MỤC LỤC
01. BẠN KẾT HÔN VỚI ĐIỀU GÌ
02. TA SẼ LÀM GÌ CÁC NGƯƠI?
03. TÌNH YÊU THƯƠNG LẠ LÙNG
1. BẠN KẾT HÔN VỚI ĐIỀU GÌ? (Os 1:1-3:5)
Đôi lúc các tiên tri làm
những việc khác thường.
Trong ba năm Ê-sai làm
người ta phải xấu hổ khi ông đi trên đường phố ăn mặc như một tù nhân của chiến
tranh, Giê-rê-mi thì mang ách trên vai. Tiên tri Ê-xê-chi-ên hành động như một
đứa trẻ, có lần ông dùng kiều tóc mình như hình ảnh minh họa cho sứ điệp. Khi
vợ ông đột ngột qua đời, Ê-xê-chi-ên biến sự khổ đau của mình thành bài giảng
cho dân chúng (1).
Tại sao họ lại làm những
việc kỳ lạ như vậy?
“Những việc kỳ lạ đó”
thật ra xuất phát từ lòng nhân từ của họ. Dân sự Đức Chúa Trời như bị điếc,
không còn nghe được tiếng Đức Chúa Trời và không còn vâng giữ giao ước của Ngài.
Đức Chúa Trời đã kêu gọi những tôi tớ đó làm những việc lạ thường đó là “những
bài giảng sống” với hy vọng rằng dân sự sẽ tỉnh thức, và nghe điều họ nói. Chỉ
như vậy đất nước mới thoát được sự sửa trị và đoán phạt của Đức Chúa Trời.
Nhưng không ai rao giảng
bằng một “bài” nhiều gian truân như Ô-sê. Ông được Đức Chúa Trời gọi kết hôn
với người nữ gian dâm tên Gô-me. Người nữ này sinh cho ông ba đứa con và ông
không biết hai đứa sau có chắc là con mình không. Sau đó Gô-me bỏ ông đến với
người đàn ông khác và Ô-sê phải chịu trách nhiệm chuộc vợ về.
Toàn bộ sự việc trên có
ý nghĩa gì? Đó là bức tranh sinh động về việc làm của dân Y-sơ-ra-ên đối với
Đức Chúa Trời của họ, họ đã ngoại tình đi thờ thần tượng, đã phạm tội “ngoại
tình thuộc linh.” Vì dân sự của Đức Chúa Trời ngày nay cũng chịu sự cám dỗ
tương tự (Gi
4:4), nên chúng ta cần phải lưu tâm đến lời
Ô-sê viết cho dân sự ông. Mỗi người trong câu chuyện này - Ô-sê, Gô-me và ba
người con - đều dạy cho chúng ta những bài học thuộc linh quan trọng về Đức
Chúa Trời, Đấng chịu đau khổ vì sự không vâng phục của dân Y-sơ-ra-ên.
1. Các con: Đức Chúa Trời khoan dung (Os 1:1-11) (Os 1:1-2:1)
Thời đại (1:1). Ô-sê kể tên bốn vị vua của dân Giu-đa và chỉ
một vị vua dân Y-sơ-ra-ên là Giê-rô-bô-am II. Dĩ nhiên, các vua dân Giu-đa
thuộc triều đại của Đa-vít, triều đại duy nhất được Đức Chúa Trời chấp nhận (IVua 11:36 15:4).
Các vị vua Y-sơ-ra-ên đều suy đồi, họ đi theo con đường lầm lạc của
Giê-rô-bô-am II, vị vua đầu tiên của dân Y-sơ-ra-ên, họ không chịu ăn năn trở
về với Đức Chúa Trời (IIVua 13:6).
Sau khi Giê-rô-bô-am II băng hà, con
ông là Xa-cha-ri lên ngôi trị vì được 6 tháng thì bị Sa-lum giết chết. Sa-lum
sau khi nối nghiệp một tháng cũng bị giết. Mê-nê-hem trị vì 10 năm, sau đó
Phê-ca-nia, con trai Mê-na-hem cai trị được 2 năm rồi bị Phê-ca giết. Phê-ca cai trị được 20 năm, và chịu chết bởi tay Ô-sê (con
trai Ê-la). Ô-sê trị vì 10 năm, ông là vị vua cuối cùng của Y-sơ-ra-ên. Trong
suốt thời kỳ cai trị tàn bạo của ông, đất nước bị người A-sy-ri thâu tóm. Dân
Do Thái bị trà trộn với người ngoại bang. Người A-sy-ri tràn vào xứ, là nguyên
nhân sinh ra một chủng tộc tạp gọi là người Sa-ma-ri.
Làm sao có thể phụng sự
Đức Chúa Trời khi nạn giết người, thờ thần tượng và những việc làm thiếu đạo
đức tràn lan khắp xứ. Không ai còn quan tâm đến Lời của Đức Chúa Trời. Trên mọi
sự đó Đức Chúa Trời phán cùng tiên tri Ngài phải lập gia đình và sinh con đẻ
cái!
Hôn nhân (Os 1:2). Ở đây chúng ta gặp phải một vấn
đề quan trọng vì không phải học giả Thánh Kinh nào cũng có cùng quan điểm về người nữ mà Ô-sê lấy làm vợ. Hoặc Ô-sê
cưới một người trinh trắng rồi sau đó cô ta trở nên gian dâm, hoặc ông lấy một
người gian dâm và sinh con cho ông (2).
Trong Cựu Ước, tội tà dâm là biểu
tượng của sự thờ thần tượng và sự bất trung với Đức Chúa Trời (Gie 2:1-3:25 Exe
16:1-63 23:49). Vì từ buổi đầu dân Do
Thái đã thờ thần tượng (Gios 24:2-3,14), như vậy có
thể Gô-me đã là một người gian dâm khi Ô-sê lấy nàng làm vợ, vì điều này biểu
hiện rõ nhất về mối tương giao giữa dân Y-sơ-ra-ên với Đức Chúa Trời. Đức Chúa
Trời kêu gọi dân Y-sơ-ra-ên trong khi họ đang thờ thần tượng. Ngài “cưới” họ
tại núi Si-nai, lúc đó dân sự chấp thuận giao ước của Ngài (Xu 19:1-21:36) và sau đó Đức Chúa Trời rất đau
buồn khi họ lìa bỏ Ngài mà thờ các thần khác trong xứ Ca-na-an. Cũng như Gô-me,
ban đầu dân Y-sơ-ra-ên là người thờ thần tượng, được Đức Giê-hô-va “cưới” về và
cuối cùng quay lại thờ thần tượng.
Nếu Ô-sê cưới người nữ trinh trắng
và sau đó trở nên gian dâm, thì câu “một người vợ gian dâm” trong Os 1:2 phải là “một người
vợ có khuynh hướng hư hỏng và về sau đã phạm tội gian dâm” nhưng dường như rất
gượng ép khi đọc lại như vậy. Nhưng Đức Chúa Trời có thể yêu cầu tôi tớ Ngài cưới
một người nữ ô uế không? Có thể lắm. Chúng ta cũng có thể hỏi “Đức Chúa Trời có
thể đã cho vợ của Ê-xê-chi-ên chết?”. Dù cưới một người ô dâm có lẽ không phải
là cách làm an toàn nhất, nhưng những cuộc hôn nhân như vậy chỉ cấm đối với các
thầy tế lễ (Le 21:7). Sanh-môn cưới Ra-háp,
một gái điếm, sau đó trở thành bà cố của vua Đa-vít, và là tổ mẫu của Chúa
Giê-xu Christ (Mat 1:4-5).
Tên gọi (Os 1:3-9). Như đối với hai con trai của Ê-sai (Es 7:3 8:3) và
nhiều người khác trong Kinh Thánh, ba người con của Gô-me đều được Đức Chúa
Trời đặt cho những cái tên có ý nghĩa.
Con đầu tiên là một con trai, được
gọi là Gít-rê-ên (Os 1:4-5), có nghĩa “Đức
Chúa Trời gieo”. Gít-rê-ên là một thành phố trong chi phái của Y-sác, gần núi
Ghinh-bô-a, và thành phố này có liên quan đến sự trừng phạt dữ dội mà Giê-hu đã
hành hình gia đình A-háp (IIVua 9:1-10:29 IVua 21:21-24 IIVua
9:6-10). Bởi quá khích, Giê-hu thanh trừng vùng đất có dòng dõi xấu xa
của A-háp, ông đã giết nhiều người hơn mức Đức Chúa Trời cho phép, bao gồm cả
A-cha-xia, vua dân Giu-đa và 42 người họ hàng của vua (IIVua
9:27-10:14).
Qua việc con trai Ô-sê
ra đời, Đức Chúa Trời loan báo rằng Ngài sẽ trả thù cho huyết vô tội đã đổ ra
dưới tay Giê-hu, và sẽ kết thúc triều đại của Giê-hu trong nước Y-sơ-ra-ên.
Điều này đã được ứng nghiệm năm 752 TC, lúc đó Xa-cha-ri
bị giết chết là cháu đời thứ tư của Giê-hu và là thời trị vì cuối cùng của ông.
Trong IIVua 10:30 Đức Chúa Trời cũng cảnh
báo sự kết thúc của toàn bộ vương quốc Y-sơ-ra-ên, vì sự thất bại của quân đội
nó, điều này đã xảy ra năm 724 TC.
Người con gái thứ hai của Ô-sê có
tên là Lô-ru-ha-ma (Os 1:6-7) có nghĩa
“không thương xót”. Đức Chúa Trời đã yêu thương dân sự Ngài, và bày tỏ tình yêu
thương đó bằng nhiều cách, nhưng bấy giờ Ngài sẽ rút lại tình yêu thương đó và
không còn tỏ lòng nhân từ thương xót đối với họ nữa. Có thể nói tình yêu của
Đức Chúa Trời thực sự là một tình yêu không điều
kiện, nhưng điều kiện là chúng ta phải vui nhận tình yêu đó và tùy thuộc
vào đức tin và sự vâng lời của chúng ta. (Phu 7:1-7
IICo 6:14-7:1) Đức Chúa Trời cho phép dân
A-sy-ri đánh bại vương quốc phía bắc, nhưng Ngài gìn giữ vương quốc phía nam
của dân Giu-đa khỏi tay kẻ xâm lược (Es 36:1-37:38
IIVua 19:1-36).
Lô-Am-mi (Os
1:8-9) là tên người con trai thứ ba của Ô-sê, tên này có nghĩa “không
phải dân ta.” Đức Chúa Trời không chỉ không còn thương xót dân sự Ngài, nhưng
còn từ bỏ giao ước Ngài đã lập với họ. Giống như người đàn ông ly dị vợ mình và
quay lưng bỏ mặc cô ấy, hay giống như một người cha từ bỏ đứa con ruột của mình
(Xu 4:22 Os 11:1).
Những tên gọi mới (Os 1:10-2:1). Đây là lúc lòng thương xót của Đức Chúa Trời lại đến trên dân
Ngài, vì có một ngày Đức Chúa Trời sẽ thay đổi tên này (4). “Không phải dân ta”
sẽ thành “dân ta”, “không được yêu thương” sẽ thành “con yêu dấu của ta.” Những
tên gọi mới này phản ánh mối tương giao mới của dân sự với Đức Chúa Trời, vì
tất cả họ sẽ là “con trai của Đức Chúa Trời hằng sống” (5). Giu-đa và
Y-sơ-ra-ên sẽ hiệp thành một nước, sẽ chịu phục dưới một quan trưởng của Đức
Chúa Trời, sự chia cắt trước đây hàng thế kỷ không còn nữa.
Thay vì “Gít-rê-ên” là
nơi của sự trừng phạt, của sự tàn sát, nó sẽ là nơi gieo giống. (Gít-rê-ên có
nghĩa là Đức Chúa Trời gieo giống). Ở đó Đức Chúa Trời sẽ gieo rắc dân sự Ngài
trên đất của chính họ và khiến họ nên thịnh
vượng. Ngày nay, dân Do Thái được sống rải rác khắp các nước ngoại bang (Xa 10:9), nhưng đến một ngày Đức Chúa Trời sẽ
trồng họ lại trên đất mình và phục hồi sự vinh quang của họ. Khi Đức Chúa Trời
hứa với Áp-ra-ham, dân Y-sơ-ra-ên sẽ đông như cát bãi biển (Sa 22:17).
Khi nào những lời hứa đầy lòng
thương xót này sẽ ứng nghiệm cho dân Do Thái? Khi họ nhận biết Đấng Mê-si của
họ lúc Ngài trở lại; họ tin cậy Ngài, kinh nghiệm sự thanh tẩy của Ngài (Xa 12:10-13:1). Sau đó họ sẽ được vào nước của
mình, và lời hứa của các tiên tri sẽ ứng nghiệm (Es
11:1-12:6 32:1-20 35:1-10 Gie 30:1-31:40
Exe 37:1-28 Am
9:11-15).
Ba người con của Ô-sê
dạy chúng ta về lòng thương xót của Đức Chúa Trời. Bây giờ chúng ta sẽ xem bài
học về Gô-me dạy gì cho chúng ta.
