giê-xu cho Ma-ri, và em bé đó đã lớn lên
để chịu chết trên thập tự giá vì tội lỗi của thế gian.
Những em bé vốn yếu ớt, nhưng Đức
Chúa Trời sử dụng những sự yếu của thế gian để đánh bại sự mạnh mẽ (ICo 1:26-28). Những em bé phải có thời gian để lớn
lên, nhưng Đức Chúa Trời kiên nhẫn và không bao giờ chậm trễ trong việc thực
hiện ý muốn Ngài. Mỗi em bé Đức Chúa Trời ban là món quà từ Đức Chúa Trời, một
khởi đầu mới và mang theo nó tiềm năng to lớn. Thật là một bi kịch khi chúng ta
sống trong một xã hội xem em bé trong tương lai như một mối đe dọa thay vì một
phép lạ, một kẻ xâm phạm thay vì một di sản.
Chúng ta có mọi lý do để tin “thiên
sứ của Đức Giê-hô-va” Đấng thăm viếng vợ của Ma-nô-a là Chúa Giê-xu Christ, Con
Đức Chúa Trời (Sa 22:1-18 31:11-13 Xu 3:1-6
Cac 6:11-24). Giống như Sa-ra (Sa 18:9-15), An-ne (ISa
1:1-28) và Ê-li-sa-bét (Lu 1:5-25),
vợ của Ma-nô-a son sẻ và chưa bao giờ mong có một đứa con. Vì chính người mẹ là
người sẽ có ảnh hưởng lớn nhất trên đứa con, cả trước và sau khi ra đời, nên
thiên sứ long trọng giao cho bà điều phải làm.
Giống như Giăng Báp-tít, Sam-sôn sẽ
là một Na-xi-rê từ trong lòng mẹ (Lu 1:13-15).
Từ Na-xi-rê đến từ một từ Hê-bơ-rơ có nghĩa là “biệt riêng hiến dâng”. Nhưng
Na-xi-rê là người trong một khoảng thời gian nhất định nào đó, dâng mình cho
Chúa một cách đặc biệt. Họ kiêng uống rượu và các thứ uống mạnh, họ tránh chạm
đến xác chết, và như một dấu hiệu của sự dâng mình, họ để tóc dài. Những luật
có liên quan đến lời thề nguyện Na-xi-rê được trình bày trong Dân số ký.
Vợ của Ma-nô-a phải thận trọng vật
gì bà ăn và uống vì chế độ ăn uống của bà sẽ ảnh hưởng đến đứa con trai
Na-xi-rê tương lai của bà và có thể làm ô uế đứa con ấy. Thật quá tệ khi mọi
người mẹ tương lai không thực hành lời cảnh cáo. Vì trong những năm gần đây,
phương tiện truyền tin cho chúng ta biết về những hậu quả đáng buồn rằng các
trẻ sơ sinh chịu khổ khi mẹ chúng sử dụng thuốc lá, rượu, thuốc ngủ suốt thai
kỳ. Lời thề nguyện Na-xi-rê của Sam-sôn không phải là điều gì đó do ông tự
nguyện thực hiện: Đức Chúa Trời đã ban điều đó cho ông, và mẹ ông là một phần
của của lời thề nguyện về sự dâng hiến. Bà không chỉ phải tránh bất cứ thứ gì
liên quan đến nho, mà bà còn phải tránh những thức ăn không tinh sạch đối với
dân Do Thái (Le 11:1-47 Phu 14:3-20).
Thông thường, một lời
thề nguyện Na-xi-rê được dành cho một khoảng thời gian giới hạn, nhưng trong
trường hợp của Sam-sôn, lời thề nguyện phải kéo dài trọn đời ông (Cac 13:7). Đây là điều mà Ma-nô-a và vợ ông sẽ phải dạy cho con trai họ,
và họ cũng sẽ phải giải thích vì sao họ không cắt tóc con trai mình. Những yêu
cầu của Đức Chúa Trời là dành cho đứa trẻ này, và đó là bổn phận của cha mẹ để
rèn luyện đứa trẻ cho công việc Đức Chúa Trời đã sai đứa trẻ ấy làm.
Ông
có một gia đình để tôn trọng (Cac 13:6-23). Vợ của Ma-nô-a lập tức cho chồng bà biết về
sự viếng thăm và sứ điệp của vị khách lạ, dù không ai trong số họ biết rằng vị
khách ấy là Chúa (c.16). Ma-nô-a cho rằng vị ấy là “một người của Đức Chúa
Trời”, có lẽ một tiên tri đến thăm viếng và ông cầu nguyện để Chúa sẽ sai người
ấy trở lại, chúng ta không khỏi có ấn tượng với sự tận tụy của vợ chồng này đối
với nhau và đối với Chúa. Thời kỳ các quan xét là một thời kỳ về sự bỏ đạo và
tình trạng vô chính phủ, nhưng Đức Chúa
Trời vẫn hành động qua họ.
Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu nguyện
của Ma-nô-a và cho ông một cơ hội để đặt một câu hỏi quan trọng mà thiên sứ của
Chúa chưa bao giờ trả lời: “Khi nào những lời của ông được ứng nghiệm, đâu là
luật lệ cho đời sống và công việc của đứa trẻ?” (c.12 NIV). Luật Cựu Ước không
chỉ trình bày những chỉ dẫn có liên quan đến người Na-xi-rê cùng thức ăn tinh
sạch và không tinh sạch, mà còn cho các cha mẹ biết cách nuôi dạy con cái (Phu 6:1-25). Không cần thiết để Chúa trình bày cho
Ma-nô-a và vợ ông những chỉ dẫn khi Lời của Đức chúa Trời đã cho họ biết điều
gì phải làm. Vị sứ giả chỉ lặp lại lời cảnh báo mà người đã ban cho vợ của
Ma-nô-a.
Muốn làm một chủ nhà tốt và đáng cảm
kích, Ma-nô-a yêu cầu vị khách chờ đợi trong lúc ông và vợ ông chuẩn bị một bữa
ăn cho người (Cac 6:18-19 Sa 18:1-8). Lời đáp khó hiểu của vị khách lạ đó là
người sẽ không ăn thức ăn của họ nhưng sẽ cho phép họ dâng một của lễ thiêu cho
Đức Giê-hô-va. Xét cho cùng, đứa con trai được hứa ban của họ là một món quà từ
Đức Chúa Trời, và họ nợ Chúa sự thờ phượng cùng sự tạ ơn.
Nhưng Ma-nô-a tự nhủ, “nếu ta không
thể tôn trọng người này của Đức Chúa Trời bây giờ có lẽ ta có thể làm điều đó
trong tương lai khi những lời của người trở thành sự thật và đứa con trai được
sinh ra” (Chú ý ràng Ma-nô-a tin lời rao báo và nói rằng “khi” chớ không phải
“nếu”). Ma-nô-a sẽ phải biết tên của người ấy, để ông có thể tìm đến người sau
chín tháng, nhưng người ấy không muốn cho biết tên mình ngoại trừ nói rằng tên
ấy “diệu kỳ” (Sa 32:29). Đây chính là lời
được dùng để định danh Đấng Mê-si-a trong Es 9:6
nó được dịch là “diệu kỳ” trong Cac 13:19
của KIV, (NIV nói; “sự gây kinh ngạc”).
Thông thường, những người Do Thái
thờ phượng đem của lễ họ đến bàn thờ đền tạm ở Si-lô, nhưng vì “người Đức Chúa
Trời” ra lệnh cho Ma-nô-a dâng của lễ thiêu, nên làm việc ấy tại đó có thể được
cho phép, bằng cách dùng một hòn đá làm bàn thờ. Bất ngờ, vị khách thăng thiên
trong ngọn lửa! Chỉ khi ấy Ma-nô-a và vợ ông mới khám phá rằng vị khách của họ
là một thiên sứ từ Đức Giê-hô-va. Điều này khiến Ma-nô-a hoảng sợ, vì dân Do
Thái tin rằng không ai có thể nhìn lên Đức Chúa Trời và sống (6:19-23). Sử dụng ý thức thông thường, vợ của
Ma-nô-a thuyết phục ông tin rằng họ không thể chết và thực hiện những lời hứa
của Đức Chúa Trời cùng một lúc.
Mọi đứa trẻ sinh ra trong một gia
đình tin kính đều mang trách nhiệm tôn trọng thanh danh của gia đình. Đời sống
mâu thuẫn của Sam-sôn đã đem đến sự nhục nhã cho nhà cha ông cũng như nó đã đem
đến sự sỉ nhục cho danh của Chúa. Những người bà con của Sam-sôn đã phải kéo
xác ông ra khỏi đống đổ nát của đền thờ Phi-li-tin và đem xác về nhà để chôn
cất (16:31). Theo một ý nghĩa nào đó, đó là
một ngày chiến thắng trên những kẻ thù của Đức Chúa Trời, nhưng đó cũng là một
ngày thất bại đối với gia đình của Sam-sôn.
2. Nhà vô địch với sức
mạnh không thể đánh bại (Cac 13:24-25)
Đứa bé đã ra đời và được đặt tên là
Sam-sôn, nghĩa là “nắng” hay “sự rực rỡ”. Chắc chắn ông đã đem đến ánh sáng và
niềm vui cho Ma-nô-a cùng vợ ông, những người nghĩ họ sẽ không bao giờ có một
gia đình, và ông cũng bắt đầu đem đến ánh sáng cho Y-sơ-ra-ên suốt những ngày
tối tăm trong sự áp bức của Phi-li-tin. Trong khi những quan xét khác được nói
rằng họ được mặc bởi Thần của Đức Chúa Trời (3:10
6:34 11:29),
chỉ Sam-sôn được nói rằng “Đức Giê-hô-va ban phước cho người” (13:24 Lu 1:80 2:52). Bàn tay Đức Chúa Trời ở trên ông cách đặc
biệt.
Bí mật về sức mạnh to lớn của
Sam-sôn là lời thề nguyện Na-xi-rê của ông, được tượng trưng bằng tóc không cạo
của ông (Cac 16:17) và nguồn sức mạnh đó là
Thánh Linh của Đức Chúa Trời (13:25 14:6,19 15:14).
Chúng ta không được cho biết rằng cơ thể của Sam-sôn đặc biệt khác với cơ thể
của người khác, dù ông có thể giống những người mạnh mẽ được mô tả trong các
sách chuyện Kinh Thánh. Có lẽ khi ông bước vào những năm thiếu niên, lúc một
đứa con trai Do Thái trở thành một “con trai của luật pháp”, thì ông bắt đầu
bày tỏ khả năng đáng kinh ngạc của mình.
Chỉ một ít đại công của Sam-sôn được
ghi lại trong sách Các quan xét: giết sư tử bằng tay không (14:5-6), giết ba mươi người Phi-li-tin (c.19), bắt
ba trăm con cáo (hoặc chó rừng) và cột đuốc vào đuôi chúng (15:3-5) bứt dây trói (15:14
16:9,12,14), giết một ngàn người bằng hàm lừa (15:15), đem cửa thành ra khỏi Ga-xa (16:3), và phá hủy đền thờ Phi-li-tin (c.30). 16:24 cho thấy ông đã thực hiện nhiều chiến công
hơn những chiến công được liệt kê ở trên, những chiến công đã gây thiệt hại cho
dân Phi-li-tin.
Khi bạn suy gẫm sự ghi chép về cuộc
đời của Sam-sôn, bạn có cảm tưởng rằng ông là một chàng trai trích đùa với một
tính hài hước, và đôi khi ông không xem trọng những tài năng và công việc của
mình. Một tính hài hước là một điều tốt đẹp để có, nhưng nó phải được quân bình
với sự tận tụy nghiêm túc cho những điều thuộc về Chúa. “Khá hầu việc Đức
Giê-hô-va cách kính sợ, và mừng rỡ cách run rẩy” (Thi
2:11). Sứ mạnh của Sam-sôn là một vũ khí để chiến đấu và là một công cụ
để xây dựng, không phải là một món đồ chơi để chơi.
Hãy để ý một điều nữa, Sam-sôn là
một người cô đơn, không giống các quan xét trước, ông không bao giờ “tập hợp
quân” và tìm cách hiệp nhất Y-sơ-ra-ên trong việc ném bỏ ách của Phi-li-tin.
Trong hai mươi năm ông đóng vai trò người vô địch, nhưng ông đã không đóng vai
người lãnh đạo. Joseph Parker đã nói rằng Sam-sôn là “một con voi về sức mạnh
nhưng là một em bé về sự yếu đuối”. Chúng ta có thể thêm vào rằng khi nói về chức
lãnh đạo, ông là một con chiên lạc mất!
3. Người có tính cách
không thể tin cậy (Cac
14:1-20)
Theo He
11:32 Sam-sôn là một người có đức tin, nhưng ông chắc chắn không phải là
một người trung tín. Ông không trung tín với sự dạy
dỗ của cha mẹ ông, với lời thề nguyện Na-xi-rê, hay những luật lệ của Chúa,
không mất thời gian lây để Sam-sôn đánh mất mọi sự Chúa đã ban cho ông, ngoại
trừ sức mạnh to lớn của ông, và cuối cùng ông cũng mất sức mạnh đó.
Ông
đánh mất sự tôn trọng của mình đối với cha mẹ (Cac 14:1-4). Chúa đã ban cho Sam-sôn một di sản tin kính,
và ông đã được dạy dỗ để tôn trọng Chúa, nhưng khi Sam-sôn rơi vào tình yêu,
ông không muốn nghe cha mẹ mình khi họ cảnh cáo ông. Sam-sôn đã lang thang bốn
dặm trong địa phận của kẻ thù nơi ông bị một người nữ Phi-li-tin quyến rũ và quyết định cưới nàng. Dĩ nhiên,
điều này trái với luật pháp Đức Chúa Trời (Xu
34:12-16 Phu 7:1-3 IICo 6:14-18).
Sam-sôn đang sống bởi ngoại cảnh chớ
không bởi đức tin. Ông bị điều khiển bởi “tư dục của mắt” (IGi 2:16) hơn là bởi luật pháp của Chúa. Điều quan
trọng đối với Sam-sôn không phải là làm đẹp lòng Chúa, thậm chí không phải là
làm đẹp lòng cha mẹ ông, nhưng làm đẹp lòng chính ông (Cac
14:3,7
IICo 5:14-15).
Khi Đức Chúa Trời không được cai trị
trong đời sống chúng ta. Ngài tể trị và thực hiện ý muốn Ngài bất chấp những
quyết định của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta là người thua cuộc để chống lại
Ngài, nhưng Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành những mục đích của Ngài với chúng ta
hoặc bất chấp chúng ta (Exo 4:10-14).
Sam-sôn lẽ ra phải đến một cuộc chiến thay vì đến một lễ cưới, nhưng Đức Chúa
Trời sử dụng sự kiện này để cho Sam-sôn cơ hội tấn công kẻ thù. Bởi sự kiện
này, Sam-sôn đã giết ba mươi người (Cac 14:19)
đốt mùa màng của kẻ thù (15:1-5), giết những
người Phi-li-tin (c.7-8) và giết 1.000 người khác nữa (c.15). Sam-sôn đã không
vạch kế hoạch cho những việc này, nhưng Đức Chúa Trời đã thực hiện chúng như vậy.
Ông
đã đánh mất sự biệt riêng Na- xi- rê (Cac 14:5-9). Khi Sam-sôn cùng cha mẹ ông đi xuống Thim-na để sắp đặt cho hôn nhân, có vẻ rằng Sam-sôn đã rời con đường
chính (và cha mẹ ông) rồi đi một đường vòng vào trong vườn nho, và ở đó một con
sư tử đã tấn công ông. Vườn nho là một nơi nguy hiểm đối với một người không
được xem là có việc gì để làm với trái nho (Dan
6:1-4). Phải chăng Đưc Chúa Trời đã sai con sư tử đến như một sự cảnh
cáo cho Sam-sôn rằng ông đang đi trên con đường sai lạc? Thánh Linh đã ban cho
Sam-sôn sức mạnh để đánh bại kẻ thù, nhưng Sam-sôn cứ ở trên con đường bất tuân
của ông để vào địa phận kẻ thù và một lễ cưới bất hợp pháp.
Vài tuần lễ sau đó, khi Sam-sôn trở
lại để thỉnh cầu cô dâu của ông một lần nữa ông đi vào trong vườn nho. Lần này
để nhìn chiến tích của ông và có lẽ hả hê về chiến thắng của mình. Tội lỗi của
ông bắt đầu bằng “tư dục của xác thịt” và “tư dục của mắt” và giờ đây nó kể đến
“sự kiêu ngạo của đời sống” (IGi 2:16). Khi
Sam-sôn ăn mật ông từ xác sư tử, ông đã bị ô uế bởi một xác chết, và phần dâng
hiến Na-xi-rê của ông đã bị hủy hoại. Thật ra, hai phần ba lời thề nguyện của
ông giờ đây đã mất vì ông đã làm ô uế chính mình bằng cách đi vào vườn nho và
bằng cách ăn thực phẩm từ một xác chết.
