LỊCH SỬ KINH THÁNH
|
|
|
Tại
sao bạn có thể tin Kinh Thánh?
Làm thế nào chúng ta biết
Kinh Thánh chúng ta đang có ngày hôm nay là đáng tin cậy?
Kinh Thánh công bố mình là sự
truyền thông duy nhất của Đức Chúa Trời cho nhân loại. Hàng tỉ người nam, nữ
trên thế giới đã đặt nền tảng đời sống mình trên sứ điệp của nó. Hàng triệu người
đã chết cho nó.
Một người thông minh có thể tin vào Kinh Thánh?
Vâng. Kinh Thánh không phải là một cuốn sách
truyền thuyết. Không giống như những cuốn sách tâm linh khác, nó không đòi hỏi
một đức tin mù quáng. Có nhiều loại bằng chứng ủng hộ sự chính xác về lịch sử của
Kinh Thánh cũng như sự công bố của nó về uy quyền thiên thượng.
- Lịch sử cổ đại ủng hộ sự chính xác về mặt lịch sử của
Kinh Thánh.
- Các sách Phúc Âm cung cấp nhiều bản ghi chép
đáng tin cậy về cuộc đời của Chúa Jesus.
- Khảo cổ học ủng hộ các bản văn Kinh Thánh.
- Sự nghiên cứu nguyên bản khẳng định các sách của Kinh
Thánh không thay đổi từ khi được viết ra lần đầu tiên.
Nếu Kinh Thánh là sứ điệp của
Đức Chúa Trời cho chúng ta thì chúng ta nên hy vọng sự tường thuật về mặt lịch
sử là chính xác. Thật vậy!
Ví dụ, Kinh Thánh ghi rằng Chúa Jesus, người
Nazareth đã làm nhiều phép lạ, đã bị xử tử bởi người La mã, và đã sống lại từ sự
chết. Nhiều nhà sử học cổ đại chứng thực bản Kinh Thánh về cuộc đời của Chúa
Jesus và những người theo Ngài:
Cornelius Tacitus (A.D. 55-120), một sử gia của
thế kỷ thứ nhất người La mã, được xem là một trong những sử gia chính xác nhất
của thế giới cổ đại.1 Một phần trích dẫn từ Tacitus nói rằng
hoàng đế La mã Nero "đã giáng đòn tra tấn tàn khốc trên một tầng lớp được
gọi là "Cơ đốc nhân"... Christus [Đấng Christ], từ con người này mà
có tên gọi, đã chịu đau khổ cực hình trong thời gian trị vì của Tiberius, do
bàn tay của một trong những người đại diện chúng ta, Pontius Pilatus...."2
Flavius Josephus, Một sử gia người Do thái (A.D.
38-100+), viết về Chúa Jesus trong cuốn sách "Phong tục cổ xưa Do
thái" của mình. Flavius viết, "chúng ta biết rằng Chúa Jesus là một
người khôn ngoan, người đã làm những điều kỳ diệu, đã dạy dỗ nhiều điều, đã
chinh phục nhiều người theo mình trong những người Do thái và Hy lạp, được người
ta tin là Đấng Mêsi, bị tố cáo bởi những người lãnh đạo Do thái, bị hình phạt xử
tử bởi Pilate, và được coi như là đã sống lại."3
Suetonius, Pliny người trẻ tuổi, và Thallus cũng
viết về sự thờ phượng của các Cơ đốc nhân, sự bắt bớ phù hợp với những bản văn
Tân ước.
Ngay cả sách Tamud của người Do thái, không xu
hướng về Chúa Jesus, đồng tình với những biến cố chính trong đời sống của Chúa
Jesus. Sách Tamud viết, "chúng ta biết rằng Chúa Jesus được sinh ra ngoài
giá thú, nhóm họp các môn đồ, công bố những lời phạm thượng về mình, và làm những
phép lạ, nhưng những phép lạ này được cho là do ma quỉ, không phải đến từ Đức
Chúa Trời."4
Đây là thông tin đáng chú ý vì rằng phần lớn các
nhà sử học cổ đại tập trung vào các lãnh đạo chính trị và quân đội, không phải
trên các thầy rabi trong các tỉnh xa xôi của đế quốc La mã. Tuy nhiên các sử
gia cổ xưa (người Do thái, Hy lạp, La mã) khẳng định những biến cố chính mà được
trinh bày trong Tân ước, mặc dù họ không phải là những người tin theo.
Các nhà sử học ngoại đạo ghi
lại những sự kiện chung về đời sống Chúa Jesus, nhưng những cộng sự gần gũi với
Ngài đã ghi lại những chi tiết dựa trên sự trực tiếp chứng kiến tận mắt. Chúng
được gọi là bốn sách phúc âm, bốn sách đầu tiên trong Tân ước. Làm thế nào
chúng ta có thể biết chắc tiểu sử của Chúa Jesus là chính xác?
Khi các sử gia muốn xác định một tiểu sử có đáng
tin cậy hay không, họ hỏi, "Có bao nhiêu nguồn khác ghi lại cùng những chi
tiết về con người này? Đây là cách công việc được thực hiện. Hãy tưởng tượng bạn
đang thu thập tiểu sử của Tổng thống John F. Kennedy. Bạn tìm thấy nhiều sự mô
tả về gia đình của ông, về nhiệm kỳ tổng thống của ông, việc giải quyết của ông
về khủng hoảng tên lửa Cuba, và hầu hết những tiểu sử báo cáo những sự kiện
tương tự.
Nhưng điều gì xảy ra nếu bạn tìm thấy một báo
cáo nói ông JFK sống mười năm tại Nam Phi và làm thầy hiến tế, một báo cáo khác
nói ông sống tại Mỹ trong cùng một thời gian. Một nhà sử học thận trọng chỉ chọn
những bản văn phù hợp với những cái khác.
Liên hệ đến Chúa Jesus ở Nazareth, liệu chúng ta
có thể tìm thấy nhiều bản văn tiểu sử báo cáo những sự kiện tương tự về đời sống
của Ngài? Vâng, có. Trong khi chúng không chứa đựng tất cả những thông tin giống
nhau, bốn sách phúc âm chủ yếu kể lại cùng một câu chuyện:
|
|
Ma-thi-ơ
|
Mác
|
Lu-ca
|
Giăng
|
|
Jesus
được sinh ra bởi nữ đồng trinh
|
1:18-25
|
-
|
1:27,
34
|
-
|
|
Ngài
được sinh ra tại Bế-lê-hem
|
2:1
|
-
|
2:4
|
-
|
|
Ngài
sống tại Nazareth
|
2:23
|
1:9,
24
|
2:51,
4:16
|
1:45,
46
|
|
Jesus
được làm phép báp-tem bởi Giăng Baptist
|
3:1-15
|
1:4-9
|
3:1-22
|
-
|
|
Ngài
làm nhiều phép lạ chữa lành
|
4:24,
etc.
|
1:34,
etc.
|
4:40,
etc.
|
9:7
|
|
Ngài
đi bộ trên mặt nước
|
14:25
|
6:48
|
-
|
6:19
|
|
Ngài
nuôi năm ngàn người ăn với năm
ổ bánh và hai con cá. |
14:7
|
6:38
|
9:13
|
6:9
|
|
Jesus
dạy dỗ dân chúng
|
5:1
|
4:25,
7:28
|
9:11
|
18:20
|
|
Ngài
dành thời gian với những người bị xã hội ruồng bỏ
|
9:10,
21:31
|
2:15,
16
|
5:29,
7:29
|
8:3
|
|
Ngài
tranh luận với những nhà lãnh đạo tôn giáo
|
15:7
|
7:6
|
12:56
|
8:1-58
|
|
Những
lãnh đạo tôn giáo lập mưu giết Ngài
|
12:14
|
3:6
|
19:47
|
11:45-57
|
|
Họ
giao nộp Chúa Jesus cho người La mã
|
27:1,
2
|
15:1
|
23:1
|
18:28
|
|
Ngài
bị đánh đập
|
27:26
|
15:15
|
-
|
19:1
|
|
Ngài
bị đóng đinh
|
27:26-50
|
15:22-37
|
23:33-46
|
19:16-30
|
|
Ngài
được chôn trong một ngôi mộ
|
27:57-61
|
15:43-47
|
23:50-55
|
19:38-42
|
|
Chúa
Jesus sống lại từ trong sự chết và hiện
ra với những người theo Ngài |
28:1-20
|
16:1-20
|
24:1-53
|
20:1-31
|
Hai sách phúc âm được viết ra bởi sứ đồ Ma-thi-ơ
và Giăng, là những người biết Chúa Jesus cách cá nhân và đi với Ngài hơn ba
năm. Hai sách còn lại được viết ra bởi Mác và Lu-ca, là những cộng sự gần gũi của
các sứ đồ. Những tác giả này có liên hệ trực tiếp đến những sự kiện họ đang ghi
lại. Hội thánh đầu tiên chấp nhận bốn sách phúc âm bởi vì họ đồng ý với những
điều được biết cách phổ biến về đời sống Chúa Jesus.
Tác giả của mỗi trong bốn sách phúc âm làm một bản
tường thuật rất chi tiết. Như bạn mong đợi từ nhiều bản tiểu sử về một con người
thật, có sự khác nhau trong phong cách nhưng thống nhất trong những sự kiện.
Chúng ta biết những tác giả không chỉ đơn giản sắp xếp những sự kiện lại với
nhau, bởi vì các sách phúc âm đưa ra những tên địa lý cụ thể và những chi tiết
văn hóa mà đã được xác nhận bởi các sử gia và các nhà khảo cổ.
Những lời của Chúa Jesus được ghi lại bỏ sót nhiều
chủ đề mà hội thánh đầu tiên muốn được nói đến. Điều đó chỉ ra rằng những nhà
ghi tiểu sử là chân thật, không đặt lời vào miệng của Chúa Jesus để phù hợp với
lợi ích riêng của họ.
Vài người có ý tưởng rằng Tân ước đã được dịch
ra "quá nhiều lần", nó đã bị sai lạc trong quá trình dịch thuật. Nếu
những bản dịch được làm từ những bản dịch khác, điều đó có thể xảy ra. Nhưng những
bản dịch thực sự được làm trực tiếp từ nguyên bản tiếng Hy lạp, tiếng Hê-bơ-rơ
và tiếng Aram dựa trên hàng ngàn bản viết tay cổ xưa.
Ví dụ, chúng ta biết Kinh Thánh Tân ước chúng ta
có ngày hôm nay là đúng với nguyên bản của nó vì:
1. Chúng ta có một số lượng lớn các bản sao chép viết tay -- trên 24,000 bản.
2. Các bản sao chép này đều phù hợp với nhau, từng chữ, 99.5% theo thời gian
3. Ngày của những bản viết tay này rất gần với ngày của những nguyên bản của nó. (Hãy xem mối liên kết ở cuối phần này)
1. Chúng ta có một số lượng lớn các bản sao chép viết tay -- trên 24,000 bản.
2. Các bản sao chép này đều phù hợp với nhau, từng chữ, 99.5% theo thời gian
3. Ngày của những bản viết tay này rất gần với ngày của những nguyên bản của nó. (Hãy xem mối liên kết ở cuối phần này)
Khi so sánh bản văn của một bản viết tay với cái
khác, sự phù hợp đáng ngạc nhiên. Thỉnh thoảng việc đánh vần có thể khác, hay
các từ bị dời chỗ, nhưng nó ít ảnh hưởng. Liên quan đến thứ tự của từ, giáo sư
trường đại học thần học Princeton giải thích, "Có một sự khác biệt rất lớn
trong tiếng Anh nếu bạn nói, 'dog bites man' hay 'man bites dog'. Nhưng trong
tiếng Hy lạp thì không như vậy. Một từ có chức năng là chủ từ của câu có thể đứng
bất kỳ vị trí nào trong chuỗi từ của câu"5
Tiến sĩ Ravi Zacharias, một giáo sư ở trường đại
học Oxford, cũng bình luận: "Về từ ngữ, Tân ước dễ dàng được chứng nhận nhất
bài viết cổ xưa về mặt số lượng của tài liệu, khoảng thời gian giữa biến cố và
tài liệu, sự đa dạng tài liệu có sẵn để xác nhận hay phủ nhận nó. Không có bản
viết tay cổ xưa nào có thể so sánh được với nó về sự có sẵn và trung thực."6
Tân ước là tài liệu cổ xưa đáng tin cậy nhất của
con người. Tính trung thực về văn bản của nó chắc chắn hơn những tác phẩm của
Plato hay Iliad của Homer.
Cựu ước cũng được bảo tồn tốt đáng chú ý. Những
bản dịch hiện đại của chúng ta được chứng thực bởi một số lượng lớn những bản
viết tay cổ xưa cả trong tiếng Hê-bơ-rơ và Hy lạp, bao gồm sự khám phá ở giữa
thế kỷ 20 về những cuộn giấy ở biển Chết. Những cuộn giấy này chứa đựng những
đoạn đang hiện hữu của hầu hết các sách Cựu ước, có ngày khoảng 150 BC. Sự giống
nhau của những bản viết tay ở Biển Chết được sao chép bằng tay trên 1000 năm là
bằng chứng về sự cẩn thận của những người sao chép người Hê-bơ-rơ, là những người
chịu trách nhiệm sao chép Kinh Thánh.
