Đề tài: Phục Hưng Một Dân Tộc Bị Tàn Lụi
Kinh Thánh: Ê-xê-chi-ên 37: 1-10
Trong danh Chúa Cứu Thế Giê xu, tôi trân trọng kính chào quý vị!
Hôm nay, thật là một ngày phước hạnh và tràn đầy niềm vui cho Hội thánh và đời sống mỗi chúng ta khi cùng nhau vui thỏa trong sự hiện diện của Chúa.
Trong niềm vui mừng đó, tôi xin gởi đến quý vị lời chào mừng hân hoan và thật nồng nhiệt.
Tôi gởi lời cảm ơn tới quý Mục sư , quý ban điều hành Hội Thánh cũng như toàn thể quý Hội Thánh đã yêu thương cho tôi cơ hội được học chung với nhau Lời của Chúa trong buổi sáng hôm nay.
Trước khi cùng học với nhau Lời của Chúa, tôi có vài hình ảnh muốn cho quý Hội Thánh cùng xem.
Minh họa: Khi xem xong nói vài lời về sự phát triển của Hội Thánh và chuyển ra cơ sở rộng hơn.
Khi chúng ta ý thức bản thân mình chỉ là bình sành, bình đất dễ vỡ, và đầy giới hạn. Nhưng bình sành, bình đất đó biết ở trong tay Chúa chúng ta trở thành những tác phẩm có giá trị vượt thời gian.
Mẹ Tê-rê-sa của người Công giáo đã cầu nguyện: “ Lạy Chúa! Con chỉ là cây bút chì, nhưng cây bút chì đó ở trong tay Chúa.
Một người vĩ đại nhưng luôn ý thức thân phận của mình thật bé nhỏ, tầm thường.
Bây giờ, chúng ta cần trở lại với Lời của Chúa không hết thời gian.
Mời Hội Thánh mở Lời Chúa trong sách Ê-xê-chi-ên 37: 1-10.
Hôm nay, mời Hội Thánh cùng học chung với tôi qua đề tài: Phục Hưng Một Dân Tộc Bị Tàn Lụi.
Nhập đề:
Thưa quý vị!
Ba nhà đại tiên tri lớn như: Giê-rê-mi, Đa-ni-ên và Ê-xê-chi-ên. Ba nhà đại tiên tri này họ đã sống như những chòm sao sáng trên bầu trời đen tối nhất. Giữa những xã hội, chính trị, và văn hóa thời bấy giờ đầy xáo trộn và bất ổn. Nhưng cuộc đời và sứ mạng của họ luôn chứa đầy hương thơm, và sức mạnh trên từng trang giấy của Thánh Kinh.
Và Ê-xê-chi-ên là một nhà tiên tri có đời sống nội tâm rất sâu sắc, Ê-xê-chiên là sứ giả phục hưng, ông được Chúa sai đến để uốn nắn tấm lòng của Y-sơ-ra-ên, để từ chỗ mất lòng trông cậy, không còn niềm tin đem họ trở về với một Đức Chúa Trời nhân từ, một Đức Chúa Trời đầy quyền năng.
Qua bối cảnh của bản văn Thánh Kinh chúng ta vừa đọc, chúng ta thấy!
Đức Chúa Trời đã đưa nhà đại tiên tri Êxêchiên vào một thung lũng đầy xương khô của người chết, và Chúa cho ông nhìn thấy những bộ xương khô nằm rải rác khắp trên mặt đất trong thung lũng.
Chúng ta chú ý đến động từ “ hài cốt khô” nó diễn tả một tình trạng chết chóc, khô héo, và đầy đen tối. Động từ “ hài cốt khô” nó diễn tả một tình trạng tuyệt vọng và bất lực của dân tộc Y-sơ-ra-ên.
Trong câu 12 Đức Chúa Trời phán cùng Ê-xê-chi-ên rằng: Hỡi con người, những hài cốt nầy, ấy là cả nhà Y-sơ-ra-ên. Nầy, chúng nó nói rằng: Xương chúng ta đã khô, lòng trông cậy chúng ta đã mất, chúng ta đã tuyệt diệt cả! 12
Cả nhà Y-sơ-ra-ên là nói đến cả một dân tộc, cả một quốc gia đang ở trong sự chết, khô héo, đó không phải là một cá nhân, một nhóm người mà cả đất nước đang trong tình trạng tuyệt vọng, chết chóc.
Vào năm 587 TC thì dân Do Thái bị lưu đày, và làm nô lệ cho người Ba-by-lôn - bao nhiêu năm….
Nhà đại tiên tri Ê-xê-chi-ên đã phục vụ Chúa trong một thời kỳ là bị lưu đày trong nhiều năm như vậy. Suốt triều dài thời gian, và trải qua những biến cố đau thương, tang tóc, hằng ngày phải chứng kiến những cảnh dân tộc của mình bị hà hiếp, bị chà đạp, và đặc biệt phải chứng kiến dân của mình sống trong cảnh tuyệt vọng, chắc chắn tấm lòng đau đớn như đứt từng khúc ruột.
Nếu chúng ta đặt mình vào bối cảnh, và thời kỳ tiên tri Ê-xê-chi-ên lúc bấy giờ thì chắc chắn chúng ta dễ mà chán nản, bỏ cuộc , thối lui phải không?
Vì không ai muốn phục vụ một dân tộc mà tất cả đều đã bại xuội, ngã lòng, không còn đức tin nơi Chúa nữa, cũng không ai muốn phục vụ Chúa trong một Hội Thánh mà chỉ toàn bàn đến chuyện lùi bước, và sợ hãi, bỏ cuộc phải không?
Trong câu số 12 Nầy, chúng nó nói rằng: Xương chúng ta đã khô, lòng trông cậy chúng ta đã mất, chúng ta đã tuyệt diệt cả!
Tuy dân sự của Chúa đang trong tình trạng nản lòng, héo tàn như những khúc xương khô.
Thì ngược lại, Ê-xê-chi-ên nhận thấy rõ trọng trách và sứ mạng của mình khi được Chúa giao phó đó là đem sự hy vọng vào nơi thất vọng, đem ánh sáng vào trong đêm tối, đem phục hưng vào trong chỗ chết.
Tên của ông nó diễn tả phần nào đời sống và sứ mạng của ông, Ê-xê-chi-ên có nghĩa là: Đức Giê Hô va là sức lực của tôi.
Có thể lắm ngày nào cũng vậy Ê-xê-chi-ên học để bước đi trong sự nương cậy và hằng ngày có thể lắm ông đã tuyên bố rằng: Chính Đức Giê Hô va là sức lực của tôi.
Và buổi sáng hôm, chúng ta hãy cùng nhau nói rằng: Đức Chúa Trời là sức lực của tôi.
Thưa quý vị!
Chúng ta không thể hầu việc Chúa bền bỉ, và dài lâu nếu không học bài học của Ê-xê-chi-ên. Rất khó có thể phục vụ Chúa có kết quả dài lâu nếu không có năng lực của Chúa ban cho.