Ông
đánh mất sự điều khiển của lưỡi mình (Cac 14:10-18). Vì Sam-sôn đã không đem theo bất cứ người nào
đi với ông để phục vụ như “các bạn của chàng rễ”
(Mat 9:15 NKJV), dân Phi-li-tin đã tập họp
ba mươi người để làm công việc này cho ông. Những người này có thể cũng đã phục
vụ như lính canh cho dân Phi-li-tin. Vì tiếng tăm của Sam-sôn đã đặt trước ông,
và họ không bao giờ biết chắc ông sẽ làm gì kế tiếp. Vì không khí chắc đã căng
thẳng vào đầu buổi tiệc, nên Sam-sôn tìm cách làm cho mọi sự náo nhiệt bằng
cách đưa ra một câu đố. Đáng buồn mà nói, ông đã đặt câu đố từ kinh nghiệm tội
lỗi mình! Ông đã không xem quan trọng việc ông vi phạm những lời thề nguyện Na-xi-rê
của mình. Bất tuân Đức Chúa Trời là cũng đủ tệ hại, nhưng khi bạn làm trò đùa
từ đó, bạn đã chìm xuống những độ sâu mới của tính vô cảm về thuộc linh.
Sẽ là một điều đắt giá
để ba mươi vị khách cung cấp cho Sam-môn sáu mươi bộ quần áo, vì vậy họ hết sức
muốn biết câu trả lời cho câu đó. Sự trông cậy duy nhất của họ là tranh thủ sự
giúp đỡ của vợ Sam-sôn. Vì vậy họ dọa giết nàng và đốt nhà cha nàng nếu nàng
không cung cấp câu trả lời trước khi tuần lễ kết thúc. Sam-sôn đã tuyệt đối
chối từ cho nàng biết, nhưng vào ngày thứ bảy, ông đã mủi lòng. Vì hôn nhân
phải được hoàn tất vào ngày thứ bảy, có lẽ điều đó
có gì liên hệ với nó. Trước tiên, người nữ Phi-li-tin dụ dỗ ông (Cac 14:1), sau đó nàng điều khiển ông (c.17) và
rồi nàng phản bội ông (c.17) là cách thế gian luôn đối xử với tín đồ thỏa hiệp.
Sam-sôn có thể giết sư tử và biết dây thừng, nhưng ông không thể chiến thắng
sức mạnh những giọt nước mắt của một người đàn bà.
Chúng ta không biết vợ ông cảm thấy
thế nào khi bị so sánh với một con bò con? Châm ngôn này đơn giản nghĩa là “Bạn
không thể làm được điều nào bạn đã làm nếu bạn không phá những luật lệ”, vì các
bò cái không được dùng cho việc cày bừa. Vì các vị khách đã chơi gian, nên về
mặt chuyên môn, Sam-sôn có thể từ chối trả giải thưởng, nhưng ông hào hiệp đồng
ý giữ lời hứa của mình. Có lẽ ông đã nhận ra rằng đời sống của vợ ông đã bị đe
doạ và ông không muốn đặt nàng và gia đình nàng vào cảnh hiểm nghèo lần nữa.
Những ai không thể điều khiển lưỡi
mình thì không thể điều khiển thân thể mình (Gia 3:2),
và trong trường hợp của Sam-sôn, những hậu quả của sự thiếu kỷ luật này thật
tai hại.
Sam-
sôn đã mất bình tĩnh (Cac 14:19-20). Ông đã đi hai mươi dặm
đến Ách-ca-lôn nên tin tức về vụ giết người sẽ không đến Thim-na quá sớm. Trò
đùa của ông về sư tử và mật ong đã không còn là một trò đùa, vì nó dẫn đến cái
chết của 30 người có những bộ quần áo mà Sam-sôn đã tịch thu. Sam-sôn quá giận
dữ đến nỗi ông thậm chí không hoàn tất hôn nhân nhưng trở về Xô-rê-a và ở với
cha mẹ ông. Trong khi ông ở xa Thim-na, vợ ông đã bị trao cho một người thân
nhất của ông. Chúa đã sử dụng chiều hướng của những sự kiện này để thúc đẩy
Sam-sôn quyết định chiến đấu với dân Phi-li-tin thay vì mua vui cho họ.
Nếu Sam-sôn thành công
trong cách của ông và cưới một người nữ Phi-li-tin, mối liên hệ dó sẽ làm hỏng
công việc Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông làm. Những tín đồ ngày nay bước vào
những quan hệ không thánh khiết đều đang phạm tội và cũng ngăn công việc của Chúa (IICo 6:14-18).
Nếu Sam-sôn tìm kiếm sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời, Chúa sẽ chỉ dẫn cho ông.
Ngược lại, Sam-sôn đã đi con đường riêng của ông, và Chúa phải tể trị những
quyết định ích kỷ của ông.
“Ta sẽ chỉ dẫn ngươi và dạy ngươi
trong con đường ngươi phải đi, ta sẽ hướng dẫn ngươi bằng mắt ta. Chớ như con
ngựa hoặc như con la, là vật không có sự hiểu biết, phải bị cầm giữ bằng hàm
khớp và dây cương, bằng chẳng chúng nó sẽ không đến gần ngươi” (Thi 32:8,9 NKJV). Nếu chúng ta nhìn mặt Chúa bởi đức tin,
Ngài có thể hướng dẫn chúng ta bằng mắt Ngài, cách mà các cha mẹ hướng dẫn con
cái họ. Nhưng nếu chúng ta quay lưng với Ngài, Ngài phải đối xử với chúng ta
như con vật và cầm giữ chúng ta. Sam-sôn đang lao về phía trước một cách mãnh
liệt như con ngựa hoặc bướng bỉnh lùi lại như con la, và Đức Chúa Trời phải đối
phó với ông.
9. ÁNH SÁNG ĐÃ TẮT (15:1-16:32)
Đời sống của Sam-sôn
minh họa lẽ thật xưa rằng một khởi đâu tốt không bảo đảm một kết thúc tốt. Nhà
thơ người Mỹ Henry Wodswort Long Fellow đã nói: “Nghệ thuật khởi đầu là vĩ đại,
nhưng nghệ thuật kết thúc vĩ đại hơn”. Đó là lý do Sa-lô-môn đã viết: “Cuối
cùng của một việc hơn sự khởi đầu của nó” (Tr 7:8 NIV).
Lúc khởi đầu của sự nghiệp mình,
Sam-sôn đã hầu việc trong một sự sáng chói của vinh quang, nhưng ánh sáng băt
đầu lung linh khi ông đầu hàng những đam mê của mình. Trong những cảnh cuối của
đời ông, chúng ta thấy ánh sáng của Sam-sôn cuối cùng tắt, và nhà vô địch mù
lòa kết thúc ở chỗ bị chôn trong đống gạch vụn của một đền thờ ngoại đạo. Như
vậy, ông đã giết nhiều người trong sự tử đạo của mình hơn số ông đã giết suốt thời
kỳ làm quan xét của ông, nhưng sẽ khác biết bao nếu ông trước hết chiến thắng
bản thân trước khi ông tìm cách chiến thắng những kẻ thù của Chúa. Spurgeon đã
nói: “Cả đời của ông là một chuỗi phép lạ và sự ngu
dại”.
Chúng ta hãy xem những
cảnh cuối trong đời Sam-sôn và học từ đó lý do ông đã không kết thúc tốt đẹp.
1. Sam-sôn trả thù cho
mình (Cac 15:1-8)
Sự đam mê thậm chí dường
như điều khiển đời sống Sam-sôn. Phương châm của
ông là “Ta làm cho chúng nó như chúng nó đã làm cho ta” (15:11). Tôi nhận ra rằng là người bảo vệ của
Y-sơ-ra-ên, sự kêu gọi dành cho Sam-sôn là đánh bại kẻ thù, nhưng bạn mong thấy
ông chiến đấu “những cuộc chiến của Chúa” chớ không chỉ những cuộc chiến của
riêng ông. Khi Đa-vít đối diện với dân Phi-li-tin, ông xem họ như kẻ thù của
Chúa và tìm cách tôn trọng danh Chúa trong chiến thắng của mình (ISa 17:1-13). Thái độ của Sam-sôn lại khác.
Là Cơ Đốc nhân, chúng ta cần coi
chừng việc che giấu những động cơ ích kỷ dưới cái lốt của sự nhiệt tâm tôn giáo
và gọi đó là “sự phẫn nộ công bình”. Sự phục thù cá nhân và tư lợi hơn là vinh
hiển của Chúa đã thúc đẩy hơn một “người tham gia” trong Hội Thánh. Điều mà một
số người nghĩ là sự nhiệt tâm tin kính có thể thật sự là cơn giận bất kính,
được nuôi dưỡng bởi sự kiêu ngạo và được thúc đẩy bởi sự ích kỷ. Có một cơn
giận tin kính mà chúng ta nên kinh nghiệm khi chúng ta thấy sự gian ác thành
công và những người cô thế bị tổn thương (Eph 4:26),
nhưng có một ranh giới rất tinh vi giữa sự phẫn nộ công bình và một “cơn tức
giận mang vẻ tôn giáo”.
Ông trả thù cuộc hôn
nhân thất bại của mình (Cac 15:1-5). Mặc dù chưa bao giờ hoàn tất cuộc hôn nhân, Sam-sôn nghĩ mình
đã cưới người nữ ở Thim-na một cách hợp pháp. Vì vậy, ông mang theo một món quà
và đi thăm nàng ở nhà cha nàng. Ông bị sốc biết bao khi biết rằng ông không chỉ
chưa lấy vợ, mà người nữ ông yêu giờ đây cũng bị gả cho người phụ rễ!. Sam-sôn
đã trả “giá cô dâu” theo luật pháp, và giờ đây ông không có tiền cũng không có
vợ.
Sam-sôn tức giận, và
thậm chí lời đề nghị về một cô dâu trẻ hơn và xinh đẹp hơn cũng không làm ông
nguôi ngoai. Nếu có ai phải bị trừng phạt, thì đó chính là cha vợ của ông. Ông
ta thât sự là một thủ phạm. Xét cho cùng, ông đã lấy tiền và lấy cô dâu đi cho
người sai đối tượng! Nhưng Sam-sôn quyết định trút cơn giận trên dân Phi-li-tin
bằng cách đốt lúa trong ruộng của họ.
Từ được dịch là “cáo”
cũng có nghĩa là “chó rừng” và đó có thể là loài vật Sam-sôn đã sử dụng. Cáo là
loài vật sống ẩn dật, nhưng chó rừng đi lại trong những đàn lớn. Vì vậy, bắt ba
trăm chó rừng sẽ dễ hơn cho Sam-sôn, và chắc chắn ông đã tranh thủ sự giúp đỡ
của người khác. Nếu ông cột đuốc vào mỗi con vật, mỗi con sẽ lập tức chạy về
hang chúng. Nhưng bằng cách kết hợp hai con vật với nhau và để chúng nới lỏng,
Sam-sôn có thể khá chắc chắn rằng sự sợ lửa của chúng và sự bất lực xoay sở của
chúng sẽ dễ dàng làm chúng hoảng sợ. Vì vậy chúng sẽ chạy điên cuồng quanh
trong đồng ruộng và đốt cháy lúa. Lửa sau đó sẽ lan vào vườn nho và rừng cây
ô-li-ve. Đó là một sự tàn phá đắt giá.
Vì sao ông quyết định
hủy hoại mùa màng của Phi-li-tin bằng một cách lạ lùng như thế thì không rõ
ràng đối với chúng ta. Nếu những người khác giúp đỡ ông, Sam-sôn có thể tấn
công nhiều đồng ruộng cùng một lúc, và dân Phi-li-tin không thể nhìn thấy những
con vật trên đất, sẽ hoảng sợ và bối rối, không biết điều gì đã gây ra lửa.
Những con chó rừng chắc chắn sẽ tạo âm thanh ồn ào, đặc biệt nếu bị vây trong
ngọn lửa dồn đến hoặc bị áp đảo bởi khói. Câu đố và vần thơ của ông (15:16) cho thấy rằng
Sam-sôn có một tính hài hước trẻ con và có lẽ phương pháp này cho trận hỏa hoạn
nông nghiệp chỉ là giờ đùa khác đối với ông. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng
Đức Chúa Trời đang sử dụng những kỳ công của Sam-sôn
để quấy rầy dân Phi-li-tin và chuẩn bị cho họ sự thất bại chắc chắn sẽ đến
trong một vài năm.
Ông trả thù cái chết
của vợ ông (Cac 15:6-8). Bạo lực sanh bạo lực, và dân Phi-li-tin sẽ không đứng quanh mà
chẳng làm gì khi lương thực và của cải họ đi theo những ngọn lửa. Họ đoán ra
rằng Sam-sôn ẩn phía sau việc đốt mùa màng của họ, và họ biết họ phải trả đũa.
Vì họ không thể mong thắng Sam-sôn, họ đã làm việc kế tiếp và trút cơn giận lên vợ cùng cha vợ của ông. Cuối cùng, sự phản bội của nàng
đối với Sam-sôn đã không cứu mạng nàng (14:15).
Phản ứng của Sam-sôn ra sao? “Vì các
ngươi đã hành động như vậy ta sẽ không ngừng lại cho đến khi ta trả thù các
ngươi” (15:7 NIV). Chúng ta không biết ông
đã giết bao nhiêu người Phi-li-tin hoặc ông đã sử dụng vũ khí nào nhưng đó là
một “sự tàn sát lớn”. Sau cuộc tấn công, ông đã rút lui về một hang động trong
“hang đá Ê-tam”. Đây không phải là Ê-tam được đề cập trong ISu 4:32 (quá xa) hoặc IISu
11:6 (chưa được xây dựng). Đó là một nơi cao nào đó ở Giu-đa, gần
Lê-chi, mà từ đó Sam-sôn có thể quan sát kẻ thù một
cách an toàn và tiện lợi.
2. Sam-sôn tự bảo vệ
mình (Cac 15:9-20)
Nếu Sam-sôn có thể tấn
công dân Phi-li-tin, vậy dân Phi-li-tin có thể trả đũa và tấn công Y-sơ-ra-ên,
xét cho cùng, Y-sơ-ra-ên không có vũ khí, cũng không có quân đội. Sư xâm lược
Giu-đa không giúp cho Sam-sôn được khâm phục đối với dân của ông, những người
đáng buồn mà nói đã bằng lòng đầu phục láng giềng của họ và lợi dụng một hoàn
cảnh xấu. Thay vì xem Sam-sôn là người giải cứu của họ, dân Giu-đa xem ông là
một kẻ gây rối.
Thật khó làm một lãnh
đạo nếu bạn không có những người đi theo, nhưng một phần lỗi ở chỗ Sam-sôn. Ông
đã không thách thức dân sự, sắp xếp họ, và tin cậy Đức Chúa Trời ban cho họ
chiến thắng. Ông thích làm việc một mình, chiến đấu những cuộc chiến của Chúa
như thể đó là những mối hận thù riêng của ông. Tôi nhận ra
rằng sự kêu gọi Sam-sôn là khởi đầu để giải phóng dân tộc (13:5), nhưng với tôi, dường như ông có thể thực
hiện một khởi đầu mạnh mẽ hơn. Khi dân sự Đức Chúa Trời trở nên dễ chịu với
hiện trạng, và những lãnh đạo của họ không thúc đẩy họ đến chỗ hành động, họ ở
trong hình dạng khá tệ hại.
Khi những người Giu-đa biết rằng dân
Phi-li-tin chỉ muốn bắt và trói Sam-sôn, họ đề nghị giúp đỡ. Một dân tộc ở
trong trạng thái đáng buồn thật sự khi các công dân hợp tác với kẻ thù và giao
nộp người lãnh đạo của họ đã được Đức Chúa Trời chỉ định! Đây là lần duy nhất
suốt chức vụ quan xét của Sam-sôn mà dân Do Thái đã tập họp một quân đội, và đó
là vì mục đích bắt một người trong dân của họ! Nhưng Sam-sôn nhận ra rằng nếu
ông không nộp mình cho kẻ thù, đạo quân Phi-li-tin sẽ đem đến hoạn nạn không kể
xiết cho xứ, vì vậy ông sẵn sàng đầu hàng. Nếu ông tự bảo vệ mình, ông sẽ phải
chiến đấu với dân mình. Nếu ông trốn thoát, điều mà ông có thể dễ dàng làm
được, ông sẽ khiến cho ba ngàn người Giu-đa làm miếng mồi ngon cho đạo quân
Phi-li-tin. Có điều gì đó anh hùng đối với quyết định của Sam-sôn, nhưng dân
Giu-đa không hiểu điều đó.