Khảo cổ học không thể chứng
minh Kinh Thánh là lời Đức Chúa Trời viết cho chúng ta. Tuy nhiên, khảo cổ học
có thể chứng minh sự chính xác về mặt lịch sử của Kinh Thánh. Các nhà khảo cổ học
đã liên tục khám phá tên của những quan chức chính phủ, các vị vua, các thành
phố và những lễ hội được đề cập đến trong Kinh Thánh. Ví dụ phúc âm Giăng kể về
chuyện Chúa Jesus chữa lành người què ở ao Bethesda. Đoạn văn ngay cả mô tả 5
mái cổng dẫn đến cái ao. Các học giả không nghĩ cái ao này tồn tại, cho đến khi
các nhà khảo cổ tìm thấy nó nằm sâu dưới mặt đất 1.3 mét, đầy đủ với 5 mái cổng.7
Kinh Thánh có một số lượng rất lớn chi tiết lịch
sử, không phải mọi điều đề cập trong đó đã được tìm thấy bởi khảo cổ học. Tuy
nhiên, không một nhà khảo cổ nào tìm thấy có mâu thuẩn trong những điều Kinh
Thánh ghi lại.8
Trái lại, phóng viên báo Lee Strobel bình luận về
sách của Mormon: "Khảo cổ học thất bại nhiều lần để chứng minh sự công bố
của nó về những sự kiện mà cho rằng đã xảy ra lâu rồi tại Mỹ. Tôi nhớ viết bài
cho Viện Smithsonian để hỏi về có bằng chứng nào ủng hộ cho những công bố của đạo
Mormon không, chỉ nhận được sự trả lời cách mập mờ rằng các nhà khảo cổ nhìn thấy
'không có mối liên hệ trực tiếp giữa khảo cổ học của thế giới mới và chủ đề đề
cập trong sách.'" Các nhà khảo cổ không xác định được vị trí các thành phố,
những người, những tên, hay các nơi trong sách của Mormon.9
Nhiều địa điểm cổ xưa được đề cập bởi Luca,
trong sách Công vụ các sứ đồ trong Tân ước, đã được xác định qua khảo cổ học.
"Trong tất cả, Luca đưa ra tên của 32 quốc gia, 44 thành phố và 9 đảo
không sai trật."10
Khảo cổ học cũng đã bác bỏ nhiều giả thuyết
không có căn cứ về Kinh Thánh. Ví dụ, một giả thuyết cho rằng trong vài trường
đại học hôm nay xác nhận Môise không viết sách Ngũ kinh (5 sách đâu tiên của
Kinh Thánh), bởi vì chữ viết chưa được phát minh trong thời của ông. Các nhà khảo
cổ đã khám phá ra bia màu đen. "Nó khắc những ký tự trên đó và nội dung
chi tiết bộ luật Hammurabi. Nó có sau Môise? Không, Nó có trước Môise, không chỉ
thế, nó còn trước cả Ap-ra-ham (2000 BC). Nó có trước tác phẩm của Môise ít nhất
ba thế kỷ."11
Khảo cổ học cũng tìm thấy và xác nhận một bảng mẫu
tự cổ xưa trong sự khám phá những tấm bảng Elba tại phía bắc Syria năm 1974.
14,000 bảng đất sét này có niên đại khoảng 2300BC, hàng trăm năm trước
Ap-ra-ham.12 Những bảng mô tả văn hóa địa phương theo cách
tương tự với những điều được ghi trong Sáng thế ký chương 12-50.
Khảo cổ học liên tục chứng thực sự chính xác lịch
sử của Kinh Thánh.
Có người nói rằng Kinh Thánh đầy mâu thuẩn, điều
này không thật. Số lượng của những mâu thuẩn là nhỏ so với phạm vi và tầm cỡ của
Kinh Thánh. Điều mà những sự không nhất quán này tồn tại đem lại sự tò mò hơn
là tai họa. Chúng không chạm đến bất cứ biến cố chính yếu nào hay chủ đề đức
tin.
Đây là ví dụ cái gọi là mâu thuẩn. Pilate ra lịnh
đóng một cái bảng trên thập tự giá mà Chúa Jesus bị treo lên. Ba sách Tin lành
ghi lại điều được viết trên tấm bảng đó:
Trong Ma-thi-ơ: "Đây là Jesus, Vua dân Do thái"
Trong Mác: "Vua dân Do thái"
Trong Giăng: "Jesus người Nazareth, vua dân Do thái"
Trong Ma-thi-ơ: "Đây là Jesus, Vua dân Do thái"
Trong Mác: "Vua dân Do thái"
Trong Giăng: "Jesus người Nazareth, vua dân Do thái"
Từ ngữ khác nhau, vì thế có mâu thuẩn. Điều đáng
chú ý, mặc dù, tất cả ba tác giả mô tả cùng một chi tiết - Chúa Jesus bị đóng
đinh. Điều này tất cả đều đồng ý. Họ cũng ghi lại có tấm bảng được đóng vào thập
tự giá, ý nghĩa nội dung trên tấm bảng giống nhau trong ba bản tường thuật.
Còn về việc chính xác từ ngữ? Trong nguyên bản
tiếng Hy lạp của các sách Phúc âm, họ không sử dụng biểu tượng trích dẫn như
chúng ta làm ngày hôm nay để chỉ ra một trích dẫn trực tiếp. Các tác giả Phúc
âm đang trích dẫn không trực tiếp, điều đó có thể lý giải cho những khác biệt
tinh tế trong những phân đoạn trên.
Đây là một ví dụ khác về sự mâu thuẩn. Chúa
Jesus ở trong mộ hai đêm hay ba đêm trước khi Ngài sống lại? Chúa Jesus phán, trước
khi Ngài bị đóng đinh, "Vì Giô-na đã bị ở trong bụng cá lớn ba ngày ba
đêm, cũng một thể ấy, Con người sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm."
(Ma-thi-ơ 12:40). Mác tường thuật một lời khác của Chúa Jesus, "Nầy, chúng
ta lên thành Giê-ru-sa-lem, Con người sẽ bị nộp cho các thầy tế lễ cả cùng các
thầy thông giáo; họ sẽ định Ngài phải bị tử hình, và giao Ngài cho dân ngoại.
Người ta sẽ nhạo báng Ngài, nhổ trên Ngài, đánh đập Ngài mà giết đi; sau ba
ngày, Ngài sẽ sống lại." (Mác 10:33,34)
Chúa Jesus bị giết vào ngày thứ sáu và sống lại
vào ngày chủ nhật. Làm thế nào có thể ba ngày và ba đêm trong mộ? Ấy chính là lối
nói trong thời Chúa Jesus để tính một phần của ngày hay đêm như là trọn ngày và
đêm. Như thế, thứ sáu, thứ bảy, chủ nhật được gọi là ba ngày và ba đêm trong bối
cảnh văn hóa thời bấy giờ. Chúng ta nói theo cách tương tự ngày hôm nay -- nếu
một người nói, "tôi dành cả ngày để đi chợ," chúng ta hiểu rằng người
ấy không muốn nói là 24 giờ.
Đây là những mâu thuẩn tiêu biểu trong Tân ước.
Hầu hết được giải quyết bởi sự xem xét kỹ hơn với chính đoạn văn hay qua sự
nghiên cứu bối cảnh lịch sử.
Ai viết các sách Tân ước? Tại
sao không chấp nhận ngụy kinh, tin lành của Judas, hay tin lành của Thomas?
Có những lý do vững vàng cho
sự tin cậy trong danh sách những sách trong Tân ước ngày hôm nay. Hội thánh chấp
nhận Tân ước hầu như ngay sau khi nó được viết ra. Những tác giả của nó là những
cộng sự của Chúa Jesus hay môn đồ của Ngài, là những người mà Chúa Jesus đã
trao phó vai trò lãnh đạo trong hội thánh đầu tiên. Tác giả Tin lành của
Ma-thi-ơ và Giăng là những người thân cận nhất của Chúa Jesus. Mác và Luca là
những người đồng hành cùng các sứ đồ, tiếp cận trực tiếp với những bản tường
thuật về đời sống của Chúa Jesus của các sứ đồ.
Những tác giả Tân ước khác cũng có mối liên hệ rất
gần gũi với Chúa Jesus: Gia-cơ và Giu-đe là anh em cùng mẹ với Chúa Jesus, là
những người ban đầu không tin vào Ngài. Phi-e-rơ là một trong 12 sứ đồ. Phao lô
bắt đầu như một người ghét Cơ đốc giáo, nhưng ông đã trở thành một sứ đồ sau
khi nhận được sự khải thị của Chúa Jesus. Ông cũng có mối thông công với những
sứ đồ khác.
Nội dung của những sách Tân ước nhất quán với điều
hàng ngàn người chứng kiến tận mắt. Trong khi những sách khác được viết ra hàng
trăm năm sau đó (ví dụ như tin lành của Giu-đa, được viết ra khoảng 130-170 AD,
rất lâu sau khi Giu-đa chết), điều đó không khó cho hội thánh phát hiện ra
chúng là giả mạo. Tin lành của Thomas, được viết ra khoảng năm 140AD, là một ví
dụ khác về sự giả mạo mang danh của sứ đồ. Những tin lành giả mạo này mâu thuẩn
với những sự dạy dỗ của Chúa Jesus và Cựu ước, và thường chứa đựng rất nhiều
sai trật về phương diện lịch sử và địa lý.13
Vào năm 367AD, Athanasius liệt kê 27 sách Tân ước
(cùng một danh sách chúng ta có ngày hôm nay). Không bao lâu sau đó, Jerome va
Augustine lưu hành cùng một danh sách. Tuy nhiên, những danh sách này không cần
thiết cho phần lớn Cơ đốc nhân. Bởi vì hầu hết các hội thánh đã xác nhận và sử
dụng cùng một danh sách từ thế kỷ đầu tiên sau Đấng Christ. Khi hội thánh tăng
trưởng vượt qua những vùng đất nói tiếng Hy lạp, và có nhu cầu dịch Kinh Thánh,
và khi những mảng giáo phái tách ra liên tục xuất hiện cách bất ngờ với những bộ
sách thánh hoàn chỉnh của họ, nó trở nên quan trọng hơn để có một danh sách dứt
khoát.
Lý do chính các sách Tin lành chưa được viết ra
ngay sau khi Chúa Jesus chết và sống lại là vì nó không có nhu cầu rõ ràng cho
việc viết ra những điều đó. Ban đầu tin lành được truyền ra bằng miệng tại
thành Giê-ru-sa-lem. Không có nhu cầu để viết ra một bản tường thuật về đời sống
Chúa Jesus, bởi vì những người ở khu vực Giê-ru-sa-lem là nhân chứng cho Chúa
Jesus và biết rõ chức vụ của Ngài.14
Tuy nhiên khi tin lành truyền ra vượt khỏi
Giê-ru-sa-lem, và những người chứng kiến tận mắt không còn nữa, có một nhu cầu
viết ra những bài tường thuật để dạy dỗ những người khác về đời sống và chức vụ
của Chúa Jesus. Nhiều học giả định ngày của các sách Tin lành khoảng từ 30 đến
60 năm sau khi Chúa Jesus chết.
Luca cho chúng ta một sự soi sáng nhỏ thêm về điều
này khi nói rằng, lúc bắt đầu Tin lành của ông, tại sao ông viết nó ra: "Hỡi
Thê-ô-phi-lơ quí nhân, vì có nhiều kẻ dốc lòng chép sử về những sự đã làm nên
trong chúng ta, theo như các người chứng kiến từ lúc ban đầu và trở nên người
giảng đạo đã truyền lại cho chúng ta, vậy, sau khi đã xét kỹ càng từ đầu mọi sự
ấy, tôi cũng tưởng nên theo thứ tự viết mà tỏ ra cho ông, để ông biết những điều
mình đã học là chắc chắn.16
Giăng cũng đưa ra lý do cho việc viết ra sách
Tin lành của ông: "Đức Chúa Jêsus đã làm trước mặt môn đồ Ngài nhiều
phép lạ khác nữa, mà không chép trong sách nầy. Nhưng các việc nầy đã chép, để
cho các ngươi tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, tức là Con Đức Chúa Trời,
và để khi các ngươi tin, thì nhờ danh Ngài mà được sự sống."16
Nếu bạn muốn biết thêm về Chúa Jesus, bài viết
này sẽ cho bạn một sứ tóm tắt về đời sống của Ngài: Vượt ra ngoài đức tin mù lòa.
Có. Vì đức tin để thực sự có
giá trị, nó phải đặt trên nền của sự những sự kiện, sự thật. Đây là lý do. Nếu
bạn đáp máy bay đi London, có lẽ bạn có đức tin rằng chiếc máy bay được đổ đầy
nhiên liệu và máy móc đáng tin cậy, các phi công được huấn luyện, và không có
những người khủng bố trên máy bay. Tuy nhiên, đức tin của bạn không mang bạn đến
London, Nhưng điều thực sự đưa bạn đến London là sự đáng tin cậy của chiếc máy
bay và phi công. Bạn có thể nương cậy vào kinh nghiệm xác thực của những chuyến
bay trong quá khứ. Nhưng kinh nghiệm đáng tin cậy của bạn không đưa chiếc máy
bay đến London. Vấn đề là đối tượng của đức tin - có đáng tin cậy không?
Tân ước có phải là một sự trình bày chính xác và
đáng tin cậy về Chúa Jesus không? Có. Chúng ta có thể tin cậy Tân ước bởi vì có
rất nhiều sự thực ủng hộ nó. Bài viết này đụng chạm đến những điểm sau: các nhà
sử học đồng tình, khảo cổ học đồng tình, bốn sách phúc âm hòa hợp với nhau, sự
bảo tồn các tài liệu sao chép là rõ ràng, có sự chính xác rất cao của các bản dịch.
Tất cả những điều này đưa ra một nền tảng vững chắc cho việc tin vào nhưng điều
chúng ta đọc trong Tân ước: rằng Chúa Jesus là Đức Chúa Trời, Ngài gánh thay
hình phạt tội lỗi của chúng ta, và Ngài đã sống lại từ sự chết.
Xin bạn gởi email cho chúng tôi nếu bạn có những
câu hỏi nào khác.
(1) McDowell, Josh. The New Evidence
that Demands a Verdict (Thomas Nelson Publishers, 1999), p. 55.
(2) Tacitus, A. 15.44.
(3) Wilkins, Michael J. & Moreland, J.P. Jesus Under Fire (Zondervan Publishing House, 1995), p. 40.
(4) Ibid.
(5) Strobel, Lee. The Case for Christ (Zondervan Publishing House, 1998), p. 83.
(6) Zacharias, Ravi. Can Man Live Without God? (Word Publishing, 1994), p. 162.
(7) Strobel, p. 132.
(8) Nhà khảo cổ nổi tiếng người Do thái, Nelson Glueck, viết: "Có thể nói một cách dứt khoát rằng, không có một sự khám phá khảo cổ nào mâu thuẩn với Kinh Thánh" được trích bởi McDowell, JoshThe New Evidence That Demands a Verdict (Thomas Nelson Publishers, 1999), p. 61.
