7 Bình An
Trong Thượng Đế
Tác giả: Billy Graham
Tác giả: Billy Graham
Tựa
Phần một: VẤN ĐỀ
1. Tìm kiếm
2. Kinh Thánh
3. Thượng Đế
4. Tội lỗi
5. Ma quỉ
6. Nỗi tuyệt vọng vì cô đơn
7. Điều gì xảy ra sau khi chết?
Phần một: VẤN ĐỀ
1. Tìm kiếm
2. Kinh Thánh
3. Thượng Đế
4. Tội lỗi
5. Ma quỉ
6. Nỗi tuyệt vọng vì cô đơn
7. Điều gì xảy ra sau khi chết?
Phần hai: GIẢI
PHÁP
8. Lý do Chúa Giê-xu đến
9. Bắt đầu thế nào và bắt đầu ở đâu?
10. Ăn năn là gì?
11. Đức tin là gì?
12. Cũ và mới
13. Làm thế nào để biết chắc?
8. Lý do Chúa Giê-xu đến
9. Bắt đầu thế nào và bắt đầu ở đâu?
10. Ăn năn là gì?
11. Đức tin là gì?
12. Cũ và mới
13. Làm thế nào để biết chắc?
Phần ba: KẾT QUẢ
14. Kẻ thù của Cơ Đốc nhân
15. Những quy luật của đời sống
16. Cơ Đốc nhân và Hội Thánh
17. Cơ Đốc nhân và Xã hội
18. Hy vọng cho tương lai
19. Sự bình an
20. Đời sau
14. Kẻ thù của Cơ Đốc nhân
15. Những quy luật của đời sống
16. Cơ Đốc nhân và Hội Thánh
17. Cơ Đốc nhân và Xã hội
18. Hy vọng cho tương lai
19. Sự bình an
20. Đời sau
Tựa
Suốt ba thập
kỷ từ sau ngày quyển ‘Bình An Trong Thượng Đế’được viết ra, thế giới này vốn
luôn dàn trận chờ tranh chiến với nhau dường như đã mất đi vĩnh viễn sự thanh
thản mà nó vẫn nắm lỏng lẻo trong tay. Lần đầu tiên trong lịch sử, dưới hình thức
một trận chiến tranh nguyên tử sẽ xảy ra có thể tiêu hủy mọi sự, cả một thế hệ
thanh niên phải sống trong kinh hoàng trước khi họ kịp lớn lên, điều có thể lý
giải phần nào con số thê thảm những người vừa đạt đến tuyệt đỉnh tuổi thanh
xuân đầy hứa hẹn, lại tìm nhiều cách thức khác nhau để từ bỏ cuộc sống. Họ đã
trở thành một thế hệ những nhà nghệ sĩ trốn đời. Trong lúc tôi viết mấy dòng
này, thì nhiều cuộc xung đột vũ trang đang bùng nổ khắp nơi trên địa cầu, và tiếng
súng đang vang rền trên nhiều đường phố của những đô thị lớn. Kể từ khi quyển
sách này được viết ra, một vị tổng thống Hoa-kỳ, một ông bộ trưởng tư pháp, một
lãnh tụ nhân quyền, một vị tổng thống của Ai-cập và một ngôi sao nhạc rock lừng
danh đã bị ám sát. Một vị tổng thống khác đã bị mưu sát. Tại nhiều nơi, nhiều
người đã bị bắt làm con tin, và một phi cơ phản lực chở hành khách của Triều-tiên
đã bị bắn hạ. Nhiều cuộc chiến tranh đã xảy ra. Cả khi quay về dưới mái ấm gia đình,
chúng ta cũng không tìm được sự bình an nội tâm, đơn giản chỉ vì phần nhiều mái
ấm của chúng ta giờ đây không tồn tại nữa, và gần phân nửa tổng số những đôi
tân hôn đã kết thúc bằng ly dị. Cuộc chiến cứ ngày càng lan tràn khắp thế giới
nói chung đó vốn chỉ là phản ảnh của cuộc xung đột đang hoành hành trong lòng của
từng cá nhân.
Nhiều triệu
người đã được đọc quyển sách này trong ấn bản đầu tiên. Nó được dịch ra hơn ba
mươi thứ tiếng. Nhiều người viết thư kể lại chính cuộc đời của họ hay của một
ai khác đó đã chịu ảnh hưởng của nó; đây là cuốn sách tôn giáo đã phổ biến và được
nhiều người của thế giới Đông phương đọc nhất. Một viên chức hải quan gặp quyển
‘Bình An Trong Thượng Đế’trong hành lý của một Cơ Đốc nhân đến thăm đất nước của
ông ta. Người du khách bảo rằng mình rất vui lòng tặng cho ông ta, nhưng rất tiếc
ông đã hứa tặng cho một bạn thân trong xứ ấy rồi. Viên chức nọ nói: “Thế ông có
vui lòng đợi cho tôi đọc xong quyển sách này không?” Vậy là ông bạn của chúng
ta ngồi chờ, nửa giờ, rồi một giờ, hai giờ. Cuối cùng, chẳng nói chẳng rằng,
quyển sách được trả vào vali, và ông bạn của chúng ta được chào từ biệt. Khi đọc
lại, tôi đã vô cùng kinh ngạc khi thấy nguyên tác quả rất thích hợp, tuy có vài
chi tiết cần cập nhật hóa.’
Cũng như
nguyên tác, quyển ‘Bình An Trong Thượng Đế’hiệu đính này chỉ ra con đường - con
đường duy nhất - dẫn tới sự bình an cá nhân đích thực trong thế giới đang khủng
hoảng này. Từ ngày được xuất bản ba mươi mốt năm trước đây, nhiều triệu độc giả
trong và ngoài nước đã theo dõi các bước đi rõ ràng và đơn giản của nó để tự
mình khám phá ra cuộc đời làm cách mạng mới mẻ từng được một người vô danh tại
xứ Ga-li-lê đề nghị. Trong số đó có những người có tên trong danh sách các tử tội,
và có cả một trong số các con rể của tôi nữa.
Có một nữ
phóng viên đến tham dự Chiến dịch truyền giảng Phúc Âm của chúng tôi tại
Bristol, Anh quốc, được hỏi chẳng hay cô có gia nhập một Hội Thánh nào trước
khi đến Bristol không; cô trả lời: “Vâng, có. Tôi là một Cơ Đốc nhân. Tôi đã nhờ
ông Billy Graham mà ăn năn quy đạo hồi năm 1954”. Bấy giờ, cô là một bé gái mười
tuổi, học sinh nội trú. Một ngày nọ, cô bé đến một hàng bán sách cũ, trên bàn
có một số sách, cô để ý đến quyển ‘Bình An Trong Thượng Đế,’ và tức khắc bị cuốn
hút. Cô trả sáu xu để mua - là tất cả số tiền cô có lúc ấy - và khi về phòng học
của mình trong trường, cô bắt đầu đọc nó suốt đêm bằng chiếc đèn bấm. Kết quả
là cô đã tin nhận Chúa Cứu Thế sau khi đọc quyển sách ấy. Tuy từng lớn lên
trong Hội Thánh, nhưng chưa hề có ai giải thích cho cô bức thông điệp đơn sơ của
Phúc Âm, và bảo cô phải đáp lại tiếng kêu gọi của Chúa Cứu Thế như thế nào.
Tôi khẩn
nguyện rằng ấn bản được hiệu đính này sẽ đến với những bàn tay và những tấm
lòng đang lạc lõng trong thế giới điên đảo nhưng có rất nhiều người đang trông
tìm một lối thoát này, vì tôi ý thức rằng hiện nay - hơn cả lúc sách này mới được
viết ra - đang có rất nhiều người cả nam lẫn nữ và nhiều thanh thiếu niên ở khắp
mọi nơi, đang khao khát tìm cầu sự bình an trong Thượng Đế.
Tôi tri ân
sâu xa tất cả những ai đã góp ý với tôi khi chuẩn bị ấn bản mới này. Nhất là
tôi xin cảm ơn nhà tôi - bà Ruth - đã dành nhiều thì giờ để sửa chữa; trưởng nữ
của tôi là GiGi Tchividjian; và cô thư ký Stephanie Wills. Nguyện Thượng Đế
dùng quyển sách này để chạm đến tấm lòng của triệu triệu người thuộc thế hệ mới
hiện nay.
BILLY
GRAHAM
Các ngươi
sẽ tìm ta, và gặp được, khi các ngươi tìm kiếm ta hết lòng.
Gie 29:13.
Gie 29:13.
NGAY từ
khi mới sanh ra bạn đã bắt đầu Công Cuộc Tìm Kiếm Lớn Lao. Có lẽ phải mất nhiều
năm bạn mới ý thức được điều đó, mới thấy rõ rằng bạn đang luôn luôn tìm kiếm -
tìm kiếm điều bạn chưa từng có - tìm kiếm một điều quan trọng hơn bất cứ điều
gì khác trong đời. Đôi khi bạn cố quên điều này và chỉ nghĩ đến những việc khác,
dành thì giờ và tâm trí vào công việc hiện tại mà thôi. Cũng có lúc bạn tưởng
mình được giải thoát khỏi nhu cầu tìm kiếm điều không tên đó. Đôi lúc bạn hầu
như quên lãng cuộc tìm kiếm này để rồi phải nhớ lại - bạn phải luôn luôn quay về
với công cuộc tìm kiếm của mình.
Trong những
phút cô đơn nhất của cuộc đời, bạn để ý quan sát những người xung quanh và tự hỏi
không biết họ có tìm kiếm gì không? - Tìm điều họ không thể diễn tả nhưng biết
là rất cần. Vài người tỏ ra sung sướng và không nặng gánh lo âu như bạn. Một số
khác dường như đã toại nguyện trong hôn nhân gia đình. Lại có người đã đi khắp đó
đây để tìm tiền tài và danh vọng. Có người cứ ở quê nhà mà vẫn thành đạt và khi
nhìn họ, có thể bạn nghĩ: “Những người này không cần bận tâm gì về cuộc Tìm Kiếm
Lớn Lao. Họ đã tìm thấy đường đi của họ rồi. Họ biết họ muốn gì và đã đạt tới đích.
Chỉ có ta mới theo một con đường chẳng đưa tới đâu. Chỉ có ta mới thắc mắc, mới
tìm kiếm và vấp ngã bên con đường tối tăm và tuyệt vọng không một lối thoát”.
Tiếng kêu
của nhân loại.
Nhưng bạn
không cô độc đâu. Toàn thể nhân loại đang cùng đi với bạn vì cũng đang tìm kiếm
như bạn. Toàn thể nhân loại đang tìm một lời giải đáp cho tình trạng hỗn loạn, đạo
đức suy đồi và thuộc linh trống rỗng đang đè nén thế giới. Toàn thể nhân loại đang
kêu gào một sự hướng dẫn, an ủi và bình an.
Có người
nói là chúng ta đang sống trong “kỷ nguyên lo âu”. Các sử gia đã chứng minh rằng
trong suốt lịch sử nhân loại, không lúc nào con người có nhiều sợ hãi và bất an
như ngày nay. Tất cả những gì chúng ta thường nương cậy dường như đã bị cuốn đi.
Chúng ta nói chuyện về hòa bình nhưng phải đương đầu với chiến tranh. Chúng ta
phác họa những kế hoạch an ninh chu đáo nhưng không thấy an ninh đâu cả. Chúng
ta cố bám víu vào bèo bọt trôi qua, nhưng cho dù nắm được, bọt bèo cũng biến mất.
Từ bao thế
hệ, chúng ta đã chạy như bị ma đuổi từ ngõ cụt này qua ngõ cụt khác. Mỗi lần,
chúng ta đều tự nhủ: “Đường này đúng đây, chắc sẽ đưa chúng ta đến nơi đến chốn”.
Nhưng lần nào chúng ta cũng lầm.
[td Nẻo đường
tự do của chính trị.
Một trong
những đường lối trước tiên chúng ta chọn ấy là “tự do chính trị”. Chúng ta nghĩ
nếu con người được tự do chính trị thì thế giới sẽ hạnh phúc. Chúng ta chọn lấy
những nhà lãnh đạo chính phủ, rồi chúng ta sẽ có một chính phủ làm cho cuộc đời
đáng sống. Kết quả là chúng ta đã đạt được tự do chính trị nhưng không sao thực
hiện được một thế giới tốt đẹp hơn. Hằng ngày báo chí tường thuật những vụ tham
nhũng ở cấp bậc lãnh đạo, sự thiên vị, lợi dụng và giả nhân giả nghĩa chẳng những
không kém đi, mà đôi khi còn vượt xa sự chuyên chế của vua chúa ngày xưa. Tự do
chính trị là một điều quý báu và quan trọng nhưng không đủ đem lại cho chúng ta
thế giới mà chúng ta ao ước.
Có một đường
lối khác đầy hứa hẹn được nhiều người hoàn toàn tin tưởng có tên là con đường
“giáo dục”. Họ cho rằng tự do chính trị đi đôi với một nền giáo dục sẽ giải quyết
được vấn đề, và tất cả chúng ta, chạy như điên trên con đường giáo dục. Trong một
thời gian dài, con đường này có vẻ sáng sủa, và chúng ta hăm hở bước đi đầy hi
vọng; nhưng nó đã đưa chúng ta đến đâu? Quý vị đã thừa biết câu trả lời. Chúng
ta là những người hiểu biết nhất trong lịch sử văn minh - và cũng là những người
khốn khổ nhất. Các học sinh trung học của chúng ta biết nhiều về những định luật
vật lý của vũ trụ hơn cả nhà khoa học tài ba nhất trong thời Aristotle. Nhưng
dù đầu óc chúng ta đầy ắp kiến thức, con tim chúng ta vẫn trống rỗng.
Đường lối
sáng sủa và hấp dẫn nhất là con đường mang tên “mức sống cao hơn”. Hầu hết mọi
người đều cho rằng có thể trông mong con đường này đưa mình vào thế giới tốt đẹp
và hạnh phúc hơn. Con đường được xem như chắc chắn nhất. Đó là con đường “nhấn
nút thì có ngay”, đầy những quảng cáo lộng lẫy màu sắc trong các tạp chí, những
xe hơi đời mới bóng nhoáng, những hàng dài tủ lạnh và máy giặt tự động, những
con gà giò ngon lành trong những lò nướng tối tân. Lần này thì nhất định chúng
ta trúng số độc đắc. Những con đường kia có thể sai lầm, nhưng con đường này
thì chắc đúng rồi!
Vâng, quý
vị hãy nhìn quanh xem sao. Ngay chính giờ phút này của lịch sử, tại một vài quốc
gia, tự do chính trị đã tiến đến một trình độ mà các quốc gia khác của thế giới
văn minh chưa thể hiện được. Một vài quốc gia đã có một hệ thống giáo dục phổ cập
tiến bộ nhất, và các quốc gia đó được trong và ngoài nước ca ngợi về mức sống
cao của họ. Chúng ta dùng từ “lối sống văn minh” để chỉ một nền kinh tế hào
nhoáng tận dụng điện lực và máy tự động. Lối sống ấy có thực sự làm chúng ta
sung sướng không? Có đem đến cho chúng ta niềm vui và lẽ sống chúng ta đang tìm
kiếm không?
Không.
Trong khi chúng ta tự mãn tự kiêu là đã thực hiện được rất nhiều điều mà những
thế hệ trước chỉ mơ tưởng; trong khi chúng ta vượt qua các đại dương chỉ mất
vài giờ thay vì hàng tháng; trong khi chúng ta đã tìm ra những phương thuốc thần
diệu diệt trừ một số bệnh nan y; trong khi chúng ta xây dựng những tòa nhà chọc
trời khiến tháp Ba-bên trở thành như một ổ mối; trong khi ngày càng hiểu biết
nhiều hơn về những bí mật kỳ diệu dưới đáy biển và thám hiểm không gian càng
lúc càng xa, chúng ta có làm vơi đi cảm giác trống rỗng trong lòng chúng ta được
mảy may nào không? Tất cả những tiến bộ tối tân kỳ diệu đó có đem lại cho chúng
ta một cảm giác mãn nguyện nào không? Có giúp chúng ta giải thích tại sao chúng
ta có mặt trên thế gian này; có chỉ cho chúng ta biết những gì chúng ta cần phải
học hỏi không?
Hay là cái
cảm giác trống rỗng ghê gớm kia vẫn cứ tồn tại? Mọi khám phá mới về sự bao la của
vũ trụ có an ủi được bạn không hay chỉ làm cho bạn cảm thấy cô độc và bơ vơ hơn
bao giờ hết? Đâu là liều thuốc giải độc đối với sự sợ hãi, thù ghét và hư hoại
của con người? Ở ống nghiệm hay viễn vọng kính?
Sự quyến rũ
của khoa học.
Chúng ta
không chối cãi khoa học đã đem lại nhiều điều mà con người cho rằng mình đang cần.
Nhưng cũng chính khoa học đã tặng cho chúng ta món quà kinh khiếp nhất. Đời sống
và tương lai của mỗi sinh vật trên hành tinh này đều bị đe dọa bởi món quà khoa
học đó. Nó sừng sững như bóng tối đằng sau những tư tưởng cảnh giác của chúng
ta, lù lù như con ma ghê gớm ám ảnh giấc mơ con em chúng ta. Không muốn nghĩ đến
nó, chúng ta cố cho rằng chúng ta chưa hề nhận được món quà đó, rằng đó chỉ là
chuyện bịa, và một buổi sáng kia khi thức dậy chúng ta thấy rằng bom khinh khí
thật sự chưa được phát minh và bom nguyên tử không bao giờ có. Nhưng các nhật
báo cho chúng ta biết ngược lại.
Lẽ dĩ
nhiên nhiều người đang theo đuổi những con đường khác. Có những con đường của
danh vọng và phú quý, lạc thú và quyền uy. Nhưng không có con đường nào đưa
chúng ta thoát khỏi sự sa lầy. Chúng ta bị sa vào mạng lưới của chính tư tưởng
chúng ta, một cách quá khéo léo, quá trọn vẹn đến nỗi không còn trông thấy căn
nguyên hay phương thuốc chữa trị chứng bệnh đã làm chúng ta thống khổ.
Nếu quả thật
bệnh nào thuốc ấy thì chúng ta phải mau mau tìm thuốc. Thì giờ như tên bay và nếu
có con đường nào đưa đến ánh sáng, nếu có lối nào tìm về đời sống thuộc linh
lành mạnh, chúng ta không được phép chậm trễ một phút giây.
Đi tìm các
giải pháp.
Trong cơn
khủng hoảng này, có nhiều người đang vùng vẫy, nhưng càng giãy giụa, họ càng thấy
các cố gắng không nâng họ lên mà chỉ dìm họ chìm sâu xuống. Trong những năm 80
tỷ lệ tự sát đã theo tốc độ của hỏa tiễn. Với trẻ em từ 10-14 tuổi, mỗi năm mức
độ tự sát đã tăng gấp ba lần. Tạp chí ‘Lãnh đạo’ (Leadership) ước lượng hằng năm
khoảng nửa triệu người muốn tự tử - và 50.000 người đã thành công. Trong năm
1981, số người chết vì tự tử nhiều hơn số người bị giết.
Năm ngoái,
hàng ngàn người Mỹ - mà phần đông là thanh thiếu niên - vì không tìm được cả những
câu giải đáp sai lầm, nên đành chọn việc đi lang thang vào sâu hơn trong khu rừng
nhân tạo mà chúng ta gọi là nền văn minh.
Trong hơn
hai thập kỷ qua tốc độ ly dị đã leo thang, cứ hai hôn lễ được kết thúc bằng một
vụ ly dị. Từ năm 1900 đến nay, tỷ lệ ly dị đã tăng 100 phần trăm!
Chúng ta
thì tiêu cả gia tài để “nhận nuôi” những búp bê bằng vải nhồi bông, trong khi
con cái chúng ta lại sa vào tệ nạn lạm dụng trẻ con hay chịu đựng sự tàn nhẫn
khủng khiếp của việc dùng con nít cho các phim ảnh khiêu dâm. Chúng ta nghe nói
về chuyện phá thai, thuê người làm mẹ, ngân hàng tinh dịch và vân vân. Các gia đình
của chúng ta đang gặp những câu đố nát óc thuộc đủ loại lạm dụng và thác loạn.
Vậy bạn sẽ
hỏi: “Chúng ta đang ở đâu? Bây giờ chúng ta đang ở trong tình trạng nào và đang
đi về đâu?” Tôi xin nói để bạn biết chúng ta ở đâu và chúng ta là ai. Chúng ta
là những người đầu óc đầy ắp kiến thức, nhưng tâm hồn trống rỗng.
Chúng ta
than phiền thanh niên ngày nay đã lạc hướng, mất hào hứng, thiếu thiện chí làm
việc và tiến bộ. Mỗi ngày, tôi nghe phụ huynh than van không biết con em họ làm
sao ấy! Chúng không muốn cố gắng mà chỉ muốn cái gì có sẵn. Phụ huynh không ý
thức rằng con cái mình được giáo dục đầy đủ và được nuôi dưỡng chu đáo nhưng thật
sự tâm hồn chúng trống rỗng. Chúng không được thấm nhuần tinh thần xem công việc
là một niềm vui. Chúng không có quyết tâm xem tiến bộ là một lạc thú. Tại sao
chúng lại trống rỗng như vậy? Chính vì chúng không biết mình từ đâu đến, tại
sao ở đây hoặc đang đi về đâu?
Thanh niên
ngày nay cần được hướng dẫn để có một cái nhìn thông suốt vào tương lai. Họ đang
tìm những mẫu người để noi theo, tìm những khuôn mẫu nhằm vào một chủ đích.
Chúng giống
như những chiếc xe hơi mới mẻ lộng lẫy, chế tạo tinh vi, nhưng trong bình không
có xăng, bề ngoài hào nhoáng nhưng bên trong chẳng có năng lực và chúng ở không
như thế cho đến lúc bị rỉ sét vì buồn chán.
Bầu không
khí buồn chán.
Số người
buồn chán hiện nay trên thế giới có lẽ nhiều hơn bất cứ lúc nào khác. Chúng ta
biết thế và chúng ta có quá nhiều trò vui. Dân chúng trống rỗng đến nỗi không
thể tự giải khuây. Họ phải mướn người khác làm cho họ vui, chọc cho họ cười,
gây cho họ cảm giác được ấm cúng, hạnh phúc và dễ chịu trong giây phút để quên đi
cảm giác trống rỗng ghê rợn của sự lạc lõng và cô độc.
Bạn có thể
cho rằng buồn chán là một vấn đề nhỏ nhặt. Ai cũng có lúc buồn chán và đó là điều
tự nhiên. Nhưng tôi xin kể lại bạn nghe vài điều về sự buồn chán. Một sự kiện
nguy hiểm đang xâm chiếm tâm trí mọi người. Trong số các tạo phẩm của Thượng Đế,
con người là vật thọ tạo duy nhất biết buồn chán mặc dù trong sở thú chúng ta từng
thấy những con vật trông có vẻ rất buồn! Ngoài con người, không có sinh vật nào
biết buồn chán với chính mình hoặc với ngoại cảnh. Điều này rất quan trọng vì Tạo
Hóa chẳng bao giờ làm việc gì không có mục đích và nếu Ngài làm cho con người
biết buồn chán cũng chính vì có một mục đích.
Buồn chán
là một trong những phương cách chắc chắn nhất để đo lường sự trống rỗng nội tâm
của bạn! Nó đo thực trạng trống rỗng ấy chính xác như một hàn thử biểu. Người
chán nản sinh hoạt trong một khoảng chân không. Nội tâm họ là một khoảng chân
không và thiên nhiên luôn luôn chống lại chân không. Một trong những định luật
bất dịch của vũ trụ là tất cả những khoảng chân không phải được lấp đầy và lấp đầy
ngay.
Những con
người trống rỗng.
Chúng ta
không cần trở lại thời xưa mới biết được những gì đã xảy ra cho một quốc gia của
những người có tâm hồn trống rỗng. Chúng ta không cần nhìn xa hơn lịch sử cận đại
của các nước Đức, Ý và Nga mới thấy được tốc độ kinh khủng của thiên nhiên lấp
bằng những khoảng chân không nội tâm đó. Những chủ nghĩa chính trị sai lầm tràn
ngập cách dễ dàng tâm trí những người có trạng thái trống rỗng. Nhưng những chủ
nghĩa đó không có chỗ đứng trong tâm hồn một người đầy dẫy Thánh Linh của Thượng
Đế. Thiên nhiên ghét sự trống không, nhưng chính cá nhân chúng ta phải tự định đoạt
xem nên lấy gì lấp đầy khoảng chân không trong nội tâm chúng ta.
Ngày nay
chúng ta đang sống trong tình trạng của những người có tâm hồn trống rỗng.
Chúng ta tưởng mình sống đầy đủ bằng các tiện nghi khoa học và giáo dục, với một
đời sống cao đẹp, nhiều lạc thú hơn nhiều điều cần thiết khác nữa, nhưng rốt cuộc
tâm hồn của chúng ta vẫn trống rỗng. Tại sao tâm hồn chúng ta trống rỗng như thế?
Vì Đấng Sáng Tạo đã dựng nên chúng ta cho chính Ngài; chúng ta sẽ không bao giờ
tìm thấy sự trọn vẹn và đầy đủ nếu cứ ở ngoài Ngài.
Trong một
bài trả lời phỏng vấn gần đây trên tờ Nhật báo ‘Trưởng lão’(Presbyterian
Journal, số ngày 2 tháng 11, 1983), nhà báo Công giáo lừng danh Michael Novak
nói về tình trạng của chúng ta như sau: “Xã hội chủ nghĩa là một hệ thống dành
cho các thánh nhơn... Chủ nghĩa dân chủ tư bản... là một hệ thống dành cho các
tội nhơn”. Chính vì lý do ấy mà ông nhận thấy rằng xã hội chủ nghĩa chẳng làm
gì được cho thế giới này.
Chúa
Giê-xu phán: “Người ta sống không phải chỉ nhờ cơm, nhờ bánh!” (Lu 4:4), nhưng chúng ta không
lưu tâm đến Lời Ngài. Chúng ta cứ tiếp tục ngấu nghiến đủ các loại thức ăn cho
thỏa thích đến nỗi mang bệnh.
Chúng ta
không thể chịu đựng sự trống rỗng ghê gớm của chính chúng ta, cũng không thể
nhìn con đường vắng vẻ điêu tàn trước mặt. Chúng ta mệt mỏi tuyệt vọng vì hờn
ghét, tham muốn, đam mê mà chúng ta biết đầy dẫy trong chúng ta, nhưng không có
cách nào loại bỏ để thay vào những thứ tốt hơn.
Thời gian
là trọng yếu. Các công cụ hủy diệt toàn cầu nằm trong tầm tay chúng ta. Chúng
ta không thể tiếp tục đi mãi trên những con đường lầm lạc nữa, không thể mạo hiểm
trong những con đường xa lạ nữa, và cũng không thể đi lạc vào những ngõ cụt nào
khác. Chúng ta không còn có thì giờ để làm điều đó! Vì thế hệ chúng ta đã thực
hiện xong những gì các thế hệ trước chỉ mới cố gắng hoặc mơ ước thực hiện trong
những lúc cuồng nhiệt của bạo quyền. Chúng ta đã hoàn thành một vũ khí hủy diệt
toàn thể. Chúng ta đang chứng kiến sự điên cuồng cực điểm của con người. Trận
chiến tranh hạt nhân thiêu hủy tất cả đang lơ lửng trên đầu chúng ta!
Ma quỉ hẳn
thích thú cười khi một số người thông minh nhất trên thế giới này đã say mê làm
việc trong nhiều năm đặng hoàn thành điều kinh khiếp đó! Phá vỡ nguyên tử! Phân
chia và chinh phục! Tách rời, phá hủy, đập nát, chà đạp, nghiền vụn! Ma quỉ đã
làm xong công việc của nó với bàn tay hăm hở của con người. Chúng ta thấy trước
mắt kiệt tác của Sa-tan; sự quỷ quyệt của nó khi bắt chước những lưỡi lửa thiên
thượng. Nhưng hai đàng vô cùng khác biệt! Đó là sự khác biệt giữa Thiên đàng và
Địa ngục!
Một thế giới
nghịch thường và hỗn độn.
Chúng ta đang
sống trong một thế giới nghịch thường và hỗn độn. Nhưng điều chắc chắn là sự hỗn
độn này là một sự hỗn độn có kế hoạch - kế hoạch của Sa-tan. Kinh Thánh nói rằng
Sa-tan là kẻ đại bịp, là nguyên nhân của sự tự lừa dối và cũng là nguồn gốc của
bao lường gạt giữa các quốc gia. Nó đã làm chúng ta tin rằng mọi sự đều tốt đẹp
hơn trong khi thật ra mọi sự đều tồi tệ.
Tất cả
chúng ta đều nhìn nhận rằng thế giới đã hoàn toàn thay đổi từ đầu thế kỷ này.
Chúng ta nhận thức được nhịp độ gia tăng của những thay đổi đó, của tinh thần
cách mạng đang quét sạch những tập tục, của tốc độ xáo trộn và thay đổi ngôn ngữ,
thời trang, phong tục, gia cư cùng những lề lối sinh hoạt và những cảm nghĩ của
chúng ta.
Chỉ mới
vài năm gần đây, trẻ con vẫn còn thích ra bến cảng xem tàu cập bến. Ngày nay
chúng đã chán phi cơ trực thăng và máy bay phản lực. Ngày xưa chúng ta từng ngạc
nhiên về phát minh máy điện báo, thì nay lại cho vô tuyến truyền hình là điều tự
nhiên. Cách đây không lâu, nhiều bệnh tật của con người bị coi là nan y, ngày
nay chúng ta có nhiều thứ thuốc công hiệu chữa được nhiều căn bệnh ngặt nghèo.
Không ai còn nghi ngờ gì về những điều chúng ta đã thực hiện.
Nhưng với
tất cả những tiến bộ đó, con người vẫn chưa giải quyết được nan đề căn bản của
mình. Chúng ta có thể xây những tòa nhà cao nhất, đóng những con tàu chạy nhanh
nhất, dựng những cây cầu dài nhất - nhưng vẫn không thể tự cai trị hay cùng
chung sống trong bình đẳng và hòa hợp.
Chúng ta
có thể thiết lập những trường phái lớn về nghệ thuật và âm nhạc, có thể tìm ra
những sinh tố mới và bổ hơn nhưng những âu lo của chúng ta vẫn còn đó. Những khốn
khổ này vẫn là các âu lo cố hữu của con người, càng ngày càng lớn hơn và nhiều
hơn. Mối ưu tư ấy có thể xuất hiện dưới nhiều hình thái mới. Chúng có thể làm
cho chúng ta đau đớn và lo buồn nhiều hơn; nhưng tựu trung chúng ta vẫn đang đối
diện với những sự cám dỗ và thử thách mà loài người luôn phải đương đầu.
Sau phút
bi thảm trong vườn Ê-đen (còn gọi là Vườn Địa - đàng, chỗ ở ban đầu của thủy tổ
loài người) khi đã chối bỏ ý Chúa để hành động theo ý riêng, con người bị ray rứt
bởi những âu lo tương tự. Nguyên nhân của những vấn đề này đã được trình bày
trong các chương đầu của sách Sáng-Thế Ký (sách đầu tiên trong Kinh Thánh) . Những
hoàn cảnh ghê gớm tạo ra các vấn đề này đã được trình bày trong chương đầu của
sách La-mã (thư tín của Phao-lô gởi cho người La-mã) . Và Phúc Âm của Chúa Cứu
Thế Giê-xu ban cho chúng ta phương cách trị liệu.
Chính bản
chất hư hoại và tội lỗi của con người đã khiến con người tràn đầy hận thù, đố kỵ,
tham lam và ghen ghét. Sự rủa sả tội lỗi giáng trên thể xác nên con người luôn
luôn bị sự chết ám ảnh. Tài năng của con người có thể biến đổi tất cả, ngoại trừ
chính mính. Dù lớn tiếng cho mình là văn minh tiến bộ, con người vẫn ở trong trạng
thái ban sơ.
Tội lỗi vẫn
y nguyên.
Chính tội
lỗi không thay đổi, dù con người có cố gắng hết sức để biến cải nó. Chúng ta đã
cố khoác cho nó những danh từ mỹ miều. Chúng ta đã dán những nhãn hiệu mới lên
chai thuốc độc cũ. Chúng ta đã cố quét vôi trắng lên ngôi nhà cũ và cho đó là
nhà mới.
Chúng ta đã
tìm cách gọi tội lỗi là “sai lầm”, là “vấp váp” hay “thiếu nhận xét”. Nhưng tội
lỗi vẫn là tội lỗi. Dù cố xoa dịu lương tâm, chúng ta vẫn biết con người là tội
nhân; và hậu quả của tội lỗi vẫn là bệnh tật, chán chường, bất mãn, tuyệt vọng
và chết chóc.
Sự buồn rầu
cũng chẳng thay đổi. Sự buồn rầu bắt đầu từ khi A-đam và Ê-va (tổ loài người)
nhìn cái xác không hồn của con mình là A-bên bị giết cách thê thảm. Từ đó sự buồn
rầu đã trở thành từ ngữ phổ thông của con người. Không ai thoát khỏi nó, và mọi
người đều biết nó. Đến nỗi các bạn đến an ủi Gióp (người được Kinh Thánh mô tả
là rất trọn vẹn và ngay thẳng) đã coi sự buồn rầu như là một mục đích của đời sống.
Họ đã nói: “Nhưng loài người sinh ra để bị khốn khó, như lằn lửa bay chớp lên
không” (Giop 5:7).
Sự chết vẫn
thế. Con người đã cố gắng thay đổi bộ mặt của nó. Chúng ta đã thay đổi danh từ
“phu chôn xác” bằng “đạo tỳ”. Chúng ta để xác chết vào “quan tài” thay vì cho
vào “hòm”. Chúng ta có “nhà vĩnh biệt” thay vì “nhà xác” và “nghĩa trang” thay
vì “gò mả”. Chúng ta cố giảm bớt sự đau buồn của tang lễ. Nhưng cho dù chúng ta
có thay đổi danh từ hoặc bày đặt nghi thức đi nữa, thực tế lạnh lùng và tàn nhẫn
của sự chết vẫn không thay đổi trong suốt lịch sử loài người. Một người bạn đang
chiến đấu với bịnh ung thư vào thời kỳ cuối cùng, gần đây đã thư cho tôi: “Tôi
chợt hiểu không phải là giai đoạn cuối cùng bệnh ung thư nhưng là giai đoạn cuối
cùng của đời sống!”
Đời sống
thực sự của con người gồm ba sự kiện: quá khứ đầy dẫy tội lỗi; hiện tại tràn ngập
khổ đau và tương lai sự chết đang chờ đợi.
Kinh Thánh
dạy: “Như đã định, mỗi người chỉ chết một lần” (He 9:27), đối với người thường,
tư tưởng này dường như sống sượng và tuyệt vọng. Trong nỗ lực tránh né Lời
Chúa, con người đã xây dựng hàng chục hàng trăm triết lý và tôn giáo. Nhiều nhà
triết học và tâm lý học ngày nay vẫn còn cố tìm cách tạo ra cảm tưởng cho rằng
con đường của Chúa Giê-xu không phải là con đường duy nhất. Nhưng hễ ai đã thử đi
tất cả những con đường khác đều thấy chúng không đưa đến đâu cả mà chỉ dẫn tới
vực sâu.
Chúa Cứu
Thế đến để đem lại cho chúng ta lời giải đáp đối với ba vấn đề: tội lỗi, buồn rầu
và chết chóc. Chính Chúa Cứu Thế Giê-xu và chỉ một mình Ngài là Đấng thủy chung
không hề thay đổi “hôm qua, ngày nay và cho đến muôn đời” (13:8). Như Henry F. Lyte,
tác giả một bài thánh ca, đã viết: “Tôi thấy sự đổi thay và hư nát vây quanh;
còn Ngài, Đấng bất biến vẫn ở với tôi.”
Tất cả mọi
sự đều có thể thay đổi, nhưng Chúa Cứu Thế không hề thay đổi. Chúa Cứu Thế đứng
vững và bình tĩnh trong biển cả đam mê cuồng loạn của con người. Ngài vẫn sẵn
sàng đón nhận, ban phước hạnh cùng bình an cho những ai sớm quay về với Ngài.
Chúng ta đang sống trong thời ân điển tức thời kỳ Thượng Đế hứa là bất cứ ai muốn
cũng có thể đến đón nhận Con Ngài. Nhưng thời kỳ này sẽ không tiếp diễn mãi
mãi. Chính lúc này chúng ta cũng đang sống tạm bợ mà thôi.
Trời đất sẽ
tiêu tan, nhưng Lời ta vẫn còn mãi mãi.
Mat 24:35
Mat 24:35
THỜI GIỜ gần
hết. Phút giây sẽ điểm vào nửa đêm. Nhân loại sắp lao mình vào chỗ chết. Chúng
ta sẽ quay về đường nào đây? Còn có uy quyền nào không? Có đường lối nào chúng
ta có thể theo không? Có ánh sáng nào xuyên thấu bóng tối địa phủ không? Liệu
chúng ta có thể tìm ra chìa khóa mật mã cho những vấn đề nan giải của chúng ta
chăng? Có nguồn uy quyền nào để chúng ta nương tựa? Có phải Tạo hóa hay năng lực
vô danh nào đó chỉ đặt để chúng ta nơi đây mà không mảy may cho biết chúng ta từ
đâu đến, tại sao ở đây, và sẽ về đâu?
Câu trả lời
là không. Chúng ta có một cuốn mật mã. Chúng ta có một chìa khóa. Chúng ta có
nguồn tài liệu căn cội đầy quyền uy. Chúng ta tìm thấy những điều đó trong cuốn
sách lịch sử cổ xưa gọi là Kinh Thánh. Sách này lưu truyền đến chúng ta qua các
thời đại, qua tay nhiều người, xuất hiện dưới nhiều hình thức - và sống còn qua
bao cuộc tấn công. Sự phá hoại man rợ hay sự thông thái văn minh chẳng động đến
Kinh Thánh được. Lửa thiêu đốt hay tiếng cười của chủ nghĩa hoài nghi cũng chẳng
hủy diệt được Kinh Thánh. Qua nhiều thời đại đen tối của con người, những lời hứa
vinh hiển của Kinh Thánh vẫn còn tồn tại, bất biến.
Trụ sở
Thánh Kinh Hội Anh quốc và Hải ngoại vốn tọa lạc trên phố Giê-ru-sa-lem, là một
trong những đường phố chính của thủ đô Ba-lan hồi Đệ nhị thế chiến. Lúc người Đức
bắt đầu ném bom thành phố ấy, vợ của ông giám đốc vào kho sách, đem khoảng 2000
quyển Kinh Thánh xuống gian nhà hầm. Bà bị kẹt trong trận ném bom ấy và về sau
bị người Đức bắt đưa vào một trại tù binh. Bà tìm cách vượt ngục, sau khi chiến
tranh kết thúc, bà đã tìm lại được 2000 quyển Kinh Thánh ấy và đem phân phát
cho người có cần. Thủ đô Warsaw bị san bằng, nhưng trên phố Giê-ru-sa-lem, bức
tường của trụ sở Thánh Kinh Hội và Hải ngoại vẫn còn đứng sừng sững. Trên đó có
câu Kinh Thánh được sơn bằng chữ thật to: “TRỜI ĐẤT SẼ TIÊU TAN, NHƯNG LỜI TA VẪN
CÒN MÃI MÃI”.
Giờ đây, khi
chúng ta đang tiến đến gần thời gian được coi như là giờ quyết định mới mẻ của
lịch sử thế giới, chúng ta nên xem xét lại quyển sách bất diệt của sự khôn
ngoan và lời tiên tri. Chúng ta hãy tìm hiểu tại sao quyển sách đặc biệt này đã
đứng vững trước mọi thử thách và là nguồn gốc vững vàng của đức tin và sức mạnh
thiêng liêng cho con người.
Kinh Thánh
vượt xa một áng văn hay.
Có người
cho rằng Kinh Thánh chính là lịch sử của Y-sơ-ra-ên (Do-thái). Nhiều người khác
công nhận Kinh Thánh nêu lên những nguyên tắc đạo đức chánh đáng chưa từng có.
Những điều này tuy quan trọng nhưng chỉ có tính cách phụ thuộc đối với chủ đề
thật của Kinh Thánh là công trình cứu chuộc của Thượng Đế thể hiện trong Chúa Cứu
Thế Giê-xu. Tờ ‘Diễn Đàn Quốc tế ‘(International Herald Tribune) số ra ngày 30
tháng sáu 1983, giới thiệu nên đọc Kinh Thánh như đọc một tác phẩm văn chương,
bởi vì “Bản Kinh Thánh Anh văn là một áng văn hay”. Những ai đọc Kinh Thánh như
đọc một áng văn tuyệt tác, một tập thơ hay, hoặc một đoạn sử hấp dẫn mà bỏ qua
chuyện cứu rỗi, tức là bỏ sót ý nghĩa và sứ điệp thật sự của Kinh Thánh.
Thượng Đế
khiến Kinh Thánh được viết ra chính là để bày tỏ kế hoạch cứu chuộc của Ngài
dành cho con người. Thượng Đế cũng khiến Kinh Thánh được viết ra để làm sáng tỏ
những luật pháp vĩnh cửu của Ngài, hầu cho các con cái Ngài nhận được sự khôn
ngoan tối thượng của Ngài làm chỉ nam và tình yêu cao cả của Ngài làm nguồn an ủi
trong lúc bước đi trên đường đời. Vì không có Kinh Thánh, thế giới này hẳn sẽ
thành một nơi tối tăm kinh khiếp, không có bảng chỉ đường hay một ánh đèn soi lối.
Ta có thể
thấy ngay Kinh Thánh là sách duy nhất chứa đựng mặc khải của Thượng Đế. Có nhiều
kinh của các tôn giáo khác nhau: kinh Koran của Hồi giáo, kinh Phật của Phật
giáo, kinh Zendavosta của Bái hỏa giáo và kinh Vệ-đà của Bà-la-môn. Nhờ bản dịch
đáng tin cậy chúng ta có thể đọc và phân định giá trị của những kinh sách này,
và biết ngay tất cả những kinh sách đó đều được khai triển theo chiều hướng sai
lầm. Tất cả đều mở đầu với vài tia sáng chân thật rồi kết thúc trong tối tăm mờ
mịt. Thoạt nhìn ai ai cũng thấy Kinh Thánh có sự khác biệt hoàn toàn. Đó là cuốn
sách duy nhất cống hiến sự cứu chuộc cho con người và chỉ lối cho họ thoát khỏi
những hoàn cảnh khó khăn.
Phải mất một
ngàn sáu trăm năm mới hoàn tất việc biên soạn Kinh Thánh. Đó là công trình của
hơn ba mươi người được Thượng Đế chọn để chép Lời Ngài. Đa số những người này sống
trong nhiều thế hệ khác nhau và họ không ghi lại những điều họ nghĩ hay kỳ vọng.
Họ đã hành động như một phương tiện của Thượng Đế, để viết theo điều Ngài phán
dạy. Bởi sự soi dẫn thiên thượng, họ nhận thức được những chân lý cao cả không
dời đổi và ghi lại cho những người khác cũng có thể biết và hiểu như họ.
Trong khoảng
một ngàn sáu trăm năm đó, nhiều nhân vật thuộc các thời đại khác nhau, nói những
ngôn ngữ khác nhau và sống trong những quốc gia khác nhau đã chép nên sáu mươi
sáu sách trong Kinh Thánh về các vấn đề khác nhau, nhưng nội dung chỉ có một sứ
điệp. Thượng Đế đã phán với từng người bằng chính ngôn ngữ của họ, ngay trong
thời đại của họ, nhưng trong mọi trường hợp sứ điệp của Ngài vẫn giống nhau.
Khi những nhà học giả uyên thâm sưu tập những bản thảo xưa bằng tiếng Do-thái,
Ai Cập và Hy-lạp rồi dịch ra bằng ngôn ngữ hiện đại, họ thấy những lời hứa của
Thượng Đế vẫn không thay đổi. Sứ điệp cao cả của Ngài gởi cho con người vẫn bất
biến. Ngày nay, khi đọc những giòng chữ vượt thời gian này, chúng ta thấy rằng
những quy luật xử thế mới mẻ và đầy ý nghĩa cho thế hệ này, cũng giống như cho
thế hệ của Chúa Giê-xu. John Prokin nói: “Kinh Thánh là quyển sách đáp ứng những
nan đề của đời sống, của định mệnh cho những ai chịu suy nghĩ; là lời giải đáp
của Thượng Đế cho lòng tìm kiếm chân thành”.
Quyển sách
bán chạy nhất thế giới.
Vì vậy
Kinh Thánh luôn luôn là sách bán chạy nhất thế giới. Không sách nào có thể sánh
kịp sự khôn ngoan sâu sắc, vẻ đẹp thơ mộng và sự chính xác của sử liệu hay lời
tiên tri trong Kinh Thánh. Những người bài bác Kinh Thánh cho rằng Kinh Thánh đầy
dẫy ngụy tạo, giả tưởng và những lời hứa suông, chỉ tìm thấy khó khăn trong
chính họ chứ không ở trong Kinh Thánh. Các công cuộc nghiên cứu uyên bác và
công phu cho thấy sở dĩ có những mâu thuẫn bề ngoài là do dịch thuật không đúng
chứ không do sự bất nhất thiên thượng. Cần sửa đổi chính con người chứ không phải
Kinh Thánh. Có người đã nói: “Kinh Thánh không cần phải viết lại nhưng cần đọc
lại”.
Tuy nhiên
nhiều gia đình và nhiều người được gọi là có học thường hay chế giễu Kinh Thánh
và cho đó là một vật vô dụng chứ không phải là lời sống động của Thượng Đế. Khi
được mục sư hỏi trong Kinh Thánh có gì, một bé gái đã hãnh diện trả lời là bé
biết mọi điều ở trong đó và liệt kê: “Có hình bạn trai của chị, có phiếu mua dầu
thơm của mẹ, có nhúm tóc của đứa em trai, có giấy mua đồng hồ của bố!” Nhiều
gia đình dùng Kinh Thánh làm chỗ cất giấu thư cũ và hoa ép, và hoàn toàn quên
lãng sự giúp đỡ và bảo đảm mà Thượng Đế muốn Kinh Thánh mang lại cho họ.
Ngày nay
thái độ này đã thay đổi và đang thay đổi nhanh chóng! Những sự giả tạo và tô điểm
vô nghĩa của đời sống đang bị lột bỏ. Những lời hứa hão mà người ta đã lập với
nhau bây giờ chỉ còn là những sai lầm sờ sờ trước mắt. Nếu chúng ta lo sợ nhìn
quanh để tìm xem cái gì thật, đúng và vững bền thì một lần nữa chúng ta lại phải
quay về với Kinh Thánh, quyển sách cổ xưa đã từng ban sự an ủi, khích lệ và sự
cứu rỗi cho hàng triệu người trong những thế kỷ qua. Có lần nhà tôi bảo: “Nếu
con cái chúng ta lớn lên trong một gia đình tin kính và hạnh phúc luôn vững tin
Kinh Thánh là Lời của Thượng Đế chắc chắn không lực lượng hỏa ngục nào có thể
lay chuyển chúng được”. Tôi tạ ơn Chúa vì lòng tin kính của bà đã ảnh hưởng
trên cuộc đời các con chúng tôi.
Thật vậy,
người ta đang “tái khám phá” Kinh Thánh. Người ta đang đi tìm các bản Kinh
Thánh cũ hoặc mua những quyển mới, và nhận thấy rằng những từ quen thuộc suýt bị
mai một mang một ý nghĩa mới mẻ khiến họ có cảm tưởng Kinh Thánh chỉ mới viết
ngày hôm qua. Điều này xảy ra là vì Kinh Thánh bao hàm tất cả những tri thức mà
con người cần có để thỏa mãn sự khao khát của tâm hồn và giải quyết những vấn đề
của mình. Đó là bản họa đồ xây cất của vị Kiến Trúc Sư Lỗi Lạc, và chỉ bằng
cách theo đúng chỉ dẫn của họa đồ đó chúng ta mới có thể xây đắp được đời sống
mà chúng ta đang tìm kiếm.
Chân lý sẽ
giải phóng chúng ta.
Mỗi quốc
gia đều có một bản hiến pháp. Bản hiến pháp này được quốc hội soạn thảo và phê
chuẩn theo nguyện vọng nhân dân. Những người đã soạn thảo hiến pháp đều biết họ
đã viết ra một tài liệu căn bản cho chính phủ dân chủ; họ nhận thức rằng con người
chỉ có thể sống tự do và độc lập nếu mỗi người đều biết luật pháp. Người dân phải
biết những quyền lợi, đặc ân và giới hạn của mình. Họ được bình đẳng trước tòa
án, trước sự xét xử công minh của các vị thẩm phán là những người tôn trọng luật
pháp trong mọi trường hợp.
Người ta
nhận thấy rằng nếu người dân biết luật pháp và sống theo luật pháp, họ có thể
hiểu biết đúng vai trò của mình. Người dân có những quyền hạn và trách nhiệm hiến
định. Nếu một người vi phạm hiến pháp, người khác sẽ bị ảnh hưởng. Nhiều cử tri
đã nhận thấy rằng chỉ vì sử dụng lá phiếu không thận trọng, họ đã đưa những người
họ không thích vào trong các cơ sở chính quyền cũng như cơ quan dân cử.
Quốc gia
chúng ta càng trưởng thành và thịnh vượng trong khuôn khổ của hiến pháp thể nào
thì Cơ Đốc giáo cũng đã nẩy nở và bành trướng theo những luật định trong Kinh
Thánh thể ấy. Nếu hiến pháp được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người thể nào
thì Kinh Thánh cũng là Hiến pháp tối cao cho toàn thể nhân loại thể ấy. Các luật
lệ của Kinh Thánh được áp dụng bình đẳng cho tất cả những ai sống trong ảnh hưởng
Kinh Thánh, không có ngoại lệ hoặc sự phân biệt nào.
Hiến pháp
là luật pháp tối cao của quốc gia thể nào thì Kinh Thánh là luật pháp tối cao của
Thượng Đế thể ấy. Chính trong Kinh Thánh, Thượng Đế trình bày những luật lệ
thiêng liêng của Ngài. Chính trong Kinh Thánh Thượng Đế đã lập những lời hứa vĩnh
cửu. Chính trong Kinh Thánh Thượng Đế đã khải thị kế hoạch cứu chuộc nhân loại
của Ngài.
Trong tất
cả những kỳ quan của thiên nhiên, chúng ta đều thấy định luật của Thượng Đế. Ai
đã từng ngắm nhìn các vì sao trong một đêm thanh vắng mà không thầm kinh ngạc
trước sự vinh quang trong công trình tuyệt diệu của Thượng Đế? Ai đã không cảm
thấy tim mình rào rạt niềm vui khi thấy tất cả mọi tạo vật bừng lên sức sống và
sinh lực mới trong mùa xuân? Chúng ta thấy rõ quyền năng của Thượng Đế và kế hoạch
chi tiết vô tận của Ngài trong thiên nhiên, nhưng thiên nhiên không cho chúng
ta biết gì về tình yêu thương và ân điển của Ngài. Chúng ta không tìm ra lời hứa
cho sự cứu chuộc cá nhân chúng ta trong thiên nhiên.
Trong thâm
tâm, chúng ta cảm biết sự hiện diện của Thượng Đế và sự khác biệt giữa điều thiện
và điều ác; nhưng đó chỉ là một sứ điệp gián đoạn, không rõ ràng và bao quát như
những bài học trong Kinh Thánh. Chỉ trong Kinh Thánh chúng ta mới tìm được sứ điệp
rõ ràng không nhầm lẫn mà Cơ Đốc giáo chân chính dùng làm căn bản.
Tất cả những
giáo lý Cơ Đốc (do chữ Chúa Cứu Thế, Christian, Christianity, có nghĩa là của
Chúa Cứu Thế Giê-xu hay là thuộc về Cứu Chúa Giê-xu) đều được trình bày trong
Kinh Thánh và người Cơ Đốc chân chính không phủ nhận phần nào cũng không cố
thêm điều gì vào Lời Thượng Đế. Trong khi hiến pháp có thể bị tu chính, thì
Kinh Thánh không cần sửa đổi bao giờ. Chúng tôi tin quyết rằng những nhà soạn
thảo Kinh Thánh đã được Thánh Linh hướng dẫn cả trong tư tưởng lẫn ngôn từ. Một
môn đồ của Chúa Giê-xu là Phê-rơ đã nói: “Vì không có lời tiên tri nào trong
Thánh Kinh do các tiên tri tự nghĩ ra, nhưng chính Chúa Thánh Linh đã cảm ứng họ
nói ra lời của Thượng Đế” (IIPhi 1:21).