Bởi quyền năng của Thánh Linh,
Sam-sôn dễ dàng bứt những dây thừng mà dân Giu-đa đã đặt trên hai cánh tay ông,
nhặt một hàm lừa mới (một hàm lừa cũ sẽ rất giòn) và giết một ngàn người
Phi-li-tin. Chúng ta không biết dân Giu-đa nghĩ gì khi họ nhìn xem tù nhân của
họ, người anh em của họ, giết những kẻ xâm lược đơn phương độc mã. Có ai trong
số họ cảm nhận sự thôi thúc để nhặt lấy những vũ khí của những người Phi-li-tin
bị giết và tham gia vào cuộc chiến? Họ sẽ biết cách sử dụng chúng chăng?
Sam-sôn có một cá tính với lời nói.
Tại bữa tiệc cưới, ông nghĩ ra một câu đố thông minh (14:14).
Và sau đại thắng này, ông viết một bài thơ. Nó dựa trên cơ sở sự giống nhau
giữa các âm của từ Hê-bơ-rơ ‘hamor’ (“lừa”) và ‘Homer’ (“đống”). James Moffatt
dịch bài thơ đó: “Với một xương hàm của con lừa, ta đã dồn chúng thành một
đống. Với xương hàm của một con lừa, ta đã tấn công những kẻ tấn công” (3).
Nhưng kỷ niệm chiến thắng của ông
không kéo dài lâu, vì Đức Chúa Trời nhắc nhở ông rằng ông chỉ là một con người
và phải có nước để sống. Rất thường trong Kinh Thánh, thử thách theo sau chiến
thắng. Dân Y-sơ-ra-ên vượt Biển Đỏ chưa bao lâu thì họ khát nước (Xu 15:22-27) và đói (Xu
16:1-36). Chiến thắng của Ê-li trê núi Cạt-mên được tiếp theo bởi sự bỏ
chạy nhục nhã của ông đến núi Hô-rép (IVua
18:1-19:21). Nếu chiến thắng không được quân bình bằng những thử thách,
có một hiểm họa mà chúng ta sẽ trở nên kiêu ngạo và cậy mình.
Giá như Sam-sôn chỉ chú ý sự cảnh
cáo này và cầu xin Đức Chúa Trời không chỉ nước mà còn sự hướng dẫn!” Xin chớ
dẫn chúng tôi vào sự cám dỗ sẽ là lời cầu nguyện hoàn hảo cho giờ đó. Chúng ta
nhanh chóng làm sao khi cầu xin sự giúp đỡ cho thân thể khi mà có lẽ những nhu
cầu lớn nhất của chúng ta là con người bên trong. Chính khi chúng ta yếu đuối
là lúc chúng ta mạnh mẽ (IICo 12:10) và khi
chúng ta nhờ cậy hoàn toàn nơi Chúa, chúng ta được an toàn nhất.
Lời cầu nguyện của Sam-sôn cho thấy
ông xem mình là tôi tớ của Đức Chúa Trời và ông không muốn kết thúc đời mình
bằng cách sa vào tay của dân Phi-li-tin bất kính. Tiếc thay, đó chính là điều
đã xảy ra. Nhưng Đức Chúa Trời đầy thương xót và đã thực hiện một phép lạ bằng
cách mở một suối nước trong một chỗ trũng. Sam-sôn giải cơn khát của mình và
đặt nơi ấy các tên “Suối của người kêu cầu” nơi mà Sam-sôn đã giết những người
Phi-li-tin nhận được cái tên “Đồi xương Hàm”. Một số bản dịch gây ấn tượng rằng
nước ra từ xương hàm vì tên nơi này bằng ttiếng Hê-bơ-rơ là Lê-chi, có nghĩa là
“xương hàm” trong NKJV, Cac 15:19 viết: “Vì
vậy, Đức Chúa Trời đã chỉ chỗ trũng ở tại Lê-chi” và NASB với NIV thực chất
tương tự.
3. Sam-sôn cám dỗ chính
mình (Cac 16:1-3)
Ga-xa là một thành phố
cảng quan trọng nằm cách thành quê hương Xô-rê-a của Sam-sôn khoảng 40 dặm.
Chúng ta không được cho biết vì sao Sam-sôn đến đó, nhưng có lẽ không phải ông tìm kiếm thú vui xác thịt. Có nhiều kỵ nữ có mặt ở
Y-sơ-ra-ên dù luật pháp kết án hoạt động này (Le
19:29 Phu 22:21). Chính sau khi đến
Ga-xa mà Sam-sôn đã nhìn thấy một kỵ nữ và quyết định thăm viếng nàng. Một lần
nữa tư dục của mắt và tư dục của xác thịt kết hợp lại để giữ chặt Sam-sôn và
khiến ông trở thành một nô lệ cho những đam mê của mình.
Dường như chúng ta không thể tin
rằng một tôi tớ của Đức Chúa Trời (Cac 15:18)
đã làm những việc lớn trong quyền năng của Thánh Linh, sẽ thăm viếng một kỵ nữ
nhưng sự ghi chép ở đây nói về tất cả những gì phải đọc. Chúa chắn chắn không
cho phép ở đây nói về tất cả những gì phải đọc. Chúa chắc chắn không cho phép
hành vi như thế, đặc biệt là phần của một Na-xi-rê, và kinh nghiệm này đối với
Sam-sôn là một bước nữa đi xuống sự tối tăm và huỷ diệt. Trong những năm gần
đây, đã có những vụ tai tiếng trong giới chính quyền ở Nước Mỹ thôi cũng đủ để
đặt chúng ta ở sự đề phòng. “Vậy ai tưởng mình đứng, hãy chú ý kẻo ngã” (ICo 10:12 NKJV).
Chúng ta không thể làm gì khi Sa-tan
và các quỉ của nó cám dỗ chúng ta, nhưng khi chúng ta cám dỗ chính mình chúng
ta trở nên kẻ thù của chính mình. Đức Chúa Trời không cám dỗ chúng ta (Gia 1:12-15). Khi chúng ta cầu nguyện “xin chớ dẫn
chúng tôi vào sự cám dỗ” (Mat 6:13), chúng
ta đang cầu xin rằng chúng ta không cám dỗ chính mình hoặc đặt mình trong một
vị trí mà chúng ta thử Đức Chúa Trời. Chúng ta thử Ngài bằng cách buộc ngài can
thiệp và giải cứu chúng ta hoặc bằng cách thách thức Ngài ngăn trở chúng ta.
Tính cách con người có thể bị sa đọa quá nhiều đến nỗi họ không cần phải bị cám
dỗ để phạm tội. Tất cả những gì họ cần là cơ hội để phạm tội, và họ sẽ cám dỗ
chính mình, kinh nghiệm tình dục trái phép có thể khởi đầu ngọt ngào như mật,
nhưng nó kết thúc cay đắng như ngải (Ch 5:1-14).
Sam-sôn người đàn ông, đã trở nên Sam-sôn con vật khi kỵ nữ dẫn ông đến chỗ tàn
sát (Ch 7:6-23).
Tin tức rằng kẻ thù của họ là
Sam-sôn đang ở trong thành đã lâu truyền đến dân ở Ga-xa, và họ cắt một lính
canh tại cửa thành để bắt và giết ông vào buổi sáng. Nhưng Sam-sôn quyết định
rời thành vào giữa đêm trong lúc các lính canh đang ngủ. Việc các cửa thành
được đóng lại không làm ông sợ. Ông nhổ đi các cánh cửa, các cột trụ, và các
then rồi mang chúng đi. Ông đã đem chúng đi trên đường đến Hếp-rôn, một quãng
đường khoảng bốn mươi dặm, hay chỉ đến một ngọn đồi đối diện Hếp-rôn, tùy thuộc
vào cách bạn dịch Cac 16:3. Cả hai cách lý
giải đều có thể đúng.
Cổng thành không chỉ là một sự bảo
vệ cho thành, mà còn là nơi các quan chức gặp nhau để giải quyết công việc (Phu 25:7 Ru 4:1-2).
“Chiếm được cửa thành của quân thù” là một ẩn dụ, nghĩa là “đánh bại kẻ thù của
bạn (Sa 22:17 24:60).
Khi Chúa Giê-xu nói về các cửa địa ngục (âm phủ) không đánh bại Hội Thánh (Mat 16:18). Ngài đang mô tả chiến thắng của Hội
Thánh trên những thế lực của Sa-tan và ma quỉ. Bởi sự chết và phục sinh của
Ngài, Chúa Giê-xu Christ đã “đột kích các cửa địa ngục” và mang chúng đi trong
chiến thắng!
4. Sam-sôn phản bội
chính mình (Cac 16:4-22)
Trũng Sô-réc nằm giữa
Xô-rê-a và Thim-na trên biên giới Giu-đa và Phi-li-tin. Thành Beth Shemesh
(Bết-sê-mết) nằm ở đó. Mỗi khi Sam-sôn đi vào địa
phận kẻ thù, ông đều “đi xuống” về mặt địa lý và thuộc linh (14:1,5,7,10). Lần này ông tìm thấy một người nữ trong
trũng, không quá xa nhà, và ông yêu nàng. Thật là một điều nguy hiểm khi nấn ná
ở biên giới của kẻ thù, bạn có thể bị bắt.
Cùng với Đa-vít và Bát-sê-ba,
Sam-sôn và Đa-li-la đã thu hút sự tưởng tượng của nhiều nhà văn, nghệ sĩ, nhà
sáng tác và nhà kịch nghệ, Handel đã kể đến Đa-li-la trong bản nhạc ô-ra-tô
“Sam-sôn” của ông và Saint-Saens đã viết một vở Ô-pé-ra về “Sam-sôn và
Đa-li-la” (Bacchanale” từ tác phẩm đó vẫn là một bản hoà tấu nổi tiếng). Khi
Sam-sôn chung sống với Đa-li-la trong trũng Sô-réc, ông không bao giờ mơ rằng
điều mà họ đã làm với nhau sẽ được thực hiện thành một bộ phim Hollywood và
được chiếu ra màu sắc trên màn ảnh rộng.
Các học giả không đồng ý về ý nghĩa
của tên Đa-li-la. Một số người cho rằng nó có nghĩa là “người nhiệt tình” gợi ý
rằng nàng có thể là một kỵ nữ đền thờ. Nhưng Đa-li-la không bị gọi là một kỵ nữ
như người nữ ở Ga-xa, dù đó có thể là những gì ở nơi nàng. Vì vấn đề đó,
Đa-li-la thậm chí không được nhận biết như một người Phi-li-tin. Tuy nhiên, từ
việc giao thiệp của nàng với các quan trưởng Phi-li-tin, nàng có vẻ là một
người Phi-li-tin. Những sinh viên khác tin rằng cơ sở cho tên nàng là từ
Hê-bơ-rơ “dalal” nghĩa là “làm suy yếu, làm mất công dụng”. Dù đây có phải là
sự truy nguyên đúng hay không, nàng chắc chắn đã làm Sam-sôn suy yếu và mất
công dụng!
Mỗi quan trưởng Phi-li-tin đều đề
nghị trả cho Đa-li-la một số tiền đáng kể nếu nàng dụ dỗ Sam-sôn và biết nguồn
gốc sức mạnh lớn lao của ông. Họ không muốn giết Sam-sôn, họ muốn làm cho sức
mạnh của ông mất tác dụng để bắt ông, hành hạ ông và sau đó sử dụng ông vì
những mục đích riêng của họ. Việc triển lãm và điều khiển nhà vộ địch lớn của
Y-sơ-ra-ên sẽ cho dân Phi-li-tin sự an toàn lẫn tầm cỡ giữa các dân tộc và chắc
chắn sẽ làm thoả mãn cái tôi của họ khi họ làm nhục dân Do Thái.
Khi Đa-li-la bắt đầu điều tra bí mật
sức mạnh của ông, Sam-sôn lẽ ra nên cẩn thận về hiểm họa của mình, và giống như
Giô-sép (Sa 39:12 IITi
2:22), nên chạy trốn càng nhanh càng tốt. Nhưng sự đam mê đã thu hút
ông, tội lỗi đã gây mê ông, và ông không thể hành động hữu lý. Bất cứ ai cũng
có thể cho ông biết rằng Đa-li-lê đang khiến ông trở nên đại dột nhưng Sam-sôn
sẽ không tin ai.
Không có vẻ như những người
Phi-li-tin đã trốn trong phòng nàng để lộ chính họ mỗi khi Sam-sôn thoát khỏi
dây thừng, vì khi ấy ông sẽ biết rằng Đa-li-la đã đặt bẫy ông. Tiếng kêu la của
nàng “người Phi-li-tin xông hãm ngươi!” là hiệu lệnh cho các thám tử cảnh giác,
nhưng khi họ thấy rằng Sam-sôn tự do họ tiếp tục ẩn náu. Mỗi lời nói dối của
Sam-sôn có liên quan đến việc Đa-li-la sử dụng loại dây thừng nào đó trên ông,
nhưng những người Phi-li-tin lẽ ra phải biết rằng ông không thể bị trói (Cac 15:13).
Đa-li-la tiếp tục hành động trên
Sam-sôn, nếu không nàng sẽ mất tiền bạc và có lẽ mạng của nàng. Xét cho cùng,
hãy xem điều dân Phi-li-tin đã làm cho người vợ thứ nhất của Sam-sôn! Nếu
Sam-sôn thôi thăm viếng Đa-li-la, ông sẽ giữ tóc mình và sức mạnh của mình (5),
nhưng ông cứ trở lại, và mỗi lần nàng đều van xin ông bày tỏ bí mật mình.
Sam-sôn đã không biết chính lòng mình. Ông nghĩ mình có sức mạnh luân lý đủ để
nói không với người đàn bà cám dỗ, nhưng ông sai lầm.
Khôn ngoan trong những phương diện
về tội lỗi (Lu 16:8 Ch
7:21) suốt lần thăm viếng thứ bốn, Đa-li-la biết rằng ông cuối cùng nói
cho nàng biết sự thật. Vì “đội quân” Phi-li-tin đã bỏ đi sẽ đến sau lần thất
bại thứ ba, nên Đa-li-la cho mời họ nhanh chóng và họ một lần nữa trốn trong
phòng nàng.
Khi tiếng la của Đa-li-la làm
Sam-sôn thức giấc, ông nghĩ đó là môt trong những trò lừa khác của nàng và ông
có thể giải quyết hoàn cảnh như trước đó. Nhưng ông sai lầm, khi ông mất mái
tóc dài của mình, Chúa đã rời khỏi ông, và ông yếu đuối như những người khác.
Sức mạnh của ông đến từ Chúa, không phải từ tóc của ông, nhưng tóc của ông là
dấu hiệu lời thề nguyện Na-xi-rê của ông. Thánh Linh đã giáng trên ông với sức
mạnh đó và giờ đây đã lìa khỏi ông.
Dan 6:7 theo nguyên văn là “vì sự hiến dâng (nezer) cho Đức Chúa
Trời của người ở trên đầu người”. Ý nghĩa cơ bản của từ “nezer” là “sự biệt
riêng” hoặc “sự hiến dâng, nhưng nó cũng được dùng chỉ về một mão triều (IISa 1:10 Xa 9:16
Thi 89:39). Tóc dài của Sam-sôn là “mão
triều thiên” của ông và ông đã mất nó vì tội lỗi của mình. “Này, ta đến mau
kíp, hãy giữ lấy điều ngươi có, hầu cho không ai cất lấy mão triều thiên của
ngươi” (Kh 3:11 NKJV). Vì Sam-sôn đã không
kỷ luật thân thể mình, ông đã đánh mất triều thiên và phần thưởng của mình (ICo 9:24-27).
Những người Phi-li-tin dễ dàng chế
ngự Sam-sôn và cuối cùng xử ông theo ý họ. Họ móc mắt ông, trói ông và dẫn ông
đến Ga-xa nơi ông làm việc khó nhọc ở cối xay, làm việc mà thường được phân cho
nô lệ, đàn bà hoặc lừa. Ai đó đã nói rằng Cac 16:21
nhắc nhở chúng ta về những hậu quả của tội lỗi gây mù lòa, trói buộc, nghiền
nát. trong bài thơ thiên anh hùng “Sam-sôn Agonistes” John Milton để cho nhà vô
địch nói:
“Ôi sự mất ánh sáng, ta phàn nàn
ngươi nhiều nhất!