(9) Strobel, p. 143-144.
(10) Geisler, Norman L. Baker Encyclopedia of Christian Apologetics (Grand Rapids: Baker, 1998).
(11) McDowell, Josh. Evidence That Demands a Verdict (1972), p. 19.
(12) Pettinato, Giovanni. The archives of Ebla: an empire inscribed in clay (Garden City, NY: Doubleday, 1981)
(13) Bruce, F.F. The Books and the Parchments: How We Got Our English Bible (Fleming H. Revell Co., 1950), p. 113.
(14) Xem sách Công vụ 2:22, 3:13, 4:13, 5:30, 5:42, 6:14, etc.
(15) Lu-ca 1:1-3
(16) Giăng 20:30,31
(2) Tacitus, A. 15.44.
(3) Wilkins, Michael J. & Moreland, J.P. Jesus Under Fire (Zondervan Publishing House, 1995), p. 40.
(4) Ibid.
(5) Strobel, Lee. The Case for Christ (Zondervan Publishing House, 1998), p. 83.
(6) Zacharias, Ravi. Can Man Live Without God? (Word Publishing, 1994), p. 162.
(7) Strobel, p. 132.
(8) Nhà khảo cổ nổi tiếng người Do thái, Nelson Glueck, viết: "Có thể nói một cách dứt khoát rằng, không có một sự khám phá khảo cổ nào mâu thuẩn với Kinh Thánh" được trích bởi McDowell, JoshThe New Evidence That Demands a Verdict (Thomas Nelson Publishers, 1999), p. 61.
(9) Strobel, p. 143-144.
(10) Geisler, Norman L. Baker Encyclopedia of Christian Apologetics (Grand Rapids: Baker, 1998).
(11) McDowell, Josh. Evidence That Demands a Verdict (1972), p. 19.
(12) Pettinato, Giovanni. The archives of Ebla: an empire inscribed in clay (Garden City, NY: Doubleday, 1981)
(13) Bruce, F.F. The Books and the Parchments: How We Got Our English Bible (Fleming H. Revell Co., 1950), p. 113.
(14) Xem sách Công vụ 2:22, 3:13, 4:13, 5:30, 5:42, 6:14, etc.
(15) Lu-ca 1:1-3
(16) Giăng 20:30,31
Các sách Tin lành được trình
bày như là một sự thật,"thế nào điều này đã xảy ra."Ngay cả những báo cáo về việc
Chúa Jesus làm những phép lạ được viết ra không theo cảm xúc hay huyền bí. Một
ví dụ tiêu biểu được ghi lại trong Luca, chương 8, nơi Chúa Jesus khiến một bé
gái sống lại từ sự chết. Hãy chú ý những chi tiết và sự rõ ràng trong bài viết:
Có người cai nhà
hội tên là Giai-ru đến sấp mình xuống nơi chân Đức Chúa Jêsus, xin Ngài vào nhà
mình. Vì người có con gái một mười hai tuổi gần chết.
Khi Đức Chúa
Jêsus đương đi, dân chúng lấn ép Ngài tứ phía. Bấy giờ, có một người đàn bà đau
bịnh mất huyết mười hai năm rồi, cũng đã tốn hết tiền của về thầy thuốc, không
ai chữa lành được, đến đằng sau Ngài rờ trôn áo; tức thì huyết cầm lại. Đức
Chúa Jêsus bèn phán rằng: Ai rờ đến ta? Ai nấy đều chối; Phi-e-rơ và những người
đồng bạn thưa rằng: Thưa thầy, đoàn dân vây lấy và ép thầy. Đức Chúa Jêsus phán
rằng: Có người đã rờ đến ta, vì ta nhận biết có quyền phép từ ta mà ra. Người
đàn bà thấy mình không thể giấu được nữa, thì run sợ, đến sấp mình xuống nơi
chân Ngài, tỏ thật trước mặt dân chúng vì cớ nào mình đã rờ đến, và liền được
lành làm sao. Nhưng Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hỡi con gái ta, đức tin ngươi đã
chữa lành ngươi; hãy đi cho bình an.
Ngài còn đương
phán, có kẻ ở nhà người cai nhà hội đến nói với người rằng: Con gái ông chết rồi;
đừng làm phiền thầy chi nữa. Song Đức Chúa Jêsus nghe vậy, phán cùng Giai-ru rằng:
Đừng sợ, hãy tin mà thôi, thì con ngươi sẽ được cứu. Khi đến nhà, Ngài chỉ cho
Phi-e-rơ, Gia-cơ, Giăng, và cha mẹ con ấy vào cùng Ngài. Ai nấy đều khóc lóc
than vãn về con đó. Nhưng Ngài phán rằng: Đừng khóc, con nầy không phải chết,
song nó ngủ. Họ biết nó thật chết rồi, bèn nhạo báng Ngài. Nhưng Đức Chúa Jêsus
cầm lấy tay con ấy, gọi lớn tiếng lên rằng: Con ơi, hãy chờ dậy! Thần linh bèn
hoàn lại, con ấy chờ dậy liền; rồi Ngài truyền cho nó ăn. Cha mẹ nó lấy làm lạ;
nhưng Ngài cấm nói lại sự xảy ra đó với ai.
Giống như những bản tường thuật khác về việc
Chúa Jesus chữa lành dân chúng, Ở đây bày tỏ sự chân thật. Nếu nó là điều bịa đặt,
sẽ có những phần có lẽ đã được viết khác đi. Ví dụ, trong câu chuyện hư cấu, sẽ
không có một sự gián đoạn với điều khác đang xảy ra. Nếu nó là hư cấu, những
người đang khóc lóc sẽ không cười vào câu nói của Chúa Jesus; có lẽ họ giận dữ,
hay bị tổn thương, chứ không cười. Và trong câu chuyện hư cấu, liệu Chúa Jesus
sẽ ra lịnh cho cha mẹ bé gái im lặng? Bạn sẽ mong đợi việc chữa lành mang lại một
lợi thế rất lớn. Nhưng đời sống thật không luôn luôn diễn ra một cách êm thắm.
Có những sự gián đoạn. Người ta phản ứng một cách kỳ cục. Và Chúa Jesus có lý
do riêng của Ngài không muốn cha mẹ đồn tin này ra ngoài.
Sự thử nghiệm tốt nhất tính chân thật của Phúc âm
là chính bạn đọc nó. Nó giống như bài tường thuật về một sự kiện có thật hay giống
như một câu chuyện tưởng tượng ? Nếu nó là thật, thì Đức Chúa Trời đã bày tỏ
chính Ngài cho chúng ta. Chúa Jesus đã đến, sống, dạy dỗ, truyền cảm, và mang sự
sống cho hàng triệu người, là những người đã đọc và làm theo lời của Ngài ngày
hôm nay. Điều Chúa Jesus đã nói trong các sách Phúc âm, nhiều người đã tìm thấy
sự thật đáng tin cậy: "Ta đã đến để các ngươi có sự sống, và sự sống dư dật,"
(Giăng 10:10)
Đây là cách sách Tân ước so sánh với những tác
phẩm cổ xưa khác*:
|
Tác giả
|
Sách
|
Ngày
viết |
Những bản sao
hép xưa nhất |
Khoảng trống
thời gian |
# Số lượng bản
viết tay |
|
Homer
|
Câu chuyện Kể dài
|
800
B.C.
|
c.
400 B.C.
|
c.
400 năm.
|
643
|
|
Herodotus
|
Lịch sử
|
480-425
B.C.
|
c.
A.D. 900
|
c.
1,350 năm.
|
8
|
|
Thucydides
|
Lịch sử
|
460-400
B.C.
|
c.
A.D. 900
|
c.
1,300 năm.
|
8
|
|
Plato
|
|
400
B.C.
|
c.
A.D. 900
|
c.
1,300 năm.
|
7
|
|
Demosthenes
|
|
300
B.C.
|
c.
A.D. 1100
|
c.
1,400 năm.
|
200
|
|
Caesar
|
Gallic Wars
|
100-44
B.C.
|
c.
A.D. 900
|
c.
1,000 năm.
|
10
|
|
Tacitus
|
Annals
|
A.D.
100
|
c.
A.D. 1100
|
c.
1,000 năm.
|
20
|
|
Pliny
Secundus |
Lịch sử
tự nhiên |
A.D.
61-113
|
c.
A.D. 850
|
c.
7500 năm.
|
7
|
|
Tân
ước
|
A.D.
50-100
|
c.
A.D. 114
(những phần) c. A.D. 200 (các sách) c. A.D. 325 (Hoàn tất Tân ước) |
c.
+50 năm.
c. 100 năm. c. 225 năm. |
5366
|
|
*McDowell, Josh. The New Evidence that
Demands a Verdict (Thomas Nelson Publishers, 1999), p. 55
|
KHÁM PHÁ KHẢO CỔ
|
Ý NGHĨA
|
|
Những
tấm bảng Mari
|
Trên
20.000 bảng hình nêm, có vào khảng thời gian cùa Ap-ra-ham, giải thích nhiều
truyền thống gia trưởng của Sáng thế ký.
|
|
Những
tấm bảng Ebla
|
Trên
20.000 bảng, nhiều bảng chứa đựng bộ luật tương tự như luật trong Phục truyền
luật lệ ký. Giả thuyết năm thành phố ở vùng đồng bằng trong Sáng thế ký đoạn
14 trước đây (Sodom, Gormorrah, Admad, Zeboiim và Zoar) là hư cấu bị bác bỏ.
|
|
Những
tấm bảng Nuzi
|
Chúng
trình bày chi tiết phong tục của thế kỷ 14 và 15 BC, cùng thời với các sách
Ngũ kinh như là các đầy tớ gái sinh con cái cho những người vợ son sẻ.
|
|
Black
Stele
|
Chứng
minh rằng chử viết và những bộ luật được viết ra tồn tại ba thế kỷ trước bộ
luật của Môise
|
|
Những
bức tường của đền
thờ Karnak, Ai-cập |
Dấu
hiệu ở thế kỷ thứ 10BC ám chỉ đến Áp-ra-ham
|
|
Bộ
luật Eshnunna (ca. 1950 BC)
Bộ luật Lipit-Ishtar (ca. 1860 BC) Bộ luật Hammurabi (ca. 1700 BC) |
Chứng
tỏ rằng bộ luật trong Ngũ kinh không bị làm giả trong giai đoạn đó.
|
|
Những
tấm bảng Ras Shamra
|
Cung
cấp thông tin về thi ca của người Hê-bơ-rơ
|
|
Những
bức thư của Lachish
|
Mô
tả cuộc xâm lược của Nebuchadnezzar vào Giu-đa và đưa ra sự hiểu biết thời đại
của Giê-rê-mi.
|
|
Con
dấu Gedaliah
|
Ám
chỉ Gedaliah được nói đến trong sách II các vua 25:22
|
|
Hình
trụ Cyrus
|
Chứng
thực sự mô tả của Kinh Thánh về sắc lệnh Cyrus cho phép người Do thái xây lại
đền thờ tại Giê-ru-sa-lem (xem II Sử ký 36:23; Ê-xơ-ra 1:2-4).
|
|
Hòn
đá Moabite
|
Cung
cấp thông tin về Omri, vị vua thứ sáu của Israel
|
|
Cột
hình tháp màu đen
của Shalmaneser III |
Minh
họa thế nào Jehu, vua Israel, đầu phục vua Assyrian
|
|
Hình
lăng trụ Taylor
|
Chứa
đựng một bản văn Assyrian mô tả cuộc tấn công của Sennacherib vào thành
Giê-ru-sa-lem vào thời của Hezekiah, vua Israel
|
|
NHỮNG CHỈ TRÍCH
TRONG QUÁ KHỨ |
ĐƯỢC TRẢ LỜI BỞI KHẢO CỔ HỌC
|
|
Môise
không thể viết các sách Ngũ kinh bởi vì ông sống trong thời trước khi chữ viết
được phát minh
|
Chữ
viết tồn tại trước thời Môise ba thế kỷ
|
|
Thành
phố quê hương của Áp-ra-ham Urơ không tồn tại
|
Urơ
được khám phá. Một trong những cột đã khắc "Ap-ra-ham"
|
|
Thành
phố được xây trên vầng đá vững chắc được gọi "Petra" không tồn tại.
|
Petra
được khám phá
|
|
Câu
chuyện sụp đổ của thành phố Giê-ri-cô là huyền thoại. Thành phố không tồn tại.
|
Thành
phố được tìm thấy và được khai quật. Người ta tìm thấy những bức tường đổ
nhào chính xác như cách mô tả trong câu chuyện Kinh Thánh
|
|
Người
"Hittites" không tồn tại.
|
Hàng
trăm sự tham khảo đến ngạc nhiên về người Hititte được tìm thấy. Có người nhận
được bằng tiến sĩ về nghiên cứu người Hittite ở đại học Chicago.
|
|
Belshazzar
không phải là vị vua thật của Babylon. Ông không được sử sách ghi lại.
|
Những
tấm bảng ở Babylonia mô tả sự trị vì của con người này và con trai của
Nabonidus.
|
http://www.everyvietstudent.com/a/215KinhThanh.html
LỊCH SỬ QUYỂN KINH THÁNH
Giới thiệu:
Cơ-đốc nhân tin Kinh
Thánh là Lời của Đức Chúa Trời, là khuôn vàng thước ngọc cho sự giảng dạy và nếp
sống hằng ngày; tuy nhiên, đa số con dân Chúa không biết rõ quyển Kinh Thánh
mình đang có đến từ đâu, đã trải qua những giai đoạn nào trước khi đến tay
mình. Sự hiểu biết về lịch sử hình thành quyển Kinh Thánh sẽ giúp cho chúng ta
trên các phương diện sau:
* Có sự tin quyết rằng Lời
của Đức Chúa Trời đã được chính Chúa bảo vệ và được lưu truyền theo dòng thời
gian cho các thời đại về sau là không hề sai lầm, đáng cho chúng ta tin theo trọn
vẹn.
* Sẵn sàng giải thích
cho những người còn hoài nghi về tính xác thật của Kinh Thánh, nhằm xóa bỏ những
nghi ngờ cho rằng các bản Kinh Thánh ngày nay không còn đúng theo nguyên bản nữa
vì trải qua nhiều quá trình sao chép hoặc phiên dịch.