Os 2:1; xem giải
nghĩa Os 1:1-11
2. Gô-me: Đức Chúa Trời thánh khiết (Os 2:2-13)
Trên hết Ô-sê là tiên tri
của lòng yêu thương, nhưng không giống một số thầy thông giáo ngày nay, ông
không hạ thấp sự thánh khiết của Đức Chúa Trời. Chúng ta từng nghe rằng “Đức
Chúa Trời là sự yêu thương” (IGi
4:8,16),
nhưng chúng ta cũng được nhắc nhở “Đức Chúa Trời là
sự sáng, trong Ngài chẳng có sự tối tăm đâu” (Gi
1:5). Tình yêu thương của Đức Chúa Trời là tình yêu thánh khiết, thiêng
liêng, không phải là thứ tình yêu cảm xúc dẫn đến sự
thiên vị tội nhân và bao che cho tội lỗi.
Tiên tri Ô-sê tập trung
ba tội lỗi đặc biệt: thờ thần tượng (ngoại tình thuộc linh), tội vô ơn và đạo
đức giả.
Thờ thần tượng (Os 2:2-5a). Đức Chúa Trời phán với các con
của Ô-sê và bảo họ phải từ bỏ mẹ mình vì sự ngoại tình của bà. Dân Y-sơ-ra-ên
phạm tội thờ các thần khác của các quốc gia thờ hình tượng sống gần họ, nhất là
thần Ba-anh của người Ca-na-an. Mỗi khi có hạn hán hoặc đói kém trong xứ, người
Do Thái lại quay sang cầu thần Ba-anh giúp đỡ, mà không kêu cầu Đức Chúa Trời (IVua 18:1-19:21). Sự thờ phượng của dân ngoại có
liên quan đến những nghi lễ, tập tục có tính xác thịt, và vì những nghi lễ này cả nam và nữ đều được coi là ngoại tình
trước mặt Chúa. Trong nghĩa đen cũng như nghĩa bóng, thì từ “thờ thần tượng” có
nghĩa là ngoại tình (6).
Vì dân sự có hành vi như
kẻ ngoại tình, nên Đức Chúa Trời sẽ xử họ như xử kẻ ngoại tình và bêu xấu họ
trước công chúng. Ngài không còn nhận dân sự là vợ mình nữa, vì họ đã phá hủy
hôn ước trang trọng với Ngài mà dan díu với thần tượng khác. Theo luật pháp
người Hê-bơ-rơ, tội ngoại tình phải chịu xử tử, nhưng Đức Chúa Trời phán rằng
Ngài sẽ trừng phạt dân Y-sơ-ra-ên và không tiêu diệt họ (7).
Bất trung với Đức Chúa
Trời là tội trọng, cũng giống như tội không chung thủy với vợ hoặc chồng mình.
Một người đàn ông nói với vợ mình rằng anh ta chung thủy 90%, có nghĩa là anh
ta không chung thủy chút nào. Khi dân Y-sơ-ra-ên bị cám dỗ phạm tội từ bỏ Đức
Chúa Trời đi thờ thần tượng, hội thánh bị cám
dỗ quay sang thế gian này, không yêu kính Đức Chúa Trời và không hề muốn làm
cho Ngài điều gì.
Chúng ta phải thật cẩn thận, không
được yêu thế gian (IGi 2:15-17), không nên
làm bạn với thế gian (Gia 4:4), không bị ô
uế giữa thế gian (Os 1:27), hoặc không được
làm theo đời này (Ro 12:2). Mỗi tín hữu
Cơ-đốc và mỗi hội thánh ở địa phương phải luôn luôn trung thành, chân thật với Chúa
Giê-xu Christ, là chú rể cho đến ngày Ngài trở lại đón cô dâu của Ngài về thiên
đàng dự tiệc cưới (IICo 11:1-4 Eph 5:22-23 Kh 19:6-9).
Sự vô ơn (Os 2:5b-9). Thay vì tạ ơn Đức Chúa Trời
Chân Thần vì sự ban cho đồ ăn, thức uống, quần áo của Ngài trên dân sự, dân sự
lại cảm tạ các thần khác và dùng những ân tứ của Đức Chúa Trời ban cho để phục
vụ các thần khác.Thật vô ơn đối với Đức Chúa Trời! Ngài ban mưa trên đất (Phu 11:8-17) nhưng dân Y-sơ-ra-ên dâng những hoa
lợi cho thần Ba-anh, vị thần mưa. Chính Đức Chúa Trời ban cho chúng ta sức lực
để tạo ra sản nghiệp (Os 8:17-18) và hưởng
ơn phước trong cuộc sống (ITi 6:17). Chúng
ta phải tạ ơn Ngài và nhận biết sự tốt lành của Ngài. Thật tội lỗi khi lấy ân tứ của Đức Chúa Trời ban cho đem thờ
lạy thần khác!
Đức Chúa Trời có quyền
từ bỏ dân sự Ngài, nhưng Ngài chỉ sửa phạt họ. Dân sự chạy theo thần khác,
nhưng Đức Giê-hô-va chăn các nẻo đường họ và làm xáo trộn hoạch định của họ để
họ gặp khó khăn trên đường. Ngài sẽ lấy lại ơn phước Ngài đã ban, và để dân sự tay
trắng như lúc chào đời, căn cỗi như một sa mạc.
Trong Kinh Thánh chúng
ta thấy rất nhiều lần dân sự được nhắc nhở phải biết ơn
Đức Chúa Trời. Chúng ta chú ý sẽ thấy ít nhất 15 chỗ trong Kinh Thánh dạy chúng
ta phải “dâng lời tạ ơn cho Đức Chúa Trời”; trong Thi
104:4 và Co 3:16 đều nhắc nhở chúng
ta về sự cảm tạ. Cả Chúa Giê-xu và Phao-lô là tấm gương về sự thường xuyên tạ
ơn Đức Chúa Trời vì sự ban cho của Ngài. Bước đầu tiên nghịch cùng Đức Chúa
Trời là không dâng lời cảm tạ vì ơn thương xót của Ngài (Ro 1:21). Đức Chúa Trời
không cho phép chúng ta vui hưởng ân phước Ngài ban, lại quên đi Đấng ban cho
chúng ta, vì như vậy là đồng nghĩa với sự thờ hình tượng.
Đạo đức giả (Os 2:10-13). Dân sự vẫn vui mừng tổ chức các
ngày lễ của người Hê-bơ-rơ, nhưng lòng họ lại làm vinh quang thần Ba-anh và các
thần khác mà họ đang thờ lạy. Bất hạnh thay, các anh chị em của họ ở đền thờ
Giê-ru-sa-lem cũng phạm tội như vậy (Es 1:1-31).
Thật dễ lắm khi dự phần hầu việc và thờ phượng Đức Chúa Trời mà lòng chúng ta
thật đã xa cách Ngài (Mat 15:7-9).
Nhưng cuối cùng sự thật cũng được
giải bày vì Đức Chúa Trời sẽ xét đoán dân sự Ngài và phơi trần sự giả hình của
họ. Ngài lấy lại ơn phước đã ban cho họ và bỏ mặc họ đi theo ý riêng. Đức Chúa
Trời là thánh khiết, Ngài không để dân sự của Ngài sống triền miên trong tội
lỗi hoặc sống với những thần khác. Trong Kinh Thánh
có đến 8 lần nhắc chúng ta “hãy nên thánh vì ta là thánh” và đúng như Ngài nói;
Ngài là Đấng Thánh Khiết.
3. Ô-sê: Đức Chúa Trời yêu thương (Os 2:2-13) (Os 2:2-3:5)
Ba người con của Ô-sê
dạy cho chúng ta về sự khoan dung của Đức Chúa Trời, Gô-me dạy chúng ta về sự
thánh khiết của Ngài. Bây giờ Ô-sê dạy chúng ta bài học về tình yêu thương của
Đức Chúa Trời.
Kyle M.Yates từng viết:
“Trong mọi thời đại Ô-sê luôn được xem là người có lòng yêu thương vĩ đại nhất.
Tình yêu thương của ông lớn lao đến nỗi một hành vi xấu xa nhất không thể làm
nó mờ đục đi…Gô-me làm lòng ông tan nát, nhưng qua bà, Ô-sê đã cho cả thế gian
biết một cách tường tận tấm lòng của Cha Thiên Thượng, Đức Chúa Trời của tình
yêu thương” (8).
Tình yêu của Đức Chúa
Trời đã hứa ban cho dân sự Ngài (Os 2:14-23). “Ta sẽ…” được lặp lại nhiều lần trong phân đoạn này khiến
chúng ta tin chắc rằng Đức Chúa Trời đã hoạch định một tương lai tươi đẹp cho
dân Do Thái. Chúng ta hãy chú ý những lời hứa của Đức
Chúa Trời.
Ngài bắt đầu bằng câu “Ta sẽ dẫn dụ” (c.14), Đức Chúa Trời không có ý ép
buộc dân sự yêu thương Ngài. Nhưng Ngài “dẫn dụ” (mời gọi) họ như một người yêu
quyến rũ người mình yêu, tìm nắm tay nàng trong ngày ước hẹn. Thật vậy, Đức
Chúa Trời dùng lời dịu dàng nói với dân sự qua Kinh Thánh và qua những ơn phước
dư dật Ngài ban cho họ trên đất. Chỉ vì Ngài đã đưa dẫn nàng qua đồng vắng và
“cưới” nàng tại núi Si-nai, nên Đức Chúa Trời sẽ gặp lại người yêu Ngài ở đồng
vắng vào những ngày cuối cùng và cầm tay dắt nàng vào nước vinh hiển của nàng.
Lời hứa thứ hai: “Ta sẽ ban” (c.15)
vì Đức Chúa Trời bảo đảm sự trở lại trong xứ họ và phục hồi sự thịnh vượng của
họ. Một lần nữa, Đức Chúa Trời thay đổi ý nghĩa của một tên gọi, lần này là
“trũng A-cô”. Đối với dân Y-sơ-ra-ên, trũng A-cô là nơi A-can lấy cắp vật Đức
Chúa Trời cấm đụng đến và dẫn đếnsự bại trận nhục nhã cho quân đội Y-sơ-ra-ên (Gios 7:1-26), nhưng ký ức đó được xóa sạch khỏi
tâm trí họ. Trũng đó sẽ trở nên “cửa trông cậy”, bởi đó dân Y-sơ-ra-ên sẽ bước
vào một đời sống mới. Trải qua gian khó sẽ sinh ra lòng ca ngợi, như khi dân
Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ê-díp-tô và nhìn thấy kẻ thù mình bại trận trước mắt (Xu 14:1-15:27). “Trong dân ta, những kẻ nào tìm
kiếm ta sẽ được đồng Sa-rôn dùng làm chỗ chăn chiên, nơi trũng A-cô dùng làm
đồng cỏ thả bò” (Es 65:10). Đây là một phiên
bản Cựu Ước của Ro 8:28, vì chỉ Đức Chúa
Trời có thể lấy sự thất bại, nhục nhã làm cho nó trở nên chiến thắng và vinh
hiển.
Lời hứa thứ ba của Đức Chúa Trời là:
“Ta sẽ cất khỏi” (Os 2:16-17), Đức Chúa Trời
báo trước sự kết thúc việc thờ thần tượng giữa dân sự Ngài. Họ sẽ có một từ
mới, và Ba-anh sẽ không bao giờ được nhắc đến nữa. Theo tiếng Hê-bơ-rơ “Ishi”
có nghĩa “chồng tôi” và “Baali” nghĩa “chủ tôi.” Cả hai từ đó được các người vợ
Hê-bơ-rơ dùng gọi chồng mình, nhưng trong nước tương lai, mỗi người Do Thái đều
sẽ gọi Đức Chúa Trời là “chồng tôi” vì mối tương giao hôn ước thiêng liêng sẽ
được khôi phục. Dân Y-sơ-ra-ên không còn tự làm mình gian dâm trước thần tượng
nữa, nhưng sẽ yêu thương, phụng sự Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống.
Lời hứa thứ tư của Đức Chúa Trời:
“Ta sẽ cưới” (c.18-20). Đức Chúa Trời dẫn dụ dân Y-sơ-ra-ên và kết quả họ chấp
nhận Ngài, bước vào mối tương giao đời đời với Ngài. Giao ước mới này sẽ gồm sự
sáng tạo được lặp lại (Sa 9:1-10 Ro 8:18-22) và sự bình hòa giữa các nước. Trong số
các “ơn phước trong ngày cưới” sẽ là những phước hạnh như sự ngay thẳng, công
bình, yêu thương, nhân từ và trung thực…, những điều mà dân Y-sơ-ra-ên bị mất
đi trong suốt những năm xa cách chồng mình, Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
Lời hứa thứ năm là: “Ta sẽ trả lời”
(Os 2:21-22). Hai câu Kinh Thánh này mô tả
cuộc trò chuyện từ các từng trời giữa Đức Chúa Trời nói cùng dân sự dưới đất;
Đức Chúa Trời đến từng trời và đất lần lượt được trả lời (?), đổ ơn phước xuống
cho dân sự Ngài. Các từng trời ban mưa xuống, đất sinh bông trái và Đức Chúa
Trời ban phước lành dư dật của Ngài cho dân sự trên đất. Chính là bức tranh vè
một vũ trụ được tái thiết, ở đó tội lỗi và sự chết không còn cai trị nữa (Ro 5:12-21).