Bị mù lòa giữa vòng kẻ thù, ôi còn
tệ hại hơn xiềng xích,
Ngục tối, hay cảnh ăn mày, hay thời
kỳ già yếu!”
Sam-sôn là một trong ba người trong
Kinh Thánh đặc biệt bị đồng nhất hóa với sự tối tăm. Hai người kia là vua
Sau-lơ, một người đã bước vào sự tối tăm để có sự giúp đỡ phút cuối từ một bà
bóng (ISa 28:1-25) và Giu-đa, người “liền đi
ra: và khi ấy đã tới” (Gi 13:30). Sau-lơ đã
sống cho thế gian, Sam-sôn đã phục xác thịt, và Giu-đa đã nộp mình cho ma quỉ (Gi 13:27), và cả ba người đều đi đến chỗ cất mạng
sống của chính mình.
Nhưng có một tia ánh sáng trong bóng
tối. Tóc của Sam-sôn bắt đầu mọc lại. Sức mạnh của ông không ở tóc của ông
nhưng ở điều mà tóc của ông tượng trưng – sự dâng mình của ông cho Đức Chúa
Trời. Nếu Sam-sôn hồi phục sự dâng mình ông có thể phục hồi sức mạnh mình. Tôi
tin Sam-sôn đã nói chuyện với Chúa khi ông quay cối xay, xưng nhận tội lỗi mình
và cầu xin Đức Chúa Trời cơ hội cuối cùng để đánh bại kẻ thù và làm vinh hiển
danh Ngài.
5. Sam-sôn tiêu diệt
chính mình (Cac 16:23-31)
Thật bi thảm khi một tôi
tớ của Chúa, được nuôi dạy trong một gia đình tìn kính, giờ đây là nô lệ nhục
nhã của kẻ thù. Nhưng thậm chí tệ hại hơn, dân Phi-li-tin đã dành vinh hiển cho
thần Đa-gôn của họ về việc giúp họ bắt kẻ thù lớn của họ. Thay vì quy vinh hiển
cho Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Sam-sôn đã cho kẻ thù cơ hội để tôn trọng các
tà thần của họ. Đa-gôn là thần lúa, và chắc chắn dân
Phi-li-tin nhớ những điều Sam-sôn đã làm cho đồng ruộng của họ (15:1-5).
Dân sự tại lễ hội tôn giáo yêu cầu
Sam-sôn được đem đến để mau vui cho họ. Hô ở trong tinh thần phấn khởi vì kẻ
thù của họ giờ đây ở trong sự điều khiển của họ và Đa-gôn đã chiến thắng Đức
Giê-hô-va. Họ nghĩ rằng sự mù loà của Sam-sôn khiến ông trở nên vô hại. Họ
không biết rằng Đức Chúa Trời đã rũ lòng tha thứ ông và phục hồi sức mạnh của
ông.
Trong KJV, hai từ khác nhau được
dịch là “làm trò” trong 16:25 (giải trí và
“biểu diễn” trong NIV). Tứ thứ nhất nghĩa là tán tụng, nô đùa, trêu chọc và
giải trí. Và từ thứ hai nghĩa là biểu diễn, làm trò, và cười (9). Chúng ta
không được cho biết chính xác cách nào Sam-sôn đã mua vui cho đám đông lớn
trong đền thờ của Đa-gôn, nhưng có một điều chắc chắn. Ông đã cho họ mọi lý do
để tin rằng ông vô hại và ở dưới sự điều khiển. Ông thậm chí ở trong tay của
một chú bé đang dẫn người mù từ nơi này sang nơi khác. Chúng ta đã thấy những
biểu hiện trước đó rằng Sam-sôn là một người thông minh với một tính hài hước.
Vì vậy chắc chắn ông đã cho khán giả điều họ cần.
Trong những cuộc thăm viếng Ga-xa
trước đó, Sam-sôn chắc chắn đã thấy đền thờ này và để ý cấu trúc của nó, xét
cho cùng, nó chứa hơn ba ngàn người, và sẽ khó cho ông nêú không để ý nó. Suốt
thời gian ngừng sự giải trí trong ngày đó, Sam-sôn yêu cầu người phục dịch dẫn
ông đi qua các cột trụ. Và ở đó ông thốt ra lời cầu nguyện cuối cùng của mình.
Việc Đức Chúa Trời đáp ứng những lời yêu cầu đều thích hợp giữa ông và Chúa của
ông (Thi 66:18-19).
Dường như cha mẹ của ông
vào lúc này đã chết, nhưng những bà con bên cha
của ông đã đến và lấy xác rồi đem chôn. Từ “anh em” trong Cac 16:31 theo tiếng Hê-bơ-rơ mang một ý nghĩa
rộng về “bà con”. Theo như chúng ta biết Sam-sôn là con một. Nhóm từ “giữa Xô-rê-a
và Ê-ta-lôn” trong c.31 nhắc chúng ta về 13:25
Sam-sôn đã trở lại nơi ông khởi đầu, chỉ là bây giờ ông đã chết. Ánh sáng đã
tắt.
Bạn đánh giá đời sống và chức vụ của
một người như Sam-sôn thế nào. Tôi nghĩ Alexander Maclaren nói điều đó hợp lý:
“Thay vì tìm cách tạo một anh hùng kiêu căng từ ông, thật tốt hơn nhiều để
thành thật nhận biết những giới hạn về tính cách của ông và những bất toàn về
đời sống tôn giáo của ông, nếu sự đam mê trả thù của con người đơn thuần đập
rộn ràng mãnh liệt trong lời cầu nguyện của Sam-sôn, ông không bao giờ nghe
“Hãy yêu kẻ thù ngươi và đối với kỷ nguyên của ông, sự hủy diệt những kẻ thù
của Đức Chúa Trời và của Y-sơ-ra-ên là nhiệm vụ”.
Sự suy sụp của ông bắt đầu khi ông
không đồng ý với cha mẹ mình về việc cưới một người nữ Phi-li-tin. Ông đã coi
thường những sự cảnh cáo của bất tuân Lời Đức Chúa Trời và bị đánh bại bởi kẻ
thù của Đức Chúa Trời. Ông có lẽ nghĩ mình có đặc quyền buông thả trong tội lỗi
vì ông mang huy hiệu của một Na-xi-rê và đã giành rất nhiều chiến thắng cho
Chúa, nhưng ông sai lầm.
“Người nào chẳng chế trị tinh thần
mình thì giống như một cái thành hư nát, không có tường” (Ch 25:28 NKJV).
“Người chậm nóng giận thắng hơn
người dõng sĩ, và ai cai trị tinh thần mình thắng hơn kẻ chiếm lấy thành” (Ch 16:32 NKJV)
Tôi không biết Sa-lô-môn có đang
nghĩ về Sam-sôn khi ông viết những lời này hay không.
10. “TRUNG ƯƠNG KHÔNG
THỂ CẦM GIỮ” (Cac 17:1-18:31)
Trong bài thơ nổi tiếng
của mình “The Second Coming” (sự ngự đến lần thứ hai), nhà thơ người Ai-len
William Butler Yeats mô tả sự sụp đổ của nền văn minh bằng hình ảnh sống động
và đáng sợ. Mỗi khi tôi đọc bài thơ, tôi cảm thấy bị lạnh cứng ở bên trong, và
rồi tôi dâng lời cảm tạ rằng tôi biết Đấng sắp ngự đến.
Yeats viết: “Mọi sự sụp
đổ Trung ương không thể cầm giữ”.
Những chương cuối của
sách Các quan xét lặp lại chủ đề đó: “Trung ương không thể cầm giữ”. Quốc gia
đã từng hành quân cách khải hoàn vào Ca-na-an vì vinh hiển của Đức Chúa Trời,
giờ đây tan rã về đạo đức lẫn chính trị và đem đến sự sỉ nhục cho danh Ngài.
Nhưng bạn có thể trông mong điều gì khác khi “không có vua ở Y-sơ-ra-ên” và dân
sự đang coi thường luật pháp của Đức Chúa Trời?
Những sự kiện được mô tả
trong các chương 17-21 đã xảy ra đầu tiên trong thời kỳ Các quan xét, có lẽ
trước bốn mươi năm cai trị của dân Phi-li-tin. Những hoạt động của chi phái Đan
sẽ khó khăn và cuộc chiến thắng lại chi phái Bên-gia-min không thể xảy ra nếu
dân Phi-li-tin đã đảm trách vào thời điểm đó. Tác giả đã đi trái với bảng niên
đại lịch sử và kết hợp các sự kiện này với nhau như một “phụ lục” cho sách để
chứng tỏ dân sự đã trở nên gian ác ra sao. Trong ba lãnh vực chính của đời
sống, những điều đang sụp đổ là: gia đình, chức vụ và xã hội.
1. Sự lộn xộn trong gia
đình (Cac 17:1-6)
Đức Chúa Trời đã thiết
lập ba thể chế trong xã hội: gia đình, chính thể loài người và cộng đồng thờ
phượng – Y-sơ-ra-ên ở dưới Cựu Ước và Hội Thánh ở dưới Tân Ước. Thể chế đầu
tiên trong những thể chế này, cả về thời gian lẫn ý nghĩa là gia đình, vì gia
đình là nền tảng cho xã hội. Khi Đức Chúa Trời thiết lập hôn nhân cho A-đam và
Ê-va trong vườn, Ngài đã đặt nền tảng cho những thể chế xã hội mà loài người sẽ
xây dựng. Khi nền tảng đó sụp đổ, xã hội bắt
đầu suy sụp. “Nếu các nền bị phá hủy, người công bình có thể làm gì?” (Thi 11:3).
Tên Mi-ca nghĩa là “Ai giống như Đức
Giê-hô-va?” nhưng người này chắc chắn đã không sống để tôn trọng Chúa. Ông có
một gia đình (Cac 17:5) dù không điều gì
được nói về vợ của ông, và chúng ta có cảm tưởng rằng mẹ của ông đã sống với
ông và bà giàu có. “Gia đình mở rộng” là điều thông thường ở Y-sơ-ra-ên”.
Ai đó đã đánh cắp một ngàn một trăm
miếng bạc của bà mẹ, và bà buông một lời rủa sả trên kẻ cắp, mà không biết rằng
bà đang rủa sả chính con trai mình. Chính sự sợ hãi lời rủa sả, chớ không phải
sự kính sợ Chúa, đã thúc đẩy đứa con trai xưng tội mình và hoàn lại số tiền.
Khi ấy, bà mẹ vui mừng vô hiệu hóa lời rủa sả bằng cách chúc phước cho con trai
bà. Trong sự biết ơn về sự trở lại của số tiền mình, bà đã dâng phần bạc cho
Chúa và làm một hình tượng từ đó. Con trai bà đã thêm hình tượng mới vào “bộ
sưu tập thần” trong nhà ông, một “điện thờ” được chăm sóc do một trong những
con trai mà Mi-ca đã phong làm thầy tế lễ.
Bạn có bao giờ thấy một gia đình lộn
xộn về thuộc linh và đạo đức hơn gia đình này không? Họ tìm cách vi phạm hầu
như cả Mười điều răn (Xu 20:1-7) và không
cảm nhận một chút tội lỗi nào trước mặt Chúa! Thật ra, họ nghĩ họ đang hầu việc
Chúa bằng những vật kỳ quái họ đã làm!
Người con trai đã không tôn trọng mẹ
mình; Ngược lại ông đã ăn cắp của mẹ và nói dối về điều đó. Trước hết, ông tham
muốn bạc, và rồi ông lấy nó (Theo Co 3:5 sự
tham lam là sự thờ hình tượng). Sau đó ông nói dối về toàn bộ sự việc cho đến
khi sự rủa sả khiến ông sợ hãi trong sự thú nhận. Như vậy, ông đã vi phạm những
điều răn thứ năm, thứ tám, thứ chín và thứ mười. Rồi ông vi phạm điều răn thứ
nhất và thứ hai bằng cách có một điện thờ các tà thần trong nhà mình. Theo Ch 30:8-9, khi ông đánh cắp bạc, ông đã vi phạm
điều răn thứ ba và lấy danh Chúa làm chơi. Phá vỡ bảy điều răn mà không rời khỏi
gia đình mình hoàn toàn là một thành tích!
Mẹ của người này đã vi phạm hai điều
răn đầu tiên bằng cách làm một hình tượng và khích lệ con trai bà duy trì một
“điện thờ” riêng trong gia đình ông. Theo Phu
12:1-14 phải có một nơi thờ phượng trong Y-sơ-ra-ên, và dân sự không
được giải quyết tội lỗi của con trai bà, tính cách của ông chắc chắn không cải
thiện bởi cách bà giải quyết vấn đề. Nhưng chính bà là một người hư hỏng, vậy
bà có thể trông mong điều gì khác?
Mi-ca không chỉ có một điện thờ
riêng, nhưng ông còn lập con trai mình để phục vụ như thầy tế lễ. Chắc chắn
Mi-ca biết rằng Chúa đã chỉ định gia đình A-rôn làm những thầy tế lễ duy nhất
trong Y-sơ-ra-ên. Và nếu bất cứ ai ngoài gia đìnhA-rôn phục vụ như thầy tế lễ,
họ phải bị xử tử (Dan 3:10).
Vì Mi-ca và gia đình ông không đầu
phục quyền của Lời Đức Chúa Trời, gia đình họ là một nơi của sự lộn xộn về tôn
giáo và đạo đức. Nhưng gia đình họ khá giống nhiều gia đình ngày nay nơi mà
tiền bạc là thần được gia đình tôn thờ, nơi con cái ăn cắp của cha mẹ và nói
dối về điều chúng làm, nơi sự tôn trọng gia đình chẳng được biết đến, và là nơi
Đức Chúa Trời chân thật không được cần đến. Truyền hình cung cấp mọi “hình ảnh”
mà gia đình sẽ luôn cần “tôn thờ” và ít sự lo lắng về việc “Chúa đã phán như
vậy”.
Tôi nhớ đã nghe Vance Havner nói:
“Chúng ta không nên lo lắng vì cớ chính phủ sẽ không cho phép trẻ con mang Kinh
Thánh trong trường học. Chúng sẽ có những Kinh Thánh miễn phí khi chúng đi đến
nhà tù”. Nhưng ngày nay các nhà tù của chúng ta quá đông đến nỗi chính phủ
không biết điều gì phải làm. Nếu mọi gia đình đặt Đấng Christ làm Chủ gia đình,
chúng ta có thể ngăn chận tội ác của quốc gia ngay từ nguồn gốc. Những gia đình
tin kính là nền tảng cho một xã hội công bằng và hạnh phúc.
2. Sự lộn xộn trong
chức vụ (Cac 17:7-13)
Đức Chúa Trời không chỉ thiết lập
gia đình và chỉ dẫn các cha mẹ cách nuôi nấng con cái họ (Phu 6:1-25), nhưng Ngài còn lập chức lãnh đạo
thuộc linh trong cộng đồng thờ phượng. Dưới Cựu Ước, đền tạm và sau đó đền thờ
là trung tâm của cộng đồng, và chức tế lễ của A-rôn giám sát cả hai. Dưới Tân
Ước, Hội Thánh của Chúa Giê-xu Christ là đền thờ của Đức Chúa Trời (Eph 2:19-22). Đức Thánh Linh kêu gọi và trang bị
cho những người có chức vụ hầu việc Ngài và dân sự Ngài (ICo 12:14 Eph 4:1-16).
Trong Lời Ngài, Đức Chúa Trời cho những thầy tế lễ Cựu Ước biết điều gì họ phải
làm; Và trong Lời Ngài hôm nay, Đức Thánh Linh hướng dẫn Hội Thánh Ngài và giải
thích trật tự Hội Thánh với chức vụ Hội Thánh.
Một người Lê-vi trẻ tên là
Giô-na-than (Cac 18:30) đã sống ở Bết-lê-hem
thuộc xứ Giu-đa, không phải là một trong những thành được phân cho các thầy tế
lễ và người Lê-vi (Gios 21:1-45 Dan 35:1-34). Ông có lẽ đã ở đó vì dân Y-sơ-ra-ên
không ủng hộ đền tạm với chức vụ của nó bằng những phần mười và của lễ của họ
như Đức Chúa Trời đã ra lệnh họ làm (Dan 18:21-32
Phu 14:28-29 26:12-15).