* Giúp chúng ta hiểu tại
sao có sự khác biệt giữa các bản dịch Kinh Thánh.
A. Những thuật
ngữ quan trọng:
Chúng ta cần hiểu ý nghĩa
của các thuật ngữ quan trọng sau đây:
* Nguyên bản (autograph):
Là bản Kinh Thánh gốc, do chính tay tác giả viết dưới sự soi dẫn của Đức Thánh
Linh.
* Bản sao (manuscript):
Không phải là bản Kinh Thánh gốc, nhưng được sao chép lại từ bản gốc. Vì máy in
chỉ được phát minh và hoàn thiện vào năm 1456, cho nên trước năm 1456, các bản
sao Kinh Thánh đều là các bản viết bằng tay. Đó là lý do tại sao gọi các bản
sao (copy) là manuscripts trong Anh ngữ.
* Bản in (print):
Kể từ khi người ta dùng máy in để in Kinh Thánh (1456), người ta không còn sao
chép bằng tay nữa, nên tất cả những bản Kinh Thánh được xuất bản từ năm 1456 đều
được xem là bản in.
* Bản dịch (translation):
Là những bản Kinh Thánh đã được chuyển ngữ từ nguyên bản hay từ bản sao nhằm để
mọi dân tộc trên thế giới đều có thể đọc được Kinh Thánh bằng ngôn ngữ của
mình.
* Kinh điển (canon):
Là danh sách các quyển Kinh Thánh được Đức Thánh Linh soi dẫn để con người viết
ra, được công nhận chính là Lời của Đức Chúa Trời. Sở dĩ có thuật ngữ kinh
điển là nhằm để phân biệt với một số sách mà người ta thêm vào trong bộ
Kinh Thánh Cựu Ước.
* Ngoại kinh hay
còn gọi là Ẩn kinh (apocrypha): Là những sách được thêm vào
trong bộ Kinh Thánh Cựu Ước, đặc biệt là Kinh Thánh của Giáo hội Công Giáo
La-mã và Kinh Thánh của Chính Thống Giáo Đông Phương (Eastern Orthodox). Những
sách nầy không được công nhận là do Đức Chúa Trời soi dẫn, nên không được kể
là Kinh điển.
B. Ngôn ngữ
của Kinh Thánh nguyên bản:
Kinh thánh nguyên bản
được viết bởi 3 ngôn ngữ sau:
1. Tiếng Hê-bơ-rơ (Hebrew):
Hầu hết các sách trong phần Cựu Ước bằng tiếng Hê-bơ-rơ, là một ngôn ngữ rất
phong phú, giàu hình ảnh của người Do Thái thời bấy giờ nên rất thích hợp cho
việc ghi chép các thể loại luật pháp,văn thơ, lịch sử của Kinh Thánh. Ngôn ngữ
Hê-bơ-rơ được xem là ngôn ngữ cổ xưa từ 1.450 năm trước công nguyên và được bảo
tồn cho đến ngày nay.
2. Tiếng A-ram (Aramaic):
Chỉ có một phần nhỏ trong Cựu Ước được viết bằng tiếng A-ram, là ngôn ngữ của
người Mê-đô Ba Tư (Medo-Persian). Lý do là kể từ năm 586 B.C, thành
Giê-ru-sa-lem bị phá hủy bởi quân đội của vua Ba-by-lôn là Nê-bu-cát-nêt-sa,
dân Do Thái bị bắt đem qua Ba-by-lôn, sau đó họ tiếp tục sống trong đế quốc
Mê-đô Ba Tư, tại đây họ bắt đầu nói tiếng A-ram. Tiếng A-ram là ngôn ngữ rất
thông dụng trong thời đó, ảnh hưởng trên một vùng rộng lớn thuộc đế quốc Mê-đô
Ba Tư, và ngay trong thời của Chúa Jesus, người Do Thái cũng nói với nhau
bằng tiếng A-ram.
Sách Đa-ni-ên 2:4
đến 7:28 và Ê-xơ-ra 4:8 đến 6:18; Ê-xơ-ra 7:12-26
được viết bằng tiếng A-ram.
3. Tiếng Hy-lạp (Greek):
Toàn bộ các sách trong phần Tân Ước đều được viết bằng tiếng Hy-lạp. Sự chinh
phục của đế quốc Hy-lạp khởi đầu với Alexandre khiến cho ngôn ngữ Hy-lạp
có ảnh hưởng mạnh mẽ trên lĩnh vực văn chương trong đời sống của các dân tộc
vùng Trung đông. Ngôn ngữ Hy-lạp rất phong phú, được xem là ngôn ngữ bác học và
rất thích hợp để biên chép Kinh Thánh Tân Ước.
Toàn bộ Cựu Ước được trước
tác từ khoảng 1400 B.C đến 400 B.C.
Toàn bộ Tân Ước được trước
tác từ khoảng 45 A.D. đến 95 A.D.
C. Các bản
sao Kinh Thánh (Manuscripts):
Vì Kinh Thánh nguyên bản được
ghi chép trên các cuộn giấy chỉ thảo (Papyrus) hay da (Parchment)
được đóng lại thành sách, những loại vật liệu nầy không bảo tồn được lâu nên
ngày nay tất cả các nguyên bản Kinh Thánh không còn nữa. Người ta
chỉ còn giữ lại được các bản sao mà thôi, các bản sao vẫn
tiếp tục được chép lại trên cùng vật liệu là giấy chỉ thảo hay da, từ thế hệ nầy
cho đến thế hệ kế tiếp, người ta tiếp tục sao chép khi thấy các bản sao cũ bắt
đầu rách nát, cứ thế cho tới khi máy in được phát minh thì người ta không còn
phải chép bằng tay nữa. Các bản sao được ghi chép chính xác từ nguyên bản nên
các bản sao có giá trị như nguyên bản. Hiện nay các bản sao rất cổ được lưu trử
rất cẩn thận trong các viện bảo tàng. Có rất nhiều bản sao Kinh Thánh, xin chỉ
kể ra những bản quan trọng nhất cần được biết:
1. Các bản sao Cựu Ước
cỗ:
* Bản Geniza:
Được chép vào khoảng 400AD, gồm nhiều sách trong Cựu Ước bằng tiếng Hê-bơ-rơ và
A-ram. Được tìm thấy vào năm 1947 tại Nhà hội của người Do Thái ở Cairo, Ai-cập.
* Bản Massoretic:
Được thực hiện trong những năm 500AD-900AD. Đây là bản sao Kinh Thánh rất tiêu
chuẩn của người Do Thái. Những thành viên trong ban sao chép đã phải tuân theo
những quy định rất nghiêm nhặt để không thể xãy ra những sai sót.
* Bản Cairo Codex:
Do dòng họ Ben Asher thực hiện vào năm 895 A.D. Bản nầy được sao chép từ bản
Massoretic tiêu chuẩn nói trên.
* Bản Aleppo Codex:
Cũng do dòng họ Ban Asher sao chép và hoàn tất vào 950 A.D. Được tìm thấy vào
năm 1958. Bảng nầy rất quý giá.

Bản Aleppo Codex
* Cuộn Biển Chết (Dead
Sea Scrolls): Có thể nói việc tìm thấy các “Cuộn Biển Chết” gồm các bản sao
của hầu hết các sách trong Cựu Ước (ngoại trừ sách Ê-xơ-tê) là một sự khám phá
tuyệt vời nhất ở thế kỷ 20 của ngành khảo cổ; sự phám phá quan trọng nầy đã xóa
tan mọi sự nghi ngờ của con người về tính không xác thật của các bản sao Kinh
Thánh đã được lưu truyền trước đó.
Các bản sao nầy trước hết được
một cậu bé chăn chiên vô tình phát hiện vào năm 1947, trong một hang động ở
vùng Qumran, phía tây bắc của Biển Chết (nên được gọi là Cuộn Biển Chết).
Sau đó, trong khoảng thời gian từ 1947 đến 1956, các nhà khảo cổ đã tìm ra hơn
800 cuộn sách cổ xưa trong 10 hang động khác, 30% các tài liệu đó là các bản
sao Kinh Thánh chép tay, phần nhiều đã bị rách thành nhiều mãnh.
Các Cuộn Biển Chết là
bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời bảo tồn Lời của Ngài và là nguồn tài liệu quý
giá nầy giúp cho công việc sao chép và dịch thuật Kinh Thánh về sau được chính
xác hơn và rõ ràng hơn.

Bản sao Kinh Thánh của Cuộn Biển Chết
2. Các
bản sao Tân Ước cỗ:
* Bản John Rylands (130
A.D.) : Được xem là bản sao Tân Ước lâu đời nhất, hiện được lưu trữ tại Thư viện
John Rylands, thành phố Manchester, nước Anh.
* Bản Bodmer
Papyrus II (150-200 A.D)
* Bản Chester
Beaty (200 A.D): Được viết trên giấy chỉ thảo, đang được lưu giữ tại
Viện Bảo Tàng Beaty, Dublin, nước Ireland.
* Bản Codex
Sinaiticus (350 A.D): Đang được lưu giữ tại Viện Bảo Tàng Anh Quốc.
Bản nầy bị rách nát làm 800 mãnh, những chuyên gia phục hồi đã phải lắp ghép
chúng lại với nhau. Xem hình bên dưới.

Một
trang trong bản Sinaticus sau khi phục hồi.
Tiến sĩ Scot
McKendrick nhận xét: "Bản Sinaiticus là một trong những
tác phẩm vĩ đại nhất của con người. Văn bản có hơn 1.600 năm tuổi này là cánh cửa
để chúng ta nhìn vào sự phát triển ban đầu của đạo Cơ đốc và góp phần giải
thích cho câu hỏi: Kinh thánh đã được truyền từ đời này qua đời khác như thế
nào?
* Bản Codex Washingtonensis (450
A.D):

Bản Codex Washingtonensis
D. Các bản dịch
cỗ:
* Bản Aramaic
Targum (400 B.C): Đây là bản dịch Cựu Ước sang tiếng
A-ram, là ngôn ngữ thông dụng của dân Do Thái kể từ khi bị lưu đày ở Ba-by-lôn.
Bản dịch nầy đáp ứng nhu cầu hiểu biết Cựu Ước của người Do Thái nói tiếng
A-ram.
* Bản Bảy Mươi (Septuagint):
Là bản Kinh Thánh Ngũ Kinh bằng ngôn ngữ Hy-lạp được hình
thành vào khoảng năm 250 B.C. Bản Bảy mươi ra đời trong giai đoạn thế giới chịu
ảnh hưởng của văn chương Hy-lạp, những người Do Thái sống lưu lạc ở các nước
khác không được đọc Kinh Thánh bằng tiếng Hê-bơ-rơ, họ cần có quyển Kinh
Thánh viết bằng ngôn ngữ Hy-lạp. Công trình phiên dịch từ tiếng Hê-bơ-rơ sang
tiếng Hy-lạp được được thực hiện bởi 72 nhà dịch thuật thông thạo tiếng Hy-lạp,
được tuyển chọn từ 12 chi phái Y-sơ-ra-ên (mỗi chi phái 6 vị), họ được gửi đến
Alexandria, đặt dưới sự bảo trợ của vua Ptolemy Philadelphia nước Ai-cập. 72 vị
nầy đã hoàn tất phiên dịch Ngũ Kinh trong suốt 72 ngày nên được gọi là Bản
Bảy Mươi (LXX). Sau nầy các sách khác trong Cựu Ước cũng được tiếp tục
dịch sang tiếng Hy-lạp bởi các học giả khác và được nhập chung vào Bản Bảy
Mươi.

Bản Bảy Mươi (septuagint)
Trong thời kỳ Hội Thánh đầu
tiên, các Cơ-đốc nhân thường trích dẫn những câu Kinh Thánh Cựu Ước từ Bản Bảy
Mươi nầy.
* Các Bản Dịch từ
180 A.D. đến 300 A.D.: Là các bản dịch Tân Ước sang tiếng
La-tin, Syriac và Coptic. Có thể kể: Bản Old Latin (195 A.D.),
bản The Old Syriac (300 A.D) và bản The Coptic Version (300
A.D)
* Bản Vulgate (405
A.D): Là bản dịch cả Cựu Ước và Tân Ước sang
tiếng La-tin. Tác giả Bản vulgate là Jerome, là một tu sĩ Công
Giáo, ông rất thông thạo tiếng La-tin nên được Giáo hoàng Damacus I giao trách
nhiệm phiên dịch toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng La-tin. Bản dịch của Jerome
chính xác nên được Giáo Hội Công Giáo La-mã công nhận có giá trị tương đương với
bản Kinh Thánh Tiếng Hê-bơ-rơ của Cựu Ước và Hy-lạp của Tân Ước. Ngoài ra, Bản
Vulgate cũng được Hội Nghị Trent năm 1546 chính thức công nhận là bản Kinh
Thánh chuẩn của Giáo Hội Công Giáo.

Bản Kinh Thánh Tân-Cựu
Ước Vulgate
* Bản First
English Translation (1380 A.D.): Đây là bản Kinh Thánh toàn bộ đầu
tiên bằng Anh ngữ do John Wycliffe thực hiện. Điều cần chú ý
là John Wycliffe không dịch trực tiếp từ nguyên bản tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng
Hy-lạp mà dịch từ bản Vulgate nói trên.

Bản Kinh Thánh Anh ngữ John Wycliffe
E. Kinh Điển
Cựu Ước (Canon
of The Old Testament):
Gồm 39 sách, được phân loại
như sau:
* 5 Sách Luật Pháp:
Sáng Thế Ký; Xuất
Ê-Díp-Tô-Ký; Lê-vi Ký; Dân Số Ký; Phục Truyền
Luật Lệ Ký
* 12 Sách Lịch Sử:
Giô-suê; Các Quan Xét; Ru-tơ;
I Sa-mu-ên; II Sa-mu-ên; I Các Vua; II Các Vua; I Sử Ký; II Sử Ký ; Ê-xơ-ra;
Nê-hê-mi; Ê-xơ-tê.
* 5 Sách Thơ Văn:
Gióp; Thi Thiên; Châm
Ngôn; Truyền Đạo; Nhã Ca.