Làm sao chúng ta có thể sống và phục vụ Chúa một cách mạnh mẽ giữa một dân tộc đang bại xuội và ngã lòng?
Làm sao chúng ta có thể trở nên những sứ giả phục hưng, đem lại sự phấn hưng cho Hội Thánh, cho cộng đồng của mình.
Câu trả lời nằm ở chỗ đó:: chính Đức Giê Hô va là sức lực của chúng ta.
Sứ đồ Phao lô đã kêu gọi và nhắn nhủ toàn thể các con cái của Chúa đang sống tại thành phố Ê-phê-sô rằng: “ Vả lại, anh em phải làm mạnh dạn trong Chúa, nhờ sức toàn năng của Ngài.” ( Eph 6:10 )
Phải làm mạnh dạn trong Chúa, không phải là nhờ sức riêng của mình, vì sức của con người vốn chẳng thấm vào đâu, nhưng quyền phép của Đức Chúa Trời là vô địch. Cũng không phải là nhờ khôn ngoan riêng và cũng không phải là nhờ sự khéo léo của mình. Phải làm mạnh dạn trong Chúa nhờ sức toàn năng của Chúa.
Trong chuyến truyền giáo thứ nhì của mình, sứ đồ Phao lô đã viết thư gửi các tín hữu sống tại thành phố Phi-líp trong thư ông đã quả quyết cách mạnh mẽ rằng: “ Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi.” (Phi 4:13 )
Thánh đồ Gia cơ bảo rằng: Ê-li vốn là người yếu đuối như chúng ta, nhưng khi nhìn vào con người và chức vụ của ông. Chúng ta thấy ông quả thật đã phục vụ Chúa giống như những cơn gió lốc thổi qua các triều đại có tôn giáo mà không có Đức Chúa Trời. Ông đã đem lại cơn phấn hưng lẫy lừng trên núi Cạt mên, ông đã đem những tấm lòng đang bại buội, bỏ cuộc, ngã lòng trở về với Đức Chúa Trời. Qua nhà tiên tri này Đức Chúa Trời đã đem lại cơn phục hưng cho toàn thể dân tộc Do Thái.
Đây cũng chính là điều chúng ta được Chúa đang gọi mời, hiệu triệu để mỗi chúng ta hãy tiếp nhận sự sống và sức mạnh của Ngài để đem sự sống ấy vào trong thế giới hư vong này.
Chúng ta cần phải sống mạnh mẽ cho Ngài.
Đó là điều chúng ta tìm hiểu đôi nét về người sứ giả Phục hưng Ê-xê-chi-ên.
Bây giờ, chúng ta đi đến điểm nhấn thứ hai của sự phục hưng đó là:
II. Điều kiện để sống phấn hưng.
Khi chúng ta đọc suốt 48 chương của sách Ê-xê-chi-ên, và đem so sánh với Ê-xê-chiên chương 37 thì chúng ta sẽ thấy được toàn bộ bức tranh, nội dung và bối cảnh lúc bấy giờ là dường như Do thái bị xóa tên trên bản đồ.
Nếu chúng ta đi xuyên suốt 36 chương đầu của sách Ê-xê-chiên, chúng ta rất dễ nhận ra dân tộc Y-sơ-ra-ên có bốn biểu tượng, bốn niềm tự hào và đây chính là bốn điểm tựa mà họ cho là vững chắc, bất bại. 36 chương đầu của sách cả bốn điểm tựa của họ đều bị kẻ thù đánh bại và cướp đi – nhưng mãi đến chương số 37 này, niềm hy vọng mới được khêu lên, sự sống đã xuất hiện ngay trong cái chết.
Bốn điểm tựa đó là:
Đất, Vua, Đền Thờ, Và Luật Pháp.
Nhưng bây giờ! Toàn thể vùng đất màu mỡ, chảy sữa và mật bị cướp mất. Mất đất là mất quê hương, mất quyền tự chủ, phải bị làm nô lệ. Quê hương không phải là chùm khế ngọt, cho con trèo hái mỗi ngày nữa. Tại đất nước ngoại quốc họ mơ về những chùm nho đỏ mọng, họ mơ được thả hồn vào những mé nước trong, được ngã lưng vào đồng cỏ xanh. Nhưng niềm khát vọng của họ cũng chỉ dừng ở chỗ ước mơ mà thôi.
Đền thờ Giê-ru-sa-lem vinh quang hiện diện giữa lòng thành phố mà người ta tự hào, người ta ca ngợi như là sự sức mạnh, thành tụ, sự hãnh diện thế mà bây giờ cũng bị tàn phá. Vào thời bấy giờ, đền thờ đóng vai trò rất quan trọng, nếu mất đền thờ đồng nghĩa rằng: Họ đã đánh mất Đức Chúa Trời, và họ bị Đức Chúa Trời trừng phạt.
Rồi vị vua được Đức Chúa Trời lập nên để hướng dẫn, lãnh đạo dân sự nhưng bây giờ, vua Sê-đê-kia cũng bị đâm thủng mắt và bị xiềng xích đi lưu đày.
Và cuối cùng là Luật pháp như ngọn đèn dẫn dắt và ban cho họ sự tự do cũng bi tiêu tan, đốt cháy.
Cả bốn cái điểm tựa và niềm hy vọng này trở thành ZeZo con số không, đất nước chẳng còn gì hy vọng nữa, bây giờ, chúng ta thử nghĩ xem những điều này xảy ra liệu họ có còn tin vào một Đức Chúa Trời thành tín, liệu họ có còn tin vào một Đức Chúa Trời chí ái không? Một Đức Chúa Trời yêu thương không?
Liên hệ đến đời sống đức tin của chúng ta, nếu chúng ta đặt mình vào hoàn cảnh như dân Y-sơ-ra-ên lúc bấy giờ rồi đặt một câu hỏi rằng:
Nếu một ngày nào đó, những điểm tựa của cuộc đời chúng ta bị sụp đổ, công ăn việc làm mất, tình yêu tan vỡ, gia đình đổ bể, bệnh tật sâm lấn, chúng ta sẽ thế nào? Lúc đó chúng ta sẽ nghĩ gì về Ngài.
Liệu chúng ta có còn trông cậy Ngài nữa không? Trong hoàn cảnh tuyệt vọng sâu xa, chỉ thấy tang thương và cái chết thôi, liệu chúng ta có còn tiếp tục tin vào một Đức Chúa Trời thành tín và một Đức Chúa Trời chí ái hay không?
Có thể lắm chúng ta rất giống như hình ảnh của Y-sơ-ra-ên lúc này: Nầy, chúng nó nói rằng: Xương chúng ta đã khô, lòng trông cậy chúng ta đã mất, chúng ta đã tuyệt diệt cả!
Đọc câu Kinh Thánh này, chúng ta thấy sự bất lực của Y-sơ-ra-ên, bất lực từ tấm lòng cho đến lời nói, từ bên trong cho đến bên ngoài đều là chản nản, bại xuội, ngã lòng. Lúc này, chúng ta có cảm tưởng dường như Chúa bỏ dân Ngài, hoặc Ngài đứng rất xa cuộc đời chúng ta.