Sứ đồ Phao-lô
(khi trước có tên là Sau-lơ, là một người sùng đạo Do-thái thường hay bắt bớ
các Cơ Đốc nhân. Sau đó ông được Chúa kêu gọi và trở nên nhà truyền giáo danh
tiếng nhất) cũng đã viết: “Cả Kinh Thánh đều được Thượng Đế cảm ứng, có ích cho
việc dạy dỗ, khiển trách, sửa trị, đào luyện con người theo sự công chính. Nhờ đó,
người của Thượng Đế được thành thục, có khả năng làm mọi việc lành” (IITi 3:16, 17).
Khi viết
ra những sứ điệp chân chính các trước giả Kinh Thánh không bao giờ cố ý thêm bớt
các thực tại của cuộc đời. Tội lỗi của người lớn kẻ nhỏ được phô bày, những sự
yếu đuối của bản tính con người được nhìn nhận và đời sống vào thời Kinh Thánh đã
được tường trình một cách trung thực. Điều lạ lùng là những nét sinh hoạt và
nguyên do hành động của những người đã sống trong thời quá xa xôi như vậy vẫn
có một phong vị vô cùng mới mẻ! Khi chúng ta đọc, các trang Kinh Thánh giống như
những tấm gương đặt trước tâm trí chúng ta, phản chiếu những sự kiêu hãnh và
thành kiến, thất bại và tủi nhục, tội lỗi và đau khổ của chính chúng ta.
Chân lý vượt
thời gian. Từ thời đại này qua thời đại khác, từ dân tộc này đến dân tộc khác,
từ địa phương này đến địa phương khác. Chân lý vẫn không biến đổi. Tư tưởng con
người có thể khác nhau, tập quán con người có thể thay đổi, các tiêu chuẩn đạo đức
có thể biến thiên, nhưng chân lý siêu việt lớn lao vẫn tồn tại vĩnh viễn với thời
gian.
Sứ điệp của
Chúa Cứu Thế Giê-xu là Kinh Thánh, truyện tích về sự cứu rỗi. Những học giả
Kinh Thánh uyên thâm đã tìm thấy truyện Chúa Cứu Thế Giê-xu ngay từ lúc khởi đầu
Cựu Ước vì Ngài là chủ đề đích thực của Cựu Ước lẫn Tân Ước.
Chúa
Giê-xu là sứ điệp đời đời của Kinh Thánh, là câu chuyện về sự sống, sự bình an,
sự vĩnh cửu và Thiên đàng. Kinh Thánh không có một mục đích ẩn giấu nào cả.
Kinh Thánh không cần phải giải thích một cách đặc biệt. Kinh Thánh có một sứ điệp
duy nhất, trong sáng và mạnh mẽ cho mọi người, sứ điệp của Chúa Cứu Thế đề nghị
hòa thuận với Thượng Đế.
Một ngày
kia, Chúa Giê-xu và các môn đồ quây quần cùng nhau trên một ngọn núi gần
Ca-bê-nam (một thành phố nhỏ phía Tây Bắc hồ Ga-li-lê) . Có lẽ Phê-rơ ngồi một
bên và Giăng (một môn đồ của Chúa Giê-xu, là người đã viết sách Phúc Âm thứ tư,
ba thơ tín và sách Khải-thị) ngồi bên kia. Chắc hẳn Chúa Giê-xu đã im lặng và
trìu mến nhìn các môn đồ trung tín của Ngài, như một người cha nhìn con cái
trong gia đình - yêu thương từng đứa con một, mỗi đứa vì một lý do đặc biệt,
khiến ai nấy đều cảm thấy mình được biệt riêng trong sự âu yếm. Chắc chắn đó là
cách Chúa Giê-xu yêu thương các môn đồ Ngài.
Các môn đồ
chắc đã vô cùng kính cẩn trước cái nhìn bình tĩnh và yêu thương của Chúa. Chắc
họ đã ý thức được một sự êm đềm trong tâm tư, một linh cảm về vấn đề trọng đại
sẽ được bày tỏ, vấn đề họ phải ghi nhớ, phải truyền rao cho những người khác
trên khắp thế gian chưa được hưởng đặc ân trực tiếp nghe Lời Ngài phán như họ đã
hưởng.
Vì chính
trên ngọn núi này, đứng dưới những cây ô-li-ve xanh, Chúa Giê-xu đã rao truyền
một bài giảng vĩ đại nhất mà tai người chưa từng nghe, Ngài đã giải thích về
tinh hoa của đời sống Cơ Đốc. Khi Ngài phán xong, một sự im lặng thiêng liêng đã
giáng trên các thính giả, họ “ngạc nhiên về lời dạy của Chúa. Vì Ngài giảng dạy
đầy uy quyền, khác hẳn các thầy dạy luật Do-thái” (Mat 7:28, 29).
Thật vậy,
Ngài đã dạy với quyền uy, quyền uy của chính Thượng Đế. Những luật lệ Ngài
trình bày chính là luật lệ của Thượng Đế, những luật lệ mà mỗi Cơ Đốc nhân có
lòng mong mỏi được cứu phải noi theo.
Bạn và
Kinh Thánh.
Nếu bạn chưa
có Kinh Thánh, hãy mua ngay một quyển - quyển nào thích hợp với bạn nhất, vừa cầm
tay nhất, cỡ chữ dễ đọc nhất, và tự tìm lấy lý do tại sao quyển sách duy nhất ấy
đã sống mãi với thời gian. Hãy tự tìm hiểu tại sao Kinh Thánh lại đáp ứng mọi
nhu cầu của con người, tại sao Kinh Thánh lại giúp cho nhân loại đức tin và sức
mạnh để tiến bộ.
Nếu bạn chưa
hề đọc Kinh Thánh, có lẽ bạn nên làm quen với Kinh Thánh bằng cách đọc sách
Phúc Âm Giăng. Sách này được coi là một trong những sách uyên thâm nhất của
Kinh Thánh mà cũng là sách rõ ràng nhất. Sách được viết ra với mục đích khẳng định
là bày tỏ phương cách và lý do của sự cứu rỗi nhân loại, hầu thỏa mãn những vấn
đề của lý trí cũng như những sự ao ước của con tim.
Sau khi đọc
xong sách Giăng, bạn có thể làm quen với Phúc Âm do Mác, (tác giả sách Phúc Âm
thứ hai trong Kinh Thánh) Lưu-ca (Bác sĩ, đã từng đi truyền giáo với Phao-lô,
là tác giả sách Phúc Âm thứ ba trong Kinh Thánh) và Mã-thi (trước là người thâu
thuế, sau là môn đồ Chúa Giê-xu, là tác giả sách Phúc Âm thứ nhất trong Kinh
Thánh) xem các tác giả có các đức tính và lối hành văn rất khác nhau này đã
trình bày cùng một câu chuyện về sự cứu chuộc qua Chúa Giê-xu như thế nào. Bạn
sẽ ý thức được chân lý đầy quyền lực và phổ cập nằm trong giáo lý Phúc Âm và sẽ
cảm xúc được điều mà Phao-lô muốn bày tỏ khi ông nói: “Hôm qua, ngày nay và cho
đến muôn đời, Chúa Cứu Thế Giê-xu không bao giờ thay đổi” (He13:8).’
Khi đã đọc
xong các sách Phúc Âm, bạn hãy đọc Tân Ước một mạch từ đầu chí cuối theo thứ tự
các sách. Thực hiện được điều đó, bạn sẽ cảm thấy một sự vui thích lạ lùng
trong việc đọc Kinh Thánh và có thể nhận rằng Kinh Thánh là một nguồn cảm xúc,
là sự chỉ bảo, dẫn dắt thực tiễn, là kho tàng quý báu các lời khuyến cáo hợp
lý, và việc đọc Kinh Thánh sẽ trở thành một phần trong đời sống hằng ngày của bạn.
Hiểu biết
Kinh Thánh là điều thiết yếu để đạt được một đời sống dồi dào và ý nghĩa. Vì lời
lẽ của sách này có thể lấp bằng những khiếm khuyết, nối lại những sự gián đoạn,
làm cho những màu sắc nhạt phai của đời sống chúng ta trở thành sáng chói như
ngọc ngà châu báu. Hãy tập thói quen giải quyết mọi vấn đề của bạn theo Kinh
Thánh. Trong những trang Kinh Thánh bạn sẽ tìm thấy lời giải đáp chính xác.
Nhưng trên
hết, Kinh Thánh là sự bày tỏ về phẩm tính của Thượng Đế. Các triết gia của mọi
thời đại đã thắc mắc về vấn đề Đấng Tối Cao. Đấng đó là ai? Đấng đó là gì? Ngài
ở đâu? Nếu có, làm thể nào tôi biết được Đấng ấy? Những câu hỏi này và hàng
ngàn câu hỏi khác nữa về Thượng Đế đã được bày tỏ trong quyển sách thiêng liêng
mà chúng ta gọi là Kinh Thánh.
Có lần một
Cơ Đốc nhân hỏi: “Ông có biết một quyển sách nào để ông có thể gối đầu khi hấp
hối không?” Joseph Cook đáp: “Có chứ, đó là quyển Kinh Thánh mà ông cần đọc khi
còn sống. Trên đời này, chỉ có duy nhất một Quyển Sách như thế mà thôi”.
Nếu dò
xét, có thể tìm thấy Thượng Đế không?
Giop 11:7
Giop 11:7
THƯỢNG ĐẾ
là ai? Ngài như thế nào? Làm thế nào chúng ta biết chắc có Thượng Đế? Ngài có từ
bao giờ? Chúng ta có thể biết được Ngài không?
Ai ai cũng
hỏi những câu trên đây - hỏi người khác, hoặc tự hỏi mình, vì khi chiêm ngưỡng
thế giới quanh ta, chúng ta không thể không ngạc nhiên về sự sáng tạo. Hằng
ngày chúng ta trông thấy phép lạ của sự sống và huyền nhiệm của sự chết, vẻ đẹp
của cây cối trổ hoa và sự huy hoàng của khung trời đầy ánh sao, nét hùng vĩ của
núi non và sự mênh mông của biển cả. Ai đã dựng nên những điều ấy? Ai đã nghĩ
ra định luật về trọng lực để ràng buộc mọi vật vào vị trí thích đáng của chúng?
Ai đã truyền lịnh cho ngày và đêm vận chuyển đều đặn theo thời tiết?
Chỉ có thể
có một câu trả lời duy nhất là tất cả những việc này và những việc khác là công
trình của Đấng Tạo Hóa Chí Cao. Phải có một người vẽ kiểu đồng hồ như thế nào
thì cũng phải có một Đấng Tối Cao phác họa vũ trụ chính xác thể ấy. Chúng ta gọi
Đấng đó là Thượng Đế. Toàn thể nhân loại đã quen thuộc với danh hiệu này. Từ
lúc thơ ấu, chúng ta đã gọi tên Thượng Đế. Kinh Thánh tuyên bố rằng Thượng Đế
mà chúng ta nói đến, Thượng Đế mà chúng ta ca ngợi, Thượng Đế nguồn ban ân phước,
chính là Thượng Đế tạo dựng nên thế giới này và đặt chúng ta vào đó.
Một người
vốn rất khôn ngoan là Benjamin Franklin đã nói: “Tôi sống đã khá lâu, càng sống
lâu, tôi càng thấy thêm nhiều bằng chứng mạnh mẽ rằng Thượng Đế điều khiển các
công việc của loài người”. Blaise Pascal, một người khôn ngoan viết: “Nếu con
người không được tạo ra vì Thượng Đế, thì tại sao chỉ khi được ở trong Thượng Đế
con người mới tìm thấy hạnh phúc? Nếu con người đã được tạo ra vì Thượng Đế, tại
sao con người chống lại Thượng Đế?” Đây là nan đề của chúng ta.
Nhưng bạn
hỏi “Ngài là ai? Ngài ở đâu?” Tất cả chúng ta đều biết danh Ngài. Chúng ta kêu
cầu Ngài trong những giờ khó khăn, thử thách nghiêm trọng nhất. Lắm người trong
chúng ta luôn luôn suy tư đến Ngài trong những giờ phút chúng ta thức tỉnh. Kẻ
khác nói rằng họ không tin Ngài và Ngài không thực hữu. Có kẻ lại nói rằng “Hãy
giải thích cho tôi biết Thượng Đế, may ra tôi sẽ tiếp nhận Ngài”.
Đối với những
ai đã quan tâm đến ý nghĩa của lịch sử thế giới mà còn thắc mắc: “Thượng Đế như
thế nào?” thì câu trả lời rất giản dị là: Thượng Đế chính là Chúa Cứu Thế
Giê-xu. Chúa Giê-xu đã đến cho nhân loại được thấy Thượng Đế và trở thành Đấng
Cứu Chuộc chúng ta thế nào, thì cũng vậy, khi Ngài đã trở về trời rồi, Ngài cũng
sai Đức Thánh Linh đến ngự trong lòng kẻ tin Ngài, giúp họ sống sao cho thế
gian vô tín cũng được nhìn thấy Chúa Cứu Thế.
Nếu đó là điều
bạn cảm thấy, nếu trọn đời bạn đã nghe về Ngài và nói đến Ngài nhưng vẫn còn chờ
đợi người nào giải thích về Ngài cho mình rõ, rồi bạn mới có thể đặt lòng tin nơi
Ngài và chỉ một mình Ngài mà thôi, thì chúng ta hãy tìm xem Kinh Thánh đã trình
bày cụ thể về Ngài như thế nào.
Thượng Đế
như thế nào?
Trong giai
đoạn quyết định này của lịch sử thế giới, mọi người đều phải tìm cách giải đáp
câu hỏi này: “Thượng Đế là ai?” Ai ai cũng nêu câu hỏi ấy và tìm cách xác định
câu trả lời. Mọi người phải biết chắc, không chút nghi ngờ rằng Thượng Đế là
ai. Và Ngài có khả năng thực hiện những gì? Kinh Thánh chép: “Vì sự thật về Thượng
Đế đã được giãi bày cho họ, chính Thượng Đế đã tỏ cho họ biết” (Ro 1:19).
Căn nguyên
của mọi vấn đề làm chúng ta lo âu chính là vì thiếu hiểu biết về Thượng Đế và
không chịu vâng lời Ngài. Chính vì con người không biết rõ kế hoạch của Thượng Đế
nên thế giới bị xáo trộn. Chính vì con người không bằng lòng học biết và vâng
giữ luật pháp của Thượng Đế mà linh hồn chúng ta đầy gánh nặng. Vì vậy chúng ta
hãy học hỏi về Ngài càng nhiều càng tốt.
Chúng ta sẽ
tìm đâu được sự hiểu biết này? Trong chúng ta ai có thể tỏ cho biết chân lý? Tất
cả chúng ta chẳng phải là những tạo vật hữu hạn sao? Thượng Đế liệu có chỉ định
người nào trên đất này với thẩm quyền tối hậu để nói về Ngài không? Không có ai
cả! Người duy nhất có thể làm điều đó, đã sống cách đây hai ngàn năm, và đã bị
chúng ta đóng đinh trên cây thập tự! Vậy làm thế nào chúng ta học hỏi được?
Chúng ta hỏi
những học giả uyên bác, họ có thể cho chúng ta biết Thượng Đế là hiện thân của
mọi vật trong cõi thiên nhiên và đời sống; tất cả mọi sinh vật đồng nhất với Thượng
Đế; chính sự sống là biểu tượng của hữu thể thiên thượng của Ngài. Họ sẽ nói bạn
có thể nhìn thấy Thượng Đế trong giọt nước vô cùng li ti cũng như trong khung
trời bao la rộng lớn.
Hỏi một
triết gia thì ông ta sẽ bảo Thượng Đế là năng lực nguyên thủy và bất di dịch đằng
sau mọi tạo vật; Ngài là động cơ chính yếu làm cho thế giới chuyển vận; Ngài là
quyền năng vô thủy vô chung. Ông ta sẽ nói sự sống và vẻ đẹp chúng ta thấy là
biểu tượng của quyền năng lưu ra từ động cơ đó theo một mạch kín.
Nếu hỏi nữa,
bạn sẽ được biết Thượng Đế là Đấng Tuyệt Đối, là mọi sự trong mọi sự, và không
ai có thể hiểu biết nhiều hơn về Ngài. Có nhiều định nghĩa khác nhau về Thượng Đế.
Tiến sĩ Akbar Haqq bảo rằng thoạt tiên trong ý niệm về Thượng Đế tất cả mọi người
đều theo độc thần chủ nghĩa. Mỗi quốc gia, mỗi chủng tộc, mỗi gia đình, mỗi cá
nhân đều cố giải thích Đấng Cao Cả ở đằng sau vũ trụ. Trải mọi thời đại nhân loại
đã cố gắng tìm kiếm Đấng Tạo Hóa mà họ không biết, chỉ thấy công trình của
Ngài. Trong những lời giải thích trên đây, lời giải thích nào là đúng? Chúng ta
phải chấp nhận lý thuyết nào trong những lý thuyết vừa kể? Trong số những vị tự
nhận là có thẩm quyền này, chúng ta phải tin theo vị nào?
Như chúng
ta đã thấy trong chương trước, Thượng Đế đã tự bày tỏ về chính mình Ngài trong
quyển sách chúng ta gọi là Kinh Thánh. Nếu chúng ta tin Kinh Thánh có sự mặc khải
về Thượng Đế, thì tâm trí chúng ta có thể được thỏa mãn hoàn toàn và tâm hồn
chúng ta đã tìm được lời giải đáp chính xác, chúng ta đang trên đường hiểu biết
và nhận thức bản chất chân thật của Thượng Đế.
Trong Kinh
Thánh, Thượng Đế tự bày tỏ về chính mình Ngài hằng trăm cách; nếu chúng ta đọc
Kinh Thánh chăm chú và đều đặn như đọc nhật báo, chúng ta sẽ quen biết và thành
thạo về Thượng Đế như chúng ta biết rành rẽ về các nhân vật trong giới kịch trường.
Một hạt
kim cương có nhiều mặt như thế nào thì Thượng Đế cũng có vô vàn phương diện để
tự khải thị chính Ngài cho chúng ta thể ấy; dù viết bao nhiêu pho sách vẫn chưa
đủ. Vì vậy, với số trang có hạn, chúng ta chỉ có thể đề cập đến bốn phương diện
khải thị của Thượng Đế được xem là có ý nghĩa hơn hết, chúng ta đáng phải luôn
luôn khắc ghi vào tâm trí.
Thượng Đế
là Thần Linh.
Thứ nhất:
Kinh Thánh tuyên bố rằng Thượng Đế là Thần Linh. Chúa Giê-xu, khi trò chuyện với
người đàn bà bên giếng thành Si-kha (một thành phố Sa-ma-ri, ở giữa nước
Do-thái) đã tuyên bố tỏ tường rằng: “Thượng Đế là Thần Linh” (Gi 4:24).
Bạn nghĩ
gì khi nghe đến tiếng Thần? Hình ảnh nào hiện ra trong trí bạn? Có phải bạn có
cảm tưởng đó là một đám hơi tỏa bềnh bồng lơ lửng ngang bầu trời? Thần có phải
là nhân vật làm cho trẻ con sợ hãi không? Hay Thần là một cái gì không có, vô
hình dạng? Phải chăng đó là điều Chúa Giê-xu muốn nói khi Ngài phán: “Thượng Đế
là Thần Linh?”
Muốn biết
“thần linh” thực sự là gì và Chúa Giê-xu định bày tỏ điều gì khi Ngài dùng chữ đặc
biệt đó, chúng ta lại phải mở Kinh Thánh xem Lời Chúa Cứu Thế phán sau khi sống
lại: “Hãy rờ đến ta và xem, vì thần linh đâu có thịt xương như ta” (Lu 24:39). Do đó chúng ta có thể
biết chắc rằng thần không có thân thể. Thần là phản diện của thân thể. Tuy nhiên,
thần có thân vị và quyền năng. Điều này khó hiểu đối với chúng ta, vì chúng ta
muốn tìm hiểu thần bằng trí óc hữu hạn, trói buộc trong thân thể.
Là con người
bị tước bỏ cái nhìn vô hạn mà khởi thủy Thượng Đế đã ban cho nhân loại, chúng
ta không thể hiểu được sự vinh hiển và vĩ đại của Thần Linh vốn cách xa chúng
ta. Khi nghe tiếng “thần” lập tức chúng ta cố thu hẹp “thần” theo tầm vóc của
chúng ta, và làm cho “thần” thích hợp với phạm vi nhỏ bé của tâm trí mình. Điều
này giống như việc giải thích đại dương mênh mông hùng vĩ, đáng sợ, cho một người
chưa bao giờ thấy nguồn nước nào lớn hơn một vũng bùn! Làm thế nào người đó có
thể quan niệm được biển cả không bến bờ? Chỉ thấy cái ao nông cạn sình lầy như
thế, làm sao người đó có thể dò thấu những vực sâu không đáy, sự sống huyền bí,
năng lực đột khởi, sự lôi cuốn không ngừng và sự dữ dội kinh hoàng của bão tố đại
dương hoặc vẻ đẹp tuyệt vời của biển cả yên lặng? Chỉ thấy vũng bùn thì làm sao
người đó biết được những điều bạn đang nói đến? Bạn sẽ dùng lời lẽ thuyết phục
nào để mô tả hùng lực của biển cả? Làm sao bạn có thể khiến người ấy tin rằng
thật có một kỳ quan như vậy?
So với ví
dụ trên, để hiểu điều Chúa Giê-xu bày tỏ khi Ngài phán: “Thượng Đế là Thần
Linh” quả là điều vô cùng khó khăn đối với chúng ta. Chúa Giê-xu biết rõ điều đó!
Trí óc Ngài không bị giới hạn như trí óc chúng ta. Mắt Ngài không chăm chú vào
vũng bùn của đời sống. Ngài biết rõ phạm vi vô hạn của Thần, và Ngài ngự đến để
giúp chúng ta hiểu biết phần nào về công việc kỳ diệu, sự an ủi và sự bình an của
Thần.
Chúng ta
biết rằng thần linh không bị giới hạn trong thân thể. Thần Linh không bị hao
mòn hoặc biến đổi như thân thể. Kinh Thánh tuyên bố rõ rằng Thượng Đế chính là
Thần Linh, Ngài không bị giới hạn bởi thân thể, hình dạng, địa giới. Mắt trần
chỉ chăm xem vật chất, tuyệt đối không thể đo lường hay không thể nhận Ngài.
Kinh Thánh cho chúng ta biết Thượng Đế không bị giới hạn nên Ngài có thể đồng
thời ở khắp mọi nơi, nghe mọi lời, thấy mọi vật và biết mọi điều.
Vì chúng
ta không thể có quyền năng đó, nên chúng ta tìm cách giới hạn Thượng Đế như
chính chúng ta bị giới hạn. Chúng ta cố phủ nhận rằng Thượng Đế không có quyền
năng thực hiện những điều chúng ta không thể làm được. Chúng ta tìm cách nói rằng
vì chúng ta không thể ở khắp mọi nơi cùng một lúc nên Thượng Đế cũng thế! Chúng
ta giống như người kia sau khi nghe nói về biển, bèn tìm đến bờ biển, lội xuống
nước, lấy tay vốc nước và nói: “A, tôi đã chinh phục được biển cả rồi! Tôi đã nắm
lấy được đại dương trong tay, và làm chủ đại dương!”. Đúng là người này đã sở hữu
một phần của đại dương, nhưng cùng một lúc, biết bao nhiêu người trên bờ biển
khác cũng đã lội xuống nước và cho rằng họ cũng làm chủ vài giọt nước biển vậy.
Hàng triệu người trên thế gian có thể đi xuống biển, dùng tay hứng lấy nước biển.
Họ có thể hứng bao nhiêu nước tùy thích, tùy nhu cầu, nhưng biển vẫn không thay
đổi. Cảnh hùng vĩ và sức mạnh của biển vẫn thế, sự sống dưới đáy biển không sao
dò được, chẳng biến cải chút nào, mặc dầu biển cả đã thỏa mãn nhu cầu của mọi
người tiếp xúc với nó.
Thượng Đế
cũng vậy. Ngài ở mọi nơi cùng một lúc, chú ý đến những lời cầu nguyện của mọi
người nhơn danh Chúa Cứu Thế, thực hiện những điều kỳ diệu, ràng buộc các vì
sao vào vị trí của chúng, khiến cây mọc vươn lên qua lòng đất và cá lội giữa biển
khơi. Thượng Đế không bị giới hạn. Sự thông sáng Ngài vô tận. Sức mạnh Ngài vô
biên. Lòng yêu thương Ngài không bờ bến. Sự khoan thứ Ngài vô hạn định.
Nếu bạn đang
tìm cách giới hạn Thượng Đế, xin hãy dừng lại! Đừng thử hạn chế chính Ngài hoặc
những công trình của Ngài vào một địa điểm hay một không gian duy nhất. Bạn sẽ
không bao giờ đủ can đảm thay đổi sự vận hành của mặt trăng, chặn đứng không
cho quả đất xoay quanh trục của nó. Như vậy, tìm cách giới hạn Thượng Đế là Đấng
Sáng Tạo và Kiểm Soát tất cả những kỳ quan đó, quả là điên rồ cùng cực biết
bao!
Tôi nhớ ơn
mẹ tôi đời đời vì nhiều điều, song có một ân phước bền vững hơn hết mà mẹ tôi đã
truyền vào đời sống tôi, ấy là lúc lên mười mẹ dạy rằng “Thượng Đế là Thần
Linh, vô thủy, vô chung, đời đời và không thay đổi”. Định nghĩa này về Thượng Đế
đã gắn liền với tôi trong suốt cuộc sống và nếu người nào nhận thức được rằng
“Thượng Đế là Thần Linh, vô thủy, vô chung, đời đời, bất biến” người ấy sẽ thắng
được sự cám dỗ muốn hạn chế Ngài, thắng được mọi ý tưởng hoài nghi về khả năng
của Ngài làm những việc mà chính bạn không thể làm được.
Sở dĩ người
ta nghi ngờ Kinh Thánh không phải chính là lời của Thượng Đế vì không chịu thừa
nhận Ngài làm được bất cứ việc gì mà họ chẳng làm được. Nếu bạn chưa tin chắc
Kinh Thánh do Thượng Đế soi dẫn, hãy trở về đọc Kinh Thánh. Hãy đọc Kinh Thánh
giống như một người suốt đời chỉ thấy vũng bùn và bây giờ lần đầu tiên đứng đối
diện với đại dương. Có lẽ bây giờ bạn mới cảm biết lần đầu tiên về quyền năng
vô hạn của Thượng Đế. Có lẽ bây giờ bạn mới hiểu Ngài thật là Đấng nào. Vì nếu
Thượng Đế là Thần Linh như Chúa Giê-xu đã tuyên bố thì các vấn đề thiên hựu,
quyền cao cả của Thượng Đế trong công việc loài người, và sự soi dẫn những người
chép Kinh Thánh không còn là những thắc mắc nữa. Một khi bạn hiểu được Thượng Đế
thực sự là ai, thì mọi việc được an bài.
Thượng Đế
là một Thân vị.
Thứ hai:
Kinh Thánh bày tỏ rằng Thượng Đế là một Thân vị. Trong suốt Kinh Thánh có những
câu: “Thượng Đế yêu thương”, “Thượng Đế phán”, “Thượng Đế hành động”. Thượng Đế
có mọi đặc tính mà chúng ta cho rằng một thân vị phải có. Thân vị phải có cảm
giác, suy nghĩ, ước ao, mong muốn và có thể bày tỏ cá tính của mình.
Trên thế
gian này, chúng ta giới hạn cá tính vào thân thể. Trí óc hữu hạn của chúng ta
không thể nhìn thấy được cá tính nào không biểu lộ qua thịt và xương. Chúng ta
biết rằng cá tính của mình sẽ không luôn luôn mặc lấy thân thể, vì lúc chết, cá
tính mình sẽ rời bỏ thân thể để tiến về những mục đích đang đợi chờ. Chúng ta biết
tất cả những điều đó - tuy rất khó cho chúng ta chấp nhận như vậy.
Giá như
chúng ta đều nhận biết rằng cá tính không sao đồng nhất với vật thể, thì đó quả
là một mặc khải kỳ diệu! Thượng Đế không bị hạn chế bởi một thân thể, tuy nhiên
Ngài vẫn là một thân vị. Ngài cảm giác, suy nghĩ, yêu thương, tha thứ và chia xẻ
những vấn đề rắc rối và nỗi lo buồn chúng ta gặp phải.
Thượng Đế
Thánh Khiết và Công Chính.
Thứ ba:
Kinh Thánh tuyên bố rằng Thượng Đế không những chỉ là Thần, là Thân vị, mà còn
là Đấng Thánh Khiết và Công Nghĩa. Thượng Đế đã bày tỏ rằng Ngài là Thượng Đế
Chí Thánh. Ngài hoàn toàn trọn lành và tuyệt đối về mọi phương diện. Ngài thánh
khiết không thể dung chịu cuộc sống tội lỗi. Ngài là Thượng Đế Chí Thánh và Trọn
Lành.
Giá như
chúng ta có thể thấy hình ảnh chân thật về sự công nghĩa và oai nghiêm của Ngài
thì cuộc sống cá nhân và quốc gia của chúng ta sẽ thay đổi biết bao! Giá như
chúng ta có dịp nhận biết vực sâu bao la chia cách người không công nghĩa với sự
công nghĩa hoàn hảo của Thượng Đế, thì thế giới sẽ biến cải trong đầu hôm sớm
mai! Kinh Thánh tuyên bố rằng Ngài là Sự Sáng, trong Ngài chẳng có sự tối tăm,
và Ngài là Đấng Tối Cao không khuyết điểm, không tì vết.
Đây cũng
là một ý niệm mà loài người bất toàn không thể hiểu được. Vì đầy dẫy tội lỗi và
yếu hèn, chúng ta khó có thể tưởng tượng nổi sự thánh khiết tuyệt vời của Thượng
Đế - nhưng nếu muốn hiểu biết Kinh Thánh và được lợi ích nhờ Kinh Thánh thì
chúng ta phải nhìn nhận sự thánh khiết của Ngài.
Từ đầu chí
cuối Kinh Thánh nhấn mạnh đến vực sâu chia cách con người bất toàn với Thượng Đế
Trọn Lành. Chúng ta thấy điều đó trong việc phân chia nơi đền tạm và đền thờ của
dân Do-thái thành nơi thánh và nơi chí thánh. Điều đó cũng được bày tỏ trong của
tế lễ mà tội nhân phải cung hiến nếu muốn đến gần Thượng Đế. Ý niệm này được nhấn
mạnh trong việc thiết lập một chức tế lễ đặc biệt để làm trung gian giữa Thượng
Đế và dân Do-thái, trong các luật lệ của sách Lê-Vi Ký liên quan đến sự ô uế.
Chúng ta thấy điều này trong các lễ hội của dân Do-thái và trong sự cô lập của
họ ở xứ này. Sự thánh khiết của Thượng Đế chi phối mọi nguyên tắc khác của
Ngài.
Kinh Thánh
tuyên bố rằng vương quyền của Thượng Đế được thiết lập trên căn bản thánh khiết
của Ngài. Vì Thượng Đế là Đấng chí thánh và con người là kẻ ô uế nên có một khoảng
cách rộng lớn giữa Thượng Đế và tội nhân không chịu ăn năn. Kinh Thánh cho
chúng ta biết những sự bất kính của chúng ta ngăn cách chúng ta với Thượng Đế -
ngăn cách hoàn toàn, đến nỗi chúng ta không thấy mặt Ngài và Ngài sẽ không nghe
tiếng chúng ta kêu cầu Ngài. Tác giả Thi-Thiên nói: “Nếu lòng tôi có chú về tội
ác, ắt Chúa chẳng nghe tôi” (Thi 66:18). Tác giả lại nói: “Mắt
Thượng Đế đoái xem người công bình, lỗ tai Ngài nghe tiếng kêu cầu của họ... Thượng
Đế... làm thỏa nguyện mọi người kính sợ Ngài, cũng nghe tiếng kêu cầu của họ và
giải cứu cho” (34:15; 145:18, 19).
Thượng Đế
quá tinh khiết nên không thể nhìn xem tội ác mà khen chuộng được. Ngài quá
thánh thiện nên không thể giao thiệp với tội lỗi. Trước khi tội lỗi xen vào
trong nhân loại, Thượng Đế và con người có sự thông công với nhau. Giờ đây sự
thông công ấy đã bị gián đoạn; và ngoài Chúa Cứu Thế Giê-xu ra không còn một sự
giao thông nào giữa Thượng Đế và con người. Chỉ bởi Chúa Cứu Thế Giê-xu, con người
mới có thể tái lập sự thông công với Thượng Đế. Người ta nói mọi con đường đều
dẫn đến Thượng Đế. Nhưng Chúa Giê-xu nói: “Ta là Con đường, Chân lý và Nguồn sống.
Nếu không nhờ ta, không ai được đến với Cha” (Gi 14:6). Ngài cũng phán: “Ta
là cái cửa, ai vào cửa này sẽ được cứu rỗi, tự do đi lại và tìm gặp đồng cỏ
xanh tươi” (10:9).
Con người
vốn là một tội nhân, không thể thay đổi địa vị của mình, không thể dùng miệng lưỡi
tội lỗi mà kêu nài đến tai thánh khiết của Thượng Đế. Nếu Thượng Đế không vì
lòng thương xót vô hạn mà sai Con Ngài là Chúa Cứu Thế Giê-xu xuống thế gian, để
bắc cây cầu qua vực sâu này thì con người chắc phải bị hư mất đời đời.
Sự thánh
khiết của Thượng Đế cho chúng ta thấy lý do khiến Chúa Cứu Thế phải chịu chết.
Sự thánh khiết đòi hỏi tội lỗi phải bị trừng trị đúng mức; nhưng vì lòng yêu thương,
Ngài đã sắm sẵn Chúa Cứu Thế Giê-xu để trả giá cho tội lỗi và ban sự cứu rỗi
cho con người. Vì Thượng Đế chúng ta thờ phượng là Thượng Đế thánh khiết, trong
sạch, công bình, nên Ngài đã sai Con Một của Ngài đến để giúp chúng ta có thể đến
gần Ngài. Nhưng nếu chúng ta không quan tâm đến ơn cứu giúp của Thượng Đế đã
ban cho, nếu không chịu vâng theo luật pháp Ngài đã ban hành, thì chúng ta
không thể cầu xin Ngài thương xót khi án phạt xứng đáng giáng trên mình.
Thượng Đế
là tình yêu.
Thứ tư: Thượng
Đế là tình yêu. Cũng như các đặc tính khác của Thượng Đế, nhiều người không đọc
Kinh Thánh không thể hiểu được ý nghĩa câu: “Thượng Đế chính là tình yêu” (IGi4:8).
Chính
chúng ta đã không thật biết mình muốn nói gì khi dùng hai chữ tình yêu. Trong
ngôn ngữ của chúng ta, danh từ này đã bị lạm dụng nhiều hơn cả. Chúng ta dùng
danh từ tình yêu để diễn tả những mối liên hệ hèn mạt cũng như cao quý hơn hết
của con người. Chúng ta nói mình “yêu” nghệ thuật, “yêu” văn chương, “yêu” du lịch,
“yêu” sô-cô-la, “yêu” chiếc xe mới, thậm chí chúng ta nói rằng chúng ta “yêu thương”
kẻ lân cận. Nhưng phần nhiều chúng ta chỉ nói mà không làm. Thảo nào chúng ta
không có một ý niệm chính xác về điều Kinh Thánh muốn nói khi chép: “Thượng Đế
là tình yêu”.
Chúng ta đừng
lầm lạc suy nghĩ rằng vì Thượng Đế là tình yêu nên mọi việc sẽ diễn ra êm đềm, đẹp
đẽ, hạnh phúc và sẽ không bị trừng phạt về tội lỗi mình. Sự thánh khiết của Thượng
Đế đòi hỏi mọi tội lỗi phải bị trừng phạt, nhưng tình yêu của Ngài sắm sẵn kế
hoạch và phương pháp để cứu chuộc con người tội lỗi. Tình yêu của Thượng Đế đã
chuẩn bị thập tự giá để nhờ đó con người được tha tội và thanh sạch. Chính tình
yêu của Thượng Đế đã đưa Chúa Giê-xu đến thập tự giá!
Chớ bao giờ
nghi ngờ tình yêu vĩ đại của Thượng Đế, vì yêu là một phần bất diệt của Ngài, cũng
như sự thánh khiết của Ngài vậy. Dù tội lỗi của bạn có đen tối đến thế nào chăng
nữa, Thượng Đế vẫn yêu bạn. Nếu không bởi tình yêu của Thượng Đế, chẳng một người
nào trong chúng ta có cơ hội được hưởng phước cứu rỗi trong đời sau. Nhưng Thượng
Đế là tình yêu, và Ngài yêu chúng ta mãi mãi. “Nhưng Thượng Đế đã chứng tỏ tình
yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi Chúa Cứu Thế chịu chết thay chúng ta là
người tội lỗi” (Ro 5:8).
Ngôn ngữ của
loài người có thể bày tỏ đến mức nào thì các lời hứa về sự yêu thương và tha thứ
của Thượng Đế cũng thiết thực, chắc chắn và tích cực chừng ấy. Nhưng điều đó chẳng
khác nào diễn tả đại dương, vì nếu thật sự chưa thấy đại dương, thì không thể
hiểu được vẻ đẹp toàn vẹn của đại dương được. Tình yêu thương của Thượng Đế cũng
vậy. Nếu bạn chưa thật sự tiếp nhận và nếm trải tình yêu thương ấy, nếu bạn chưa
thật sự được hòa hợp với Thượng Đế, không ai có thể diễn tả cho bạn rõ những điều
kỳ diệu của tình yêu thương ấy.
Đây không
phải là điều bạn có thể thực hiện bằng tâm trí. Trí não giới hạn của bạn không
thể hiểu thấu những gì vĩ đại như tình yêu của Thượng Đế. Trí não bạn khó có thể
giải thích được tại sao một con bò cái đen có thể ăn cỏ xanh và cho sữa trắng -
nhưng bạn lại uống sữa và được bổ dưỡng cách dễ dàng. Trí não bạn không thể lý
luận suốt cả những tiến trình tinh tế của một hạt giống nhỏ và dẹp khi đem gieo
xuống đất, trở thành một đám dây sinh ra những trái dưa hấu đỏ và ngọt, nhưng bạn
lại ăn và thưởng thức hương vị của chúng một cách dễ dàng! Trí não bạn không thể
giải thích điện lực tạo ra ánh sáng cho bạn đọc sách ngay lúc này đây, nhưng bạn
biết rằng có điện và điện đã giúp bạn đọc sách!
Bạn phải
tiếp nhận Thượng Đế bằng đức tin - đức tin trong Con Ngài là Chúa Cứu Thế
Giê-xu. Khi điều này xảy ra, bạn không còn nghi ngờ gì nữa. Bạn khỏi cần tự vấn
rằng Thượng Đế có ở trong lòng mình hay không, vì chính bạn biết được điều đó.
Khi người
ta hỏi tôi làm sao biết chắc Thượng Đế thật sự là ai, tôi liên tưởng đến một cậu
bé thả diều. Hôm đó trời rất đẹp, rất tiện thả diều, gió hiu hiu và trên trời
những cụm mây lớn trôi nhanh. Diều lên cao, cao mãi cho đến khi bị mây che.
Một người
hỏi cậu bé: “Em đang làm gì đó?”
Em trả lời:
“Dạ, đang thả diều”.
Người kia
nói: “Em thả diều thật à? Làm sao em biết chắc là em đang thả diều? Em đâu có
trông thấy nó.”
Cậu bé đáp:
“Thưa không! tuy em không trông thấy diều, nhưng lúc nào em cũng cảm thấy dây
giựt, và như vậy em biết chắc rằng diều còn đang bay”.
Đừng mong
ai khác chỉ cho mình thấy Thượng Đế. Hãy tự tìm kiếm Ngài, và nhờ sự rung động ấm
áp trên đường tơ lòng bạn, bạn sẽ biết rằng chắc chắn Ngài hiện hữu.
Vì mọi người
đều phạm tội, không còn phản chiếu vinh quang Thượng Đế.
Ro 3:23
Ro 3:23
NẾU Thượng
Đế là Đấng công nghĩa và yêu thương tại sao lại có quá nhiều tội ác, đau khổ và
sầu thảm như vậy? Tại sao lại có thù oán? Tại sao chúng ta lại tạo nên những
hình tượng giả dối? Tại sao chúng ta lại tôn thờ chiến tranh, tham lam và ích kỷ?
Tại sao nhân loại do Thượng Đế dựng nên theo hình ảnh Ngài lại đắm chìm trong bại
hoại đến nỗi Ngài phải ban Mười Điều Răn (căn bản luật pháp mà Thượng Đế đã ban
cho dân Do-thái khi họ ra khỏi Ai-cập để trở về quê hương mình) và buộc họ phải
vâng giữ? Tại sao Thượng Đế ban chính Con Một của Ngài để cứu chuộc chúng ta? Tại
sao các vật thọ tạo của Thượng Đế lại đầy dẫy tham dục và tội ác?
Muốn hiểu điều
này, muốn thấy rõ tại sao nước này chống nghịch nước kia, tại sao nhiều gia đình
phân ly, tại sao báo chí tràn ngập những bài tường thuật các hành động dã man, điên
cuồng, tàn bạo và căm thù, chúng ta phải trở lại từ lúc ban đầu. Chúng ta phải
trở lại truyện tích A-đam trong vườn Ê-đen, trở lại chương đầu của sách Sáng-Thế
Ký.
Có người
cho rằng truyện tích quen thuộc về sự sáng tạo chỉ là một huyền thoại. Họ nói rằng
đó chỉ là một cách đơn giản để giải thích cho trẻ con một vấn đề không sao giải
đáp được. Nhưng không phải thế. Kinh Thánh cho chúng ta biết tường tận những việc
đã xảy ra lúc khai thiên lập địa và tại sao từ đó đến nay con người vẫn cứ liên
tục đi trên con đường tự tiêu diệt?
Thượng Đế đã
sáng tạo thế giới này như một toàn thể trọn vẹn. Con người đã dẹp bỏ thế giới đẹp
đẽ, hòa hợp Ngài đã sáng tạo - thế giới trọn vẹn mà chúng ta đang khao khát tìm
gặp lại, thế giới mà tất cả chúng ta đang tìm kiếm.
Trong thế
giới trọn vẹn đó, Thượng Đế đã đặt một người trọn vẹn. A-đam vốn là trọn vẹn vì
chẳng có việc gì Thượng Đế làm lại không trọn vẹn, và Ngài đã ban cho người trọn
vẹn ấy một ân tứ quý báu hơn hết, là sự tự do. Thượng Đế ban cho con người quyền
tự do lựa chọn.
Một bạn
thân của chúng tôi, tiến sĩ M. L. Scott, nhà truyền đạo lừng danh người da đen,
kể lại câu chuyện về người bạn của ông. Cậu con trai của ông này đã vào Đại học,
nhân dịp về thăm nhà, đầy phấn khởi về số kiến thức vừa mới thâu thập được. Một
chiều nọ, cậu ta trịnh trọng nói: “Ba à, bây giờ con đã vào đại học rồi, nên
không còn tin chắc là con có thể đồng ý với loại đức tin đơn sơ, ấu trĩ của ba
vào Kinh Thánh nữa”.
Bạn tôi sững
người, nhìn con mình không chớp mắt. Cuối cùng, ông ta nói: “Con ơi, đó là quyền
tự do của con - quyền tự do khủng khiếp của con”. Đó chính là điều mà Thượng Đế
đã ban cho A-đam - quyền tự do cho ông lựa chọn. Quyền tự do khủng khiếp của
ông.
Con người đầu
tiên không phải là kẻ sống trong hang cốc, trong rừng rú, gầm gừ, hục hặc, gào
thét, cố khắc phục những hiểm nghèo nơi sơn lâm và ác thú trong đồng nội. Lúc mới
được dựng nên, A-đam đã trưởng thành, với tất cả mọi khả năng của trí óc và
thân thể phát triển đầy đủ. Ông đồng đi với Thượng Đế và được tương giao với
Ngài. Theo ý chỉ của Thượng Đế, ông đã được dự trù sẽ làm vua trên mặt đất và
trị vì .
Đó mới là địa
vị đích thực của A-đam khi sống trong vườn Ê-đen; một người trọn vẹn đầu tiên,
một loài thọ tạo duy nhất trên mặt đất được Thượng Đế ban cho ân tứ vô giá, tức
là quyền tự do. A-đam được tự do hoàn toàn - tự do lựa chọn hay chối bỏ, tự do
vâng theo hoặc chống trả mạng lịnh của Thượng Đế, tự do làm cho chính mình sung
sướng hay khốn cùng. Không phải có tự do là đời sống được thỏa mãn, nhưng chính
hành động sử dụng sự tự do mới xác định là chúng ta sẽ có bình an trong lòng và
bình an với Thượng Đế hay không?
Trọng tâm
của vấn đề.
Đây chính
là trọng tâm của vấn đề, vì khi được tự do, con người đứng trước hai ngả đường.
Nếu chỉ có một con đường để theo thì quyền tự do trở nên vô nghĩa. Tự do hàm ý
một sự lựa chọn, một quyền quyết định đường lối hành động cá nhân.
Tất cả
chúng ta đều biết, người ta sở dĩ lương thiện không phải vì tự do chọn lựa điều
đó, song vì họ chưa có dịp để làm quấy. Tiến sĩ Manfred Gutzke từng nói: “Các
ông già ơi, chớ tưởng rằng các ông đã gần kề với cái chết mà các ông trở thành
người khá hơn đâu”. Tất cả chúng ta đều biết có những người tự hào là mình nhân
đức, nhưng thật ra do hoàn cảnh và lề lối sinh hoạt bên ngoài đã giữ họ khỏi
thành ra xấu xa. Chúng ta không thể khoe khoang đã chống lại sức cám dỗ khi
không phải đương đầu với một sự cám dỗ nào cả!
Thượng Đế
không để cho A-đam gặp trở ngại này. Ngài ban cho A-đam quyền tự do lựa chọn và
cơ hội để hành xử quyền đó. Vì Thượng Đế không làm việc gì bất toàn nên Ngài đã
đặt A-đam trong một khung cảnh trọn vẹn để ông chứng tỏ mình sẽ hầu việc Thượng
Đế hay không.
Khi sống
trong vườn Ê-đen, A-đam không có tội lỗi, và tình trạng vô tội của ông không chỗ
chê trách. Cả vũ trụ ở trước mặt ông. Cả lịch sử trinh nguyên của loài người đang
trải ra dưới tay ông như một tấm giấy da vĩ đại, hết sức tinh khiết, đợi chờ
ông quyết định con đường cho các thế hệ tương lai.
Thượng Đế đã
hoàn tất công trình của Ngài. Ngài đã dựng nên một khu vườn trên mặt đất, đầy đủ
mọi thứ cần thiết cho con người. Ngài đã dựng nên một người trọn vẹn, giống như
Ngài. Ngài đã ban cho con người trí óc và linh hồn cùng quyền tự do trọn vẹn để
sử dụng trí óc và linh hồn tùy thích. Sau đó, với tư cách một người Cha vô cùng
khôn ngoan, Thượng Đế chờ xem con mình lựa chọn như thế nào.
Sự lựa chọn
của loài người.
Đó là một
sự thử nghiệm! Đó là lúc A-đam dùng ý chí tự do để lựa chọn đường ngay hay đường
quấy, lựa chọn theo ý muốn của mình chứ không phải lựa chọn vì chỉ có một con đường
duy nhất cho mình noi theo!
A-đam đã lựa
chọn. Ông gánh chịu kết quả của sự chọn lựa đó và ấn định tiêu chuẩn cho toàn
thể nhân loại phải theo. “Do tội của A-đam, mọi người bị kết án” (Ro 5:18). Phao-lô cũng nói: “Vì
A-đam, tội lỗi đã thâm nhập thế gian, đem theo sự chết. Do đó, mọi người đều phải
chết, vì mọi người đều phạm tội” (Ro 5:12).
A-đam là
nguồn gốc của nhân loại. A-đam xuất hiện như dòng suối từ lòng đất vọt lên,
trong trẻo như pha lê và được quyền tự do lựa chọn để trở thành một con sông chảy
qua những cánh đồng đẹp xanh tươi, màu mỡ hoặc thành ngọn thác bùn lầy, luôn
luôn xối vào những vầng đá, cọ xát vào vách núi sâu thẳm, không có ánh sáng mặt
trời, lạnh lẽo cùng khốn, không thể làm vùng đất chung quanh được tươi vui, kết
quả.
Không thể đổ
lỗi cho Thượng Đế về tình trạng rối loạn bi thảm mà thế giới mắc phải bấy lâu
nay. Lầm lỗi hoàn toàn do A-đam là người được Thượng Đế cho quyền lựa chọn,
song đã quyết định nghe theo những lời lừa dối của ma quỉ, chứ không nghe theo
chân lý của Thượng Đế! Từ ngày ấy đến nay, lịch sử nhân loại chính là câu chuyện
về sự nổ lực hoài công của con người nhằm dành lại địa vị đã mất do sự sa ngã của
A-đam!
Bạn có thể
nói: “Thế thì thật bất công! Tại sao ngày nay chúng ta lại phải chịu khổ vì sự
phạm tội từ buổi xa xưa của con người đầu tiên? Tại sao trong những năm sau đó
loài người đã không hồi tỉnh? Tại sao chúng ta phải bị trừng phạt trọn đời sống
chúng ta?”. Ngày nay, có một tư tưởng khá thịnh hành, cho rằng người ta có thể
cải thiện con người bằng cách cải tiến môi trường sinh sống của họ. Điều đáng
ngạc nhiên là phải thừa nhận rằng loài người đã phạm tội đầu tiên ngay trong
môi trường sinh sống toàn hảo hồi đó.
Chúng ta
hãy trở lại truyện tích của con sông - Con sông lạnh lẽo và tối tăm, chảy trong
đáy thung lũng sâu thẳm và ảm đạm. Tại sao con sông này không chảy ngược lại những
cánh đồng ấm áp tươi đẹp phía trên kia? Tại sao con sông không giã từ đường lối
sầu muộn để trở thành dòng nước hân hoan sủi bọt như khi mới từ lòng đất vụt
phun lên?
Con sông
không làm được điều đó vì nó không thể làm. Tự nó không có năng lực để làm điều
gì khác hơn từ trước đến nay. Một khi nó đã chảy theo sườn dốc xuống chỗ tối tăm
thì không còn có thể tự đưa mình trở lại vùng đất sáng sủa ấm áp trên cao. Phương
tiện để đi lên vốn có, đường lối mở sẵn, nhưng con sông không hiểu cách sử dụng.
Điều này làm tôi nhớ lại sông Dương Tử bên Trung-hoa (nay gọi là Hoàng Giang).
Sông này đưa phù sa ra biển xa đến mấy dặm, biến biển xanh thành vàng đục. Nó
không thể nào làm khác hơn.
Luôn luôn
có sẵn một phép lạ thần kỳ để đưa con sông nhân loại ra khỏi cảnh khốn cùng để
nó nằm trong thung lũng ấm áp của sự bình an, nhưng con sông không thấy hoặc
không chú tâm tới. Nhân loại cảm thấy không thể làm gì hơn là cứ tiếp tục con đường
ngoằn ngoèo của mình cho đến khi biến mất trong lòng biển diệt vong.
Truyện
tích của con sông chính là truyện tích của loài người từ thuở A-đam, quanh co,
ngoằn ngoèo, càng ngày càng lao vào chốn tối tăm ghê rợn. Mặc dầu cất tiếng kêu
la cầu cứu, chúng ta vẫn dụng tâm chọn lựa con đường quấy như A-đam đã chọn
ngày xưa. Trong cơn tuyệt vọng, chúng ta trở lại chống nghịch Thượng Đế và đổ lỗi
cho Ngài về hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan của chúng ta. Chúng ta hoài nghi sự
khôn ngoan và phán đoán của Ngài. Chúng ta bắt bẻ tình yêu thương và lòng nhân
từ của Ngài.
Chúng ta
quên rằng A-đam là đầu của nhân loại, cũng như tổng thống là đầu chính phủ
trong một nước. Khi tổng thống hành động, chính là dân chúng hành động qua tổng
thống. Khi tổng thống quyết định, quyết định đó là của toàn dân.