Lời hứa cuối cùng trong đoạn này:
“Ta sẽ gieo” (Os 2:23). Từ Gít-rê-ên có
nghĩa “Đức Chúa Trời gieo giống”. Hình ảnh này chỉ sự gieo rắc dân sự của Đức Chúa Trời trên đất như một nông dân gieo hạt giống. Ngài
nói với họ “ngươi là dân ta”. Họ sẽ đáp lại rằng “Ngài là Đức Chúa Trời tôi”.
Điều này liên hệ lại với những tên gọi của các con Ô-sê đã được Đức Chúa Trời
thay đổi trong ơn nhân từ thương xót của Ngài.
Tình yêu của Đức Chúa
Trời được khắc họa (Os 3:1-5). Đây là “một
bài giảng sống” khác khi Ô-sê nhận lại người vợ tội lỗi và đem nàng về nhà
mình. Gô-me lìa bỏ Ô-sê, đến sống với nhân tình; đây là hình ảnh dân sự đối xử
với Đức Chúa Trời. Ô-sê phải mua vợ mình về với giá 15 miếng bạc (bằng nửa giá
mua một nô lệ) và khoảng 10 giạ lúa mạch. Đây không phải là một giá cao, nhưng
Gô-me vì phạm tội đã tự hạ thấp giá trị của chính mình. Chúng ta cần nhớ rằng
Đức Chúa Trời đã mua chuộc chúng ta bằng một giá rất cao, bởi huyết quí giá của
Con Một Ngài (IPhi 1:18-19).
Os 3:3 cho thấy Ô-sê không nối lại mối tương giao với Gô-me ngay,
song ông đợi một thời gian để chắc rằng nàng thực sự chân thành với mình. Cũng
có thể để ông biết chắc nàng không mang thai với người đàn ông khác. Nhưng sự
kiện này có liên quan đến một thông điệp thuộc linh: Dân Y-sơ-ra-ên ngày nay,
dù được Đấng Mê-si mua chuộc (Gi 11:47-52 Es 53:8) nhưng vẫn chưa quay về với Đức Chúa Trời.
Ngày nay dân Y-sơ-ra-ên không có vua vì họ khước từ Vua của mình, nên họ cũng
không có nước. “Chúng tôi không muốn người này cai trị chúng tôi” (Lu 19:14). “Chúng tôi không có vua khác, chỉ Sê-sa
mà thôi” (Gi 19:15). Họ không có vua vì
không có triều đại nào đang cai trị dân Y-sơ-ra-ên. Tất cả những tư liệu về dân Y-sơ-ra-ên bị thiêu hủy khi người Rô-ma chiếm thành Giê-ru-sa-lem
năm 70 SC, và không ai còn biết mình thuộc chi phái nào.
Người Y-sơ-ra-ên không
dâng của lễ vì họ không có đền thờ, bàn thờ hoặc thầy tế lễ. Họ không có hình
các thần trên cột trụ, và thê-ra-phim, vì sự thờ thần tượng đã bài trừ sạch nền
văn hóa của họ trong suốt thời kỳ bị người Ba-by-lôn cai trị. (Họ giống như dân
ngoại bang, thờ nhiều thần tượng). Họ thiếu ê-phót
(Xu 28:1-14) vì họ không có thầy tế lễ
thượng phẩm. Thầy tế lễ thượng phẩm duy nhất mà Đức Chúa Trời sẽ thừa nhận làm
người trung gian là Con Ngài trên trời.
Nhưng có một “kỳ sau”! Dân
Y-sơ-ra-ên không ở một mình, vì họ sẽ nhận biết Đấng Mê-si, sẽ ăn năn tội lỗi
và nói “Ngài là Đức Chúa Trời tôi!”. Họ sẽ bước vào mối tương giao tràn đầy ơn
phước với Đức Chúa Trời, được nghe Ngài nói, “ngươi là dân ta!”. Điều này sẽ
xảy đến vào “những ngày sau rốt”, lúc đó Đấng Mê-si sẽ ngồi vào ngai của Đa-vít
và xét xử cách công bình (Mat 19:28 Lu 1:32-33).
Từ chính là “trở lại” (Os 3:5), từ này được dùng 22 lần trong sách tiên
tri của Ô-sê. Khi dân Y-sơ-ra-ên ăn năn và trở lại cùng Đức Chúa Trời, sau đó
Đức Chúa Trời sẽ lại ban ơn trên dân này (Os 2:7-8).
Đức Chúa Trời đã trở về nơi của Ngài và bỏ mặc dân sự (5:15),
cho đến khi dân sự tìm kiếm Ngài mà nói rằng “Hãy đến, chúng ta hãy trở về cùng
Đức Giê-hô-va” (Os 6:1).
Đây là sứ điệp của Ô-sê: “Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy trở lại cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời
ngươi…Các ngươi khá lấy lời nói trở lại cùng Đức Giê-hô-va, khá thưa
cùng Ngài rằng xin cất mọi sự gian ác đi, và nhậm sự tốt lành” (Os 14:1-2).
Lời cầu nguyện đó rất có ích cho tất
cả tội nhân: Cả người Do Thái lẫn ngoại bang.
Đức Chúa Trời khoan
dung: Cho dù chúng ta sinh ra với “tẹn gọi” thế nào,
thì Đức Chúa Trời cũng có thể thay đổi nó, và ban cho chúng ta một sự bắt đầu
mới. Thậm chí “trũng của sự trừng phạt” có thể trở nên “cửa trông cậy.”
Đức Chúa Trời thánh
khiết: và Ngài phải xét xử tội lỗi. Bản chất của sự thờ
thần tượng là hưởng ân phước nhưng không làm vinh hiển Đấng Ban Cho. Sống vì
thế gian này tức làm buồn lòng Đức Chúa Trời và phạm tội “ngoại tình thuộc
linh.”
Đức Chúa Trời yêu
thương: và hứa sẽ tha thứ, phục
hồi địa vị tất cả những ai ăn năn trở về cùng Ngài. Ngài hứa ban ơn, chúc phước
cho tất cả những người tin cậy Ngài.
Os 2:14-23; xem giải nghĩa Os 2:2-13
Os 3:1-5; xem giải nghĩa Os 2:2-13
2. TA SẼ LÀM GÌ CÁC NGƯƠI? (Os 4:1-10:15)
“Quả thật tôi lấy làm sợ
hãi cho đất nước mình khi nghĩ rằng Đức Chúa Trời là Đấng công bình.”
Thomas Jefferson viết
những lời này về nước Mỹ, và như tiên tri Ô-sê nhìn nhận đất nước Y-sơ-ra-ên –
ông chắc sẽ đồng ý. Từ kinh nghiệm cay đắng với vợ mình, Ô-sê biết rằng tội lỗi
không những làm Đức Chúa Trời đau lòng mà còn xúc phạm đếnsự thánh khiết của Ngài, vì “sự công bình và chánh
trực là nền của ngôi Chúa” (Thi 89:14).
Đức Chúa Trời muốn tha thứ tội lỗi
cho dân sự và khôi phục mối tương giao giữa Ngài với họ, nhưng dân sự chưa sẵn
lòng. Họ không những không ăn năn, mà còn không nhận
mình đã phạm tội! Nên Đức Chúa Trời tiến hành xét xử và đem họ ra trước vành
móng ngựa. Đó là nguyên tắc thuộc linh cơ bản cho đến khi con người kinh nghiệm
sự kết án vì tội lỗi, họ mới có thể vui hưởng vinh quang của sự biến đổi tấm
lòng mình.
1. Đức Chúa Trời lập tòa án xét xử (Os 4:1-19) (Os 4:1-5:15)
Như Ô-sê trải nghiệm sự
bất hòa với vợ mình, thì Đức Chúa Trời cũng bất hòa với người vợ tội lỗi của Ngài là dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng nó không
phải là sự bất hòa mang tính cá nhân, nó là sự tranh cãi nghiêm túc. “Đức
Giê-hô-va có sự kiện cáo với dân này” (Os 4:1).
Hình ảnh Đức Chúa Trời đem loài người và các nước ra xét xử trước tòa án của
Ngài rất quen thuộc trong Kinh Thánh (Es 1:13
Gie 2:9,29 25:31 Mi 6:2 Ro 3:19).
“Hỡi quan xét thế gian, hãy chổi dậy. Báo trả xứng đáng cho kẻ kiêu ngạo” (Thi 94:2).
Các quan xét đọc bản cáo
trạng khi đứng trước Đức Chúa Trời.
Toàn thể đất nước (Os 4:1b-3).Nền tảng của sự đoán phạt là luật thánh
khiết của Đức Chúa Trời, là giao ước Đức Chúa Trời đã lập với dân Y-sơ-ra-ên
trên núi Si-nai. Họ đã hứa “chúng tôi xin làm mọi việc Đức Giê-hô-va đã phán
dặn” (Xu 19:8), nhưng họ sớm thất hứa với
Ngài. Giống như Gô-me đã bội hôn ước, đến chung sống với người đàn ông khác, thì dân Y-sơ-ra-ên cũng bội ước với Đức Chúa Trời
và quay sang thờ lạy thần của dân ngoại. Trên đất không còn trung nghĩa và
không có tình yêu đối với Đức Chúa Trời nữa.
Khi loài người chối bỏ
giao ước của Đức Chúa Trời, họ bắt đầu lợi dụng lẫn nhau, vì mười điều răn có
nhắc đến mối tương quan với người lân cận cũng như đối với Đức Chúa Trời. Nếu
chúng ta yêu Đức Chúa Trời, chúng ta cũng sẽ yêu kẻ lân cận mình (Mat 22:34-40 Ro 13:8-10). Nhưng trên đất không có lòng nhân từ
thương xót, không có lòng yêu thương đối với người lân cận, không lòng trắc ẩn
đối với người nghèo khó. Nhân loại dối trá với Đức Chúa Trời, bội nghịch lẫn
nhau.
Tội lỗi chính là thiếu sự thông
biết, “không nhận biết Đức Chúa Trời trên đất”, “dân ta bị diệt vì thiếu sự
thông biết” (Os 4:6) (1). Điều này có nghĩa
rộng hơn chỉ nhận biết Đức Chúa Trời, nó ám chỉ sự nhận biết Ngài cách cá nhân.
Từ ngữ Hê-bơ-rơ mô tả mối tương giao mật thiết nhất của chồng với vợ mình (Sa 4:1 19:8).
Biết Đức Chúa Trời là phải có mối tương giao cá nhân với Ngài thông qua niềm
tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu (Gi 17:3).
Quan xét nhấn mạnh mười điều răn (Xu 20:1-17) và nhắc dân sự rằng họ sẽ vi phạm luật
pháp của Đức Chúa Trời nếu họ nguyền rủa, nói dối,
giết người, trộm cắp và phạm tội tà dâm. Nếu họ phạm tội sẽ dẫn đến kết
quả chính họ, xứ sở của họ, thậm chí đến gia súc sẽ chịu khổ đau. Lời hứa trong
giao ước của Đức Chúa Trời rằng Ngài sẽ ban ơn trên đất nếu dân sự vâng lời
Ngài, nhưng Đức Chúa Trời sẽ trừng phạt xứ sở họ, nếu họ bất tuân điều răn Ngài
(Le 26:1-46 Phu
27:1-28:68).
Đất thuộc về Đức Chúa Trời (Le 25:38) và tội lỗi của loài người làm đất bị ô
uế (18:25-28 26:32-33).
Những thiên tai như hạn hán, đói kém và sự tàn phá của chiến tranh đôi lúc được
Đức Chúa Trời giáng xuống để sửa phạt dân sự Ngài. Dù
ban ơn hay xét đoán dân sự, Đức Chúa Trời vẫn luôn giữ lời giao ước của Ngài
với họ (2).
Các thầy tế lễ (Os 4:4-14). Khi Giê-rô-bô-am đệ I thiết lập
hệ thống tôn giáo riêng của mình ở Y-sơ-ra-ên, nhiều thầy tế lễ trung thành đã
bỏ sang Giu-đa, nên vua tự chọn lựa và đề cử các thầy tế lễ (IISu 11:13-15). Điều chắc chắn, các thầy tế lễ giả
mạo này không hề biết Đức Chúa Trời và luật pháp của Ngài. Điều họ quan tâm
chính là có một việc làm nhàn hạ, nhưng cho họ đồ ăn, quần áo, niềm vui, và
nhất là cơ hội sống đời gian dâm. Ô-sê đã nói cùng những thầy tế lễ xấu xa đó
“Đừng trách dân sự vì điều đã xảy ra, vì họ chỉ theo gương xấu của các ngươi!”
Khi bạn vâng theo Lời Chúa, bạn sẽ
bước đi trong nơi sáng láng và không bị vấp ngã (Ch
3:21-26 4:14-19); nhưng khi bạn khước
từ Lời Ngài, bạn sẽ đi trong nơi tối tăm và không thể tìm được con đường mình (Es 8:20). Các lãnh đạo thuộc trần gian và không
hiểu biết sẽ làm cho dân sự không hiểu biết và đời sống họ thuộc về trần gian,
và điều này dẫn đến sự tiêu diệt giáng trên đất. Từ “mẹ ngươi” trong Os 4:5 chỉ đất nước Y-sơ-ra-ên (Os 2:2,5). Các lãnh đạo thuộc
linh đi theo hướng nào, thì hội thánh đi theo như vậy, hội thánh theo đường nào
thì đạo đức của dân sự theo đường đó, và phẩm chất đạo đức ra sao thì
đất nước cũng như vậy. Dân sự của Đức Chúa Trời là muối và ánh sáng trong xã
hội (Mat 5:13-16), và khi họ hư mất thì xã
hội cũng hư mất.