* 17 Sách Tiên Tri:
Ê-sai; Giê-rê-mi; Ca Thương; Ê-xê-chi-ên; Đa-ni-ên; Ô-sê; Giô-ên;
A-mốt; Áp-đia; Giô-na; Mi-chê; Na-hum; Ha-ba-cúc; Sô-phô-ni; A-ghê; Xa-cha-ri; Ma-la-chi.
F. Kinh
Điển Tân Ước (Canon of The New Testament):
Gồm 27 sách được phân chia
như sau:
* 4 Sách Phúc
Âm:
Ma-thi-ơ; Mác; Lu-ca; Giăng.
* 1 Sách Lịch Sử Hội
Thánh:
Công Vụ Các Sứ Đồ.
* 21 Sách Thư
Tín:
Rô-ma; I Cô-rinh-tô; II
Cô-rinh-tô; Ga-la-ti; Ê-phê-sô; Phi-líp; Cô-lô-se; I Tê-sa-lô-ni-ca; II Tê-sa-lô-ni-ca; I
Ti-mô-thê; II Ti-mô-thê; Tít; Phi-lê-môn; Hê-bơ-rơ;
Gia-cơ; I Phi-e-rơ; II Phi-e-rơ; I Giăng; II
Giăng; III Giăng;Giu-đe.
* 1 Sách Tiên Tri:
Khải Huyền.
G. Các Ngoại
Kinh (Apocrypha)
Gồm 15 sách như sau:
Tên
sách Niên
biểu Đặc điểm
Wisdom of Solomon
30 B.C. Giáo
huấn
Ecclesiasticus
32
B.C. Giáo huấn
Tobit
200
B.C. Tiểu thuyết Tôn Giáo
I Esdras
150
B.C. Lịch sử & Truyền thuyết
I Maccabees
110
B.C. Lịch sử
II Maccabees
100
B.C. Lịch sử & Truyền thuyết
Judith
150
A.D. Tiểu thuyết
Baruch
100
A.D. Tiên Tri
Letter of Jeremiah
200
B.C. Tiên Tri
II Esdras
100
A.D. Tiên Tri
Additions to Esther
130
B.C. Truyền thuyết
Prayer of Azariah*
100.
B.C. Truyền thuyết
Suzanna (Daniel 13)
100 B.C.
Truyền thuyết
Bel & the Dragon
(Daniel 14) 100 B.C. Truyền thuyết
Prayer of
Manasseh
150 B.C Truyền thuyết
[* Prayer of Azariah còn có
tên khác là “Song of Three Hebrew Children”]
H. Kinh Điển Tân Ước được căn
cứ trên những tiêu chuẩn nào?
Từ cuối thế kỷ thứ nhất cho đến
thế kỷ thứ 4, xuất hiện rất nhiều tác phẩm do nhiều tác giả viết ra tự cho là
có giá trị như Kinh Thánh, tự cho là có sự soi dẫn của Chúa, trong đó có nhiều
sách mà người ta không biết rõ tác giả thật là ai, có nhiều sách mạo danh tác
giả là các sứ đồ! Điều nầy đưa đến một vấn đề là cần phân biệt giữa những sách
thuộc kinh điển, tức là được Đức Thánh Linh soi dẫn với những sách được viết mà
không có sự soi dẫn. Các giáo phụ của Hội Thánh sơ khai đã đưa ra những chuẩn mực
(criteria) để qua đó đánh giá một quyển sách có giá trị kinh điển. Các sách được
chọn làm kinh điển phải hội đủ các tiêu chuẩn sau:
1. Sách
cần phải chứa đựng thẩm quyền của Sứ Đồ. Có nghĩa là do chính Sứ Đồ viết ra, là
những người được Chúa Jesus kêu gọi làm Sứ Đồ; hoặc được viết bởi những người từng
đi theo Chúa Jesus, chứng kiến tận mắt cuộc đời Chúa Jesus, nghe tận tai sự dạy
dỗ của Chúa Jesus và cũng được các Sứ Đồ công nhận, vì những tác giả nầy gần gủi
với các Sứ Đồ, cộng tác với các Sứ Đồ.
2. Nội
dung của sách chứa đựng những sự dạy dỗ phải phù hợp với mẫu mực của đức tin
(Rule of faith) mà Chúa Jesus truyền dạy và có quyền năng làm thay đổi nếp sống.
3. Sách
được Hội Thánh đầu tiên công nhận là Lời của Đức Chúa Trời.
4. Sách
bày tỏ về Đức Chúa Trời giống như Cựu Ước bày tỏ về Đức Chúa Trời.
Căn cứ vào các tiêu chuẩn nêu
trên, một số khá nhiều các sách xuất hiện trong thời kỳ Hội Thánh đầu tiên đã
không được kể là kinh điển, xin liệt kê vài cuốn:
* Tin Lành của
Ni-cô-đem: Kể về các việc làm của quan tổng đốc Phi-lát.
* Tin Lành của người
Hê-bơ-rơ: Thêm vào 4 sách Phúc âm kinh điển.
* Tin Lành của Phi-e-rơ: Mang
tinh thần bài Do Thái.
* Tin Lành của Ma-thi-ơ
(Sách giả mạo): Kể nhiều phép lạ Chúa Jesus làm khi còn nhỏ.
* Tin Lành của Thô-ma:
Thuật đời sống Chúa Jesus lúc 5-12 tuổi, Chúa làm nhiều phép lạ nhằm thỏa mãn
tánh tò mò của trẻ con.
* Tin Lành của Giô-sép:
Nhằm tôn sùng Giô-sép.
* Ma-ri biến hóa: Nhằm mục
đích tôn vinh và thờ lạy bà Ma-ri. Thân xác của bà được đem lên thiên đàng.
* Ma-ri sinh ra: Nhằm mục
đích tôn vinh bà Ma-ri.
* v.v…
I . Các bản in Kinh Thánh đầu
tiên:
Chúng ta rất khó xác định
chính xác năm nào máy in lần đầu tiên được phát minh, vì công việc “in ấn” khởi
đầu từ những thiết bị rất thô sơ rồi dần dần được hoàn thiện theo thời gian
dài, quá trình nầy kéo dài đến hàng trăm năm. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là kể
từ khi máy in được phát minh, người ta không còn phải tiếp tục sao chép Kinh
Thánh bằng cách viết tay nữa; máy in đã giúp in Kinh Thánh nhanh chóng hơn, với
sộ lượng rất lớn, và được liên tục xuất bản cho đến ngày hôm nay. Xin chỉ kể những
bản Kinh Thánh đầu tiên được xuất bản dưới dạng bản in (printed Bible):
* Bản Gutenberg (1456):
Đây là bản in Kinh Thánh đầu tiên bằng tiếng La-tin.
* Bản Erasmus (1514):
Đây là bản in Tân Ước bằng tiếng Hy-lạp.
* Bản Polyglot Bible (1522):
Bản in Cựu Ước bằng tiếng Hê-bơ-rơ, A-ram, Hy-lạp và La-tin; phần Tân Ước bằng
tiếng Hy-lạp và La-tin. Vì trình bày nhiều ngôn ngữ song song với nhau nên bộ
Kinh Thánh nầy gồm tất cả 6 cuốn.
* Bản King James
Version (1611): Viết tắt là KJV. Đây là bản tiếng Anh, được phiên dịch
theo nguyên ngữ Hê-bơ-rơ, và Hy Lạp.

Bản in Kinh Thánh đầu tiên
(1456) Bản Polyglot
Bible, đa ngôn ngữ (1522)
K. Kết Luận:
Kinh Thánh là Lời của Đức
Chúa Trời ban cho con người, để con người hiểu biết về Đấng tạo dựng nên mình;
biết về mục đích của Đức Chúa Trời đối đối với con người; biết về chương trình
cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành cho con người, để con người đọc và tuân theo hầu
cho được cứu và sống theo tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời. Vì tầm mức quan trọng
như vậy nên chúng ta có thể thấy rõ Đức Chúa Trời đã gìn giữ và lưu truyền Lời
của Ngài trãi qua suốt nhiều thời đại cho đến ngày nay. Kinh Thánh không những
tồn tại trên văn kiện là một quyển sách nhưng còn tồn tại mãi mãi trong lòng của
tất cả mọi người, là những ai tin quyết Kinh Thánh chính là Lời của Đức Chúa Trời. Thật
đúng như tiên tri Ê-sai 40:8 đã chép:
“Cỏ
khô, hoa rụng; nhưng lời của Đức Chúa Trời chúng ta còn mãi đời đời!”
http://www.gianggiaithanhkinh.net/Tim%20Hieu%20Quyen%20Kinh%20Thanh/Lich-Su-Quyen-Kinh-Thanh.html
Lịch Sử Của Quyển
Kinh Thánh
Danh từ Kinh Thánh được dịch ra từ chữ
La-tinh "biblia" có nghĩa là quyển sách. Ngày xưa người ta dùng vỏ
cây cắt ra thật mỏng như tờ giấy (papyrus) để ghi chép các tài liệu, loại giấy
nầy được sản xuất và bán đi các nơi từ thành phố Biblios, một hải cảng ở phía bắc
nước Do Thái, của người Phê-ni-xi, gần Beyruth, Lebanon ngày nay.
Vào thế kỷ thứ 5 S. C., các Hội thánh
Hy Lạp dùng danh từ "Tà Biblia" hoặc "Biblia" cho Các Quyển
Sách Thánh (Kinh Thánh). Nhiều người cho rằng Jean Chrysostome trưởng lão tại
thành Constantinople (398-404 S. C.), là người thứ nhất dùng danh từ nầy. Ðến
thế kỷ thứ 13, thì "Tà Biblia" trở nên "Biblio" hay
"Biblia[1]" theo tiếng La-tinh tức là Các Sách
Thánh trở nên Kinh Thánh. Sau đó các nước Tây phương cũng chấp nhận và dùng
danh từ "The Bible" hoặc "La Bible".
I. Nội Dung:
Kinh Thánh gồm có phần Cựu Ước và Tân
Ước. Chữ Ước trong Cựu Ước được dịch từ danh từ berith của Hy-bá-lai có nghĩa
là giao ước. Trong Tân Ước, chữ Ước được dịch từ danh từ diatheke của Hy Lạp có
nghĩa là chúc thư (testament) hay giao ước (covenant). Nội dung của Cựu Ước nói
lên giao ước giữa Ðức Chúa Trời và dân sự của Ngài, tức là dân Do-thái. Còn Tân
Ước nói về giao ước mới của Thượng Ðế với loài người, "hầu cho hể ai tin
Con Ngài đều được sự sống đời đời".
A. Cựu Ước của Cơ đốc giáo và Kinh Thánh Do thái
giáo (Hebrew Bible) đều giống nhau. Cựu Ước có 39 quyển sách trong khi đó Kinh
Thánh Do-thái có 24. Sự khác biệt nầy là do các vị lãnh đạo Cơ đốc giáo ngày
xưa đã chia các sách Tiên tri và lịch sử ra làm nhiều sách riêng biệt. Cựu Ước
đã được Ðức Chúa Jêsus và các Môn đồ cùng Sứ đồ nhìn nhận và gọi là Kinh Thánh
(Scripture, Holy Scriptures). Các sách của Cựu Ước và Kinh Thánh Do-thái là:
|
Kinh Thánh Cựu Ước
|
Kinh Thánh Do thái
|
|
A. Năm quyển sách của Môi-se:
|
A. Các sách luật pháp:
|
|
1. Sáng thế ký
|
Sáng thế ký
|
|
2. Xuất Ê-díp-tô ký.
|
Xuất Ê-díp-tô ký.
|
|
3. Lê-vi ký.
|
Lê-vi ký.
|
|
4. Dân số ký.
|
Dân số ký.
|
|
5. Phục Truyền luật lệ ký.
|
Phục Truyền luật lệ ký.
|
|
B. Các sách về lịch sử:
|
B. Các sách tiên tri:
|
|
6. Giô-suê.
|
2a. Tiên tri trước:
|
|
7. Các Quan xét.
|
Giô-suê.
|
|
8. Ru-tơ.
|
Các Quan xét.
|
|
9. I Sa-mu-ên.
|
Sa-mu-ên (Sa-mu-ên I và II).
|
|
10. II Sa-mu-ên.
|
Các Vua (Các Vua I và II).
|
|
11. I Các Vua.
|
2b. Tiên tri sau:
|
|
12. II Các Vua.
|
Ê-sai,
|
|
13. I Sử ký.
|
Giê-rê-mi,
|
|
14. II Sử ký.
|
Ê-xê-chi-ên,
|
|
15. E-xơ-ra.
|
Sách mười hai: Ô-sê.
|
|
16. Nê-hê-mi.
|
Giô-ên.
|
|
17. Ê-xơ-tê.
|
A-mốt.
|
|
C. Các sách văn thơ:
|
Áp-đia.
|
|
18. Gióp.
|
Giô-na.
|
|
19. Thi Thiên.
|
Mi-chê.
|
|
20. Châm Ngôn.
|
Na-hum.
|
|
21. Truyền đạo.
|
Ha-ba-cúc.
|
|
22. Nhã ca.
|
Sô-phô-ni.
|
|
D. Các sách tiên tri:
|
A-ghê.
|
|
23. Ê-sai.
|
Xa-cha-ri.
|
|
24. Giê-rê-mi.
|
Ma-la-chi.
|
|
25. Ca thương.
|
C. Các sách văn thơ:
|
|
26. Ê-xê-chi-ên.
|
Thi Thiên.
|
|
27. Ða-ni-ên.
|
Gióp.
|
|
28. Ô-sê.
|
Châm Ngôn.
|
|
29. Giô-ên.
|
Ru-tơ.
|
|
30. A-mốt.
|
Nhã ca.
|
|
31. Áp-đia.
|
Truyền đạo.
|
|
32. Giô-na.
|
Ca thương.
|
|
33. Mi-chê.
|
Ê-xơ-tê.
|
|
34. Na-hum.
|
Ða-ni-ên.
|
|
35. Ha-ba-cúc.
|
E-xơ-ra và Nê-hê-mi.
|
|
36. Sô-phô-ni.
|
Sử ký (Sử ký I và II).
|
|
37. A-ghê.
|
|
|
38. Xa-cha-ri.
|
|
|
39. Ma-la-chi.
|
|
Các sách Ẩn Kinh (Apocrypha): Kinh Thánh của Giáo hội
Công giáo La-mã và Chính thống giáo Ðông phương (Eastern Orthodox) có thêm các
quyển sách lịch sử và thơ văn Do-thái khác vào. Các quyển sách nầy được gọi là
Deuterocanon, có nghĩa là Thứ Kinh (secondary canon). Người Do-thái và Tin Lành
gọi là Apocrypha, hay Ẩn Kinh (hidden canon), còn được gọi là Ngụy Kinh.