A-đam ở địa
vị làm đầu nhân loại. Khi A-đam thất bại, bị sa ngã trong cám dỗ, thì các thế hệ
chưa ra đời cũng sa ngã theo A-đam, vì Kinh Thánh tuyên bố rằng các hậu quả do
tội lỗi của A-đam sẽ giáng trên mỗi người thuộc dòng dõi ông. Tất cả chúng ta đều
biết quá rõ về sự thật đắng cay trong Sa 3:17-19, diễn tả tấn bi kịch do
chính hành động của A-đam đã gây nên: “Đất sẽ bị rủa sả vì ngươi; trọn đời ngươi
sẽ bị khó nhọc mới có vật đất sanh ra mà ăn. Đất sẽ sanh chông gai và cây tật
lê, và ngươi sẽ ăn rau của đồng ruộng; ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn
cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi mà có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi
sẽ trở về bụi”.
Và Thượng Đế
phán với Ê-va rằng: “Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi
sẽ chịu đau đớn trong khi sanh con, sự dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng và
chồng sẽ cai trị ngươi” (Sa 3:16)
Nói cách
khác, vì nguyên tội của A-đam, mặt đất trước kia chỉ sanh ra cây cối đẹp đẽ, bổ
dưỡng, thì nay sanh ra cây tốt lẫn cây xấu. Trước kia người đàn ông chỉ cần đi
dạo trong vườn và đưa tay hái lấy đồ ăn, không cần quần áo che thân và nơi ẩn
trú, bây giờ phải làm việc cực nhọc suốt đời mình để cung ứng nhu cầu cho chính
mình và gia đình. Còn người đàn bà trước kia không phải lo lắng gì cả, bây giờ
mang nặng sự buồn rầu và đau khổ. Cả người nam và người nữ phải chịu án tử hình
về phần tâm linh cùng thể xác. Sự chết gồm ba giai đoạn: 1) Sự chết tức khắc về
mặt thuộc linh; 2) Khởi điểm của sự chết thuộc thể (ngay phút đầu tiên chúng ta
được sanh ra đời, là chúng ta bắt đầu chết); 3) Sự chết đời đời tối hậu.
Tội lỗi
chen vào.
Do A-đam,
tội lỗi đi vào nhân loại, và từ đó đến nay, nhân loại đã hoài công cố gắng dứt
bỏ tội lỗi. Kinh Thánh dạy rằng Thượng Đế đã cảnh cáo A-đam trước khi ông phạm
tội, rằng nếu ông ăn trái cây biết điều thiện và điều ác, chắc chắn ông phải chết.
Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết rằng Thượng Đế đã chỉ thị cho A-đam và Ê-va
phải sanh con cháu cho đầy dẫy mặt đất. Mặc dầu đã được tạo dựng theo hình ảnh
Thượng Đế, sau khi sa ngã, A-đam và Ê-va trái lại đã sanh con theo chính hình ảnh
họ. Hậu quả là Ca-in và A-bên đã mang chứng bệnh chết người là tội lỗi mà họ thừa
hưởng nơi cha mẹ và từ đó lưu truyền cho những người thuộc các thế hệ kế tiếp.
Chúng ta tất cả đều là kẻ có tội theo di truyền, nên dù cố gắng, chúng ta vẫn
không thể tránh được căn bệnh di truyền này.
Chúng ta đã
vận dụng hết mọi cách để tái lập địa vị ban đầu mà A-đam đã đánh mất. Chúng ta đã
cố gắng trong lãnh vực giáo dục, triết lý, tôn giáo, chánh quyền để vứt bỏ cái
ách sa đọa và tội lỗi. Với trí óc bị tội lỗi giới hạn, chúng ta tìm cách thực
hiện những điều Thượng Đế đã định cho con người làm với một khải tượng sáng suốt
chỉ có thể từ trên cao mà đến. Các động lực thúc đẩy chúng ta thật đáng ca ngợi,
nhưng tất cả những cố gắng đó đều còn rất xa mới đạt tới tiêu chuẩn. Tất cả những
kiến thức và phát minh của chúng ta, tất cả những sự phát triển và kế hoạch đầy
tham vọng của chúng ta chỉ giúp chúng ta tiến lên một chút, rồi lại lùi xuống
khởi điểm. Vì chúng ta đang phạm cùng một tội mà A-đam đã phạm, cố gắng tự đưa
mình lên bằng chính quyền hạn và năng lực của mình, thay vì vâng giữ luật pháp
của Thượng Đế.
Trước khi
cho rằng Thượng Đế bất công và vô lý vì đã để mặc tội lỗi bao trùm thế gian,
chúng ta hãy xem xét tình hình một cách kỹ lưỡng hơn. Thượng Đế trong tình thương
xót vô hạn đã sai Con Ngài xuống đời bày tỏ cho chúng ta biết con đường để
thoát khỏi những khó khăn. Ngài đã sai Con Ngài ngự đến, để từng trải những cám
dỗ mà A-đam đã gặp và để chiến thắng những cám dỗ đó. Sa-tan đã cám dỗ Chúa
Giê-xu như đã cám dỗ A-đam. Sa-tan đã hứa ban cho Chúa Giê-xu quyền lực và vinh
quang nếu Ngài chịu chối bỏ Thượng Đế, như đã hứa với A-đam qua Ê-va.
Sự chọn lựa
của Chúa Giê-xu.
Khác biệt
lớn lao là Chúa Giê-xu đã chống lại sự cám dỗ! Khi ma quỉ chỉ cho Ngài thấy tất
cả những ngôi vương bá của thế gian và hứa cho Ngài mọi vinh quang đó nếu Ngài
chịu theo nó thay vì theo Thượng Đế, thì Chúa Giê-xu yêu dấu của chúng ta phán:
“Lui đi Sa-tan! Vì Thánh Kinh dạy: Ngươi chỉ thờ lạy Chúa là Thượng Đế ngươi,
và chỉ phục vụ Ngài mà thôi” (Mat 4:10). Ngài hoàn toàn chiến
thắng ma quỉ cám dỗ, để tỏ cho các dân tộc thuộc các thế hệ kế tiếp thấy bản chất
vô tội của Ngài.
Với sự hèn
yếu và bản chất hư hỏng, chúng ta đã chứng minh mình là con cái thật của A-đam
và đã trung thành đi theo bước chân của ông. Chúng ta có thể rủa sả A-đam nhưng
chúng ta vẫn bắt chước ông!
Không có một
ngày nào chúng ta không đương đầu với thử thách mà A-đam đã gặp. Không ngày nào
chúng ta không có cơ hội để chọn lựa, hoặc lời hứa xảo trá của ma quỉ hoặc lời
vững chắc của Thượng Đế. Mỗi ngày chúng ta đều có dịp di chuyển chính chúng ta
và người khác đến gần thêm ngôi vườn sự sống đẹp đẽ mà A-đam đã đánh mất.
Chúng ta
nóng lòng mong ước một ngày mai không còn thất vọng, bệnh tật, chết chóc nhưng
nếu chúng ta vẫn còn là những con cháu hư hoại của A-đam, giấc mơ này không thể
nào thành sự thật. Phải làm một điều gì để giải quyết tội lỗi của chúng ta.
Trong những chương kế tiếp, chúng ta sẽ thấy điều Thượng Đế đã làm để đối phó với
vấn đề căn bản đó của loài người.
Từ khởi
nguyên đến giây phút hiện tại, sự tìm kiếm quyền lực phi nhân, và quyết định
hành xử quyền tự do lựa chọn vào những mục đích cá nhân vị kỷ đã đưa con người đến
bờ vực phán xét. Tàn tích của nhiều nền văn minh rải rác trên mặt địa cầu là những
chứng tích im lặng về sự bất lực của con người nhằm xây dựng một thế giới bền vững
bất cần Thượng Đế. Mỗi ngày mỗi có thêm những cảnh đổ nát mới, những nỗi khốn
cùng mới, song con người vẫn cứ lao mình trên con đường tai hại.
Trong khi ấy,
với sự hiểu biết và thương xót vô bờ bến, Thượng Đế đã chú tâm, chờ đợi với sự
kiên nhẫn và lòng trắc ẩn mà loài người không hiểu thấu được. Ngài đợi chờ để
ban sự cứu rỗi và sự bình an cho mọi người đến nhận ơn thương xót của Ngài. Hai
con đường mà Thượng Đế đặt trước mặt A-đam vẫn còn ở trước mặt chúng ta. Chúng
ta vẫn còn có tự do để lựa chọn. Chúng ta đang sống trong thời kỳ ân điển, và
Thượng Đế còn cầm giữ sự hình phạt mà đúng ra chúng ta đáng phải chịu.
Chính sự
hiện hữu của tội lỗi đã ngăn trở con người hưởng phước hạnh. Chính vì tội lỗi
mà con người không bao giờ có khả năng đạt tới lý tưởng hằng mơ ước. Mỗi một kế
hoạch, mỗi một nền văn minh con người xây dựng rốt cuộc đều thất bại và rơi vào
lãng quên, vì những công trình của con người xây dựng trên sự bất nghĩa. Những
cảnh điêu tàn quanh chúng ta ngày nay là bằng chứng hùng hồn về tội lỗi ngập
tràn thế giới.
Nhân và quả.
Con người
hình như không còn thấy công lệ nhân quả luôn luôn tác động trên mọi giai tầng
của vũ trụ này. Hậu quả thì rõ ràng nhưng nguyên nhân sâu kín và chủ yếu lại dường
như kém hiển nhiên. Có lẽ chính ảnh hưởng xấu xa của triết lý hiện đại về sự tiến
bộ làm lu mờ khải tượng của con người. Có lẽ vì quá say mê với lý thuyết nhân tạo
mà con người cố bám lấy niềm tin là nhân loại đang tiến bộ từ từ nhưng chắc chắn
đạt đến chỗ trọn vẹn cuối cùng.
Thậm chí
nhiều triết gia luận rằng tấn thảm kịch của thế giới ngày nay chỉ là một việc
ngẫu nhiên trong tiến trình đi lên; họ viện dẫn những thời kỳ khác trong lịch sử
nhân loại có những triển vọng dường như ảm đạm và hậu quả dường như cũng vô vọng
như thế. Các triết gia tìm cách cho rằng tình trạng buồn thảm chúng ta đang trải
qua chỉ là cơn đau đớn lâm bồn của một ngày tốt đẹp hơn! Rằng con người vẫn còn
là những đứa trẻ mò mẫm và vấp ngã trong ấu trĩ viện của cuộc sống, và còn phải
mất hàng mấy thế kỷ nữa mới trở nên trưởng thành, có ý thức.
Nhưng Kinh
Thánh vạch rõ điều mà khoa tự nhiên học hình như không muốn chấp nhận - rằng
thiên nhiên đồng thời khải thị về một Đấng Tạo Hóa và một kẻ phá hoại. Con người
đổ lỗi cho Tạo Hóa về việc làm của kẻ phá hoại. Con người quên rằng thế giới của
chúng ta không còn như lúc mới được Thượng Đế sáng tạo, nó đã bị suy đồi. Thượng
Đế đã sáng tạo thế giới tốt đẹp. Tội lỗi làm hư hỏng thế giới. Thượng Đế đã dựng
con người vô tội, nhưng tội lỗi đã xâm nhập, biến họ thành hư xấu. Mỗi một sự
thể hiện của điều ác là hậu quả của tội lỗi căn bản. Tội lỗi đã không thay đổi
từ lúc nó mới nhập vào nhân loại. Tội lỗi có thể tự biểu hiện bằng nhiều cách
khác nhau, tội lỗi đã khiến một người Phi-châu dã man núp dọc theo con đường
mòn trong rừng sâu, tay cầm giáo đón chờ nạn nhân của hắn, và một phi công có học
thức, được huấn luyện đầy đủ lái một phản lực cơ cũng trên khu rừng rậm ấy, sẵn
sàng ném bom xuống làng mạc không có gì khả nghi.
Hai người
trên cách nhau hàng thế kỷ văn hóa. Có thể nói rằng người này “tiến bộ” hơn người
kia bội phần, một người có tất cả lợi điểm của một nền văn minh nhân tạo, trong
khi người kia ở trong “cổ sơ” - Tuy nhiên, có phải do đó mà họ thật sự khác
nhau chăng? Phải chăng cả hai đều bị thúc đẩy bởi sự lo sợ và bất tín nhiệm người
đồng loại? Phải chăng cả hai đều có lòng vị kỷ muốn thực hiện mục đích của mình
bằng bất cứ giá nào, mặc cho kẻ đồng loại gánh chịu hậu quả? Một quả bom có kém
dã man hay tàn bạo hoặc văn minh hơn một ngọn giáo trần trụi không? Liệu chúng
ta có thể tìm được giải pháp cho các vấn đề nan giải của người “cổ sơ” nhất và
“tiến bộ” nhất đang hăng hái muốn giết kẻ đồng loại hơn là yêu mến họ chăng?
Tất cả nỗi
buồn rầu, lo lắng, hung bạo, bi thảm, đau lòng, thương tâm và hổ nhục trong lịch
sử loài người đều được tóm tắt trong chữ: “Tội lỗi”! Thật vậy, tội lỗi đã được
phổ biến rộng rãi và đã khiến mọi người say mê. Các chương trình T.V. trình chiếu
sự đồi bại của giới giàu có. Bìa các tạp chí in những hình ảnh vô luân đồi trụy.
Tội lỗi vốn ở giữa chúng ta.
Không ai
thích kẻ khác bảo mình là người có tội, dù rằng cha mẹ và tổ tiên họ là những
người phạm tội trước! Nhưng Kinh Thánh đã chép: “Không phân biệt một ai, vì mọi
người đều phạm tội, không còn phản chiếu vinh quang Thượng Đế“ (Ro 3:22, 23). Kinh Thánh tuyên bố rằng
mỗi một người trên thế gian là một tội nhân trước mặt Thượng Đế. Mỗi khi nghe
người ta tự loại mình ra khỏi lời tuyên bố mạnh mẽ đó, tôi bỗng nhớ đến câu
chuyện một viên chức trong Hội thánh, một ngày kia, đàm đạo với vị mục sư về tội
lỗi.
Ông nói:
“Thưa mục sư, tín hữu chúng tôi ước mong ông sẽ không nói quá nhiều hay quá rõ
ràng về tội lỗi như vậy. Chúng tôi cảm thấy, nếu các con cái chúng tôi nghe ông
giảng luận về vấn đề này nhiều quá, chúng sẽ càng trở nên kẻ phạm tội. Tại sao
không gọi đó là một sự “sai lầm” hay nói rằng lớp trẻ chúng ta thường phạm tội
vì “kém nhận xét”? Dầu sao, chúng tôi mong ông đừng nói đến tội lỗi quá rõ ràng
như vậy”.
Mục sư bèn
đi lấy một lọ thuốc độc trên cái kệ cao trao cho ông ta xem. Trên chai có ghi
chữ to tướng: “Thuốc độc, chớ đụng đến!” Rồi mục sư hỏi: “Ông muốn tôi làm sao?
Ông muốn tôi nên gỡ bỏ cái nhãn ghi rõ ràng thuốc độc này mà dán nhãn hiệu khác
đề là “dầu bạc hà” không? Ông há chẳng thấy rằng càng làm cho nhãn hiệu dễ nghe
bao nhiêu thì càng làm cho thuốc độc trở nên nguy hiểm bấy nhiêu sao?”
Tội lỗi -
chính tội lỗi có từ thượng cổ, đã gây cho A-đam sa ngã - là điều mà tất cả
chúng ta đang gánh chịu đau khổ ngày nay; và nếu chúng ta cố khoác cho nó một lớp
nhãn lòe loẹt, hấp dẫn hơn, không những nó không tốt hơn mà lại còn làm cho
chúng ta thiệt hại bội phần. Chúng ta không cần một danh từ mới cho tội lỗi. Điều
chúng ta cần là tìm xem danh từ chúng ta hiện có nghĩa là gì! Vì mặc dầu tội lỗi
hiển nhiên thịnh hành trong thế giới ngày nay, vẫn còn có hằng hà sa số người
hoàn toàn chẳng biết gì về ý nghĩa thật của nó. Chính ý niệm sai lạc, thiển cận
về tội lỗi đã ngăn cản rất nhiều người hối cải quay về cùng Thượng Đế. Chính sự
hiểu biết khiếm khuyết về tội lỗi đã khiến nhiều Cơ Đốc nhân không sống đời sống
thật của Chúa Cứu Thế.
Một bản
Thánh ca cũ có câu: “Không phải mọi người nói về nước Thiên đàng đều được đi đến
Thiên đàng”. Đối với tội lỗi cũng vậy. Không phải ai ai nói đến tội lỗi cũng đều
nhận biết rõ ràng tội lỗi là gì. Điều tuyệt đối hệ trọng là chúng ta phải ý thức
được quan điểm của Kinh Thánh về tội lỗi.
Chúng ta
có thể có ý nghĩ xem thường tội lỗi, và cho nó là một “sự yếu đuối của con người”.
Chúng ta có thể tìm cách gọi nó là điều nhỏ nhặt, nhưng Thượng Đế gọi nó là một
thảm kịch. Chúng ta muốn bỏ qua và coi nó là một việc tình cờ nhưng Thượng Đế
tuyên bố đó là một điều ghê tởm. Con người tìm cách tự bào chữa cho tội lỗi của
mình, nhưng Thượng Đế tìm cách thuyết phục con người về tội lỗi và cứu con người
thoát khỏi điều đó. Tội lỗi không là một món đồ chơi thích thú, tội lỗi là điều
kinh khiếp phải lánh xa! Vậy hãy học biết điều gì cấu thành tội lỗi trước mặt
Thượng Đế.
Tấn sĩ
Richard Beal định nghĩa tội lỗi bằng 5 danh từ:
Thứ nhất:
tội lỗi là ‘sự bất chấp luật pháp’, sự vi phạm luật pháp của Thượng Đế (IGi 3:4). Thượng Đế đã thiết lập
một lằn ranh giữa điều thiện và điều ác, và mỗi khi chúng ta vượt qua ranh của
bên kia biên giới, mỗi khi chúng ta xâm nhập vùng cấm địa của tội ác, thì chúng
ta đã vi phạm luật pháp. Khi nào chúng ta không vâng giữ Mười Điều Răn, hoặc đi
trái với nguyên tắc của Bài Giảng Trên Núi (bài giảng của Chúa Giê-xu, được ghi
chép trong Kinh Thánh Mat 5:1-7:29) chúng ta đã vi phạm luật
pháp của Thượng Đế và có tội.’
Nếu bạn
xét từng điều một trong Mười Điều Răn, bạn sẽ thấy hiện nay nhân loại đang cố
ý, chẳng những vi phạm, mà còn hô hào mọi người vi phạm nữa. Điều răn chớ thờ
hình tượng nghĩa là chớ để bất cứ sự việc gì trước Thượng Đế, điều răn hãy nhớ
giữ ngày nghỉ làm ngày thánh (các tay chơi dã cầu và túc cầu chuyên nghiệp sẽ
làm gì nếu các Cơ Đốc nhân không chịu xem họ thi đấu ngày Chúa nhật?), điều răn
hãy hiếu kính cha mẹ (các quyển sách ‘Mommie Dearest’ phơi trần tội lỗi của các
bậc làm cha làm mẹ), điều răn chớ tham lam và chớ tà dâm - dường như mọi người đang
hè nhau nỗ lực để cố ý vi phạm từng điều răn một. Và không những chỉ thế mà
thôi, dường như thiên hạ còn cố ý biến chúng thành hấp dẫn khi làm như vậy nữa.
Gia-cơ (em
trai của Chúa Giê-xu, tác giả sách Gia-cơ trong Kinh Thánh) nói rõ rằng chúng
ta đều phạm tội, ông viết: “Chính những tư tưởng, dục vọng xấu xa trong con người
thôi thúc, tạo ra sự cám dỗ. Tư tưởng xấu xa sẽ biến thành hành động tội lỗi; tội
lỗi phát triển đem lại cái chết” (Gia 1:14-15). Chính vì tất cả chúng
ta đều vi phạm luật pháp của Thượng Đế, không vâng giữ các điều răn của Ngài,
nên chúng ta hết thảy bị liệt vào hàng tội nhân.
Thứ hai:
Kinh Thánh mô tả tội lỗi là ‘gian tà’. Gian tà là đi lệch ra ngoài con đường
chánh, dù hành động đó có bị ngăn cấm rõ rệt hay không. Sự gian tà liên quan đến
những nguyên do thúc đẩy nội tâm của chúng ta, những gì chúng ta cố che giấu
loài người và Thượng Đế. Đó là những điều sai quấy bắt nguồn từ bản tính hư hoại
của chính chúng ta hơn là từ những hành động xấu xa đôi khi do áp lực của hoàn
cảnh khiến chúng ta vấp phạm.
Chúa
Giê-xu đã diễn tả sự hư hoại nội tâm này khi Ngài phán: “Vì từ bên trong, từ
tâm hồn con người, sinh ra những tư tưởng ác, như gian dâm, trộm cắp, giết người,
ngoại tình, tham lam, độc ác, lừa dối, phóng đãng, ganh ghét, phỉ báng, kiêu căng,
dại dột. Chính những thứ xấu xa từ bên trong mới làm con người dơ bẩn” (Mac 7:21-23).
Thứ ba:
Kinh Thánh giải thích tội lỗi là không đạt tới mục tiêu đã đặt. Chúa Cứu Thế là
mục tiêu của Thượng Đế. Đối tượng và cứu cánh của cả đời người là sống theo đời
sống Chúa Cứu Thế. Ngài đã đến để chỉ cho chúng ta biết con người có thể thực
hiện điều gì trên mặt đất này; nếu không noi theo gương Ngài, chúng ta sẽ không
đạt tới mục tiêu và không hội đủ tiêu chuẩn thiên thượng.
Thứ tư: Tội
lỗi là một hình thức ‘xâm phạm’, tức là lấy ý riêng xen vào quyền uy thiên thượng.
Tội lỗi không chỉ là điều tiêu cực, không chỉ là sự thiếu tình thương yêu đối với
Thượng Đế. Tội lỗi là sự lựa chọn tích cực, ưa thích bản ngã thay vì Thượng Đế,
là quy tụ tình thương vào chính bản thân mình, chớ không hết lòng vươn đến Thượng
Đế. Tính vị kỷ và duy ngã là những dấu hiệu của tội lỗi, cũng như trộm cắp và
sát nhân vậy. Có lẽ đây là hình thức tinh vi và tai hại nhất của tội lỗi, vì với
hình thức này nhãn hiệu trên lọ thuốc độc rất dễ bị coi thường. Những ai chỉ
nghĩ đến mình, hoàn toàn chú trọng vào chính bản thân, những ai chỉ nhìn thấy
và bảo vệ quyền lợi riêng - những người ấy là tội nhân không khác gì kẻ say rượu,
đàng điếm.
Chúa
Giê-xu phán: “Nếu một người chiếm được cả thế giới nhưng mất linh hồn thì có
ích lợi gì?” (8:36).
Tư tưởng này nếu diễn tả bằng ngôn ngữ hiện đại, có thể được trình bày như sau:
“Nếu một người bị ung độc tàn phá cơ thể không hưởng thụ được cơ nghiệp rộng lớn
của mình thì có ích gì chăng?”. Một nhà độc tài sẽ được lợi gì nếu ông ta chinh
phục được cả bán cầu nhưng phải thường xuyên sợ hãi viên đạn kẻ thù hoặc lưỡi
dao thích khách? Bậc làm cha mẹ được lợi gì khi nuôi nấng con cái bằng cách kỷ
luật nghiêm khắc, để rồi về sau bị chúng ruồng bỏ, phải sống cô đơn trong tuổi
già? Quả thật, tội lỗi của chính bản ngã vị kỷ là một tội lỗi chết người.
Thứ năm: Tội
lỗi là ‘sự vô tín’. Vô tín là tội lỗi vì đó là sự phỉ báng chân lý của Thượng Đế:
“Ai tin Con Thượng Đế đều biết Lời chứng của Thượng Đế là thật. Không tin Con
Thượng Đế cũng như bảo Thượng Đế là nói dối, vì cho Lời Thượng Đế phán về Con
Ngài không đúng sự thật” (IGi 5:10).
Sự vô tín đã
đóng cửa Thiên đàng và mở cửa Địa ngục. Sự vô tín đã chối bỏ Kinh Thánh và
không công nhận Chúa Cứu Thế là Cứu Chúa. Sự vô tín làm con người bịt tai đối với
Phúc Âm và chối bỏ những phép lạ của Chúa Cứu Thế.
Tội lỗi dẫn
đến án phạt là sự chết, và không ai có khả năng tự cứu mình thoát khỏi án phạt ấy
hay tẩy sạch sự hư hoại của tội lỗi ra khỏi lòng mình. Thiên sứ và con người
không chuộc được tội. Chỉ trong Chúa Cứu Thế mới có phương thuốc trị tội lỗi.
Chỉ có Chúa Cứu Thế mới có thể cứu tội nhân ra khỏi số phận đau thương đang chờ
đợi. “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết” (Ro 6:23). “Linh hồn nào phạm tội
thì sẽ chết” (Exe 18:4). “Chẳng có người nào chuộc được anh em mình, hoặc đóng giá
chuộc người nơi Thượng Đế” (Thi 49:7). “Hoặc vàng hoặc bạc của chúng nó đều
không thể giải cứu chúng nó trong ngày thạnh nộ của Thượng Đế” (So 1:18).
Phương dược
duy nhất.
Phương
pháp duy nhất để cứu con người ra khỏi tội lỗi đã thực hiện trên ngọn đồi hình
sọ vắng vẻ hoang vu; một tên cướp bị treo trên cây thập tự, một kẻ giết người
trên cây thập tự khác và ở chính giữa là một Người đội vương miện bằng gai. Máu
chảy từ tay chân Người, trào ra nơi hông Người, tuôn từng giọt trên mắt Người,
trong khi có những kẻ đứng trước mặt Người an nhiên cười cợt và chế nhạo. Người
chịu cực hình đó là ai? Người mà những kẻ khác tìm cách sỉ nhục và giết chết đó
là ai? Chính là Con của Thượng Đế, Hoàng tử của Hòa bình, Sứ giả từ trời xuống
thế gian bị tội lỗi dày vò. Trước mặt Ngài, các thiên sứ cúi đầu che mặt. Vậy
mà Ngài bị treo trên thập tự tàn bạo, máu huyết tuôn chảy và bị mọi người ruồng
bỏ.
Điều gì đã
đưa Ngài đến chỗ kinh khiếp này? Ai đã áp dụng hình phạt ghê tởm đó cho Đấng đến
trần gian để dạy chúng ta về tình yêu thương? Chính bạn và tôi, vì do tội lỗi của
bạn và của tôi mà Chúa Giê-xu phải bị đóng đinh trên cây thập tự. Trong phút
giây bất diệt đó, nhân loại đã nếm trải mức độ đen tối nhất của tội lỗi, và đụng
đến tột cùng sự ô uế nó. Thảo nào mặt trời cũng không chịu nổi, phải che mặt đi!
Như
Charles Wesley nói:
Tại sao tôi
lại có thể thích thú gây đau đớn cho Ngài’ ‘Làm đổ huyết Cứu Chúa, Đấng đã chịu
chết thay tôi? Thật là tình yêu thương lạ lùng!
Tại sao
Ngài là Thượng Đế tôi, lại chịu chết thay tôi?’
Nhưng trên
thập tự giá, tội lỗi đã bị thất bại. Nhát búa đóng đinh Chúa Cứu Thế vào cây thập
tự cũng là nhát búa mở toang cửa ngục cho con người được tự do. Đại tác phẩm tủi
nhục và thù hằn của tội lỗi đã trở thành kiệt tác của lòng nhân từ và tha thứ.
Qua sự chết của Chiên Con Thượng Đế trên thập tự giá, đối với những ai tin đến
Chúa Cứu Thế thì tội lỗi đã bị đóng đinh vào đó rồi. Sự chết của Ngài là nền tảng
của niềm hy vọng chúng ta, là lời hứa cho chúng ta được toàn thắng! Trên cây gỗ,
Chúa Cứu Thế mang những tội lỗi đã xiềng xích chúng ta vào chính thân thể Ngài.
Ngài đã chết vì cớ chúng ta và đã sống lại. Ngài chứng minh rằng tất cả những lời
hứa của Thượng Đế đối với con người là thật. Nếu hôm nay bạn tiếp nhận Chúa Cứu
Thế bằng đức tin thì bạn có thể phá tan xiềng xích của tội lỗi, và được an
toàn, tự do vì biết rằng qua tình yêu của Chúa Cứu Thế, linh hồn bạn được tẩy sạch
và được cứu khỏi án phạt.
Vì chúng
ta không chiến đấu với người trần gian nhưng với quyền lực vô hình đang thống
trị thế giới tối tăm và với các tà linh trên trời.
Eph 6:12
Eph 6:12
TRONG mọi
biến cố ngày nay, ta thấy ẩn tàng một nguyên tắc của ma quỉ. Kinh Thánh chép:
“Con rắn xưa, có tên là Quỉ vương hay Sa-tan, là Kẻ lừa dối cả thế giới” (Kh 12:9). Chúng ta biết rằng ma
quỉ đang âm mưu gây xáo trộn cho mọi người, mọi quốc gia. Đâu đâu ta cũng thấy
công trình xảo quyệt của nó.
Trong khi
hy vọng rằng nền hòa bình thế giới đã gần kề, hầu như chúng ta đang sống trên bờ
vực của trận chiến Ha-ma- ghê-đôn. Từ năm 1945 đến 1979 có hàng trăm cuộc chiến
lớn nhỏ là nguyên nhân của 12, 13 triệu cái chết. Chính vì Sa-tan nhất quyết muốn
cho dòng dõi tối tăm sầu thảm của nhân loại cứ tiếp tục trên con đường xao động
của mình cho đến lúc tận cùng thời gian. Thắng được A-đam trong vườn Địa đàng,
Sa-tan tin chắc có thể giành giựt được linh hồn con cháu của người.
Trong thế
giới hiện đại, không có người nào biết suy nghĩ mà không từng thắc mắc về sự hiện
hữu của ma quỉ. Ma quỉ có thật, không thể chối cãi. Chúng ta thấy quyền lực và ảnh
hưởng của nó khắp mọi nơi. Vấn đề không phải có ma quỉ hay không nhưng là vì
sao ma quỉ thành hình và thành hình như thế nào.
Qua truyện
tích A-đam và Ê-va chúng ta biết rằng ma quỉ đã có mặt trên địa cầu trước khi
Thượng Đế dựng nên con người đầu tiên. Lúc ấy đã có điều ác rồi; nếu không, Thượng
Đế đã không dựng nên một cây biết điều thiện và điều ác, và nếu con người không
cần được bảo vệ đối với điều ác thì không cần và không thể có cây ấy.
Phải chăng
Thượng Đế tạo ra điều ác?
Ở đây
chúng ta đối diện với một sự mầu nhiệm lớn lao nhất, ý nghĩa nhất trong tất cả
các sự mầu nhiệm, một câu hỏi khó trả lời nhất trong tất cả các câu hỏi. Tại
sao Thượng Đế là Đấng toàn năng, toàn khiết và toàn ái lại sáng tạo nên điều ác
hay cho phép Sa-tan tạo nên điều ác? Tại sao A-đam phải bị cám dỗ? Tại sao Thượng
Đế lại không giết chết ma quỉ khi nó nhập vào thân thể con rắn để truyền những
ác tưởng cho Ê-va?
Kinh Thánh
đã cho chúng ta vài gợi ý về câu trả lời. Nhưng Kinh Thánh cũng nói rõ rằng con
người không nhất thiết phải biết lời giải đáp trọn vẹn cho đến khi Thượng Đế
cho phép ma quỉ và tất cả những phương lược của nó hoàn thành kế hoạch lớn lao
của chính Ngài.
Trước khi
A-đam bị sa ngã, và rất lâu trước khi A-đam có mặt trên thế gian, hình như vũ
trụ của Thượng Đế được chia ra làm nhiều vùng ảnh hưởng, mỗi vùng ở dưới sự
trông nom và kiểm soát của một thiên sứ hay một hoàng tử của thiên đàng, tất cả
đều chịu trách nhiệm trực tiếp với Thượng Đế. Sứ đồ Phao-lô cho chúng ta biết về
“ngôi vua hay chủ tịch nhà nước, chính quyền hay các nhà lãnh đạo” thuộc thế giới
hữu hình lẫn vô hình (Co 1:16; Eph 1:21). Kinh Thánh thường đề cập đến thiên sứ
và thiên sứ trưởng, chứng minh rằng giữa họ có một trật tự đã được thiết lập, một
số thiên sứ này có quyền lực hơn các thiên sứ kia.
Ma quỉ chắc
phải là hoàng tử của Thiên Đàng có quyền lực như đã nói ở trên và có lẽ địa cầu
được giao cho nó phụ trách đặc biệt như một tỉnh vậy. Mang tên là Lu-xi-phe có
nghĩa là “người cầm đuốc” chắc nó phải gần gũi với Thượng Đế - gần đến nỗi sự
tham muốn nhập vào lòng và nó nhất định không chịu làm hoàng tử thân yêu của
Ngài, nhưng muốn được đặt ngang hàng với chính Ngài! Lu-xi-phe không phải là đối
thủ của Thượng Đế, nhưng là đối thủ của Mi-ca-ên hay Gáp-ri-ên; nó không phải
là một vị thần bị sa ngã mà là một thiên sứ đã sa ngã. Chính bấy giờ sự rạn nứt
mới xảy ra trong vũ trụ. Chính lúc ấy vũ trụ vốn hoàn hảo và điều hòa theo ý Thượng
Đế - đã bị phân rẽ, và một phần của vũ trụ chống nghịch lại Thượng Đế. Ma quỉ đã
làm nhục Thượng Đế và cố thiết lập quyền uy của nó. Nó từ bỏ địa vị của mình
trong chính quyền của Thượng Đế và hạ xuống những tầng trời thấp hơn, tự xưng
mình sẽ giống như Đấng Tối Cao tức là Thượng Đế. Nó đã được Thượng Đế đặt vào
ngôi vị hoàng tử của thế gian này; và Thượng Đế chưa truất phế nó ra khỏi địa vị
đó, mặc dù căn bản công nghĩa của sự truất phế đó đã được xây dựng bằng sự chết
của Chúa Cứu Thế. Và từ ấy đến nay, ma quỉ vẫn tiếp tục tranh chấp với Thượng Đế
trên mặt đất.
Vương quốc
của ma quỉ.
Là một
hoàng thân quyền uy với vạn thiên sứ dưới tay, ma quỉ đã thiết lập một vương quốc
trên thế gian. Chính quyền lực và địa vị của nó tại nơi này là những lý do đích
thực để Kinh Thánh được viết ra. Nếu Sa-tan không làm nhục Thượng Đế và tìm
cách thách thức năng lực và quyền uy của Ngài thì câu chuyện A-đam trong vườn Địa
đàng đã khác hẳn. Nếu Sa-tan không đứng ra chống đối Thượng Đế thì Ngài đã
không cần ban Mười Điều Răn cho loài người, cũng không cần sai Con Ngài lên thập
tự giá.
Chúa
Giê-xu và các sứ đồ Ngài đều biết rõ về ma quỉ. Mã-thi ghi chép cuộc đàm thoại
thực sự giữa Chúa Giê-xu và ma quỉ (Mat 4:1-10). Ma quỉ là một sự kiện
có thật đối với các thầy Biệt-lập (những người giữ đạo Do-thái một cách nghiêm
nhặt về hình thức, họ thường bắt bớ các Cơ Đốc nhân), đến nỗi họ đã thực sự lên
án Chúa Giê-xu là ma quỉ! (Mat 12:24). Chúa Giê-xu không nghi ngờ gì về sự hiện
hữu của ma quỉ và quyền năng hành động của nó trên mặt đất.
Sức mạnh của
ma quỉ được mô tả trong sách Giu-đe câu 9: “Đến như Mi-ca-ên, là một trong những
vị thiên sứ lớn nhất, khi tranh luận với quỉ vương về thi hài Mai-sen, cũng chẳng
nặng lời tố cáo mà chỉ nói: “Cầu Thượng Đế khiển trách ngươi.”
Ngày nay vị
cách của ma quỉ bị lẫn lộn mơ hồ, phần lớn là hậu quả của những bức hí họa rất
quen thuộc thời trung cổ về ma quỉ. Muốn bớt sợ ma quỉ, người ta tìm cách chế
nhạo nó, mô tả nó như nhân vật ngu ngốc, thô lỗ, có sừng và đuôi dài, tay cầm
cái đinh ba, với cái nhìn đầy tham muốn đần độn, rồi họ tự nhủ: “Ai lại đi sợ một
khuôn mặt kỳ dị như thế này?”
Sự thật,
ma quỉ là một nhân vật cực kỳ thông minh, một thần linh mạnh mẽ có năng khiếu
và rất mưu lược. Chúng ta quên rằng rất có thể ma quỉ là thiên sứ vĩ đại và cao
trọng nhất trong tất cả thiên sứ của Thượng Đế. Ma quỉ vốn là một hình ảnh cao
cả đã quyết định dùng những điều phú bẩm thiên thượng vào những mục đích riêng
tư thay vì dùng vào mục đích của Thượng Đế. Lối biện luận của ma quỉ rất khôn
khéo, các kế hoạch của nó rất thần tình, và lý luận của nó hầu như không thể
bác bẻ được. Kẻ thù mạnh mẽ của Thượng Đế không phải là một nhân vật vụng về có
sừng và đuôi; đó là một hoàng tử có vóc dáng kiêu kỳ oai vệ, có mánh khóe xảo
quyệt, có khả năng lợi dụng mọi cơ hội xảy đến, và xoay chuyển mọi hoàn cảnh để
làm lợi cho chính nó.
Ma quỉ có đủ
khả năng để tạo nên một tiên tri giả mà Kinh Thánh đã báo trước. Bên trên sự
phá sản của lòng vô tín và sự xao xuyến của đức tin, ma quỉ sẽ hoàn thành kiệt
tác của nó, là vị vua giả. Nó sẽ thiết lập một tôn giáo không có Đấng Cứu chuộc.
Nó sẽ xây dựng một giáo hội không có Chúa Cứu Thế; nó sẽ hướng dẫn thờ phượng
không có Kinh Thánh.
Sứ đồ
Phao-lô đã dự đoán điều này khi ông nói: “Tôi sợ anh em suy tư lầm lạc, mất
lòng trong sạch chuyên nhất với Chúa Cứu Thế, như Ê-va ngày xưa bị Con Rắn dùng
quỷ kế lừa gạt. Vì nếu có người đến tuyên truyền một thần linh khác với Chúa
Giê-xu chúng tôi đã truyền giảng, hoặc một tinh thần khác với Thánh Linh anh em
đã nhận... anh em cũng sẵn sàng hưởng ứng! Họ là sứ đồ giả hiệu, công nhân gian
trá, mạo làm sứ giả của Chúa Cứu Thế” (IICo 11:3, 4, 13).
Ma quỉ và
Kẻ chống đối Chúa Cứu Thế.
Chúng ta
biết rằng kẻ chống đối Chúa Cứu Thế sẽ xuất hiện và tìm cách đánh lừa tâm trí
loài người. Thì giờ đã đến gần, sân khấu đã bố trí xong - nỗi rối loạn, hoảng hốt
và sự sợ hãi đầy dẫy khắp nơi. Các dấu hiệu của tiên tri giả đang lan tràn khắp
nơi, và nhiều người có thể là chứng nhân sống của giờ phút kinh dị, lúc màn cuối
cùng của tấn bi kịch trải suốt bao thời đại chúng ta. Rất có thể điều này sẽ xảy
ra trong thời đại của chúng ta vì cớ các biến cố gia tăng tốc độ biến chuyển; đâu
đâu chúng ta cũng thấy con người lựa chọn một cách có ý thức hay vô ý thức - hoặc
theo đường lối của ma quỉ, hoặc theo đường lối của Thượng Đế.
Đó sẽ là một
trận tử chiến theo nghĩa thật của nó - một trận chiến không cho phép dung tha
hay nhân nhượng. Giai đoạn nhân bản của cuộc chiến bắt đầu trong vườn Ê-đen khi
ma quỉ cám dỗ loài người lánh xa Thượng Đế, lôi cuốn hằng tỉ người hiếu chiến,
mỗi người hành động theo ý riêng mình. “Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai
theo đường nấy, Thượng Đế đã làm cho tội lỗi của hết thảy chúng ta đều chất
trên Người” (Es 53:6). Điều này sẽ tiếp diễn cho đến tận thế, khi một trong hai
thế lực - thế lực của điều thiện và điều ác - chiến thắng, đưa Vua Thật hay vua
giả lên ngôi.
Vào giờ
phút này của lịch sử, có hai Tam-vị-nhất-thể mạnh mẽ đối đầu nhau. Tam-vị-nhất-thể
của Thượng Đế (Đức Cha, Đức Con và Đức Thánh Linh) và Tam-vị-nhất-thể giả hiệu
mà Sa-tan muốn chúng ta thờ phượng. Tam-vị-nhất-thể của tội ác (ma quỉ, kẻ chống
đối Chúa Cứu Thế, và tiên tri giả) được diễn tả trong Khải thị: “Tôi thấy có ba
tà linh giống như ếch nhái ra từ miệng con rồng, miệng con thú và miệng tiên
tri giả” .
Dù thức
hay ngủ, không giây phút nào đời sống bạn không có hai thế lực đó; không có cơ
hội nào mà bạn không thể quyết định chọn lựa đi theo thế lực này hay thế lực
kia. Ma quỉ luôn đứng bên này để cám dỗ, nịnh hót, đe dọa, dỗ dành bạn. Và bên
kia bạn luôn có Chúa Giê-xu, Đấng toàn ái, tha thứ tất cả, chờ đợi bạn quay trở
về với Ngài, yêu cầu Ngài giúp đỡ, chờ đợi để ban cho bạn quyền năng siêu nhiên
chống lại ma quỉ. Bạn phải đứng về phía bên này hoặc phía bên kia. Không hề có
vùng-đất-không-người ở giữa, để bạn có thể ẩn trốn.
Trong những
lúc bạn lo sợ bối rối nhất, lúc bạn cảm thấy mình bất lực trước móng vuốt các
biến cố bạn không sao kiểm soát được, trong khi sự chán nản và thất vọng tràn
ngập lòng bạn, chính những lúc đó ma quỉ lợi dụng những nhược điểm của bạn để đẩy
bạn đi xa vào con đường A-đam đã theo.
Những lúc
nguy hiểm này hãy nhớ rằng Chúa Cứu Thế không bỏ rơi bạn. Ngài không để bạn
trong thế vô phương chống đỡ. Ngài đã chiến thắng Sa-tan trong giờ phút bị cám
dỗ và thử thách, nên Ngài hứa rằng bạn cũng thế, có thể chiến thắng kẻ cám dỗ hằng
ngày. Hãy nhớ rằng “Các con đã thuộc về Thượng Đế và chiến thắng những kẻ chống
nghịch Chúa Cứu Thế, vì trong các con có Đấng mạnh mẽ hơn thần linh ở trong thế
gian” (IGi 4:4).
Kinh Thánh
cũng nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho chúng ta biết về tình thương của Thượng Đế.
Kinh Thánh luôn luôn cảnh cáo về việc ma quỉ sẽ xen vào giữa chúng ta và Thượng
Đế, tìm cơ hội dỗ dành để đưa linh hồn con người vào cạm bẫy. “Hãy cẩn thận,
canh phòng đối phó cuộc tiến công của Sa-tan, tên đại tử thù của anh em. Nó lảng
vảng quanh anh em như sư tử gầm thét tìm mồi, chực vồ được người nào là xé xác
ngay” (IPhi 5:8). Kinh Thánh mô tả một thứ ma quỉ có cá tính con người, kiểm
soát một đạo binh gồm nhiều tà thần đang tìm cách thống trị và kiểm soát tất cả
mọi sinh hoạt của nhân loại. “Bạo chúa của đế quốc không gian, hiện đang hoạt động
trong lòng người chống nghịch Thượng Đế” (Eph 2:2).
Đừng nghi
ngờ sự hiện hữu của ma quỉ.
Đừng bao
giờ nghi ngờ về sự hiện diện của ma quỉ! Ma quỉ có cá tính và rất thật. Nó rất
khôn ngoan! Nếu các bạn còn thắc mắc về cá tính của ma quỉ, hãy nhìn trang nhất
của tờ nhật báo hôm nay. Nếu bạn cần chứng minh cụ thể, hãy đón nghe chương
trình phát thanh hoặc đón xem chương trình truyền hình. Những người đầu óc bình
thường không bị móng vuốt của ác tật lại có thể hành động như thế sao? Có thể
nào những tấm lòng chỉ chứa tình yêu thương và nhân hậu của Thượng Đế lại có thể
quan niệm và thực hành những việc tàn bạo và gian manh mà báo chí tường thuật mỗi
ngày? Có thể nào những người có giáo dục, thông minh và ý chí lương thiện ngồi
quanh bàn hội nghị quốc tế lại hoàn toàn không hiểu biết nhu cầu và mục tiêu của
nhau nếu sự suy tư của họ không bị mây mờ cố ý che phủ và làm hư hoại?
Mỗi lần
tôi nghe một người “sáng suốt” của thời đại chúng ta phủ nhận sự hiển nhiên của
một thứ ma quỉ có cá tính, được cá nhân hóa chỉ huy một đạo binh ác thần, tôi bỗng
nhớ tới bài thơ sau đây của Alfred J. Hough!
Con người
bây giờ không tin ở ma quỉ như cha ông họ; Họ đã mở toang cửa của giáo điều rộng
rãi nhất để cho vua của họ đi qua. Vì thế giới cho rằng ngày hôm nay người ta
không còn tìm thấy được trên mặt đất hay trong không gian một dấu chân nào hay
một tên lửa nào từ chân mày của ma quỉ phát ra. Ai rình rập bước chân của vị
thánh đồ cực nhọc và đào hố cho người sụp chân? Ai gieo cỏ dại trong đồng khi
Thượng Đế gieo lúa mì? Người ta cho rằng ma quỉ không làm việc ấy, và dĩ nhiên,
điều đó có thật; Nhưng ai đang thực hiện công việc mà chỉ có ma quỉ mới có thể
làm? Người ta nói rằng ma quỉ ngày nay không đi đây đi đó như một con sư tử gầm
thét. Nhưng chúng ta sẽ qui trách nhiệm cho ai về những xáo trộn triền miên
trong gia đình, trong quốc gia, và cả đến những nơi hẻo lánh nhất của địa cầu.
Nếu người ta đồng thanh cho rằng không biết ma quỉ chốn nào mà tìm? Có ai chịu
tiến lên trước, cúi chào và cho biết tại sao những sự bịp bợm và bạo hành lại xảy
ra hằng ngày. Chúng tôi rất muốn biết! Người ta đã chấp nhận khá chắc chắn rằng
ma quỉ không có mặt và dĩ nhiên ma quỉ đã đi rồi; Nhưng những người dân thường
muốn biết ai đang tiếp tục điều hành công việc ấy?
Quả thật,
ai là người chịu trách nhiệm về sự đê hèn, kinh khiếp và thống khổ xảy ra chung
quanh chúng ta? Nếu tội ác không phải là một năng lực mạnh mẽ thì làm thế nào
chúng ta xác định được những sự đau khổ mà tất cả chúng ta đều từng trải? Nếu
vì những phát minh được cho là khoa học mà chúng ta không tin vào quyền năng
siêu phàm của Sa-tan thì nền giáo dục mới đã thực sự ngăn trở đầu óc ta.
George
Galloway đã tóm lược các kết quả đáng nghi ngờ của nền giáo dục hiện nay như
sau: “Nói chung trí thức tân tiến ngày nay loại bỏ lý thuyết cho rằng trong vũ
trụ có một năng lực hay nguyên lý, hữu ngã hay vô ngã vĩnh viễn chống đối Thượng
Đế”.
Khối óc
tân tiến có thể loại bỏ nó thật, nhưng điều này không làm cho chính nguyên lý tội
ác biến thể. Tâm trí hiện đại có thể gạt bỏ nó, nhưng việc ấy không khiến cho
nguyên lý của điều ác tự nhiên biến mất. Có lần Martin Luther được hỏi làm thế
nào để thắng hơn Sa-tan, ông đáp: “À, khi nó tới, gõ cửa lòng tôi và hỏi: ở
trong đó?“thì Chúa Giê-xu yêu dấu của tôi sẽ ra cửa và nói: “Đây là chỗ thường
trú của Martin Luther nhưng hắn đã dọn nhà đi rồi. Bây giờ thì ta ở đây“. Khi
ma quỉ thấy dấu đinh trên đôi bàn tay Ngài, thấy bên sườn bị đâm, nó bèn lập tức
bỏ chạy”.
Tội lỗi là
điều chắc chắn.
Tội lỗi quả
là một sự kiện ghê tởm! Nó là một lực quá lớn thách thức tất cả những điều thiện
con người có thể cố gắng thực hiện. Nó như một bóng tối luôn sẵn sàng bao phủ bất
cứ ánh sáng nào từ trên cao muốn đến với ta. Tất cả chúng ta đều rõ và thấy điều
này. Ai cũng ý thức điều đó trong mỗi một hành động của mình. Muốn gọi nó là gì
thì gọi, chúng ta đều biết về sự thực hữu hiển nhiên của nó “Vì chúng ta không
chiến đấu với người trần gian nhưng với quyền lực vô hình đang thống trị thế giới
tối tăm này và với các tà linh trên trời” (Eph 6:12).
Những người
phủ nhận sự hiện hữu của ma quỉ và đồng bọn nó làm sao giải thích được tốc độ
bành trướng của tội ác đây? Làm sao có thể cắt nghĩa những chướng ngại không
cùng, nằm trên con đường của người công nghĩa? Làm sao có thể chối cãi được rằng
tàn phá và tai họa thì xảy ra rất nhanh chóng, trong khi kiến thiết và trùng tu
lại tiến hành chậm chạp một cách khó nhọc?
Nếu bạn thổi
vào không khí một điều gian dối, hay thốt ra một lời vu oan - bạn sẽ thấy lời
nói như được phép thuật mang đi đến những chân trời góc bể xa xôi nhất. Nhưng nếu
bạn nói sự thật, thực hiện một việc gì quảng đại và lương thiện - bạn sẽ thấy lập
tức có những lực vô hình ra tay cố che đậy ánh sáng và niềm hy vọng nhỏ bé ấy.
Cách đây
30 năm khi quyển sách này được viết ra lần đầu không ai tính chuyện xây cất nhà
thờ cho ma quỉ, hoặc lập nên các tòa giảng để truyền rao lời của nó. Thế nhưng
ngày nay đã có. Lời nói của ma quỉ ở khắp mọi nơi và rất nhiều trường hợp lời
nói của ma quỉ được diễn dịch thành những hành động tuyệt vọng. Nếu không có một
năng lực vô hình nào đang hành động làm hư hoại tâm linh và làm méo mó tư tưởng
con người, bạn làm sao giải thích được lòng hăm hở của con người muốn nghe những
gì đê hèn, hạ cấp, xấu xa, và làm ngơ trước những gì đẹp đẽ, tinh sạch, thuần
khiết? Người ta chỉ cần lắng nghe những lời phạm thượng đê tiện, cũng đủ biết
là Sa-tan vẫn còn sống và mạnh giỏi trên thế gian này.
Trong
chúng ta có người nào, dù chỉ một người thôi, lại từ chối một trái chín ngon để
lựa lấy một trái thúi có sâu bọ và có mùi hôi vì hư nát, nếu chúng ta không bị
một mãnh lực lớn lao và quỉ quái bắt buộc phải chọn lựa như vậy? Thế nhưng, đó
chính là điều tất cả chúng ta vẫn thường làm. Chúng ta luôn luôn bỏ qua những
kinh nghiệm phong phú, đẹp đẽ và cao quý để đi tìm cái hào nhoáng rẻ tiền và hạ
cấp. Những điều này là công trình của ma quỉ, và chúng đầy dẫy khắp nơi!
Cuộc chiến
đấu giữa thiện và ác.
Những điều
chúng ta chứng kiến trên thế gian chỉ là phản ảnh những cuộc tranh đấu rộng lớn
hơn giữa thiện và ác trong thế giới vô hình. Chúng ta thường cho rằng hành tinh
của chúng ta là trung tâm điểm của vũ trụ và chúng ta chú trọng quá nhiều vào
những biến cố của thế gian. Niềm kiêu hãnh ngông cuồng khiến chúng ta chỉ nhìn
nhận và ghi nhớ những gì hiển hiện trước mắt phàm của chúng ta mà thôi. Nhưng
có một cuộc tranh đấu vô cùng lớn lao đang diễn ra trong thế giới mà mắt chúng
ta không thể thấy được.