Tại sao sống ở một trong những thành của Lê-vi nếu bạn sắp chết đói? Khi dân sự
Đức Chúa Trời trở nên lãnh đạm với những điều thuộc linh, một trong những chứng
cớ về sự thờ ơ của họ là một sự sa sút trong việc dâng hiến của họ cho công
việc Chúa, kết quả là mọi người đều hoạn nạn.
Thay vì tìm kiếm ý muốn của Chúa,
Giô-na-than bắt đầu tìm một nơi để sống và làm việc, thậm chí nếu điều đó nghĩa
là từ bỏ sự kêu gọi dành cho ông để làm một tôi tớ của Đức Chúa Trời, dân tộc ở
vào thời kỳ thấp kém về thuộc linh và ông lẽ ra có thể làm điều gì đó để giúp
đem dân sự trở lại với Đức Chúa Trời. Ông chỉ là một con người, nhưng đó là tất
cả những gì Đức Chúa Trời cần để khởi đầu một việc lớn mà có thể tạo một thay
đổi trong lịch sử của một dân tộc. Thay vì sẵn sàng cho Đức Chúa Trời,
Giô-na-than chỉ tán thành với loài người, và cuối
cùng ông tìm thấy cho mình một gia đình và công việc tiện lợi với Mi-ca.
Nếu Giô-na-than tiêu biểu cho những
tôi tớ của Đức Chúa Trời trong giai đoạn lịch sử đó, thì không có gì ngạc nhiên
khi dân tộc Y-sơ-ra-ên lộn xộn và sa đọa. Ông không có sự cảm kích đối với sự
kêu gọi cao quý dành cho mình để làm một người Lê-vi, một tôi tớ được chọn của
Đức Chúa Trời. Người Lê-vi không những phải giúp đỡ các thầy tế lễ trong chức
vụ của họ (Dan 3:6-13 8:17-18), mà họ còn phải dạy luật pháp cho dân sự
(Ne 8:7-9 IISu
17:7-9 35:3) và có liên quan trong
thánh nhạc cùng sự ngợi khen của Y-sơ-ra-ên (ISu
23:28-32 Exo 3:10). Giô-na-than đã từ
bỏ mọi điều đó vì sự tiện nghi và an toàn trong gia đình của một người thờ hình
tượng.
Tuy nhiên, chức vụ của Giô-na-than
không phải là một chức vụ thuộc linh gì cả. Trước hết, ông là một người làm
thuê và không phải là một người chăn chiên thật (Cac
18:4 Gi 10:12-13). Ông không hầu việc
Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống, ông làm việc cho Mi-ca và những hình
tượng của ông ta. Giô-na-than không phải là một người phát ngôn cho Chúa, ông
chỉ trình bày cho dân sự sứ điệp họ muốn nghe (Cac
18:6). Khi ông được đề nghị một nơi nhiều tiền, nhiều người và nhiều
thanh thế, ông nhận lấy ngay và cảm ơn về điều đó (c.19). Và sau đó ông đã giúp
những chủ mới của mình trong việc đánh cắp các thần của chủ trước!
Mỗi khi Hội Thánh có một “chức vụ
làm thuê”, Hội Thánh không thể hưởng sự chúc phước của Đức Chúa Trời, Hội Thánh
cần những người chăn chiên thật và trung tín, làm việc vì Chúa, chớ không phải
vì tư lợi, và sẽ ở cùng bầy chiên để nuôi nấng và bảo vệ chúng. Những người
chăn chiên thật không xem công việc của họ như một “nghề” và chạy sang một
“công việc tốt hơn” khi cơ hội đến. Họ ở nơi Đức Chúa Trời đặt để họ và không
dời đổi cho đến khi Ngài sai họ.
Những người chăn chiên thật nhận sự
kêu gọi và quyền hạn từ Đức Chúa Trời, không phải từ con người (Ga 1:6). Và họ tôn trọng Đức Chúa Trời, chớ không
phải những hình tượng do con người tạo nên. Ngày nay, Chúa chắc buồn lòng khi
thấy con người thờ phượng những hình tượng của “sự thành công” về chức vụ,
những con số thống kê, những toà nhà và thanh thế. Trong “xã hội người tiêu
dùng” ngày nay, những người giảng đạo và “những tiên tri” tự chỉ định không có
vấn đề gì khi có một số người đi theo và rao bán những mặt hàng tôn giáo của họ
cho một Hội Thánh hành động như một câu lạc bộ những người hâm mộ Hollywood hơn
là một dân thánh của Đức Chúa Trời. Và để làm cho điều đó tồi tệ hơn, những
người làm thuê này sẽ gọi điều sắp xảy ra là “sự chúc phước của Đức Chúa Trời”
Giô-na-than và Mi-ca sẽ luôn tìm thấy nhau vì họ cần nhau.
Phần đáng buồn của câu chuyện là giờ
đây Mi-ca nghĩ mình có đại án của Đức Chúa Trời vì một thầy tế lễ dòng Lê-vi
thật đang hầu việc như một giáo sĩ riêng của ông. Mi-ca thực hành một tà giáo
và thờ phượng những tà thần (với Đức Giê-hô-va bị ném vào vì phương cách ích
lợi), và trong khi đó ông yên nghỉ trên sự tin tưởng sai lầm rằng Đức Chúa Trời
đang chúc phước ông! Ông chẳng biết rằng sẽ đến ngày khi thầy tế lễ và các thần
của ông sẽ bị cắt đi khỏi ông và không còn gì về tôn giáo của ông sẽ được để
lại.
3. Sự lộn xộn trong xã
hội (Cac 18:1-31)
Đức Chúa Trời lẽ ra phải
là vua trong Y-sơ-ra-ên và Lời Ngài phải là luật pháp cai trị xã hội, nhưng dân
sự thích “làm những việc riêng của mình” hơn. Nếu dân sự
từ bỏ các hình tượng của họ, và nếu các trưởng lão Y-sơ-ra-ên quan tâm luật
pháp của Đức Chúa Trời và vâng theo vì vinh hiển Đức Chúa Trời, Y-sơ-ra-ên đã
có thể được cai trị một cách thành công. Trái lại, “Mọi người làm điều đúng
theo mắt mình” (21:25), và kết quả là một xã
hội đầy dẫy sự cạnh tranh và lộn xộn.
Hãy xem xét những tội lỗi của chi
phái Đan khi họ tìm cách cải thiện hoàn cảnh của họ trong dân tộc Y-sơ-ra-ên.
- Sự
tham lam (Cac
18:1-2). Chi phái Đan tiếp nối từ con trai thứ năm của Gia-cốp, sanh bởi
người hầu gái của Ra-chên là Bi-la (Sa 30:1-6).
Dù không phải là một chi phái lớn, nó được ban cho địa phận tốt nhất khi các
ranh giới chi phái được phân định (Gios 19:40-48).
Tuy nhiên, dân Đan không thể đánh bại và truất quyền sở hữu của kẻ thù (Cac 1:34), vì vậy họ quyết định đi đến phía Bắc và
đặt vị trí mới. Hầu hết các chi phái khác đã có thể thắng kẻ thù, truất quyền
sở hữu của họ, và giành xứ của họ, nhưng dân Đan tham lam xứ của người khác và
chiếm lấy nó bằng cách bạo lực.
Chúa đã định những sự phân chia về
chi phái dưới sự hướng dẫn của Giô-suê, với sự giúp đỡ của thầy tế lễ cả
Ê-lê-a-sa và các trưởng lão từ những chi phái (Gios
19:51). Như Ngài đã làm với các dân tộc (Cong
17:26), Ngài cũng làm với các chi phái. Đức Chúa Trời đặt mỗi chi phái
nơi Ngài muốn. Chi phái Đan khước từ địa phận được Đức Chúa Trời ấn định và
tham lam nơi khác, là chống đối ý muốn thiêng liêng của Ngài.
Nhưng đó không phải là điều gây ra
hầu hết sự rắc rối trong xã hội chúng ta ngày nay sao? Thay vì đầu phục ý muốn
Đức Chúa Trời, con người muốn có điều người khác có, và họ sẽ làm hầu hết điều
gì để đạt được nó (Gia 4:1-3). Sự đồi bại
trong thế gian này được nuôi dưỡng bởi “những ham muốn xấu xa” (IIPhi 1:4 NIV). Dù là việc xuất bản sách báo khiêu
dâm, bán ma túy hay đề xướng việc bài bạc, người đói khát tiền bạc cung cấp cho
những khao khát của con người rồi đi đến chỗ kiếm tiền và hủy hoại đời sống.
Nhờ có khả năng của phương tiện truyền thống hiện đại, đặc biệt là truyền hình,
công nghiệp quảng cáo tạo ra trong những sự khao khát của con người mọi loại
sản phẩm, dịch vụ và kinh nghiệm thú vị. Vì vậy con người đi ra và tiêu tiền mà
họ không có cho những điều mà họ không cần để gây ấn tượng cho những người thật
sự không quan tâm, nhưng đây là chu trình giữ cho kinh doanh hoạt động.
Các trưởng lão Y-sơ-ra-ên lẽ ra ngăn
chặn dân Đan khi họ từ bỏ nơi được Đức Chúa Trời ấn định và đi về hướng Bác để
giết những người vô tội và cướp xứ họ. Nhưng sự tham
lam mạnh mẽ, và một khi con người có một sự thèm khát “cái gì đó nhiều hơn”
thật khó điều khiển họ.
- Lời khuyên bất kính (Cac 18:3-6). Chính giọng địa
phương của Giô-na-than đã thu hút sự chú ý của năm thám tử, vì ông không nói
hoàn toàn giống một người từ chi phái Ép-ra-im. Khi họ hỏi một thầy tế lễ dòng
Lê-vi rằng ông đang làm gì trong một nhà riêng ở Ép-ra-im, một câu hỏi rất hợp
lý, tiện thể (IVua
19:9,13)
ông cho họ biết sự thật: ông được thuê để làm công việc này! Vì ai đó sẽ trả
chi phí các thám tử nghĩ có thể chấp nhận được để có “lời khuyên thuộc linh” từ
Giô-na-than, và ông cho họ biết điều họ muốn nghe.
Nếu chi phái Đan thật sự muốn lời
khuyên của Đức Chúa Trời, họ có thể bàn bạc với thầy tế lễ cả. Nhưng họ thật sự
đang khước từ lời khuyên của Đức Chúa Trời bằng cách từ chối ở trong xứ Ngài đã
ấn định cho họ. Vì vậy, dường như Đức Chúa Trời sẽ không bày tỏ bất cứ điều gì
cho họ (Gi 7:17).
Xâm nhập và bước vào,
cướp bóc và đe dọa (Cac 18:14-26). Trên đường chiếm La-ít, dân Đan dừng tại nhà của Mi-ca ở
Ép-ra-im. Các thám tử cho những người này biết rằng Mi-ca có một bộ sưu tập
tuyệt vời về các thần, dĩ nhiên, ngụ ý rằng bộ sưu tập sẽ có giá trị đối với họ
khi họ đi lại, chiến tranh và thiết lập quê hương mới của họ. Trong khi đám
người có binh khí đứng tại cửa thành, thì năm thám tử, những người biết
Giô-na-than, đã xâm chiếm điện thờ và cướp các thần.
Khi năm người với chiến
lợi phẩm tôn giáo của họ, trở lại cửa thành, thầy tế lễ bàng hoàng khi biết
việc họ đã làm. Nhưng dân Đan khiến ông im lặng bằng cách thuê ông, và vì ông
là người làm thuê, Giô-na-than sẵn sàng cho một đề nghị tốt hơn. Dân Đan không
chỉ đột nhập vào điện thờ của Mi-ca và cướp đi những thần của ông, họ còn cướp
đi giáo sĩ của ông, không phải công việc của một ngày xấu!
Dân Đan để phụ nữ và trẻ
em phía trước bởi đó là nơi an toàn nhất, vì bất cứ sự tấn công nào cũng sẽ đến
từ phía sau. Vào lúc dân Đan đi một quãng đường nào đó, Mi-ca phát hiện rằng
điện thờ của ông đã ngưng hoạt động, chẳng có các thần hay thầy tế lễ. Vì vậy
ông gọi các láng giềng lại, và họ đuổi theo những kẻ xâm lược. Xét cho cùng,
một con người phải bảo vệ các thần của mình!
Thật vô ích. Vì dân Đan
trội hơn ông và quá mạnh đối với ông, Mi-ca và các láng giềng ông phải trở lại
và về nhà một cách thất bại. Câu hỏi buồn bã của Mi-ca “Ta có cái gì khác?”
(c.21, NIV) bày tỏ sự dại dột và bi kịch của tôn giáo không có Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống. Những người
thờ hình tượng thờ phượng các thần mà họ có thể mang đi, nhưng Cơ Đốc nhân thờ
phượng một Đức Chúa Trời là Đấng đem họ đi (Es
46:1-7).
- Bạo lực và sự sát nhân (Cac
18:7-13,27-29). Năm thám tử đã đi một trăm dặm phía
Bắc từ trại quân của họ ở Xô-rê-a đến La-ít (Lê-sem Gios 19:47), một thành có dân Si-đôn cư ngụ,
khoảng ba mươi dặm phía Đông Địa Trung hải. Đây là một dân hoà bình, quan tâm
đến công việc của chính họ và không có hiệp ước với bất cứ ai. Họ “ở an ổn,
bình tịnh” và “thịnh vượng” (c.7, NIV), một dân cô lập, là một mục tiêu hoàn
hảo đối với chi phái Đan hiếu chiến.
Với sáu trăm người trang bị vũ khí,
cộng với phụ nữ và trẻ em của họ (Cac 18:21),
họ đi về phía Bắc và chiếm thành La-ít, giết mọi cư dân và đốt thành. Sau đó họ
xây lại thành và gọi nó một cách kiêu ngạo là Đan, theo tên của người sáng lập
chi phái họ. Đáng tiếc, điều Gia-cốp nói tiên tri về chi phái Đan đã trở thành
sự thật (Sa 48:17).
Ai đó đã nói rằng có ba triết lý về
đời sống trên thế giới ngày nay: 1. “Cái gì của ta là của ta, ta sẽ giữ nó”, 2.
“Cái gì của ngươi là của ta, ta sẽ lấy nó”, và 3. “Cái gì của tôi là của bạn,
tôi sẽ chia sẻ nó”. Dân Đan theo triết lý thứ hai, và rất nhiều dân tộc tham
lam cũng làm vậy. Một trong những ngành công nghiệp hiện hành được hoan nghênh
ở Mỹ là việc láp các hệ thống an toàn trong nhà riêng. Số lượng những cuộc ăn
chơi bắn giết trong những thương xá mua sắm và các nhà hàng thức ăn nhanh đã
làm nhiều người sợ hãi đến nỗi họ thực hiện việc mua sắm của mình bằng điện
thoại. Câu chuyện trang bìa của tạp chí Time ngày 23/8/1993 gọi nước Mỹ là
“Nước Mỹ bạo lực”.
Chúng ta không biết có bao nhiêu
người sống ở La-ít, nhưng những kẻ vô cớ giết thậm chí vài trăm người vô tội là
một tội ác có tỉ lệ cân xứng hoàn toàn. Tôi sợ rằng chúng ta đã được phơi bày
cho thấy quá nhiều tội ác và bạo lực qua phương tiện truyền thông đến nỗi loại
tin tức này chẳng quấy rầy chúng ta hơn nữa. Arthur Beisser trong “Sports
Illustrated” (các môn thể thao được minh họa) (1/3/1976) viết rằng: “Chúng ta
đang xem một loại bạo lực mới. Nó được sử dụng không phải như một phương tiện
đi đến một kết thúc, nhưng vì những mục đích giải trí, vì khoái lạc”. Chúng ta
có thể thêm vào rằng bạo lực cũng là một phương tiện để kiếm tiền, như những
người làm phim ảnh và công nghiệp truyền hình đã chứng minh.
- Sự thờ hình tượng (Cac 18:30-31). Chi phái
Đan là chi phái đầu tiên trong Y-sơ-ra-ên công khai tiếp nhận một hệ thống tôn
giáo thờ hình tượng. Dù có một nhà của Đức Chúa Trời ở Si-lô, họ thích những
hình tượng hơn. Những năm sau đó, khi vương quốc bị phân chia, Giô-rô-bô-am I
của Y-sơ-ra-ên sẽ dựng bò vàng ở Đan và Bê-e-sê-ba rồi kêu gọi cả dân tộc từ bỏ
Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống (IVua 12:25-33).