Khi Cứu Chúa Giê xu yêu dấu của chúng ta bị treo trên thập tự, trong lúc đau đớn tột cùng, trong lúc sắp sửa đối diện với cái chết, từ trên cao Cứu Chúa đã kêu lên một tiếng kêu thổn thức rất lớn: Đức Chúa Trời tôi ôi, Đức Chúa Trời tôi ôi, sao Ngài lìa bỏ con.
Và có thể lúc này kẻ thù cười đắc chí lắm, nó nói rằng Đức Chúa Cha đã bỏ ngươi rồi, nếu không bỏ ngươi thì hãy cứu ngươi đi.
Nhưng chúng ta chú ý: Chúa Giê xu đã không dừng lại ở chỗ đó, mà Ngài đã kêu lớn tiếng rằng: “ Con phó thác linh hồn trong tay Cha”
Ngay trọng sự đau đớn tột cùng, ngay trong sự chết, ngay trong chỗ cô đơn ấy Cứu Chúa Giê xu Ngài vẫn phó thác, tín thác, tin cậy hoàn toàn nơi Đức Chúa Cha.
Chúng ta cũng hãy sống phó thác, trông cậy và kêu lên trong tin cậy Đức Chúa Trời như người thầy nghèo khó Na-xa-rét năm xưa.
Minh họa: Ông Gióp cũng mất đi tất cả bốn điểm tựa ấy: Nhà cửa, con cái, bò lừa, tôi tớ.
Nhưng ông Gióp có thể mất tất cả nhưng không bao giờ đánh mất Đức Chúa Trời được. vì mất Đức Chúa Trời là mất tất cả, còn Đức Chúa Trời là còn tất cả.
Cho đến nỗi: Thân thể ghẻ nở, ung nhọt, lấy tay gãi, móng tay gãy đến nỗi cùn đi và lấy mảnh sành gãi, nhưng trong chỗ khốn cùng, đau đớn, tang thương ấy.
Gióp đã thốt lên rằng: “ Dẫu Chúa giết ta, ta cũng còn nhờ cậy nơi Ngài;”
( Giop 13:15 )
Bài học của chúng ta là đây: Điểm tựa của cuộc đời chúng ta là gì? Chúng ta đang đặt điểm tựa vào con người, vào đất đai, nhà cửa, vào sự khôn ngoan, riêng hay vào chính mình Đức Chúa Trời.
Điều kiện để sống một đời sống phấn hưng là đặt cuộc đời tín thác vào một mình Đức Chúa Trời. Vì nếu chúng ta đặt điểm tựa vào những gì chúng ta có, chúng ta sở hữu rồi cũng sẽ qua đi mà thôi, nhưng nếu chúng ta đặt vào trong Chúa thì Ngài là vầng đá vững chắc muôn thời đại. Đặt cuộc đời ngoài Chúa là sẽ hư mất, đặt cuộc đời trong Chúa thì còn lại đời đời.
Chúng ta đã tin vào ai? Chúng ta đang tin điều gì? Chúng ta có đang dựa vào ai những thế lực để tin hay chúng ta tin vào sự thành tín và quyền năng của Đức Chúa Trời.
III. Đức Chúa Trời quyền năng chắc chắn sẽ phục hưng.
Trong câu số 3 Đức Chúa Trời phán cùng Ê-xê-chi-ên rằng: “ Hỡi con người, những hài cốt nầy có thể sống chăng? Ta thưa rằng: Lạy Chúa Giê-hô-va, chính Chúa biết điều đó!”
Khi Chúa hỏi Ê-xê-chi-ên không có câu trả lời, là được, hay không được, mà ông trả lời rằng: Chỉ có Chúa biết được điều đó.
Con người không thể nào làm cho những hài cốt khô héo có thể sống lại được, vì đó là chuyện ngoài sức tưởng tưởng, đối với con người thì hoàn toàn bất lực, tuyệt vọng – nhưng đối với Đức Chúa Trời thì chẳng có gì là không thể.
Có những nan đề quá khó, quá lớn mà con người không có câu trả lời, không có giải pháp nào cả thì Đức Chúa Trời luôn luôn có câu giải đáp cho bất cứ mọi nan đề trong đời sống của chúng ta.
Vì Đức Chúa Trời của chúng ta đang thờ phượng là Đức Chúa Trời quyền năng.
Nhà tiên tri Giê –rê-mi đã thốt lên rằng:
“ Ôi! Hỡi Chúa Giê-hô-va! Chính Ngài đã dùng quyền phép lớn và cánh tay giơ ra mà làm nên trời và đất; chẳng có sự gì là khó quá cho Ngài cả.” ( Gie 32:17 )
“ Nầy, ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của mọi xác thịt; có sự gì khó quá cho ta chăng?” ( Gie 32:27 )
Minh họa: Ma-ri khi nghe lời của vị thiên sứ báo tin: Mình sẽ sinh một con trai, và đặt tên là Giê xu. Và Ma-ri nói với thiên sứ rằng: “ Tôi chẳng hề nhận biết người nam nào, thì làm sao có được sự đó? ” ( Luca 1:37)
Câu trả lời của Đức Chúa Trời là: “ Bởi vì không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được.”
Khi thiên sứ Gáp-ri-ên báo tin cho hai vợ chồng nhà Xa-cha-ri và Ê-li-ra-bét rằng: Đức Chúa Trời đã nhận lời cầu nguyện của ông bà: Và Ngài sẽ cho ông bà sinh ra một người con là Giăng Báp tít. Xa-cha-ri bèn thưa cùng Chúa rằng: Làm sao tôi có thể sinh được vì tôi đã già và vợ tôi đã cao tuổi.
Câu trả lời của Đức Chúa Trời là: “ Bởi vì không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được.”
Kinh thánh cho chúng ta biết rằng lúc đó Ông Áp ra ham đã 99 tuổi, và vợ của Ông là Bà Sa ra bao nhiêu tuổi? - 89 tuổi.
Đức Chúa Trời báo tin cho hai vợ chồng ông rằng: độ nầy sang năm, vợ ngươi sẽ sanh một con trai, Sa-ra ở nơi cửa trại sau lưng đấng đó, nghe các lời nầy.
Sa-ra cười thầm mà rằng: Già như tôi thế nầy, dễ còn được điều vui đó sao? Đức Giê-hô-va phán hỏi Áp-ra-ham rằng: Cớ sao Sa-ra cười như vậy mà rằng: Có quả thật rằng tôi già đến thế nầy lại còn sanh sản chăng?
Câu trả lời của Đức Chúa Trời: “ Há có điều chi Đức Giê-hô-va làm không được chăng?” ( Sáng-thế-ký 18: 9-15)
Đối với con người thì không thể nào, đối với con
Nhiều nhà giải kinh đã phân chia sách Ê-xê-chi-ên thành ba phần: phần đầu là báo họa, còn phần thứ hai là Đức Chúa Trời hỏi tội, hạch kết tội dân sự.