Các sách Ẩn Kinh được viết trong thời
gian nước Do Thái bị ngoại ban đô hộ và hà hiếp từ thế kỷ thứ ba đến thế kỷ thứ
nhất T. C. (trong thời gian bốn trăm năm yên lặng). Các quyển sách nầy, được viết
bằng tiếng Hy-bá-lai và tiếng Hy-lạp, thường không có xuất xứ rỏ ràng, và được
cho vào bản dịch Bảy Mươi bằng tiếng Hy Lạp, bản dịch La-tinh thế kỷ thứ hai, bản
La-tinh Vulgate thế kỷ thứ năm, nên rất phổ thông. Nội dung của các sách nầy có
nhiều chỗ đi ngược lại sự dạy dỗ của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước vì thế Hội thánh đầu
tiên và Giáo Hội Công Giáo không công nhận. Mãi cho đến thời kỳ cải chánh
(Reformation), vào năm 1546 S. C., Hội Ðồng Giáo Hội Công Giáo La Mã, tại thành
Trent nước Ý, mới chánh thức công nhận Ẩn Kinh là Thánh (canon) để ngăn chận
phong trào cải chánh vì những người theo phong trào (Protestants) không cho Ẩn
Kinh như là lời của Thượng Ðế.
Hai mươi năm
sau khi Ðền Thánh bị phá hủy bởi quân La mã và dân Do Thái bị tản lạc khắp nơi,
vào năm 90 S. C., một số học giả Do Thái họp tại Jamnia, cách Giê-ru-sa-lem chừng
50 Km về phía tây, để thống nhất và hợp thức hóa Kinh Thánh Do Thái (họ loại bỏ
Ẩn Kinh ra) vì họ nhận thức rằng chỉ có Kinh Thánh và những sự dạy dỗ trong
Kinh Thánh mới có thể liên kết dân Do Thái với nhau dù họ ở nơi nào trên thế giới.
Ðức Chúa Jêsus không bao giờ trích dẫn
từ Ẩn Kinh trong chức vụ của Ngài tại thế, cũng như trong cả Tân Ước, với tổng
cộng hơn 300 lần trích dẫn từ Cựu Ước, chúng ta không thấy chỗ nào dùng đến những
quyển sách nầy. Tín hữu Tin lành cho rằng Ẩn Kinh có giá trị, đáng được nghiên
cứu (Giáo sĩ Cadman đã trích dẫn nhiều đoạn từ Ẩn Kinh trong quyển Thánh Kinh Từ
Ðiển của ông), tuy nhiên các sách nầy không có thẩm quyền như các sách Cựu Ước
được Ðức Thánh Linh soi dẫn.
|
Các sách Ẩn Kinh
|
|
|
1. Tobit
|
10. Bel and the Dragon
|
|
2. Judith
|
11. I Maccabees
|
|
3. Phụ bản của Ê-xơ-tê
|
12. II Maccabees
|
|
4. Tri thức của Sô-lô-môn
|
13. I Esdras
|
|
5. Ecclesiasticus (Sirach)
|
14. Lời cầu nguyện của
Ma-na-se
|
|
6. Baruch
|
15. Thi thiên 151
|
|
7. Thơ của Giê-rê-mi
|
16. III Maccabees
|
|
8. Lời cầu của A-xa-ria và ba bạn
Hê-bơ-rơ
|
17. II Esdras
|
|
9. Susana
|
18. IV Maccabees
|
B. Tân Ước: Thánh thư Tân Ước (canon of the New
Testament) là những quyển sách được Ðức Thánh Linh soi dẫn. Làm sao chúng ta biết
rằng đây là những Thánh thư hay Tân Ước thật có đúng là lời của Ðức Chúa Trời
hay không? Vì có rất nhiều thơ tín và văn chương Cơ đốc từ thời Chúa Jêsus, cho
nên rất khó mà biết sách nào là sách Thánh.
Vào thế kỷ thứ 4 S. C., Công giáo hội
nghị (Church council) gồm mười trưởng lão đã chọn các quyển sách để biệt vào
hàng Thánh thư, tức là được Ðức Thánh Linh soi dẫn để cho vào Tân Ước. Nguyên tắc
lựa chọn của họ là những tài liệu thơ tín của các Môn đồ, Sứ đồ trực tiếp học hỏi
từ Ðức Chúa Jêsus như Phi-e-rơ, Phao-lô, Giăng, Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca... là các
quyển sách Thánh, được Ðức Chúa Trời hà hơi. Tuy nhiên nhiều Hội thánh lúc đầu
hoài nghi về các sách Gia-cơ, II Giăng, III Giăng. Nhiều người cho rằng các vị
trên đã được giao phó một công tác vượt quá khả năng của loài người, nhưng trên
thực tế những vị nầy chỉ khẳng định các sách đã được giáo giới chấp nhận từ
lâu, có nghĩa là họ đã hợp thức hoá các Thánh thư Tân Ước, chứ không phải có
quyền cho quyển sách nào là thánh hay không.
|
Các quyển sách Tân Ước
|
||
|
1. Ma-thi-ơ
|
10. Ê-phê-sô
|
19. Hê-bơ-rơ
|
|
2. Mác
|
11. Phi-líp
|
20. Gia-cơ
|
|
3. Lu-ca
|
12. Cô-lô-se
|
21. I Phi-e-rơ
|
|
4. Giăng
|
13. I Tê-sa-lô-ni-ca
|
22. II Phi-e-rơ
|
|
5. Công vụ các sứ đồ
|
14. II Tê-sa-lô-ni-ca
|
23. I Giăng
|
|
6. Rô-ma
|
15. I Ti-mô-thê
|
24. II Giăng
|
|
7. I Cô-rinh-tô
|
16. II Ti-mô-thê
|
25. III Giăng
|
|
8. II Cô-rinh-tô
|
17. Tít
|
26. Giu-đe
|
|
9. Ga-la-ti
|
18. Phi-lê-môn
|
27. Khải huyền
|
Tân Ước cũng có Thứ kinh (Apocrypha)
tuy nhiên vì không có giáo hội nào nhìn nhận các quyển sách nầy nên ít người biết
đến. Chúng ta không đề cập đến Thứ kinh Tân Ước nơi đây.
II. Tác Giả:
Cơ-đốc nhân tin rằng Ðức Chúa Trời đã
dùng những người viết hay trước giả để truyền đạt lời của Ngài và chính Ngài là
tác giả của cả quyển Kinh Thánh. Tuy rằng có vài quyển sách mà chúng ta không
biết rỏ người viết là ai, cơ đốc nhân tin quyết rằng "Cả Kinh Thánh là được
Ðức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong
sự công bình" (II Ti-mô-thê 3:16) vì thế chúng ta cám ơn Chúa nhận lãnh lời
Ngài trong Kinh Thánh dù rằng sau nầy chúng ta có thể biết xuất xứ của một quyển
sách nào đó một cách tường tận hơn sự hiểu biết hiện tại.
1. Năm
sách luật pháp: Ða số các học giả cho rằng Môi-se đã viết các quyển sách
Sáng thế ký, Xuất Ê-díp-tô ký, Lê-vi ký, Dân số ký và Phục Truyền luật lệ ký,
các sách nầy được viết vào khoản năm 1400 T. C., trước khi ông mất. Ðoạn cuối của
Phục Truyền luật lệ ký nói về sự qua đời của Môi-se, có lẽ được Giô-suê, người kế vị của ông viết.
2. Các
sách lịch sử:
a. Giô-suê là người viết sách mang tên
ông, ông qua đời khoản 1375 T. C., đó cũng là thời điểm mà quyển sách nầy được
hoàn tất.
b. Người ta không biết rõ ai đã viết Các
quan xét. Có lẽ sách nầy được
hoàn tất vào đời vua Sau-lơ hay Ða-vít năm 1050-1000 T. C..
c. Trước giả của sách Ru-tơ không được biết
rỏ, tuy nhiên nhiều người cho rằng Sa-mu-ên đã viết quyển nầy. Sách được viết vào
đời vua Ða-vít hay sau nữa vì đoạn cuối của sách có đề cập đến Ða-vít.
d. Sa-mu-ên là người đã viết hai sách
mang tên của ông. Các sách nầy kể lại từ khi Sa-mu-ên ra đời cho đến khi
Áp-sa-lôn nổi loạn vào năm 975 T. C..
e. Lúc đầu người ta cho rằng tiên tri
Giê-rê-mi đã viết hai quyển sách Các Vua. Về sau người ta tin rằng có lẽ do một
tiên tri không được biết tên, đồng thời với Giê-rê-mi, viết lúc đế quốc
Ba-by-lôn xâm chiếm Giê-ru-sa-lem vào năm 587 T. C.
f. Thầy tế lễ E-xơ-ra là người viết bốn
sách Sử ký I, II, E-xơ-ra và Nê-hê-mi vào cuối thế kỷ thứ năm T. C. (Nê-hê-mi
có góp phần vào việc biên chép sách Nê-hê-mi đoạn 1-7 và 11-13). Trong các bản
Kinh Thánh cổ, 4 sách nầy là một.
g. Chúng ta không biết rõ ai là trước giả
của Ê-xơ-tê. Sách được viết vào khoản cuối đời vua A-suê-ru, 465 T. C..
3. Các
sách thơ văn:
a. Chúng ta không biết ai là trước giả
sách Gióp. Quyển sách nầy được viết vào khoản năm 2000 T. C., có người cho rằng
sách được viết vào khoản năm 950 T. C..
b. Ða-vít là trước giả sách Thi Thiên,
ngoại trừ các đoạn sau đây: Ðoạn 72 và 127 do Sa-lô-môn viết; Ðoạn 90 của
Môi-se (năm 1500 T. C.); Ðoạn 50 và đoạn 73-83 do A-sáp viết; Các đoạn 42,
44-49, 84-85, 87-88 do con cháu Cô-rê viết; Ðoạn 88 do Hê-man (cùng với con
cháu Cô-rê); Ðoạn 89 do Ê-than viết. Thi Thiên 137 là đoạn được viết vào năm
538 T. C. nói đến sự buồn thảm của những kẻ bị đày qua Ba-by-lôn.
c. Sa-lô-môn là trước giả sách Châm Ngôn,
ông viết sách nầy vào khoản năm 970-931 T. C.. Ðến năm 720 T. C., người ta thêm
vào các đoạn 25-29. Ðoạn 30 do A-gu-rơ viết và đoạn 31 do vua Lê-mu-ên soạn.
d. Sa-lô-môn là người viết sách Truyền đạo
cùng một lúc với Châm ngôn vào khoản năm 970-931 T. C.. Nhiều học giả cho rằng
cách dùng từ ngữ và câu văn cho biết sách được viết sau thời gian trên.
e. Nhã ca cũng do Sa-lô-môn viết vào năm
965 T. C..
4. Các
sách đại tiên tri:
a. Tiên tri Ê-sai, con A-mốt, viết quyển
sách mang tên ông. Sách được viết vào năm 740-700 T. C..
b. Tiên tri Giê-rê-mi là trước giả của
sách Giê-rê-mi, ông thường đọc cho thơ ký của ông là Ba-rúc chép lại. Ba-rúc
hoàn tất sách nầy sau khi Giê-rê-mi chết năm 585 T. C..
c. Ca thương không đề cập đến ai là người
biên soạn. Nhiều học giả cho là Giê-rê-mi viết sách nầy vào năm 587 hay 586 T.
C. trước khi Giê-ru-sa-lem rơi vào tay người Ba-by-lôn.
d. Tiên tri Ê-xê-chi-ên là người viết
sách mang tên ông lúc dân Do thái bị bắt làm phu tù ở Ba-by-lôn. Sách bắt đầu
lúc vua Giê-hô-gia-kin bị bắt năm 597 T. C., Giê-rê-mi làm tiên tri cho đến năm
573 T. C.
e. Tiên tri Ða-ni-ên viết sách mang tên
ông vào năm 536 T. C.. Nhiều học giả hoài nghi về điểm nầy.
5. Các
sách tiểu tiên tri:
a. Tiên tri Ô-sê, con Bê-ê-ri làm tiên
tri 40 năm từ năm 755 - 715 T. C.. Ông là người viết sách Ô-sê.
b. Tiên tri Giô-ên, con Phê-thu-ên viết
sách Giô-ên. Vì sách không có đề cập đến vị vua nào nên chúng ta không biết rỏ
sách được viết lúc nào, có thể vào năm 835-796 T. C.
c. Tiên tri A-mốt, người chăn ở Thê-cô-ra
viết sách A-mốt sau năm 760 T. C.
d. Tiên tri Áp-đia viết sách Áp-đia sau
khi thành Giê-ru-sa-lem bị sụp đổ vào năm 687 T. C.
e. Tiên tri Giô-na, con trai A-mi-tai viết
sách Giô-na vào năm 760 T. C.
f. Tiên-tri Mi-chê, người Mô-rê-sết, làm
tiên tri từ năm 750-687 T. C.. Ông viết sách Mi-chê.
g. Tiên tri Na-hum, người Ên-cốt, viết
sách Na-hum vào năm 612 T. C. sau khi thành Ni-ni-ve bị chiếm và hủy diệt.
h. Tiên tri Ha-ba-cúc nói về sự hủy diệt
thành Giê-ru-sa-lem vào năm 587 T. C., sách được viết vào năm 600 T. C.
i. A-ghê có nghĩa là vui vẽ, hoan lạc.