Câu chuyện về Mi-ca, Giô-na-than và
Đan hơn hẳn một câu chuyện từ lịch sử cổ đại. Đó là một bày tỏ về sự gian ác
của lòng người và sự vô vọng của xã hội loài người không có Đức Chúa Trời Thế
giới ngày nay của chúng ta đã thay vào những hình tượng thế cho Đức Chúa Trời
Chân Thật và Hằng Sống, và nghĩ ra tôn giáo theo chủ nghĩa nhân văn của mình,
đầy đủ “những thầy tế lễ” – là những chuyên gia cho chúng ta biết rằng Kinh
Thánh sau nhưng con đường của họ là đúng. Nhưng cả những hình tượng và các thầy
tế lễ của họ cũng không có quyền lực nào chống lại bạo lực của lòng người.
Khi Dwight D.Eisenhower là tổng
thống của nước Mỹ, ông đã triệu tập một “Hội nghị Nhà Trắng về thiếu nhi và
thanh niên”, hy vọng tìm ra những giải pháp cho vấn đề phạm tội của thanh thiếu
niên đang gây tai hại cho quốc gia. Tôi được mời dự hội nghị đó nhưng không thể
đi vì những trách nhiệm gia đình.
Tuy nhiên, một người bạn của tôi ở
nhóm “Youth for Christ International” (nhóm quốc tế Tuổi trẻ cho Đấng Christ)
đã đi dự và trình bày báo cáo này (Tôi chú giải): “Tôi ngồi trong phòng hằng
giờ, lắng nghe các nhà tâm lý, các nhà giáo dục và các nhà tội phạm học nói về
các thiếu niên và cách giúp đỡ chúng, và tôi chán ngán về điều đó. Cuối cùng,
tôi đề đạt với quốc hội và cho họ biết về những kinh nghiệm của chúng tôi trong
nhóm “Tuổi trẻ vì Đấng Christ”, thể nào những tội phạm đã được thay đổi bởi
quyền năng của Phúc Âm. Phòng họp trở nên rất im lặng và rồi người ta bối rối,
bắt đầu tằng hắng và xáo trộn giấy tờ”. Người chủ tọa cảm ơn tôi về những lời
nói của tôi và bất ngờ chuyển sang mục chương trình kế tiếp. Khi ấy, điều đó đã
xúc phạm tôi: họ không muốn nghe!
William Butler Yeats đã đúng: “Trung
ương không thể cầm giữ” gia đình, chức vụ và xã hội đang tan rã trước mắt chúng
ta, và người không muốn nghe sự thật! Nhưng dù họ muốn hay không, thế giới phải
được cho biết rằng Chúa Giê-xu Christ đã chịu chết vì tội nhân hư mất, và quyền
năng Đấng Christ có thể biến đổi tấm lòng, gia đình, Hội Thánh và xã hội nếu
con người chỉ tin cậy Ngài.
Nhà truyền giáo người Anh kiêm nhà
thơ John Donne (d.1631) đã nói: “Đấng Christ đánh trống của Ngài, nhưng Ngài
không thúc ép con người. Đấng Christ được hầu việc bởi những người tình
nguyện”.
Bạn có sẵn sàng không?
11. CHIẾN TRANH VÀ HÒA
BÌNH (Cac 19:1-21:25)
Sau khi đọc ba chương
này, nếu bạn phải đọc lướt nhanh báo hằng ngày hoặc tạp chí tin tức hằng tuần,
bạn sẽ phải thừa nhận rằng các thời đại đã thay đổi quá nhiều. Vì trong những
trang cuối này của sách Các quan xét, bạn tìm thấy những tường thuật về việc
hành hạ vợ, sự đồng tình luyến ái hiển nhiên, sự cưỡng hiếp của bọn côn đồ dẫn
đến vụ giết người, sự bất công, anh em giết anh em, và thậm chí là vụ bắt cóc.
Đó là loại chuyện kể hầu như khiến bạn đồng ý với nhà văn tiểu luận người Anh
Samuel Johnson, người đã nói vào năm 1783: “Tôi đã sống để thấy mọi sự đều tồi
tệ như chúng có thể. Ông sẽ nói gì ngày nay?
Dị nhiên những sự kiện như
vầy là thức ăn hằng ngày của dân thích bạo lực trên truyền hình, và những nhà
nghiên cứu cho chúng ta biết rằng những gì xảy ra trên màn ảnh thường được sao
chép trên đường phố. Theo một nghiên cứu của American Psychological Arsociation
(Hội tâm lý học của Mỹ), cứ một giờ có năm hành động bạo lực trong các chương
trình Tivi giờ cao điểm, và vào những sáng Chủ nhật, khi trẻ con xem các phim
hoạt hình, các hành động bạo lực nhân lên gấp năm lên (“USA Today” (Nước Mỹ
ngày nay) 2/8/1993 khi một quốc gia được giải trí bằng bạo lực, có nhiều hy
vọng cho quốc gia đó chăng?
Khi điều ác không được
giải quyết cách đích đáng, nó có xu hướng gia tăng tội lỗi trong thành Ghi-bê-a
cuối cùng đã đầu độc chi phái Bên-gia-min và dẫn đến chiến tranh trong xứ
Y-sơ-ra-ên.
1. Sự gian ác của một
thành (Cac 19:1-28)
Sự tiếp đãi ở
Bết-lê-hem (Cac 19:1-9). Nếu bạn nghĩ rằng
Giô-na-than người Lê-vi (chương 17-18) là một
kẻ vô lại, thì bạn có thể sẽ kết luận rằng người Lê-vi vô danh này là một kẻ vô
lại hoàn toàn thuộc hạng hèn hạ nhất. Ông ta đang dành hầu hết thời gian của
mình để ăn uống (19:4,6,8,22), ông bước đi trong sự tối tăm và gây tai hại
cho đời sống mình cùng đời sống của những người ở với ông (c.9-14). Ông đã đối
xử với vợ bé mình cách đáng căm phẫn nhất, trong lúc nàng còn sống và sau khi
nàng chết, và điều ông đã làm cho nàng thúc đẩy một cuộc nội chiến trong
Y-sơ-ra-ên.
Vợ bé là một người vợ hợp pháp chỉ
được bảo đảm thức ăn, quần áo và những đặc quyền về hôn nhân (Xu 21:7-112 Phu
21:10-14). Bất cứ đứa con nào mà người ấy sinh ra sẽ được xem là hợp
pháp, nhưng vì thân phận thứ nhì của mình, họ sẽ không nhất thiết dự phần trong
tài sản gia đình (Sa 25:16). Nếu vợ của một
người đàn ông bị son sẻ, ông ta đôi khi lấy một vợ bé để có thể thiết lập một
gia đình. Dù luật pháp điều khiển việc có vợ lẽ mà Chúa đã không chấp thuận hay
khích lệ điều đó, nhưng bạn sẽ tìm thấy nhiều người thời Cựu Ước có vợ bé, kể
cả Áp-ra-ham, Gia-cốp, Ghê-đê-ôn, Sau-lơ, Đa-vít và Sa-lô-môn.
Người vợ bé đặc biệt này không chung
thủy với chồng nàng và đã trốn về nhà cha nàng ở Bết-lê-hem để được bảo vệ (Le 20:10). Nàng càng đi lâu, chồng nàng càng nhớ
nàng, nên ông đã đi đến Bết-lê-hem, tha thứ cho nàng, và làm hòa. Ông và cha vợ
ông khám phá rằng họ thích làm bạn nhau và trải qua năm ngày ăn uống và vui vẻ.
Người Lê-vi này chẳng nhận ra rằng ông thật sự không có gì để hạnh phúc vì bi
kịch đang đeo đuổi hôn nhân của ông.
Đối với tôi, người Lê-vi này minh
họa cho thái độ bất cẩn của nhiều tín đồ ngày nay. Họ là con cái của ban ngày,
nhưng họ hành động như con cái của ban đêm (ITe
5:1-8). Sự xét đoán đã đến gần, nhưng những người này chẳng nghĩ gì mà
chỉ hưởng thụ đời sống. Khi dân tộc mình quá cách xa Đức Chúa Trời, làm sao
người Lê-vi này có thể phí thời gian để ăn uống và vui vẻ. “Hãy khốn khổ, hãy
đau thương khóc lóc, hãy đổi cười ra khóc, đổi vui ra buồn” (Gia 4:9).
Vâng, có “kỳ để cười” (Tr 3:4), và Đức Chúa Trời muốn chúng ta hưởng
những sự ban cho của Ngài (ITi 6:17), nhưng
đối với nhiều Cơ Đốc nhân, thời gian đó là toàn bộ thời gian! Ở rất nhiều Hội
Thánh, tiếng cười của “sự giải trí tôn giáo” đã thay thế cho sự yên lặng thánh
khiết của sự thờ phượng. Nơi thánh đã trở thành một rạp hát. Khi các thánh đồ
nhóm lại, điều quan trọng nhất là “vui đùa”. Để xoa dịu lương tâm mình, chúng
ta có một “lời cầu nguyện ngắn” trước khi thời gian vui đùa chấm dứt, và chúng
ta cảm tạ Đức Chúa Trời một cách tin kính rằng chúng ta đã có một thời gian bổ
ích như thế.
Không ai cảm kích tiếng
cười và sự hài hước bổ ích hơn tôi, nhưng tôi sợ rằng Hội Thánh đang đánh mất ý
thức về sự sợ hãi và những nhu cầu để biết cách khóc. Nếu người Lê-vi vui cười
này bước đi trong sự sáng, cầu nguyện và tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời, ông sẽ
thực hiện những kế hoạch khác và cứu vợ mình khỏi sự xấu hổ, sự ngược đãi, sự
đau đớn và sự chết.
Sự hiếu khách ở
Ghi-bê-a (Cac 19:10-21). Suốt thời kỳ Các quan xét, thật nguy hiểm khi đi lại vào ban ngày (Cac 5:6) và thậm
chí nguy hiểm hơn vào ban đêm. Người Lê-vi không muốn ở lại trong Giê-ru-sa-lem
vì nó nằm trong tay của người Giê-hu ngoại đạo. Vì vậy ông hối hả đi bốn dặm
đến Ghi-bê-a để ông có thể ở với dân mình. Nhưng người Ghi-bê-a đã trở nên gian
ác như những kẻ ngoại đạo quanh họ!
Trước hết, không ai ở Ghi-bê-a tiếp
đón những khách thăm viếng và mở cửa nhà họ để chăm sóc khác. Vì người Lê-vi có
nhiều lương thực cho đoàn người và súc vật của ông, ông sẽ không là gánh nặng
cho bất cứ ai, nhưng không ai cho họ vào. Sự tiếp khách là một trong những
thánh luật ở phương Đông, và không khách lạ nào phải bị bỏ bê, nhưng chỉ một
người trong thành bày tỏ bất kỳ sự quan tâm nào, và người đó là một người
Ép-ra-im. Ông không chỉ dẫn họ vào nhà mình, mà còn dùng chính lương thực của
mình để nuôi họ và súc vật của họ.
Dân sự Đức Chúa Trời được ra lệnh
phải thực hành sự hiếu khách. Đó là một trong những phẩm cách đối với một mục
sư (ITi 3:2 Tit
1:8). “Chớ quên tiếp đãi khách, vì một số người đã tiếp đãi các thiên sứ
bằng cách làm vậy mà không biết” (He 13:2
NIV).
Tội ác ở Ghi-bê-a (Cac 19:22-28). Ghi-bê-a đã trở nên giống như Sô-đôm, một thành phố quá gian ác đến nỗi Đức
Chúa Trời đã hủy diệt nó khỏi mặt đất (Sa 19:1-38).
Dân trong thành chìm đắm trong những hành động vô đạo đức trái với tự nhiên (Ro 1:24-27) và luật pháp Đức Chúa Trời (Le 18:22 20:13 ICo 6:9-10). Từ “biết” trong Cac 19:22 nghĩa là “có kinh nghiệm tình dục với”.
Những kẻ phạm tội này đã bị kích động vì một người mới ở trong thành, và họ
muốn thích thú với người ấy.
Chủ nhà đã mô tả những ước muốn của
họ là sự gian ác, ngu xuẩn (c.23) và là một điều hèn hạ (c.24) trong tinh thần
can đảm và đúng đắn, và ông tìm cách ngăn trở họ hãm hiếp khách của ông. Giống
như Lót ở Sô-đôm, chủ nhà đề nghị với họ con gái ông, cho thấy mức độ đánh giá
thấp kém về phụ nữ và về sự tinh khiết tình dục mà một số người thời đó đã có.
Làm sao một người cha có thể đề nghị con gái mình làm một vật hy sinh cho những
tham muốn của đám đông thì thật khó hiểu. Nhưng nhiều cha mẹ ngày nay cho phép
tâm trí và tấm lòng của con trai, con gái mình bị quấy rối bởi những gì chúng
thấy và nghe trên phim ảnh, ti-vi và các ban nhạc rock. Sự trong trắng của tâm
trí và tấm lòng cần thiết cho sự trong trắng của thân thể.
Vì người Lê-vi sợ đám đông sẽ giết
ông (20:5), ông làm họ nguôi giận bằng cách
cho họ vợ bé mình. Và nàng phải chịu sự hãm hiếp của bọn côn đồ cả đêm (c.25).
Lòng chúng ta ghê tởm suy nghĩ của một người đàn ông quá vô cảm đối với những
cảm xúc của một con người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời, quá lãnh
đạm đối với sự thiêng liêng về tính dục và trách nhiệm về hôn nhân, và quá hờ
hững về những luật của Đức Chúa Trời, đến nỗi ông hy sinh vợ mình để cứu thân
mình. Phải chăng ông đang trừng phạt nàng vì đã không chung thuỷ với ông? Nếu
vậy, sự trừng phạt nàng lớn hơn tội đó.
Nhưng điều đó trở nên tồi tệ hơn.
Người Lê-vi không chỉ giao vợ cho những tham muốn hư hỏng của một đám người bất
kính, mà ông còn có thể nằm xuống và ngủ trong khi họ đang hành hạ nàng trên
đường phố! Một người có thể trở nên nhẫn tâm như vậy sao? Và ông ta ngây thơ
nghĩ rằng nàng sẽ sống đến sáng hôm sau ư?
Thấy nàng chết trên ngạch cửa, nhưng
không cảm thấy mình có lỗi về điều đó, ông đặt xóc nàng trên một con lừa và trở
về nhà. Sau đó ông đã làm một việc đáng khinh: ông xúc phạm và làm tàn phế xác
nàng bằng cách chặt xác ra mười hai phần và gởi mỗi phần cho mười hai chi phái
Y-sơ-ra-ên. Dĩ nhiên ông muốn điều động sự giúp đỡ của các chi phái và trừng
phạt những người Ghi-bê-a đã giết vợ ông, nhưng thật ra, ông là người đã để họ
giết nàng! Chắc chắn có những cách khác để gợi sự chú ý đối với tội ác của
Ghi-bê-a.
Nếu người Lê-vi đi đến Si-lô nơi đền
tạm ở đó (Cac 18:31) và nếu ông hỏi ý thầy
tế lễ cả, ông có thể giải quyết vấn đề theo luật pháp Đức Chúa Trời và tránh
gây ra nhiều rắc rối. Tuy nhiên, một khi sự tức giận được khích động trong
Y-sơ-ra-ên, khó mà ngăn lửa không lan ra.
2. Sự bướng bỉnh của một
chi phái (Cac 20:1-48)
Sự hội họp (Cac 20:1-11). Sự
tuyên bố khủng khiếp của người Lê-vi đã sinh ra những kết quả ông muốn. Các
quan trưởng và các chiến sĩ từ cả nước, trừ chi phái Bên-gia-min (c.3) và
Gia-be ở xứ Ga-la-át (21:8-9),
đã đến tại Mích-ba để quyết định điều phải làm. Sau khi nghe lời cáo trạng của
người Lê-vi về dân Ghi-bê-a, dân Y-sơ-ra-ên đưa ra một quyết định và lập một
lời thề. Quyết định đó là dân Ghi-bê-a có tội và phải bị giao cho chính quyền
để bị giết (Phu 13:12-18). Lời thề đó là không
ai trong những chi phái có mặt sẽ cho con gái họ kết hôn với những người nam
Bên-gia-min (Cac 21:1-7).
Lời yêu cầu (Cac 20:12-17).
Mười một chi phái đã đồng ý “như một người” để
tấn công Ghi-bê-a, nhưng trước hết họ sai những đại diện đến chi phái Bên-gia-min,
kêu gọi dân sự xưng ra sự gian ác của họ và giao những kẻ có tội. Theo Le 20:13 những kẻ đồng tính luyến ái sẽ bị xử
chết, nhưng đó không phải là tội mà các chi phái đang xét đoán. Vì người lê-vi
đã sẵn sàng giao vợ mình cho dân Ghi-bê-a, nên tội lỗi họ hầu như không thể bị
gọi là sự tà dâm (Phu 22:22). Hình phạt cho
sự cưỡng hiếp là sự chết, và sự cưỡng hiếp hội đồng thậm chí sẽ nghiêm trọng
hơn (22:25-26). Có lẽ các chi phái đang
trích dẫn luật có liên quan đến những kẻ gian ác trong một thành (13:12-18) và sử dụng luật đó làm cơ sở cho hành
động của họ.