Chỉ mãi đến chương thứ 37 trở về cuối chúng ta mới thấy được bóng dáng của sự hy vọng, của sự sống, của sự hồi sinh.
Trong phần thứ ba của sách này báo hiệu một tin mừng hồi sinh cho một dân tộc đang bị ngã lòng, và tin mừng ở đây là: Đức Chúa Trời không muốn dân sự của Ngài phải chết, và sống trong tuyệt vọng nữa, Đức Chúa Trời Đấng chúng ta đang thờ phượng, trông cậy là Đức Chúa Trời thành tín và yêu thương.
Vậy, hãy nói tiên tri, và bảo chúng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi dân ta, nầy, ta sẽ mở mồ mả các ngươi, làm cho các ngươi lại lên khỏi mồ mả, và ta sẽ đem các ngươi về trong đất của Y-sơ-ra-ên.” ( 37:11-12)
Chúng ta chú ý đến những động từ liên tiếp là: “ mồ mả” hai lần động từ mồ mả để nhấn mạnh và diễn tả cái chết chóc sẽ không còn nữa, sự khô héo và tình trạng tuyệt vọng sẽ được làm cho sống. Ngài sẽ mở mồ mả ra.
Đức Chúa Trời không chỉ hồi sinh, phục sinh và làm sống lại tình trạng chết chóc, tuyệt vọng nhưng Ngài còn ban cho họ đất nữa.
Ngài phán: “ và ta sẽ đem các ngươi về trong đất của Y-sơ-ra-ên” họ không phải đi lang thang, cầu bơ cầu bất nữa mà họ chắc chắn sẽ có đất.
Quá khứ họ đã hưởng thụ một miền đất đượm sữa và mật thế nào thì bây giờ Ngài sẽ ban cho họ trở lại vùng đất ấy đây chính là niềm hy vọng tuyệt vời.
Đọc hết chương 37 này chúng ta thấy Đức Chúa Trời thành tín với dân tộc của Ngài.
Đất được ban cho trở lại ( câu )
Vị vua lý tưởng được Chúa ban ( câu )
Đền thờ sẽ hiện diện ở giữa họ, biểu tượng cho sức mạnh, và vinh quang ( câu )
Luật pháp được ban lại cho họ ( câu )
Mục đích của những điều này dạy cho chúng ta bài học: ĐỨc Chúa Trời không phải là Đức Chúa Trời của sự trừng phạt, Ngài không phải là Đức Chúa Trời của sự chết mà Ngài là Đức Chúa Trời của sự sống, Ngài là Đức Chúa Trời luôn trung thành ban sự sống cho dòng dõi của Áp-ra-ham.
Chúa Giê xu phán: Ta đến để ban cho chiên được sống và được sống dư dật.
= =
Chúng ta không có thời gian để học về những bí quyết để sống trong sự phục hưng trong đoạn này nữa rồi.
Còn Ê-xê-chi-ên là tiên tri có sứ mạng phục hưng.
Vào năm 587 TC. Dân Y sơ ra ên đã bị bắt làm phu tù, và hết thảy đang trong tình trạng ngã lòng, bại xuội và
Trong Ê-xê-chi-ên 37: chúng ta thấy Ê-xê-chiên mô tả tình trạng vô cùng thất vọng của dân sự. Dân sự đã mất lòng trông cậy nơi Đức Chúa Trời.
Nhiều Cơ Đốc nhân theo Chúa bao nhiêu năm mà vẫn sống vật vờ, nửa sống nửa chín, nửa Đức Chúa Trời, nửa người, nửa đạo nửa đời.
Đáng lý, đời sống của họ đã trở lên như những cơn gió mát thổi trong mùa hè oi bức, đáng lẽ họ giống như hơi ấm mang lại sự bao bọc cho người xung quanh, đáng lẽ họ trở nên như những vì sao sáng chiếu sáng trong đêm trường lạnh lẽo.
Nhưng họ sống bại xuội, thất bại và chẳng có sức lực nào của Chúa hết.
Trở lại với khúc Thánh Kinh này,
I/. Lời Đức Chúa Trời làm sống lại một dân tộc đã bị tàn lụi
Rồi Ngài dắt ông đi xung quanh những hài cốt đó và Ngài phán: “Hỡi con người, những hài cốt nầy có thể sống chăng? Ta thưa rằng: Lạy Chúa Giê-hô-va, chính Chúa biết điều đó!” (Êxêchiên 37: 3)
Trước hết, Đức Chúa Trời cho nhà tiên tri Êxêchiên thấy được tình trạng của những xương khô đã nằm trong thung lũng đó và tình trạng của nó đã bị khô đét. Nó giống như những khúc củi khô cong nằm ngoài trời chẳng ai đụng đến và trở nên vô giá trị.
Vậy, hãy nói tiên tri, và bảo chúng nó rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi dân ta, nầy, ta sẽ mở mồ mả các ngươi, làm cho các ngươi lại lên khỏi mồ mả, và ta sẽ đem các ngươi về trong đất của Y-sơ-ra-ên.” ( 37:11-12)
Một dân tộc giống như những hài cốt khô, một dân tộc trở nên vô giá trị, không còn sự sống nữa.
Một dân tộc có tiếng là sống nhưng thực ra là đã chết, đức tin của họ đã chết, lòng trông cậy cũng đã mất.
Đây chính là hình ảnh và tình trang của Hội Thánh Sạt-đe:
Đức Chúa Trời đã phán cho Hội Thánh Sạt-đe rằng: “ Nầy là lời phán của Đấng có bảy vị thần Đức Chúa Trời và bảy ngôi sao: Ta biết công việc ngươi; ngươi có tiếng là sống, nhưng mà là chết.” ( Khải Huyền 3:1).
Một Hội Thánh có tiếng là đang sống mà thực ra đã chết.
Hội Thánh Sạt-đe được tọa lạc trên một thành phố giàu có và đông đúc người ở, Hội Thánh Sạt đe có vẻ đẹp bề ngoài, nhưng lại băng hoại ở bên trong. Tình trạng thuộc linh của Hội Thánh Sạt đe đã và đang dãy chết, họ có rất nhiều công việc, nhưng những công việc ấy chẳng khác gì là những công việc tôn giáo mà thôi.
Họ có sự tích cực mộ đạo ở bề ngoài qua những công việc nhưng đời sống bên trong thì tràn ngập tội lỗi, việc làm xấu xa, sống trong sự ô uế.
Đức Thánh Linh đã không có bất cứ một lời khen nào dành cho Hội Thánh này cả.
Sự dãy chết thuộc linh đang xâm chiếm các Hội Thánh khắp nơi, giống như những hài cốt khô trong sách Ê-xê-chi-ên kia. Tình trạng thuộc linh của Hội Thánh đang thực sự đã chết. Hội Thánh không còn là nơi để qua đó Đức Chúa Trời dùng đem sự sống của Ngài cho thế gian nữa.