Những nhà
thông thái thời xưa đã biết rõ điều này. Họ hiểu rằng có nhiều điều mắt người
không thể phân biệt được và tai người không nghe được. Con người ngày nay thích
cho rằng họ “sáng tạo” truyền thanh truyền hình và máy điện toán, và họ có khả
năng truyền qua không gian những âm thanh nghe được và những hình ảnh thấy được.
Thực ra, những làn sóng đó vẫn từng có mà loài người không biết, và có những kỳ
quan khác trong không gian lớn lao hơn nhiều mà con người không bao giờ biết đến
mảy may. Những kỳ quan này vẫn còn đó và những đấng tiên tri ngày xưa đã biết -
dẫu chỉ biết sơ sài về phạm vi của nó hay chỉ nghe âm vang hết sức yếu ớt của
trận chiến dữ dội giữa các tinh cầu.
Một trong
những giá mà A-đam phải trả vì đã nghe lời ma quỉ là không còn khả năng nhìn thấy
được những tầm vóc thuộc linh. A-đam đã khiến cho chính mình và cho cả thảy
nhân loại mất đi khả năng nghe, thấy và hiểu biết những gì không có tính cách vật
chất tầm thường. A-đam đã tự ngăn cách mình bên ngoài vòng những kỳ quan và sự
rạng rỡ của thế giới vô hình. A-đam đã mất quyền tiên tri thật, mất khả năng
nhìn về tương lai để nhờ đó có thể hiểu biết và thực hiện công việc của hiện tại.
A-đam đã mất giác quan của sự liên tục, của sự hòa đồng với vũ trụ và mọi sinh
vật. A-đam đã tự ngăn cách chính mình với Thượng Đế và trở thành một người xa lạ
trong thế giới của Ngài. Ông đã thật sự “chết trong sự gian ác và tội lỗi
mình”. Ông đã khiến mình bị “vong thân”, xa cách Thượng Đế.
G. Cambell
Morgan nói: “Khoảng cách giữa chúng ta với Thượng Đế là việc chúng ta không thể
biết được và lãnh hội được cái thật gần. Đó là khoảng cách của người mù với ánh
hào quang của bức tranh ngay trước mặt anh ta. Đó là khoảng cách giữa người điếc
với vẻ đẹp của âm thanh bản giao hưởng đang vang lên quanh anh. Đó là khoảng
cách giữa người vô cảm giác với tất cả sự hoạt động của đời sống mà anh ta đang
sống”.
Nhưng nếu
thảm kịch hay sự đau ốm đến với chúng ta, nếu chúng ta đau khổ vì hậu quả tội lỗi
của chính chúng ta thì chúng ta lại lập tức trách móc Thượng Đế về điều đó!
Chúng ta tỏ ra kiên nhẫn và hiểu biết đối với máy vô tuyến truyền hình khi
chúng không hoạt động như ý, nhưng chúng ta vội trách cứ Thượng Đế và vũ trụ của
Ngài khi chúng ta có một hình ảnh méo mó về vũ trụ đó.
Nếu có người
nào khác phát đạt trong công việc, nếu người nào đó chúng ta cho là không xứng đáng
thành công trong khi chúng ta thất bại, thì chúng ta sẽ gào lên cho rằng Thượng
Đế bất công. Chúng ta đòi phải giải thích tại sao Thượng Đế cho phép những điều
bất công như thế xảy ra! Chúng ta đã quên sự kiện rằng Thượng Đế giống như một đài
phát hình vô tuyến trung ương vĩ đại, luôn luôn phát ra hình ảnh hoàn hảo của
tình thương và sự công nghĩa, và máy thu hình hỏng chính là chúng ta.
Điều ác dưới
mắt chúng ta.
Chính tội
ác và sự méo mó trong chúng ta đã không cho chúng ta thấy và nếm trải thế giới
toàn thiện của Thượng Đế. Chính tội lỗi chúng ta đã làm mờ hình ảnh, đã khiến
chúng ta thay vì làm con cái thánh khiết của Thượng Đế, lại trở thành con cái của
sự độc ác. Phao-lô đã lên tiếng thay cho tất cả chúng ta khi ông phát biểu:
“Tôi chẳng làm điều mình muốn, lại làm điều xấu mình không muốn” (Ro 7:19). Phao-lô đã nhận biết
kẻ thù ghê gớm, kẻ đối nghịch của tất cả nhân loại và ông đã kêu lên: “Thật bất
hạnh cho tôi! Ai sẽ cứu tôi thoát ách nô lệ của thể xác tội lỗi hư hoại này? Tạ
ân Thương Đế, tôi được giải cứu nhờ Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta” (7:24, 25).
Đối với
Phao-lô, có hai thế lực đối nghịch rất rõ rệt và ông đã nhận biết sâu sắc là
mình đã bị giằng xé giữa hai từ lực đó. Sức mạnh của điều thiện lôi kéo tâm trí
ông hướng về phía Thượng Đế, trong khi sức mạnh của tội ác cố lôi kéo thân thể
ông xuống chỗ chết chóc và diệt vong.
Bạn cũng đang
bị mắc vào hai mãnh lực đó: sự sống và sự chết. Hãy chọn lấy con đường của Thượng
Đế vì đó là sự sống. Nếu bạn chọn con đường của Sa-tan tức là bạn chọn con đường
của sự chết.
Tôi bị
chúng quên đi như kẻ chết mà lòng không còn nhớ đến.
Tôi giống như một cái bình bể nát
Thi 31:12
Tôi giống như một cái bình bể nát
Thi 31:12
SAU khi
phu quân của Nữ hoàng Victoria qua đời, bà nói: “Chẳng còn ai để gọi tôi là
Victoria nữa”. Tuy là một nữ hoàng, bà vẫn biết rõ cô đơn có nghĩa gì.
Vào sinh
nhật thứ sáu mươi lăm của mình, H. G. Wells nói: “Tôi đã sáu mươi lăm tuổi, đang
cô đơn, lòng không hề bình an”.
Isadora
Duncan, nữ vũ công nhạc kịch lừng danh, từng khiêu vũ trước mặt các bậc đế vương
của Âu châu, và được cho là nữ vũ công tài ba nhất của mọi thời đại, nói: “Tôi
chưa bao giờ phải ở một mình, nhưng lòng tôi đau đớn, mắt tôi đẫm lệ, tay tôi
run rẩy vì mong được sự bình an và niềm vui mà tôi chẳng bao giờ tìm thấy”. Rồi
bà nói tiếp rằng, dầu đang sống giữa nhiều triệu người ái mộ mình, thật ra, bà
là một người vô cùng cô đơn.
Mấy năm trước
đây, một minh tinh trẻ đẹp của Hollywood, là người dường như có đầy đủ tất cả
những gì một thiếu nữ có thể mơ ước, đã tự kết liễu đời mình. Cô ghi một lời ngắn
ngủi, vô cùng đơn giản để nhắn lại với mọi người rằng cô ta cô đơn đến mức
không thể nào chịu đựng nổi nữa.
Tác giả
Thi-thiên nói: “Tôi giống như con chàng bè nơi rừng vắng, khác nào chim mèo ở
chốn bỏ hoang. Tôi thao thức, tôi giống như chim sẻ hiu quạnh trên mái nhà” (Thi 102:6, 7).
Ông lại
nói: “Sự sỉ nhục làm đau thương lòng tôi, tôi đầy sự khổ nhọc; tôi trông đợi có
người thương xót tôi, nhưng chẳng có ai; tôi mong chờ người an ủi, song nào có
gặp” (Thi 69:20)
Nỗi cô đơn
của nơi hoang vắng.
Trước hết,
có nỗi cô đơn do vắng vẻ. Tôi cảm nhận nỗi cô đơn của đại dương khi chẳng còn
tiếng động nào khác hơn là tiếng rì rào dọc theo một bờ biển lởm chởm những tảng
đá. Tôi từng cảm thấy nỗi cô đơn trên một cánh đồng cỏ, thỉnh thoảng mới vang
lên tiếng tru não nuột của một con chó sói. Tôi cảm thấy nỗi cô đơn của những rặng
núi nhấp nhô, chỉ nghe tiếng gió thở dài.
Người lính
canh vì nhiệm vụ phải đứng một mình trong trạm gác; hàng ngàn người sống trong
các bệnh viện tâm thần; và những người bị biệt giam trong các lao xá, các trại
tập trung, vốn biết rõ ý nghĩa của nỗi cô đơn và nơi hoang vắng.
Louis
Zamperini, vận động viên lừng danh trên đường chạy Thế vận hội từng kể lại nỗi
cô đơn khủng khiếp của mình giữa cảnh vắng vẻ, khi anh phải lênh đênh bốn mươi
ngày trên một chiếc bè cứu sinh, trong trận Thế chiến thứ hai.
Trong quyển
sách rất hấp dẫn, quyển ‘Cô Đơn’(Alone), Đô đốc Richard E. Byrd kể lại thời
gian ông sống đầy hoang mang, não lòng trong bóng tối. Ông phải nằm trong một
nhà lều thật sự bị chôn vùi trong dải đất băng giá bao phủ Nam cực. Ông đã phải
chịu đựng năm tháng tại đó. Ngày cũng tối đen như đêm. Trong vòng một trăm dặm,chẳng
có một sinh vật bất cứ thuộc loại nào sinh sống cả. Cái lạnh gay gắt đến nỗi
ông có thể nghe thấy hơi thở của mình đông cứng lại khi gió thổi nó bay ngang
tai ông.
Ông nói:
“Ban đêm, trước khi tắt đèn, tôi đã tập thành thói quen thảo kế hoạch cho công
việc ngày hôm sau”. Để duy trì sức khỏe, ông buộc phải làm như vậy. Ông tiếp:
“Thật là kỳ diệu khi có thể phân chia thời gian như vậy. Nó đòi hỏi tôi phải có
một ý thức hết sức phi thường để tự ra lịnh cho chính mình; vì nếu không hoạt động
liên tục, các ngày sống ở đó sẽ trở thành vô mục đích; mà nếu vô mục đích, chắc
chắn chúng sẽ kết thúc bằng sự tan rã - như những ngày như thế bao giờ cũng kết
thúc như vậy”.
Nỗi cô đơn
giữa xã hội.
Rất có thể
bạn cho rằng sống trong vùng đất hoang vu băng giá như thế, Richard Byrd đã là
người cô đơn nhất trong toàn thể mọi người. Nhưng nỗi cô đơn giữa xã hội còn tệ
hại hơn cả nỗi cô đơn nơi hoang vắng, vì trong nhiều thành phố lớn, còn có sự
cô đơn tệ hại hơn thế nữa.
Những con
người khốn khổ sống trong một căn nhà thuê chật hẹp, chẳng bao giờ nhận được một
lá thư, nghe một lời khích lệ, được một bạn thân nắm chặt bàn tay; cũng như nhà
lãnh tụ xã hội mà tiền bạc dư thừa có thể mua tất cả mọi sự ngoại trừ tình yêu
thương và hạnh phúc - đều biết rõ nỗi cô đơn mà ít người có thể cảm thông được.
Có nỗi cô đơn
của những người sống đầu đường xó chợ, trên vỉa hè hay dưới những mái lều bằng
giấy bồi, vơ vét thức ăn thừa trong hộp - đó là một nỗi cô đơn có một không
hai.
Một chương
trình truyền hình mới đây cho thấy cảnh cô đơn não lòng của một số người già bị
bỏ mặc trong những nhà dưỡng lão đổ nát. Thế ngồi vô mục đích, đôi mắt thất thần
của họ đã ám ảnh tôi. Họ là những người chết mà hãy còn sống. Thế nhưng ở phần
hậu cảnh, có một cụ già bị bỏ rơi ngồi bên chiếc dương cầm cũ cũng bị bỏ đi, chỉ
một ngón tay vào bài thánh ca nhan đề “Chúng ta có một bạn hiền, là Chúa
Giê-xu”.
Trong
sách Gi 5:1-47, chúng ta đọc câu chuyện về Chúa Giê-xu; một hôm, Ngài đang
đi qua các đường phố hẹp của Giê-ru-sa-lem, đến Cửa Chiên, gần ao Bê-tết-đa,
Ngài thấy một đám rất đông người, ngồi chờ nước động. Bỗng Ngài chú ý một người
dường như đang gặp khó khăn khổ sở hơn tất cả, Ngài dịu dàng hỏi người ấy: “Bạn
có muốn lành bệnh không?” Người bại liệt đã tuyệt vọng ấy ngẩng đầu lên và nói:
“Thưa ông, chẳng có ai giúp tôi, để khi nước động, thì ném tôi xuống ao”. Bạn
hãy nghĩ xem, suốt ba mươi tám năm mỏi mòn chờ đợi, con người đau khổ này bị xô
đẩy, chen lấn, đấm đá bởi cả một đám đông tại Giê-ru-sa-lem, cuối cùng, đã nói
với Chúa Giê-xu: “Thưa ông, tôi chẳng có ai đưa tôi xuống ao cả”. Ông ta hoàn
toàn không có bạn.
Bạn có thể
có được một người bạn, còn thân thiết hơn cả anh em ruột nữa. Chúa Giê-xu có thể
giúp bạn có một đời sống vui vẻ, mãn nguyện và vẻ vang. Ở khắp nơi trên thế giới,
có triệu triệu người nam lẫn người nữ đang yêu mến và phục vụ Chúa Giê-xu. Ngay
lúc tin nhận Ngài, bạn sẽ trở thành thân thiết với họ, hơn cả với bà con thân
thuộc của bạn nữa.
Tại Hoa-kỳ,
không có một thành phố nào mà không có một Hội thánh ấm cúng để bạn có thể đến
và gặp được những con người tuyệt diệu nhất nước Mỹ. Trong tất cả các cộng đồng
tại Hoa-kỳ đều có một màng lưới khổng lồ các Cơ Đốc nhân chân chính đang hoạt động.
Ngay lúc bạn siết chặt bàn tay họ, bạn biết chắc rằng mình đã có được những người
bạn thân.
Nhưng trước
hết, bạn phải ăn năn tội, dâng trọn tấm lòng và cuộc đời bạn cho Chúa Cứu Thế.
Hãy để Ngài tha thứ các tội lỗi quá khứ của bạn, rồi Ngài sẽ nhận bạn vào gia đình
Ngài; Ngài sẽ dẫn bạn đến cạnh lò sưởi, để bạn cảm nhận được hơi ấm của ngọn lửa.
Nếu hôm nay bạn cô đơn, tôi nài xin bạn hãy đến ngay với Chúa Cứu Thế để biết
rõ tình bạn mà Ngài sẽ đem đến cho bạn.
Nỗi cô đơn
do đau khổ.
Thứ ba, có
nỗi cô đơn do đau khổ. Mấy năm trước đây, một thính giả nghe chương trình phát
thanh của chúng tôi viết thư cho chúng tôi kể rằng, từ năm năm rồi, bà ta bị chứng
sưng khớp xương làm cho bại liệt, phải ngồi một chỗ. Suốt năm năm trường mỏi
mòn đau đớn, bà không thể nào vươn vai hay nằm duỗi dài ra được. Nhưng bà viết:
“Tôi đã sống một mình trong nhiều ngày, nhưng chưa bao giờ bị cô đơn”. Tại sao
vậy? Chính Chúa Cứu Thế đã tạo ra chỗ khác nhau đó. Với Chúa Cứu Thế là Cứu
Chúa và là người Bạn chung thủy, thì chính bạn, dù sống một mình, bạn cũng sẽ
chẳng bao giờ bị cô đơn.
Nếu hôm
nay bạn đang nằm trên giường của một bệnh viện, bị cô đơn và đau khổ, bạn nên
tin chắc rằng Chúa Cứu Thế có thể ban cho bạn ân điển và sức lực của Ngài.
Trong lúc nằm đó, bạn vẫn có thể hữu ích cho Ngài. Bạn có thể biết được phần
nào về chức vụ cầu thay, là một trong những chức vụ quan trọng nhất trên đất
này, khi bạn cầu nguyện cho nhiều người khác.
Nỗi cô đơn
do âu sầu.
Thứ tư, có
nỗi cô đơn do âu sầu. Trong chương 11 của sách Giăng, chúng ta đọc thấy trường
hợp của Ma-ri và Mặc-thê. Anh trai của họ là Lã-xa vừa qua đời. Chúa Giê-xu vẫn
chưa đến. Họ chỉ còn biết đứng bên thi hài anh mình mà khóc.
Có lẽ đối
với bạn, cuộc đời cũng là một nghĩa địa mênh mông toàn những mồ mả. Có lẽ bạn
hiện đứng trong phòng bệnh để chờ đợi một người thân thiết nhất đang nằm ngoài
tầm tay mình. Bạn đang khát khao được một ai đó làm bạn với mình.
Bạn đang cần
ai đó, có bàn tay mạnh sức đến với bạn, giúp lau khô những giọt lệ, đưa nụ cười
nở lại trên gương mặt, để ban cho bạn niềm vui trong cảnh âu lo sầu muộn. Chúa
Giê-xu có thể làm chính điều đó đấy. Kinh Thánh chép: “Hãy trao mọi lo âu cho
Chúa, vì Ngài luôn luôn chăm sóc anh em” (IPhi 5:7). Đức Chúa Trời yêu thương
con cái Ngài. Nếu bạn sẵn sàng tin cậy và dâng phó chính bạn cho Ngài, thì Ngài
có thể gánh lấy nỗi sầu muộn của bạn.
Nỗi cô đơn
do tội lỗi.
Thứ năm,
có nỗi cô đơn do tội lỗi. Trong Gi 13:1-38, chúng ta thấy câu chuyện
về Bữa Tiệc Tối Cuối Cùng. Chúa Giê-xu đã nói tiên tri về sự phản bội của Giu-đa.
Các môn đệ ngây thơ của Ngài đã kinh ngạc nhìn nhau. Giăng hỏi: “Thưa Chúa, người
đó là ai?” Chúa Giê-xu đáp: “Người lấy miếng bánh ta sắp nhúng đây”. Chúa nhúng
một miếng bánh, rồi trao cho Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, con trai Si-môn; và chúng ta được
biết là quỉ Sa-tan đã nhập vào Giu-đa. Chúa Giê-xu bảo ông ta: “Việc con làm,
hãy làm cho nhanh”. Kinh Thánh chép: “Lấy miếng bánh xong, Giu-đa vội vã ra đi
trong đêm tối”. Giu-đa đi ra - xa khỏi sự hiện diện của Chúa Cứu Thế - và lúc ấy
là đêm tối.
Có lẽ bạn
nghĩ rằng mình đã biết được niềm vui và sự bình an vì đã được sanh ra trong gia
đình Thượng Đế. Bạn từng nếm trải mối thông công ngọt ngào với những người thuộc
về Ngài. Bạn đã được hưởng trọn vẹn hạnh phúc và toại nguyện vì Chúa Cứu Thế hiện
diện với bạn, nhưng rồi bạn lại phạm tội. Bạn đã xa lìa sự hiện diện của Chúa Cứu
Thế, và nhận thấy bây giờ là đêm tối. Bạn không còn thông công được cả với các
Cơ Đốc nhân lẫn với các tội nhân, và chắc chắn bạn không có thể thông công được
với Chúa Cứu Thế. Có lẽ chẳng còn có nỗi cô đơn nào cay đắng hơn nỗi cô đơn của
một Cơ Đốc nhân sa ngã.
Thế nhưng,
vẫn có sự tha thứ dành cho bạn. Nếu bạn xưng tội của mình và lìa bỏ nó, thì sự
thông công giữa bạn với Chúa Cứu Thế được phục hồi. “Nhưng nếu chúng ta thú tội
với Chúa, Ngài sẽ giữ lời hứa tha thứ chúng ta và tẩy sạch tất cả lỗi lầm chúng
ta, đúng theo bản tánh công chính của Ngài” (IGi 1:9)
Có lẽ bạn
bảo rằng mình đã phạm tội suốt một thời gian dài lắm rồi - rất có thể đúng như
vậy. Kinh Thánh bảo rằng khi phạm tội thì người ta cảm thấy vui thích đến một mức
độ nào đó. Tuy nhiên, nó vốn ngắn ngủi và vô cùng tai hại. Có lẽ bạn đã được đọc
bản tường trình của bác sĩ Kinsey hay một công trình nghiên cứu nào đó, và rất
hài lòng khi được biết rằng có rất nhiều tội nhơn cũng xấu xa y như bạn - hoặc
có khi còn tồi tệ hơn cả bạn nữa kia. Bạn không cô đơn. Không. Bạn vẫn nằm
trong số đông. Hẳn bạn sẽ hỏi, thế thì nỗi cô đơn do tội lỗim đến từ đâu? Hiện
nay, có thể bạn là một người trong đám đông, nhưng sẽ có một ngày, từng người
trong các bạn sẽ phải ứng hầu một mình trước mặt Thượng Đế Toàn Năng, để chịu sự
phán xét của Ngài. Bấy giờ sẽ là tuyệt đỉnh nỗi cô đơn của bạn trên quả đất
này, nhưng mới chỉ là phần dự báo cho nỗi cô đơn của hỏa ngục mà thôi.
Vì đối với
tất cả những ai trải qua nẻo đường tội lỗi, thì có một vực sâu của đêm tối bao
phủ, cách ly, cô lập họ khỏi tất cả những gì là tình bạn, là sự thông công đẹp đẽ,
chân thực. Tội lỗi bao giờ cũng là tối tăm. Tội lỗi luôn luôn là tối tăm. Giu-đa
bị cô đơn vì ông ta đã phạm tội. Trong Os 4:17, Thượng Đế phán:
“Ép-ra-im mê thần tượng; hãy để mặc nó (cô đơn một mình)”. Vì có lòng tham và tội
thờ hình tượng của dân Ép-ra-im mà Thượng Đế phán rằng: “Chớ có giao du, bè bạn
với chúng nó. Cứ để mặc chúng nó trong cô đơn”. “Chúng ta thảy đều như chiên đi
lạc, ai theo đường nấy” (Es 53:6). Ở đây, một lần nữa, chúng ta thấy nỗi
cô đơn do tội lỗi gây ra.
Một tiếng đồng
hồ trước khi đấu súng với Alexander Hamilton, Aaron Burr ngồi trong thư viện của
ông ta tại Richmond Hill, New York, viết cho con gái mình, rằng: “Có một nhà hiền
triết đã nói: Kẻ nào tưởng chỉ có một mình trong nỗi cô đơn, thì thật ngu dại”.
Ngay trước tiếng súng định mạng nổ vang, và hành động đẫm máu được thực hiện,
ông đã cảm nhận được nỗi cô đơn do tội lỗi mình gây ra. Chỉ trong vài giờ nữa,
ông sẽ trở thành kẻ trốn chạy để xa lánh sự ghê tởm bất ngờ và sâu xa của đồng
bào ông. Sự nghiệp chính trị của ông bị tiêu ma vĩnh viễn, và các tham vọng lớn
lao của ông cũng tan tành.
Trong
thành phố cũng như ở vùng quê, có hàng ngàn người cô đơn, mang nặng những gánh
âu lo phiền muộn, đau khổ và thất vọng hết sức khó chịu của mình; nhưng linh hồn
cô đơn nhất vẫn là kẻ mà cuộc sống đang đắm chìm trong tội lỗi. Tôi muốn nói với
bạn rằng mỗi một tội mà bạn cố ý bám chặt vào, đều là một năng lực vô cùng mạnh
mẽ khiến cho bạn bị cô đơn. Càng cao tuổi bao nhiêu, bạn sẽ càng bị cô đơn bấy
nhiêu. Tôi nài khuyên bạn hãy đến dưới chân thập tự giá và xưng nhận rằng mình
là một tội nhân, rồi hãy từ bỏ các tội lỗi của mình đi.
Chúa Cứu
Thế có thể ban quyền năng cho bạn để bạn chiến thắng tất cả các tội lỗi và thói
xấu trong đời sống bạn. Ngài có thể cắt đứt mọi dây trói buộc, đập tan mọi xiềng
xích gông cùm của tội lỗi; nhưng chính bạn, phải ăn năn hối cải, xưng tội và hạ
mình đầu phục Ngài trước đã. Ngay giờ này, mọi việc đều có thể được thu xếp, để
bạn có thể kinh nghiệm được sự bình an, niềm vui và sự thông công kết bạn với
Chúa Cứu Thế.
Nỗi cô đơn
của Chúa Cứu Thế.
Sau cùng,
có nỗi cô đơn của Chúa Cứu Thế. Hàng ngàn người đang chen chúc nhau chung quanh
Ngài. Niềm vui lớn của ngày Lễ Vượt-qua lan tràn khắp nơi, nhưng Chúa Giê-xu là
người “đã bị người ta khinh dể và chán bỏ, từng trải sự buồn bực, biết sự đau ốm,
bị khinh như kẻ mà người ta che mặt chẳng thèm xem; chúng ta cũng chẳng coi người
ra gì. Thật người đã mang sự đau ốm của chúng ta, đã gánh sự buồn bực của chúng
ta; mà chúng ta lại tưởng rằng người đã bị Thượng Đế đánh và đập, và làm cho khốn
khổ. Nhưng người đã vì tội lỗi của chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác của chúng
ta mà bị thương. Bởi sự sửa phạt người chịu chúng ta được bình an, bởi lằn roi
người chúng ta được lành bệnh. Chúng ta thảy đều như chiên đi lạc, ai theo đường
nấy; Chúa đã làm cho tội lỗi của hết thảy chúng ta đều chất trên người” (Es 53:3-6).
Chúa
Giê-xu rất cô đơn. Ngài đã đến với dân mình, nhưng dân Ngài đã không tiếp nhận.
“Nhưng mọi việc xảy ra đây đều làm ứng nghiệm lời các nhà tiên tri trong Thánh
Kinh. Khi ấy, tất cả các môn đệ đều bỏ chạy.” (Mat 26:56). Đám đông vừa tung hô:
“Hô-sa-na”, thì ngay trong ngày hôm đó, họ cũng đã hò hét: “Đóng đinh nó vào
cây thập tự! Đóng đinh nó vào cây thập tự!” Bây giờ, cả đến mười hai môn đệ
trung thành với Ngài cũng từ bỏ Ngài.
Và cuối
cùng, chúng ta còn nghe Ngài kêu lên: “Thượng Đế ơi! Thượng Đế ơi! Sao Ngài lìa
bỏ Con?” (Mac 15:34). Chẳng những Ngài đã bị bạn bè là loài người lìa bỏ, mà giờ
đây, vào giây phút cô đơn tuyệt vọng - vì đang gánh tội lỗi của chúng ta trong
thân thể Ngài trên thập tự giá - Ngài cũng bị cả Thượng Đế bỏ rơi nữa! Sở dĩ
Chúa Giê-xu phải gánh chịu sự thống khổ và phán xét của hỏa ngục như vậy, chính
là vì bạn và vì tôi.
Hỏa ngục,
chính là sự phân cách với Thượng Đế. Hỏa ngục là nơi vắng vẻ, quạnh hiu nhất
trong vũ trụ này. Chúa Giê-xu đã nhận lấy sự đau khổ đó là vì bạn, thay cho bạn.
Nhưng Thượng Đế phán: Hãy ăn năn, hối cải, tin Chúa Cứu Thế, nhận Chúa Cứu Thế
thì bạn sẽ chẳng bao giờ còn phải chịu sầu muộn, cô đơn, và chịu sự hình phạt của
hỏa ngục.
“Vì tất cả
những người kêu cầu Danh Chúa đều được cứu rỗi” (Ro 10:13)
Chỉ còn một
bước cách tôi và sự chết mà thôi.
ISa 20:3
ISa 20:3
NGƯỜI ta
thường nghe nói rằng cả cuộc đời chỉ là để chuẩn bị cho cái chết.
Tác giả
Thi-thiên nói: “Ai là người sống mà sẽ chẳng thấy sự chết” (Thi 89:48).
Có thể coi
ngày nay là một thời đại tự do tư tưởng của thực nghiệm cấp tiến. Chúng ta đã cố
tìm cách thay đổi thế giới và những định luật chi phối nó bằng kiến thức, khoa
học, phát minh, khám phá, triết học và tư tưởng duy vật. Chúng ta đã cố đặt lên
ngôi những vị thần giả hiệu, tiền tài, danh vọng, và sự khôn ngoan của con người;
nhưng dù chúng ta có cố gắng đến đâu chăng nữa, cuối cùng vẫn là: “Theo thông lệ
mỗi người chỉ chết một lần rồi bị Chúa xét xử” (He 9:27).
Giữa cuộc
sống, chúng ta thấy sự chết khắp mọi nơi. Tiếng rú của xe cứu thương, đèn hiệu ở
những nhà xác, nghĩa địa chúng ta thường đi qua, chiếc xe tang lách mình giữa
những dòng xe, tất cả nhắc nhở chúng ta rằng tử thần có thể gọi chúng ta bất cứ
lúc nào. Không ai trong chúng ta biết chắc lúc nào việc đó xảy ra nhưng chúng
ta biết rõ là nó có thể đến bất cứ lúc nào.
Có người đã
nói: “Điều chắc chắn duy nhất về đời sống, là sự chết”. Oscar Wilde nói: “Từ
nay trở đi, con người có thể thắng mọi sự để tồn tại - ngoại trừ sự chết”. Các
sách đề cập sự chết và trạng thái hấp hối đã được tung ra rất nhiều mấy lúc gần
đây - cũng như có nhiều sách của những người tự xưng là đã trải qua sự chết rồi
sống lại kể về nó. Thay vì tìm phương cách phục hòa với Thượng Đế, người đời lại
mở nhiều lớp học để dạy về tình trạng hấp hối và phương pháp đối diện với cái
chết - chấp nhận đó là một thành phần bình thường của đời sống. Thật vậy, cả
nhân loại đang xếp hàng ngồi chờ chết, đang thọ án tử hình. Chúng ta sẽ chết cách
nào hay bao giờ sẽ chết, thì không phải là vấn đề chính yếu, mà vấn đề là sau
khi chết, chúng ta sẽ đi đâu?
Mỗi năm có
hằng trăm ngàn người bước lên xe và không ngờ rằng đó là chuyến đi cuối cùng của
họ. Dù đã áp dụng và tăng cường tất cả các biện pháp an ninh, hằng trăm ngàn người
khác vẫn chết vì tai nạn tại nhà, khi đầu óc họ không hề có một ý nghĩ gì về sự
chết. Vì sự chết không ngừng rình rập con người, và mặc dù y khoa và những kỹ sư
khai chiến liên miên với nó, rốt cục, sự chết vẫn luôn luôn chiến thắng.
Nhờ cuộc
chiến trường kỳ của khoa học, giờ đây chúng ta kéo dài cuộc sống thêm vài năm nữa,
nhưng sự chết vẫn sừng sững ở cuối đường, và tuổi thọ trung bình của một người
không quá xa điều Kinh Thánh ghi nhận là bảy mươi năm.
Bệnh đau
tim vẫn cướp đi quá nhiều người giữa thời xuân xanh. Bệnh ung thư vẫn giáng nỗi
đau đớn vào cơ thể hàng vạn người. Bệnh lao, hoại huyết, tê liệt, sưng phổi vẫn
hoành hành, mặc dù sự nghiên cứu y khoa đã giảm thiểu rất nhiều số nạn nhân hằng
năm. Ung thư da và Liệt kháng (AIDS hay SIDA) là hai chứng bệnh của thập kỷ 80.
Chúng đang lộng hành trên thế giới và được báo động là đã hiện diện trên tất cả
các đại lục. Nhưng dù thống kê tình trạng có lạc quan đến đâu, tuổi thọ chúng
ta từ năm 1900 đến nay có gia tăng bao nhiêu, hay những con số ghi nhận các vụ
giết người, tự tử và những hình thức chết bất đắc kỳ tử khác có thế nào đi nữa,
sự kiện không tránh được là cái chết vẫn không thay đổi - vẫn là kinh nghiệm cuối
cùng của chúng ta trên quả đất!
Cuộc chiến
đấu suốt đời.
Từ lúc một
hài nhi ra đời, cuộc chiến chống tử thần bắt đầu. Người mẹ dành nhiều năm chăm
chú vào sự bảo vệ đời sống của đứa trẻ. Bà chăm sóc thức ăn, quần áo, môi trường
sinh hoạt, khám sức khỏe, tiêm chủng, nhưng dù có chăm sóc và yêu thương đến đâu,
đứa trẻ cũng đã bắt đầu chết dần.
Không bao
lâu, những dấu hiệu hiển nhiên của sự suy nhược trở nên rõ rệt. Nha sĩ sẽ xem
xét những chiếc răng hư của chúng ta. Kính mắt sẽ được dùng đến để hỗ trợ thị
giác đang suy yếu. Da mặt sẽ nhăn và trễ xuống với thời gian, đôi vai chúng ta
sẽ khòm, bước đi chúng ta sẽ chậm lại và kém vững vàng. Xương cốt cũng dễ gãy hơn
khi sức lực chúng ta giảm sút và chúng ta cứ tiến dần về sự chết mà không hay
biết.
Sự bảo hiểm
sức khoẻ và bệnh viện được đem áp dụng để giúp chúng ta chịu đựng nhẹ nhàng. Người
ta đóng bảo hiểm nhân thọ để dự phòng những chi phí cuối cùng và chúng ta sẽ chợt
nhận ra rằng trọn cả cuộc đời chúng ta là một trận chiến vĩ đại và không bao giờ
dứt với sự chết. Chúng ta sẽ nhận thấy rằng tất cả chúng ta đang dự một cuộc đua,
điều chúng ta hy vọng nhiều nhất trong đó là được một ít thì giờ nữa, và thắng
kẻ đối địch được chừng nào hay chừng nấy, nhưng cuối cùng ta biết là sự chết sẽ
luôn luôn chiến thắng!
Kẻ thù của
chúng ta là gì mà bí mật như vậy - bí mật như chính sự sống. Vì chúng ta thấy sự
sống đầy dẫy chung quanh ta, trong cây cỏ, muông thú cũng như trong con người,
chúng ta không thể tạo ra cũng không thể giải thích được. Chúng ta cũng không
thể giải thích được sự chết mặc dù chúng ta ý thức là có sự chết cũng như có sự
sống vậy. Tuy nhiên chúng ta ít muốn đề cập đến sự chết hay suy xét về tầm quan
trọng của nó! Khi sự sống xuất hiện và khi một đứa trẻ ra đời, chúng ta vui mừng.
Khi sự sống ra đi và một người qua đời, chúng ta cố quên càng sớm càng tốt.
Ngày nay
có hơn bốn tỷ người sống trên hành tinh này. Hầu hết đều sẽ chết trong vòng một
trăm năm. Thân thể họ sẽ không còn cảm giác gì. Nhưng còn linh hồn họ - phần
quan yếu và vĩnh cửu của sự sống? Đây mới là chỗ huyền nhiệm. Cái gì mất đi khi
con người chết? Và cái mất đi sẽ về đâu?
Tại sao
loài người chối bỏ Thượng Đế?
Mấy năm trước
đây có một ký giả qua đời tại Denver thuộc tiểu bang Colorado. Giữa tang lễ,
tang gia nghe tiếng ông nói đã được ghi âm như sau: “Đây là tang lễ của tôi.
Tôi là một người vô thần và có thái độ này trong nhiều năm rồi. Tôi tuyệt đối
khinh miệt sự vô nghĩa của thần học. Các tu sĩ là những người có tinh thần khiếp
nhược. Các phép lạ là sản phẩm của tưởng tượng. Nếu bốn phóng viên được phái đi
dự một cuộc hành hình và viết bài tường thuật một cách méo mó như những sứ đồ
trong Kinh Thánh đã làm thì phải đuổi họ ngay lập tức. Tôi không muốn nghe bài
hát tôn giáo. Đám tang này phải được cử hành một cách hoàn toàn hợp lý”.
Hãy đối
chiếu đoạn văn trên với bài thơ đẹp đẽ về cái chết, mà Alfred Lord Tennyson đã
mô tả trong ‘In Memorian: “Ngón tay của Thượng Đế chạm đến anh ta, và anh ta ngủ”.
Mỗi thời đại
đều sản sinh những hạng người vì chống nghịch Thượng Đế nên đã cố tình chế nhạo
và gièm pha Hội thánh, Kinh Thánh và Chúa Cứu Thế Giê-xu. Họ la lối để chống lại
tiếng nói của Thượng Đế nhưng không nêu được một bằng chứng hiển nhiên nào. Lịch
sử cho thấy có nhiều George Bernard Shaw, nhiều Robert Ingersoll, nhiều B. F.
Shinner và nhiều triết gia, đã tìm đủ lý lẽ mong hủy diệt sự khiếp sợ trước cái
chết.
Hãy nghe
nhà nhân chủng học nói về cái chết trong rừng sâu. Tại đó không có sự “vô lý của
thần học” vì không ai nghe nói về Chúa Cứu Thế Giê-xu. Vậy sự chết tại đây là
cái gì? Trong một vài bộ lạc, người già bị đem bỏ vào bụi cho thú dữ ăn. Như thế
tránh cho người trẻ phải chứng kiến sự chết. Trong một bộ lạc khác, người chết
bị lột hết quần áo và thân thể bị sơn trắng. Giờ này qua giờ khác, những tiếng
than khóc và gào thét báo cho thế giới biết là một linh hồn sắp lìa khỏi xác. Sự
chết ngoài vòng ảnh hưởng Cơ Đốc giáo mang đầy vẻ ghê gớm và tuyệt vọng. Chẳng
hạn với những người Hồi giáo thì người ta trông mong được chết trước hạn kỳ, vì
người Hồi giáo tin rằng có nhiều thú vui đang chờ đợi người tận trung - nếu họ
chết trong lúc tàn sát những kẻ bất trung hay đang chiến đấu vì đạo của mình.
Hãy so
sánh với cái chết của một Cơ Đốc nhân. Khi Chúa Cứu Thế xuống thế gian, Ngài đã
đem lại một hướng nhìn mới đối với sự chết. Con người luôn luôn xem sự chết như
kẻ thù, nhưng Chúa Giê-xu phán là Ngài đã chinh phục được sự chết và đã trừ khử
được nọc của nó. Cứu Chúa Giê-xu là Nhà Đại Hiện Thực khi Ngài khuyến cáo con
người hãy chuẩn bị cho sự chết, chắc chắn thế nào cũng xảy đến. Chúa Giê-xu
phán chớ lo lắng về sự chết của thể xác, nhưng nên lo lắng về cái chết vĩnh viễn
của linh hồn thì hơn.
Tôi nghĩ đến
bà Helen Morken, chờ chết, chồng và con cái vây quanh để hát thánh ca trong bốn
tiếng đồng hồ mỗi ngày. Thật ra, bà đang ca hát trước mặt Chúa. Và tôi nghĩ đến
các thánh đồ của Thượng Đế mà Alexander Smellie đã mô tả trong quyển sách của
ông nhan đề ‘Những nhân vật của giao ước’. Ông kể về các vĩ nhân có đức tin đã
chịu chết trong “các giai đoạn tàn sát” tại Tô-cách-lan, khi những cuộc xử tử
là một cái gì rất lý thú. Bấy giờ chưa có ghế điện, chẳng có tiểu đội xử bắn,
chẳng có thuốc mê tiêm vào khiến cho kẻ chết càng bị ít đau đớn càng hay. Ấy là
thời kỳ của cực hình tra tấn - rút móng tay, đánh gãy ống quyển, treo cổ và sau
đó là phân thây. Vì lý do ấy mà mỗi người được Smellie mô tả đều kinh sợ cái chết.
Thế nhưng, khi phải chết họ đều chết trong niềm vui xuất thần!
Kinh Thánh
cho biết có hai sự chết: một là sự chết vật chất và sự chết kia là sự chết đời đời.
Chúa Giê-xu cảnh cáo rằng chúng ta phải sợ cái chết thứ nhì gấp bội cái chết thứ
nhất. Ngài gọi sự chết thứ nhì là địa ngục, là sự chia cách đối với Thượng Đế.
Ngài phán rằng cái chết của thể xác bạn chẳng có nghĩa gì so với một linh hồn bị
cố tình phân rẽ đời đời với Thượng Đế.
Cái chết của
một thánh đồ.
Những lời
trăn trối cuối cùng của những người đang hấp hối là những tài liệu nghiên cứu rất
tốt cho những ai muốn tìm thực tế khi đối diện với cái chết.
Matthew
Henry: “Tội lỗi cay đắng. Tôi ca ngợi Thượng Đế vì được sự hậu thuẫn từ bên
trong”.
Martin
Luther: “Chúa chúng ta là Thượng Đế, Đấng ban sự cứu rỗi: Thượng Đế là Chúa, nhờ
đó chúng ta thoát chết”.
John Knox:
“Hãy sống trong Chúa Giê-xu, thì xác thịt chẳng còn sợ chết”.
John
Wesley: “Điều tốt nhất là Thượng Đế ở cùng chúng ta. Xin tạm biệt! Xin tạm biệt!”.
Richard
Baxter: “Tôi đau, nhưng bình an. Tôi được bình an”.
William
Carey, giáo sĩ: “Khi tôi đã đi rồi, hãy nói ít về tiến sĩ Carey, mà nói nhiều về
Chúa Cứu Thế của tiến sĩ Carey”.
Adoniram
Judson: “Tôi không mệt mỏi vì công việc của tôi, cũng không mệt mỏi vì thế
gian; nhưng khi Chúa Giê-xu gọi tôi về, tôi sẽ đi với niềm vui của một cậu bé được
giải thoát khỏi trường học”.
Nhưng người
Cơ Đốc đã xưng nhận tội lỗi mình và nhờ đức tin tiếp nhận Chúa Giê-xu là Đấng Cứu
Thế thật khác biết bao.
Tấn sĩ
Effie Jane Wheeler từng dạy Anh ngữ và văn chương nhiều năm tại trường đại học
mà tôi theo học. Bà nổi tiếng về sự tin kính cũng như sự hiểu biết về những đề
tài bà giảng dạy. Tháng 5 năm 1949, vào ngày Lễ Chiến sĩ trận vong của Hoa-kỳ,
bà viết cho viện trưởng Tấn sĩ Edman các đồng nghiệp và các cựu sinh viên bức
thơ sau đây:
“Tôi cảm ơn
quý vị đã dành rất nhiều phút giây để đọc bức thư này trong nhà thờ vì trước
khi quý vị đi nghỉ hè tôi muốn quý vị biết sự thật về tôi như tôi vừa biết hôm
thứ sáu. Đến phút chót bác sĩ đã cho tôi biết kết quả thật sự về bệnh chứng của
tôi sau nhiều tuần đau ốm, đó là bị ung thư không thể giải phẫu được. Nếu là một
Cơ Đốc nhân, chắc ông ta đã không ngần ngại hoặc bị dao động như thế, vì ông thừa
biết như quý vị và tôi rằng, khi chúng ta sống trong ý muốn và hiện diện của
Chúa, chúng ta tiếp nhận sự sống hay sự chết như nhau. Nếu Chúa muốn tôi sớm đến
với Ngài, tôi sẽ vui vẻ ra đi. Xin quý vị chớ buồn tí nào vì tôi. Tôi không nói
lên lời từ giã lạnh lùng nhưng xin gửi lời nồng nhiệt hẹn tái ngộ quý vị, trong
đất lành nơi mà may ra tôi sẽ được phép đứng bên vén màn đón quý vị vào. Với
lòng tràn đầy yêu thương gởi đến mỗi bạn. Ký tên: Effie Jane Wheeler”.
Đúng hai
tuần sau khi viết bức thư trên, Tấn sĩ Wheeler đã đi vào sự hiện diện của Chúa,
Đấng đã giữ lời hứa trừ khử nọc độc của sự chết.
Đang khi
tôi viết chương sách này, tôi nhận được cùng một lúc bốn bức thư. Một bức là của
một nữ thánh đồ chín mươi bốn tuổi, đang nóng lòng muốn được về với Chúa; một bức
là của một phụ nữ trong khám tù tử hình, từ khi trở thành Cơ Đốc nhân sáu năm
trước đây cho đến nay, vẫn có thể nhìn thấy phía sau ngày hành quyết đang đến gần,
là sự vinh hiển đang trải trước mặt mình; và hai bức thư khác của những phụ nữ
mà chồng họ đã qua đời sau nhiều năm sau khi họ chung sống (một bà chỉ ít lâu nữa
là cử hành lễ kỷ niệm ngày cưới của họ, lần thứ bốn mươi chín). Mỗi người đều
nhìn xa hơn cái chết để thấy vinh hiển trước mặt mình.
Nhân vật
D. L. Moody đã nói trước lúc lâm chung: “Đây là chiến thắng của tôi, hôm nay là
ngày đăng quang của tôi! Thật là quang vinh!”.
Kinh Thánh
dạy rằng bạn là một linh hồn bất tử. Linh hồn bạn vĩnh cửu và sẽ sống đời đời.
Nói cách khác, con người thật sự của bạn - phần biết suy tư, cảm xúc, mơ mộng,
ao ước; cái cá tính, bản ngã của bạn - sẽ không bao giờ chết. Kinh Thánh dạy rằng
linh hồn sẽ sống mãi mãi ở một trong hai nơi - thiên đàng hay địa ngục. Nếu bạn
không phải là một Cơ Đốc nhân và bạn chưa bao giờ được sanh lại, thì Kinh Thánh
dạy rằng linh hồn đi ngay đến một nơi Chúa Giê-xu gọi là Âm phủ, ở đó bạn sẽ chờ
đợi sự phán xét của Thượng Đế.
Một đề tài
chẳng ai ưa.
Tôi biết rằng
đề tài Địa ngục không phải là điều thích thú cho lắm. Đề tài này rất ít người ưa,
thường gây tranh luận và hiểu lầm. Tuy nhiên, trong những chiến dịch truyền giảng
của tôi ở nhiều nơi, tôi đều dành một tối để thảo luận đề tài trên. Do sự trình
bày của tôi, trong nhiều ngày liên tiếp, các nhật báo đăng nhiều thư độc giả
tranh luận những điểm đồng y và không đồng ý, vì Kinh Thánh hầu như cũng đề cập
đến vấn đề này không kém bất cứ vấn đề nào khác. Lúc thảo luận với sinh viên
các đại học đường, tôi luôn luôn bị đặt câu hỏi sau đây “Địa ngục như thế nào?
Có lửa ở Địa ngục không?” và những câu hỏi tương tự. Vì là người giảng đạo, tôi
có bổn phận phải giải đáp. Tôi không thể làm ngơ, dù những lời tôi nói khiến một
số người khó chịu và lo âu. Tôi cho rằng đây là chỗ khó chấp nhận nhất trong tất
cả mọi giáo huấn của Cơ Đốc giáo.
Có người
cho rằng mọi người chắc sẽ được cứu, Thượng Đế là Thượng Đế của tình yêu nên
Ngài sẽ không bắt ai phải xuống Địa ngục. Họ cho rằng những từ ngữ đời đời, bất
diệt thật ra không có nghĩa là vĩnh viễn. Tuy nhiên, chính từ ngữ nói về sự xa
cách vĩnh viễn đối với Thượng Đế cũng được dùng để chỉ tính cách vô tận của
Thiên đàng. Có người đã nói: “Sự công bình đòi hỏi chúng ta phải quan niệm giá
trị thời gian của niềm vui nơi người công nghĩa và sự hình phạt nơi người độc
ác bằng nhau, vì nguyên văn Hy-lạp đã dùng cùng một từ ngữ để chỉ thời gian của
hai trường hợp”.
Nhiều người
khác cho rằng sau khi chết những người nào chối từ không nhận lấy kế hoạch cứu
chuộc của Thượng Đế thì phải bị tiêu diệt, không bao giờ tồn tại nữa. Nghiên cứu
từng trang Kinh Thánh tôi không thể tìm thấy một bằng chứng nào hậu thuẫn cho
quan điểm này. Kinh Thánh dạy rằng dù được cứu hay bị hư mất, linh hồn và bản
thể vẫn hiện hữu đời đời một cách ý thức.
Cũng có những
người khác cho rằng sau khi chết vẫn còn có thể có sự cứu rỗi, rằng Thượng Đế vẫn
còn dành một cơ hội thứ hai. Nếu điều này đúng thì sao Kinh Thánh không hề gợi
ý, mà Kinh Thánh luôn luôn cảnh cáo rằng: “Giờ đây là kỳ thuận tiện, hiện nay
là ngày cứu rỗi” (IICo 6:2).
Kinh Thánh
nói gì?
Có thể
trích dẫn hàng chục đoạn Kinh Thánh để chứng minh sự kiện là Kinh Thánh dạy rằng
có một Địa ngục cho tất cả những ai nhất định và cố ý không tiếp nhận Chúa Cứu
Thế làm Chúa và Đấng Cứu rỗi.
“Con bị đốt
trong lò lửa này, đau đớn quá" (Lu 16:24).
“Ta sẽ sai
thiên sứ tập họp những kẻ gây ra tội lỗi và người gian ác lại, ném chúng vào lò
lửa là nơi đầy tiếng than khóc và nghiến răng” (Mat 13:41-42).
“Cũng vậy,
trong ngày tận thế, thiên sứ sẽ đến chia rẽ người gian ác với người công chính,
ném người gian ác vào lò lửa, là nơi khóc lóc và nghiến răng" (13:49, 50).
“Ta cũng sẽ
bảo nhóm người bên trái: Những người gian ác đáng nguyền rủa kia! Đi ngay vào
lò lửa không hề tắt dành cho Sa-tan và các quỉ sứ” (Mat 25:41).
“Người sẽ
sảy lúa thật sạch, đem trữ vào kho và đốt rơm rác trong lò lửa chẳng hề tắt” (3:12).
“Chúa sẽ
báo ứng những người không muốn biết Thượng Đế và khước từ Phúc Âm của Chúa
Giê-xu chúng ta. Họ sẽ bị hình phạt đời đời trong Địa ngục, vĩnh viễn xa cách mặt
Chúa, không còn thấy vinh quang và quyền năng Ngài” (IITe 1:8-9).
“Đều phải
uống chén rượu hình phạt nguyên chất của Thượng Đế. Họ phải chịu khổ hình trong
lửa và diêm sinh trước mặt các thiên sứ thánh và Chiên Con. Khói lửa bốc lên
nghi ngút vô tận. Những người thờ lạy con thú và tượng nó cùng những ai mang dấu
hiệu con thú, ngày đêm chịu khổ hình không ngớt” (Kh 14:10-11).
“Tử vong
và Âm phủ bị quăng xuống hồ lửa. Vào hồ lửa, là chết lần thứ hai. Người nào
không có tên trong Sách Sự Sống phải bị quăng xuống hồ lửa” (20:14-15).
“Còn những
kẻ hèn nhát, vô tín, hư hỏng, sát nhân, gian dâm, tà thuật, thờ thần tượng và dối
trá đều phải vào hồ lửa diêm sinh. Đó là sự chết lần thứ hai” (21:8).
Thế nhưng
tôi lại nghe có người bảo: “Tôi không tin có Địa ngục, tôn giáo của tôi là Bài
Giảng Trên Núi của Chúa”.
Vâng,
chúng ta hãy cùng xem một đoạn trong Bài Giảng Trên Núi: “Nếu mắt bên phải gây
cho các con phạm tội, cứ móc quăng đi, vì thà chột mắt còn hơn cả thân thể bị
ném vào hỏa ngục. Nếu tay phải gây cho các con phạm tội, cứ cắt bỏ đi, vì thà cụt
tay còn hơn cả thân thể bị sa vào hỏa ngục” (Mat 5:29-30).
Ở đây Chúa
Giê-xu dạy tỏ tường rằng có một Địa ngục. Đúng ra, Chúa Giê-xu đã kể nhiều chuyện
và cho những ví dụ về vấn đề này cùng luôn luôn cảnh cáo loài người về sự dại dột
sống cuộc đời tội lỗi và giả dối trên mặt đất.
Hỏa ngục
ngay trên trần gian.
Việc người
ác phải chịu một cảnh địa ngục nào đó trên mặt đất là một điều chắc chắn. Kinh
Thánh chép: “Phải biết rằng tội chắc sẽ phải đổ lại trên các ngươi” (Dan 32:23). Kinh Thánh cũng chép:
“Gieo gì gặt nấy” (Ga 6:7). Tuy nhiên, quanh chúng ta có bằng chứng là một số người
ác hình như được thịnh đạt và người công bình bị đau khổ vì sự công nghĩa của họ.
Kinh Thánh dạy rằng rồi đây sẽ có một thời kỳ đoán định và sự công bình sẽ được
thực hiện. Có ai đó đã nói rằng: “Chúng ta không bị hình phạt vì cớ tội lỗi
chúng ta, mà bởi tội lỗi chúng ta”. Cả hai trường hợp đều đúng cả.