Đức Chúa Trời không chấp
nhận thứ tôn giáo (3) do con người lập ra, và cảnh báo các thầy tế lễ rằng công
việc nhẹ nhàng của họ sẽ sớm kết thúc trong thảm họa. Thay vì tìm biết ý muốn
của Đức Chúa Trời, dân sự cầu hỏi các thần khác (4). Con người càng phạm tội,
các thầy tế lễ càng hưởng nhiều đồ ăn thức uống. Con người càng xây dựng những chốn
thiêng liêng, họ và các thầy tế lễ càng buông thả trong dục vọng khi họ tham dự
những nghi lễ. Nhưng những nghi lễ này không đạt được điều gì, vì Đức Chúa Trời
có thể làm cho dân số và sản nghiệp của họ giảm đi thay vì sinh sản thêm nhiều.
Hơn nữa, các con gái và con dâu của những thầy tế lễ sẽ trở thành gái điếm và
phạm tội tà dâm (5). Tội lỗi của họ khiến cho gia đình họ và xứ sở họ chịu xét
đoán.
Những người xem trong
sân tòa (Os 4:15-19). Bấy
giờ tiên tri nói đến dân sự ở vương quốc phía nam của Giu-đa, họ đang cẩn thận
quan sát những biến cố ở Y-sơ-ra-ên. Lời cảnh báo của Ô-sê viết rất rõ ràng:
Đừng can dự vào những việc làm của dân Y-sơ-ra-ên vì họ chắc sẽ bị diệt vong!
“Ép-ra-im sa mê thần tượng, hãy để mặc nó” (c.17). Dân Giu-đa được phán dặn chỉ
thờ phượng ở Y-sơ-ra-ên và không đi đến những nơi thần linh ở Y-sơ-ra-ên, hoặc
đến Ghinh ganh (6) và Bết-A-ven (Ô-sê gọi Bê-tên là Bết-A-ven có nghĩa là “nhà
của sự xấu xa, lừa dối”, Bê-tên có nghĩa là “nhà của
Đức Chúa Trời”). Dân Y-sơ-ra-ên giống như bò cái tơ bất trị, không phải con cừu
non ngoan ngoãn, và cơn lốc đoán phạt của Đức Chúa Trời sẽ quét sạch nước đó.
Các thầy tế lễ, quan
trưởng và dân sự (Os 5:1-7). Đây là bảng tổng kết những chứng
cứ mà quan xét trình lên. Ông kết án các lãnh đạo vì đã gài bẫy những người vô
tội và lợi dụng họ. Trên đất không còn sự công bình. Họ đắm chìm trong tội lỗi
và mất năng lực để ăn năn và trở về cùng Đức Chúa Trời, vì tội lỗi họ đã làm họ
tê liệt.
Nguyên nhân đó là gì? Họ không nhận
biết Đức Chúa Trời (Os 5:4 6:3) và sự kiêu ngạo của họ chỉ làm họ vấp ngã (Os 5:5 Ch 16:18).
Cho dù họ có đến với Đức Chúa Trời và dâng của lễ cho Ngài cả đàn chiên, Đức
Chúa Trời cũng sẽ không gặp mặt họ, vì Ngài đã rời bỏ họ. Ngài đã khước từ
những đứa con không hợp pháp của họ (7), và những bữa yến tiệc hàng tháng của
họ sẽ sớm thành ra tang tóc.
Sự tuyên án được công
bố (Os 5:8-15). Chỉ có một
sự tuyên án duy nhất: “có tội”. Ngày phán xét đang đến gần khi các thành phố
của Y-sơ-ra-ên bị thất bại dưới quân xâm lược A-sy-ri, và những dân cư bị bắt.
“Ép-ra-im sẽ nên hoang vu trong ngày quở trách” (Os
5:9) (8). Sự mục nát bên trong đất nước giống như sự tàn phá ngầm từ từ
do mối mọt gây ra (câu 12), nhưng dân A-sy-ri đến thình lình như sư tử tấn công
(câu 14). Vừa không thể tránh được vừa bị tiêu hủy.
Y-sơ-ra-ên và Giu-đa là những quốc
gia yếu đuối, bệnh hoạn (Es 1:5-6 Gie 30:12-13) nhưng thay vì cầu xin sự chữa lành
của Đức Chúa Trời, cả hai nước đều quay sang cầu viện vua A-sy-ri giúp đỡ (Os 5:13) (9). Họ đáng lẽ ra nên cầu nguyện và ăn năn
thật lòng, nhưng họ lại tin cậy vào chính trị và những hiệp ước không có ích lợi gì. Tất cả những gì Đức Chúa Trời có thể làm là lìa bỏ
họ và chờ đợi ngày dân sự tìm kiếm mặt Ngài bằng đức tin và sự hạ mình.
Os 5:1-15; xem giải nghĩa Os 4:1-19
2. Đức Chúa Trời từ chối lời yêu cầu (Os 6:1-11) (Os 6:1-7:16)
Tỏ ra ăn năn, tiếc nuối
vì việc đã phạm và cầu xin một cơ hội khác là điều không bình thường đối với bị
cáo trong vụ xét xử, chỉ có dân Y-sơ-ra-ên đã làm điều đó, nhưng Đức Chúa Trời
biết trước luận điệu đạo đức giả của họ và không chỉ nhận ra sự lừa dối của họ
mà cả cung cách tội lỗi mà họ đã đối xử với Đức Chúa Trời mình.
Sự ăn năn giả tạo của
dân sự (Os 6:1-3). Khi
đọc những lời này, chắc hẳn bạn có cảm tưởng dân sự rất thành thật ăn năn và
tìm kiếm Đức Chúa Trời, nhưng khi đọc đến những lời Đức Chúa Trời phán, bạn sẽ
nhận ra “sự xưng tội” của họ thực sự nông cạn thể nào. “Chúng nó dầu gặp sự đó
cũng không trở lại cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, và cũng chẳng tìm kiếm
Ngài” (Os 7:10), “chúng nó nói những điều
dối trá nghịch cùng ta” (c.13), “chúng nó xây lại song không hướng về Đấng Rất Cao” (c.16). “Sự xưng tội” này có gì
sai?
Trước hết, họ quan tâm
đến sự chữa lành mà không màng đến sự thanh tẩy. Họ nhìn thấy đất nước họ gặp
khó khăn và muốn Đức Chúa Trời giải quyết mọi sự cho họ, nhưng họ không đến với
Ngài bằng tấm lòng tan vỡ và ý muốn đầu phục. Họ muốn được hạnh phúc nhưng
không muốn được nên thánh, chỉ thay đổi bề ngoài nhưng bản chất bên trong không
đổi. Trong chức vụ của tôi có nhiều lần tôi gặp những người đang trong hoàn
cảnh khó khăn, họ đối đãi Đức Chúa Trời như một thần hộ mệnh sẽ giải cứu họ ra
khỏi nguy hiểm, khó khăn, nhưng không cho Ngài là Đấng cứu chuộc tội lỗi họ. Họ
đổ nước mắt hối hận vì sự đau khổ, nhưng không đổ nước mắt ăn năn vì tội lỗi
mình.
Hơn nữa, dân Y-sơ-ra-ên nghĩ rằng sự
cứu chữa sẽ hoàn tất rất nhanh: “Trong hai ngày, Ngài sẽ khiến chúng ta tỉnh
lại, ngày thứ ba Ngài sẽ dựng chúng ta dậy” (Os 6:2).
Sự lạc quan thật mù quáng! Họ giống như những tiên tri giả thời Giê-rê-mi, cứu
chữa một cách hời hợt cho dân sự nhưng không bao giờ giải quyết được cốt lõi
của nan đề (Gie 6:11 8:11-15). Họ giống như những bác sĩ chỉ xức thuốc lên khối u
ung thư thay vì giải phẫu. Mong đợi “sự chữa lành nhanh chóng” là một trong
những dấu hiệu của tấm lòng không ăn năn, tấm lòng đó không muốn trả giá cho sự
thanh tẩy sâu xa (Thi 51:6-7).
Đây là bằng chứng thứ ba cho sự nông cạn của họ: họ thấy sự tha tội và sự phục hồi địa
vị như là một điều có tính máy móc, được đảm bảo không tùy thuộc vào mối liên
hệ phải lẽ với Đức Chúa Trời, mà chỉ mang tính tôn giáo. Trong Os 6:3 “chúng ta khá
nhìn biết Đức Giê-hô-va, chúng ta khá gắng sức nhìn biết Ngài. Sự hiện ra của
Ngài là chắc chắn như sự hiện ra của mặt trời sớm mai, Ngài sẽ đến cùng chúng
ta như mưa, như mưa cuối mùa tưới đất.” Đây là một tôn giáo theo thói quen
(công thức), giống như lấy thỏi kẹo từ máy bán hàng tự động, bỏ tiền vào, nhấn
nút, kẹo sẽ chạy ra. Đời sống Cơ-đốc nhân là mối tương giao phước hạnh với Đức
Chúa Trời, không dựa vào công thức nào cả!
Một bằng chứng nữa về sự
nông cạn của dân sự là họ lệ thuộc vào những lời nói mang tính tôn giáo hơn là
những việc làm ngay thẳng. Khi chúng ta ăn năn thật lòng, lời chúng ta nói ra
xuất phát từ trái tim tan vỡ và chúng sẽ làm chúng ta phải trả một giá nào đó.
Ô-sê xem những lời đó như “những của lễ thuộc linh” dâng
lên cho Đức Chúa Trời (Os 14:2) và chúng ta
phải dâng cho Ngài của lễ thật đáng giá (IISa 24:24).
Lời nói có thể tỏ bày hoặc kín giấu tùy thuộc vào sự thành thật và khiêm nhường
của tội nhân (10) ***câu này khó hiểu***
Chúng ta phải lấy lòng cảnh tỉnh theo khúc Kinh Thánh Tr
5:1-2.
Tình trạng thật của
dân sự (Os 6:4-7:16). Trong hàng
loạt phương pháp so sánh và ẩn dụ sinh động, Ô-sê cho chúng ta thấy rõ bản chất
thực của dân Y-sơ-ra-ên.
Tình yêu của họ đối với Đức Chúa
Trời giống như mây buổi sáng, như sương buổi mai (Os
6:4-11). Sáng sớm, sương trông giống như hạt ngọc lóng lánh, nhưng khi
mặt trời vừa lên, những hạt sương đó tan đi. Sự thờ phượng Đức Chúa Trời của
dân Y-sơ-ra-ên cũng tạm bợ như vậy, lóng lánh vẻ đẹp nhưng không tồn tại lâu
dài. Để cho dân sự biết bản chất thực đối với niềm tin của họ (dân Y-sơ-ra-ên),
Đức Chúa Trời sai các tiên tri Ngài đến cùng với Lời Đức Chúa Trời giống như
gươm của Thánh Linh (Eph 6:17) và tia sáng (Os 6:5) nhưng dân sự vẫn không nghe.
Đức Chúa Trời không muốn mối tương
giao của chúng ta với Ngài nông cạn, hay là cảm giác
thoáng qua và là nghi thức hay lời nói suông, là những tấm lòng hôm nay nhiệt
thành, ngày mai lạnh nhạt. “Vì ta ưa nhân từ mà không ưa của lễ, ưa sự
nhìn biết Đức Chúa Trời hơn là ưa của lễ thiêu” (c.6). Một nghi lễ hời hợt
không bao giờ có chỗ trong một tình yêu thương chân thành và sự vâng phục thành
tâm (ISa 15:22-23 Am
5:21-24 Mi 6:6-8 Mat 9:13 12:7).
“Nhưng, theo cách người ta, chúng nó
đã phạm giao ước” (Os 6:7) (11). Đức Chúa
Trời hứa với A-đam, Ngài sẽ ban phước cho ông nếu ông vâng theo mạng lệnh của
Ngài, nhưng A-đam cố tình không vâng lời và đã đẩy loài người vào trong tội lỗi
và sự chết (Ro 5:12-21 ICo 15:21-22). Đức Chúa Trời hứa ban cho dân
Y-sơ-ra-ên miền Đất Hứa nếu họ vâng lời Ngài (Phu
28:1-68), nhưng dân sự phá bỏ giao ước và sự đau khổ là hậu quả họ phải
chịu. Đối với dân Y-sơ-ra-ên và cả dân Giu-đa, Đức Chúa Trời đã định mùa gặt và
họ sẽ gặt được điều họ đã gieo (Ga 6:7-8).
Sự tà dâm của họ giống
như “lò
nướng bánh đốt lửa” (Os 7:1-7).