Hội Thánh là nơi tập hợp, ngồi lại để buôn bán, trao đổi, và giữ lễ. Hội Thánh là nơi họ chia bè, chia cánh, nói xấu, mượn đạo tạo đời, họ đã biến Hội Thánh của Đức Chúa Trời thành câu lạc bộ, thành những đống xương khô.
Hội Thánh không còn gọi là Hội Thánh của tình yêu thương nữa.
Hội Thánh không còn đi ra cứu người nữa.
Hội Thánh không còn sự sống, không có Chúa hiện diện và để Chúa làm chủ nữa.
Vậy thì, anh chị em nhóm lại mà làm chi? Có ích chi đâu? Nếu anh em và tôi loại Chúa ra khỏi mọi sinh hoạt và đời sống của chúng ta.
Lời của sứ đồ Phao lô cảnh cáo chúng ta mà rằng: “ anh em khinh bỉ Hội thánh của Đức Chúa Trời, Tôi nên nói chi với anh em? Có nên khen anh em không? Trong việc nầy tôi chẳng khen đâu.” ( I Co 11:22 ).
Tôi ở đây để kêu khóc cho vị Tân Lang của chúng ta là Cứu Chúa Giê xu yêu dấu về tình trạng cô râu của Ngài đang mặc áo xa hoa, lộng lẫy. Nhưng đầy tội lỗi và ô uế.
Tôi ở đây để kêu khóc cho những ngôi mộ trắng bề ngoài nhưng bên trong đã bị mục nát, thối tha, dơ dáy.
Trong Kinh Thánh, Chúa Giê xu suốt trong hơn 33 năm trên đất của Ngài, trong suốt 3 năm khi Ngài thi hành chức vụ trên đất.
Ngài đã đối diện với những Ngôi mộ tô trắng bề ngoài, nhưng bên trong thì mục nát và thối rữa. Đó là hạng người Pha-ri-si là những người giả hình.
Bề ngoài cũng có tiếng là sống nhưng bên trong thì chết.
Bề ngoài có đạo, lời nói rất hay nhưng bên trong thì gian ác, chất chứa đầy những nọc độc của rắn hổ mang.
Môi miệng thì giúp đỡ Đức Chúa Trời nhưng việc làm thì lại phá hại.
Ma quỷ đang xây dựng loại Hội Thánh giả hình, Ma quỷ đang xây dựng những cỏ lùng và nó cố gắng làm cho càng nhiều người giả hình trong Hội Thánh càng tốt, càng nhiều cỏ lùng càng tốt. Vì chính những cỏ lùng và sự giả hình sẽ giết chết Hội Thánh.
Và đây là lời quở trách: “ Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! Vì các ngươi giống như mồ mả tô trắng bề ngoài cho đẹp, mà bề trong thì đầy xương người chết và mọi thứ dơ dáy.” (Ma-thi-ơ 23:27 )
Sống suốt cuộc đời làm Cơ Đốc nhân chỉ như phô trương cho người ta biết mình có đạo, có tôn giáo Tin lành mà thôi mà không có Chúa và không biết Ngài thực sự thì chẳng khác gì chỉ rửa mặt ngoài của cái chén mà thôi.
Sứ đồ Phi-e-rơ đưa ra một lệnh truyền rằng: “ nhưng hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình.” ( IPhi 3:15 )
Không phải tôn Đấng Christ vào ngày Chúa nhật mà thôi, không chỉ tôn Đấng Christ bằng môi miệng mà thôi, cũng không phải chỉ tôn Đấng Christ ở bề ngoài mà là tôn Ngài làm Chúa, làm thánh trong lòng của mình.
Tác giả của Thi-thiên số 51: 6 nói lên được điều Chúa muốn rằng: “ Nầy, Chúa muốn sự chân thật nơi bề trong;” ( Thi-thiên 51:6 )
Quý vị và tôi đang để Chúa ở đâu trong đời sống chúng ta?
Quý vị và tôi đang sống cho mình hay cho Chúa? Nếu chúng ta đang sống cho chúng ta thì chính chúng ta mới là Chúa của chúng ta.
Chúng ta cần phải có sự sống thật, cần có Chúa thực sự, cần biết Chúa rõ ràng, cần được cứu rỗi thật sự, cần tái sanh thật sự.
Thưa quý vị!
Nếu hôm nay, chúng ta được Chúa dắt đưa đi vào trong thung lũng đầy hài cốt, và đứng trước những hài cốt khô đó, chúng ta phải làm gì?
Nếu tâm linh của chúng ta đang ở trong tình trạng dãy chết, chúng ta phải làm gì với những đống hài cốt khô đó. Làm sao để đời sống của chúng ta có thể sống lại và sống một cuộc đời hoàn toàn mới?
“ Ngài bèn phán cùng ta rằng: Hãy nói tiên tri về hài cốt ấy, và bảo chúng nó rằng:Hỡi hài cốt khô, khá nghe lời Đức Giê-hô-va.”
Nghe ở đây không phải là nghe tin tức về những cuộc chiến xảy ra mỗi ngày ở trên đài báo, ti vi, hay cũng không phải nghe những dân ca, và nhạc cổ truyền, cũng không phải nghe những chuyện huyễn giống như chuyện bịa của những người đàn bà xấu nết.
Đức Chúa trời đưa ra mệnh lệnh cho đống xác khô rằng: Hãy nghe Lời của Đức Chúa Trời, chỉ có Lời của Đức Chúa Trời mới có quyền năng để phục hồi, chỉ có Lời của Đức Chúa Trời mới sinh ra sự sống, chỉ có Lời của Đức Chúa Trời mới sinh ra đức tin mà thôi, chỉ có Lời của Đức CHúa Trời ban cho con người hy vọng trong chỗ tuyệt vọng.
Hỡi những hài cốt khô, khá nghe lời Đức Giê hô va.
Hội thánh đang sống trong giả hình, hội thánh đang đầy những tảng đá ngầm ghen ghét, đời sống tâm linh đang chết bởi vì cớ chúng ta không có nghe Lời của Đức Chúa Trời nữa.
Nghe ở đây là hành động của cả con người chúng ta.
Nghe ở đây không chỉ là nghe bằng tiếng nói, nghe bài giảng vào ngày Chúa nhật, nghe Kinh Thánh mà nghe ở đây chính là sự bao hàm của việc làm theo Lời Chúa.
Buổi sáng hôm nay, tôi kêu gọi quý vị và chính tôi rằng: “Hỡi hài cốt khô, khá nghe lời Đức Giê-hô-va.”
Tâm linh và đời sống của tôi với quý vị đang bị dãy chết vì cớ chúng ta đã khinh Lời của Đức Chúa Trời.
Đây chính là điều mà dân Y sơ ra ên đã thất bại và sa ngã. Họ đã khinh thường, và bỏ Lời của Đức Chúa Trời.
Vì cớ họ đã “ Ta đã chép lệ luật ta cho nó một vạn điều, nhưng nó coi như chẳng can gì đến mình.” ( Os 8:12 ).
Đức Giê xu chỉ thẳng vào mặt của những kẻ giả hình Pha-ri-si rằng: “ Như vậy, các ngươi đã vì lời truyền khẩu mình mà bỏ lời Đức Chúa Trời.” ( Mat 15:6 ).