Liệu Thượng
Đế yêu thương có xô đẩy người ta xuống Địa ngục không? Câu trả lời là - Có! Vì
Ngài công bình nhưng Ngài không cố ý làm điều đó. Con người tự kết tội mình bằng
cách từ chối con đường cứu rỗi của Thượng Đế. Bởi tình yêu và sự thương xót, Thượng
Đế đã ban cho con người một lối thoát, một con đường cứu rỗi, một niềm hy vọng đợi
chờ những điều tốt đẹp hơn. Con người, trong sự mù quáng, ngu độn, cứng đầu, vị
kỷ và yêu thích sự vui thú tội lỗi, từ chối phương cách giản dị của Thượng Đế
giúp họ thoát ra nỗi đau đớn cùng cực của sự đọa đày vĩnh viễn.
Giả sử tôi
bị ốm và cho mời bác sĩ. Bác sĩ cho tôi một toa thuốc. Nhưng sau khi suy nghĩ lại,
tôi quyết định làm ngơ không nghe lời khuyên của bác sĩ và từ chối uống thuốc.
Vài ngày sau, bác sĩ trở lại, ông ta thấy bệnh trạng của tôi tồi tệ hơn trước.
Có thể nào tôi chê trách bác sĩ hay đổ trách nhiệm cho ông ta? Bác sĩ đã biên
toa cho tôi, đã cho tôi biết phương thuốc trị bệnh, nhưng tôi đã từ chối.
Cũng một lẽ
ấy, Thượng Đế đã cho biết phương thuốc đối với bệnh tật của nhân loại. Phương
thuốc đó là đức tin cá nhân và sự xưng nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu. Phương thuốc đó
là phải sanh lại, chúng ta sẽ thảo luận điều này trong một chương khác. Nếu cố
tình chối bỏ phương thuốc đó, chúng ta phải gánh chịu hậu quả và không thể oán
trách Thượng Đế. Nếu chúng ta chối từ phương thuốc của Thượng Đế, thì đó là lỗi
của Ngài hay sao?
Người
không tin đời sống vẫn còn sau khi chết, không tin người ta có thể lên thiên đàng
hay xuống hỏa ngục, không chịu tin vào những gì Thượng Đế phán dạy trong Kinh
Thánh về thiên đàng và hỏa ngục, sẽ có ngày thức dậy trong đời sau để nhận thấy
là mình đã sai lầm, đã bị mất tất cả. Tạp chí ‘Dân chúng’(People) có trích đăng
câu nói của Lem Banker, tay cờ bạc đứng hàng đầu nước Mỹ, bảo rằng: “Đừng bao
giờ đánh cuộc bạn được bao nhiêu mà chỉ đánh cuộc xem bạn có thể bị thua bao
nhiêu mà thôi”. Bạn có thể trả nổi sự thua thiệt, mất mát, nếu bạn bị mất đi
linh hồn đời đời của mình không?
Có người
khác hỏi rằng “Địa ngục có tính chất như thế nào?” Trong Kinh Thánh có bốn danh
từ được dùng để chỉ Địa ngục. Danh từ thứ nhất là Sheol nghĩa là “trạng thái vô
hình”, được dùng ba mươi mốt lần, là Địa ngục trong Cựu Ước. Những hình dung từ
buồn rầu, đau đớn và hủy diệt có liên hệ với danh từ này.
Danh từ thứ
nhì là ‘Hades’ của tiếng Hy-lạp, được dùng mười lần trong Tân Ước, đồng nghĩa
như chữ Sheol trong Cựu Ước. Sự phán xét và đau khổ luôn có liên hệ đến danh từ
này.
Danh từ thứ
ba là ‘Tartarus’ chỉ được dùng một lần trong IIPhi 2:4, khi nói đến các thiên
sứ bất phục tòng bị quăng xuống Tartarus. Danh từ này chỉ chỗ phán xét như nhà
tù, xà lim, nơi có sự tối tăm ghê gớm.
Danh từ thứ
tư là ‘Gehenne’, được dùng mười một lần và dịch là “Địa ngục” ở Tân Ước. Đó là
hình ảnh Chúa Giê-xu dùng để mô tả thung lũng Hin-nôm, một chỗ ở ngoài thành
Giê-ru-sa-lem, nơi đầy rác rưởi và cặn bã cháy hoài không dứt.
Nhiều người
khác hỏi: “Kinh Thánh dạy về lửa Địa ngục có theo nghĩa đen không?”. Nhiều người
khác hỏi: “Kinh Thánh có dạy về lửa theo nghĩa đen trong hỏa ngục không?” Nếu đó
không phải là lửa theo nghĩa đen, thì nó còn là một cái gì tệ hại hơn nữa. Chắc
chắn Chúa Giê-xu không hề thêm thắt gì đâu. Dĩ nhiên Kinh Thánh đã nhiều lần
dùng chữ lửa theo nghĩa bóng. Tuy nhiên, Thượng Đế có một thứ lửa đốt cháy mà
không hề tàn.
Khi
Mai-sen thấy bụi gai cháy, ông lấy làm lạ vì bụi gai không bị thiêu tàn. Ba
thanh niên Do-thái bị quăng vào lò lửa vì một lòng trung tín với Thượng Đế;
trong lò lửa họ không bị cháy vì Chúa gìn giữ và cứu giúp họ; đúng hơn không có
một sợi tóc nào của họ bị sém (Da 3:1-30).
Mặt khác,
Kinh Thánh nói về lưỡi chúng ta “bị lửa địa ngục đốt cháy” (Gia 3:6) mỗi khi chúng ta nói xấu
người bên cạnh. Điều này không có nghĩa là mỗi khi chúng ta nói xấu láng giềng
thì bị lửa thiêu đốt theo nghĩa đen. Nhưng dù nghĩa đen hay nghĩa bóng, việc đó
không ảnh hưởng đến thực tại. Nếu không thực sự có lửa, thì Thượng Đế đã dùng một
ngôn ngữ tượng trưng để chỉ một cái gì khác có thể còn đáng ghê sợ hơn nữa.
Cách biệt
với Thượng Đế.
Điều chính
yếu, Địa ngục là sự phân cách với Thượng Đế. Đó là sự chết thứ hai được mô tả
như một sự lưu đày vĩnh viễn có ý thức, khỏi những gì gọi là sáng láng, vui
thú, đẹp đẽ, công nghĩa và hạnh phúc. Kinh Thánh có nhiều chỗ mô tả cách ghê rợn
về tình trạng khủng khiếp mà linh hồn sẽ gặp phải sau khi qua đời.
Điều lạ
lùng là loài người chuẩn bị cho mọi việc ngoại trừ sự chết. Chúng ta chuẩn bị để
học hỏi. Chúng ta chuẩn bị để làm việc. Chúng ta chuẩn bị cho nghề nghiệp.
Chúng ta chuẩn bị cho hôn nhân. Chúng ta chuẩn bị cho tuổi già. Chúng ta chuẩn
bị cho mọi sự trừ phút giây chúng ta đều phải chết. Tuy nhiên Kinh Thánh chép mọi
người chúng ta ai cũng phải chết một lần.
Sự chết là
một biến cố mà mọi người cho là không tự nhiên nếu xảy ra cho mình, nhưng xảy
ra cho người khác là điều tự nhiên. Sự chết đồng hóa tất cả mọi người thành một
đẳng cấp. Nó tước đoạt bạc triệu của người giàu và manh áo rách của người
nghèo. Nó làm nguội lạnh sự tham lam hà tiện và nguôi ngoai lửa dục vọng đam
mê. Mọi người đều không muốn biết đến cái chết, tuy nhiên tất cả đều phải đương
đầu với nó - từ hoàng tử đến gã nông dân, người điên rồ và bậc hiền triết, kẻ
giết người và thánh nhân. Sự chết không giới hạn tuổi, không thiên vị. Đó là điều
mà tất cả mọi người sợ hãi.
Khi tuổi đã
về chiều, Daniel Webster đã kể lại chuyện ông đi dự nhóm tại một nhà thờ miền
quê. Vị mục sư là một người có tuổi, tánh tình giản dị, tin kính. Sau những
nghi thức khai mạc, ông đứng lên đọc Kinh Thánh rồi nói một cách vô cùng đơn sơ
nhưng nóng bỏng: “Thưa quí vị, chúng ta chỉ có thể chết một lần”.
Về sau,
khi bình luận về bài giảng này, Daniel Webster nói: “Dù câu nói trên có vẻ lạnh
lùng và yếu ớt, ngay lúc đó, nó là những lời gây xúc động và thức tỉnh nhất mà
tôi chưa bao giờ được nghe”.
Điểm hẹn với
thần chết.
Thật rất dễ
cho rằng người khác phải giữ lời hẹn gặp gỡ sự chết nhưng thật khó để nhớ rằng
chúng ta cũng phải giữ lời hẹn đó. Khi chúng ta trông thấy những người lính đi
ra mặt trận hay nghe tin về một tử tội hoặc đi thăm một người bạn bị thương gần
chết, chúng ta ý thức được một sự nghiêm trọng nào đó đang vây quanh những người
này. Sự chết hẹn gặp tất cả mọi người và kỳ hẹn chỉ là thời gian. Có những cuộc
hẹn hò khác trong đời, gặp gỡ vì công việc hay du hí, chúng ta có thể bỏ qua,
sai hẹn và gánh lấy hậu quả, nhưng đây là cuộc gặp gỡ không ai có thể lãng
quên, không ai có thể sai hẹn. Người ta chỉ có thể gặp nó một lần, nhưng phải gặp!
Nếu sự chết
về phần xác là hậu quả duy nhất của đời sống xa cách Thượng Đế, thì sẽ không có
gì để chúng ta sợ hãi quá, nhưng Kinh Thánh cảnh cáo rằng có một sự chết thứ
nhì, tức là sự đày đọa vĩnh viễn cách xa Thượng Đế.
Tuy nhiên
còn có một khía cạnh sáng tỏ hơn. Khi Kinh Thánh tuyên phán Địa ngục dành cho
người tội lỗi, Kinh Thánh cũng hứa hẹn Thiên đàng cho thánh đồ. Đề tài Thiên đàng
dễ chấp nhận hơn đề tài Địa ngục nhiều. Nhưng Kinh Thánh đã dạy dỗ cả hai điều.
Khi dọn đến
nhà mới, bạn muốn biết rõ về cộng đồng mà bạn sắp chung sống. Nếu chuyển đến một
thành phố khác, bạn muốn biết tất cả về thành phố này - những đường xe lửa, kỹ
nghệ, công viên, hồ, trường học v.v... Và vì sẽ đến một nơi khác đời đời, chúng
ta phải biết về nơi đó. Những chi tiết về Thiên đàng được tìm thấy trong Kinh
Thánh. Do đó, chúng ta nghĩ đến và nói đến thiên đàng là điều hợp lý. Nói đến
thiên đàng, thì địa cầu trở nên tồi tàn. Những mối lo âu về các vấn đề rắc rối
của chúng ta trên địa cầu hình như giảm bớt đi rất nhiều nếu chúng ta có sự
trông đợi sáng suốt vào tương lai. Trên một phương diện nào đó, người Cơ Đốc
tìm được thiên đàng ở trên mặt đất này. Người Cơ Đốc có bình an của linh hồn,
bình an của lương tâm và bình an với Thượng Đế. Giữa những khó khăn rắc rối, người
Cơ Đốc có thể mỉm cười, bước đi rộn ràng, linh hồn vui vẻ và nét mặt sáng tươi.
Có một
thiên đàng.
Nhưng Kinh
Thánh cũng hứa với Cơ đốc nhân một thiên đàng trong đời sống tương lai. Khi
John Quincy Adams được 94 tuổi, có người hỏi ông rằng: “Sáng nay ông thấy thế
nào?” Ông trả lời: “Tốt, tốt lắm. Nhưng cái nhà tôi đang sống không được tốt mấy”.
Cho dù cái nhà chúng ta đang ở có hư hoại hay yếu ớt, nếu là những người Cơ Đốc,
chúng ta cũng có thể thật sự cảm thấy mạnh khỏe và vững vàng. Chúa Giê-xu đã dạy
là có một thiên đàng.
Chúng ta
có thể trích dẫn nhiều phân đoạn Kinh Thánh, nhưng phân đoạn hay nhất là Gi 14:2 “Trong nhà Cha ta
có nhiều chỗ ở, nếu không, ta đã nói cho các con rồi. Ta đi chuẩn bị chỗ ở cho
các con. Khi chuẩn bị xong, ta sẽ trở lại đón các con về với ta để các con ở
cùng ta mãi mãi”. Phao-lô biết chắc chắn về thiên đàng nên đã nói: “Chúng ta đầy
tin tưởng, muốn rời bỏ thân xác này, để về nhà trên trời với Chúa là tốt hơn” (IICo 5:8).
Sự trông đợi
về tương lai của Cơ Đốc nhân thật khác hẳn sự trông đợi của Bob Ingersoll, người
theo thuyết bất khả tri, khi ông tuyên bố trước cửa mồ anh mình: “Đời sống là một
màn thưa chật hẹp giữa đỉnh cao lạnh lẽo và trơ trọi của hai cái vĩnh viễn.
Chúng ta cố gắng vô ích để nhìn bên kia các đỉnh. Chúng ta kêu gào và lời đáp
duy nhất là âm vang của tiếng chúng ta kêu khóc."
Sứ đồ
Phao-lô hằng nói: “Chúng ta biết”. “Chúng ta biết chắc”. “Chúng ta luôn luôn biết
chắc”. Kinh Thánh nói rằng Áp-ra-ham “trông đợi một thành phố xây trên nền móng
vững chắc do Thượng Đế vẽ kiểu và xây cất” (He 1:10).
Nhiều người
hỏi: “Thiên đàng có thật không?” Có! Chúa Giê-xu phán: “Ta đi chuẩn bị chỗ ở
cho các con”. Kinh Thánh dạy rằng Hê-nóc và Ê-li được cất lên trời - với thân
thể, theo nghĩa đen - đến một chỗ có thật như Sài-gòn, Paris hay BangKok chẳng
hạn!
Nhiều người
đã hỏi: “Thiên đàng ở đâu?” Kinh Thánh không cho biết thiên đàng ở đâu. Chúng
ta không rõ điều này. Nhưng bất luận thiên đàng ở đâu thì ở đó có Chúa Cứu Thế.
Một nơi đẹp
đẽ.
Kinh Thánh
dạy rằng thiên đàng là nơi đẹp đẽ. Kinh Thánh gọi đó là “thành của Thượng Đế” -
“một đô thị” - “một quê hương tốt hơn” - “một sản nghiệp thừa kế” - “một vinh
quang”.
Bạn có thể
hỏi: “Ở thiên đàng chúng ta có nhận ra nhau không?”. Có nhiều chỗ trong Kinh
Thánh cho biết là sẽ có một cuộc hội ngộ lớn lao của những người đã ra đi từ trước.
Có người lại
hỏi: “Bạn có tin rằng trẻ con sẽ được cứu không?”. Có. Kinh Thánh bày tỏ rằng
Thượng Đế không định tội trẻ con cho đến khi chúng đến tuổi nhận xét và hiểu biết.
Hình như có nhiều dấu hiệu chỉ rõ ràng sự tha tội được áp dụng cho chúng khi
chúng ý thức được trách nhiệm về các hành vi thiện ác của chúng.
Kinh Thánh
cũng bày tỏ rằng thiên đàng sẽ là một nơi của sự hiểu biết lớn lao về các điều
mà chúng ta không bao giờ học được dưới thế gian này.
Isaac
Newton, khi lớn tuổi, đã nói với một người ca ngợi sự khôn ngoan của ông, rằng:
“Tôi là một đứa bé trên bờ biển đang nhặt đây đó một hòn sỏi, một vỏ hến, nhưng
đại dương vĩ đại của sự thật hãy còn nằm trước mặt tôi”.
Thomas
Edison đã có lần nói: “Tôi không biết được lấy một phần triệu của một phần trăm
về bất cứ điều gì”.
Nhiều bí mật
của Thượng Đế, những sự đau lòng, những thử thách, thất vọng, những thảm kịch
và sự im lặng của Thượng Đế đối với sự đau khổ sẽ được giãi bày ở đó. Eli
Wiessel đã nói rằng cõi đời đời là “... nơi mà các câu hỏi và câu trả lời chỉ
là một”. Còn trong Gi 16:23, Chúa Giê-xu phán: “Lúc ấy các con không
còn thắc mắc hỏi han gì nữa. Ta nói quả quyết, các con nhân danh ta cầu xin điều
gì, Cha cũng ban cho”. Tất cả các câu hỏi đều sẽ được giải đáp!
Nhiều người
hỏi: “Vâng, thế thì chúng ta sẽ làm gì ở thiên đàng? Chỉ ngồi đó rồi vui hưởng
những khoái lạc của sự sống sao?” Không. Kinh Thánh cho biết rằng chúng ta sẽ
phục sự Thượng Đế. Sẽ có công việc để chúng ta làm cho Ngài. Chúng ta sẽ để nhiều
thì giờ ngợi khen Ngài. Kinh Thánh chép: “Chẳng có sự nguyền rủa nữa. Ngôi của
Thượng Đế và Chiên Con sẽ ở trong thành; các tôi tớ Ngài hầu hạ Ngài” (Kh 22:3).
Đó sẽ là
thời kỳ vui mừng, hầu việc, reo cười, ca hát và ngợi khen Thượng Đế. Hãy tưởng
tượng là chúng ta sẽ phục vụ Ngài mãi mãi, mà chẳng hề bị mệt mỏi!
Vào trước
hiện diện của Chúa Cứu Thế.
Kinh Thánh
dạy rằng vắng mặt trong thân thể là hiện diện với Chúa. Lúc qua đời, người Cơ Đốc
đi ngay lập tức đến trước mặt Chúa Cứu Thế. Nơi đó linh hồn của người ấy sẽ chờ
đợi sự sống lại tức là linh hồn và thể xác sẽ được tái hợp.
Nhiều người
hỏi: “Làm thế nào để những xác thịt đã tan rã hay hỏa thiêu có thể sống lại được?”
Chỉ có Thượng Đế biết điều đó. Nhưng cơ thể mới mà chúng ta sẽ có là một cơ thể
hiển vinh như cơ thể Chúa Cứu Thế. Đó là một cơ thể bất diệt. Cơ thể ấy sẽ
không bao giờ biết đến nỗi buồn, đau thương, bi thảm, bệnh tật, khổ lụy hay chết
chóc. Đó sẽ là một thân thể được làm nên mới, nhưng vẫn còn nhận ra được.
Ở đây
chúng ta có một hình ảnh của hai thế giới đời đời bềnh bồng trong không gian. Mỗi
con cái A-đam sẽ ở trên một trong hai thế giới đó. Có rất nhiều sự mầu nhiệm
bao phủ hai thế giới này, nhưng có khá đủ lời gợi ý và ám chỉ trong Kinh Thánh để
cho chúng ta biết một thế giới sẽ là của thê lương và đau khổ còn thế giới kia
sẽ là của ánh sáng và vinh hiển.
Đến đây
chúng ta đã biết được những vấn đề của nhân loại. Thoạt nhìn, những vấn đề này
rất phức tạp; nhưng trên căn bản thì thật giản dị. Chúng ta đã thấy rằng các vấn
đề đó có thể tóm lược trong hai chữ - tội lỗi. Chúng ta đã thấy rằng tương lai
con người quả là vô vọng nếu không có Thượng Đế. Nhưng nếu chỉ phân tích những
vấn đề của chúng ta và chỉ hiểu biết rõ ràng về kế hoạch của Thượng Đế thì cũng
chưa đủ. Nếu Thượng Đế có lòng giúp đỡ con người, thì con người cũng phải thỏa
mãn một số điều kiện nào đó. Trong các chương kế tiếp chúng ta sẽ nghiên cứu đến
những điều kiện này.
Ta đến trần
gian để tìm và cứu những người lầm lạc.
Lu 19:10
Lu 19:10
CHÚNG ta đã
thấy tội lỗi là một sự kiện tàn phá ghê gớm nhất của vũ trụ. Nguyên nhân của tất
cả mọi rắc rối, gốc rễ của mọi buồn rầu và kinh hãi của loài người đều nằm vỏn
vẹn trong hai chữ - tội lỗi. Tội lỗi làm đảo lộn bản thể con người. Tội lỗi phá
hoại sự hòa hợp nội tại của đời sống con người. Tội lỗi cướp đi tính cách cao
trọng của con người. Tội lỗi khiến cho con người phải sa vào cạm bẫy của ma quỉ.
Tất cả mọi
rối loạn thần kinh, mọi bệnh hoạn, mọi hủy diệt, chiến tranh đều bắt nguồn từ tội
lỗi. Tội lỗi làm trí óc điên cuồng và đầu độc tâm tư. Kinh Thánh mô tả tội lỗi
như một bệnh tật ghê sợ gây suy nhược cần được chữa trị tận gốc. Tội lỗi là trận
cuồng phong đang hoành hành, là hỏa diệm sơn đang phun lửa man dại, là một người
điên trốn thoát khỏi dưỡng trí viện. Tội lỗi là tên cướp đang rình mò, là con sư
tử gầm thét lúc đang săn mồi, là một lằn sét chớp xẹt xuống đất. Tội lỗi là cái
máy chém, là một chứng ung thư chết người đang gặm nhấm linh hồn nhân loại, là
một dòng thác lũ cuồn cuộn cuốn phăng mọi vật trên đường đi của nó.
Nhưng, như
có người đã nói: “Tội lỗi có thể cầm chân không cho bạn đến với Kinh Thánh - hoặc
ngược lại, Kinh Thánh có thể cầm giữ bạn để bạn khỏi phạm tội.”
Qua nhiều
thời đại con người vì căn bệnh tội lỗi bị lạc lõng mù lòa trong bóng tối thuộc
linh, mò mẫm, tìm tòi, dò xét tìm kiếm một lối thoát. Con người cần một người
giúp đỡ để thoát khỏi sự bối rối tinh thần và mê hồn trận đạo lý, một người có
thể cứu chuộc mình ra khỏi ngục tù ma quỉ, một người có thể mở khóa nhà giam.
Con người với tâm thần đói khát và tâm linh tan vỡ đang tìm tòi và nghe ngóng một
cách tuyệt vọng. Trong khi đó thì ma quỉ hài lòng về chiến thắng oai hùng của
nó ở vườn Ê-đen.
Từ những bộ
lạc dã man trong rừng già đến những nền văn minh của Ai-cập, Hy-lạp và La-mã,
con người đều ngơ ngác tự hỏi câu hỏi giống nhau: “Làm sao tôi thoát khỏi tình
trạng này? Làm sao tôi có thể khá hơn? Tôi làm gì bây giờ? Tôi nên theo lối nào
đây? Làm sao tôi trừ khử được chứng bệnh ghê gớm này? Làm sao tôi chận đứng được
dòng nước lũ đang cuồn cuộn? Làm sao tôi có thể thoát ra khỏi màng lưới bao bọc
tôi? Nếu có một đường lối nào, làm sao tôi tìm ra?”
Lời đáp của
Kinh Thánh.
Chúng ta đã
thấy Kinh Thánh chép rằng Thượng Đế là Thượng Đế của tình yêu. Ngài muốn làm
cho con người một điều gì đó. Ngài muốn cứu rỗi con người, Ngài muốn giải thoát
con người ra khỏi sự rủa sả của tội lỗi. Ngài đã làm điều đó bằng cách nào? Thượng
Đế là Đấng công bình. Ngài công nghĩa và thánh thiện. Từ buổi ban đầu Ngài đã cảnh
cáo con người nếu nghe theo lời ma quỉ và không vâng phục Ngài chắc sẽ bị chết
mất cả về thể xác lẫn linh hồn. Con người đã tự ý trái lời Thượng Đế. Hoặc con
người phải chết, hoặc Thượng Đế là Đấng dối trá, vì Thượng Đế không thể sai lời.
Bản chất của Ngài không cho phép Ngài dối trá. Lời Ngài phải được tôn trọng. Do
đó, khi con người bất phục tùng Ngài, con người đã bị xóa bỏ khỏi sự hiện diện
của Thượng Đế. Con người đã tự chọn con đường của ma quỉ.
Vì con người
đã tuyệt vọng trong sự hư mất rồi, do đó cần có đường lối khác. Bản chất thật của
con người đã bị đảo lộn. Con người đã chống đối Thượng Đế. Nhiều người còn phủ
nhận sự hiện hữu của Ngài vì mù quáng bởi bệnh tật họ mắc phải.
Ngay cả trong
vườn Địa đàng, Thượng Đế đã có ý nói rằng Ngài sẽ tìm cách giải quyết vấn đề đó.
Ngài đã cảnh cáo ma quỉ và hứa cùng con người: “Ta sẽ làm cho mầy cùng người nữ,
dòng dõi mầy cùng dòng dõi người nữ nghịch thù nhau, người sẽ giày đạp đầu mày,
còn mày sẽ cắn gót chân người” (Sa 3:15). “Mầy sẽ cắn gót chân
người” - Đó là một tia sáng từ trời. Đó là một lời hứa. Đó là điều con người có
thể tin cậy. Thượng Đế đã hứa rằng một ngày kia Đấng Cứu Chuộc sẽ xuất hiện, một
Đấng Giải Thoát sẽ đến. Thượng Đế đã ban cho con người một niềm hy vọng. Trải
qua bao thế kỷ, con người đã bám lấy chút hy vọng đó.
Nhưng
không phải chỉ có thế. Còn có nhiều cơ hội khác trải qua mấy ngàn năm lịch sử,
có nhiều tia sáng khác đến từ trời. Qua toàn bộ Cựu Ước, Thượng Đế hứa sẽ cứu
chuộc con người nếu con người tin rằng Đấng Cứu Chuộc sẽ hiện đến. Vì vậy, Ngài
đã dạy dỗ dân sự Ngài rằng con người chỉ có thể được cứu bằng sự thay thế mà
thôi. Một nhân vật khác sẽ trả giá để cứu chuộc con người.
Trở lại vườn
Ê-đen.
Đến đây, bằng
tưởng tượng mời bạn cùng tôi trở lại vườn Ê-đen một lúc. Thượng Đế phán: “Một
mai ngươi ăn chắc sẽ chết”. Con người đã ăn và đã chết.
Ví thử Thượng
Đế chỉ phán: “A-đam, ngươi đã phạm lỗi, nhưng đó là một sai lầm nhỏ của ngươi
thôi. Ngươi được tha thứ nhưng đừng tái phạm”. Nếu vậy, Ngài là Đấng dối trá.
Ngài không phải là Đấng thánh khiết hay công bình. Chính bản chất Ngài buộc
Ngài phải giữ lời. Ở đây sự công bằng của Thượng Đế bị thử thách. Con người phải
chết về phần thể xác lẫn phần thuộc linh. Những sự bất nghĩa chia cách con người
với Thượng Đế. Do đó họ phải bị đau khổ. Con người phải trả giá cho chính tội lỗi
mình. Như chúng ta đã thấy, A-đam là thủy tổ loài người. Khi A-đam phạm tội,
thì tất cả chúng ta đều phạm tội. “Vì A-đam, tội lỗi đã xâm nhập thế gian, đem
theo sự chết. Do đó, mọi người đều phải chết, vì mọi người đều phạm tội” (Ro 5:12).
Vấn đề
nóng bỏng sẽ là: “Làm sao Thượng Đế vừa công bình vừa xưng công nghĩa cho kẻ phạm
tội được?”. Ta nên nhớ là xưng công nghĩa tức là “tẩy cho linh hồn sạch tội”. Sự
xưng công nghĩa vượt xa sự tha thứ. Tội lỗi phải được gạt bỏ và làm cho trở
thành như chưa bao giờ có. Con người phải được phục hồi để không còn dấu vết nhơ
bẩn nào. Nói một cách khác, con người phải trở về địa vị của mình trước khi bị
mất ơn.
Từ nhiều
thế kỷ nay, trong sự mù quáng của mình, con người tìm cách trở lại vườn Ê-đen -
nhưng chưa hề đạt được mục đích. Con người đã thử nhiều cách, nhưng tất cả đều
thất bại.
Giáo dục
là điều cần thiết nhưng không đem người ta trở lại cùng Thượng Đế. Những tôn
giáo giả dối là một thứ ma túy giúp con người tránh khỏi sự khốn khổ hiện tại
trong khi họ hướng về vinh quang tương lai, nhưng các tôn giáo đó sẽ không khi
nào giúp con người đạt đến mục đích. Liên Hiệp Quốc có thể là một nhu cầu thực
tiễn cho một thế giới con người đầy chiến tranh và chúng ta tri ân những điều
mà tổ chức này có thể thực hiện trong lãnh vực bang giao quốc tế để dàn xếp những
sự tranh chấp khỏi dùng bạo lực; nhưng nếu Liên Hiệp Quốc có thể đem lại một nền
hòa bình lâu dài, thì con người có thể nói với Thượng Đế rằng: “Chúng tôi không
còn cần Ngài nữa. Chúng tôi đã đem lại hòa bình cho trái đất này và đã tổ chức
nhân loại trong sự công nghĩa”. Tất cả những toan tính này là phương thuốc tạm
thời mà thế giới cần có trong khi chờ đợi vị Đại Danh Y. Quay trở về lịch sử,
chúng ta thấy rằng cố gắng đầu tiên của những người biết đoàn kết đã chấm dứt bằng
sự xáo trộn ngôn ngữ ở tháp Ba-bên. (do con cháu Nô-ê xây cất tại Si-nê-a sau cơn
Đại hồng thủy vì kiêu ngạo muốn lên đến trời. Thượng Đế làm cho tháp đó ngã xuống
và khiến cho tiếng nói khác nhau kể từ đó) Con người đã thất bại khi cố làm việc
không cần Thượng Đế và họ phải gánh hậu quả.
Câu hỏi vẫn
còn: “Thượng Đế làm thế nào vừa công bình - nghĩa là chân thật đối với chính
Ngài trong bản chất và trong sự thánh thiện vừa xưng công nghĩa được cho người
tội lỗi?” Vì mỗi một người đều phải gánh lấy tội lỗi của chính mình, nên tất cả
nhân loại không ai giúp ai được cả. Mọi người đều bị nhiễm cùng một chứng bịnh.
Giải pháp
duy nhất là phải có một người vô tội tình nguyện chịu chết thay cho con người
trước mặt Thượng Đế. Người vô tội này phải gánh lấy sự xử đoán, sự hình phạt và
sự chết cho con người. Nhưng tìm đâu ra được một người như vậy? Chắc chắn ở
trên mặt đất này không có ai, vì Kinh Thánh phán: “Mọi người đều phạm tội” (Ro 3:23). Chỉ còn một cách là
Con Một của Thượng Đế, nhân vật duy nhất trong vũ trụ có khả năng mang trên
chính mình Ngài tội lỗi của thế gian. Dĩ nhiên thiên sứ Gáp-ri-ên hoặc Mi-ca-ên
có thể đến và chết thay cho một người, nhưng chỉ có Con Thượng Đế là Đấng vô
cùng và như thế mới có khả năng chết thay cho tất cả mọi người.
Thượng Đế
Ba Ngôi.
Kinh Thánh
dạy rằng Thượng Đế thật sự có Ba Ngôi. Đây là điều mầu nhiệm chúng ta không bao
giờ hiểu thấu. Kinh Thánh không dạy là có ba Thượng Đế nhưng chỉ có một. Tuy
nhiên Thượng Đế được biểu thị trong Ba Ngôi vị. Đó là Đức Chúa Cha, Đức Chúa
Con và Đức Thánh Linh.
Ngôi thứ
nhì của Tam-Vị-Nhất-Thể đó là Đức Chúa Con tức là Chúa Giê-xu. Ngài đồng đẳng với
Đức Chúa Cha. Ngài không là một con của Thượng Đế mà là Con Một của Ngài. Ngài
là Con đời đời của Thượng Đế - Ngôi vị thứ hai trong Tam Vị Nhất Thể thánh khiết,
tức là Thượng Đế biểu hiện bằng xương thịt, là Chúa Cứu Thế hằng sống.
Kinh Thánh
dạy rằng Chúa Cứu Thế hằng có đời đời. Ngài không phải là tạo vật (Gi 1:1-3). Kinh Thánh dạy rằng
các từng trời do Ngài sáng tạo. Tất cả các vì tinh tú và mặt trời bừng cháy đều
do Ngài dựng nên. Quả đất đã được tạo thành từ ngón tay bốc lửa của Ngài. Sự ra
đời của Chúa Giê-xu chúng ta kỷ niệm không phải là khởi thủy của Ngài. Nguyên
lai của Ngài được bao phủ trong sự huyền nhiệm, khi hỏi về gốc tích của Thượng Đế
chúng ta đều rối trí. Kinh Thánh chỉ cho chúng ta biết “Ban đầu có Chúa Cứu Thế.
Chúa Cứu Thế ở với Thượng Đế từ nguyên thủy vì Ngài là Thượng Đế ngôi hai” (1:1).
Kinh Thánh
dạy chúng ta: “Chúa Cứu Thế là hiện thân của Thượng Đế vô hình, Ngài có trước mọi
vật trong vũ trụ. Chính Chúa Cứu Thế sáng tạo vạn vật, vật trên trời hay dưới đất,
hữu hình hay vô hình, ngôi vua hay chủ tịch nhà nước, chính quyền hay các cấp
lãnh đạo, tất cả đều do Chúa Cứu Thế tạo lập và đều đầu phục Ngài. Chúa Cứu Thế
có trước vạn vật, Ngài an bài và chi phối vạn vật.” (Co 1:15-17).
Câu sau
cùng chứng tỏ rằng Ngài là Đấng kết hợp mọi vật với nhau. Nói cách khác, toàn
thể vũ trụ sẽ bị tan vỡ thành hàng tỉ nguyên tử nếu không có quyền năng của
Chúa Cứu Thế Giê-xu gắn chặt chúng lại với nhau. Kinh Thánh lại phán: “Ban đầu
Chúa sáng tạo địa cầu này, các từng trời cũng do tay Chúa dựng nên. Trời đất sẽ
tiêu tan nhưng Chúa hằng còn, vạn vật sẽ rách nát như áo cũ. Chúa sẽ cuốn chúng
lại như áo dài, như chiếc áo tồi tàn, cũ mục. Nhưng Chúa vẫn còn nguyên, tuổi
tác Chúa không hề cùng” (He 1:10-12).
Chúa Cứu
Thế Giê-xu là Đấng Cứu Chuộc.
Chúa
Giê-xu cũng đã tự nói về Ngài: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, (hai chữ đầu và cuối
trong mẫu tự Hy-lạp, có nghĩa là đầu tiên và cuối cùng) là đầu tiên và cuối
cùng”. Ngài và chỉ một mình Ngài mới có quyền lực và khả năng đem con người trở
về với Thượng Đế. Nhưng liệu Ngài có làm điều đó không? Nếu thế, Ngài phải đến
thế gian. Ngài phải mặc lấy hình thể tôi tớ. Ngài phải trở nên giống như con người.
Ngài phải hạ mình và vâng phục cho đến chết. Ngài phải tranh đấu với tội lỗi.
Ngài phải đối địch và chiến thắng Sa-tan là kẻ thù của linh hồn con người. Ngài
phải mua chuộc tội nhân giữa chợ nô lệ tội lỗi. Ngài phải tháo gỡ các gông xiềng
và phóng thích tù nhân bằng cách trả giá - và giá đó là huyết của chính Ngài.
Ngài phải là kẻ bị loài người khinh khi và ghét bỏ, phải là một người buồn rầu
và quen chịu đau đớn. Ngài phải chịu Thượng Đế đánh đập và bị phân cách với Thượng
Đế. Ngài phải bị thương tích vì những sự quá phạm của loài người và bị đòn vọt
vì những điều bất nghĩa của họ. Ngài phải hòa giải con người với Thượng Đế.
Ngài phải là Đấng Trung Gian vĩ đại của lịch sử. Ngài phải là một Đấng thay thế.
Ngài phải chịu chết thay cho con người tội lỗi. Tất cả những việc này, Ngài đều
làm một cách tự nguyện.
Tạ ơn Thượng
Đế - điều đó thực sự đã xảy ra! Từ các từng trời cao xa, Ngài nhìn xuống hành
tinh này xoay vần trong không gian đang bị lên án, áp bức và trên đường đi đến Địa
ngục. Ngài thấy bạn và tôi vật lộn dưới gánh nặng tội lỗi và bị trói buộc trong
xiềng xích của nó. Chính Thượng Đế sẽ quyết định cho hồi chung cuộc. Các thiên
sứ sẽ cúi đầu khiêm cung và sợ hãi khi Vua của các vua và Chúa của các chúa, Đấng
có thể bởi lời phán dựng nên các thế giới trong không gian, lên xe nạm kim
hoàn, đi qua các cổng ngọc, xuyên qua các từng trời thẳng đứng, và vào một đêm
tối tăm xứ Giu-đê, trong khi các vì sao đồng ca và những thiên sứ tháp tùng
vang lời chúc tụng, Ngài bước xuống xe, cởi bỏ hoàng bào, trở thành con người!
Điều này cũng
ví như tôi, trong khi đang đi đường, giẫm lên một ổ kiến. Tôi có thể nhìn xuống
và nói với bầy kiến: “Tôi hết sức ân hận vì đã đạp lên ổ của các bạn. Tôi đã
làm sập nhà các bạn. Mọi thứ đều bị xáo trộn. Ước gì tôi có thể nói với các bạn
là tôi thương yêu các bạn, tôi không cố ý làm như vậy, tôi muốn giúp đỡ các bạn”.
Nhưng bạn
nói: “Điều đó vô lý, không thể như vậy được, kiến không sao hiểu được ngôn ngữ
của người!”. Đúng thế! Nếu tôi có thể hóa thành kiến trong giây lát và dùng
ngôn ngữ của kiến cho chúng biết tôi yêu thương chúng thì kỳ diệu biết bao!
Đúng thế, đó
là điều Chúa Cứu Thế đã thực hiện. Ngài đã đến để bày tỏ Thượng Đế cho con người,
là Đấng cho chúng ta biết Thượng Đế yêu chúng ta và lưu tâm đến đời sống chúng
ta. Chính Ngài là Đấng bày tỏ cho chúng ta về lòng thương xót, sự đau khổ lâu
dài và ân điển của Thượng Đế. Ngài là Đấng hứa ban sự sống đời đời.
Nhưng hơn
thế nữa, Chúa Cứu Thế Giê-xu đã dự phần trong thịt và huyết để có thể chịu chết
(He 2:14). Ngài đã hiện ra để cất tội lỗi thế gian đi (IGi 3:5). Chúa Cứu Thế đã đến
thế gian “để phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người” (Mat 20:28). Khi đến thế gian mục đích
chính của Chúa Cứu Thế là để hiến dâng đời sống Ngài làm của sinh tế vì cớ tội
lỗi con người. Ngài đến để chịu chết. Bóng sự chết của Ngài, như một tấm màn
tang chế phủ trên suốt cuộc sống ba mươi năm của Ngài.
Đêm Chúa
Giê-xu ra đời, Sa-tan run sợ. Nó tìm cách hạ sát trước khi Ngài giáng trần, và
cố giết Ngài ngay lúc Ngài ra đời. Khi vua Hê-rốt ra lệnh giết tất cả trẻ con,
mục đích duy nhất của ông là xác định Chúa Giê-xu đã chết.
Đức Chúa
Con vô tội.
Trong suốt
cuộc đời của Chúa Giê-xu trên thế gian, Ngài không hề phạm tội lấy một lần.
Ngài là người duy nhất đã sống vô tội. Ngài đã có thể đứng trước mặt loài người
và phán: “Anh em đã cố gắng bới lông tìm vết nhưng có ai tìm thấy một lỗi lầm
nào trong đời tôi không?” (Gi 8:46). Kẻ thù ngày đêm rình rập Ngài, nhưng
chúng chẳng bao giờ tìm thấy được một tội lỗi nào nơi Ngài. Ngài không mang một
vết nhơ bẩn hay có điều đáng trách nào cả.
Chúa
Giê-xu đã sống một đời sống khiêm nhường. Ngài không tìm cách gây tăm tiếng.
Ngài không nhận vinh dự nào của loài người. Ngài ra đời trong một chuồng chiên,
được trưởng dưỡng trong một làng nhỏ là Na-xa-rét. (quê hương của Chúa Giê-xu,
trong miền Ga-li-lê nước Do-thái) Ngài là một thợ mộc. Qui tụ quanh Ngài là một
nhóm ngư phủ khiêm nhường làm đệ tử. Ngài sống giữa loài người như một con người.
Cách Ngài hạ mình không ai có thể hạ mình như vậy được.
Chúa
Giê-xu dạy dỗ cách có thẩm quyền đến nỗi dân chúng đương thời phải nói: “Chúng
tôi chưa bao giờ nghe ai giảng dạy tuyệt diệu như ông ấy!” (7:46). Mỗi một lời Ngài thốt
ra là một chân lý đứng về phương diện lịch sử, khoa học và đạo đức. Không có chỗ
sơ hở nào trong các quan niệm đạo đức và những lời tuyên bố của Chúa Giê-xu.
Quan niệm đạo đức của Ngài hoàn toàn đúng, đúng trong thời đại Ngài sống và đúng
cho mọi thời đại kế tiếp.
Lời nói của
Đấng phước hạnh này cũng nghiệm đúng về phương diện tiên tri nữa. Chúa Cứu Thế đã
nói trước nhiều điều thuộc về tương lai. Bằng những câu hỏi có tính cách thử
thách các luật gia cố bắt bẻ Ngài, nhưng không làm Ngài bối rối được. Những lời
Ngài đối đáp với kẻ chống đối rất rõ ràng và dứt khoát. Những lời của Ngài là
chắc chắn, ý nghĩa không mơ hồ, ngôn ngữ không ngập ngừng. Ngài biết điều Ngài
muốn nói, nên Lời Ngài phán ra có uy lực. Ngài phán một cách giản dị làm cho người
dân thường vui thỏa khi nghe Lời Ngài. Lời Ngài sâu sắc nhưng thẳng thắn, dễ hiểu
và hàm súc. Lời Ngài sáng chói và bình dị khiến kẻ kích bác Ngài phải lúng túng
bàng hoàng. Cách Ngài thảo luận những vấn đề trọng đại đương thời làm cho người
theo dõi Lời Ngài không một chút khó khăn.
Chúa Giê-xu
chữa lành người bệnh, người què, người bại và người mù - Ngài đã chữa trị người
cùi và khiến người chết sống lại. Ngài đuổi quỉ, khiến thời tiết yên lặng. Ngài
đã làm ngưng bão tố, mang lại sự bình an, vui mừng và hy vọng cho hằng ngàn người
Ngài dạy dỗ.
Ngài không
hề tỏ ra sợ hãi. Ngài không bao giờ vội vàng. Ngài không gặp tai nạn bất ngờ.
Ngài sinh hoạt với sự phối trí và chính xác hoàn toàn. Ngài có một thái độ vững
vàng tuyệt đối. Ngài không do dự hay lo lắng về công việc của Ngài. Tuy Ngài đã
không chữa lành tất cả những người bệnh, không gọi tất cả những kẻ chết sống lại,
không mở mắt cho tất cả những kẻ mù hay hóa bánh nuôi tất cả những kẻ đói, nhưng
đến cuối đời mình Ngài đã có thể nói rằng: “Con đã làm xong công việc Cha giao
cho Con.”
Ngài đã đứng
trước Phi-lát (quan tổng đốc cai trị xứ Giu-đê (Do-thái) trong thời Chúa
Giê-xu) và bình tĩnh phán: “Nếu Thượng Đế không cho, ông chẳng có quyền gì trên
tôi” (19:11).
Ngài bảo cùng đoàn dân chúng đang kinh hãi rằng dưới quyền Ngài có nhiều đạo
binh thiên sứ.
Ngài tiến
lên thập giá với một niềm trang trọng và thản nhiên, với sự tự tin và một mục đích
khẳng định để thể hiện lời tiên tri viết về Ngài tám trăm năm trước: “Như chiên
con bị dắt đến hàng làm thịt, như chiên câm ở trước mặt kẻ hớt lông, người chẳng
từng mở miệng” (Es 53:7).
Đánh bại
ma quỉ.
Ngài sống
cách cao thượng, vinh hiển và với sự tiên liệu đầy đủ về sứ mạng Ngài phải thi
hành. Ngài đến để cứu con người tội lỗi, để làm nguôi cơn thạnh nộ của Thượng Đế.
Ngài đến để mua con người từ nơi chợ nô lệ của ma quỉ. Ngài đến để đánh bại ma
quỉ vĩnh viễn. Ngài đến để chinh phục địa ngục và mộ phần. Chỉ có một phương
cách để Ngài thực hiện điều đó. Chỉ một đường lối bày ra trước mặt Ngài.
Sự chết của
Ngài đã được tiên báo hằng ngàn năm trước. Thoạt tiên, như chúng ta thấy là
trong vườn Ê-đen, và sau đó, sự chết của Chúa Cứu Thế được đề cập đến trong bài
giảng, truyện tích và lời tiên tri trong nhiều thế kỷ trước đó. Áp-ra-ham (tổ
phụ của dân Do-thái, tên này có nghĩa là “cha của nhiều dân tộc”) đã thấy trước
sự chết của Ngài như chiên con bị giết. Con cháu Y-sơ-ra-ên đã biểu hiện sự chết
của Ngài bằng con sinh tế. Mỗi lần huyết đổ trên một bàn thờ Do-thái, điều đó tượng
trưng cho Chiên Con Thượng Đế một ngày kia phải đến để cất tội lỗi đi. Đa-vít đã
báo trước về sự chết của Ngài với chi tiết qua nhiều Thi-thiên. Tiên tri Ê-sa đã
dành cả những chương sách để tiên báo đầy đủ về cái chết của Chúa.
Chúa
Giê-xu phán rằng Ngài có quyền tận hiến sự sống mình khi nói: “Ta là người chăn
từ ái. Người chăn từ ái sẵn lòng hy sinh tính mạng vì đàn chiên” (Gi 10:11). Ngài phán tiếp: “Tôi
cũng phải bị treo lên, để bất cứ người nào tin tôi đều được sự sống vĩnh viễn”
(3:14-15).
Chúa Giê-xu từng đối diện với thập tự giá từ xưa trong thời gian vô hạn. Trải
qua bao thời đại trước khi Ngài giáng sanh, Chúa biết rằng ngày Ngài hiến mình đang
vội vàng đến. Khi Ngài được một trinh nữ sinh ra, thì sự sinh ra của Ngài bị thập
tự giá làm u ám. Ngài đã mang hình hài con người để có thể chết. Từ lúc sinh ra
đến khi lên thập tự, mục đích của Ngài là chịu chết.
Chưa có ai
chịu đau đớn như Ngài, có người đã mô tả: “Một đêm không ngủ trong vườn Ghết-sê-ma-nê
lập loè ánh đuốc, cái hôn của kẻ phản bội, lúc bị bắt, bị xét xử trước thầy Tế
lễ tối cao, chờ đợi hằng giờ tại lâu đài của viên tổng trấn La-mã, bị giải đến
lâu đài của Vua Hê-rốt, cách đối xử tàn bạo của bọn lính Hê-rốt, những cảnh
kinh hoàng mà các thầy trưởng tế và dân chúng thì la ó đòi đóng đinh Chúa khi
Phi-lát tìm cách cứu Ngài, nào roi vọt, từng đoàn người hò hét, con đường từ
Giê-ru-sa-lem đến đồi Gô-gô-tha, đầu bị mão gai, tay chân bị đinh đóng, bị hai
tên trộm cướp hai bên nhiếc mắng và phỉ báng: ươi đã cứu kẻ khác, bây giờ hãy tự
cứu mình đi“.”
Đôi khi người
ta hỏi tại sao Chúa Cứu Thế lại chết mau như thế, trong vòng sáu tiếng đồng hồ
trên thập tự, trong khi các nạn nhân kia hấp hối trên thập tự giá đến hai ngày.
Chúa Giê-xu rất yếu và mệt lả khi Ngài đến đó. Ngài đã bị đánh đập và thể xác bị
kiệt quệ. Nhưng khi Chúa Cứu Thế chết, Ngài đã tự nguyện chết. Ngài đã lựa chọn
đúng lúc trút hơi thở cuối cùng.
Ở đấy Ngài
đã bị treo lên, trần trụi giữa không gian. Chúng đã nhổ râu Ngài cho đến khi mặt
Ngài chảy máu. Ngài đã bị phỉ nhổ cho đến khi trên mặt Ngài dính đầy nước bọt của
bọn người giận dữ. Ngài không thốt lời than vãn hay kêu cứu nhưng với hai chữ
“Ta khát” Ngài cho chúng ta thấy được phần nào nỗi đau đớn ghê gớm Ngài phải chịu.
Có một thi
sĩ ẩn danh đã viết:
‘Nhưng hơn
tất cả những sự đau đớn đã dày vò Ngài Là nỗi khát vọng thiên thượng sâu xa Nỗi
khát khao linh hồn người ta, Lạy Chúa yêu dấu, con là một linh hồn như thế!
Tội nhân
hay người thay thế.
Thượng Đế đòi
hỏi sự chết nơi kẻ phạm tội hay người thay thế. Chúa Cứu Thế là người thay thế
kẻ có tội! Gáp-ri-ên và mười đạo binh thiên sứ bay trên ven bờ vũ trụ, gươm tuốt
trần. Chỉ một cái liếc mắt từ khuôn mặt phúc hậu của Ngài thì các đoàn thiên
binh sẽ quét sạch đám người ầm ĩ và giận dữ xuống địa ngục rồi. Đinh đóng không
bao giờ giữ được Chúa, chỉ có những sợi dây tình thương trói buộc Ngài chặt hơn
tất cả những cây đinh con người có thể chế ra. “Nhưng Thượng Đế đã chứng tỏ
tình yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi Chúa Cứu Thế chịu chết thay chúng ta
là người tội lỗi” (Ro 5:8).
Vì bạn! Vì
tôi! Chúa đã mang tội lỗi chúng ta trong thân thể Ngài trên cây gỗ. Có người đã
nói: “Hãy nhìn Ngài trên thập tự giá, đầu thánh gục nghiêng, và trong sự hãi
hùng xa cách Thượng Đế, để gánh lấy tội lỗi của thế gian, và hãy nhìn xem bởi sự
gánh chịu đó, Ngài đã sáng tạo nên một điều không cần cho chính Ngài nhưng để
phân phát cho những người Ngài đã thế chỗ”. Trong khi chúng ta bàng hoàng trong
nỗi đau khổ đó, trong khi cảm thấy bất lực không thể hiểu biết hay giải thích,
và trong khi ý thức được quyền năng cùng sự oai nghiêm tràn ngập, chúng ta nghe
những lời kế tiếp của Ngài: “Mọi việc đã được trọn”.
Nhưng nỗi đau
đớn thể xác của Chúa Giê-xu chỉ là một phần nhỏ trong sự đau khổ cùng cực của
Ngài. Có nhiều người trước Ngài đã chịu chết. Nhiều người đã trở thành những vị
tử đạo. Sự đau khổ kinh khiếp của Chúa Giê-xu là cái chết thuộc linh. Khi Thượng
Đế quay lưng lại và dấu mặt đi thì Ngài đã đạt đến hậu quả cuối cùng của tội lỗi,
dò tận đáy sâu thẳm của sự đau buồn đến nỗi phải kêu lên “Thượng Đế của tôi ơi!
Sao Ngài lìa bỏ tôi?”. Chúa Cứu Thế đã thốt ra những lời ấy một mình trong giờ cùng
cực của lịch sử loài người! Một tia sáng đã bừng lên để cho chúng ta thấy được điều
Chúa đã phải chịu đựng, nhưng ánh sáng đó chói lói quá, theo lời G. Cambell
Morgan thì “không mắt nào có thể nhìn nổi”. Tấn sĩ Morgan đã diễn tả rất đúng
là những lời Chúa thốt ra “để con người biết rằng còn biết bao điều không thể
hiểu được”.
Đấng vốn
không biết tội lỗi đã bị kể là tội lỗi vì cớ chúng ta để trong Ngài chúng ta được
xưng công nghĩa đối với Thượng Đế. (Ga 3:13; Mac 15:34; IICo 5:21). Ngài đã trở thành kẻ
có tội trên thập tự giá. Ngài là Đấng bị Thượng Đế từ bỏ. Vì Ngài không tội lỗi
nên hình phạt Ngài chịu có giá trị vượt quá sự hiểu biết con người, một hình phạt
không cần thiết cho chính Ngài. Nếu do sự gánh vác tội lỗi trên thân thể Ngài
mà Ngài đã tạo nên một giá trị không cần thiết cho chính Ngài, thì giá trị này được
tạo nên cho ai?