A-ghê nói tiên tri làm phấn khởi dân sự sau khi bị đày ở Ba-by-lôn trở về quê
vào năm 520 T. C. Ông viết sách A-ghê.
j. Xa-cha-ri, con Ba-ra-chi, viết sách
Xa-cha-ri từ năm 520-475 T. C.. Có người cho rằng đoạn 9 đến 14 được thêm vào
30-40 năm sau bởi một người khác không rỏ tên.
k. Tiên tri Ma-la-chi đã viết quyển sách
mang tên ông vào năm 450 T. C.
6. Bốn sách phúc âm:
a. Chúng ta không biết trước giả của
Ma-thi-ơ là ai. Nhiều học giả cho rằng chính Ma-thi-ơ viết sách nầy, có lẽ vào
năm 45 S. C..
b. Nhiều người cho rằng Mác là trước giả
của quyển sách mang tên ông. Sách được viết vào những năm cuối của thập niên
60.
c. Sách Lu-ca được viết cho Thê-ô-phi-lơ,
một quan La-mã, vào những năm đầu của thập niên 70 S. C., có lẽ do chính ông
Lu-ca viết.
d. Chúng ta không biết ai viết sách
Giăng. Có người cho Giăng đã viết sách nầy vào khoản cuối thế kỷ thứ nhất.
7. Công vụ các sứ đồ: Trước giả của
sách Công vụ các sứ đồ và sách Lu-ca là một (Lu-ca), được viết cho
Thê-ô-phi-lơ, một quan La-mã, vào
khoản năm 70-80 S. C.
8. Thơ
tín Phao-lô: Các sách nầy đều do Phao-lô viết.
a. Rô-ma, Cô-rinh-tô I và II được viết
vào năm 56 hay 57 S. C.
b. Chúng ta không biết Ga-la-ti được viết
lúc nào, có lẽ là vào năm 53 S. C. hay là sau đó nữa.
c. Ê-phê-sô, Phi-líp, Cô-lô-se và
Phi-lê-môn được viết khi ông bị ở tù vào cuối thập niên 50, đầu thập niên 60 S.
C..
d. Tê-sa-lô-ni-ca I và II vào năm 50 hay
51 S. C.
e. Ti-mô-thê I, II và Tít, còn gọi là các
Thơ Tín Mục Vụ, được viết vào khoản năm 65 S. C. trong cuộc hành trình thứ tư của
Phao-lô giửa hai lần bị tù ở La mã.
9. Các sách thơ tín khác:
a. Thơ Hê-bơ-rơ không cho chúng ta biết
ai là người viết. Có thể là một trong những nhân vật sau đây: Lu-ca vì cách
hành văn và ông cũng biết nhiều về sự dạy dỗ của Phao-lô; A-bô-lô là người Do
thái ở A-léc-xăn-đơ hoặc Ba-na-ba là người Lê-vi, cả hai đều rất thông thạo
Kinh Thánh; Si-la, Phi-líp, A-qui-la, Bê-rít-sin (vợ của A-qui-la). Sách được
viết trước năm 70 S. C.
b. Gia-cơ là em của Chúa Jêsus là trước
giả sách Gia-cơ. Sách được viết vào khoản năm 45-48 S. C., cũng có thể vào năm
60 S. C. vì ông dựa rất nhiều vào các thơ tín của Phao-lô trước khi ông chết
vào năm 62.
c. Si-môn Phi-e-rơ, sứ đồ của Ðức Chúa
Jêsus Christ là trước giả hai quyển sách Phi-e-rơ được viết vào năm 64 hay 65
S. C.
d. Trước giả của Giăng I, II và III là một
trưởng lão (II Giăng 1) không biết tên, ông viết "Hỡi con cái bé mọn
ta" (I Giăng 5:13)... Các sách nầy được viết vào cuối thế kỷ thứ nhất,
cùng thời với Sứ đồ Giăng.
e. Giu-đe, em của Gia-cơ (có lẽ là em của
Chúa Jêsus) đã viết sách Giu-đe vào khoản cuối thế kỷ thứ nhất.
10. Khải
huyền: Sứ đồ Giăng viết quyển sách nầy khi bị đày ở đảo Bát-mô ven bờ biển
Tiểu Á (Thổ nhỉ kỳ). Sách được viết vào những năm cuối cùng của Ðế Quốc La mã
(81-96 S. C.).
III. Ngôn Ngữ Nguyên Bản:
Ngoại trừ vài đoạn viết bằng tiếng
Aramaic, Cựu Ước được viết bằng Hy-bá-lai (Hebrew).
Hy-bá-lai là một ngôn ngữ rất phong phú thời bấy giờ với các thành ngữ, lời lẽ
đầy màu sắc rất thích hợp cho việc ghi chép lịch sử, thơ văn, luật pháp của Cựu
Ước. Tiếng Hy-bá-lai là một trong các cổ ngữ rất xưa, ngôn ngữ nầy được bảo tồn
một cách kỳ diệu và được hiện đại hóa để làm ngôn ngữ chánh của dân Do-thái
ngày nay.
Tiếng Hy-bá-lai được viết từ phải sang
trái, theo nguyên bản thời xưa chỉ gồm có 22 phụ âm mà thôi. Người đọc phải cho
vào các nguyên âm tùy theo kiến thức ngôn ngữ của mình. Vì thế những bản Kinh
Thánh Hy-bá-lai được trường tồn qua nhiều thế kỷ. Chỉ có các nguyên âm thay đổi
theo thời gian và địa phương.
Nhiều học giả Do-thái thuộc phái
Masoretes (do chữ masora, masorah có nghĩa là truyền thống, cổ truyền) đã tìm
cách bảo tồn cách đọc chính xác bằng cách thêm vào các chấm, các gạch ở trên,
dưới hay là bên trong 22 mẫu tự để chỉ cách phát âm. Các hoạt động của nhóm học
giả nầy bắt đầu vào thế kỷ thứ 2 T. C. đến thế kỷ thứ 8 S. C..
Bản Kinh Thánh cổ truyền (hay bản bằng
chữ Maroretes) đã được bảo tồn cho đến ngày nay một cách huyền bí. Vào năm
1947, tại Qumran ở bờ phía tây của biển chết, người ta đã tìm được di tích của
các cuộn Kinh Thánh cổ (The Dead Sea Scrolls), các sách nầy được viết vào khoảng
năm 200 T. C. đến năm 68 S. C.. Những cuộn Kinh Thánh nầy đã xác nhận sự chính
xác của các bản Kinh Thánh ngày nay.
Trong khi đó, Tân Ước được viết bằng tiếng Hy Lạp, gọi là
koine, đây là ngôn ngữ thông dụng của thời đại bấy giờ[2]. Ngôn ngữ koine có hai loại: Văn chương
và phổ thông. Bốn quyển sách phúc âm được viết bằng tiếng koine phổ thông đặc
biệt với ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương. Sau đó, các Giáo phụ chuyển sang
dùng tiếng koine văn chương. Mặc dù được viết bằng tiếng phổ thông, các sách
Hê-bơ-rơ, Gia-cơ, II Phi-e-rơ đã đạt đến trình độ văn học rất cao.
IV. Các Bản Dịch Kinh Thánh.
(Xin xem thêm chi tiết trong Thánh
Kinh Từ Ðiển của Giáo sĩ Cadman)
Vì Kinh Thánh không còn lại một nguyên
bản nào, chỉ tìm được các bản sao chép rất xưa mà thôi, nên các bản đó, có giá
trị như nguyên bản, đã được gìn giữ rất cẩn thận trong những viện bảo tàng. Nên
nhớ nguyên bản rất cổ của phần thứ nhất Cựu Ước đã được viết cách nay độ 3.400
năm và phần cuối cùng Tân Ước được viết xong độ 1.900 năm trước đây. Chắc Chúa
không cho để lại một tờ hoặc cuốn nào của nguyên bản, sợ gây cớ vấp phạm cho
người ta thờ lạy.
Kinh Thánh đã được dịch sang ngoại ngữ
kể từ thế kỷ thứ 5 T. C., trong đời đấng tiên tri E-xơ-ra, khi dân Do-thái trở
về nước sau thời gian bị lưu đài 70 năm tại Ba-by-lôn. Vào thời nầy có nhiều cộng
đồng người Do-thái nói tiếng Aramaic, vì vậy cần phải dịch Kinh Thánh để họ hiểu.
Lúc bấy giờ, khi nhóm họp trong đền thờ, có một người đọc Kinh Thánh bằng tiếng
Hy-bá-lai và người đứng kế bên dịch lại bằng tiếng Aramaic, giống như tình trạng
nhiều Hội thánh Việt Nam ở hải ngoại.
Bước sang giai đoạn đế quốc La Mã, văn
hóa thế giới chịu ảnh hưởng Hy Lạp. Rất nhiều cộng đồng Do Thái sống trong vùng
nói tiếng Hy Lạp, đưa đến nhu cầu dịch Kinh Thánh ra tiếng nầy.
Vào khoảng năm 200 T.C., vua Ptolemy của
Ai-cập chọn 6 học giả từ mỗi chi phái Y-sơ-ra-ên tức 72 vị (được gọi vắn tắt là
bảy mươi) đến Alexandria, Ai Cập để dịch Ngũ Kinh của Môi-se ra tiếng Hy Lạp
cho thư viện nổi tiếng gồm trên 200.000 quyển sách của ông. Bản dịch nầy được gọi
là bản dịch Bảy Mươi hay Septuagint, chỉ gồm 5 quyển sách luật pháp Mộ-se mà
thôi. Về sau các sách khác của Cựu Ước được dịch tiếp ra tiếng Hy Lạp, bởi các
học giả khác, cũng được xáp nhập vào bản Bảy Mươi.
Các tín đồ đầu tiên nói tiếng Hy Lạp,
nên bản Bảy Mươi (Septuagint) rất thông dụng. Khi Cơ-đốc giáo bành trướng ra
nhiều quốc gia khác, Kinh Thánh đã được dịch ra tiếng Syrie và một bản dịch ra
tiếng La-tinh được hoàn thành vào khoảng 100 S. C., bản thế kỷ thứ 2.
Năm 383 S. C. Giáo Hoàng Saint Damasus
I nhờ Giáo phụ Saint Jerome nhuận chánh bản dịch La-tinh. Bản dịch nầy hoàn
thành vào năm 405 S.C., được gọi là bản Vulgate, có nghĩa là thông dụng (bản thế
kỷ thứ 5).
Bản Kinh Thánh Do Thái giáo (Hebrew
Bible) hiện nay được in từ bản Masoretes năm 1088 S. C., bản nầy hiện do thư viện
thành phố Saint Petersburg giữ. Bản Masoretes cổ nhất là bản Aleppo vào đầu thế
kỷ thứ 10.
Sau đây là các bản cổ xưa còn tồn tại
đến ngày nay:
1. Bản Sinaiticus: Là bản Bảy Mươi do
Tischendorf tìm ra trong nhà dòng Thánh Catherine trên núi Si-na-i vào năm
1859. Bản nầy được chép vào thế kỷ thứ 4. có Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp và cả
Tân Ước viết rất cẩn thận trên da, hiện được
gìn giữ tại viện bảo tàng Luân đôn. Các tài liệu nầy được xuất bản thành bốn cuốn
sách vào năm 1867, đây là bản cổ nhất còn lại.
2. Bản Vaticanus: Bản nầy được chép vào
thế kỹ thứ 4, và được Giáo hoàng Nicolas V để tại thư viện thành La-mã.
3. Bản Alexandrinus: Bản nầy được chép
vào thế kỷ thứ 5, và được Cyril, trưởng lão thành Constantinople, dâng cho Anh
Hoàng Charles I, vào năm 1627 và được để tại viện bảo tàng nước Anh.
4. Bản Éphraemi, tại thư viện Paris (được
viết chồng lên bài của Thánh Éphraem).
5. Bản Bazae: Bản song ngữ được viết bằng
tiếng Hy Lạp và La-tinh đối ngang nhau, giữ trong trường đại học Cambridge nước
Anh. Théodore de Bèze, bạn của Jean Calvin, tìm ra năm 1560 trong nhà dòng
Thánh Irénée, tại Lyons.
6. Bản Claromontanus, thế kỷ thứ 6, để tại
Paris.
7. Các bản cổ khác theo thứ tự của các chữ
cái (Alphabet):
a. Các bản Arabic.
b. Bản Aramaic Targum (2 bản chánh là
Palestinian Targum và Babylonian Targum) là các bản diển ý được dịch sau khi
dân Do Thái từ Ba-by-lôn trở về.
c. Bản Armenian: Ðược in và xuất bản lần
thứ nhất tại Amsterdam năn 1666.
d. Các bản Egyptian: Bằng tiếng Memphic,
tiếng Thébaide hay các thổ ngữ khác.
đ. Bản Ethiopic: Bằng thổ ngữ cổ Axum.
e. Bản Gothic: Ðược dịch ra vào cuối thế
kỷ thứ 4.
![]()
Bản Kinh Thánh La-tinh (Biblia Latina)
in lần đầu tiên tại Venice, Ý Ðại Lợi,
năm 1475.
|
g. Bản La-tinh:
1g. Bản La-tinh cổ hoặc bản Bắc Phi thế
kỷ thứ 2, dùng tiếng La-tinh bình dân cho người địa phương.
2g. Bản
Itala hoặc bản Italian, thế kỷ thứ 4, dùng tiếng La-tinh của người La-mã, văn
chương hơn.
3g. Bản
Vulgate thế kỷ thứ 5 do Jerome hiệu đính. Ðến năm 1455, khi có máy in, quyển
sách đầu tiên được in ra là quyển Kinh Thánh La-tinh Vulgate sau khi được hiệu
đính một lần nữa và được gọi là bản Vulgate thế kỷ thứ 15.
h. Bản Samaritan.
i. Bản Slavonic: Bắt đầu từ cuối thế kỷ
thứ 9, sau nhiều thế kỷ nữa mới xong.
k. Bản Syriac (Peshitta): Ðược dịch từ những
thế kỷ đầu tiên sau Thiên Chúa.
Các bản dịch hiện đại gồm có :
ỈBản tiếng Anh đầu tiên do John Wycliffe dịch
vào thập niên 1380.
ỈBản tiếng Anh của William Tyndale, năm 1525
gồm Tân Ước và năm 1531 Cựu Ước.