“ Ấy là thần linh làm cho sống, xác thịt chẳng ích chi. Những lời ta phán cùng các ngươi đều là thần linh và sự sống.” ( Gi 6:63 )
Có phải đời sống của chúng ta đang chất chứa đầy dẫy xác thịt, xác thịt chẳng ích chi, xác thịt sanh ra sự chết nhưng chỉ có Lời của Đức Chúa Trời mới đem lại sự sống mà thôi.
Đức CHúa Trời đã dung lời phán của Ngài để tạo dựng nên vũ trụ này, Ngài đã phán với một người trai trẻ đã chết trong mồ ba ngày trở sống lại, ngôi mộ đã có mùi, mùi thịt thối rửa. Nhưng Lời phán của Đức Chúa Giê xu được phóng thích ra và lời ấy đem lại sự sống, sự chết đã bị đẩy lùi.
Lời của ĐỨc Chúa Trời là Lời đầy quyền năng, gió cũng phải vâng lời, cơn bão dữ dội cũng phải vâng lời, người bị quỷ ám sống tại nghĩa địa có sức mạnh không ai trị phục được. Nhưng đứng trước Chúa Giê xu và lời của Ngài đã cởi trói cho họ.
Tại sao chúng ta ngu dại hơn các cơn bão, tại sao chúng ta ngu dại hơn con cá đã nuốt Giô na, tại sao chúng ta ngu dại hơn con lừa con mà Chúa đã cỡi.
Sứ đồ Phao lô kết thúc bức thư Cô-lô-se với lời yêu cầu và mong ước rằng: “ Nguyền xin lời của Đấng Christ ở đầy trong lòng anh em, và anh em dư dật mọi sự khôn ngoan “ ( Co 3:16 )
Trong lòng của chúng ta đang đầy dẫy mùi của sự chết, ghen ghét và cay đắng đang chiếm hữu chúng ta, điều đó chỉ sanh ra sự chết mà thôi. Nhưng nếu lòng chúng ta đầy dẫy lời của Đức Chúa Trời điều đó sẽ sanh chúng ta sự sống, và sự sống dư dật.
Có phải cuộc đời chúng ta như đống rác rưởi, đống phế thải, có phải đời sống chúng ta như những đống xương khô, bên trong đầy dẫy mồ mả?
Tác giả Thi 119:50 “ Lời Chúa làm cho tôi được sống lại,”
Thi 119:93 93 Tôi chẳng hề quên giềng mối Chúa,
Vì nhờ đó Chúa làm cho tôi được sống.
II/. Thánh Linh Đức Chúa Trời làm cho Phục Sinh một dân tộc bị tàn lụi
Chúng ta đọc tiếp mạnh văn như sau:
“ Bấy giờ Ngài phán cùng ta rằng: Hỡi con người, hãy nói tiên tri cùng gió; hãy nói tiên tri và bảo gió rằng: Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi hơi thở, khá đến từ gió bốn phương, thở trên những người bị giết, hầu cho chúng nó sống. 10 Vậy ta nói tiên tri như Ngài đã phán dặn ta, và hơi thở vào trong chúng nó; chúng nó sống, và đứng dậy trên chân mình, hiệp lại thành một đội quân rất lớn.” ( 37:9-10)
Như vậy gió ở đây là gì? Gió ở đây chính là đang nói về Đức Thánh Linh, vì gió là biểu tượng của Đức Thánh Linh.
CÁC BIỂU TƯỢNG CỦA ĐỨC THÁNH LINH:
1. Nước: Nước làm cho màu mỡ, Nước làm cho tươi mới; Nước làm cho sạch; Người tín đồ đầy dẫy Đức Thánh Linh như cây trồng gần bên dòng nước chảy. Thi 1:3.
2. Lửa: Lửa soi sáng; Lửa nung đốt; Lửa tẩy sạch;
3. Gió: Gió làm sống lại;
4. Dầu: Dầu biệt riêng; Dầu chữa lành;
5. Chim bồ câu: Bồ câu rất hiền lành,dịu dàng;
Êxêchiên vâng theo lời Đức Giêhôva nói tiên tri thì liền có động đất những xương nhóm lại với nhau. Ta nhìn xem thấy những gân và thịt sanh ra trên những xương ấy có da bọc lấy. Hình dạn thể xác nầy thật giống như khi xưa Ađam được Đức Chúa Trời lấy đất nắn nên thân hình đẹp đẽ nhưng chưa có sự sống, Ngài bèn hà sanh khí vào lỗ mũi. Ađam bèn trở nên loài có sanh linh. (Sáng 2:7)
Gió chỉ về Thánh Linh vô hình không thấy được thật là mầu nhiệm và mạnh mẽ. Ngài ngự vào lòng một người nào thì người ấy trở nên người sống động mạnh mẽ và phước hạnh không còn là xương khô trong trũng nữa.
Trong khi Chúa Jêsus bị bắt và bị đóng đinh trên thập tự giá, các sứ đồ và môn đồ đều hồn xiêu phách lạc, tâm cang khối loạn, ai nấy chạy trốn như người chết. Nhưng lạ lùng thay khi Chúa sống lại thì họ được sự an ủi từ nơi Chúa bớt sợ sệt. Lạ thay đến ngày lễ Ngủ Tuần các môn đồ vâng theo lời Chúa cầu nguyện trên phòng cao Đức Thánh Linh hiện đến như gió thổi ào ào có lưỡi bằng lửa hiện ra đậu trên mỗi người trong họ hết thảy đều đầy dẫy Thánh Linh nói các thứ tiếng khác theo như Thánh linh cho mình nói. (Công vụ 2:1-2) Một buổi chiều Phierơ giảng đạo có 3000 người trở lại cùng Chúa? Há chẳng phải là do nơi quyền năng Đức Thánh Linh sao?
Bác sĩ Tống Thượng Tiết là một sứ giả phục hưng, khi ông đi đến đâu, giảng ở nơi nào ở tại đó sự thức tỉnh thuộc linh, có sự phục hưng lớn xảy ra.
Chính ông đã sáng tác bài thánh ca rất hay có lời:
Tôi xin gió Thánh Linh, Gió Thánh Linh vô lòng;
Jê-sus ôi, xin Ngài đoái ban hơi sống;
Tôi xin gió Thánh Linh, Gió Thánh Linh vô lòng;
Jê-sus ôi, xin hà Thánh Linh vô lòng.
Chúng ta đang sống trong thời đại của Chúa Thánh Linh.
Hội Thánh không có Chúa Thánh Linh là Hội Thánh chết,
Hội Thánh không có Chúa Thánh Linh thì Hội Thánh chỉ còn là một tổ chức xã hội mà thôi.
Ngày nay, Hội Thánh đang giống như Hội Thánh Sạt-đe, giàu có bề ngoài nhưng bên trong tâm linh thì dãy chết, giàu có vật chất mà tâm linh, nghèo thiếu, đui mù và lõa lồ.