Bất cứ luật nào họ đang vâng theo,
các chi phái có sự quan tâm đến việc “cất điều ác khỏi xứ”, một nhóm từ được
tìm thấy ít nhất chín lần trong Phục truyền. Dân Ghi-bê-a là dân gian ác và
phải bị trừng phạt trước khi Chúa có thể hài lòng dân sự Ngài và làm tinh sạch
xứ của Ngài. Nhưng dân Bên-gia-min không thừa nhận rằng Ghi-bê-a đã phạm tội,
cũng không giao những người đã làm việc gian ác đó.
Một số người có thể đã giải thích sự
bướng bỉnh của Bên-gia-min như một hành động ái quốc. Họ chỉ đang tìm cách bảo
vệ công dân của họ. Nhưng sự chối từ hợp tác của họ chính xác là một hành động
chống nghịch với Chúa. Khi tội lỗi không bị phơi trần, xưng ra và trừng phạt,
nó làm ô nhiễm xã hội và làm ô uế xứ. Những kẻ gian ác của Ghi-bê-a giống như
một khối u ung thư trong cơ thể bị cắt bỏ. “Anh em há chẳng biết rằng một chút
men làm cho cả đóng bột dậy lên sao?” (ICo 5:6
NKSV).
Kết quả ra sao? Chi phái Bên-gia-min
đã tuyên chiến với tất cả các chi phái còn lại của Y-sơ-ra-ên! Một một chi phái
có bốn trăm ngàn người trong quân đội họ (Cac 20:2),
trong khi Bên-gia-min chỉ có hai mươi sáu ngàn người cầm gươm và bảy trăm
“người được chọn” có tài bắn đá (c.15-16). Nhưng mặc cho sự chênh lệch khủng
khiếp, đó là anh em chiến đấu với anh em!
Khi dân sự Đức Chúa Trời chối từ
vâng lời Đức Chúa Trời, những hậu quả luôn bi thản. Đời sống thuộc linh của một
Hội Thánh bị què quặt và cuối cùng bị huỷ hoại khi hội chúng nhắm mắt trước tội
lỗi và không kỷ luật những người vi phạm. Không bao giờ có thể có một sự hiệp
nhất giữa vòng dân sự Đức Chúa Trời bao lâu một số người vẫn che đậy tội lỗi và
để nó làm nhiễm độc thân thể.
Cuộc tấn công (Cac 20:18-40).
Những người đại diện của mười một chi phái đã đến đền tạm tại Si-lô (18:31 ISa 1:9) và tìm kiếm ý muốn Chúa, bằng cách rút
thăm (Cac 20:9). Đức Chúa Trời cho phép họ
thực hiện cuộc chiến, với chi phái Giu-đa dẫn đầu cuộc tấn công. Ngày đầu tiên
đó, Đức Chúa Trời cho phép dân Bên-gia-min thắng và giết hai mươi hai ngàn
người chiến sĩ Y-sơ-ra-ên.
Mười một chi phái đã khóc trước mặt
Chúa và một lần nữa tìm kiếm ý muốn Ngài. Hãy chú ý rằng “dân Bên-gia-min”
trong Cac 20:18 trở thành “Bên-gia-min anh
em tôi” trong c.23. Có lẽ đây là một lý do Đức Chúa Trời cho phép dân
Y-sơ-ra-ên thất bại trận đầu tiên đó. Điều ấy cho họ một cơ hội để suy nghĩ về
việc họ đang chiến đấu với thịt và huyết của chính mình. Nhưng vào ngày thứ hai
của cuộc chiến. Bên-gia-min thắng lần nữa, lần này giết mười tám ngàn người.
Tình hình rất ác liệt.
Mười một chi phái lại tìm kiếm mặt
Chúa, lần này có sự kiêng ăn và những của lễ cùng với nước mắt của họ. Chúa đáp
lời cầu nguyện của họ và không chỉ bảo họ tấn công lần nữa, mà còn bảo đảm với
họ rằng lần này họ sẽ thắng.
Chiến lược được sử dụng vào ngày thứ
ba tương tự với chiến lược mà Giô-suê đã sử dụng tại A-hi (Gios 8:1-35). Tự tin vì hai ngày chiến thắng (Cac 20:30-31 và chú ý 16:20),
đội quân Bên-gia-min gặp đội quân Y-sơ-ra-ên, giết khoảng ba mươi người, nhưng
bị kéo ra xa khỏi Ghi-bê-a và bị bắt tại nơi phục kích. Trên hai mươi lăm ngàn
người Bên-gia-min bị giết trên chiến trường, trên đường cái, hoặc khi họ chạy
trốn trong đồng vắng. Ghi-bê-a bị chiếm, cư dân của nó bị giết, và thành bị đốt
trụi. Thật ra, đội quân Y-sơ-ra-ên đã tiêu diệt nhiều thành khác trong một hoạt
động càn quét.
Vào lần kiểm tra dân số đầu tiên sau
cuộc rời khỏi Ê-díp-tô, có ba mươi lăm ngàn người ra trận trong chi phái
Bên-gia-min (Dan 1:37), và con số này đã gia
tăng đến bốn mươi lăm ngàn sáu trăm vào lần kiểm tra dân số thứ hai (Dan 26:41). Suốt cuộc chiến ba ngày nay, dân
Bên-gia-min chỉ còn lại sáu trăm người chạy trốnt rên hòn đá Rim-môn, một dạng
hòn đá giống như đồn lũy gần Ghi-bê-a. Quả là một cái giá mà chi phái
Bên-gia-min đã trả cho việc từ chối vâng theo luật pháp của Chúa!
3. Sự đổ nát của một
dân tộc (Cac 21:1-25)
Một khi cơn giận đã
nguôi, mười một chi phái nhận ra rằng họ có một chi phái vừa mới bị loại bỏ
khỏi dân tộc Y-sơ-ra-ên. Và điều này khiến họ khóc lóc (c.2,15). Họ dâng của lễ
cho Chúa, nhưng không có sự ghi chép nào cho thấy dân sự hạ mình, xưng nhận tội
lỗi họ, và tìm kiếm sự giúp đỡ của Chúa. Trước đó,
Chúa đã bày tỏ ý muốn của Ngài cho họ, (Cac 20:18,23,28), nhưng không
có chứng cớ nào cho thấy họ tiếp nhận Lời Ngài sau khi cuộc chiến chấm dứt.
Có thể tôi sai, nhưng tôi nghi ngờ
rằng Chúa không hài lòng với dân Bên-gia-min vì họ vẫn chưa xưng nhận tội lỗi
mình và thừa nhận họ sai. Sáu trăm chiến sĩ đã trốn trên hòn đá Rim-môn vẫn
không tìm kiếm mặt Đức Chúa Trời. Họ chỉ đang trốn khỏi đội quân chiến thắng.
Nếu có ai đó đề nghị tất cả họ gặp Chúa tại Si-lô và giải quyết vấn đề với
Chúa, điều đó có thể tạo một thay đổi.
Thay vì nhận những hướng dẫn từ
Chúa, mười một chi phái cậy nơi sự khôn ngoan của riêng họ để giải quyết vấn đề
(Gia 3:13-18). Sáu người từ chi phái Bên-gia-min
sẽ cần những người vợ nếu họ sắp tái thiết chi phái của mình, nhưng mười một
chi phái đã thề không cho họ những người vợ. Những người vợ này sẽ đến từ đâu?
Dân Y-sơ-ra-ên giải quyết vấn đề
bằng cách giết thêm dân của họ! Không ai từ Gia-be Ga-la-át đến với cuộc chiến,
mang ý nghĩa về hai điều: Họ đã không tham dự trong lời thề, và thành đáng phải
bị trừng phạt. Có thể khi mười hai phần của thân thể người vợ bé được gởi đi
khắp Y-sơ-ra-ên, một lời cảnh cáo được đưa ra rằng bất cứ chi phái hay thành
nào không đáp ứng và giúp chiến đấu với bên-gia-min sẽ bị đối xử cách tương tự.
Đó là loại cảnh cáo mà vua Sau-lơ đã đưa ra khi ông sử dụng một phương pháp
tương tự (ISa 11:7).
Nếu đó là trường hợp này, thì dân
Gia-be Ga-la-át biết điều gì nguy hiểm khi họ ở nhà. Và sự tàn sát thành của họ
tiếp theo đó là lỗi của họ. Các đao phủ đã tìm thấy bốn trăm trinh nữ trong
thành, những người nữ có thể trở thành vợ của hai phần ba các chiến sĩ trên hòn
đá. Những người này đã ở trên hòn đá bốn tháng (Cac
20:47), nhưng giờ đây họ có thể nhận cô dâu của mình và về nhà. Thật là
một cái giá được trả cho những người vợ này! Nhưng đó là “tiền công của tội
lỗi” (Dan 31:17 Phu
20:13-14 về những tiền lệ).
Các trưởng lão mở cuộc họp khác để
bàn luận cách họ có thể cung cấp vợ cho hai trăm người còn lại. Ai đó đã nhớ
rằng có nhiều trinh nữ từ các chi phái đã tham gia vào một lễ hội hằng năm tại
Si-lô. Nếu hai trăm người còn lại của Bên-gia-min núp gần đó, họ có thể mỗi
người bắt cóc một người con gái và đem nàng về nhà làm vợ. Các chi phái sẽ
không vi phạm lời thề của họ vì họ không cho những người con gái đó làm cô dâu.
Những con gái đó bị bắt đi. Đó là một vấn đề ngữ nghĩa học, nhưng họ đồng ý làm
theo kế hoạch.
Vì vậy, sáu trăm người có đủ cô dâu
của họ, mười một chi phái đã giữ lời thề của họ, các công dân Ghi-bê-a đã bị
trừng phạt, chi phái Bên-gia-min đã được dạy một bài học và mười hai chi phái
Y-sơ-ra-ên đã được cứu. Sáu trăm người Bên-gia-min, với các câu dâu của họ trở
lại với di sản của họ, dọn dẹp đống gạch vụn, sửa lại các thành, và khởi đầu
cuộc sống trở lại.
Nhưng tất cả sự tàn sát và hủy diệt
này đã xảy ra vì một người Lê-vi đã không có can đảm để đương đầu với điều gì
phải và đối xử với vợ mình cách tôn trọng. Một lần nữa, như với Giô-na-than,
Mi-ca và dân Đan (Cac 17:1-18:31), vấn đề đã
bắt đầu trong gia đình. Gia đình như thế nào, quốc gia như thế đó.
Vào lần thứ tư (17:6 18:1 19:1), tác giả cho chúng ta biết rằng “không có
vua trong Y-sơ-r-ên” và vào lần thứ nhất (17:6)
ông thêm rằng “mọi người làm điều đúng theo mắt mình? Ngày nay không có vua
trong Y-sơ-ra-ên vì dân tộc đã chọn Ba-na-ba thay cho Chúa Giê-xu (Lu 23:13-25). Họ nói: “Chúng tôi sẽ không để người
này cai trị chúng tôi” (Lu 19:14). Vì không
có vua trong Y-sơ-ra-ên, dân sự đang chống nghịch với Đức Chúa Trời và làm bất
cứ điều gì hài lòng họ, và điều đó sẽ như thế cho đến khi Vua tái lâm và ngự
ngôn Ngài trên đất.
Nhưng dân sự Đức Chúa Trời ngày nay
không sống trong thời sách Các quan xét, họ sống trong thời sách Ru-tơ!. Thật
khó tin rằng câu chuyện được kể trong sách Ru-tơ xảy ra trong thời Các quan xét
(Ru 1:1). Câu chuyện về Ru-tơ là một chuyện
tình nói về một người đàn ông tìm một cô dâu. Đó là một câu chuyện về sự cứu
chuộc, về một người giàu có sẵn sàng trả giá để mua cô dâu yêu quí của mình và
khiến nàng trở thành của riêng mình. Đó là một câu chuyện mùa gặt nói về Chúa
của mùa gặt sẽ mang đến những bó lúa.
Bởi đức tin nơi Chúa Giê-xu Christ,
mọi dân của Đức Chúa Trời ngày nay dự phần trong tình yêu của Ngài. Chúng ta
hoàn toàn thuộc về Ngài vì Ngài đã cứu chuộc chúng ta bằng huyết Ngài khi Ngài
chết thay chúng ta trên thập tự giá. Chúng ta là những người làm việc chung
trong mùa gặt. Thật là một đời sống kỳ diệu chúng ta có giữa một thế giới bị
lôi kéo bởi tội lỗi và sự ích kỷ! Và quả là một đặc quyền kỳ diệu chúng ta có
để chia sẻ Tin Mừng với người khác!
Bạn đang sống trong sách nào? Sách
Các quan xét hay sách Ru-tơ?
RÚT RA MỘT SỐ BÀI HỌC
TỪ SÁCH CÁC QUAN XÉT-NHÌN LẠI VÀ NHÌN QUANH
Khi chúng ta nhìn lại
những bài học của chúng ta và nhìn quanh thế giới của chúng ta với Hội Thánh
của Đức Chúa Trời, chúng ta có thể rút ra một số kết luận về đời sống Cơ Đốc
cùng sự hầu việc Cơ Đốc và thực hiện một số ứng dụng cho chức vụ của chúng ta
hôm nay.
1. Đức Chúa Trời đang
tìm kiếm những tôi tớ
Đức Chúa Trời đang tìm
kiếm những người sẵn sàng nghe Lời Ngài, tiếp nhận quyền năng Ngài và làm theo
ý muốn Ngài. Đức Chúa Trời có thể sử dụng mọi hạng người nam và người nữ. Như
Ghê-đê-ôn, một số tôi tớ Đức Chúa Trời yếu đuối nơi bản thân nhưng mạnh mẽ nơi
Chúa. Giống như Ba-rác, một số người không muốn chiến đấu một mình với kẻ thù.
Tất cả chúng ta đều khác nhau, nhưng tất cả chúng ta có thể hầu việc Chúa vì
vinh hiển của Ngài.
Nếu Đức Chúa Trời kêu
gọi bạn hầu việc Ngài, đó chủ yếu không phải vì khả năng hay tài năng của bạn.
Ngài thường kêu gọi những người dường như không có khả năng lãnh đạo gì cả.
Ngài gọi bạn vì bạn đầu phục Ngài và sẵn sàng làm theo ý muốn Ngài. Đừng nhìn
bản thân, đừng chỉ nhìn vào thử thách, hãy nhìn Chúa.
2. Đức Chúa Trời cai
trị và tể trị trong lịch sử
Sách Các quan xét cho
thấy rõ ràng Đức Chúa Trời có thể hành động trong và qua mọi quốc gia, dân
ngoại cũng như dân Do Thái. Đức Chúa Trời đã “định trước thì giờ đời người ta
cùng giới hạn chỗ ở” (Cong
17:26). Ngài là Đức Chúa Trời của lịch sử và cả địa lý. Ngài có thể dùng
các dân ngoại để sửa phạt dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Ngài có thể lập lên một
người cai trị này và hạ bệ người khác.
Mặc dù có thể không có một biểu mẫu
rõ ràng đối với lịch sử, dù các sử gia có thể tìm kiếm điều đó, nhưng dứt khoát
có một kế hoạch cho lịch sử: Vì Đức Chúa Trời nắm quyền điều khiển. Như Tiến sĩ
A.T.Pierson thường nói “Lịch sử” là câu chuyện của Ngài? Những sự kiện đối với
chúng ta có vẻ như những sự tình cờ thì thật sự là những sự chỉ định (Ro 8:28). Những ngày tăm
tối như trong thời kỳ Các quan xét, Đức Chúa Trời vẫn ngự trên ngôi thực hiện
những mục đích của Ngài. Điều này phải khích lệ chúng ta tin cậy Ngài và tiếp
tục hầu việc Ngài, cho dù viễn cảnh có thể gay go thế nào đi nữa giữa thế giới
gian ác này.
3. Đức Chúa Trời ban
cho các quốc gia những lãnh đạo mà họ đáng được
Tôi đã chỉ ra nhiều lần
trong những bài học này rằng tính cách của các quan xét đã hư hỏng, bắt đầu từ
Ghê-đê-ôn. Vào lúc chúng ta đến với Sam-sôn, chúng ta thấy sức mạnh thể chất
tuyệt vời kết hợp với loại kính cách yếu đuối nhất Ghê-đê-ôn, Giép-thê và
Sam-sôn đã làm công việc Đức Chúa Trời giao cho họ làm, nhưng họ không cung cấp
chức lãnh đạo thuộc linh nào cho dân sự.