ỈBản dịch Kinh Thánh ra tiếng Ðức từ bản
Vulgate của Luther. Tân Ước được xuất bản năm 1522, cả Kinh Thánh năm 1534, và
được hiệu đính năm 1544. Kinh Thánh Ðức đã giúp đỡ nhiều trong sự cải chánh Hội
Thánh và cũng dùng để dịch ra tiếng Thụy Ðiển, Hòa Lan, Ðan Mạch, Phần Lan, và
Ái Nhĩ Lan.
ỈNăm 1604, vua James I của Anh quốc lập một
hội đồng gồm 50 học giả nhuận chánh lại các bản dịch Anh ngữ đã có từ trước.
Công việc được hoàn thành vào năm 1611 và được gọi là bản King James (KJV) hay
là "Authorized Version". Với lời văn hoa mỹ, bản dịch đã trở thành một
áng văn tuyệt tác trong kho tàng văn chương của nước Anh. Dù về sau Giáo Hội
Anh Quốc cho nhuận chánh lại bản King James, công trình được hoàn tất vào năm
1895 và được gọi là bản Revised Version, nhưng đa số Hội thánh và tín đồ vẫn
còn dùng bản King James cho đến ngày nay[3].
ỈNhờ các bản sao cổ mới tìm được; Brian
Walton xuất bản một Tân Ước tiếng Hy Lạp, năm 1657.
ỈKinh Thánh toàn bộ được in bằng tiếng Pháp
vào năm 1487; tiếng Ý vào năm 1530-32; tiếng Ðức vào năm 1534; tiếng Anh vào
năm 1535; tiếng Thụy Ðiển vào năm 1541; tiếng Hòa Lan vào năm 1560; tiếng Tây
Ban Nha vào năm 1569-1602; tiếng Ái Nhĩ Lan vào năm 1584; tiếng Phần Lan vào
năm 1642; tiếng Ấn Ðộ (Carey) vào năm 1834; tiếng Trung Hoa (Morison) vào năm
1834; tiếng Việt Nam với La-tinh vào năm 1916; tiếng Việt Nam vào năm 1926; tiếng
Ai-lao vào năm 1930; tiếng Cam-bô-chia (Tân Ước) vào năm 1934.
Vào thế kỷ thứ 20, có rất nhiều bản dịch
Anh ngữ dụng ý thay thế các bản dịch xưa, văn chương đã lỗi thời. Các bản nầy gồm
có :
à The Bible: Bản dịch tiếng Mỹ, hoàn
thành năm 1931.
à Revised Standard Version của Giáo Hội
Church of Christ, năm 1957.
à Bản Kinh Thánh Jerusalem do Giáo Hội
Công Giáo năm 1966 tại Anh Quốc.
à The New English Bible hoàn tất vào năm
1970.
à The New American Bible của Giáo Hội
Công Giáo Hoa Kỳ, năm 1970.
à The New American Standard Bible năm
1971.
à The Good News Bible của Thánh Kinh Hội
Hoa Kỳ, năm 1976.
à The New International Version (NIV),
Thánh Kinh Hội Nữu Ước, năm 1976.
à The Common Bible, năm 1973, đây là bản
dịch Anh ngữ đầu tiên được cả ba Giáo Hội Tin Lành, Công Giáo, và Chính Thống
Giáo Hy Lạp (Greek Orthodox) công nhận.
à The New Revised Standard Version, của
The National Council of Churches, được
hoàn tất vào năm 1990, cũng được các nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo thừa nhận.
Theo sử liệu thì vào năm 1533, có một người Tây
phương được phép rao giảng đạo Thiên Chúa ở tỉnh Nam Sơn (Nam Ðịnh). Sau đó nhiều
Giáo sĩ Công Giáo Âu châu đã đến Việt Nam để truyền giáo. Mãi cho đến năm 1624,
có một giáo sĩ người Pháp, một học giả tài ba lỗi lạc, là Cha Ðắc Lộ hay
Alexandre de Rhodes đến Việt Nam. Ông hoạt động cả miền bắc lẫn miền nam trong
22 năm. Ông thành thạo ngôn ngữ, lịch sử, địa lý Việt Nam, và đã hoàn tất việc
chuyển đổi chữ nôm ra tiếng Việt dùng mẫu tự La-tinh. Với vài thay đổi và tu chỉnh
sau này, ngôn ngữ do ông soạn thảo đã trở thành quốc ngữ vào cuối thập niên
1910. Trong giai đoạn phôi thai của loại chữ viết mới, các Linh Mục đã bắt đầu
viết các sách từ vựng Việt Nam La-tinh... Vào năm 1872, Giáo Hội Công Giáo phát
hành những phần Kinh Thánh rời rạc đầu tiên bằng Việt Ngữ. Các bản nầy được
dành riêng cho hàng giáo phẩm sử dụng mà thôi.
Khi đạo Tin Lành đến Việt Nam vào năm
1911, một số sách Phúc Âm đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích chuẩn bị cho
công việc truyền giáo. Vào năm 1916, Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp
(C&MA) bắt đầu cho phiên dịch toàn bộ Kinh Thánh[5] sang
tiếng Việt. Công trình này kéo dài gần 10 năm và đến năm 1926, các tín hữu Tin
Lành Việt Nam đã có bộ Kinh Thánh đầu tiên bằng ngôn ngữ của mình do Thánh Kinh
Hội Liên Hiệp (United Bible Societies) xuất bản. Bản dịch này do một nhóm học
giả gồm có nhà văn Phan Khôi, ông bà Giáo Sĩ William C. Cadman, Giáo Sĩ John D.
Olsen thực hiện với sự giúp đỡ của một số thành viên khác trong đó có: cụ Trần
Văn Dõng, sinh viên trường Cao Ðẳng Ðông Dương, cụ Tú Phúc và vài học giả khác.
Tuy nhiên người phiên dịch chính là cụ Phan Khôi.
Năm 1971, nhà xuất bản Ra Khơi tại Sài
Gòn phát hành Kinh Thánh toàn bộ do Linh Mục Trần Ðức Huân thực hiện, với sự
giúp đỡ của Ủy Ban Phiên Dịch do Giám Mục Trương Cao Ðại hướng dẩn.
Năm 1976, toàn bộ Kinh Thánh do Linh Mục
Nguyễn Thế Thuấn thực hiện được hoàn tất. Phần Tân Ước trong bản dịch này được
phiên dịch từ nguyên văn Hy Lạp. Tuy nhiên, vì tình hình chính trị tại Việt Nam
không thuận lợi cho việc xuất bản Kinh Thánh, nên các Linh Mục dòng Chúa Cứu Thế
tại La Verne, California đã cho xuất bản toàn bộ bản dịch nầy vào năm 1980.
Năm 1982, Hội Living Bible
International tại Hong Kong phát hành Thánh Kinh Tân Ước do Mục Sư Tiến Sĩ Lê
Hoàng Phu thực hiện. Bản dịch mới này thường được đọc giả biết đến dưới tên
Thánh Kinh Tân Ước Diễn Ý.
Cũng vào đầu thập niên 1980, Giáo Hội
Công Giáo phát hành bản dịch Kinh Thánh Tân Ước do Hồng Y Trịnh Văn Căn thực hiện,
tại Hà Nội. Bản dịch này được Cộng Ðồng Công Giáo Việt Nam tái bản lần thứ nhất
vào năm 1985 tại Orange County, California.
Vào năm 1987, Vietnamese Bible Inc. được
thành lập tại Midland, Texas, với mục đích thực hiện một bản dịch Kinh Thánh Việt
Ngữ mới. Quyển Tân Ước đã được phát hành vào năm 1996. Toàn bộ Kinh Thánh dự
trù sẽ được hoàn tất vào năm 2000.
Năm 1994, Tòa Tổng Giám Mục tại Thành
Phố Hồ Chí Minh đã xuất bản 30.000 Thánh Kinh Tân Ước do Linh Mục Hoàng Ðắc Ánh và
Linh Mục Trần Phúc Nhân phiên dịch do Thánh Kinh Hội Quốc Tế (International
Bible Societies) bảo trợ và xuất bản.
Năm 1995, toàn bộ Kinh Thánh Việt Nam
đã được tái bản tại Ðà Nẵng, với vài hiệu đính nhỏ từ bản Kinh Thánh năm 1926.
Việc tái bản này do Hội Thánh Tin Lành Việt Nam thực hiện với sự hổ trợ của Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (UBS). Ðây là bản Kinh Thánh đầu tiên của
Giáo Hội Tin Lành Việt Nam in và phát hành tại quê nhà sau năm 1975, đến nay tổng
số phát hành được trên 100.000 quyển.
Ngoài dự án phiên dịch Kinh Thánh sang
Việt Ngữ của Vietnamese Bible Inc., nhiều Mục Sư cũng đang dịch các phần Kinh
Thánh rời rạt với các sắc thái khác nhau, thích hợp cho các thành phần đọc giả
Việt Nam ngày nay. Hiện nay, Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (UBS) cũng đang bảo trợ một
ban dịch thuật tại Việt Nam trong dự án hiệu đính bản Kinh Thánh năm 1926 để thỏa
mãn nhu cầu ngôn ngữ ở quê nhà vì tiếng Việt Nam đã thay đổi nhiều trong một phần
tư thế kỷ vừa qua.
VI. Kết Luận:
Kinh Thánh là một bộ sách gồm 66 quyển
được viết bởi nhiều người từ vua, quan, các nhà lãnh đạo dân Do Thái, đến y sĩ
(thầy thuốc), người thâu thuế, người chài lưới, người chăn chiên... trong thời
gian hơn 1500 năm. Tuy vậy lời lẽ trong Kinh Thánh từ đầu tới cuối đều oai
nghiêm giống nhau như của một tác giả độc nhất. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều
dữ kiện xác nhận sự trung thực của Kinh Thánh.
Kinh Thánh là quyển sách đầu tiên được
in ra khi loài người mới phát minh máy in vào năm 1455. Kinh Thánh cũng là một
quyển sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất, số ấn hành từ trước đến nay nhiều
vô số không thể kiểm kê chính xác được.
Nhờ Kinh Thánh mà nhiều sắc tộc trên
thế giới có được một ngôn ngữ viết và tiếng nói, văn hóa họ được phong phú thêm
hơn. Quyển Kinh Thánh còn có khả năng thay đổi đời sống vô số người từ tuyệt vọng,
đau khổ đến hy vọng, hạnh phúc.
Tuy nhiên mục tiêu tối hậu của Kinh
Thánh là giới thiệu cho chúng ta Chúa Cứu Thế Jêsus trong chương trình của Thượng
Ðế cho loài người, nối liền mối tương giao giữa chúng ta với Ðấng Tạo Hóa.
Hương Mai
Mùa Phục Sinh, 1999
==============================
|
Ðính
Bản
|
|
-12-
Nov. 24-27 The Executive Committee met at
Tourane.
Significant items:
1. The Roman Catholic Bible to be
revised in pre-
paration for publication as soon as
possible.
The Bible Society to be consulted.
2. Two versions of the Bible to be
prepared, one
for Tonkin, the other for Annam and
Cochin-China.
3. The present missionary
translation of the
Gospels,
Acts, Romans and Genesis was called
the "com-
promise version." The Cadmans in the north and
J. Olsen and I. Stebbins in the south were to
revise this version suitable to
their respective
areas and as part of No. I and No. 2
above.
4. Mr. Jeffrey requested to consider
Bible School ministry.
Committee requested the Board for
$5000. to build
a second residence in Tourane and
additional
funds to buy property and build a
residence and
chapel in Saigon.
5. A recommendation that the Mission in
Indo-China
affiliate with the Mission Evangelique de Paris
in order to have better rapport with
the French
Government. Mr. lrwin recommended this as a
result of his visit in France.
December. Mr. Jaffray consulted with Mr.
Anderson of the B.F.B.S.
in Hong Kong. Advice: await the arrival of French
missionaries before continuing
further revision and
translation .
Street chapels rented in Saigon and
Hanoi.
Mr. Doan van Khanh assigned to
Saigon as evangelist.
A cylinder press purchased by Mr.
Cadman in America.
Statistics for 1920
Station Members Offerings Baptisms
Hanoi 10 $40.20
Tourane 115 253.50 25 (15 men/10 women)
Saigon 6 12. 7
______ _________ ______
Totals 131 305.70 32
|
Ỉ (Bản sao Biên bản buổi họp của Ban Chấp Hành
Truyền Giáo tại Tourane (Ðà Nẵng)
vào ngày 24-27 tháng 11, có lẽ vào năm 1921)
Ỉ Chú thích: B.F.B.S.: British &
Foreign Bible Society hay Thánh Kinh Hội Anh Quốc.
[1] Theo tiếng Hy-lạp, Tà Biblia và Biblia
là danh từ số nhiều chỉ các quyển sách, Biblio và Biblion là danh từ số ít. Chữ
Biblia ở đây là tiếng La-tinh, số ít và giống cái, được các nước Tây Âu dùng.
[2] A-lịch-sơn đại
đế hay A-lịch-sơn III là vua Hy Lạp, lên ngôi lúc 20 tuổi, là môn đệ của nhà hiền
triết Aristole. Từ năm 334, khi
ông 22 tuổi, đến khi ông qua đời năm 323 T. C., ông đã chinh phục tất cả các xứ trong
vùng, và mang văn hóa Hy Lạp đến các nơi nầy. Ảnh hưởng văn hoá nầy tồn tại qua
nhiều thế kỷ sau Chúa.
[3] Khi sửa soạn bản "Authorized
Version" tiếng Anh (KJV), người ta chưa tìm được ba bản cổ nhất: bản
Sinaiticus, bản Vaticanus và bản Alexandrinus; song khi sửa soạn "Revised
Version" thì có dùng các bản nầy.
[4] Ðoạn nầy được trích ra từ bài
"Quá Trình Phiên Dịch Kinh Thánh Sang Tiếng Việt" do Phước Nguyên viết
và được đăng trên báo Linh Lực của Giáo Hội Tin Lành Giám Lý vào tháng 1/1996.
Xin xem thêm nguyên bản.
[5] Xem đính bản
Biên bản buổi họp của Ban Chấp Hành Truyền Giáo tại Tourane (Ðà Nẵng) vào ngày
24-27 tháng 11, có lẽ vào năm 1920 hay 1921 ở cuối bài nầy (trang 16).