Câu chuyện: Một ông Mục sư trước khi giảng: thì ông có một câu hỏi: Đức Chúa Trời có mấy ngôi.
Bà cụ tín đồ ở cuối nhà thờ dơ tay lên và phát biểu: Dạ, thưa Ms Đức Chúa Trời có Ba ngôi…
Trong tác phẩm mới xuất bản có tựa đề: Như Gió Thánh Linh
Tác giả của quyển sách là một Mục sư người Indonesia.
Gió Thánh Linh và lửa cháy
Đêm ấy khi chúng tôi đang cùng nhau cầu nguyện, thình lình Thánh Linh Đức Chúa Trời đến với chúng tôi y như Ngài đã đến trong ngày lễ Ngũ tuần. Trong Công vụ các Sứ đồ chương 2, Thánh Linh Chúa đến từ trời như một cơn gió mạnh thổi qua. Đêm đó, tôi ngồi cạnh chị tôi, tôi nghe rõ tiếng gió mạnh này. Tiếng gió thổi nghe như một cơn bão nhỏ tràn vào trong nhà thờ. Tôi nhìn chung quanh nhưng chẳng thấy gì cả. Tôi quay sang hỏi chị tôi:
- Chị ơi! Chị có nghe tiếng gì là lạ không?
- Có, nhưng đừng để ý đến mà hãy cầu nguyện đi. Chị tôi trả lời.
Rồi chị bắt đầu cầu nguyện, cùng lúc đó tôi nghe cũng có những người khác bắt đầu cầu nguyện. Đây là việc bất thường xảy ra trong Hội Thánh chúng tôi. Như bạn đã biết, trong Hội Thánh chúng tôi sự cầu nguyện cũng phải theo trật tự, hết người này rồi đến người khác. Chỉ cần một người cầu nguyện trong nhà thờ là đủ rồi vì mọi tiết mục đã được viết sẵn trong chương trình rồi. Nếu mọi người cầu nguyện thì chắc phải viết một tập giấy thật dày mới đủ. Nhưng ngay đêm đó, những tín hữu của Giáo hội Trưởng lão chúng tôi đã bắt đầu quên tất cả những trật tự đã qui định được viết sẵn. Họ cầu nguyện trong Thánh Linh. Mới đầu thì cầu nguyện từng người nhưng sau đó thì hết thảy cùng cầu nguyện.
- Tôi nói: “Ôi Chúa Giê-xu! Hội Thánh con xảy ra điều gì kỳ vậy? Họ quên mất hết các trật tự rồi?”
Khi mọi người đang cầu nguyện tôi nhìn lên các Mục sư. Chao ơi! Sự lo lắng hiện ra trên nét mặt của họ. Họ ngồi phía trước tòa giảng và không biết làm sao để điều khiển 200 con người này. Họ cũng nghe tiếng gió thổi mạnh. Tôi quay lại nhìn quanh một lần nữa nhưng thấy bốn bề yên tĩnh, duy chỉ có tiếng gió vẫn thổi ào ào mà thôi.
Kế đó tôi nghe tiếng chuông chữa cháy vang lên dồn dập. Đối ngang với nhà thờ chúng tôi là một đồn cảnh sát và trạm chữa cháy. Người Cảnh sát trong đồn này thấy nhà thờ của chúng tôi rực cháy nên ông kéo chuông báo động cho cả làng biết để đến chữa. Ở Indonesia, nhất là ở đảo Timor lại không có xe chữa cháy. Khi có đám cháy, chúng tôi chỉ việc kéo chuông báo động lên thì dân chúng biết có đám cháy ở đâu đó, và từ khắp mọi nơi trong làng, họ đem nào là gầu, thùng đựng nước hoặc đủ thứ vật dụng gì có được đến để dập tắt ngọn lửa.
Khi họ đến thì thấy lửa cháy phừng phừng, nhưng nhà thờ lại không bị cháy. Thay vì lửa thiên nhiên thì đây là lửa từ trời của Đức Chúa Trời. Bởi đó mà có nhiều người tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa của mình và họ cũng nhận được Báp-têm bằng Thánh Linh.
“vì chữ làm cho chết, song Thánh Linh làm cho sống.” ( IICo 3:6 )
Gi 6:63 63 Ấy là thần linh làm cho sống, xác thịt chẳng ích chi.
Nơi đâu có Chúa Thánh Linh nơi đó có sự tự do, nơi đâu có Chúa Thánh Linh nơi đó có sự sống, sự chết bị đẩy lùi, mùi tanh của xác thịt đều bị thổi bay, nơi đâu có Chúa Thánh Linh sự yêu thương thế chỗ cho sự ghen ghét, ánh sáng thay cho bóng tối, tạ ơn thay cho sự lằm bằm, rời rộng thay cho ích kỉ, cao thượng thay cho tiểu nhân, nhỏ nhen.
Tâm linh của tôi với quý vị đang sống hay đang chết, đời sống tôi với quý vị đang làm sáng danh Chúa hay làm xấu danh Chúa, chúng ta đang làm gương hay đập vỡ gương, chúng ta đang tăng trưởng hay đang yếu đuối, chúng ta đang tươi mới hay đang khô héo.
Hãy cầu xin gió Thánh Linh vô lòng chúng ta.
Lời của bài thánh ca:
Khi Giê-xu vô lòng như hoa xuân tưng bừng với khúc hát hoan ca. Tiêu tan bao ưu sầu, không lo toan nghi ngờ lúc Chúa ngự trị cõi lòng ta. Đời đẹp tươi vì lòng ta có Chúa, mãi hát khen dù trong cơn nguy nan. Chúa dắt đưa đến yên vui, sống trong Ngài đất như thiên đàng.
“ Chúa sai Thần Chúa ra, chúng nó được dựng nên; Chúa làm cho mặt đất ra mới.” (Thi 104:30)
III/. Chỉ có Quyền Năng Đức Chúa Trời mới có thể Phục Sinh một dân tộc bị tàn lụi.
Chỉ Có Đức Chúa Trời Phục Sinh và Mang Hy Vọng Cho Một Dân Tộc Đã Chết.
Theo Thánh Kinh cho chúng ta hay thì chỉ có duy nhất một mình Đức Chúa Trời mới có thể khiến những điều không có thành có mà thôi.
Minh họa: Thế giới vũ trụ này được dựng nên từ chỗ trống không, Ngài đã phán thì vật liền có.
Ngài phán phải có sự sang bèn có sự sang, Ngài phân sáng với tối ra thì bèn có ngày và đêm.
Ngài phán phải có cá dưới nước, chim bây trên trời liền có như vậy.
Ngài đã phán thì kẻ phung được sạch, Ngài phán: bão tố phải im đi thì bão tố cũng phải vâng lời.
Ngài đã phán khiến kẻ chết sau ba ngày liền sống lại đi ra khỏi mồ.
Điều đó chính tỏ: Đức Chúa Trời mà chúng ta đang thờ phượng là Đức Chúa Trời toàn năng, làm được mọi sự và chẳng sự gì mà Ngài bất lực cả.