Các triết gia bao thế kỷ
đã tranh luận rằng một người xấu có thể là một lãnh đạo tốt hay không. Có lẽ
câu hỏi chính là: “Bạn đang nói về loại chức lãnh đạo nào?” Một vị tướng hay
chưởi thề, nạt nộ, nói dối và không quan tâm Lời Đức Chúa Trời, nếu ông ta là
một chiến sĩ có kinh nghiệm, chắc chắn có thể cung cấp chức lãnh đạo hiệu quả
cho một quân đội, nhưng ông ta sẽ không cung cấp loại gương mẫu gây dựng tính
cách.
Mọi tôi tớ Đức Chúa Trời
đều có khuyết điểm trong phương diện nào đó, nhưng điều đó không nên là một cái
cớ để chúng ta phạm tội hay làm việc không hết khả năng của mình. Chúng ta đều
phải cố gắng xây dựng tính cách Cơ Đốc và phát triển những kỹ năng của mình cho
vinh hiển của Đức Chúa Trời. Sự cống hiến không phải là điều thay thế cho công
việc bất cẩn, nhưng sự thành công dưới mắt con người không phải là điều thay thế
cho tính chất giống Chúa Giê-xu Christ. Giống như Đa-vít, chúng ta phải hầu
việc Chúa bằng sự chính trực và cả sự khéo léo (Thi 78:72).
4. Đức Chúa Trời nhân
từ tha thứ và giúp chúng ta khởi đầu trở lại
Chu kỳ lịch sử trong
sách Các quan xét bảo đảm với chúng ta rằng Đức Chúa Trời sửa phạt khi chúng ta
bất tuân và tha thứ khi chúng ta ăn năn, xưng tội mình. Thật quá tệ khi chúng
ta không học từ những thất bại của người khác và từ những thất bại trong quá
khứ của chúng ta, nhưng đó là một trong những nguy hiểm nghề nghiệp của con
người.
Chúng ta phải nhớ rằng
dân tộc Y-sơ-ra-ên đã ở trong một mối liên hệ giao ước đặc biệt với Đức Chúa
Trời. Ngài hứa chúc phước họ nếu họ vâng theo luật pháp Ngài và sửa phạt họ nếu
họ bất tuân. Không nơi đâu trong Kinh Thánh Tân Ước Đức Chúa Trời hứa làm cho
đời sống dân sự Ngài hôm nay trở nên dễ chịu và tiện nghi nếu họ vâng lời Chúa.
Chúa Giê-xu đã sống một đời sống trọn vẹn trên đất, nhưng Ngài chịu khổ mà
không ai từng chịu khổ giống như vậy, và chúng ta được kêu gọi trở nên giống
Chúa Giê-xu. Phao-lô là một người tận tuỵ cho Chúa, nhưng ông đã trải qua vô số
hoạn nạn.
Nếu chúng ta vâng lời
Chúa chỉ để nhận những vật chất từ Ngài hay để thoát khỏi hoạn nạn, vậy mối
liên hệ của chúng ta với Ngài không ngọt ngào cho lắm. Nó đúng hơi hơn là một
liên hệ “hợp đồng”. Chúng ta sẽ vâng lời Ngài nếu Ngài sẽ ban cho chúng ta điều
chúng ta muốn. Chúa Giê-xu đã đề cập đến thái độ ích kỷ này trong câu chuyện được trình bày để trả lời cho câu hỏi
của Phi-e-rơ: “Vậy chúng tôi sẽ được chi?” (Mat
19:27).
Chúng ta phải vâng lời Chúa vì chúng
ta yêu mến Ngài. Đôi khi việc vâng lời Ngài sẽ dẫn chúng ta vào những hoạn nạn,
nhưng Ngài sẽ giúp chúng ta vượt qua. Chúng ta cần trở nên giống ba người Do
Thái đã đối diện với lò lửa hừng. “Này, hỡi vua, Đức Chúa Trời mà chúng tôi hầu
việc có thể giải cứu chúng tôi khỏi lò lửa hực, và Ngài sẽ giải cứu chúng tôi
khỏi tay vua. Dầu chẳng vậy, hỡi vua, xin biết rằng chúng tôi không hầu việc
các thần của vua, chúng tôi cũng sẽ không thờ phượng pho tượng vàng mà vua đã
dựng” (Da 3:17-18
NKJV).
5. Lời Đức Chúa Trời
không thay đổi mặc cho sự bất trung của con người
Các quan xét đã hoàn
thành điều họ làm vì họ tin Lời Đức Chúa Trời (He 11:32-34). Đôi khi đức tin của họ yếu đuối và
bất toàn, nhưng Đức Chúa Trời tôn trọng sự tin cậy của họ và làm vinh hiển danh
Ngài qua họ. Nhưng thậm chí khi các lãnh đạo và dân sự bất tuân với Ngài, sự vô
tín và bất tuân của họ đã không hủy bỏ được Lời Đức Chúa Trời.
Lời Đức Chúa Trời không bao giờ qua
đi. Nếu chúng ta vâng theo, Ngài thành tín chúc phước cho chúng ta, giữ lời hứa
Ngài và thực hiện những mục đích của Ngài. Nếu chúng ta bất tuân ý muốn Ngài,
Ngài thành tín sửa phạt chúng ta và đem chúng ta trở lại vị trí đầu phục. Lời
Đức Chúa Trời không thay đổi và tính cách của Đức Chúa Trời không thay đổi.
Là con cái Ngài, chúng ta sống bởi
những lời hứa chớ không bởi những lời giải thích. Đức Chúa Trời không cần phải
giải thích cho chúng ta điều gì Ngài đang làm hay tại sao Ngài làm như thế.
Ngài sẽ luôn ban cho tôi tớ Ngài chỉ những lời hứa họ cần để thực hiện công
việc.
6. Đức Chúa Trời sử
dụng chính thể loài người để thực hiện ý muốn Ngài
“Không có vua trong
Y-sơ-ra-ên”, nhưng Đức Chúa Trời vẫn có thể hành động. Thậm chí khi có một vua
trong Y-sơ-ra-ên, đó không phải là sự bảo đảm rằng dân sự sẽ vâng lời Đức Chúa Trời. Chính thể là quan trọng, và Đức Chúa Trời đã thiết lập
chính thể, nhưng những người cai trị, các thượng nghị viện hay các nghị viện
không thể giới hạn Đức Chúa Trời.
Theo Ro
13:1-14 Đức Chúa Trời thiết lập chính thể loài người vì lợi ích của
chúng ta, và trách nhiệm của chúng ta là tôn trọng và vâng phục chính thể đó.
Chúng ta không thể tôn trọng những người ở trong chức vụ, nhưng chúng ta phải
tôn trọng chức vụ. Đức Chúa Trời đã thực hiện những mục đích của Ngài với dân
Ngài qua những loại hệ thống chính trị khác nhau, kể cả những nền quân chủ và
chế độ độc tài. Chúng ta không nên nghĩ rằng Ngài cần một chế độ dân chủ hay
một nền quân chủ lập hiến để thực hiện ý muốn Ngài. Đức Chúa Trời là tối cao!
Không kể đến dạng chính thể mà một
quốc gia có, Ch 14:34 vẫn thích hợp. “Sự công bình tôn cao một nước, nhưng tội lỗi
là một sự sỉ nhục cho bất cứ dân tộc nào” (NKJV).
7. Khi dân sự Đức Chúa
Trời không có tinh thần thuộc linh, các quốc gia suy sụp
Sự bỏ đạo và tình trạng
vô chính phủ đi đôi với nhau. Chúng ta là sự sáng của thế gian và muối của đất (Mat 5:13-16), và Đức
Chúa Trời muốn chúng ta sử dụng một ảnh hưởng tích cực trên xã hội. Khi Hội
Thánh thôi làm một dân thánh còn vâng lời Chúa, thì muối mất vị của nó và ánh
sáng chiếu dưới một cái thùng. G.Campell Morgan nói rằng Hội Thánh đã làm nhiều
nhất cho thế gian khi Hội Thánh ít giống thế gian nhất. Ngày nay, nhiều Hội
Thánh có tư tưởng họ phải bắt chước thế gian để đến với thế gian. Vào sai lầm!
Khi Y-sơ-ra-ên tiếp nhận lối sống
của các dân tộc ngoại đạo quanh họ, họ đã làm dân tộc họ suy yếu. Các quốc gia
bị suy tàn và sụp đổ không phải vì những người rao bán sách báo khiêu dâm hay
thuốc phiện, nhưng vì các Cơ Đốc nhân không còn là muối và ánh sáng. Đức Chúa
Trời nghĩ đến việc tội nhân hành động như tội nhân, dù Ngài không tán thành
điều họ làm, nhưng Ngài không nghĩ thánh đồ hành động như tội nhân. Các Cơ Đốc nhân thỏa hiệp không chỉ làm tổn thương bản
thân gia đình và Hội Thánh, mà còn góp phần vào sự suy tàn của cả quốc gia.
8. Đức Chúa Trời không
cho biết toàn bộ câu chuyện tức thời
Chúng ta biết khá nhiều
về Đê-bô-ra, Ghê-đê-ôn, Giép-thê và Sam-sôn nhưng chúng ta không biết nhiều về
Sam-ga, Thô-la và Giai-rơ. Đức Chúa Trời thấy không thích hợp để đặt vào Lời
Ngài mọi việc của tất cả các tôi tớ Ngài, nhưng những người này đã đóng những
vai trò quan trọng trong việc thực hiện những mục đích của Ngài.
Dân sự Đức Chúa Trời có
thể không bao giờ nhận ra công việc bạn làm cho Chúa! Đức Chúa Trời giữ những
ghi chép và một ngày nào đó sẽ thưởng bạn vì sự hầu việc trung tín của bạn.
Không quan trọng để người khác thấy việc bạn làm và ngợi khen bạn về điều đó.
Quan trọng là chúng ta hầu việc Chúa và tìm cách làm đẹp lòng Ngài.
Ở đây có lời cảnh cáo
khác: Đừng quá nhanh chóng xét đoán điều người khác đang làm, và đừng có ý nghĩ
rằng bạn là người duy nhất trung tín hầu việc Chúa. Suốt thời kỳ các quan xét,
những người khác nhau đã hầu việc Đức Chúa Trời ở những vị trí khác nhau, và
không phải tất cả họ đều biết mọi sự đang xảy ra. Điều đó cũng vậy với công
việc của Đức Chúa Trời ngày nay. Mặc cho những bài phóng sự tin tức tuyệt vời
trong giới Cơ Đốc, chúng ta không phải lúc nào cũng biết Đức Chúa Trời đang làm
gì trong và qua các tôi tớ Ngài ở các miền khác nhau của địa cầu. Khi chúng ta
cảm thấy nản lòng, có lẽ chúng ta sẽ được khích lệ nêú chúng ta biết toàn bộ
câu chuyện.
“Vậy, chớ xét đoán trước
kỳ, cho đến khi Chúa đến, Đấng sẽ đem ra ánh sáng những sự giấu kín nơi tối
tăm, và sẽ bày ra những toan định của lòng người, và bấy giờ mọi người sẽ có sự
khen ngợi của Đức Chúa Trời” (ICo 4:5).
9. Đức Chúa Trời vẫn
chúc phước cho những ai sống bởi đức tin
Người ta thường nói rằng
đức tin không phải là tin bất chấp chứng cớ (đó là mê tín) nhưng là vâng phục
bất chấp hậu quả. Tôi có thể thêm vào rằng nó cũng có nghĩa là vâng lời Đức
Chúa Trời cho dù chúng ta thấy gì quanh mình hay phía trước mình hoặc chúng ta
cảm thông ra sao trong lòng mình. Đức tin không tuỳ thuộc vào cảm xúc của chúng
ta (Ghê-đê-ôn đã sợ hãi nhiều lần, và Sam-sôn cảm thấy mình vẫn có sức mạnh như
trước) hoặc sự hiểu biết của chúng ta về hoàn cảnh. Đức tin đặt Đức Chúa Trời ở
Lời Ngài và làm điều Ngài bảo chúng ta làm.
Bạn không thể hầu việc Đức Chúa Trời
mà không có đức tin, vì “không có đưc tin thì không thể làm đẹp lòng Ngài” (He 11:6). “Bất cứ điều chi không phải bởi đức tin
là tội lỗi” (Ro 14:23). Nếu chúng ta chờ cho
đến khi mình có đức tin trọn vẹn, chúng ta sẽ không bao giờ làm được gì nhiều
cho Chúa. Việc thực hành đức tin giống như vận động các cơ bắp: Bạn càng vận
động, các cơ bắp càng trở nên chắc hơn.
10. Câu chuyện của Đức
Chúa Trời chưa kết thúc
Tôi phải thú nhận rằng
thỉnh thoảng tôi cảm thấy phiền muộn khi tôi viết sách này. Một hôm tôi nói với
vợ tôi: “Anh sẽ vui mừng khi quyển ‘Hãy sẵn sàng’ được kết thúc. Chẳng có nhiều
tin tốt lành trong sách Các quan xét!”
Nhưng sách Các quan xét
không phải là kết thúc của câu chuyện! Thật ra, sách bắt đầu bằng những từ “Giờ
đây, đã đến lúc”, là một cách kỳ lạ để bắt đầu một cuốn sách. Trong Hê-bơ-rơ,
viết rằng “và bấy giờ”. Nếu tôi mở đầu một cuốn sách bằng nhóm từ “và bấy giờ”
các chủ bút sẽ gởi lại bản thân cho tôi và bảo tôi xem lại cú pháp của mình.
Nhưng có 5 sách Cựu Ước
mở đầu “và bấy giờ” : Giô-suê, Các quan xét, Ru-tơ, I và II Sa-mu-ên, Ê-xơ-tê,
Ê-xê-chi-ên, và Giô-na. Vì sao? Vì các sách đó đều là một phần của câu chuyện
tiếp tục mà Đức Chúa Trời đang viết! Kết thúc của sách Giô-suê không kết thúc
công việc của Đức Chúa Trời trên thế giới này, vì sách Các quan xét bắt đầu
bằng “và bấy giờ”. Câu chuyện tiếp tục! Đức Chúa Trời vẫn đang hành động
Nếu sách Các quan xét là
sách “không có vua”, hãy nhớ rằng sách IISa-mu-ên là sách về vua của Đức Chúa
Trời, và Đa-vít đã lên ngôi và đem đến trật tự cùng hoà bình cho xứ. Khi quan
điểm không lay chuyển được, hãy nhắc chính mình rằng Đức Chúa Trời chưa kết
thúc câu chuyện.
Một người bạn của tôi có
liên quan đến môn bóng rỗ nhà nghề, thích xem phim vidéo về những trò chơi
thắng cuộc của đội ông. Thậm chí suốt những giây phút căng thẳng nhất của cuộc
chơi, ông có thể thư giãn trước máy truyền hình vì ông hoàn toàn biết nó sẽ kết
thúc ra sao.
Có những ngày khi dân sự
Đức Chúa Trời nhìn vào một thế giới hỗn độn, một quốc gia được dành cho sự tham
lam với bạo lực, và một Hội Thánh yếu đuối, chia rẽ, và chúng ta không biết có
đáng để bước đi với Đức Chúa Trời và làm theo ý muốn Ngài hay không. Khi điều
đó xảy ra, hãy nhắc chính mình rằng dân sự Đức Chúa Tròi biết nó sẽ kết thúc ra
sao! Sách Các quan xét không phải là phần cuối cùng. Sách Khải Huyền là phần
cuối! Và Đức Chúa Trời bảo đảm với chúng ta rằng sự công bình sẽ đắc thắng,
điều ác sẽ bị xét đoán, và đức tin sẽ được ban thưởng.
Không Cơ Đốc nhân nào có
thể làm được mọi sự, nhưng mọi Cơ Đốc nhân có thể làm được điều gì đó, và Đức
Chúa Trời sẽ hiệp mọi “điều gì đó” này lại với nhau để khiến công việc Ngài
được thực hiện trên thế giới này.
Bạn không bao giờ có thể
xác định Đưc Chúa Trời đã vạch kế hoạch gì cho bạn, vì vậy hãy sẵn sàng!
Xét cho cùng, một ngày
trong những ngày này, bạn sẽ phải chịu trách nhiệm, và bạn sẽ cần phải sẵn
sàng.