Trong sự
sâu thẳm của bóng tối, việc này được thực hiện ra sao, con người không bao giờ
biết được. Tôi chỉ biết có một điều - là Ngài gánh chịu tội lỗi của tôi trong
thân thể Ngài trên cây gỗ. Ngài đã ở vào địa vị đáng lý phải là của tôi. Những
nỗi đau đớn của địa ngục, phần dành cho tôi đã được chồng chất trên Ngài để tôi
có thể đi vào thiên đàng và thừa hưởng, không phải của chính tôi mà là của Ngài
trọn vẹn. Tất cả mọi thể thức, mọi của lễ, mọi hình bóng và biểu tượng của Cựu Ước
giờ đây đã được ứng nghiệm. Các thầy trưởng tế không còn cần phải vào nơi chí
thánh mỗi năm một lần nữa. Sự hy sinh chuộc tội đã hoàn tất.
Bây giờ
thì căn bản cứu chuộc đã được đặt thành nền móng, tội nhân chỉ còn tin tưởng nơi
Con là có thể tìm thấy bình an trong Thượng Đế. “Vì Thượng Đế yêu thương nhân
loại đến nỗi hy sinh Con Một của Ngài, để tất cả những người tin nhận Con Thượng
Đế đều không bị hư vong nhưng được sự sống vĩnh viễn” (Gi 3:16).
Ba điều
trên thập tự giá.
Trên thập
tự giá của Chúa Cứu Thế tôi thấy ba điều:
Thứ nhất,
sự mô tả chiều sâu của tội lỗi con người. Đừng nên phiền trách dân chúng thời bấy
giờ đã treo Chúa Cứu Thế lên thập tự giá. Bạn và tôi đều có tội lỗi như họ.
Không phải dân chúng hay quân lính La-mã treo Ngài lên cây thập tự mà chính là
tội lỗi của bạn và của tôi đã khiến Ngài phải tình nguyện chịu chết như vậy.
Thứ nhì,
trên thập tự giá, tôi thấy tình yêu thương tràn ngập của Thượng Đế. Nếu khi nào
bạn nghi ngờ về tình yêu thương của Ngài, hãy nhìn lâu và nhìn kỹ cây thập tự,
vì trong đó bạn sẽ nhìn thấy sự biểu lộ tình yêu thương của Thượng Đế.
Thứ ba,
trên cây thập tự có một con đường cứu rỗi duy nhất. Chúa Giê-xu phán: “Ta là
Con đường, Chân lý và Nguồn sống. Nếu không nhờ ta, không ai được đến với Cha”
(14:6).
Không có cách nào để bạn được cứu ra khỏi tội lỗi và địa ngục, trừ khi bạn đồng
hóa mình với Chúa Cứu Thế của thập tự giá. Nếu có một đường lối nào khác để cứu
chuộc bạn, thì Ngài đã tìm thấy rồi. Nếu sự cải cách hay sống một đời sống đạo đức
tốt đẹp có thể cứu rỗi bạn được, thì Chúa Giê-xu đã không bao giờ chịu chết. Phải
có một người chịu chết thay bạn. Người ta không thích nói đến điều này. Họ
không thích nghe như vậy vì sự thể sẽ làm tổn thương đến lòng kiêu hãnh của họ.
Điều này gạt bỏ mọi thứ thuộc bản ngã.
Nhiều người
nói: “Tôi có thể được cứu nhờ đời sống tốt đẹp không? Theo các huấn điều của
Chúa Giê-xu? Sống cuộc đời đạo đức như Chúa đã dạy?”. Cho dù bạn có thể được cứu
nhờ sống cuộc sống Chúa Giê-xu đã dạy, bạn vẫn còn là một tội nhân. Bạn vẫn sẽ
vấp ngã vì không có người nào từ lúc ra đời cho đến khi chết có thể sống một cuộc
đời như Ngài đã dạy. Bạn đã thất bại. Bạn đã phạm tội. Bạn đã bất phục tùng. Bạn
đã có tội. Như vậy bạn sẽ làm gì về tội lỗi đó. Chỉ có một việc làm thôi và việc
đó là đem tội mình đến thập tự giá để cầu xin sự tha thứ.
Ngày xưa,
vua Charles đệ V vay một thương gia ở Antwerp một số tiền lớn. Đến kỳ trả nợ,
nhà vua bị khánh kiệt không trả nổi. Nhà buôn thết tiệc lớn mời vua. Khi tất cả
mọi quan khách đã an tọa, và trước khi thức ăn được dọn ra, thương gia cho đem
một cái mâm lớn để lên bàn trước mặt mình, trên mâm có đốt lửa. Người thương
gia rút trong túi ra tờ giấy nợ, bỏ vào lửa đốt cho đến khi cháy thành tro. Nhà
vua ôm choàng lấy ân nhân mình mà khóc.
Cũng một
thể ấy, tất cả chúng ta đã là những kẻ bị cầm thế cho Thượng Đế. Nợ đã đến kỳ
trả, nhưng chúng ta không trả nổi. Hai ngàn năm trước đây, Thượng Đế đã mời thế
gian đến dự tiệc Phúc Âm và trong giờ phút hấp hối của thập tự giá, Ngài đã nắm
lấy tội lỗi của bạn và tôi cho đến khi vết tích cuối cùng của tội lỗi chúng ta được
thiêu hủy.
Kinh Thánh
phán: “Nếu không đổ huyết, tội lỗi chẳng bao giờ được tha thứ “ (He 9:22). Nhiều người đã nói với
tôi: “Ghê tởm quá! Bộ ông tin ở một tôn giáo sát sanh hay sao?”. Nhiều người
khác ngạc nhiên bảo: “Tôi không hiểu tại sao Thượng Đế đòi hỏi sự đổ huyết”.
Nhiều người tự hỏi: “Tôi không hiểu sao Chúa Cứu Thế phải chịu chết thay tôi”.
Ngày nay ý nghĩ về sự đổ huyết của Chúa Cứu Thế đã trở thành lỗi thời và lạc hậu
trong sự rao giảng nhưng sự kiện vẫn còn đó. Còn trong Kinh Thánh. Đó chính là
trọng tâm của Cơ Đốc giáo. Đặc điểm khác biệt của Cơ Đốc giáo là sự đổ huyết để
chuộc tội. Không có điều này chúng ta không thể được cứu. Huyết tượng trưng cho
sự chết của Chúa Cứu Thế hay chỉ bóng về sinh tế trọn vẹn của Ngài.
Mới đây tại
phòng nhập viện của bệnh viện Mayo Clinic ở Rochester, Minnesota. Trên bàn có một
hộp nhỏ đựng xấp giấy viết hàng chữ đỏ giống hình một giọt máu: “Một quà tặng bằng
máu”. Lúc đầu tôi tưởng đó là truyền đạo đơn, nhưng nhìn kỹ hơn tôi thấy đó là
lời kêu gọi mọi người tham gia chương trình hiến máu. Máu có nghĩa là sự khác
nhau giữa sống và chết đối với một bệnh nhân. Chưa hề có ai được truyền máu mà
lại không nhìn giọt máu ấy bằng thái độ biết ơn. Có lẽ có người bảo rằng lấy
máu của người khác là điều bất nhẫn, nhưng máu được ban tặng là điều phước hạnh.
Máu tiêu
biểu cho sự sống như Le 17:11 chép: “Vì sanh mạng của xác thịt ở
trong huyết; ta đã ban cho các ngươi huyết... đặng làm lễ chuộc tội cho linh hồn
mình” huyết của sinh tế đã chảy xuyên suốt Cựu Ước chỉ bóng hay biểu tượng cho
sinh tế trọn vẹn của Chúa Cứu Thế.
Năm điều
mà huyết đem đến.
Kinh Thánh
dạy rằng: Trước hết, huyết cứu chuộc. “Anh em đã biết rõ, Thượng Đế đã trả giá
rất cao để cứu chuộc anh em khỏi nếp sống lầm lạc của tổ tiên. Không phải trả
giá bằng bạc vàng dễ mất, mau hư nhưng bằng huyết báu của Chúa Cứu Thế, Chiên
Con vô tội không tì vết của Thượng Đế” (IPhi 1:18, 19). Chẳng những chúng ta được
cứu chuộc khỏi tay ma quỉ, nhưng còn được cứu khỏi luật pháp nữa. Sự chết của
Chúa Cứu Thế trên thập tự giá đem tôi ra khỏi luật pháp. Luật pháp lên án tôi,
nhưng Chúa Cứu Thế đã thỏa mãn mọi đòi hỏi. Tất cả vàng bạc và châu báu của thế
gian không bao giờ có thể mua chuộc tôi. Điều gì chúng không thể làm được thì sự
chết của Chúa Cứu Thế đã làm. Sự cứu chuộc nghĩa là “mua lại”. Chúng ta đã bị
bán cho ma quỉ mà không thâu được lợi lộc gì cả, nhưng Chúa Cứu Thế đã cứu chuộc
chúng ta và đem chúng ta trở về.
Thứ nhì, huyết
đem chúng ta lại gần. “Nhưng bây giờ anh em là người của Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Dù ngày trước cách xa Thượng Đế, ngày nay nhờ huyết Chúa Giê-xu dâng hiến, anh
em được đến gần Thượng Đế” (Eph 2:13). Khi chúng ta còn là “những kẻ ngoại
bang đối với cộng đồng Y-sơ-ra-ên, và xa lạ với giao ước của lời hứa, không có
hy vọng, và ở trong thế gian không có Thượng Đế” thì Chúa Giê-xu đã đem chúng
ta lại gần Ngài. “Vậy, người thuộc về Chúa Cứu Thế Giê-xu sẽ không bị kết tội nữa”.
Người phạm tội đã được cứu chuộc không bao giờ bị Thượng Đế toàn năng đoán phạt.
Chúa Cứu Thế gánh chịu sự đoán phạt của người ấy rồi.
Thứ ba,
huyết đem lại hòa bình. “Chúa Cha nhờ Chúa Cứu Thế đưa mọi loài dưới đất trên
trời về giải hòa với Ngài; huyết Chúa Cứu Thế đổ ra trên cây thập tự đã tái lập
hòa bình giữa Thượng Đế và nhân loại” (Co 1:20). Thế giới sẽ không bao
giờ có được hòa bình cho đến lúc tìm thấy hòa bình nơi thập tự giá của Chúa
Giê-xu. Bạn sẽ không bao giờ có hòa bình với Thượng Đế, an bình của lương tâm,
của trí tuệ, và của linh hồn cho đến khi bạn đến đứng dưới chân thập tự giá và đồng
hóa chính mình bạn với Chúa Cứu Thế bằng đức tin. Đó là bí quyết của hòa bình. Đó
là sự bình an trong Thượng Đế.
Thứ tư,
huyết xưng công nghĩa. “Trước là người tội lỗi, ta còn nhờ huyết Chúa được tha
thứ, nay ta sạch tội rồi, hẳn Ngài sẽ cứu chúng ta khỏi hình phạt khủng khiếp
Thượng Đế dành cho thế gian” (Ro 5:9). Huyết làm thay đổi địa
vị của con người trước mặt Thượng Đế. Đó là sự thay đổi từ chỗ phạm pháp bị kết
án sang tha thứ và xá miễn. Tội nhân được ân xá không giống như một phạm nhân
mãn án ra tù bị mất quyền công dân. Tội nhân ăn năn, được tha thứ bởi huyết
Chúa Giê-xu được phục hồi trọn vẹn quyền công dân. “Ai dám kiện cáo chúng ta là
người Thượng Đế lựa chọn? Vì Thượng Đế đã tha tội chúng ta. Ai dám kết án chúng
ta? Vì Chúa Cứu Thế Giê-xu đã chịu chết, sống lại và hiện nay ngồi bên hữu Thượng
Đế đang cầu thay cho chúng ta” (8:33, 34).
Thứ năm,
huyết rửa sạch. “Nếu chúng ta sống trong ánh sáng như Thượng Đế, chúng ta sẽ
giao hảo với nhau, và huyết của Chúa Giê-xu, Con Ngài tẩy sạch tất cả tội lỗi
chúng ta” (IGi1:7).
Chữ chìa khóa trong câu này là tất cả. Không phải một phần tội lỗi chúng ta mà
là tất cả. Mỗi lời giả dối bạn thốt ra, mỗi việc thấp hèn ti tiện bạn đã làm, sự
giả đạo đức và những ý nghĩ xấu xa của bạn - tất cả đều được sự chết của Chúa
Giê-xu rửa sạch.
“Y như tôi
vốn có”
Người ta
thường kể lại cách đây nhiều năm, ở Luân-đôn, có một buổi tiếp tân qui tụ một số
quan khách danh giá trong đó có Caesar Milan, một nhà truyền giáo nổi tiếng đương
thời. Có một thiếu phụ đánh đàn và hát rất duyên dáng làm mọi người thật thích
thú. Rất lịch sự, tế nhị, nhưng mạnh dạn, nhà truyền đạo đã đến bên cạnh thiếu
phụ khi tiếng nhạc ngưng và nói: “Được nghe bà đàn đêm nay tôi nghĩ rằng tài năng
của bà nếu đem phụng sự cho chính nghĩa của Chúa Cứu Thế thì công việc của Ngài
sẽ được ích lợi biết bao. Thưa bà, bà biết rằng bà cũng là một người có tội trước
mặt Thượng Đế như một kẻ say rượu nằm dưới mương hay một gái giang hồ trên đường
phố màu hồng. Nhưng tôi xin vui mừng nói để bà rõ rằng huyết của Cứu Chúa
Giê-xu, Con Ngài, có thể rửa sạch mọi tội lỗi”.
Người thiếu
phụ thốt lời trách mắng ông về những lời quá đáng trên và ông đã đáp lại: “Thưa
bà, tôi không có ý làm phật lòng bà. Tôi cầu xin Thánh Linh Thượng Đế thuyết phục
bà”.
Sau buổi họp
mặt mọi người ra về. Nhưng thiếu phụ đó không thể ngủ được. Khuôn mặt nhà truyền
đạo xuất hiện trước mặt nàng và những lời ông nói vang trong trí. Khoảng hai giờ
sáng, nàng chỗi dậy, cầm lấy giấy bút và nước mắt ràn rụa, Charlotte Elliot đã
viết bài thơ nổi tiếng sau đây:
Tuyệt
nhiên không cách chi bào chữa tôi, Chỉ huyết Giê-xu đã đổ thay rồi; Ngài yêu
tôi lắm, hằng khuyên tôi đến, Kính thưa Giê-xu, tôi nguyện đến liền!
Dầu tôi như
thế, Giê-xu thứ tha, Phóng thích, gội sạch, tiếp rước vô nhà; Lời Cha tuyên hứa,
lòng tin quyết tiến, Kính thưa Giê-xu, tôi nguyện đến liền!
Nhưng đây
không phải là chung cuộc. Chúng ta không để cho Chúa Cứu Thế treo trên thập tự
với máu chảy tuôn từ đôi tay, từ hông và bàn chân Ngài. Ngài đã được hạ xuống,
chôn cất cẩn thận trong một ngôi mộ. Cửa mộ được chặn bằng một phiến đá to. Người
ta cắt lính canh mộ. Trọn ngày thứ bảy, các môn đồ Chúa ngồi buồn rầu trong
phòng cao. Hai môn đồ đã ra đi đến làng Em-ma-út (làng nhỏ, cách Giê-ru-sa-lem
chừng 12 cây số. Sau khi sống lại Chúa Giê-xu có xuất hiện cùng hai môn đồ khi
họ đang trên đường đi đến làng này) sự sợ hãi đã bao trùm lấy họ. Sáng sớm ngày
Phục Sinh đầu tiên, Ma-ri, Ma-ri Mặc-lan, và Sa-lô-mê đi đến mộ để ướp xác Chúa
Giê-xu. Khi tới nơi, họ sững sờ vì thấy ngôi mộ bỏ trống. Như học giả Do-thái
Alfred Edershiem viết: “Không có dấu hiệu của sự hấp tấp vội vàng, nhưng tất cả
đều theo thứ tự, để lại cái ấn tượng về Đấng đã vui vẻ từ bỏ những gì không phù
hợp với Ngài”. Một thiên sứ đang đứng nơi đầu mộ hỏi: “Các ngươi tìm ai?” và họ
trả lời: “Chúng tôi tìm Chúa Giê-xu người làng Na-xa-rét”. Thiên sứ liền báo
cho họ biết tin vĩ đại nhất và vinh quang nhất mà con người chưa từng nghe.
“Chúa không còn ở đây. Ngài đã sống lại rồi!”.
Sự kiện
Chúa Phục sinh.
Toàn bộ kế
hoạch của chương trình cứu chuộc của Thượng Đế căn cứ vào sự kiện lớn lao này.
Không có sự sống lại thì không thể có sự cứu rỗi. Chúa Cứu Thế đã tiên đoán nhiều
lần rằng Ngài sẽ sống lại. Có lần Ngài phán: “Như Giô-na đã nằm trong bụng cá
ba ngày ba đêm ta sẽ vào lòng đất ba ngày ba đêm” (Mat 12:40). Đúng như lời tiên
báo, Chúa đã sống lại.
Trong việc
tái lập bất cứ biến cố lịch sử nào cũng có vài qui luật về sự tập trung tài liệu
của những chứng nhân đương thời về biến cố nghiên cứu. Có nhiều bằng chứng về
việc Chúa Giê-xu sống lại từ kẻ chết hơn cuộc đời của nhà vua Julius Caesar hay
cái chết ở tuổi 33 của A-lịch-sơn Đại đế. Điều lạ lùng là nhiều sử gia chịu chấp
nhận hàng ngàn sự kiện mà họ chỉ có thể xuất trình những mẫu bằng chứng nhỏ. Nhưng
trước bằng chứng tỏ tường về sự phục sinh của Chúa Giê-xu, họ lại nhìn hoài
nghi và có thái độ trí thức dè dặt. Vấn đề đối với họ là họ không muốn tin. Căn
cứ vào Kinh Thánh nhãn quan thuộc linh của họ bị mờ ám và họ hoàn toàn có thành
kiến đến nỗi họ không thể chấp nhận sự kiện vinh quang Chúa Cứu Thế đã sống.
Sự sống lại
trước hết có nghĩa là Chúa Cứu Thế là Thượng Đế chân thật. Ngài chính là Đấng
mà Ngài đã tự xưng. Chúa Cứu Thế là Thần hiện thân trong xác thịt.
Thứ nhì, sự
sống lại có nghĩa là Thượng Đế đã chấp nhận công trình cứu chuộc trên thập tự
giá của Chúa Cứu Thế, một điều cần thiết cho sự cứu rỗi của chúng ta. “Chúa Cứu
Thế chịu chết đền tội chúng ta, và sống lại để chứng nhận chúng ta là người
công chính” (Ro 4:25).
Thứ ba, sự
sống lại bảo đảm cho nhân loại về một sự phán xét công bình. “A-đam không vâng
lời Thượng Đế làm cho bao nhiêu người mắc tội; Chúa Cứu Thế vâng lời Thượng Đế
nên vô số người sạch tội” (5:19).
Thứ tư, sự
sống lại cũng bảo đảm rằng thể xác chúng ta cũng sẽ được sống lại trong ngày cuối
cùng. “Nhưng Chúa Cứu Thế thật đã sống lại, Ngài đã sống lại đầu tiên trong
muôn triệu người sẽ sống lại” (ICo 15:20). Kinh Thánh dạy rằng
là Cơ Đốc nhân, thể xác chúng ta có nằm trong mộ địa, nhưng sẽ được cất lên vào
buổi sáng phục sinh vĩ đại, và sự chết sẽ bị nuốt mất trong chiến thắng. Do việc
Chúa Cứu Thế sống lại, nọc độc của sự chết đã mất đi và Chúa Cứu Thế cầm chìa
khóa của sự chết. Ngài phán: “Ta là Đấng sống, Ta đã chết, nhưng nay Ta sống đời
đời giữ chìa khóa cõi chết và âm phủ” (Kh 1:18). Và Ngài hứa: “Vì ta sống
thì các con cũng sẽ sống”.
Thứ năm, sự
sống lại có nghĩa là sự chết bị tiêu diệt. Quyền năng của sự chết đã bị bẻ gãy
và niềm sợ hãi về sự chết không còn nữa. Giờ đây chúng ta có thể nói như tác giả
Thi-thiên: “Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào
vì Chúa ở cùng tôi. Cây trượng và cây gậy của Chúa an ủi tôi” (Thi 23:4).
Phao-lô hướng
về sự chết với niềm hy vọng lớn lao, xem đó là kết quả sự sống lại của Chúa Cứu
Thế, ông nói: “Đối với tôi, hễ còn sống ngày nào là còn cơ hội hiển minh Chúa Cứu
Thế” (Phi 1:21). Như Velma Barfield một tử tội tại Bắc Carolina nói: “Tôi
quá yêu Ngài đến nỗi khó có thể chờ đợi để được gặp Ngài”.
Không có sự
sống lại của Chúa Cứu Thế, sẽ không có hy vọng gì ở tương lai. Kinh Thánh hứa rằng
một ngày kia chúng ta sẽ đối diện với Chúa Cứu Thế Phục Sinh, và chúng ta sẽ có
thể giống như chính Ngài.
Nếu các
con không đổi mới, thành như em bé,
các con sẽ chẳng được vào Nước Trời.
Mat 18:3
các con sẽ chẳng được vào Nước Trời.
Mat 18:3
ĐẾN đây
chúng ta nhận thấy rằng có một nguyên tắc thiên nhiên kéo mình xuống bình diện
thú vật, làm cho lý trí mờ mịt, lương tâm chai lì và ý chí tê liệt. Chính những
hành động của chúng ta kết tội chúng ta.
Thượng Đế
là Đấng Chí Thánh và Công Nghĩa, Ngài không thể dung thứ tội lỗi. Tội lỗi chia
cách con người với Thượng Đế, đem sự thạnh nộ của Thượng Đế giáng trên linh hồn
con người. Vì mất Thượng Đế con người mất ý thức về Ngài trên phương diện đạo đức,
trí tuệ và tâm linh. Con người không gặp được Thượng Đế cho đến khi tìm ra con đường
về với Ngài.
Con đường
quay về với Thượng Đế không phải là con đường trí tuệ, cũng không phải là con đường
đạo đức. Bạn không thể nhờ tư tưởng tìm được Thượng Đế, vì đời sống tư tưởng và
tâm trí xác thịt bạn vẫn chống nghịch Ngài. Bạn không thể biến con đường trở về
với Thượng Đế thành sự thờ phượng, vì con người là kẻ bội nghịch trước mặt Thượng
Đế. Bạn không thể đạo đức hóa con đường trở về với Thượng Đế, vì bản tính con
người bị tội lỗi làm hư hoại.
Con đường
quay về với Thượng Đế.
Câu hỏi tự
nhiên đến với bạn sẽ là - Tôi phải làm gì? Tôi phải bắt đầu từ đâu? Tôi khởi sự
chỗ nào? Đâu là con đường dẫn tôi trở về với Thượng Đế? Chỉ có ‘một con đường’
trở về với Ngài. Chúa Giê-xu phán: “Nếu các con không đổi mới, thành như em bé,
các con sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mat 18:3). Điều có nghĩa Chúa
Giê-xu không bảo trẻ con hãy trở thành môn đệ Ngài, mà dạy rằng các môn đệ Ngài
hãy trở nên như trẻ con. Bằng đức tin như trẻ con, mọi người đều có hy vọng, đi
từ tâm hồn ngây thơ đến thông tuệ trí thức. Như vậy, Chúa Giê-xu đòi hỏi sự biến
cải. Đó là cách phải bắt đầu! Đó là khởi điểm! Bạn phải biến cải.
Có nhiều
người lầm lẫn sự biến cải với sự tuân hành luật pháp. Kinh Thánh dùng những
danh từ đặc biệt để nêu rõ luật pháp của Mai-sen, và mục đích của luật pháp đã được
minh thị. Luật pháp không bao giờ được xem như là một phương thuốc trị bá chứng
đối với những ác tật của thế gian. Trái lại, luật pháp được xem là phương pháp
chẩn đoán ác tật của thế gian, trình bày nguyên nhân của các vấn đề. Luật pháp
không phải là phương cứu chữa. Kinh Thánh chép: “Chúng ta biết mọi điều luật
pháp đòi hỏi đều áp dụng cho những người sống dưới luật pháp, nên chẳng ai có
thể chạy tội, và cả nhân loại sẽ bị Thượng Đế xét xử “ (Ro 3:19). Luật pháp bày tỏ con
người là bất nghĩa, và Kinh Thánh chép: “Chiếu theo luật pháp, chẳng ai được kể
là công chính, vô tội trước mặt Thượng Đế” (3:20). Không thể nào được biến
cải nhờ tuân giữ luật pháp. Kinh Thánh chép: “Vì luật pháp chỉ giúp con người
biết mình có tội”. Luật pháp là tấm gương đạo đức, chỉ kết tội mà không biến cải,
chỉ thách thức mà không thay đổi, chỉ lên án mà không thương xót. Không có sự sống
trong luật pháp. Chỉ có sự chết, vì luật pháp tuyên án: “Ngươi sẽ chết”. Đây là
“thước đo sự ngay thẳng” mà khi đặt bên cạnh nó sự bất chính của bản tánh con
người sẽ nổi bật hẳn lên hết sức rõ ràng.
Nhiều người
nói rằng tôn giáo của họ là Bài Giảng Trên Núi, nhưng chưa hề có một người nào
trên thế gian này sống được một đời sống xứng đáng với Bài Giảng Trên Núi. Kinh
Thánh chép: “Vì mọi người đều phạm tội, không còn phản chiếu vinh quang Thượng Đế”.
Hãy xem
xét lại những động cơ thúc đẩy chính bạn trước khi bạn quả quyết và tiếp tục sống
một cuộc đời không cần biến cải. Hãy can đảm và thành thật nhìn vào chính lòng
mình trước khi nói rằng việc biến cải là cần thiết đối với một số người, còn với
bạn thì chắc chắn không được ích lợi gì.
Vấn đề phổ
quát.
Khi tôi giảng
đạo ở Hollywood, một số người trong giới điện ảnh đã yêu cầu tôi nói cho họ
nghe về những kinh nghiệm tôn giáo. Sau bài giảng của tôi là giờ thảo luận, câu
hỏi đầu tiên nêu lên là: “Sự biến cải là gì?” (conversion: ăn năn quy đạo).
Cách ít
lâu sau, tôi được hân hạnh giảng cho một số lãnh tụ chính trị tại Washington. Đến
lúc bắt đầu thảo luận, câu hỏi đầu tiên nêu lên vẫn là: “Sự biến cải là gì?”
Trong quyển ‘Làm thế nào để được tái sinh’, tôi đã mô tả tiến trình ấy như sau:
Sự tái
sinh xảy ra nhiều cách. Dường như có thể xảy ra suốt một thời gian dài, hoặc chỉ
trong khoảnh khắc. Nẻo đường người ta phải đi qua để đến điểm đó có thể thật
suông sẻ hoặc hết sức vòng vèo. Cho dầu nẻo đường ấy có thể nào đi nữa, chúng
ta luôn luôn thấy có Chúa Giê-xu ở đoạn cuối để đón chúng ta. Và cuộc gặp gỡ với
Chúa Cứu Thế, sự tái sinh là khởi điểm cho cả một con đường mới sống dưới sự hướng
dẫn, kiểm soát của Ngài. Nhiều cuộc đời được biến đổi quan trọng, nhiều cuộc
hôn nhân được cải thiện tạo phấn khởi, nhiều xã hội chịu ảnh hưởng để tốt đẹp hơn
- tất cả chỉ nhờ sự thay đổi đơn giản, đột ngột, có tính cách như vết dầu loang
của những cá nhân biết rõ tái sinh là thế nào.
Trong nền
kinh tế hiện nay, chúng ta được nghe nói về các loại xe “tân trang”, các “mốt mới”,
loại nhựa “tái sinh”, nhưng tôi không đề cập những điều đó ở đây. Có lẽ cách đơn
giản nhất để vạch rõ “được tái sinh” có nghĩa gì, là nói rằng đó là việc một người
được sinh ra trong gia đình Thượng Đế.
Trong hầu
hết các trường đại học mà tôi có dịp hướng dẫn thảo luận, sinh viên vẫn luôn hỏi:
“Sự biến cải có nghĩa gì?”.
Có lẽ câu
hỏi này có nhiều cách trả lời hơn bất cứ câu hỏi nào khác liên hệ đến tôn giáo.
Biến cải là gì? Nó liên hệ đến những gì? Nó xảy ra như thế nào? Hiệu quả của sự
biến cải ra sao? Tại sao bạn phải biến cải mới được vào thiên đàng?
Ý niệm về
sự biến cải hoàn toàn không xa lạ gì ở xã hội chúng ta. Người có tài bán hàng
phải biến cải được ý kiến kẻ khác đối với món hàng đặc biệt hoặc theo lối suy tư
của mình. Phần chính yếu của việc quảng cáo là chuyển đổi ý thích khách hàng từ
hãng này sang hãng khác. Chúng ta nghe nói đến những lãnh tụ chính trị chuyển đổi
triết thuyết chính trị căn bản của họ để thừa nhận một triết thuyết chính trị
khác. Trong thế chiến vừa qua, nhiều mặt hàng kỹ nghệ thời bình đã chuyển sản
xuất, sang hàng phục vụ cho chiến tranh, và trong các gia đình hầu hết các bếp
lò đun bằng dầu đã được cải tiến để nấu bằng than, rồi gần đây, lại được cải tiến
lần nữa để dùng khí đốt. Chúng ta cũng đổi tiền của chúng ta ra tiền ngoại quốc.
Thật ra, từ
ngữ biến cải có nghĩa là “quay lại”, “đổi ý”, “quay về” hay “trở về”. Trong phạm
vi tôn giáo, từ ngữ này được giải thích nhiều cách khác nhau, là “ăn năn”, “tái
sanh”, “tiếp nhận ân phúc”, “từng trải tôn giáo”, hoặc “được vững lòng”.
Tôi còn nhớ
trong một buổi nhóm khai mạc chiến dịch truyền giảng, có một người nghiện rượu
nặng đến nói với tôi: “Thưa ông Graham, tôi không tin chắc mọi lời ông nói có đúng
sự thật hay không, nhưng tôi sẽ thử Chúa Cứu Thế của ông, nếu Ngài tác động
trong tôi đôi chút đúng như ông đã nói, tôi sẽ trở lại để ký tên tin theo Ngài
trọn đời!”
Nhiều tuần
sau, ông ta thuật cho tôi hay rằng ông hoàn toàn không hiểu vì sao cứ mỗi lần
ông bắt đầu uống rượu thì hình như có cái gì đó ngăn cản ông. Chúa Cứu Thế đã
giúp ông ta thắng thói quen xấu xa. Ông trở về với gia đình. Nói cách khác, ông
đã quay lại, đổi hướng, đổi lối suy tư - ông đã biến cải!
Bản tính của
sự biến cải.
Sự biến cải
có nhiều hình thức khác nhau. Phần lớn việc thực hiện tùy thuộc ở cá nhân: sự
quân bình tình cảm, môi trường chung quanh và những điều kiện, cùng nếp sống từ
trước của người đó. Sự biến cải có thể theo sau một cuộc khủng hoảng lớn lao
trong đời sống một người; hoặc xảy ra khi tất cả những giá trị vốn có đã bị
quét sạch, khi đã bị thất vọng sâu xa, khi không tìm thấy được năng lực tinh thần
mặc dù có của cải vật chất đầy đủ, hay bị mất đi đối tượcng tình cảm. Những người
chỉ chú trọng vào tài chánh, công việc làm ăn, hoặc uy tín xã hội, hoặc hết
lòng yêu mến một người, ắt sẽ cảm thấy mất mát ghê gớm khi điều từng làm cho đời
sống mình có ý nghĩa bị phủ nhận.
Trong những
giờ phút bi thảm đó, khi bị mất hết năng lực trần thế, hoặc khi người yêu dấu đã
ra đi không bao giờ trở lại, người ấy nhận thấy mình cô đơn khủng khiếp! Ngay
lúc đó, Đức Thánh Linh có thể làm cho tấm khăn bịt mắt rơi xuống, và lần đầu
tiên, người ấy thấy căn cơ rõ ràng. Người ấy nhận thấy chỉ có Thượng Đế là nguồn
quyền năng duy nhất và là căn nguyên bền bỉ duy nhất của tình yêu thương và
thân hữu.
Hoặc nữa,
sự biến cải có thể xảy ra lúc bạn lên đến tuyệt đỉnh quyền thế hay thịnh vượng,
khi tất cả mọi việc đẹp đẽ và mọi ơn phước tốt lành thương xót của Thượng Đế đầy
dẫy trên bạn. Lòng nhân ái của Thượng Đế có thể khiến bạn nhận biết rằng nhờ
Ngài mà mình có mọi sự; như vậy, chính tấm lòng từ ái của Thượng Đế dẫn dắt bạn
đến sự ăn năn. “Hay anh em coi thường lòng nhân từ, khoan dung, nhẫn nại vô
biên của Chúa, đến nỗi không nhận thấy Ngài nhân từ vì chờ đợi anh em hối cải?”
(Ro 2:4).
Sự biến cải
trong giờ phút đó có thể bất thần và cảm động giống như sự biến cải của Phao-lô
trên con đường đi Đa-mách.
Không phải
tất cả những sự biến cải đều xảy đến đột ngột như một khải tượng chớp nhoáng của
linh hồn, mà chúng ta gọi là sự biến cải trong cơn khủng hoảng. Có nhiều người
chỉ được biến cải sau khi tranh chấp gay go, lâu dài với những động cơ nội tại
của con người. Với một số người thì, sự biến cải xảy ra như cực điểm của một thời
gian dài tiệm tiến trong niềm xác tín về nhu cầu của những người đó và trong sự
khải thị kế hoạch cứu rỗi. Phương thức tiệm tiến này đưa đến việc tiếp nhận
Chúa Cứu Thế làm Cứu Chúa một cách có ý thức và việc hiến dâng đời sống mình
cho Ngài.
Trong phần
tự thuật tiểu sử thuộc linh của mình, C. S. Lewis mô tả từng trải ăn năn quy đạo
của ông như sau:
Bạn phải
hình dung ra cảnh tôi sống cô đơn trong căn phòng tại Magdalen, đêm này sang đêm
khác, cứ mỗi lần để tâm trí mình rời khỏi công việc dầu chỉ trong một giây là cảm
thấy ngay Đấng mà tôi chẳng hề muốn gặp, tiến tới gần mình càng rõ ràng hơn. Điều
mà tôi rất sợ, cuối cùng cũng đã đến với tôi. Trong niên khóa 1929 tại Trường
cao đẳng Trinity tôi đã nhượng bộ, nhận rằng Thượng Đế là Thượng Đế và quỳ gối
cầu nguyện: đêm đó, trong cả nước Anh có lẽ tôi là kẻ ăn năn quy đạo chán chường,
miễn cưỡng nhất. Lúc đó tôi vẫn chưa thấy được điều bây giờ đã trở thành sáng
chói, hiển nhiên nhất: thái độ khiêm hạ của một Thượng Đế khi chịu chấp nhận một
kẻ ăn năn quy đạo trong những điều kiện như thế. Cuối cùng thì đứa con hoang đàng
đã tự nguyện quay bước trở về nhà. Nhưng ai là người có thể tôn thờ đúng mức phần
tình thương sẵn sàng mở rộng các khung cửa lớn cho một đứa con hoang đàng bị đẩy
vào đó, mà còn vùng vằng, chống cự lại, lòng đầy oán hận, với đôi mắt đảo quanh
đủ mọi hướng để tìm một cơ hội thoát thân như vậy? Mấy chữ "ép họ
vào" đã bị những kẻ ác lạm dụng khiến chúng ta rùng mình khi nghe đến chúng;
nhưng nếu được hiêểu đúng, thì chúng đã dò được chiều sâu lòng khoan dung của
Thượng Đế. Sự khó chịu của Thượng Đế vốn dễ chịu hơn cái nhẹ nhàng êm dịu của
loài người, và sự thúc đẩy của Ngài là sự giải phóng cho chúng ta.
Như thế,
có thể nói rằng sự biến cải là một biến cố tức thì, một cơn khủng hoảng mà người
biến cải nhận được sự khải thị rõ ràng về tình yêu thương của Thượng Đế; hay có
thể là sự bày tỏ tiệm tiến và tiếp sau đó là giây phút đỉnh điểm, vượt lằn ranh
từ tối qua sáng, từ sự chết qua sự sống vĩnh cửu.
Sự biến cải
không phải lúc nào cũng xảy ra đúng theo lối đó. Vợ tôi chẳng hạn, nàng không
nhớ đúng ngày giờ nào nàng đã trở thành Cơ Đốc nhân, nhưng nàng biết chắc trong
đời mình đã có một giờ phút như vậy, giờ phút mà nàng thật sự vượt qua lằn mức.
Nhiều người trẻ tuổi, lớn lên trong gia đình Cơ Đốc và được hưởng nền giáo dục
trong đạo Chúa Cứu Thế, không ý thức được mình đã phó thác đời sống cho Ngài
lúc nào. Nhiều người khác nhớ rất rõ thời gian họ công khai xưng nhận đức tin
mình. Những lời tường thuật trong Tân Ước về sự biến cải cho thấy đa số trường
hợp thuộc loại linh động, nhanh chóng.
Biến cải
theo cách nhìn của tâm lý học.
Đã nhiều năm
rồi, khoa tâm lý học không đá động tới sự biến cải và từng trải tôn giáo, nhưng
trong khoảng hai mươi lăm năm gần đây, nhiều nhà tâm lý học đã nghiên cứu vấn đề
biến cải. Họ trình bày rằng sự biến cải không chỉ là một từng trải của tín đồ Cơ
Đốc mà cũng là điều tìm thấy ở các tôn giáo khác, và điều này không nhất thiết
là một hiện tượng tôn giáo, song cũng xảy ra trong các địa hạt phi tôn giáo.
Các sinh viên tâm lý học đã đồng ý rằng sự biến cải có giai đoạn: Thứ nhất, cảm
thấy bối rối, khó chịu; thứ nhì, tuyệt điểm và chuyển hướng; và thứ ba, sự
thanh thản yên nghỉ, vui mừng.
Trong một
bài báo “Tại sao cảm thấy khó chịu lại là tốt”, tờ ‘Nữu-ước thời báo’ (29 tháng
11 năm 1983) vạch rõ: “Ý thức phạm tội, cảm giác âu lo rằng mình bị hụt hẫng,
không đạt được các tiêu chuẩn chính mình đặt ra, là người bảo vệ cho sự tốt
lành thánh thiện của chúng ta. Nó cần thiết cho sự phát triển lương tâm của trẻ
con, và ngăn ngừa cách ăn nết ở chống lại xã hội”. Bài báo giải thích tiếp:
“Trong tuổi ấu thơ, phần lớn cách ăn nết ở tốt là do các bậc làm cha mẹ cưỡng
ép đưa vào bằng nỗi sợ hãi phạm tội, sợ bị trừng phạt hay vi phạm cách ăn ở cư
xử. Nhưng khi đứa trẻ lớn lên, phần ûn ngã lý tưởng“ - hình thức của gương mặt
uy quyền người cha - được tiếp thu như một khuôn mẫu của cách ăn ở cư xử đúng đắn...
và khi trưởng thành, người ta tìm cách tự trừng phạt khi phản bội lại khuôn mẫu
ấy. Bác sĩ Gaylin nhận thấy rằng một trong những nguyên nhân gây nên cách xử sự
thiếu suy nghĩ và đầy tội lỗi càng ngày càng tăng giữa vòng thanh thiếu niên
ngày nay là việc thiếu mất khuôn mẫu hay uy quyền của người cha”. Chính ý thức
phạm tội đó đã tạo ra lòng khao khát một cái gì tốt hơn - mà chúng ta chỉ tìm
thấy trong mối liên hệ phải lẽ với Chúa Cứu Thế mà thôi.
Các nhà
tâm lý nói rằng có hai loại biến cải. Một loại có kèm theo sự cảm biết mãnh liệt
về tội lỗi, và một loại kèm theo sự cảm biết mình bất toàn, cố tranh đấu cho đời
sống được khoáng đạt hơn và một lòng ước ao được khải thị về phần thuộc linh.
Giá trị của những cuộc nghiên cứu biến cải về mặt tâm lý đã bị đánh giá quá thấp.
Chúng ta không thể gạt bỏ qua một bên và không thèm biết đến chúng. Chúng soi
sáng rất nhiều, nhưng ít có cuộc nghiên cứu nào chấp nhận sự hoán cải theo Kinh
Thánh là một kinh nghiệm siêu nhiên.
Thực ra sự
biến cải theo Kinh Thánh gồm ba giai đoạn - hai giai đoạn tích cực và một giai đoạn
tiêu cực. Trong sự biến cải tích cực có sự ăn năn đức tin. Sự ăn năn là sự biến
cải nhìn từ khởi điểm, sự quay lưng lại đối với lối sống cũ. Đức tin cho thấy đối
tượng của sự biến cải, sự quay về với Thượng Đế. Giai đoạn thứ ba, tiêu cực,
chúng ta có thể gọi là sự tái sinh, hoặc sinh lại, nghĩa đen là được sinh ra
trong gia đình của Thượng Đế.
Để được
vào thiên đàng, Chúa Giê-xu phán rằng bạn phải biến cải. Không phải tôi nói -
nhưng chính Chúa Giê-xu đã phán điều đó! Đây không phải ý kiến của con người,
nhưng là ý kiến của Thượng Đế! Chúa Giê-xu phán: “Nếu các con không đổi mới,
thành như em bé, các con sẽ chẳng vào được Nước Trời” (Mat 18:3).
Sự biến cải
thực gồm toàn thể trí tuệ, toàn thể tình cảm, và toàn thể ý chí. Có nhiều người
đã trở lại với Chúa Cứu Thế trên phương diện trí thức. Họ tin toàn bộ Kinh
Thánh. Họ tin mọi điều liên quan đến Chúa Giê-xu, nhưng họ chưa bao giờ thật sự
được biến cải và quay về với Ngài. Kinh Thánh nói: “chính các quỉ cũng tin như
vậy và run sợ” (Gia 2:19).
Chỗ khác
nhau giữa tin bằng trí khôn với biến cải.
Chương thứ
hai, sách Phúc Âm Giăng, có đoạn mô tả việc hằng trăm người theo Chúa Giê-xu
khi Ngài mới bắt đầu thi hành chức vụ. Đoạn này chép rằng “nhiều người tin Chúa
vì thấy các phép lạ Ngài làm. Nhưng Chúa không tin cậy họ vì Ngài biết rõ mọi
người” (Gi 2:23, 24). Tại sao Chúa Giê-xu không tin cậy họ? Vì Ngài
biết rằng họ tin bằng trí óc chứ không phải bằng tấm lòng.
Có sự khác
biệt rất lớn lao giữa sự biến cải bằng trí tuệ và sự biến cải toàn diện để cứu được
linh hồn. Thật vậy, phải có sự biến cải trong cách suy nghĩ và trong sự tiếp nhận
Chúa Cứu Thế bằng trí tuệ của bạn.
Hằng ngàn
hằng vạn người có một từng trải tình cảm theo một trạng thái nào đó mà họ cho
là sự biến cải; nhưng họ không bao giờ thật sự biến cải và quay về với Chúa Cứu
Thế Giê-xu. Ngài đòi hỏi nơi bạn một sự thay đổi trong lối sống - và nếu đời sống
bạn không phù hợp với từng trải, thì bạn có đủ lý do để nghi ngờ từng trải của
mình! Khi đến với Chúa chắc chắn những yếu tố hình thành tình cảm trong bạn sẽ
thay đổi tạo nên tình cảm; sẽ có vấn đề yêu và ghét, vì bạn sẽ bắt đầu ghét tội
lỗi và yêu mến sự công nghĩa. Các tình cảm mến thương của bạn sẽ trải qua một
cuộc cách mạng. Sự cung kính của bạn đối với Chúa sẽ không còn giới hạn nữa.
Lòng yêu mến của bạn đối với Ngài sẽ không sao tả xiết.
Nhưng dù bạn
tiếp nhận Chúa Cứu Thế bằng trí tuệ và được từng trải trong phần tình cảm, cũng
vẫn chưa đủ. Phải có sự biến cải của ý chí! Phải có sự quyết định vâng phục và
tuân theo Chúa Cứu Thế. Ý chí bạn phải uốn nắn theo ý muốn của Thượng Đế. Bản
ngã bạn phải bị đóng đinh vào cây thập tự. Bạn chỉ còn ao ước một điều là làm đẹp
lòng Ngài. Nhiều người trong chúng ta có thể đồng thanh với người phụ nữ đã viết
thư cho chúng tôi liên hệ với các vấn đề ấy rằng “nhưng tôi đã không làm được
việc đó một cách dễ dàng”. Vâng, không hề ai trong chúng ta lại làm được việc ấy
một cách dễ dàng. Ước ao tha thiết nhất của chúng ta phải là làm đẹp lòng Ngài.
Đó là một sự dấn thân trọn vẹn.
Trong sự
biến cải, khi đứng dưới chân thập tự giá, Đức Thánh Linh giúp bạn nhận biết
mình là một tội nhân. Ngài sẽ hướng dẫn đức tin bạn đến với Chúa Giê-xu là Đấng
đã chịu chết thay cho bạn. Bạn phải mở lòng ra mời Ngài ngự vào. Chính lúc đó, Đức
Thánh Linh thực hiện điều kỳ diệu của sự tái sanh. Bạn thật sự trở thành một
loài thọ tạo mới về phần đạo đức. Bản chất thiên thượng được truyền vào bạn. Bạn
trở thành người dự phần vào chính sự sống của Thượng Đế. Nhờ Thánh Linh của Thượng
Đế, Chúa Giê-xu ngự trị trong lòng bạn.
Sự biến cải
rất giản dị đến nỗi một em bé cũng có thể được biến cải, nhưng cũng rất sâu nhiệm
đến nỗi suốt cả lịch sử, nhiều nhà thần học đã phải cân nhắc ý sâu nhiệm của
nó. Thượng Đế đã khiến cho con đường cứu rỗi rõ ràng đến nỗi “ai đi trong đường
đó, dầu khờ dại, cũng không lầm lạc” (Es 35:8). Chẳng ai vì thiếu khả
năng hiểu biết mà bị ngăn cản không được vào Nước của Thượng Đế. Người giàu và
người nghèo, người thông minh tinh tế cũng như người giản dị chất phác - tất cả
đều có thể biến cải.
Tóm lại, sự
biến cải có ý nghĩa đơn giản là “thay đổi”. Khi một người đã biến cải, người ấy
có thể tiếp tục yêu thích những vật mình từng yêu thích trước kia, nhưng các lý
do yêu thích sẽ thay đổi. Một người đã biến cải có thể từ bỏ những vật mình từng
yêu thích, có thể đoạn tuyệt những mối giao thiệp trần tục, không phải vì ghét
bỏ bạn hữu mình, vì phần đông những người đó vẫn là những người đoan chính, khả
ái, song vì cớ có nhiều điều hấp dẫn hơn đối với người ấy trong mối tương giao
nơi tín hữu Cơ Đốc cùng một tâm chí.
Người được
biến cải sẽ yêu những điều trước kia mình ghét, và ghét những điều trước kia
mình yêu. Thậm chí lòng họ đối với Thượng Đế cũng thay đổi. Trước kia, họ không
nghĩ đến Thượng Đế, luôn luôn sống trong sự sợ hãi, khủng khiếp và chống nghịch
Ngài, nhưng bây giờ ở trong trạng thái hoàn toàn tôn trọng, tin cậy, phục tùng
và sùng kính Ngài! Họ sẽ kính sợ Thượng Đế, luôn luôn biết ơn Ngài, tin cậy,
tùy thuộc Ngài, và có lòng trung thành mới mẻ đối với Ngài. Trước khi sự biến cải
xảy ra có thể họ chỉ chăm thỏa mãn xác thịt. Đeo đuổi về văn hóa và trí thức hoặc
sự làm giàu đã chiếm địa vị tối ưu tiên, cao cả trong đời sống họ. Giờ đây, họ
quan tâm đến điều công nghĩa, lòng thánh thiện, và đời sống Cơ Đốc hơn tất cả mọi
sự, vì đối với họ, chỉ có một điều thật sự quan trọng làm đẹp lòng Chúa Cứu Thế.
Nói cách khác, biến cải là sự thay đổi hoàn toàn trong đời sống một cá nhân.
Một trường
hợp biến cải.
Tôi nhớ rất
rõ có một thiếu nữ tại New York đã đến Los Angeles để làm lễ thành hôn. Nàng và
vị hôn phu đã gặp nhau khi cùng làm việc tại một hãng quảng cáo có nhiều uy tín
ở New York, và mối tình giữa hai người được bắt đầu trong bối cảnh của những cuộc
tiếp tân và tại các hộp đêm. Với tham vọng “tiến thân” chàng xin chuyển qua một
chi nhánh ở tiểu bang California và hy vọng sáu tháng sau, nàng sẽ theo mình để
làm lễ cưới.
Sau khi đến
Los Angeles với niềm ao ước được sống cuộc đời mới mẻ vui tươi, độ một tuần lễ,
nàng khám phá ra chàng đã say mê một tiểu minh tinh màn bạc, và không đủ can đảm
viết thơ cho nàng biết sự việc ấy trước khi nàng rời New York!
Thế là
nàng lâm vào tình trạng cô đơn giữa một thành phố không người quen biết - mọi
chương trình sắp đặt tiêu tan, lòng kiêu hãnh bị chà đạp và tương lai thăm thẳm
trước mặt, nhạt nhòa và trống rỗng. Gia đình nàng không theo đạo và trong giờ
phút cấp thiết tột độ, nàng không biết quay về đâu để tìm sự an ủi, khuyên bảo
hay chỉ dẫn.
Trong khi
lê chân trên những đường phố xa lạ, cố đè nén niềm tủi hờn và xúc động, nàng tới
nơi chúng tôi cắm trại để truyền giảng Phúc Âm. Nàng nói rằng không biết điều
gì đã khiến nàng đặt chân đến đó; nhưng nàng đã rẽ vào và ngồi âu sầu trong suốt
buổi nhóm. Đêm sau nàng lại đến, và cứ thế suốt cả tuần lễ, tới khi xuyên qua cụm
mây cay đắng, sầu khổ bao bọc lấy nàng, Thượng Đế cho nàng nghe tiếng phán của
Ngài và nàng đã bước lên tiếp nhận ơn cứu rỗi.
Nhờ đức
tin trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, gánh nặng của sự phạm tội và chối bỏ được cất đi,
nàng đã lần lần cảm thấy tình yêu của mình đã mất chỉ là nấc thang đưa tới một
tình yêu lớn lao, phong phú hơn bội phần. Nàng không còn cảm thấy tủi nhục vì
phải trở về New York làm công việc cũ; lúc trở về, thay cho cuộc đời tan vỡ
nàng đã tìm thấy cuộc đời phong phú hơn trước. Trong Hội thánh nàng rất hoạt động,
chớ chẳng còn phí đầu óc và khả năng tổ chức của mình vào những cuộc tiếp tân bất
tận.
Trước kia
nàng dùng sáng kiến để giải trí cho “nhân viên trong sở” giờ đây, nàng sử dụng
nó để làm sống động các truyện trong Kinh Thánh cho giới trẻ. Trước kia nàng được
huấn luyện để gây cơ sở tài chánh bây giờ, khả năng ấy để hầu việc Chúa một
cách có lợi. Vị mục sư của nàng đã nói rằng các ý kiến nàng rất có giá trị
trong việc tăng số người nhóm họp tại nhà thờ. Thay vì bị từ bỏ và ruồng rẫy,
nàng luôn luôn được các hội viên Hội thánh tìm đến để nhờ cậy. Nhưng điều quan
trọng hơn hết, cảm giác cô đơn đã biến mất, vì giờ đây nàng biết Chúa Cứu Thế
Giê-xu luôn luôn bên cạnh, sẵn sàng an ủi, hướng dẫn và bảo vệ nàng.
Tất cả mọi
điều đó là kết quả do sự biến cải của nàng - tức là xây khỏi con đường thế gian
ảm đạm, trống rỗng, trần tục vô phước mà nàng đã đi bấy lâu - để quay về với
Chúa Giê-xu, là Chúa và Chúa Cứu Thế của nàng! Nàng đã tìm được bình an trong
Chúa.
Thiên đàng
sẽ vui mừng vì một tội nhân ăn năn quay về Thượng Đế,
hơn chín mươi chín người công chính không cần phải ăn năn.