Có thể kết hợp câu cuối trong Os 6:11 với 7:1 “khi ta đem phu tù của dân ta trở về, khi ta
muốn chữa lành cho Y-sơ-ra-ên”. Điều gì đã ngăn trở Đức Chúa Trời giúp đỡ dân sự khốn khổ của Ngài? Họ muốn Đức Chúa Trời hành động theo
điều kiện của họ mà không theo điều kiện của giao ước thánh khiết của Ngài. Họ
nghĩ họ có thể trốn thoát với nhiều tội lỗi của họ, nhưng Đức Chúa Trời nhìn
thấy tất cả và vẫn nhớ đến họ (c.2 liên hệ He
10:16-17).
Nỗi đam mê của họ đối
với tội lỗi như lửa trong lò: chất thêm củi vào ban đêm, nó sẽ sẵn sàng cháy
bùng lên vào buổi sáng. Lò nướng rất nóng đến nỗi người làm bánh không cần canh
suốt đêm mà biết lửa vẫn còn cho đến sáng hôm sau. “Nhiên liệu” cho lửa là
rượu, vì rượu và tội lỗi thường đi đôi với nhau!
Ô-sê mô tả một cung
điện, suốt kỳ lễ vua quan đều say khướt, và điều đó đã tạo cơ hội cho các kẻ
thù tấn công và giết vua. Nhớ rằng Y-sơ-ra-ên có cả thảy 5 vị vua trong vòng 13
năm và 4 vị bị mưu sát trong vòng 20 năm. Từ Giê-rô-bô-am đệ I, vua đầu tiên
của Y-sơ-ra-ên đến Ô-sê, vị vua cuối cùng, có 9 triều đại khác nhau. Vì các
lãnh tụ lìa bỏ Đức Chúa Trời dẫn đến tình hình chính trị bị rối loạn và sụp đổ.
Phương pháp so sánh thứ
ba là “bánh
chưa quay” (Os 7:8). Những người du cư ở phương Tây nướng bánh trên những viên đá
nóng; và nếu bột nhào chưa dậy đủ, một mặt của ổ bánh sẽ bị khét, còn mặt khác
lại chưa chín. Thay vì vẫn cách ly khỏi các nước, dân Y-sơ-ra-ên lại sống hòa
trộn với các dân ngoại và trở nên giống họ. Do thái độ thỏa hiệp của dân sự mà
đất nước một mặt phải chịu thất thủ (cháy khét) dưới tay dân A-sy-ri, mặt khác
vẫn còn chưa chín.
(***dân du cư
phương Tây?, bánh khét do không trở hay do bột chưa dậy? hàm ý trong khúc này
không rõ lắm, muốn nói gì?***)
Khi bước vào mối tương giao với Đức
Chúa Trời, chúng ta phải thực trọn vẹn, mà không phải “chín nửa vời”. Việc làm
nhân từ của Đức Chúa Trời phải thấm nhuần vào mỗi người chúng ta đến nỗi tấm
lòng, tâm trí và sức mạnh đều thờ phượng Ngài. (Giao hiệp) Thỏa hiệp với thế
gian dẫn đến tình trạng đạo đức không cân bằng và tính cách không đứng đắn.
Tiếp tục vấn đề giao
hiệp (???), Ô-sê khắc họa hình ảnh dân Y-sơ-ra-ên giống như một người tóc bạc
lém đém mà không biết (c.9-10). Vì hòa trộn với các nước khác và không biết Đức
Chúa Trời, dân sự bị mất đi sức mạnh mà họ không ngờ, như một người trở nên già
yếu đi nhưng trong sự kiêu hãnh của mình, cô ta không chấp
nhận điều đó. Đây là một thảm kịch của sự mất mát không thấy được; nó âm thầm
dẫn đến sự thất bại tất yếu. Sam-sôn đã phạm sai lầm này (Cac 16:20) và Hội Thánh Lao-đi-xê cũng vậy (Kh 3:17). Dân Y-sơ-ra-ên nhận thấy sự suy sụp thảm
hại về chính trị của mình, nhưng các lãnh tụ vẫn không quay về cùng Đức Chúa
Trời. “Sự kiêu ngạo của Y-sơ-ra-ên” (Os 7:10
5:5) chỉ sự vinh quang của dân Y-sơ-ra-ên đã
bị hao mòn từ những ngày của Đa-vít và Sa-lô-môn. Các nhà chính trị ích kỷ và
các thầy tế lễ tham ô đã làm cho đất nước bị tàn rụi.
Trong chính sách chính trị của họ,
người Y-sơ-ra-ên giống như con bồ câu ngây dại (Os
7:11-12). Đầu tiên họ quay sang nhờ người Ê-díp-tô giúp đỡ, sau đó lại
quay sang A-sy-ri, và hai dân này đều là những đồng minh giả hình (Os 5:13 8:8-10 12:1). Nếu các lãnh tụ nghe theo lời các tiên tri,
họ chắc biết rằng dân A-sy-ri sẽ xâm chiếm đất họ vào một ngày nào đó (Os 9:3 10:5-6 Es 7:18-8:10). Đức Chúa Trời cảnh báo rằng dân
Y-sơ-ra-ên sẽ không còn sống rải rác đó đây nữa, Ngài gom họ lại trong lười
Ngài và giao họ cho vua dân A-sy-ri. Đức Chúa Trời luôn đoái xem dân sự, nhưng
họ không vâng phục Ngài.
Theo giao ước Đức Chúa Trời đã lập
với dân sự Ngài, người Do Thái có thể giao dịch mua bán với các nước khác,
nhưng họ không được gia nhập quân đồng minh về chính trị, đó là giao ước họ
phải giữ với Đức Chúa Trời “…tôi nhìn người: Kìa một dân ở riêng ra, sẽ không
nhập số các nước” (Dan 23:9). “Đối cùng ta
các ngươi hãy nên thánh, vì ta; Đức Giê-hô-va là thánh; ta đã phân rẽ các ngươi
với các dân, để các ngươi thuộc về ta” (Le 20:26).
Sa-lô-môn dùng nhiều người vợ của mình đề hình thành liên minh với các nước
khác và điều này là điểm khởi đầu cho sự sụp đổ đất nước (IVua 11:1).
Hình ảnh cuối cùng là “cây cung giở trái” (Os
7:13-16) vì Đức Chúa Trời không thể tin dân Y-sơ-ra-ên sẽ trung tín
(hình ảnh này cũng được dùng trong Thi 78:57).
Đức Chúa Trời đã kêu gọi dân Y-sơ-ra-ên và huấn luyện họ để họ có thể “bắn
trúng đích.” Nhưng họ lạc lối xa cách Đức Chúa Trời,
nghịch cùng Ngài, lừa dối Ngài (giả vờ ăn năn) và không chịu kêu cầu danh Ngài,
nên họ bị thất bại trong chiến tranh.
Khi ôn lại những hình
ảnh này, chúng ta có thể xét lại tinh thần phụng sự Đức Chúa Trời của chính
mình. Tinh thần đang tồn tại trong chúng ta sâu sắc, mạnh mẽ, nghiêm túc, đáng
tin cậy hay cũng đang giống hình ảnh nêu trên?
Os 7:1-16; xem giải nghĩa Os 6:1-11
3. Đức Chúa Trời tuyên án (Os 8:1-14) (Os 8:1-10:15)
Lần thứ hai, Ô-sê kêu
gọi thổi kèn (Os
8:1 5:8). Theo chương 10 sách Dân Số
Ký, dân Do Thái dùng kèn để loan báo trong những dịp đặc biệt, để lên tiếng báo động, để tập hợp dân chúng và để thông báo chiến
tranh. Sự kêu gọi này là tiếng kèn báo động vì kẻ thù đang đến và Đức Chúa Trời
muốn cho dân sự có cơ hội ăn năn. Một lần nữa, Ô-sê sử dụng nhiều hình ảnh
giống nhau để chỉ cho dân sự biết những việc Đức Chúa Trời sẽ làm cho họ vì tội
lỗi họ đã phạm.
Con chim ưng (8:1-6). “Nhà Đức Giê-hô-va” chỉ về nước
Y-sơ-ra-ên, vì dân sự là nơi ngự của Đức Chúa Trời (Os
9:15 Xu 15:17 Dan 12:7). Chim ưng A-sy-ri sắp sửa sà xuống tiêu diệt nhà Đức
Giê-hô-va vì dân sự thờ hình tượng và các lãnh tụ không tìm kiếm ý chỉ của Đức
Chúa Trời khi đưa ra quyết định. Họ lập các vua, và phế ngôi các vua để thỏa
mãn sự ham muốn của riêng mình, và họ dựng các thần
(đặc biệt là tượng bò vàng ở Bê-tên và Đan) mà các thần đó chẳng giúp gì cho họ
(12).
Gieo và gặt (Os 8:7). Quan điểm về gieo và gặt có liên quan đến
tình trạng đạo đức được sử dụng thường xuyên trong Kinh Thánh (Giop 4:8 Ch 22:8
Gie 12:13 Ga
6:7-8) và Ô-sê dùng hai lần hình ảnh đó (Os
8:7 10:12-13). Trong việc thờ thần
tượng và liên minh chính trị, dân Y-sơ-ra-ên đang cố gieo giống hầu gặt hái được kết quả tốt, nhưng họ chỉ gieo gió - sự
phù dù, không có gì - và sẽ gặt bão lốc. Không có gì ngăn nổi sức mạnh của quân
A-sy-ri. Dân sự gặt được điều tồi tệ hơn cái họ đã gieo!
Hình ảnh gieo và gặt
tiếp tục với hình ảnh mùa vụ ngũ cốc bị bệnh do côn trùng. Các quan trưởng
Y-sơ-ra-ên nghĩ rằng sự thờ thần Ba-anh, và giao hiệp với dân ngoại sẽ sinh ra
mùa vụ tốt tươi của sự bình an và thịnh vượng, nhưng mùa gặt đến thì họ không
thu được gì cả. Và thậm chí ở những nơi có nhiều hoa màu, thì kẻ thù cũng gặt
hái hết, dân Y-sơ-ra-ên
Không còn gì. Trong hình
ảnh của gió, Ô-sê nói “Các ngươi sẽ gặt nhiều lần hơn điều các ngươi gieo, và
nó sẽ là sự hủy diệt!”. Trong hình ảnh lúa mì, ông nói “các ngươi sẽ không gặt
được gì, và kẻ thù ngươi sẽ nhận lấy toàn bộ hoa lợi mà ngươi làm ra.”
Vật không có giá trị (Os 8:8). Dân Y-sơ-ra-ên không có lúa để ăn, lại
còn bị dân A-sy-ri nuốt lấy. Họ là những người không
có giá trị “chẳng ai ưa thích.” Sự giao hiệp của dân sự đã hạ thấp họ đến nỗi
dân Y-sơ-ra-ên không còn có giá trị gì trong cộng đồng các nước. Không ai sợ
hãi khi nghe tiếng họ, không ai yêu thích và quyến rũ họ.
Con lừa ngu ngốc (Os 8:9a). Dân Y-sơ-ra-ên muốn gia nhập vào khối
liên minh để chống A-sy-ri, nhưng thật ra họ chỉ trơ trọi một mình. Họ giống
như một con vật ngu xuẩn mất phương hướng trong hoang mạc. Dân Y-sơ-ra-ên bỏ Đức Chúa Trời của họ, họ bị các liên
minh bỏ rơi, nên họ phải một mình đối diện với một tương lai hết sức khó khăn.
Gái điếm (8:9b-10). Trong việc thương lượng với các nước
ngoại bang để cầu xin sự bảo vệ. Ép-ra-im (Y-sơ-ra-ên) đã hành động như một gái
mãi dâm bình thường, bán thân mình để kiếm tiền. Các vua Y-sơ-ra-ên cống nộp
cho các vua A-sy-ri, lại còn dâng lễ vật cho người Ê-díp-tô (Os 12:1). Thay vì chung thủy với chồng mình -
Giê-hô-va Đức Chúa Trời - dân Y-sơ-ra-ên di ngoại
tình với dân ngoại và đánh mất mọi điều. Đức Chúa Trời hứa sẽ nhóm họ lại để
phán xét và họ sẽ “giảm bớt đi” dưới tay cai trị tàn bạo của vua A-sy-ri.
Nô lệ cho Ê-díp-tô (Os 8:11-9:9). Ô-sê đề cập đến Ê-díp-tô 13 lần
trong sách này, và những lần đó rơi vào ba trường hợp
khác nhau - quá khứ - dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô (Os 2:15 11:1 12:9,13 13:4;), hiện
tại - sự liên minh bất khiết của dân Y-sơ-ra-ên với dân Ê-díp-tô (Os 7:11,16 12:1) tương
lai - Ê-díp-tô tượng trưng cho sự nô lệ của họ trong tương lai cho A-si-ri (Os 8:13 9:3,6 11:5,11). Trong phần này, tiên tri Ô-sê nhắc lại ba lần
“chúng nó sẽ trở về trong Ê-díp-tô” (Os 8:13
9:3,6) nhưng trong Os 11:5
ông nói rõ hơn rằng “Ê-díp-tô” là tượng trưng cho sự nô lệ người A-sy-ri.
“Chúng nó sẽ không trở về trong đất Ê-díp-tô nữa,
nhưng người A-sy-ri sẽ làm vua chúng nó.”