Cũng vậy chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể làm cho đống hài cốt khô sống lại mà thôi.
Chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể Phục Sinh được tình trạng đã chết.
Bây giờ, chúng ta sẽ đi qua một câu hỏi mà Đức Chúa Trời đã hỏi nhà tiên tri Êxêchiên rằng: “ Hỡi con người, những hài cốt nầy có thể sống chăng? Ta thưa rằng: Lạy Chúa Giê-hô-va, chính Chúa biết điều đó!” (Êxêchiên 37: 3)
Câu hỏi những hài cốt khô nầy có thể sống được chăng? Cho thấy sự bất lực và vô vọng của loài người.
Loài người hoàn toàn tuyệt vọng và bất lực trong việc làm cho những hài cốt khô có thể sống lại. Chúa đã hỏi Êxêchiên nhưng Êxêchiên không có câu trả lời mà Êxêchiên muốn nói ngầm rằng: Lạy Chúa! Loài người hoàn toàn bất lực và tuyệt vọng nhưng Đức Chúa Trời thì có thể làm được mọi sự.
Nhà đại tiên tri sống cùng thời với tiên tri Êxêchiên đã có sứ điệp rao giảng rất mạnh mẽ, mang đến sự hy vọng cho một dân tộc đang bị tuyệt vọng, một dân tộc bị làm nô lệ và đang ở trong tình trạng chết chóc. Nhà tiên tri Giê –rê-mi đã thốt lên rằng:
“ Ôi! Hỡi Chúa Giê-hô-va! Chính Ngài đã dùng quyền phép lớn và cánh tay giơ ra mà làm nên trời và đất; chẳng có sự gì là khó quá cho Ngài cả.” ( Gie 32:17 )
“ Nầy, ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của mọi xác thịt; có sự gì khó quá cho ta chăng?” ( Gie 32:27 )
Minh họa: Ma-ri khi nghe lời của vị thiên sứ báo tin: Mình sẽ sinh một con trai, và đặt tên là Giê xu. Và Ma-ri nói với thiên sứ rằng: “ Tôi chẳng hề nhận biết người nam nào, thì làm sao có được sự đó? ” ( Luca 1:37)
Câu trả lời của Đức Chúa Trời là: “ Bởi vì không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được.”
Khi thiên sứ Gáp-ri-ên báo tin cho hai vợ chồng nhà Xa-cha-ri và Ê-li-ra-bét rằng: Đức Chúa Trời đã nhận lời cầu nguyện của ông bà: Và Ngài sẽ cho ông bà sinh ra một người con là Giăng Báp tít. Xa-cha-ri bèn thưa cùng Chúa rằng: Làm sao tôi có thể sinh được vì tôi đã già và vợ tôi đã cao tuổi.
Câu trả lời của Đức Chúa Trời là: “ Bởi vì không việc chi Đức Chúa Trời chẳng làm được.”
Kinh thánh cho chúng ta biết rằng lúc đó Ông Áp ra ham đã 99 tuổi, và vợ của Ông là Bà Sa ra bao nhiêu tuổi? - 89 tuổi.
Đức Chúa Trời báo tin cho hai vợ chồng ông rằng: độ nầy sang năm, vợ ngươi sẽ sanh một con trai, Sa-ra ở nơi cửa trại sau lưng đấng đó, nghe các lời nầy.
Sa-ra cười thầm mà rằng: Già như tôi thế nầy, dễ còn được điều vui đó sao? Đức Giê-hô-va phán hỏi Áp-ra-ham rằng: Cớ sao Sa-ra cười như vậy mà rằng: Có quả thật rằng tôi già đến thế nầy lại còn sanh sản chăng?
Câu trả lời của Đức Chúa Trời: “ Há có điều chi Đức Giê-hô-va làm không được chăng?” ( Sáng-thế-ký 18: 9-15)
Bài học:
Nhiều khi chúng ta có cười giống như Sa-ra đã cười, tôi đã già làm sao có thể sinh con được, nhiều khi chúng ta suy nghĩ rằng: gặp gỡ Chúa Giê xu biến đổi cuộc đời mình.
ấy thế mà từ ngày chồng tôi tin Chúa, vợ tôi tin Chúa, anh em nhà tôi, con cái nhà tôi tin Chúa. Tôi chẳng thấy đời sống của họ thay đổi.
họ vẫn ăn gian, nói dối, họ vẫn cay đắng, và thù oán, họ vẫn ăn miếng trả miếng, họ vẫn chửi tục tĩu trên môi.
Điều đó không phải do Ngài, không phải do Ngài không có quyền năng, hay có ít quyền năng. Bèn là bởi vì chúng ta đã vô tín, nghi ngờ và không tin vào Ngài, chúng ta không để cho Ngài thực hiện sự biến cải, chúng ta đã học với nhau bài: Cộng Tác Với Chúa. Chúng ta phải có trách nhiệm là phải làm phần việc của chúng ta, rồi Ngài sẽ làm phần của Ngài.
Y-sơ-ra-ên lang thang suốt 40 năm trong đồng vắng, Chúa đã mưa Ma-na xuống, chim cút cũng được ban cho, nước uống Ngài cũng cho hòn đá chảy ra cho họ uống.
Và Chúa Giê xu phán bảo trong bài giảng trên núi của Ngài rằng: “ Ấy vậy, các ngươi chớ lo lắng mà nói rằng: Chúng ta sẽ ăn gì? Uống gì? Mặc gì? 32 Vì mọi điều đó, các dân ngoại vẫn thường tìm, và Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi.” (Mat 6:31 )
Chúa hứa rằng Ngài sẽ chăm lo, nuôi dưỡng cho chúng ta, nhưng chúng ta lúc nào cũng chỉ sợ mình chết đói, chết khát, lúc nào cũng chỉ sợ khố rách áo ôm.
Tác giả Thánh Vịnh Vua Đa vít đã nói: “ Trước tôi trẻ, rày đã già
Nhưng chẳng hề thấy người công bình bị bỏ, Hay là dòng dõi người đi ăn mày.” ( Thi 37:25 )
Nhưng chẳng hề thấy người công bình bị bỏ, Hay là dòng dõi người đi ăn mày.” ( Thi 37:25 )
Chúa đã hỏi các môn đồ của Ngài rằng: Đức tin của các ngươi ở đâu?
Ngài cũng hỏi chúng ta rằng: “ Các ngươi không có đức tin sao”
Ngài hỏi mỗi chúng ta rằng: “ Tại sao các ngươi sợ”
Ông Gióp là một người công chính đã từng tuyên bố: “Tôi biết rằng Chúa có thể làm được mọi sự, Chẳng có ý chỉ nào Chúa lấy làm khó lắm.” ( Gióp 42:2)
Đức Chúa Trời luôn luôn khởi sự, và Ngài là tác giả của sự phấn hưng.
Niềm tin của họ đã bị lấy cắp bởi những thất bại, bởi những đớn đau trong cuộc đời này được phục sinh, sống lại. Ngay trong cái chết, trong sự khốn cùng, tang thương nhất.