Lu 15:7
hơn chín mươi chín người công chính không cần phải ăn năn.
Lu 15:7
CHÚNG ta
thấy Chúa Giê-xu đòi hỏi người ta phải biến cải; và biết rằng ba yếu tố của biến
cải là ăn năn, tin nhận và tái sanh. Vấn đề có thể tranh luận là ba yếu tố này
xảy ra theo thứ tự nào, nhưng nói chung người ta đồng ý rằng có lẽ cả ba xảy ra
cùng một lúc. Dù ý thức hay không ý thức, ba yếu tố này cũng xảy ra đồng thời
chính lúc ta biến cải.
Nếu có thể
dùng một từ ngữ để mô tả sự ăn năn, tôi sẽ dùng chữ từ bỏ. Bạn sẽ hỏi: “Từ bỏ
gì?” Câu trả lời có thể gồm trong một danh từ - “tội lỗi”. Như đã thấy, Kinh
Thánh dạy rằng tội lỗi là sự vi phạm luật pháp. Tội lỗi là không phục tùng quyền
hành của Thượng Đế và chối bỏ tất cả bổn phận đối với Ngài. Tội lỗi là nguyên tắc
xấu xa đã xâm phạm vườn Ê-đen lúc A-đam cùng Ê-va bị cám dỗ và sa ngã. Từ lúc xảy
ra tai họa trong vườn Ê-đen, nọc độc của ác tật đã ảnh hưởng trên cả nhân loại,
đến nỗi “mọi người đều phạm tội” và “chẳng có một người nào công chính dù chỉ một
người thôi”. Tội lỗi đã hủy diệt mối tương giao giữa chúng ta với Thượng Đế; do
đó, làm rối loạn sự tương giao giữa chúng ta với nhau và cả với chính mình nữa.
Chúng ta
không thể sống bình an với Thượng Đế, hoặc bình an giữa chúng ta với nhau trên đời,
hoặc bình an trong lòng, cho đến khi đã giải quyết xong tội lỗi là “điều gớm
ghiếc mà Thượng Đế ghét bỏ”. Chẳng những chúng ta phải từ bỏ tội lỗi, nhưng còn
phải từ bỏ’ ‘các tội lỗi nữa. Chúng ta phải từ bỏ thế gian, xác thịt và ma quỉ.
Không thể nào chấp nhận sự thương thuyết, điều đình, thỏa hiệp, hay do dự. Chúa
Cứu Thế đòi hỏi sự từ bỏ tuyệt đối.
Ăn năn và Đức
tin.
Đến đây, yếu
tố tình yêu lại liên hệ vào vấn đề, vì khi hoàn toàn và tuyệt đối kính mến Chúa
Giê-xu, bạn chẳng bao giờ muốn làm những điều Ngài khinh ghét. Một khi đầu phục
Chúa Giê-xu bằng đức tin, tự nhiên bạn sẽ từ bỏ tất cả những tội lỗi của đời sống
mình. Do đó, ăn năn và tin nhận đi đôi với nhau. Bạn không thể nào ăn năn thực
sự mà không có đức tin cứu rỗi và không thể có đức tin cứu rỗi nếu không thật ăn
năn.
Danh từ ăn
năn ngày nay đã vắng bóng cách đáng buồn trên các tòa giảng. Đó là một danh từ
không phổ thông một chút nào. Bài giảng đầu tiên của Chúa Giê-xu là: “Hãy ăn năn
tội lỗi, quay về Thượng Đế, vì Nước Trời gần đến” (Mat 4:17). Đó là điều Thượng Đế
phán qua Con Ngài. Chúa Giê-xu đã đến với tấm lòng tràn đầy tình yêu và sự thương
xót, nhưng việc đầu tiên là Ngài cảnh cáo mạnh mẽ về sự vấp phạm và tội lỗi con
người. Ngài kêu gọi con người nhận thức tội lỗi của mình và từ bỏ thái độ bất
kính. Ngài phán rằng phải ăn năn trước khi tiếp nhận tình yêu, ân điển và sự thương
xót của Ngài. Chúa Giê-xu không chịu bào chữa cho tội ác. Ngài nhấn mạnh rằng
người ta phải tự xét mình, dứt khoát quay lại và phải có một thái độ mới mẻ trước
khi Ngài bày tỏ tình yêu của Thượng Đế.
Một ngày
kia, có người đến với Chúa Giê-xu và thuật cho Ngài hay rằng một số người
Ga-li-lê (miền đất phía Bắc nước Do-thái> nổi loạn, bị quân La-mã đàn áp và
Phi-lát đã lấy huyết của họđem trộn với của lễ. Họ cũng thuật việc một cái tháp
ở Si-lô-ê (vùng đất trũng trong thành Giê-ru-sa-lem, gần cung điện của vua xứ
Do-thái) bị sụp đổ đè chết nhiều người. Để trả lời, Chúa Giê-xu tuyên bố: “Anh
em tưởng mấy người đó bị giết vì phạm tội nặng hơn những người Ga-li-lê khác
sao? Không đâu! chính anh em cũng bị hư vong nếu không ăn năn tội lỗi, quay về
Thượng Đế” (Lu 13:3). Nói cách khác, Chúa Giê-xu phán rằng dù con người có chết
bởi bạo lực, tai nạn hay tự nhiên, thì số phận của họ cũng như nhau, trừ phi họ
ăn năn và quay về với Thượng Đế. Nếu chẳng ăn năn, tuyệt nhiên không thể nào
tin nhận được. Sự ăn năn không giới hạn nhưng mở đường cho ân điển của Thượng Đế
Ăn năn và
Ân sủng của Thượng Đế.
Chúng ta
biết rằng sự cứu rỗi căn cứ hoàn toàn trên ân điển của Thượng Đế. Chúng ta thấy
rằng những của lễ, các nghi thức và việc làm theo luật pháp không hề cứu rỗi được
một linh hồn nào cả. Kinh Thánh chép rằng không có ai nhờ luật pháp mà được xưng
công bình trước mặt Thượng Đế. Kinh Thánh chép: “Người công chính sẽ sống bởi đức
tin” (Ro 1:17). Sự cứu rỗi, tha thứ và xưng công bình hoàn toàn dựa trên
công trình cứu chuộc của Chúa Cứu Thế. Tuy nhiên, muốn cho sự hy sinh của Chúa
Cứu Thế trên thập tự giá có công hiệu đối với mọi cá nhân không phân biệt lứa
tuổi, cá nhân ấy phải ăn năn tội lỗi và tiếp nhận Chúa Cứu Thế bằng đức tin.
Giô-na đã
rao giảng về sự ăn năn tại thành Ni-ni-ve, cho đến khi dân thành này hối cải.
Ê-xê-chi-ên (vừa là thầy tế lễ, vừa là nhà tiên tri, ông có kiến thức và đức độ
hơn người rao giảng về sự ăn năn khi ông nói: “Vậy nếu Thượng Đế nói rằng: Hỡi
nhà Do-thái, ta sẽ đoán xét các ngươi mỗi người theo việc làm của nó. Hãy trở lại
và xây bỏ mọi sự phạm pháp của các ngươi, vậy thì sự gian ác sẽ không trở nên cớ
hư nát cho các ngươi” (Exe 18:30).
Khi Giăng
Báp-tít (người rao giảng về sự ăn năn để sửa soạn cho chức vụ của Chúa Giê-xu.
Ông còn là người làm báp-tem cho Chúa Giê-xu theo lời yêu cầu của Ngài) giảng:
“Phải ăn năn tội lỗi, trở về với Thượng Đế, vì Nước Trời gần đến” (Mat 3:2), thì sứ điệp của ông cũng
là ăn năn.
Tân Ước
chép bảy mươi lần về sự ăn năn. Chúa Giê-xu phán: “Anh em cũng sẽ bị hư vong nếu
không chịu ăn năn”. Bài giảng của Phê-rơ trong ngày lễ Ngũ-tuần là: “Anh em phải
hối cải, mỗi người phải nhơn danh Chúa Giê-xu chịu báp-tem để được tha tội” (Cong 2:38). Phao-lô đã rao giảng
về sự ăn năn khi nói rằng: “Tôi kêu gọi cả người Do-thái lẫn người Hy-lạp ăn năn
quay về Thượng Đế và tin cậy Chúa Cứu Thế Giê-xu là Chúa chúng ta” (20:21). Kinh Thánh chép rằng
Thượng Đế truyền lệnh cho loài người phải ăn năn: “Nhưng bây giờ Chúa truyền
cho mọi người khắp thế giới phải ăn năn thờ phượng Ngài” (17:30). Đó là một mạng lệnh,
cần phải tuân phục. Ngài phán “Hãy ăn năn, bằng không, sẽ bị hư mất!” Bạn đã ăn
năn chưa? Bạn có biết chắc mình đã ăn năn chăng?
Trong Kinh
Thánh, có nhiều thí dụ về ăn năn giả. Chẳng hạn như Pha-ra-ôn từng bảo với dân
Y-sơ-ra-ên, khi họ đang tìm cách rời bỏ xứ Ai-cập để vào đất hứa, rằng: “Trẫm đã
phạm tội... ” (Xu 9:27). Rõ ràng, đây chỉ là một cách nói tỏ lòng hối tiếc vì bị lương
tâm cắn rứt, chớ không nói lên sự ăn năn thật. Sau-lơ cũng làm như vậy
trong ISa 15:24, 30 và 26:21. Nhưng khi vua Đa-vít
nói với nhà tiên tri Na-than: “Ta đã phạm tội... ” trong IISa 12:13 và 20:10, 17, thì ông đã thật lòng ăn
năn (Thi 51:1-19).
Chúa
Giê-xu định nghĩa sự ăn năn.
Chúa
Giê-xu dùng danh từ ăn năn với ý nghĩa gì? Tại sao danh từ ăn năn được lặp đi lặp
lại nhiều lần trong suốt Kinh Thánh? Nếu tra tự điển, bạn sẽ thấy ăn năn nghĩa
là “cảm thấy buồn rầu, hay hối tiếc”. Nhưng theo nguyên văn Hy-lạp và cổ
Do-thái mà Chúa Giê-xu đã dùng, thì ăn năn có nghĩa là “thay đổi hoặc quay lại”.
Đó là một danh từ về quyền năng và hành động, hàm ý một cuộc cách mạng toàn diện
diễn ra trong con người. Khi Kinh Thánh kêu gọi chúng ta ăn năn tội lỗi, điều đó
nghĩa là chúng ta phải xây bỏ tội lỗi, phải quay lưng lại đi ngược chiều với tội
lỗi và tất cả những gì tội lỗi hàm chứa.
Chúa
Giê-xu kể chuyện về người con trai hoang đàng để linh động hóa điều Ngài muốn
bày tỏ qua chữ ăn năn. Khi người con trai hoang đàng đã ăn năn, chàng ta không
chỉ ngồi yên và hối hận về tất cả tội lỗi mình. Chàng ta không phải là một phần
tử thụ động mềm yếu. Chàng không ở nguyên chỗ cũ với đàn lợn xung quanh. Chàng đã
đứng dậy ra đi, quay gót về phía khác. Chàng tìm về với cha, hạ mình xuống trước
mặt cha, rồi nhận lấy phần thưởng của cha ban.
Ngày nay
có rất nhiều Cơ Đốc nhân không nhìn thấy ý nghĩa của Kinh Thánh dành cho danh từ
ăn năn. Họ nghĩ rằng sự ăn năn chẳng qua là lắc đầu trước tội lỗi mình đã phạm
và nói: “Chà! Tôi rất lấy làm tiếc đã hành động như vậy!”. Rồi cứ tiếp tục sống
y như trước.
Sự ăn năn
thật có nghĩa là “thay đổi, quay lại, đi theo hướng mới”. Trong quá trình ăn năn,
hối tiếc chưa đủ. Giu-đa (một môn đồ của Chúa Giê-xu, người đã phản Chúa>đã
tỏ ra hối hận và buồn rầu nhưng không bao giờ ăn năn. Ngay cả sự sửa đổi, cải
thiện cũng không đủ. Dù bạn có áp dụng cực hình nào cho cơ thể hay thử thách
nào cho trí óc, điều đó cũng không thể làm cho Thượng Đế toàn năng vui lòng.
Trên thập tự giá, Chúa Cứu Thế đã chuộc tội cho chúng ta. Tại đó, Ngài đã gánh
lấy hình phạt của tội lỗi. Không một đau khổ nào mà chúng ta chịu đựng có thể dẫn
chúng ta đến sự ăn năn.
Ăn năn
không phải chỉ là xúc động.
Khi đề cập
sự ăn năn, tôi không nói đến hạng người than khóc (những người khóc mướn) ngày
xưa. Nhiều người dạy rằng muốn ăn năn bạn phải than khóc trong một thời gian nhất
định mới nhận được ơn cứu rỗi. Một vị kia kể cho tôi nghe về đêm ông ta gặp
Chúa Cứu Thế cách đây vài năm, trong một buổi giảng Phúc Âm nơi lều trại dựng
theo lối cổ, ông đã tiến lên phía trước. Trong lúc quì gối trước bàn thờ để tìm
kiếm Thượng Đế, có một nữ tín hữu đến nói: “Ông ơi hãy bền chí! Nếu ông muốn gặp
Chúa hãy nắm chặt lấy Ngài!” Vài phút sau, một viên chấp sự đến vỗ vai ông và
nói “Anh ơi, đừng gắng sức!”. Mấy phút sau, một nữ tín hữu khác đến nói: “Cái đêm
tôi ăn năn tin Chúa, có một luồng ánh sáng chói lòa chiếu thẳng vào mặt tôi làm
tôi lạnh người”. Rồi ông ta kể tiếp: “Tôi vừa cố buông tha, vừa nắm chặt, vừa
tìm kiếm ánh sáng nhưng trong cơn hoang mang ấy, tôi hầu như không bao giờ đạt
tới mục đích”.
Một nhà
lãnh đạo Cơ Đốc rất thông thái, có lần nói với tôi rằng lúc ông biến cải, thì vị
mục sư và hội chúng chờ đợi ông biểu lộ xúc động; và chính sự chờ đợi đó hầu như
ngăn trở ông đến cùng Thượng Đế.
Trong một
vài cuộc nhóm phục hưng, xúc cảm giả tạo đã ngăn trở nhiều linh hồn thành thật
tìm kiếm Chúa. Nhưng loại ăn năn mà tôi đề cập đến đây là sự ăn năn thật theo
Kinh Thánh dạy, liên hệ đến ba yếu tố: trí tuệ, tình cảm và ý chí.
Ba phương
diện của sự ăn năn.
Trước hết,
phải có một ý thức về tội lỗi. Kinh Thánh phán: “Vì mọi người đều đã phạm tội,
không phản chiếu vinh quang Thượng Đế” (Ro 3:23). Khi tiên tri Ê-sa nhận
biết tội mình, ông nói: “Khốn nạn cho tôi!... Vì tôi là người có môi dơ dáy” (Es 6:5). Khi Gióp biết chắc
mình là một người tội lỗi, ông nói: “Tôi lấy làm gớm ghê tôi” (Giop 42:6). Khi Phê-rơ nhìn nhận
tội lỗi, ông nói: “Con là người có tội lỗi” (Lu 5:8). Khi Phao-lô biết mình
có tội, ông tự xưng mình là “nặng tội nhất” (ITi 1:15).
Chính
Thánh Linh làm cho người ta nhìn nhận tội lỗi. Đúng hơn, sự ăn năn không thể xảy
ra trừ phi trước hết có sự tác động của Thánh Linh vào lòng và trí. Thánh Linh
có thể dùng những lời cầu nguyện của một bà mẹ, bài giảng của mục sư, chương
trình phát thanh Cơ Đốc, hình ảnh tháp chuông nhà thờ, hoặc sự qua đời của người
yêu dấu, để đem lại sự nhìn nhận tội lỗi cần thiết đó. Tuy nhiên, trong vài buổi
truyền giảng Phúc Âm, tôi đã thấy nhiều người đứng run rẩy vì nhận biết tội lỗi,
song vẫn không ăn năn tội lỗi. Có thể nhìn nhận tội lỗi, biết mình là tội nhân,
thậm chí khóc lóc về tội lỗi mình nữa, nhưng vẫn không ăn năn.
Thứ nhì,
trong sự ăn năn có tình cảm, cũng như trong mọi từng trải chân thật khác.
Phao-lô nói rằng sự buồn rầu theo ý Thượng Đế sanh ra sự hối cải. Có người đã
nói: “Nhiều người không thích những sự xúc động và vài nhà phê bình hoài nghi sự
thành thật của những trường hợp trở lại đạo không có vẻ bình thản. Xúc cảm sai
lạc rất nguy hiểm, không hiệu quả gì, song chẳng vì cớ đó mà loại bỏ tình cảm
chân thành và xúc động sâu xa”.
Tấn sĩ W.
E. Sangster, một nhà truyền đạo danh tiếng thuộc Hội thánh Giám lý nước Anh, đã
viết trong tác phẩm ‘Tôi Xin Giao Phó’(Let Me Commend) như sau: “Người nào hò
hét trong trận túc cầu hay dã cầu, mà lại thất vọng khi nghe một người tội lỗi
khóc trước thập tự giá và phàn nàn về những sự nguy hiểm của xúc cảm, thì chẳng
đáng được kính trọng bao nhiêu”.
Có lần
Horace Walpole tố cáo John Wesley, vì ông đã tỏ ra cảm động cách không đẹp mắt
lắm trong khi truyền giảng, thế nhưng Wesley đã đưa hàng ngàn người trở lại với
Thượng Đế.
Thứ ba, sự
ăn năn liên hệ đến ý chí.
Chỉ khi
nào luận đến ý chí, thì chúng ta mới đạt đến tâm điểm của sự ăn năn. Phải có
quyết định từ bỏ tội lỗi - thay đổi thái độ đối với bản ngã, đối với tội lỗi,
và đối với Thượng Đế; thay đổi cảm nghĩ, ý chí, khuynh hướng và mục đích của
mình.
Chỉ Thánh
Linh của Thượng Đế mới có thể ban cho bạn quyết định cần thiết để ăn năn thật. Ăn
năn không phải như lời cô bé kia cầu nguyện: “Xin Chúa khiến cho con trở nên
ngoan ngoãn, nhưng ngoan ngoãn đủ để khỏi bị đòn”.
Có hằng trăm
hằng ngàn người ghi tên mình trong danh sách thuộc viên Hội Thánh. Họ chỉ đến
nhà thờ khi thuận tiện. Họ dâng tiền cho Hội thánh và yểm trợ mọi hoạt động của
Hội thánh. Họ bắt tay vị mục sư sau giờ thờ phượng và khen ngợi bài giảng của
ông. Họ có thể sử dụng ngôn ngữ của người Cơ đốc và nhiều người còn thuộc lòng
khá nhiều câu Kinh Thánh, nhưng thật ra họ chưa bao giờ từng trải sự ăn năn thật.
Đối với đạo, họ có một thái độ “hờ hững”. Khi gặp khó khăn họ tìm đến với Thượng
Đế và cầu nguyện; song những lúc khác, họ chẳng quan tâm đến Ngài bao nhiêu.
Kinh Thánh dạy rằng khi một người đến với Chúa Cứu Thế, thì có một sự biến đổi
xảy ra và sự biến đổi ấy phản ánh trong đời sống, trong mọi việc người làm.
Ăn năn đòi
hỏi đầu phục.
Trong Kinh
Thánh không có một câu nào dạy rằng bạn có thể trở thành một Cơ Đốc nhân và sống
theo bất cứ lối sống nào bạn muốn. Khi Chúa Cứu Thế ngự vào lòng người nào,
Ngài đòi hỏi phải tôn Ngài làm Chúa và làm Chủ. Ngài đòi hỏi sự vâng phục trọn
vẹn. Ngài đòi kiểm soát mọi hành động trí tuệ của bạn. Ngài đòi hỏi thân thể bạn
thuận phục Ngài và chỉ một mình Ngài mà thôi. Ngài đòi hỏi những tài ba và khả
năng của bạn. Ngài đòi hỏi bạn phải nhân danh Ngài trong mọi việc.
Ngày nay,
có nhiều người tự nhận là tín đồ Chúa Cứu Thế, nhưng sẵn sàng không đi nhà thờ
dễ dàng hơn phải bỏ ý định mua một tủ lạnh mới. Nếu họ được chọn lựa hoặc trả
góp mua một chiếc xe hơi mới, hoặc đóng góp tiền xây cất một Trường Chúa Nhật mới,
ta có thể đoán trước được cách dễ dàng quyết định của nhiều người cách dễ dàng.
Hàng ngàn người mang danh là Cơ Đốc nhân đã đặt vấn đề tiền bạc và vật chất lên
trên những điều dạy dỗ của Chúa Cứu Thế. Chúng ta có thể dành thì giờ đi coi
chiếu bóng, đá banh, hoặc tranh giải, nhưng không thể dành thì giờ cho Thượng Đế.
Chúng ta để dành tiền mua một món đồ mới hay một máy vô tuyến truyền hình lớn hơn,
nhưng cảm thấy không thể tiếp tục dâng một phần mười huê lợi cho công việc
Chúa. Đó là một sự tôn thờ hình tượng.
Phải có sự
thay đổi! Chúng ta lên án những người ngoại đạo và những kẻ thờ hình tượng theo
lối xưa, song điều khác biệt duy nhất là những thần tượng của chúng ta lại chế
bằng thép mạ kền sáng bóng có máy điều hòa nhiệt độ, chớ không có mắt nạm ngọc
thạch! Thay vì làm bằng vàng, mặt các hình tượng chúng ta được bọc bằng chất
men sứ xài bền cả đời dễ lau chùi; và chúng ta thờ lạy nó cùng một cách và cảm
thấy không có nó thì mình chẳng sống được. Chúng ta đã đến chỗ thờ lạy các đồ vật,
địa vị, danh tiếng, tiền bạc, sự an toàn. Bất cứ điều gì ngăn cách giữa chúng
ta với Thượng Đế, đều là thần tượng.
Chúa
Giê-xu đòi hỏi quyền làm chủ mọi vật đó. Ngài muốn bạn dâng hiến cho Ngài mọi sự,
liên quan đến đời sống xã hội, đời sống gia đình và đời sống kinh doanh của bạn.
Ngài phải chiếm hàng đầu trong mọi việc bạn làm, hoặc nghĩ, hoặc nói, vì khi bạn
ăn năn, bạn hướng về Thượng Đế trong mọi việc.
Chúa
Giê-xu cảnh cáo rằng Ngài sẽ không tiếp nhận chúng ta vào Nước Ngài cho đến khi
chúng ta sẵn sàng từ bỏ mọi sự, cho đến khi chúng ta sẵn sàng xây bỏ tất cả tội
lỗi trong đời sống mình. Chớ thử làm nửa chừng. Chớ nói: “Tôi sẽ từ bỏ tội lỗi
này và giữ lại tội lỗi kia. Tôi sẽ sống một phần cho Chúa Giê-xu, một phần cho
những ham muốn của mình”. Chúa Giê-xu đòi hỏi chúng ta đầu phục Ngài một trăm
phần trăm, và khi thực hiện được điều đó, Ngài sẽ ban thưởng gấp ngàn lần. Nhưng
đừng trông mong Chúa Giê-xu ban thưởng năm trăm phần trăm vì bạn vâng phục năm
mươi phần trăm! Thượng Đế không thực hiện phép lạ của Ngài theo cách đó! Ngài đòi
hỏi một sự thay đổi toàn diện, một sự đầu phục trọn vẹn. Khi bạn đã quyết định
từ bỏ tội lỗi, và phó dâng mọi sự cho Chúa Cứu Thế, bạn đã bước thêm bước nữa
trong việc tìm bình an trong Thượng Đế.
Tên trộm cướp
ăn năn trên thập tự giá đã thưa với Chúa Giê-xu: “Thưa Chúa... xin nhớ đến con”
(Lu 23:42). Người ấy dùng chữ “Chúa” hàm ý mình hoàn toàn và thật sự ăn
năn quy đạo. Đó là kết quả của sự ăn năn thật.
Vậy anh em
được cứu nhờ ân phúc Thượng Đế, do đức tin nơi Chúa Cứu Thế.
Sự cứu rỗi là tặng phẩm của Thượng Đế, chớ không do anh em tự tạo.
Không phải là kết quả của công đức anh em, nên chẳng ai có thể khoe khoang.
Eph 2:8, 9
Sự cứu rỗi là tặng phẩm của Thượng Đế, chớ không do anh em tự tạo.
Không phải là kết quả của công đức anh em, nên chẳng ai có thể khoe khoang.
Eph 2:8, 9
CHÚNG ta đã
sẵn sàng đi bước kế tiếp trong việc tìm kiếm bình an trong Chúa. Bạn sẵn sàng từ
bỏ quá khứ và tội lỗi của mình. Bạn đã quyết định phải có sự thay đổi trong đời
sống mình. Bạn không còn xa cách Thượng Đế nữa, nhưng tiến tới để hưởng tình
yêu mến, sự thương xót cùng sự che chở của Ngài. Bạn đã quyết định, đã lựa lối đi,
đã ăn năn, đã chọn con đường chánh đáng, mặc dầu con đường này có vẻ khó khăn.
Bạn đã chọn lấy con đường mà Mai-sen đi cách đây gần ba ngàn năm, khi ông từ bỏ
quyền kế vị vua nước Ai-cập và quyết định theo Thượng Đế!
Mai-sen được
bốn mươi tuổi khi ông thực hiện quyết định lớn lao đó, khi ông kết luận rằng đức
tin và chân lý kèm theo thống khổ và gian nan là tốt đẹp hơn sự giàu có, danh vọng
mà thiếu tình yêu của Thượng Đế. Trong lịch sử, ít có người được kêu gọi để thực
hiện một quyết định khó khăn hơn trường hợp của ông.
Một con người
của đức tin.
Mai-sen là
người học thức, giàu sang, được tôn trọng. Là con trai của công chúa Pha-ra-ôn,
ông quen hưởng mọi danh dự, xa hoa, đặc quyền. Ngai vàng xứ Ai-cập giàu nhất, mạnh
nhất và huy hoàng kỳ diệu nhất thời bấy giờ, ở trong tầm tay ông.
Nhưng,
Kinh Thánh chép rằng: “Bởi đức tin, khi đã khôn lớn, Mai-sen từ bỏ địa vị hoàng
tử Ai-cập, tình nguyện cùng chịu áp bức với dân Chúa hơn là hưởng thụ cảnh giàu
sang tội lỗi. Mai-sen xem sự sỉ nhục vì Chúa Cứu Thế cao quý hơn châu ngọc Ai-cập,
vì ông trông đợi Chúa ban thưởng. Bởi đức tin, Mai-sen bỏ nước Ai-cập ra đi,
không sợ nhà vua thù hận, vì ông đứng vững như thấy Chúa vô hình” (He 11:24-27). Khúc sách này nói về
Mai-sen sau bốn mươi năm ông sống trong đồng vắng với Thượng Đế - chớ không phải
là chàng thanh niên hung hăng đã giết người rồi chạy trốn Pha-ra-ôn vì lo sợ
cho mạng sống mình.
Xin chú ý,
Kinh Thánh chép rằng Mai-sen đã “từ bỏ“ và “bỏ”. Những từ ngữ này chứng tỏ một
sự ăn năn thật. Kinh Thánh lại chép, ông làm như thế “bởi đức tin!”. Đó là bước
tiếp theo. Mai-sen đã quyết định điều đó không phải trong một trường hợp cảm
xúc hiển nhiên mà một số nhà tâm lý học cho là cần thiết trong từng trải tôn
giáo. Ông không bị sự bất mãn thúc đẩy. Không phải ông hoàn toàn không xứng đáng
với địa vị của mình, hoặc không được thỏa mãn dục vọng. Ông không chọn lấy con đường
của Thượng Đế để bù đắp vào những hạnh phước vì cho rằng mình đã bị thu hồi và
cướp đoạt, ông cũng không vì buồn chán và hận đời mà xây qua đời sống tôn giáo.
Ông không thiếu những trò hào hứng, giải trí và thú vui.
Một trường
hợp tự chọn.
Trong trường
hợp của Mai-sen, không có lý do nào như trên hay những lý do nào khác mà người
ta thường nêu ra để chứng minh sự tìm kiếm Thượng Đế được xem là có giá trị.
Ông không bị buộc phải chạy trốn bản tánh xác thịt và ma quỉ. Ông đã tự ý làm
như thế. Mai-sen chắc chắn chẳng phải là một người có tinh thần hay ý chí yếu đuối.
Ông không phải là một đứa bé bám lấy sự an toàn của một trật tự có sẵn. Ông
không phải là một kẻ vô danh tiểu tốt muốn tìm danh vọng và uy tín. Ông không
phải là người mà kẻ nhạo báng tôn giáo nói rằng phải là hạng người ấy thì mới cảm
thấy cần sự cứu rỗi. Mai-sen có rất nhiều điều những người đó không có; nhưng
do trí phán đoán chín chắn của tuổi thanh xuân, ông xây bỏ cảnh giàu có, địa vị
và sự quí chuộng để chọn lấy đức tin nơi Thượng Đế.
Mỗi lần
nghe nói chỉ những người vô vọng, bất tài, không hòa mình được với cuộc đời mới
cần được tôn giáo an ủi, tôi lại nghĩ đến Mai-sen.
Tôi đã được
vinh hạnh nói chuyện với hàng trăm ngàn người về những vấn đề liên quan đến đời
sống thiêng liêng của họ. Tôi nhận thấy sở dĩ những người ấy lý luận đủ để cách
từ chối Chúa Cứu Thế làm Chúa và Chủ của mình, không phải vì họ thấy giáo lý Cơ
Đốc giáo đáng ghét trên phương diện tri thức, song vì muốn tránh những trách
nhiệm và bổn phận mà đời sống Cơ Đốc đòi hỏi nơi họ. Chính tấm lòng yếu đuối của
họ chớ không phải trí năng thông sáng đã ngăn cách họ với Chúa Cứu Thế. Họ
không chịu đầu phục Chúa Cứu Thế và phó dâng mọi sự cho Ngài.
Điều lý
thú đáng ghi nhận là hai nhân vật đã được Thượng Đế đại dụng hơn hết trong Kinh
Thánh (một vị trong Cựu Ước và một vị trong Tân Ước) đều có trình độ học vấn
uyên bác, đó là Mai-sen và Phao-lô. Mai-sen đã rất thận trọng nhận định những đòi
hỏi và bổn phận tôn giáo. Ông nhận thức rằng muốn nắm lấy Thượng Đế, phải hy
sinh những gì mà người ta thường coi là quí báu nhất. Ông không xem xét vội
vàng. Ông không có những kết luận nửa vời vì bị thúc đẩy đột ngột hay phản ứng
của xúc cảm. Ông biết mình đang gặp khó khăn đến mức nào, và ông đi tới quyết định
sau khi vận dụng đầy đủ năng lực tối ưu của tinh thần đã được huấn luyện hẳn
hòi. Sự lựa chọn cuối cùng của ông không mang tính chất một cuộc thử nghiệm tạm
thời. Ông không lấy đức tin làm biện pháp thử nghiệm. Sự lựa chọn của ông là một
thái độ xác tín nghiêm túc với mục đích không đổi dời, một sự xác tín không bị
những biến cố hay thử thách lâu dài lay chuyển. Ông đã cẩn thận thiêu đốt những
chiếc cầu và đánh đắm những con thuyền có thể giúp ông rút lui. Tám mươi tuổi, đến
bước ngoặc quan trọng, Mai-sen đã phó mình trọn vẹn cho Thượng Đế, phục tùng
các mạng lệnh Ngài bất cứ lúc nào và bất cứ cảnh ngộ nào.
Quyết định
của Mai-sen khác hẳn của sử gia trứ danh Gamaliel Bradford, lúc gần qua đời, đã
nói: “Tôi không dám đọc Tân Ước vì sợ khêu gợi lên một cơn bão tố lo phiền,
nghi ngờ và sợ hãi, vì đã đi sai đường, đã phản bội Thượng Đế hiển nhiên”.
Mai-sen
không sợ hãi như vậy. Bạn cũng thế, sẽ chẳng phải lo sợ gì nếu bạn thật lòng bởi
đức tin quay về với Chúa Cứu Thế, ngay bây giờ và mãi mãi. Đừng quay về với
Ngài và nói: “Tôi sẽ thử theo Cơ Đốc giáo ít lâu. Nếu có kết quả tốt, tôi sẽ tiếp
tục, bằng không, tôi vẫn còn thì giờ để chọn một lối sống khác”. Khi đến với
Chúa Cứu Thế, bạn phải đốt hết mọi chiếc cầu phía sau và không bao giờ nghĩ là
sẽ quay trở lại.
‘Lên thuyền
để quay trở lại.’
Cách đây
nhiều năm, khi ngọn cờ phượng hoàng hùng dũng của quân đội La-mã rủ bóng đe dọa
toàn thế giới, hoàng đế La-mã đã kéo những binh đoàn chiến sĩ gan lì lên đường
chinh phục Anh quốc. Khi thấy chiến thuyền địch xuất hiện ở chân trời, hằng
ngàn dân Anh đã can đảm tập trung tại các đồi cao để bảo vệ quê hương. Họ hoàn
toàn ngơ ngác vì khi đổ bộ, việc đầu tiên quân La-mã làm là đốt hết chiến thuyền.
Khi các chiến thuyền đã bị thiêu hủy thì phương tiện duy nhất để các chiến sĩ
anh dũng đó rút lui đã bị cắt đứt. Với tinh thần cương quyết ấy, làm sao quân
La-mã có thể thất bại trong công cuộc chinh phục được! Thảo nào ngôi làng nhỏ
bé trên bờ sông Tibre đã làm bá chủ cả thế giới!
Cũng một
thể ấy, Chúa Cứu Thế đòi hỏi sự đầu phục và phó dâng tuyệt đối. “Chúa Giê-xu
phán rằng: ai đã tra tay cầm cày, còn ngó lại đằng sau, thì không xứng đáng với
Nước của Thượng Đế” (Lu 9:62).
Đứng trước
ngã rẽ cuộc đời, Mai-sen đã thực hiện một quyết định rúng động linh hồn. Trí
phán đoán minh mẫn của ông đã cân nhắc mọi sự kiện ảnh hưởng đến quyết định của
mình. Ông đã nhìn cẩn thận và sâu xa đến tận cuối mỗi con đường. Ông xem xét tất
cả lợi hại rồi mới quyết định đặt lòng trông cậy và đức tin nơi Thượng Đế.
Mai-sen đốt
hết những chiếc cầu.
Trước hết,
ông nhìn con đường rộng rãi và sáng láng đầy thế lực và xa hoa, vui thỏa và rượu
chè, dồi dào những điều thế gian cho là khoái lạc. Đó là con đường quen thuộc
mà ông biết rất rõ. Ông từng đi con đường ấy suốt bốn mươi năm và biết rằng cuối
cùng, nó sẽ đưa tới hủy diệt và dẫn đến địa ngục mà thôi.
Rồi
Mai-sen lại nhìn xem con đường kia, con đường hẹp hòi, khó khăn hơn. Ông thấy đau
khổ, buồn phiền, tủi nhục và thất vọng. Ông thấy những khó khăn và thử thách,
những buồn rầu và đau đớn, nhưng bởi đức tin ông cũng thấy những chiến thắng và
phần thưởng của sự sống vĩnh cửu.
Một người
kém suy xét và ít kinh nghiệm hơn Mai-sen, có thể bị cám dỗ đi vào con đường thứ
nhất. Ai-cập lúc bấy giờ là một đại cường quốc vào bậc nhất thế giới. Quốc gia
này kiểm soát lưu vực sông Nile phì nhiêu, là vựa lúa của thế giới. Quân đội
Ai-cập bách chiến bách thắng, các trường kỹ thuật và đại học đang đặt những nền
móng cho những thế kỷ sau noi theo.
Ít người
trong chúng ta bị đòi hỏi phải từ bỏ nhiều điều vì cớ Thượng Đế như Mai-sen. Ít
người trong chúng ta từng gặp nhiều cám dỗ dưới những hình thức khác nhau như vậy.
Ít người trong chúng ta có những lạc thú trần gian như vậy bày ra trước mặt
mình, và Kinh Thánh cũng nhìn nhận rằng trong tội lỗi có sự vui sướng, dầu chỉ
là tạm bợ. Thú vui qua mau và khi tỉnh dậy, ta chẳng thư thái chút nào.
Chọn lựa
Thượng Đế, Mai-sen đã hy sinh rất nhiều, nhưng ông cũng đã hưởng được một phần
thưởng vĩ đại. Đương thời Mai-sen, ít có người đại phú và thật ít người có cơ hội
như ông để trở thành kẻ giàu nhất thế giới.
Của cải trần
gian.
Ngày nay,
nhiều người có thể tích lũy những gia tài khổng lồ. Năm 1923 (khi có nhiều người
chủ trương tập trung tư bản) một nhóm các nhà tài chánh thành công nhất thế giới
đã họp nhau tại khách sạn Edgewater Beach ở Chicago. Dù tuổi họ chưa đến ba mươi,
cuộc hội họp đó đã phô trương sự giàu sang và thế lực quá mức. Cùng ngồi quanh
bàn với nhau có Chủ Tịch Công ty Thép lớn nhất thế giới, Chủ Tịch Công Ty Tín dụng
lớn nhất, Nhà Buôn lúa mì giàu nhất, Chủ Tịch Ngân Hàng Chứng Khoán Nữa Ước,
Nhân viên trong Nội các của Tổng Thống Mỹ, Chủ tịch Ngân Hàng Giao Dịch Quốc Tế,
người được coi là thương gia lớn nhất khu Wall Street; và một người khác nữa điều
khiển một công ty độc quyền lớn mạnh nhất thế giới. Tổng cộng tài sản của những
người đó nhiều hơn Ngân Khố Hoa-Kỳ! Thành tích về đời sống của họ được phổ biến
rộng rãi vì rất hấp dẫn mỗi học sinh. Họ là những mẫu người mà nhiều người khác
cố bắt chước. Họ là những người khổng lồ của nền tài chánh và kỹ nghệ Mỹ quốc!
Năm 1923,
thành tích được phổ biến rộng rãi về đời sống họ thật rất hấp dẫn và hào hứng.
Nó kích thích trí tưởng tượng, xúi giục lòng ganh ghét và gợi hứng cho những người
khác để cố gắng mong được như họ! Nhưng năm 1923, tiểu sử cuộc đời của họ chỉ mới
được phân nửa - những chương kết thúc chưa viết xong.
Lúc những
người này ngồi trong khách sạn tại Chicago, đời sống cá nhân của họ đang ở vào địa
vị mà Mai-sen đã trải qua khi đứng trước ngã ba đường. Những người này cũng thế,
họ đang ở ngã ba và trước mặt mỗi người có hai con đường. Hai con đường đó có lẽ
vô hình đối với họ, và họ cũng không lưu tâm tới. Chắc hẳn đó là con đường họ
không chọn lựa và đến nay thì tiểu sử của họ đã viết xong. Ngày nay, chúng ta
biết được những chương kết thúc. Chúng ta có thể ôn lại đời sống họ cũng như ôn
lại đời sống Mai-sen, và xem thử đời sống nào có vẻ khôn ngoan nhất và tốt đẹp
nhất.
Charles
Schwab, Chủ Tịch Công ty Thép, trong những ngày cuối đời mình, phải vay mượn tiền
bạc mà sống, và lúc chết không một xu dính túi. Arthur Cutten, nhà đầu cơ tích
trữ lúa mì lớn nhất đã vỡ nợ và chết ở hải ngoại. Richard Whitney, Chủ Tịch
Ngân hàng Chứng Khoán Nữu-Ước đã thọ hình tại nhà giam Sing Sing. Albert Paul,
nhân viên Nội các, được phép chết tại nhà thay vì trong khám đường. Jesse
Livermore, “con gấu” của khu tài phiệt Wall Street; Leon Frazer, Chủ tịch Ngân
Hàng Giao Dịch Quốc Tế và Ivon Kreuger, cầm đầu tổ chức độc quyền lớn nhất thế
giới, đều tự sát!
Những người
này đều có tiền bạc, thế lực, danh vọng, uy tín, óc thông minh và học thức - nhưng
tất cả đều thiếu một đặc tính làm cho đời sống có được ý nghĩa và mục đích chân
chánh. Họ thiếu đặc tính duy nhất quan yếu của giáo điều và phẩm cách Cơ Đốc tức
là đặc tính làm cho họ biến cải và thật được tái sanh. Họ đã từ chối không chịu
tin! Hãy so sánh cuộc đời họ với đời sống của các giáo sĩ đã từ bỏ tất cả để
noi theo Chúa Cứu Thế. Rất có thể họ chết đi trong đau đớn và không một xu dính
túi, nhưng họ đã chết cho một điều gì đó!
Những người
này không có đức tin, hoặc nếu có thì họ đã không hành động theo đức tin. Nếu họ
chịu xem đức tin nơi Chúa Cứu Thế là một trong những kho tàng quí giá thì những
chương cuối cùng của đời họ sẽ khác biết bao.
Mai-sen đã
quay lưng lại với của cải trần gian.
Hãy để ý
là: Bởi đức tin, Mai-sen đã từ bỏ sự giàu sang của Ai-cập. Chính đức tin đã khiến
ông biết rằng dù phải chịu đau khổ vì thiếu thốn và tủi nhục trong suốt quãng đời
còn lại trên thế gian, cuối cùng, ông sẽ nhận được phần ban thưởng lớn nhất - sự
sống vĩnh cửu.
Những người
như Cutten và Schwab có lẽ đã cho Mai-sen là khờ dại. Có lẽ họ đã nói: “Một con
chim nắm trong tay có giá trị hơn hai con chim trong bụi”. Có lẽ họ đã lên tiếng:
“Này, ông thừa biết mình có những gì tại Ai-cập. Một người có đầu óc như ông thừa
biết mình có thể làm gì để vận dụng sản nghiệp và quyền lực đó. Cứ đánh ván bài
là Ai-cập sẽ kiểm soát thế giới. Ông có thể loại tất cả những nước kém hơn. Ông
có thể tiêu diệt tất cả những kẻ cạnh tranh và điều hành mọi việc theo đường lối
mình”. Đó là điều họ có thể nói, vì đó là đường lối suy nghĩ, hoạt động, và là
cách mà nhiều người trong bọn họ đã tích lũy sản nghiệp mình. Họ sẽ cười người
nào nói rằng mình tin Thượng Đế hoặc mình có đức tin nơi Chúa Cứu Thế. Họ có thể
nói: “Đức tin không phải là một dịch vụ tốt, chẳng phải là khôn ngoan”.
Kinh Thánh
dạy rằng đức tin là con đường duy nhất để đến gần Thượng Đế. “Vì người đến gần
Thượng Đế, phải tin Ngài có thật, và Ngài luôn tưởng thưởng xứng đáng cho người
tìm cầu Ngài” (He 11:6b). Kinh Thánh cũng dạy rằng đức tin làm đẹp ý Thượng Đế hơn
bất cứ điều gì khác. “Người không có đức tin không thể nào hài lòng Thượng Đế”
(He 11:6a).
Khắp thế
giới, người ta tự hành hạ thân xác, mặc quần áo kỳ lạ, làm cho thân thể biến dạng,
tự chối bỏ những nhu cầu của đời sống, dành nhiều thì giờ vào sự cầu nguyện và
hy sinh, nỗ lực làm cho Thượng Đế nhìn thấy và chấp nhận họ. Tất cả những điều đó
có thể rất tốt đẹp, nhưng điều lớn lao nhất chúng ta có thể làm để đẹp lòng Thượng
Đế chính là tin Ngài.
Tôi có thể
đến nhà một người bạn và khen ngợi người đó, nhưng nếu sau mọi lời hoa mỹ, tôi
lại bảo rằng tôi không tin tưởng anh ấy, thì mọi lời nói trước sẽ vô hiệu. Tôi
chỉ đưa bạn tôi lên cao rồi hất xuống.
Điều thiết
yếu là tin
Phương
pháp cao đẹp nhất chúng ta có thể làm đẹp ý Thượng Đế chính là tin Lời Ngài.
Lúc Chúa Cứu Thế phán: “Các con phải tin ta ở trong Cha và Cha ở trong ta. Nếu
không, các con hãy tin công việc ta” (Gi 14:11), Ngài như có vẻ nài nỉ
những người nghe Ngài giảng dạy phải có đức tin.
Kinh Thánh
tuyên bố rằng đức tin là điều tuyệt đối quan trọng. Bạn sẽ hỏi: “Nếu đức tin
quan trọng như vậy, thì đức tin là gì? Đức tin có nghĩa gì? Định nghĩa đức tin
ra sao? Làm sao có thể biết được là tôi có đức tin đúng đắn? Tôi phải tin đến mức
nào?”
Xin chờ một
phút - xin đừng hỏi nhiều câu cùng một lúc! Tôi sẽ cố trả lời những câu hỏi
trên cách tuần tự.
Kinh Thánh
nhiều lần dạy rằng chúng ta được cứu rỗi chỉ nhờ đức tin mà thôi:
“Tin Chúa
Cứu Thế Giê-xu, thì ông và cả nhà ông sẽ được cứu” (Cong 16:31).
“Tất cả những
người tiếp nhận Chúa đều được quyền làm con cái Thượng Đế - tiếp nhận Chúa là đặt
niềm tin nơi Chúa” (Gi 1:12).
“Ai tin
Chúa Cứu Thế đều được tha thứ tất cả tội lỗi và được Chúa thừa nhận là người
công chính” (Cong 13:39).
“Còn người
không làm việc, nhưng tin Thượng Đế có quyền tha tội cho mình, người ấy hưởng
ân huệ và được kể là công chính nhờ đức tin” (Ro 4:5).
“Vậy, nhờ đức
tin chúng ta được kể là công chính, qua trung gian Chúa Cứu Thế Giê-xu" (5:1).
“Nhưng ta
chẳng bao giờ rút lui, bỏ cuộc, để rồi bị hủy diệt. Trái lại, ta giữ vững đức
tin để linh hồn được cứu rỗi” (He 10:39).
“Vậy anh
em được cứu nhờ ân phúc Thượng Đế, do đức tin nơi Chúa Cứu Thế. Đây là một tặng
phẩm của Thượng Đế, chớ không do anh em” (Eph 2:8).
Thực chất
của đức tin.
Chúng ta
có thật được cứu rỗi bởi đức tin chăng? Không, chúng ta được cứu bởi ân điển,
nhờ đức tin. Đức tin chỉ là môi giới, nhờ đó chúng ta nhận được ân điển của Thượng
Đế ban cho. Đức tin là bàn tay giơ ra nhận lấy tặng vật của tình yêu Ngài.
Trong He 11:1, chúng ta đọc: “Đức tin là thực thể của những điều ta hy vọng,
là bằng chứng của những việc ta chưa thấy”. Weymouth đã diễn dịch câu trên như
sau cho dễ hiểu hơn: “Vả, đức tin là sự biết chắc điều mình đang hy vọng, một sự
tin quyết ở thực tại của những điều chúng ta không trông thấy”. Theo nguyên văn
Hy-lạp, đức tin nghĩa là: “quy hàng, đầu phục, hoặc phó thác”. Đức tin là tin cậy
hoàn toàn.
Tôi chưa
bao giờ đến Bắc cực, tuy nhiên tôi tin rằng có một nơi gọi là Bắc cực. Làm sao
tôi biết được? Tôi biết vì có người nói với tôi. Tôi đã đọc về Bắc cực trong một
sách lịch sử, đã thấy bản đồ Bắc cực trong một sách địa lý, và tôi tin những người
viết sách đó. Tôi chấp nhận kiến thức đó bởi đức tin.
Kinh Thánh
dạy rằng: “Người ta tin Chúa nhờ nghe giảng và họ nghe khi đạo Chúa được công bố”
(Ro 10:17). Chúng ta tin những điều Thượng Đế đã phán về sự cứu rỗi.
Chúng ta tiếp nhận những điều đó không thắc mắc.
Martin
Luther (nhà lãnh đạo phong trào Cải Chánh, chống lại Giáo hội Công giáo La-mã
(1483-1546) đã dịch thơ Hy-bá chương 11 câu 17 như sau: “Vì người (Mai-sen) níu
lấy Đấng mình không thấy, dường như đã thấy Ngài vậy”.
Đức tin
không phải là một đức tính riêng biệt hay mầu nhiệm chúng ta cố đạt tới. Chúa
Giê-xu phán chúng ta phải trở nên như trẻ con, và trẻ con tin cậy cha mẹ chúng
thế nào thì chúng ta cũng tin cậy Thượng Đế như vậy.
Ví dụ, tôi
đang lái xe hơi với tốc độ 80 cây số một giờ, và lên tới đỉnh đồi. Tôi có cần lập
tức thắng xe, ngừng lại và bước ra, nhìn xem con đường có còn tiếp tục không?
Không, tôi sẽ chẳng làm thế. Tôi sẽ tin tưởng vào Ty Công Chánh địa phương. Tôi
sẽ tiếp tục cuộc hành trình với một tốc độ bình thường, vững tin vì biết rằng
con đường sẽ tiếp tục mãi, mặc dù tôi không thấy trước. Tôi chấp nhận điều này
bởi đức tin. Đức tin cứu rỗi trong Chúa Cứu Thế cũng thế!
Ba phương
diện của đức tin.
Ở đây, cũng
như trong sự ăn năn, đức tin gồm ba điểm. Trước hết, phải biết những điều Thượng
Đế đã phán. Đó là lý do tại sao việc đọc Kinh Thánh là điều rất quan trọng đối
với bạn; tại sao sự hiểu biết về những điều Kinh Thánh dạy dỗ liên hệ đến sự cứu
rỗi linh hồn là điều thiết yếu cho bạn. Biết mình là tội nhân và biết rằng Chúa
Cứu Thế đã chịu chết vì mình, là đủ rồi. Biết được sách Giăng, chương 3 câu 16:
“Vì Thượng Đế yêu thương nhân loại, đến nỗi hy sinh Con Một của Ngài, để tất cả
những người tin nhận Con Thượng Đế đều không bị hư vong nhưng được sự sống vĩnh
viễn”, thì đủ rồi. Có nhiều người chưa biết tới trình độ đó cũng đã được biến cải
rồi. Nhưng đối với vấn đề như vậy, bạn biết càng rõ càng tốt, và chỉ có cuốn
sách duy nhất để học biết về sự cứu rỗi là Kinh Thánh!
Có nhiều
người nói: “Tôi không hiểu mấy về Kinh Thánh, nên tôi không cố đọc”. Đó không
phải là một thái độ khôn ngoan. Trong Kinh Thánh có nhiều điều tôi không hiểu.
Trí óc hữu hạn của tôi không bao giờ hiểu được tất cả về sự vô hạn. Tôi không
thấu đáo về vô tuyến truyền hình, nhưng tôi không từ khước vặn máy vô tuyến
truyền hình. Tôi chấp nhận điều này bằng đức tin.
Nhưng Thượng
Đế không đòi hỏi chúng ta làm một điều quá sức mình. Về vấn đề biến cải, Ngài
không đòi hỏi bạn phải nhảy vào bóng tối. Đức tin nơi Chúa Cứu Thế được dựa
trên bằng chứng hiển nhiên nhất thế giới là Kinh Thánh. Dù không hiểu biết Kinh
Thánh, bạn vẫn có thể tiếp nhận giá trị biểu kiến của những điều đó, vì Thượng Đế
đã phán như vậy. Một trong những cuộc tấn công đầu tiên của ma quỉ đối với con
người là làm cho con người nghi ngờ Lời của Thượng Đế: “Mà chi, Thượng Đế há có
phán?” (Sa 3:1). Nếu bạn bắt đầu nghi ngờ và đặt dấu hỏi về lời Kinh
Thánh, thì bạn đang gặp khó khăn. Phải biết rằng bạn là kẻ có tội. Phải biết rằng
Chúa Cứu Thế đã chịu chết vì tội lỗi của bạn, và Ngài đã sống lại để xưng công
nghĩa cho bạn. Sự chết, sự chôn và sống lại của Chúa Cứu Thế Giê-xu là trọng
tâm của Phúc Âm. Tin và nhận thực sự ấy là điều kiện tối thiểu để được biến cải.
Thứ nhì,
tình cảm cũng liên hệ trong đức tin. Kinh Thánh chép: “Sự kính sợ Thượng Đế là
khởi đầu sự tri thức” (Ch 1:7) Phao-lô nói: “Do tình yêu thương của
Chúa Cứu Thế cảm thúc chúng tôi” (IICo 5:14). Mong ước, yêu thương,
kính sợ đều là tình cảm. Không thể tách rời tình cảm khỏi đời sống con người.