Tiên tri Ô-sê nhìn thấy
sự đối lập giữa sự rời Ê-díp-tô trong quá khứ ra khỏi sự nô lệ của người
Ê-díp-tô và “sự ra đi” sắp xảy ra hầu bước vào sự nô lệ cho người A-sy-ri, một
“Ê-díp-tô” mới. Khi dân Do Thái ra khỏi Ê-díp-tô, họ chưa nhận được Luật Pháp,
cũng chưa có đền tạm và luật lệ về dâng của lễ. Nhưng giờ đây dân Do Thái được
nghe về Luật pháp qua hàng mấy thế kỷ và đền thờ cũng được dựng nên từ thời
Sa-lô-môn. Tuy vậy, dân sự phớt lờ Luật Pháp và các thầy tế lễ phạm tội tham ô.
Trong Os 8:1 phản ánh
tình trạng nầy: “Vì Ép-ra-im đã thêm nhiều bàn thờ đậng phạm tội, thì những bàn
thờ nó đã khiến nó sa vào tội lỗi.”
Thay vì trông cậy Đức
Giê-hô-va giải cứu họ khỏi dân A-sy-ri, dân
Y-sơ-ra-ên tự củng cố thành mình và tìm sự giúp đỡ nơi dân ngoại, theo quan
điểm thuộc linh, điều đó giống như phạm tội ngoại tình. (Trong suốt mùa gặt,
các gái điếm thường lui tới sân đạp lúa, nơi có nhiều đàn ông ngủ giữ lúa). Mùa
gặt là lúc vui mừng nhất (Es 9:2), nhưng đối
với dân Y-sơ-ra-ên thì không có sự vui mừng nào. Và khi dân sự dừng chân trên đất của dân ngoại, đối với họ không có gì thánh
sạch, nhưng dù sao họ là một dân tộc không thánh sạch, nên có khác gì nhau?
Sự trồng trọt (Os 9:10-10:10). Đức Chúa Trời
ôn lại lịch sử mối tương giao của Ngài với dân Do Thái. Bạn không tìm thấy gốc
nho trong đồng vắng, nhưng nếu tìm được, bạn sẽ rất sợ hãi. Đó là cách Đức Chúa
Trời nghĩ khi Ngài kêu gọi dân Y-sơ-ra-ên. Trái đầu mùa của cây vả rất ngon, và
dân Y-sơ-ra-ên là đặc biệt đối với Đức Chúa Trời. Nhưng kinh nghiệm đáng vui
mừng này không tồn tại lâu dài, vì vua Ba-lác mở đường cho dân Y-sơ-ra-ên thờ
thần Ba-anh, dân sự buông thả trong sự thờ thần tượng và những hoạt động trái
đạo đức với các nước láng giềng (Dan 25:1-18).
Đức Chúa Trời gieo trồng dân Ngài
nơi đất tốt, nhưng họ làm ô uế đất mình bằng các thần họ thờ lạy (Os 9:3). Càng được thịnh vượng, họ càng xa cách
Đức Chúa Trời. Bây giờ họ phải chịu khốn khổ, gặt lấy sự cay đắng vì tội lỗi
mình, họ và cả con cái họ (13). Đất nước bị lụn tàn, không có gốc rễ, không
sinh bông trái, “dân Y-sơ-ra-ên là một cây nho tươi tốt” (Os 10:1), nhưng giờ đây nó không kết trái (14).
Những hình ảnh về nông nghiệp này nhắc nhở chúng ta
rằng chúng ta sẽ gặt những gì chúng ta đã gieo.
Có một hình ảnh thú vị
khác ở Os
10:4 “cho nên sự đoán phạt sẽ nứt mầm, nhạy như cỏ độc mọc lên trong
luống cày nơi ruộng.” Con người không thể tin cậy lẫn nhau và chỉ vài người
luôn giữ lời hứa của mình, nên họ phải kiện tụng nhau để đạt được điều họ xứng
đáng hưởng nhận.
Luật pháp và các vụ kiện tăng lên
nhiều lần là bằng chứng cho thấy sự liêm chính và sự
tín nhiệm trong xã hội đã không còn nữa.
Hình ảnh nông nghiệp
cuối cùng nằm trong câu 8: Các bàn thờ thần tượng không còn gì ngoài bụi gai và cỏ dại, và dân sự sẽ cầu xin Đức Chúa Trời
sớm tiêu diệt chúng (c.8 Lu 23:30 Kh 6:16).
Trong phân đoạn này, Ô-sê đề cập hai
lần câu “ngày Ghi-bê-a” (Os 9:9 10:9). Chỉ những tội lỗi đáng kinh tởm của người
dân Ghi-bê-a, và kéo theo cuộc nội chiến (Cac
19:1-21:25). Người dân thành Ghi-bê-a dâm loạn, độc ác đã cưỡng hiếp một
phụ nữ cho đến chết. Thành đó không xử phạt họ nên toàn bộ các chi phái trong
nước tấn công Bên-gia-min và tiêu diệt gần hết chi phái
này. Vào thời Ô-sê, tất cả 10 chi phái Y-sơ-ra-ên đều phạm những tội kinh khiếp
này, nhưng Đức Chúa Trời sẽ xử phạt và họ phải gặt những gì mình đã gieo (15).
Đoạn 15 kết thúc bằng sự
so sánh dân Y-sơ-ra-ên với con bò cái tơ thích đạp lúa vì nó có thể vừa ăn vừa
làm việc. Nhưng sau đó nó bị mang ách và phải làm việc cày bừa cực nhọc. “Ngày
tươi trẻ” của Y-sơ-ra-ên đã trôi qua và họ sẽ chịu sự áp bức của người A-sy-ri.
Trong câu 12, tiên tri
Ô-sê đưa ra yêu cầu một lần nữa để kêu gọi dân sự ăn năn và tìm kiếm Đức Chúa
Trời. “Đất bỏ hoang” là đất để không, trở nên khô cằn, đầy cỏ dại. Lời van nài
này có vẻ giống với bài giảng của Giăng
Báp-tít “Hãy ăn năn! Hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn” (Mat 3:1-12). Khơi dậy niềm tin đầu tiên phải làm
tan vỡ những tấm lòng trước khi hạt giống là Lời Đức Chúa Trời được gieo trồng
trên đó, và cơn mưa phước hạnh được đổ xuống từ trời.
Dân sự không ăn năn, và sự đoán phạt
giáng xuống. Năm 722 TC, quân A-sy-ri xâm chiếm đất nước, và 10 chi phái của
Y-sơ-ra-ên biến mất khỏi những trang lịch sử của nhân loại (15).
“Sự công bình làm cho nước cao
trọng;
Song tội lỗi là sự hổ thẹn cho dân
tộc” (Ch 14:34).
“Nước nào có Giê-hô-va làm Đức Chúa
Trời mình,
Dân tộc nào được Ngài chọn làm cơ
nghiệp mình có phước thay” (Thi 33:12).
Os 9:1-17; xem giải nghĩa Os 8:1-14
Os 10:1-15; xem giải nghĩa Os 8:1-14
3. TÌNH YÊU THƯƠNG LẠ LÙNG (Os 11:1-14:9)
Gô-me, người vợ ngoại
tình của Ô-sê có thể thắc mắc tình yêu của chồng nàng thể nào? Có phải Ô-sê đã
tỏ tình yêu của mình bằng cách tìm kiếm nàng, nài nỉ nàng về nhà cùng mình và
bỏ tiền ra chuộc nàng?
Dân Y-sơ-ra-ên từng thắc
mắc thế nào về tình yêu của Đức Chúa Trời và đã từ chối đáp lại tình yêu Ngài
ra sao? Dù như vậy, dân sự đã không giữ Luật Pháp của Đức Chúa Trời; họ đã làm
lòng Ngài tan vỡ. Trong những đoạn cuối của sách này, Ô-sê nhắc dân sự về tình
yêu thương tha thiết của Đức Chúa Trời dành cho họ, và ông đưa ra ba bằng chứng
về tình yêu của Ngài.
1. Lòng nhân từ của Đức Chúa Trời trong quá khứ (Os 11:1-11)
Ít nhất có 14 lần Môi-se
dùng từ “nhớ” trong sách Phục Truyền Luật Lệ Ký. Sách nầy ghi lại những bài tạm
biệt của Môi-se để bước vào thế hệ mới của dân Y-sơ-ra-ên khi họ chuẩn bị vào
miền Đất Hứa. Nhưng tại sao Môi-se lại bảo dân sự nhìn lại phía sau khi họ sẵn
sàng tiến tới? Và hiểu đúng mối tương giao của Đức Chúa Trời ở quá khứ là cách
tốt nhất để chắc chắn sự thành công trong tương lai. Triết gia George Santayana
trình bày chân lý này cách ngắn gọn “Ai không nhớ quá khứ tức chịu sống lại nó
một lần nữa” (1).
Tình yêu của Đức Chúa
Trời thể hiện khi dân sự ra khỏi Ai-cập (Os 11:1-2). Đức Chúa Trời sai Giô-sép đến Ê-díp-tô trước để dọn đường
cho Gia-cốp và các con của ông. Các anh của Giô-sép làm điều ác độc cho em
mình, nhưng Đức Chúa Trời dùng điều đó làm ra tốt lành (Sa 50:20). Nhờ Giô-sép, dân Y-sơ-ra-ên được sống sót qua cơn
đói kém lớn và có thể sinh sản thêm nhiều trong những năm sau đó. Từ khởi điểm
không có gì đặc biệt, Đức Chúa Trời đã lập nên một nước; Môi-se đã dẫn nước đó
ra khỏi Ê-díp-tô trong quyền năng và đắc thắng (Xu
12:1-15:27).
Ô-sê khắc họa hình ảnh
Đức Chúa Trời trong thời “ra khỏi Ai Cập” như một người cha dịu dàng giải phóng
đàn con mình thoát khỏi cảnh nô lệ. Ở đây không nhấn mạnh đến Y-sơ-ra-ên, một
người vợ ngoại tình, mà là dân Y-sơ-ra-ên, một người con vô ơn. Đức Chúa Trời
là “Cha” và Y-sơ-ra-ên là “con”. (Xu 4:22-23 Es 1:2-4
Phu 32:6). Cho dù
Đức Chúa Trời đã làm tất cả vì con mình, nhưng nó vẫn không quay về với tình
thương của Ngài và không vâng theo ý muốn Ngài.
Tình yêu của Đức Chúa
Trời bày tỏ trong đồng vắng (Os 11:3-4). Một
người cha yêu thương không chỉ đem con mình ra khỏi cảnh nô lệ, mà còn dạy
chúng trong từng bước đi và ân cần chăm sóc chúng nữa, trong suốt thời gian lưu
lạc trong đồng vắng. Khi con cái vấp ngã và bầm tím tay chân, bố mẹ thường xoa
dịu vết thương, khích lệ chúng, Đức Chúa Trời cũng đối đãi với dân Ngài như
vậy. Ngài khuyên dạy họ, chữa lành và dẫn dắt họ; Ngài cẩn thận dắt họ như dắt
một đứa trẻ. Ngài buộc chính mình Ngài với họ bằng sợi dây nhân từ yêu thương,
mà không dùng hàm khớp và dây cương (Thi 32:8-9)
hoặc bằng ách nặng nề.
Đọc lại Os
11:1-4, thay vì chú ý những điều Đức Chúa Trời đã làm cho dân
Y-sơ-ra-ên, hãy chú ý thái độ dân Y-sơ-ra-ên đối đãi với Đức Chúa Trời. Giống
như những đứa con hư hỏng, họ nghịch cùng cha mình và
quay sang các thần khác. Đức Chúa Trời phán với họ qua các tiên tri của Ngài,
nhưng Đức Chúa Trời càng gọi họ, họ càng lẩn tránh Ngài! Họ hạnh phúc hưởng thụ
ân tứ Ngài ban, nhưng không muốn vâng lời Đấng ban cho mọi sự đó. Ngài tìm họ
và dắt họ vào mối tương giao ràng buộc đầy tình yêu thương, nhưng họ nói “chúng
ta hãy bẻ lòi tói của hai người và quăng xa ta xiềng xích của họ” (Thi 2:3).
Qua suốt lịch sử, dân Do Thái hoặc
người ngoại bang, bản chất tự nhiên của con người khá giống nhau; và tất cả
chúng ta đều có khuynh hướng làm giống những người Y-sơ-ra-ên: vui hưởng ân
phước của Đức Chúa Trời nhưng cho đó là bổn phận của Ngài: “Dân ta quyết ý trái
bỏ ta” (Os 11:7), “Ôi, nước mắc tội, dân
mang lỗi nặng nề, tông giống độc dữ, con cái làm bậy bà kia!” (Es 1:4). Đức Chúa Trời giải phóng và hướng dẫn để
họ được hưởng cơ nghiệp mình, nhưng trong vòng một thế hệ sau khi Giô-suê chết,
dân sự đã quay sang thờ thần tượng và lìa bỏ Đức Chúa
Trời (Cac 2:7).
Tình yêu Đức Chúa Trời
bày tỏ qua sự chịu đựng lâu dài của Ngài (Os
11:5-7). Hơn một lần Đức Chúa Trời có thể tiêu diệt dân sự và lập nó lại
(Xu 32:10), nhưng Ngài quyết định chịu đựng
cách nhẫn nhục. Khi hành trình trong đồng vắng gặp nhiều khó khăn, dân Do Thái
muốn quay về Ê-díp-tô, họ càu nhàu trong lúc lẽ ra phải cầu nguyện và tạ ơn vì
Đức Chúa Trời thương xót họ.
Chúng ta đã thấy một số ám chỉ về
Ê-díp-tô trong sách này nói về “sự nô lệ mới” cho người A-sy-ri (Os 11:5). Dân Y-sơ-ra-ên không chịu ăn năn, nên
đất nước phải chịu tình trạng thất thủ. Họ vạch ra kế hoạch mà không cầu hỏi
Đức Chúa Trời nên bị sụp đổ trước kẻ xâm lược. Một
lần duy nhất họ cầu xin Đức Chúa Trời là khi họ gặp trở ngại, khó khăn và Đức
Chúa Trời nhân từ đã giúp họ, nhưng kết cuộc đã đến.
Tình yêu của Đức Chúa
Trời thể hiện khi Ngài thành tín trong lời hứa của Ngài (Os 11:8-9). Qua Os
11:8 chúng ta nhận thấy gì về tấm lòng yêu thương của Đức Chúa Trời?
Theo luật pháp Do Thái, con cái nghịch cùng cha mẹ phải bị đưa đến các trưởng
lão trong thành và chịu ném đá cho đến chết… (Phu
21:18-21), nhưng Đức Chúa Trời làm điều đó thể nào đối với dân
Y-sơ-ra-ên, con yêu dấu của Ngài? (Hàng bao thế kỷ sau, Con Độc Nhất vô tội của
Ngài phải chịu đau khổ vì tội lỗi của toàn thể nhân loại). Đức Chúa Trời diệt
các thành vì tội lỗi của họ (Sa 18:16-19:29)
và những người không có cùng đặc ân biết về Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên.
Dân Y-sơ-ra-ên có đặc quyền gì để mong chờ Đức Chúa
Trời ban ơn cho họ, nhất là từ khi họ phạm tội nghịch cùng nguồn sự sáng?
Điều gì thúc đẩy Đức
Chúa Trời ban ơn cho dân Y-sơ-ra-ên trong khi họ đáng bị tiêu diệt? Không chỉ
là tình yêu thương sâu đậm của Ngài, mà còn sự thành tín của Ngài đối với giao ước Ngài đã lập cùng họ. “Vì ta là Đức Chúa
Trời không phải là người” (Os 11:9). “Đức
Chúa Trời chẳng phải là người để nói dối, cũng chẳng phải là con loài người
đặng hối cải. Điều Ngài đã nói, Ngài há sẽ chẳng làm ư? Điều Ngài đã phán, Ngài
há sẽ chẳng làm ứng nghiệm sao?” (Dan 23:19).
Giao ước của Đức Chúa Trời với
Áp-ra-ham (Sa 12:1-3) là giao ước không điều
kiện và sẽ không hề thay đổi, vì vậy dân Y-sơ-ra-ên được gìn giữ. Nhưng giao ước của Ngài với dân Y-sơ-ra-ên trên núi
Si-nai có điều kiện kèm theo, và nếu dân sự không đáp ứng theo những điều kiện
đó, Đức Chúa Trời buộc phải rút lại ơn phước của Ngài. Sở hữu về đất của dân
Y-sơ-ra-ên và lợi nhuận từ nó dựa theo giao ước với Áp-ra-ham, nhưng việc hưởng
lấy đất và hoa lợi từ nó thì dựa vào giao ước với Môi-se. Đức Chúa Trời thành
tín trong cả hai giao ước. Ngài gìn giữ đất nhưng sửa phạt dân sự vì tội lỗi
họ.
Tình yêu Đức Chúa Trời
bày tỏ qua hy vọng sự phục hồi trong tương lai (Os 11:10-12). Đọc Kinh Thánh, bạn sẽ thường gặp
một lời hứa đầy hy vọng đi liền sau lời tuyên bố về sự đoán phạt và đó là
trường hợp này. Ô-sê thấy trước thời tận chung, lúc đó dân Y-sơ-ra-ên sẽ được
nhóm họp lại từ tất cả các nước được đưa về xứ mình, được thanh tẩy tội lổi và
được gây dựng trong vương quốc của họ. Trong quá khứ, Đức Chúa Trời gầm thết
như sư tử khi Ngài phán xét dân sự (Os 5:14 13:7); nhưng trong tương lai, “tiếng gầm thét” của
Ngài sẽ kêu gọi dân Ngài trở về xứ mình. Giống như những con chim được thoát ra
khỏi bầy, dân Y-sơ-ra-ên sẽ vội vã bay về đất mình, và Đức Chúa Trời sẽ “khiến
chúng nó ở trong nhà chúng nó” (Os 11:11).
Trong khi, Đức Chúa Trời nhẫn nhục
chịu đựng dân sự Ngài, cũng như chịu đựng tất cả tội nhân (IIPhi 3:9) nhưng họ dối lừa Ngài và nghịch cùng
Ngài (Os 11:12).
Đức Chúa Giê-xu phán ở thành Giê-ru-sa-lem trong những ngày Ngài còn sống trên
đất là lời Đức Chúa Trời phán qua Ô-sê cho dân sự lúc bấy giờ: “Bao nhiêu lần
ta muốn nhóm các con ngươi như gà mái túc con mình lại ấp trong cánh mà các
ngươi chẳng khứng!” (Mat 23:37).
Lòng nhân từ thương xót
của Đức Chúa Trời trong quá khứ chứng minh rõ ràng tình yêu của Ngài, nhưng
Ô-sê cho chúng ta biết một bằng chứng thứ hai về tình yêu của Ngài đối với dân
sự.
2. Sự sửa phạt của Đức Chúa Trời trong hiện tại (Os 11:1-11) (Os 12:1-13:16)
“Vì Chúa sửa phạt kẻ
Ngài yêu, hễ ai mà Ngài nhận làm con thì cho roi cho vọt” (He 12:6 Ch 3:11-12). Sửa phạt
không phải như quan tòa giáng hình phạt trên phạm nhân theo luật pháp. Hơn như
vậy, sửa phạt là bố mẹ yêu thương trách phạt con mình để chúng nên người tốt và
rèn luyện khả năng chịu đựng (2). Hình phạt đúng theo luật định là đúng, nhưng
sửa phạt phải phát xuất từ lòng yêu thương là quan trọng hơn.
Sự cần thiết cho việc
sửa phạt (Os 12:1). Dân Do Thái
đang sống cho sự phù du -“gió”- và không nhận được đồ ăn. Từ “ăn” có nghĩa “gặm (cỏ)”, nhưng có ai từng thấy con chiên nào đang đói
lại không thèm đồng cỏ xanh tươi lại ăn gió chưa. Ý tưởng quả là vô lý, nhưng
đó là cách dân sự Đức Chúa Trời đang sống.
Dân Y-sơ-ra-ên đang phạm
hai tội. Thứ nhất, họ thờ lạy thần tượng không có giá trị gì và lìa bỏ Đức Chúa
Trời Chân Thần để sống với các thần rỗng tuếch đó. Họ được nuôi dưỡng bằng gió.
Thứ hai, họ kết ước với dân Ê-díp-tô và A-sy-ri để được bảo vệ thay vì tin cậy
Đức Chúa Trời toàn năng của họ. Điều này cũng vô ích và chỉ là đuổi theo gió và
Đức Chúa Trời phải sửa phạt dân Y-sơ-ra-ên để dẫn họ trở về với chính Ngài và
Lời Kinh Thánh.
Ví dụ về sự sửa phạt (Os 12:2-6,12). Áp-ra-ham là tổ phụ của dân Do Thái (Mat 3:9) nhưng chính Gia-cốp là người lập nên 12
chi phái của Y-sơ-ra-ên (Sa 46:8-27) (3).
Ô-sê dùng tên Gia-cốp gọi dân sự vì Gia-cốp là một minh họa cho sự sửa phạt yêu
thương của Đức Chúa Trời. Ô-sê trích dẫn nhiều biến cố quan trọng trong cuộc
đời Gia-cốp.
Gia-cốp đã đối đầu với Ê-sau, anh
mình từ trong bụng mẹ (Sa 25:20-23) và lúc
ra đời, Gia-cốp cũng cố tóm lấy anh mình chui ra khỏi lòng mẹ (c.24-26). Tên
Gia-cốp có nghĩa là “nắm gót”, cũng có nghĩa khác là
“lừa đảo” (4). Suốt nhiều năm trong đời, Gia-cốp đấu tranh với chính mình, với
người khác và với Đức Chúa Trời và trước khi ông đầu phục Chúa tại rạch
Gia-bốc, ông chưa bao giờ thực sự bước đi trong đức tin. Đức Chúa Trời phải sửa
phạt ông và đem ông đến nơi đầu phục đó.
Trong sự vâng theo mạng lệnh Đức
Chúa Trời, Gia-cốp rời Si-chem đến Bê-tên (Sa
35:1-29), vì chính Bê-tên là nơi Gia-cốp gặp Đức Chúa Trời lần đầu tiên
cách đó vài năm (Sa 28:10-22). Ở đó Đức Chúa
Trời đã mặc khải chính Ngài và ban lời hứa cho Gia-cốp và dòng dõi người, và chính nơi đó Gia-cốp đã trang trọng thề với Đức Chúa
Trời. Thật ra, sự trở lại Bê-tên là khởi điểm của đời sống thuộc linh mới mẻ
cho cả gia đình ông, vì Gia-cốp buộc họ dẹp các tượng thần và chỉ thờ Đức Giê-hô-va.
Điều đó rất có ích để gia đình ông kinh nghiệm loại dâng hiến này. Thật đúng
như lời Alexander Whyte nói, một đời sống Cơ-đốc đắc thắng là một chuỗi của
những sự bắt đầu.
Nhưng kinh nghiệm về
Bê-tên cũng có những nỗi đau, vì nó nằm trên hành trình mà Ra-chên - người vợ
yêu quí của Gia-cốp- đã chết khi sanh Bên-gia-min
(Sa 35:16-22). Ra-chên đặt tên con trai đó
là Nê-nô-ni có nghĩa “con trai của sự đau đớn tôi”, nhưng bởi đức tin, Gia-cốp
đặt lại tên con là Bên-gia-min, có nghĩ a “con trai tay hữu” (5).
Danh thiêng liêng “Giê-hô-va Đức
Chúa Trời vạn quân” (Os 12:6) nhắc chúng ta
nhớ lại trải nghiệm của Gia-cốp tại Ma-ha-na-im khi ông sửa soạn gặp lại Ê-sau
(Sa 32:1-32). Ma-ha-na-im có nghĩa là “hai
trại quân”, vì Gia-cốp nhìn thấy thiên sứ canh giữ trại mình. Ông sợ Ê-sau và
cố làm vui lòng anh bằng những lễ vật, lẽ ra Gia-cốp
nên tin cậy Đức Chúa Trời và dâng của lễ cho Ngài. Sau những việc đó, Đức Chúa
Trời có hứa chăm sóc Gia-cốp và đem ông về Bê-tên bình an không? Ở đó thiên sứ
của Đức Chúa Trời vật lộn với Gia-cốp và đánh trật xương ông.
Trải nghiệm của Gia-cốp
về việc cưới vợ và nuôi gia đình là những minh họa
cho sự sửa phạt yêu thương của Đức Chúa Trời (Sa
29:1-30:43). Để được chúc phước, Gia-cốp lập mưu và lừa dối Y-sác, cha
mình, nhưng lúc bấy giờ La-ban lập mưu và lừa gạt Gia-cốp để gả hai con gái
trong một tuần! Để làm vui lòng hai người vợ, mà ông chỉ yêu một người và nuôi
dưỡng một gia đình đông người là trách nhiệm nặng nề đè lên vai Gia-cốp, nhưng
ông luôn kiên trì, và Đức Chúa Trời chúc phước cho ông và khiến ông nên một
người khỏe mạnh. Tuy nhiên, trong suốt thời gian khổ cực, Gia-cốp chịu đựng rất
nhiều (Os 31:36-42), nhưng Đức Chúa Trời đang thực hiện mục đích của Ngài.
Nguyên nhân của sự sửa
phạt (Os 12:7-13:6). Lúc này Ô-sê kể tên một số tội mà dân sự Đức Chúa Trời đã vấp
phạm. Một số tội lỗi đó ông đã đề cập trước đây nên không cần bàn chi tiết nữa.
Ông bắt đầu bằng ‘tội gian lận trong buôn
bán’ (Os 12:7), lừa dối người ta
để làm giàu cho mình. Sự thịnh vượng làm cho họ kiêu ngạo (c.8), sự tự túc được
khiến họ tự mãn nói rằng “chúng ta không cần Đức Chúa Trời nữa” (Kh 3:17). Nhưng Đức Chúa Trời cảnh cáo họ rằng
Ngài sẽ hạ thấp họ. Thay vì được vui sống trong nhà,
họ sẽ sống trong lều suốt hành trình trong đồng vắng. Khi dân A-sy-ri đến
Y-sơ-ra-ên, người Do Thái sẽ mang ơn và đền đáp bằng cả những túp lều họ sống
trong một tuần vào dịp Lễ Lều Tạm.
Các tiên tri được Đức Chúa Trời sai
đến cảnh cáo dân sự nhưng họ không nghe (Os 12:10).
Họ chối bỏ Đức Chúa Trời, Đấng hằng sống mà đi thờ lạy thần tượng (c.11-14). Họ
chọc giận Đức Chúa Trời và cách họ làm đổ huyết người vô tội càng chọc giận
Ngài (sự tàn bạo của Ga-la-át, Os 6:8-9).
Ô-sê chọn thái độ kiêu ngạo của chi
phái Ép-ra-im để nhắc nhở chúng ta (Os 13:1-3).
Tên gọi “Ép-ra-im” được tìm thấy 37 lần trong sách tiên tri Ô-sê. Có lúc
Ép-ra-im là tượng trưng cho toàn bộ vương quốc phía Bắc, nhưng ở đây Ô-sê chỉ
nói riêng chi phái Ép-ra-im. Ép-ra-im và Ma-na-se là con của Giô-sép, người
được Gia-cốp “chọn” và thứ tự dòng dõi ông bị Gia-cốp thay đổi (Sa 48:1-22). Ma-na-se là con đầu, nhưng Gia-cốp
chúc phước cho Ép-ra-im.
Dân sự Ép-ra-im thấy mình là một chi
phái quan trọng có quyền ra lệnh và được các chi phái khác nghe theo. Vì những
sự đó mà Giô-suê sinh ra ở chi phái Ép-ra-im (Dan
13:8) và vị vua đầu tiên của vương quốc Phía bắc là Giê-rô-bô-am đệ I (IVua 11:26). Đền tạm được dựng ở Si-lô trong chi
phái Ép-ra-im (Gios 18:1). Trong sự kiêu
ngạo của mình, chi phái Ép-ra-im gây ra nhiều trở ngại cho cả Ghê-đê-ôn (Cac 7:24-25 8:1-3)
và Giép-thê (12:1-6). Sau khi vua Sau-lơ
băng hà, dân Ép-ra-im không phục tùng dưới quyền của dòng dõi Đa-vít (IISa 2:8-11). Họ có thành kiến nặng nề với chi
phái Giu-đa, chi phái thống trị (19:40-43).
Khi vương quốc phía Bắc được thành lập, dân Ép-ra-im hùng mạnh đến nỗi người ta
gọi vương quốc đó bằng tên của chi phái họ.
Nhưng Ép-ra-im từ bỏ Đức
Giê-hô-va mà thờ thần Ba-anh, và điều đó làm chết đời thuộc linh của họ. Họ vui
vẻ dự phần vào tôn giáo do loài người – Giê-rô-bô-am - lập ra bằng cách dâng
của lễ cho tượng bò vàng, thậm chí dâng của lễ bằng con trẻ và hôn tượng bò
vàng. Nhưng thần tượng chỉ là hư không và
những người thờ lạy chúng cũng hư không giống vậy (Thi
115:8). Ô-sê so sánh dân sự với sự hư không, giống như sương buổi mai bị
mặt trời làm tan đi, gió thổi đi, như khói tan đi
ngoài cửa sổ và không ai còn nhìn thấy chúng nữa.
Một tội nữa mà Ô-sê lên án là sự
vong ơn của dân sự (Os 13:4-6). Lịch sử như
được lặp lại, dân Do Thái vui mừng vì điều Đức Chúa Trời làm cho tổ phụ họ - sự
rời khỏi Ê-díp-tô - sự ban cho và dẫn dắt của Đức Chúa Trời trong đồng vắng, sự
giàu có dư dật trong miền Đất Hứa nhưng họ không thật sự bày tỏ lòng biết ơn
chân thành với Ngài. Khi gặp khó khăn, họ quay sang kêu cầu Đức Chúa Trời giúp
đỡ, nhưng khi thịnh vượng, họ trở nên kiêu căng và từ bỏ Đức Chúa Trời mà thờ
lạy thần tượng. Môi-se cảnh cáo với dân sự về tội này nhưng họ vẫn vấp phạm (Phu 8:10-20).
“Ép-ra-im” có nghĩa “hưng vượng” và
nó là một chi phái rất thịnh vượng. Qua Gia-cốp, Đức
Chúa Trời hứa ban ơn dư dật cho Gia-cốp và các con của ông (Sa 48:1-22 49:22-26)
và lời hứa đó được làm trọn. Thật đáng trách những người không sử dụng ơn phước Đức Chúa Trời ban để làm vinh hiển cho
Ngài.
Các cách sửa phạt (Os 13:7-16). Một lần nữa, Ô-sê dùng nhiều phương
pháp so sánh và ẩn dụ để mô tả sự sửa phạt mà Đức Chúa Trời giáng trên dân sự
bướng nghịch của Ngài. Giống một con thú hung dữ, Ngài sẽ tấn công họ thình
lình (câu 7-8, Os 5:14), ám chỉ sự xâm chiếm
của quân A-sy-ri. Các quan trưởng của Y-sơ-ra-ên yếu đuối, tạm bợ và không làm
được gì (Os 13:9-11 8:4).
Lúc bấy giờ đất nước đang trong tình trạng không có vua (Os 3:4), và hoàn cảnh đó sẽ kéo dài vài thế kỷ.
Hình ảnh người đàn bà trong cơn đau
khi sinh nở rất thường được dùng trong Kinh Thánh để tả sự đau đớn, khốn khổ
cùng ccực (Os 13:13 Es
13:8 Gie 4:31 Mat 24:8), nhưng Ô-sê thêm nỗi đau nữa, ông thấy người đàn bà
quá yếu đến nỗi không thể sinh con được, đứa bé lại không biết làm sao để lọt
khỏi lòng mẹ! Tất cả cơn đau để không đem lại được gì.
Sự xâm chiếm của dân
A-sy-ri giống như cơn gió vừa nóng vừa khô, thởi từ sa mạc, sẽ làm người ngộp
thở và làm cạn khô mọi dòng nước. Của cải của dân sự sẽ bị cướp đi và cơ nghiệp
quí giá nhất là con cái họ cũng sẽ bị giết chết không thương xót. Tại sao? Vì
dân sự không trở về cùng Đức Chúa Trời.
Phao-lô trích dẫn Os 13:14 trong ICo
15:55 để đảm bảo sự đắc thắng của Chúa Cứu Thế Giê-xu trên sự chết và
phần mộ bởi sự phục sinh của Ngài, nhưng lời của Ô-sê trong hoàn cảnh này có lẽ
với một ý nghĩa khác (6).
Câu tiếp theo (“sự ăn năn sẽ giấu
khỏi mắt ta”) củng cố sự giải thích của chúng ta rằng Os
13:14 chỉ sự phán xét và không chiến thắng kẻ thù. Điều này không có ý
nói Đức Chúa Trời không còn yêu dân Ngài nữa, vì tình yêu của Đức Chúa Trời đối
với dân sự là tiêu đề chính cho sách này. Song lúc này Đức Chúa Trời sửa phạt
dân sự, vì họ từ chối tình yêu của Ngài. “Vì ta sẽ không bớt sự nghiêm khác ta” là cách Đức Chúa Trời phán.
Đức Chúa Trời bày tỏ
tình yêu thương của Ngài trên dân Y-sơ-ra-ên qua lòng nhân từ thương xót trong
quá khứ và giờ đây qua sự sửa phạt của Ngài. Ô-sê kết thúc sách của ông bằng
bằng chứng thứ ba về tình yêu thương của Đức Chúa Trời.
Os 12:1-15; xem giải nghĩa Os 11:1-11
Os 13:1-16; xem giải nghĩa Os 11:1-11
3. Lời hứa của Đức Chúa Trời cho tương lai (Os 14:1-9)
Dù dân sự xa cách Ngài
nhưng Đức Chúa Trời không lìa bỏ họ, Ngài sửa phạt họ vì Ngài thành tín giữ
giao ước và lời hứa của Ngài. “Nếu chúng ta không thành tín, song Ngài vẫn thành tín, vì Ngài không thể tự chối mình được” (IITi 2:13).
Đức Chúa Trời “nài xin” dân Ngài trở về cùng Ngài và xây bỏ
tội lỗi đã làm họ sa ngã (Os 14:1). Ngài đã
nói với họ hầu đánh thức lòng chai cứng của họ, mong họ sớm tìm kiếm Đức Chúa
Trời (Os 10:2) và quay về với Đức Chúa Trời
cầu xin sự khoan dung của Ngài (12:6), nhưng
bây giờ Ngài nói với họ như với con trẻ và dạy họ
phải làm gì. Đức Chúa Trời hứa sẽ khích lệ họ ăn năn.
Ngài sẽ nhận chúng ta (Os 14:2-3). Đức Chúa Trời có mọi lý do để
chối bỏ dân sự tội lỗi của Ngài, song Ngài vẫn ban ơn tha thứ cho họ. Thay vì
mang của lễ, họ cần đem theo lời ăn năn chân thành và cầu xin ân nhân từ tha
thứ của Ngài.
“Vì Chúa không ưa thích của lễ, bằng
vậy tôi chắc đã dâng. Của lễ thiêu cũng không đẹp lòng Chúa. Của lễ đẹp lòng
Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương, Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương
thống hối Chúa không khinh dể đâu.” (Thi 51:16-17).
Ngài sẽ phục hồi địa
vị chúng ta (Os 14:4). Đức
Chúa Trời phục hồi những người biết ăn năn để họ được đời sống thuộc linh khỏe
mạnh và chữa lành để họ không còn tái phạm (Gie
14:7). Khi một người suy yếu vì bệnh tật, thường thì quá trình suy yếu ở
trong cơ thể hằng tuần, hằng tháng. Đầu tiên một bộ
phận nào đó nhiễm bệnh và bắt đầu lan ra. Người đó sẽ thấy mệt mỏi và không
muốn ăn uống, sau đó yếu đi và suy sụp. Khi tội lỗi xâmnhập bên trong con người
mà không giai quyết nó sẽ giống như chất độc truyền nhiễm, lan ra rất nhanh,
làm cho đời sống thuợc linh mệt mỏi không muốn được nuôi dưỡng, suy yếu và cuối
cùng là suy sụp.
Ví dụ, khi Phi-e-rơ chối
Chúa ba lần, tội đó không bất ngờ xuất hiện, mà nó là kết quả của sự sa sút
thuộc linh từ từ. Sự chối Chúa bắt đầu bằng
tính kiêu ngạo của Phi-e-rơ, khi ông nói với Chúa rằng sẽ không bao giờ lìa bỏ
Ngài và thậm chí có thể chết cho Ngài. Giai đoạn kế tiếp là sự mê ngủ lẽ ra khi
đó ông phải tỉnh thức và cầu nguyện, và sau đó là muốn đánh trả thay vì phải bỏ
kiếm xuống. Phi-e-rơ nên rời khỏi nơi đó “Ta sẽ đánh kẻ chăn chiên, thì chiên
trong bầy sẽ bị tan lạc” (Mat 26:31 Xa 13:7), nhưng thay vì thế, ông đi theo để xem
điều gì xảy ra và bước thẳng vào sự cám dỗ.
Khi chúng ta xưng nhận tội lội mình
với Đức Chúa Trời, Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta và “mầm mống của tội lỗi” sẽ
được xóa sạch (IGi 1:9), nhưng vì với sự yếu
đuối của thể xác, nên thường có một giai đoạn hồi phục khi chúng ta lấy lại sức
và sự thèm khát thức ăn thuộc linh. “Ta sẽ yêu chúng nó không tính toán” đã mô
tả giai đoạn này, khi chúng ta nối lại mối tương giao
với Đức Chúa Trời, và hưởng được sự hiện diện của Ngài. Chúng ta sẽ nhìn thấy
gương mặt mỉm cưới hạnh phúc của Ngài, vì cơn giận của Ngài không còn nữa.
Ngài sẽ khiến chúng ta
được hồi sinh (Os 14:5-8). Ô-sê mô tả
sự hồi phục của người ăn năn tội lỗi như sự cấp thiết của một đời sống mới
trong cánh đồng khô hạn có sương móc tươi mắt rót trên nó (7). Trong mùa hè và
vừa bước qua mùa thu ở vùng Đất Thánh, sương rơi rất nhiều và được đánh giá rất
cao (Thi 133:3 Es
18:4). Đó là nghĩa của từ “làm hồi tỉnh”, đem đến sự sống mới. Cây xinh
tốt lại xuất hiện sinh hoa trái và mùi hương ở những nơi có lần các nông dân
chỉ nhìn thấy sự cằn cỗi và trống không. Đất bỏ hoang trở thành khu vườn đơm
hoa kết trái.
Câu kết thúc cho chúng ta chỉ hai
lựa chọn: nghịch cùng Đức Chúa Trời và tiếp tục sa ngã, hoặc trở về với Ngài và
bước đi an toàn trên con đường của Ngài. Sự chọn lựa thứ nhất là ngu xuẩn, sự
chọn lựa thứ hai là khôn ngoan.
“Ta đã đặt trước mặt ngươi sự sống
và sự chết, sự phước lành và sự rủa sả. Vậy, hãy chọn sự sống” (Phu 30:19).