Không có người thông minh nào dám phát biểu: “Hãy vứt bỏ hết tình cảm đi”. Gạt
bỏ cá tánh khỏi tình cảm sâu xa là một điều không thể hình dung. Chúng ta không
thể tưởng tượng được đời sống mà không có những nét ấm áp của tình cảm. Hãy tưởng
tượng chúng ta có một gia đình, trong đó mọi người chỉ hành động với một ý thức
bổn phận lạnh lùng. Hãy tưởng tượng là tôi xin kết hôn với vợ tôi sau khi tôi mở
đầu giải thích rằng tôi không có cảm tình gì hết với nàng.
Tấn sĩ
Sangster nói: “Hãy áp dụng cùng một nguyên tắc trên cho tôn giáo. Bạn đòi hỏi sứ
giả của Thượng Đế tuyên cáo sắc chỉ của Vua là tha thứ vô điều kiện và ban phước
dư dật, nhưng bạn ngăn cấm không cho phép có một sự hân hoan đi đôi với việc
loan báo tin mừng đó hay sự vui vẻ tiếp nhận những tin tức ấy, thì bạn đòi hỏi
một điều không thể có”.
Một cuộc
tranh đấu mãnh liệt trong tâm tư sẽ xảy ra. Trong từng trải tôn giáo, tình cảm
có thể thay đổi khác nhau. Dù kềm chế hay biểu lộthì tình cảm vẫn luôn luôn có đó.
Trong trận
thế chiến thứ hai, khi Churchill đọc những bài diễn văn tuyệt tác cho dân chúng
Anh, ông kêu gọi họ bằng lý luận, nhưng đồng thời, ông cũng làm cho thính giả cảm
xúc. Tôi nhớ có lần nghe ông diễn thuyết tại Glasgow. Không những ông kích
thích những tế bào của trí não tôi, nhưng tôi còn cảm thấy như mình đang đứng
reo hò và phất cờ! Khi bạn yêu mến Chúa Giê-xu, tình cảm của bạn sẽ phải bị khuấy
động lên.
Thứ ba, và
quan trọng hơn hết, là ý chí. Vấn đề này giống như ba chàng tí hon - người thứ
nhất là “Trí tuệ”, người thứ nhì là “Tình cảm” và người thứ ba là “Ý chí”. Trí
tuệ nói rằng Phúc Âm hợp lý. Tình cảm tạo áp lực trên ý chí và nói “Tôi cảm thấy
kính mến Chúa Cứu Thế” hoặc “Tôi cảm thấy lo sợ sự phán xét”. Rồi người môi giới
là ý chí làm trọng tài. Chàng ngồi đó, tay chống cằm, trầm tư mặc tưởng, cố gắng
quyết định. Sự thật chính “ý chí” mới thực hiện quyết định tối hậu và lâu dài.
Có người có thể có được niềm xác tín của trí tuệ và cảm xúc của tình cảm, nhưng
người ấy vẫn chưa thật biến cải trở lại cùng Chúa Cứu Thế. Đức tin có chân. “Đức
tin thiếu hành động là đức tin chết” (Gia 2:20).
Một tấm gương
về đức tin.
Cách đây
vài năm, tôi nghe nói có một người đẩy một chiếc xe cút-kít qua lại dòng thác
Niagara trên một sợi dây cáp. Hằng ngàn người gào thét lên để tán thưởng ông
ta. Ông ta chất một bao đất nặng gần một tạ đẩy qua rồi đẩy lại. Kế đó, quay về
phía đám đông, ông ta hỏi: “Cóbao nhiêu người trong quý vị tin là tôi có thể đưa
một người qua thác bằng cách này không?”
Mọi người đều
hoan hô! Có một người đứng ở hàng đầu tỏ vẻ rất hăng hái tin tưởng. Ông ta chỉ
vào người đó và nói: “Sau chuyến này, mời anh!”
Người đó lẩn
đi ngay, không ai thấy đâu cả! Sự thực người đó không có lòng tin. Anh ta nói rằng
mình tin và cũng tưởng rằng mình tin - nhưng không chịu ngồi vào chiếc xe
cút-kít.
Đối với
Chúa Cứu Thế cũng vậy. Có rất nhiều người nói rằng mình tin Ngài, theo Ngài, nhưng
họ không bao giờ “ngồi vào chiếc xe cút-kít của Ngài”. Thật ra họ chưa hoàn
toàn phó thác mình cho Chúa Cứu Thế Giê-xu và đầu phục Ngài một trăm phần trăm.
Có nhiều
người hỏi: “Thế thì, cần phải có đức tin tới mức nào?” Chúa Giê-xu phán rằng chỉ
cần có đức tin bằng “hạt cải”.
Kẻ khác lại
hỏi: “Phải có loại đức tin nào?”. Đây chẳng phải là vấn đề loại đức tin đặc biệt
nào cả. Thật sự chỉ có một thứ đức tin. Đối tượng của đức tin mới đáng kể. Đối
tượng đức tin của bạn là gì? Đối tượng đức tin của bạn phải là Chúa Cứu Thế.
Không phải là đức tin nơi nghi thức, nơi của lễ, nơi đạo đức, nơi chính mình mà
là nơi Chúa Cứu Thế!
Đến đây
Kinh Thánh dạy rằng đức tin tự biểu lộ bằng ba cách. Đức tin biểu lộ trong giáo
lý - tức là điều bạn tin. Đức tin biểu lộ trong sự thờ thượng - tức là mối tương
giao của bạn với Thượng Đế và với Hội thánh. Đức tin biểu lộ trong hành vi đạo đức
- tức là trong lối sống và tác phong của bạn mà chúng ta sẽ thảo luận trong những
chương khác.
Kinh Thánh
cũng dạy rằng đức tin không chấm dứt với sự tin cậy Chúa Cứu Thế để được cứu rỗi.
Đức tin cứ tiếp tục. Đức tin tăng trưởng. Ban đầu đức tin có thể yếu kém, nhưng
sẽ trở nên lớn mạnh khi bạn bắt đầu đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, đi nhà thờ, và
từng trải sự thành tín của Thượng Đế trong đời sống Cơ Đốc của bạn. Sau khi ăn
năn tội lỗi và tiếp nhận Cứu Chúa Giê-xu bởi đức tin, bạn phải nhờ cậy Ngài gìn
giữ, nâng đỡ mình, bổ sức và ban khả năng cho mình. Càng ngày bạn sẽ càng học
biết nương cậy nơi Chúa Cứu Thế để được thỏa mãn mọi nhu cầu, đối phó với mọi
hoàn cảnh, mọi thử thách. Bạn sẽ học tập đồng thanh Phao-lô mà nói rằng: “Tôi đã
bị đóng đinh vào cây thập tự với Chúa Cứu Thế; hiện nay tôi sống không phải là
tôi sống nữa, nhưng Chúa Cứu Thế sống trong tôi. Những ngày còn sống trong thể
xác, tôi sống do niềm tin vào Con Thượng Đế. Ngài đã yêu thương tôi và dâng hiến
mạng sống Ngài vì tôi” (Ga 2:20).
Có đức tin
vào Chúa Cứu Thế Giê-xu để được cứu, bạn đã bước thêm một bước trong việc tìm
bình an trong Thượng Đế.
Nếu không
tái sinh, không ai thấy được Nước Chúa.
Gi 3:3
Gi 3:3
GIÁ như
tôi đến nhà bạn nói chuyện tâm tình, chắc bạn sẽ quay sang tôi và thú nhận rằng:
“Tôi đang bối rối, xao xuyến, không biết nghĩ sao. Tôi đã vi phạm luật pháp Thượng
Đế, đã sống trái với điều răn của Ngài, đã tưởng rằng mình chẳng cần Ngài giúp đỡ.
Tôi cố gắng sống theo luật lệ riêng của mình nhưng thất bại. Những bài học đắng
cay mà tôi lãnh hội đều đến từ những từng trải đau khổ và bi thảm. Ước gì tôi được
sanh lại! Ước gì tôi có thể quay trở về và bắt đầu mọi sự - Nếu được, tôi sẽ đi
con đường khác hơn biết bao!”
Nếu những
lời này đánh trúng tâm tư bạn, nếu nó là dư âm của tư tưởng đang diễn biến
trong tâm trí bạn, thì tôi xin báo cho bạn biết một tin tức tốt lành. Chúa
Giê-xu phán rằng bạn có thể được sanh lại mới. Bạn có thể bắt đầu tốt đẹp hơn,
theo như mình đã cầu xin. Bạn có thể từ bỏ cái tôi đáng khinh ghét và tội lỗi,
và bước đi như một người mới, trong sạch, bình an vì đã được tẩy sạch hết tội lỗi.
Một lối
thoát.
Quá khứ của
bạn dù dơ bẩn đến đâu đi nữa, vẫn có một lối thoát. Một lối thoát chắc chắn, an
toàn, vĩnh cửu - nhưng chỉ có một mà thôi! Bạn chỉ có thể lựa chọn một điều, chỉ
có đi một lối, khác hẳn con đường đau đớn, vô phước bạn đang đi.
Hoặc bạn
có thể sống khốn khổ, bất mãn, sợ hãi, bất hạnh, ghê tởm con người của mình và
cả đời mình; hoặc bạn có thể quyết định ngay bây giờ rằng mình muốn được sanh lại.
Ngay bây giờ bạn có thể quyết định xóa bỏ quá khứ đầy tội lỗi và khởi sự một
cách mới mẻ, vui tươi, chánh đáng. Ngay bây giờ, bạn có thể quyết định trở nên
người như Chúa Giê-xu đã hứa.
Làm sao để
tôi được điều đó?
Câu hỏi hợp
lý kế tiếp mà bạn có thể đặt ra là: “Làm thế nào để tôi bắt đầu trở lại?”.
Đó là câu
hỏi mà Ni-cô-đem (một trong những lãnh tụ Do-thái giáo, người đã diện kiến Chúa
Giê-xu để học đạo>đã nêu lên với Chúa Giê-xu trong một đêm cách đây gần hai
ngàn năm. Tuy nhiên, sanh lại có ý nghĩa quan trọng hơn là bắt đầu lại mới, hay
lật qua một “trang” mới, hoặc cải cách. Như chúng ta đã thấy, Kinh Thánh dạy rằng
khi bạn sanh ra lần thứ nhất trong thế giới vật chất, thì bản chất thuộc linh bạn
sanh ra trong tội lỗi. Kinh Thánh tuyên bố rằng bạn “đã chết vì tội lỗi gian
ác” (Eph 2:1).
Kinh Thánh
dạy rằng bản chất hay chết và tội lỗi của bạn không sinh ra sự sống được. Vì bị
chết trong tội lỗi, bạn không thể nào tạo được một đời sống công nghĩa. Nhiều
người cố xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, thánh khiết và công nghĩa, mặc dầu họ
chưa được sanh lại, nhưng họ chỉ thất bại chứ không thể làm được gì cả. Một xác
chết không thể tạo nên sự sống. Kinh Thánh dạy rằng: “Tội lỗi phát triển đem lại
cái chết” (Gia 1:15). Tất cả chúng ta đều chết về phần thuộc linh.
Bản chất cũ
của bạn không thể hầu việc Thượng Đế. Kinh Thánh chép: “Người không có Thánh
Linh không nhận lãnh được những ân tứ của Thượng Đế, chỉ coi như chuyện khờ dại”
(ICo 2:14). Trong trạng thái tự nhiên, chúng ta thực sự thù nghịch với
Thượng Đế. Theo Ro 8:7, chúng ta không tùng phục luật pháp của Ngài, và cũng không
thể phục tùng được.
Kinh Thánh
cũng dạy rằng bản tánh cũ của chúng ta hoàn toàn hư hoại. “Từ bàn chân cho đến đỉnh
đầu, chẳng có chỗ nào lành: rặt những vết thương, vít sưng cùng lằn mới, chưa rịt,
chưa quấn, cũng chưa bôi dầu cho êm” (Es 1:6). Lòng của con người dối
trá hơn mọi vật và rất là xấu xa.
Kinh Thánh
cũng dạy rằng bản chất cũ của chúng ta chính là bản ngã. Không thể nào canh tân
bản ngã được, nó đã hư hoại. Kinh Thánh dạy rằng khi chúng ta được sanh lại,
chúng ta cởi bỏ người cũ chớ không chắp vá lại. Bản ngã phải bị đóng đinh vào
cây thập tự, chứ không được vun trồng. Chúa Giê-xu phán rằng nếu chỉ rửa bên
ngoài chén dĩa, thì bên trong vẫn còn dơ bẩn như trước.
Các ngươi
phải sanh lại.
Kinh Thánh
cũng dạy rằng nếu chúng ta không từng trải sự tái sinh này, thì không thể vào được
Nước Thiên đàng. Chúa Giê-xu còn nhấn mạnh hơn thế nữa: “Con người phải tái
sinh!”. Vấn đề này không có gì mơ hồ. Người nào muốn vào nước của Thượng Đế phải
sinh lại.
Sự cứu rỗi
không phải là việc tiến hành sửa chữa cái bản ngã cố hữu, nhưng là được Thượng Đế
sáng tạo một bản ngã mới trong sự công nghĩa và thánh khiết thật sự. Sự tái
sinh cũng chẳng phải là sự thay đổi bản chất hay tâm hồn. Sinh lại không phải
là một sự thay đổi - đó là một sự sinh ra mới mẻ. Đó là “lần sinh thứ nhì”.
“Con người phải tái sinh”.
Thượng Đế
không chấp nhận điều gì của bản chất cũ. Nó không có gì tốt lành. Bản chất cũ
quá yếu đuối, không thể nào theo Chúa Cứu Thế. Phao-lô nói rằng: “Anh em không
thể làm điều mình muốn” (Ga 5:17). Những người nào sống trong xác thịt
không thể hầu việc Thượng Đế. Gia-cơ đã từng hỏi: “Một ngọn suối có thể vừa chảy
nước ngọt vừa tuôn nước đắng không? Cây ổi có thể sinh trái cam hay cây quít
sinh trái ổi không? (Gia 3:11-12).
Thơ La-mã
diễn tả con người cũ như sau: “Họng họ hôi hám thô tục; như cửa mộ bốc mùi hôi
thối; lưỡi họ chuyên lừa dối, môi chứa nọc rắn hổ. Miệng phun lời nguyền rủa
cay độc. Họ nhanh chân đi giết người, đến đâu cũng để lại vết điêu tàn, khốn khổ.
Họ chẳng biết con đường hạnh phúc, an vui, cũng chẳng nể nang, kính sợ Thượng Đế”
(Ro 3:12-18).
Vậy bạn
làm thế nào mà cải thiện, chắp vá hay thay đổi họng, lưỡi, môi, chân, mắt như
thế? Đó là một việc bất năng. Chúa Giê-xu biết rằng không thể nào thay đổi, chắp
vá hoặc cải biến con người cũ, nên dạy rằng bạn phải hoàn toàn sanh lại. Ngài
phán: “Thể xác chỉ sanh ra thể xác... con người phải tái sinh” (Gi 3:6). Trong một chỗ khác,
Kinh Thánh dạy rằng: “Người Ê-thi-ô-bi có thể đổi được da mình, hay là con beo đổi
được vằn nó chăng?” (Gie 13:23). Trong La-mã, Kinh Thánh lại chép: “Người sống theo xác thịt
không thể nào làm Thượng Đế vui lòng” (Ro 8:8). Sứ đồ Phao-lô cũng
nói: “Tôi biết chẳng có điều gì tốt trong tôi cả - tôi muốn nói về bản tính cũ
của tôi” (7:18).
Kinh Thánh lại chép: “Nếu không thánh hóa không ai được thấy Thượng Đế” (He 12:14).
Sự sống
phát xuất từ sự tái sinh không do sự phát triển tự nhiên và tự cố gắng mà có.
Do bản chất, con người không có được sự thánh khiết Thượng Đế đòi hỏi cho vương
quốc Ngài. Sự sống thánh khiết chỉ có thể bắt đầu trong sự sanh lại mới mà
thôi. Muốn sống đời sống của Thượng Đế, chúng ta phải có bản thể của Ngài.
Việc Thượng
Đế làm.
Tiếp nhận
sự sống mới ví như đồng tiền. Đồng tiền có hai mặt. Tiếp nhận sự sống mới có một
phương diện thiên thượng và một phương diện con người. Trong chương luận về sự
biến cải, chúng ta đã thấy phương diện con người, và đã thấy mình phải làm gì.
Bây giờ chúng ta hãy xem Thượng Đế làm gì.
Sự sanh lại
hoàn toàn là công việc của Thánh Linh. Bạn không thể làm gì để được sự tái sinh
này. Kinh Thánh chép rằng: “Tất cả những người tiếp nhận Chúa đều được quyền
làm con cái Thượng Đế - tiếp nhận Chúa là đặt niềm tin nơi Chúa. Những người ấy
được chính Thượng Đế sinh thành, chứ không sinh ra theo huyết thống, hay theo
tình ý loài người” (Gi 1:12-13). Nói cách khác, bạn không thể được tái sinh bởi khí huyết,
nghĩa là không thể kế thừa sự tái sinh. Thượng Đế không có cháu.
Bạn không
thể thừa hưởng đức tin Cơ Đốc của cha mẹ. Bạn có thể có cha mẹ tin theo Chúa
Giê-xu, nhưng không vì đó mà sinh ra đã là tín đồ của Ngài. Bạn có thể sinh ra
trong một nhà để xe, nhưng không vì đó mà hóa ra một chiếc xe.
Kinh Thánh
dạy rằng bạn không thể được sanh lại do ý muốn của xác thịt. Nói cách khác, bạn
không thể làm được gì hết trong vấn đề này. Bạn đã chết về phần thuộc linh. Một
người đã chết thì không có sự sống để làm điều gì được.
Bạn cũng
không thể tái sinh do ý muốn của con người. Phương thức hay kế hoạch của loài
người nghĩ rằng mình đương nhiên được tái sinh khi gia nhập Hội thánh hay theo
vài nghi thức tôn giáo, hoặc có một vài quyết định lúc bước qua năm mới, hoặc
quyên số tiền lớn cho một cơ quan từ thiện nổi tiếng. Tất cả những việc làm này
đều tốt và đúng, nhưng không tạo nên sự sanh lại mới.
Công việc
của Ba Ngôi
Chúa
Giê-xu phán rằng chúng ta phải được sinh lại. Chữ được hàm ý một trạng thái thụ
động. Điều đó chứng tỏ rằng phải có một nhân vật khác chủ động. Không ai có thể
“tự sinh” mình ra. Ai nấy đều phải được sinh ra. Sự tái sinh mới hoàn toàn
không tùy thuộc ý muốn chúng ta. Nói một cách khác, sanh lại mới là công trình
thiên thượng - Chúng ta được sinh ra bởi Thượng Đế.
Ni-cô-đem
không biết phải làm thế nào cho được sanh ra lần thứ hai. Ông bối rối hỏi đi hỏi
lại hai lần: “Làm cách nào?”
Dù rằng sự
sanh lại có vẻ nhiệm mầu, song chẳng vì đó mà không có thật. Chúng ta có thể
không hiểu điện lực là thế nào, nhưng chúng ta biết rằng nó cung cấp ánh sáng,
làm chạy máy vô tuyến truyền hình và truyền thanh. Chúng ta không hiểu trâu,
bò, gà, vịt mọc lông ra sao, nhưng chúng ta biết rằng điều đó có thật. Có nhiều
sự nhiệm mầu chúng ta không hiểu nổi, nhưng chúng ta chấp nhận bởi đức tin rằng
chính lúc ăn năn tội lỗi và quay về tin cậy Chúa Giê-xu thì chúng ta được sanh
lại.
Sanh lại
là truyền đạt sự sống thiên thượng vào linh hồn con người. Đó là phẩm chất
thiên thượng được "cấy vào, rót vào" linh hồn con người, nhờ đó mà
chúng ta trở thành con cái Thượng Đế. Chúng ta tiếp nhận sinh khí của Ngài.
Chúa Cứu Thế bởi Thánh Linh ngự trị trong lòng chúng ta. Chúng ta được gắn bó
vào Thượng Đế vĩnh cửu. Điều này có nghĩa là nếu bạn đã được sanh lại, thì Thượng
Đế sống chừng nào, bạn sẽ sống chừng ấy, vì hiện nay bạn chung hưởng chính sự sống
của Ngài. Mối tương giao giữa con người với Thượng Đế đã bị cắt đứt tại vườn Ê-đen
đã được nối lại.
Các kết quả
của sự sanh lại.
Khi bạn đã
được sanh lại, thì sẽ có nhiều kết quả theo sau: Trước hết, nhãn quan và sự hiểu
biết của bạn mở rộng. Kinh Thánh chép: “Thượng Đế đã truyền bảo ùnh sáng phải
soi chiếu trong cõi tối tăm“, nên Ngài soi sáng lòng chúng tôi, giúp chúng tôi
hiểu được vinh quang Thượng Đế hằng sáng rực trên khuôn mặt Chúa Cứu Thế” (IICo 4:6). Lại rằng: “Cũng xin
Thượng Đế cho tâm trí anh em được sáng suốt để hiểu biết hy vọng của người được
Chúa lựa chọn và cơ nghiệp vinh quang phong phú Ngài dành cho con cái Ngài” (Eph 1:18). Những điều trước kia
bạn thường chế nhạo cho là điên rồ, thì bây giờ lại tiếp nhận bởi đức tin. Toàn
thể tiến trình lý trí của bạn thay đổi. Thượng Đế trở thành trung tâm tư tưởng
của trí tuệ bạn. Ngài đã trở thành trọng tâm. Bản ngã đã bị hạ bệ.
Thứ nhì, tấm
lòng bạn được cách mạng. Kinh Thánh chép: “Ta sẽ ban lòng mới cho các ngươi, và
đặt thần mới trong các ngươi. Ta sẽ cất lòng bằng đá khỏi thịt các ngươi, và
ban cho các ngươi lòng bằng thịt” (Exe 36:26).
Tình cảm của
bạn đã được thay đổi triệt để. Bản chất mới của bạn yêu mến Thượng Đế và những
gì thuộc về Ngài. Bạn yêu mến những gì đẹp đẽ nhất và cao cả nhất trong đời sống.
Bạn chối bỏ những gì thấp kém và hèn hạ. Bạn lập tức có một nhận định mới đối với
những vấn đề xã hội chung quanh mình. Tim bạn rung động với niềm xót thương cho
những người ít may mắn hơn mình.
Thứ ba, ý
chí của bạn trải qua một cuộc biến đổi lớn lao. Những quyết định của bạn cũng
khác hẳn. Những lý do hành động của bạn thay đổi. Kinh Thánh chép: “Cầu xin Thượng
Đế Hòa bình - Đấng đã cho Chúa Giê-xu sống lại - trang bị cho anh em mọi điều cần
thiết để thi hành ý chỉ của Ngài. Cầu xin Đấng Chăn Chiên lớn chăm sóc anh em, đúng
theo Giao Ước đời đời ấn chứng bằng Huyết Ngài. Cầu xin Thượng Đế thực hiện
trong anh em những việc đẹp ý Ngài do quyền năng của Chúa Cứu Thế! Vinh quang
muôn đời đều quy về Ngài! Thành tâm sở nguyện” (He 13:20-21).
Bản chất mới
mà bạn tiếp nhận từ Thượng Đế được uốn nắn theo ý chỉ Ngài. Bạn chỉ muốn thực
hiện theo ý Thượng Đế. Bạn trung thành với Ngài cách hoàn toàn và trọn vẹn. Sẽ
có những quyết định, khuynh hướng, tác phong, nguyên tắc, sinh hoạt và lựa chọn
mới mẻ. Bạn tìm cách làm sáng danh Thượng Đế. Bạn tìm cách tương giao với những
tín hữu trong Hội Thánh. Bạn yêu mến Kinh Thánh. Bạn ưa thích để thì giờ cầu
nguyện với Thượng Đế. Tác phong bạn hoàn toàn thay đổi. Cuộc sống của bạn trước
kia là những vô tín, là nguồn gốc và nền tảng của mọi tội lỗi, và nghi ngờ Thượng
Đế, giờ đây tin tưởng nơi Ngài, bạn tuyệt đối đặt lòng tin cậy và đức tin nơi
Thượng Đế và Lời Ngài.
Có lẽ đã
có một thời gian tánh kiêu căng là trung tâm của đời sống của bạn. Tư tưởng bạn
đầy tham vọng cho chính mình, về quyền lực, ham muốn và mục đích của mình; nhưng
giờ đây mọi sự bắt đầu thay đổi. Có thể có một thời gian sự ghen ghét tràn đầy đời
sống bạn. Tư tưởng bạn đầy dẫy ganh tị, bất mãn, và gian manh với kẻ khác. Những
điều đó cũng thay đổi nữa.
Đã có lúc
bạn nói dối cách dễ dàng. Tư tưởng, lời nói, hành động của bạn có nhiều ý lừa đảo
và gian dối. Bây giờ mọi sự đó hoàn toàn thay đổi. Có lúc bạn đã đắm mình trong
dục tình của xác thịt. Điều đó bây giờ cũng thay đổi. Bạn đã được sinh lại. Bạn
có thể sa vào cạm bẫy của ma quỉ giăng bắt mình, nhưng lập tức, bạn sẽ buồn rầu,
xưng nhận tội lỗi mình và cầu xin Chúa tha thứ; vì bạn đã được sinh lại. Bản chất
thật của bạn đã thay đổi.
Con lợn và
con chiên.
Có một câu
chuyện xưa về con lợn và con chiên. Một nông gia đem con lợn về nhà, tắm rửa
cho nó, đánh móng chân, xức dầu thơm, buộc vào cổ nó một dây băng và để trong
phòng khách. Con lợn trông được lắm. Nó có vẻ được xã hội chấp nhận và trong
con mắt của bạn bè chủ nhà đến chơi, lợn trông thật mát mẻ và sạch sẽ. Lợn trở
thành một con vật nuôi rất tốt, và đáng quí chuộng trong vài phút. Nhưng khi cửa
phòng khách vừa mở, lợn ta chạy ngay ra, nhảy vào vũng bùn đầu tiên mà nó bắt gặp.
Tại sao vậy? Vì nó vốn là lợn. Bản chất nó không thay đổi. Nó chỉ thay đổi bề
ngoài, mà không thay đổi bên trong.
Mặt khác,
hãy bắt một con chiên, đặt nó vào phòng khách, rồi thả nó ra sân. Kìa, nó vẫn cố
tránh mọi vũng bùn! Tại sao? Vì bản chất nó là bản chất của con chiên.
Bạn có thể
chọn một người, cho ăn mặc tử tế, bảo ngồi ở hàng ghế đầu trong nhà thờ. Trông
anh ta gần giống như một thánh đồ. Thậm chí anh ta có thể lừa dối bạn bè thân
thiết nhất trong giây lát; nhưng ngày hôm sau, cho anh ta trở về văn phòng, hoặc
để anh ta về nhà riêng, hoặc hẹn anh đến câu lạc bộ vào tối thứ bảy, bạn sẽ thấy
bản chất thật của anh hiện ra. Tại sao anh ta hành động như vậy? Vì bản chất
anh chưa biến đổi. Anh ta chưa được sanh lại mới.
Ý nghĩa của
sự xưng công nghĩa.
Ngay lúc được
sinh lại, bạn được Thượng Đế san sẻ cho một sự sống mới, một bản tính mới, bạn được
Thượng Đế xưng là công nghĩa, công chính. Được xưng công nghĩa có nghĩa là “được
kể như chưa hề phạm tội” vậy. Xưng công nghĩa là hành động qua đó Thượng Đế
tuyên bố rằng một kẻ vô đạo là một con người trọn lành trong khi bản thân người
ấy vẫn còn là kẻ vô đạo. Thượng Đế đặt bạn trước mặt Ngài, và xem như bạn chưa
hề phạm một tội nào.
Như
Phao-lô nói: “Ai dám kiện cáo chúng ta là người Thượng Đế lựa chọn? Vì Thượng Đế
đã tha tội chúng ta” (Ro 8:33). Tội lỗi bạn đã được tha. Thượng Đế đã chôn vùi tất cả tội
lỗi bạn trong các vực sâu dưới biển, và đặt chúng ra sau lưng Ngài để chẳng bao
giờ còn nhớ đến chúng nữa. Tất cả mọi tội lỗi đều hoàn toàn bị xóa sạch. Bạn đã
bị cáo là kẻ mắc nợ Thượng Đế, nhưng Ngài đã miễn tố bạn, và bạn đã được làm
hòa lại với Ngài. Trước đây, quả thật bạn đã là kẻ thù với Thượng Đế. Nhưng
Kinh Thánh chép: “Tất cả cuộc đổi mới đều do Thượng Đế thực hiện. Ngài cho
chúng ta phục hòa với Ngài, nhờ công lao của Chúa Cứu Thế Giê-xu, Ngài ủy cho
chúng tôi thi hành chức vụ hòa giải” (IICo 5:18)
Nhưng còn
hơn tất cả mọi điều đó, bạn đã được nhận làm con trong gia đình Thượng Đế. Bây
giờ, bạn đã là con Thượng Đế “Do tình yêu thương, Thượng Đế đã hoạch định chương
trình cho Chúa Cứu Thế Giê-xu xuống đời nhận chúng ta làm con cái Ngài, theo hảo
tâm, thiện ý của Ngài” (Eph 1:5). Giờ đây, bạn đã là người nhà của gia đình
đế vương trên Thiên đàng. Dòng máu của bậc đế vương đang chảy trong huyết quản
bạn. Bạn là con vua. Bạn bè của bạn sẽ lưu ý sự thay đổi xảy ra trong đời sống
bạn. Giờ đây, bạn đã được tái sanh, được sanh lại rồi.
Cái cũ và
cái mới.
Khi bạn đã
được sanh lại, có nhiều thay đổi xảy ra. Trước hết, bạn có thái độ khác hẳn đối
với tội lỗi. Bạn sẽ ghét tội lỗi như Thượng Đế ghét. Bạn sẽ chán ngán và gớm
ghê tội lỗi.
Tại thành
phố Houston, tiểu bang Texas, có một người đã được sanh lại trong một buổi truyền
giảng Phúc âm của chúng tôi. Người này là chủ một hiệu bán rượu mạnh. Sáng hôm
sau, ông treo một tấm bảng trước cửa tiệm: “Đóng cửa, dẹp tiệm”.
Cách đây
ít lâu, tôi nghe nói một người đã được sanh lại trong một buổi nhóm truyền giảng.
Ông nổi danh là người nghiện rượu trong thành phố. Người ta gọi ông là “Lão Giăng”.
Sáng ngày hôm sau, có người gặp ông ngoài phố và nói: “Chào Lão Giăng”.
Ông đáp:
“Bạn nói với ai đó? Tên tôi không phải là Lão Giăng nữa. Tôi là Giăng trẻ”. Một
cuộc cách mạng hoàn toàn đã thể hiện trong đời ông.
Thứ nhì, bạn
biết rằng mình đã được sanh lại bởi vì bạn có ý muốn vâng phục Thượng Đế. “Làm
sao biết chắc chúng ta thuộc về Chúa? Hãy tự kiểm thảo xem chúng ta có thật sự
làm theo những điều Ngài truyền dạy không!” (IGi 2:3).
Thứ ba, bạn
sẽ phân rẽ với thế gian. Kinh Thánh dạy rằng: “Đừng yêu thế gian và những gì
thuộc về thế gian, vì nếu yêu thế gian, anh em chứng tỏ mình không thật lòng
yêu Thượng Đế” (2:15).
Thứ tư,
trong lòng bạn sẽ có một tình yêu mới đối với tha nhân. Kinh Thánh dạy: “Yêu thương
anh em tín hữu chứng tỏ chúng ta thoát chết nơi hỏa ngục để hưởng sự sống vĩnh
viễn. Nhưng ai không yêu thương người khác là lao mình vào cõi chết đời đời” (3:14).
Thứ năm,
chúng ta sẽ không phạm tội nữa. Kinh Thánh dạy: “Những ai được Thượng Đế sinh
thành không còn tiếp tục phạm tội, vì Chúa Cứu thế, Con Ngài, bảo vệ họ và Quỉ
vương không thể động chạm đến họ được” (5:18). Chúng ta sẽ không mài
miệt trong những hành vi tội lỗi.
Tại Texas,
người ta kể rằng có một người mỗi buổi sáng thường buộc ngựa ở trước quán rượu.
Một buổi sáng kia, chủ quán rượu thấy con ngựa buộc trước nhà thờ Giám lý. Ông
ta gặp chủ ngựa đi bộ bèn gọi lại: “Này, sao sáng hôm nay ông buộc ngựa trước
nhà thờ vậy?”.
Chủ ngựa
xây lại và nói: “Anh ơi, đêm qua, tôi đã trở lại tin Chúa trong một buổi nhóm
phục hưng, nên bây giờ tôi buộc ngựa ở chỗ khác đó”.
Đó là ý
nghĩa của sự sanh lại. Đó là ý nghĩa của sự biến cải; nghĩa là bạn thay đổi chỗ
cắm neo của bạn.
Tôi viết điều
đó để anh em biết rõ nhờ tin
Con Thượng Đế mà anh em được sống vĩnh viễn.
IGi 5:13
Con Thượng Đế mà anh em được sống vĩnh viễn.
IGi 5:13
MỖI tuần
tôi nhận được hằng chục bức thư của nhiều người nói rằng họ hãy còn hoài nghi
và phân vân về đời sống Cơ Đốc. Có nhiều thư của những Cơ Đốc nhân ngay thật, bảo
rằng họ không được hưởng niềm vui trong đức tin Cơ Đốc hay trong sự tin chắc,
vì họ không hiểu chân lý căn bản của từng trải Cơ Đốc. Dù Kinh Thánh chép: “chỉ
xin ghi lại một số phép lạ để giúp người đọc tin nhận Chúa Giê-xu là Chúa Cứu
Thế, là Con Thượng Đế. Nhờ niềm tin đó, chúng ta hưởng được sự sống vĩnh viễn
trong danh Chúa” (Gi 20:31), thế mà nhiều người không chắc chắn được.
Chúng ta
hãy dành chương này để tóm lược những gì đã xảy đến cho chúng ta. Chúng ta đã
biết sự ăn năn, tin nhận và sanh lại có nghĩa gì. Bây giờ, làm thế nào tôi biết
chắc được, làm thế nào tôi quả quyết rằng tất cả những điều vừa nói đó đã xảy đến
cho tôi? Tôi vừa tiếp chuyện với nhiều người đã ăn năn, đã tin tưởng và đã được
sanh lại, nhưng họ thiếu tin chắc trong sự biến đổi của họ. Chúng ta hãy ôn lại
vài điều đã học. Trước hết, việc trở thành một Cơ Đốc nhân có thể là một kinh
nghiệm lớn lao trong đời sống bạn hay là một tiến trình có một tột điểm vào một
lúc nào đó mà bạn có thể ý thức hay không. Đừng hiểu lầm tôi, bạn không thể trở
thành một Cơ Đốc nhân do quá trình học vấn. Cách đây vài năm một nhà truyền giảng
danh tiếng đã nói: “Chúng ta phải giáo dục và huấn luyện giới trẻ của chúng ta
theo lối sống Cơ Đốc thế nào để chúng luôn luôn biết mình là Cơ Đốc nhân”. Phần
lớn triết lý về giáo dục tôn giáo đã căn cứ trên tiền đề này, và có lẽ nhiều người
đã không nắm được yếu tính từng trải Cơ Đốc vì sự huấn luyện tôn giáo đã thay
thế cho yếu tính này. Tấm lòng chẳng thay đổi gì.
Đầu thế kỷ
này, giáo sư Starbuck, một tư tưởng gia lỗi lạc trong địa hạt tâm lý, đã nhận
xét rằng những tu sĩ Cơ Đốc thường được tuyển chọn trong hàng ngũ những người đã
có từng trải sống động khi trở lại đạo. Ông cũng nhận xét rằng những người có
quan niệm rõ ràng về sự trở lại đạo hầu hết là những người đã xuất thân từ những
vùng quê, là những vùng mà trong những ngày đầu, họ không được hay ít được huấn
luyện tôn giáo chu đáo theo kế hoạch định sẵn.
Đây không
phải là một lời công kích việc huấn luyện tôn giáo nhưng có thể được xem như
công kích việc sử dụng sự huấn luyện tôn giáo nhầm lẫn và không đúng chỗ để
thay thế cho kinh nghiệm sanh lại.
Theo đạo
không phải là được sanh lại.
Chúa
Giê-xu đã phán với Ni-cô-đem, một trong những người rất sùng đạo trong thời đại
Ngài, rằng: “Nếu không tái sinh, không ai thấy được Nước Chúa” (Gi 3:3). Ni-cô-đem không thể lấy
sự hiểu biết sâu xa của ông về tôn giáo để thay thế cho sự sanh lại thiêng
liêng, và chúng ta cũng không thể ở trong thế hệ này, chúng ta không thể vượt
khỏi qui luật đó.
Con nhộng
xấu xí phí nhiều thì giờ ở trong kén để lớn lên và biến đổi theo một cách hầu
như không thể nhận thấy được. Nhưng quá trình lớn lên này, dù chậm mấy rồi cũng
đến lúc phải qua một cơn khủng hoảng và biến thành con bướm đẹp đẽ. Những tuần
lễ tăng trưởng im lặng đó rất quan trọng nhưng không thể thế cho từng trải của
việc lột bỏ cái trạng thái già nua và xấu xí để bước sang trạng thái mới mẻ và
xinh đẹp.
Quả thật
có hàng ngàn Cơ Đốc nhân không biết đích xác ngày giờ họ đã nhận biết Chúa Cứu
Thế. Đức tin và đời sống chứng minh rằng họ đã trở lại với Chúa Cứu Thế một
cách có ý thức hay không. Nhưng dù nhớ hay quên thì vẫn có một thời điểm nào đó
họ đã bước qua lằn mức từ sự chết đến sự sống.
Có lẽ mọi
người đều có những lúc hoài nghi và phân vân về từng trải tôn giáo của mình.
Khi Mai-sen đi lên núi Si-nai để nhận những bản luật pháp từ tay Thượng Đế, nhiều
người Do-thái đã chờ ông trở lại đã lo lắng vì lâu ngày chẳng thấy bóng dáng
ông đâu. Cuối cùng, họ đâm ra nghi ngờ và nói với nhau: “Về phần Mai-sen là người
đã dẫn chúng tôi ra khỏi xứ Ai-cập, chúng tôi chẳng biết điều chi đã xảy đến
cho người rồi”. Sự bỏ đạo của họ là hậu quả của sự hoài nghi và phân vân.
Mối phân
vân ghê gớm ám ảnh linh hồn vô số người là do hiểu lầm những gì là căn bản thật
của từng trải tôn giáo gây ra. Lắm người hình như không hiểu bản chất của kinh
nghiệm Cơ Đốc, trong khi những người khác thì không hiểu biết đúng đắn và đi
tìm một điều gì khác mà Kinh Thánh không dạy dỗ.
Từ ngữ đức
tin liên quan đến sự cứu rỗi con người được Tân Ước đề cập tới hơn ba trăm lần
và còn được hàm ý nhiều lần khác nữa. Tác giả sách Hy-bá (thơ tín (có lẽ là của
sứ đồ Phao-lô) gởi cho các tín hữu người Do-thái (thật sự, đây là thơ tín gởi
cho tất cả các Cơ Đốc nhân)>nói: “Người đến gần Thượng Đế phải tin Ngài có
thật, và Ngài luôn tưởng thưởng xứng đáng cho người tìm cầu Ngài” Ông lại nói:
“Người không có đức tin không thể nào hài lòng Thượng Đế” (He 11:6).
Vì chúng
ta đã nhầm lẫn đức tin với cảm xúc nên nhiều người mắc phải tâm trạng hoài nghi
và phân vân, ngày nay vẫn thường thấy ở những Cơ Đốc nhân thực thụ.
Đức tin
luôn hàm ý một đối tượng, nghĩa là khi tin, chúng ta phải tin ở điều gì. Tôi gọi
điều gì đó là sự kiện. Đến đây tôi xin trình bày với bạn ba danh từ, ba danh từ
mà chúng ta phải luôn luôn giữ đúng thứ tự chứ không bao giờ được thay đổi. Tôi
xin trình bày ba danh từ đó để các bạn biết con đường thoát khỏi sự phân vân, đạt
đến đời sống Cơ Đốc vững vàng. Ba danh từ ấy là sự kiện, đức tin và cảm xúc. Những
danh từ này được trình bày theo thứ tự là điều thiết yếu. Nếu bạn lẫn lộn, bỏ bớt,
hoặc thêm vào, bạn sẽ lọt vào vũng lầy mò mẫm trong chỗ tranh tối, tranh sáng,
không có niềm vui và niềm tin của người nói câu “Vì biết rõ Đấng ta tin cậy” (IITi 1:12).
Sự kiện.
Nếu bạn được
cứu khỏi tội lỗi thì đó là nhờ bạn tin vào Phúc Âm của Chúa Cứu Thế như đã được
định nghĩa trong Kinh Thánh. Mặc dù, mới đầu, điều này hình như có vẻ giáo điều
và hẹp hòi đối với bạn, nhưng thực sự là không có lối nào khác. Kinh Thánh
phán: “Trước hết, tôi truyền lại cho anh em những chân lý tôi đã tin nhận: Chúa
Cứu Thế chịu chết vì tội chúng ta theo lời Thánh Kinh” (ICo 15:3, 4). Kinh Thánh chép rằng
chúng ta được cứu khi đức tin chúng ta đặt vào sự kiện khách quan nào đó. Công
trình của Chúa Cứu Thế là một sự kiện, thập tự giá Ngài là một sự kiện, mộ Ngài
là một sự kiện, sự sống lại của Ngài là một sự kiện.
Không thể
nào nhờ tin tưởng vào điều gì rồi biến điều đó thành sự thực. Không phải đạo
Chúa Giê-xu hiện hữu vì nhờ có nhiều người tin. Không phải vì có một số người mộ
đạo tin tưởng mà trong bữa sáng phục sinh đầu tiên ngôi mộ mới trống rỗng. Sự
kiện lúc nào cũng phải đi trước đức tin. Về phương diện tâm lý, chúng ta không
thể nào tin mà không có đối tượng.
Kinh Thánh
không đòi hỏi bạn tin vào điều không thể tin được, nhưng tin vào sự kiện lịch sử
mà trên thực tế, sự kiện đó siêu việt vượt trên tất cả lịch sử. Kinh Thánh đòi
hỏi bạn tin rằng công trình của Chúa Cứu Thế thực hiện vì cớ tội lỗi và cho tội
nhân, có hiệu quả đối với kẻ bằng lòng phó linh hồn mình cho Ngài. Tin cậy nơi
Ngài để được sự cứu rỗi vĩnh viễn ấy là tin cậy một sự kiện.
Đức tin.
Đức tin,
là danh từ đứng thứ nhì trong ba danh từ. Đức tin hoàn toàn không thể có được nếu
không có gì để tin. Đức tin phải có đối tượng. Đối tượng của đức tin Cơ Đốc là
Chúa Cứu Thế. Đức tin quan trọng hơn sự thừa nhận của trí tuệ đối với các yêu cầu
của Chúa Cứu Thế. Đức tin gồm ý chí. Đức tin là sự quyết ý. Đức tin đòi hỏi
hành động. Nếu chúng ta thật sự tin thì sẽ sống. Đức tin không có hành động là đức
tin chết. Đức tin thật sự có nghĩa là phục tùng và phó mình cho những yêu cầu của
Chúa Cứu Thế. Đức tin có nghĩa là nhận thức tội lỗi và quay về cùng Chúa Cứu Thế.
Chúng ta biết Chúa Cứu Thế không phải nhờ ngũ quan, nhưng nhờ giác quan thứ sáu
Thượng Đế đã ban cho mỗi người - đó là khả năng tin tưởng.
Từng trải
của đức tin.
Khi đọc kỹ
Tân Ước để biết chắc bạn có thể mong đợi từng trải nào, tôi thấy Tân Ước chỉ đề
ra một loại mà thôi. Chỉ có một từng trải bạn có thể trông chờ - chỉ một cảm
xúc bạn có thể mong đợi - và đó là từng trải của đức tin. Tin là một từng trải
như trăm ngàn từng trải khác, tuy vậy nhiều người vẫn còn tìm tòi thêm một thứ
cảm giác gây xúc động đem lại sự xúc động thể chất, và nhiều người khác đi tìm
những phô trương ngoạn mục. Nhiều người được khuyên nên tìm những cảm giác như
vậy, nhưng Kinh Thánh phán rằng “nhờ đức tin chúng ta được kể là người công
chính” chứ không phải bởi cảm xúc. Người ta được cứu nhờ tin cậy nơi công trình
đã hoàn tất của Chúa Cứu Thế trên thập tự giá chứ không phải được cứu bởi sự
kích thích thể chất hay sự xuất thần tôn giáo.
Nhưng bạn
có thể nói với tôi: “Vậy cảm xúc là gì? Trong đức tin cứu chuộc không có cảm
xúc hay sao?”. Dĩ nhiên là phải có cảm xúc trong đức tin cứu chuộc, nhưng chúng
ta không nhờ nó để được cứu chuộc. Dù có cảm xúc thế nào đi nữa nó vẫn chỉ là kết
quả của đức tin cứu chuộc mà thôi.
Cảm xúc.
Sự cảm xúc
là danh từ chót trong ba danh từ và phải tồn tại trong suy tư của bạn. Tôi tin
rằng phần nhiều rắc rối và phân vân về tôn giáo đều bởi một số người nôn nóng
và nhiệt tình tìm kiếm sự cứu rỗi, những người đó có định kiến rằng họ phải ở
trong một tình trạng xúc động nào đó trước khi họ từng trải được sự biến cải.
Những ai
tìm kiếm sự cứu rỗi theo Kinh Thánh sẽ muốn biết Kinh Thánh hướng dẫn bạn mong
chờ loại từng trải nào. Tôi xin thưa với những vị đã nhiều lần đến trước bàn thờ,
hay một phòng chỉ dẫn, hoặc có lẽ đã quì bên một máy truyền thanh hay truyền
hình khi có lời mời tiếp nhận Chúa Cứu Thế. Bạn đã nghe được sứ điệp, đã biết
mình là một tội nhân cần Chúa Cứu Thế, đã thừa nhận rằng đời mình là một sự
chìm đắm thuộc linh, đã cố thử mọi phương thức nhân tạo để mong cải tiến, nhưng
tất cả đều thất bại. Trong tình trạng hư mất và vô vọng đó, bạn đã trông mong nơi
Chúa Cứu Thế để được cứu rỗi. Bạn đã tin rằng Ngài có thể và sẽ cứu bạn. Bạn thường
đọc lời Ngài mời kẻ tội lỗi: “Những ai đang mệt nhọc và nặng gánh ưu tư, hãy đến
với ta, ta sẽ cho các con được nghỉ ngơi” (Mat 11:28), và lời Ngài hứa: “Người
đến với ta chẳng bao giờ bị ta xua đuổi” (Gi 6:37). Bạn cũng đọc lời Ngài
phán: “Người nào khát, hãy đến với ta mà uống” (7:37).
Cảm xúc đến
sau đức tin.
Khi tôi biết
được điều gì về tình yêu thương của Chúa Cứu Thế đối với tôi là kẻ phạm tội,
tôi đáp ứng bằng một tình yêu thương Chúa Cứu Thế - và tình yêu thương có cảm
xúc. Nhưng tình yêu thương Chúa Cứu Thế là tình yêu thương vượt trên tình thương
yêu của con người, tuy vẫn có chỗ giống nhau. Đó là tình thương giải thoát
chúng ta khỏi bản ngã. Trong hôn nhân có sự hiến dâng mà cũng có cảm xúc nữa.
Nhưng các cảm xúc đến rồi đi, còn sự hiến dâng vẫn tồn tại. Chúng ta là những
người hiến dâng cho Chúa Cứu Thế cũng có những cảm xúc đến rồi đi - niềm vui,
tình thương, lòng tri ân và vân vân. Nhưng sự hiến dâng vẫn không thay đổi. Những
cảm xúc tuy quan trọng nhưng không phải là thiết yếu. Kinh Thánh dạy: “Tình yêu
trọn vẹn xóa tan mọi khiếp sợ” (IGi 4:18). Và những ai yêu thương
Chúa Cứu Thế thì tin cậy Ngài, sự tin cậy ấy đưa họ vượt lên trên mọi sợ hãi.
Các nhà tâm lý học cho chúng ta biết có sự sợ hãi phá hoại và sự sợ hãi lành mạnh.
Sự sợ hãi lành mạnh không có tính cách phá hoại, nó giúp chúng ta chăm lo săn
sóc bản thân và những người thân yêu - Chúa Giê-xu dạy chúng phải sợ Sa-tan.
Khi tôi biết
rằng do sự chết của Chúa Cứu Thế, Ngài đã dứt khoát chiến thắng sự chết và tội
lỗi, thì tôi không còn sợ chết. Kinh Thánh phán: “Vì con cái Thượng Đế là người
bằng xương thịt, nên Chúa Giê-xu cũng đã nhập thể làm người. Ngài chịu chết để
chiến thắng Sa-tan, vua sự chết. Ngài cũng giải cứu những người vì sợ chết, buộc
lòng làm nô lệsuốt đời” (He2:14, 15). Dĩ nhiên điều đó cũng là một cảm xúc.
Sự sợ hãi là một loại cảm xúc, và đắc thắng sự sợ hãi bằng sự can đảm và tin tưởng
dù ở giữa cảnh chết cũng là một cảm xúc và từng trải. Nhưng xin nhắc lại rằng,
không phải cảm xúc dạn dĩ và tin cậy đã cứu chúng ta, mà chính đức tin cứu
chúng ta, sự can đảm và niềm tin cậy chỉ là kết quả của thái độ tin cậy của
chúng ta trong Chúa Cứu Thế. Từ Sáng-thế ký đến Khải Thị, chúng ta được truyền
dạy phải kính sợ Chúa. Chính lòng kính sợ Chúa giúp chúng ta đặt tất cả những nỗi
sợ khác vào đúng viễn ảnh của nó.
Vai trò của
ý thức phạm pháp.
Có một lương
tâm phạm pháp là một sự từng trải. Những nhà tâm lý học có thể định nghĩa đó là
một mặc cảm tội lỗi, và người ta có thể lý luận đánh đổ ý thức tội lỗi ấy đi,
nhưng một khi lương tâm này đã tỉnh thức nhờ áp dụng luật pháp của Thượng Đế,
thì không có sự giải thích nào trấn an được tiếng nói khẩn thiết của lương tâm.
Nhiều phạm nhân cuối cùng đã nạp mình cho cơ quan công quyền vì sự cáo trách của
lương tri phạm pháp khổ sở hơn là những chấn song khám đường.
Trong một
bài báo bàn về ý thức phạm pháp đăng trên ‘Nữu Ước thời báo’ (The New York
Times) ngày 29 tháng 11 năm 1983, Tiến sĩ Helen Block Lewis, một nhà tâm phân học
và tâm lý học tại đại học đường Yale, mô tả ý thức phạm tội là cảm thức “giúp
người ta gắn chặt” với đồng loại mình. Bà giải thích: “Ý thức phạm tội là chất
xi-măng gắn chặt chúng ta lại với nhau, và giữ cho chúng ta vẫn còn là con người.
Nếu chẳng may bạn làm một việc gì đó có hại cho một người khác, thì ý thức phạm
tội thôi thúc bạn phải làm một việc gì đó để sửa lại, để thắt chặt trở lại mối
dây ràng buộc”.
Samuel
Rutherford có đề cập việc “Cầu nguyện để có được một ý thức phạm tội mạnh mẽ và
sống động về tội lỗi; khi ý thức ấy càng lớn bao nhiêu, người ta càng ít phạm tội
hơn bấy nhiêu”. Ý thức về tội và ý thức phạm tội vốn chỉ là một. Nó không chỉ gíup
cho bạn biết khi nào thì bạn cảm thấy bối rối lo âu, nhưng cũng như ý thức về sự
đau đớn, nó có thể giữ cho bạn tránh được những gì gây đau đớn. Nếu không có ý
thức về sự đau đớn, người ta có thể sờ vào bếp nóng bỏng mà chẳng cảm thấy gì cả.
Phần thiết yếu mà ý thức về sự đau đớn đóng góp vào việc giữ gìn sức khỏe cho
chúng ta đã được nghiên cứu và trình bày trong quyển ‘Được sáng tạo cách đáng sợ
lạ lùng ‘(Fearfully and Wonderfully) của Paul Brand và Philip Yancey. Hai ông
giải thích rằng không phải chính bệnh phong cùi đã tạo ra những dị dạng rất phổ
biến nơi những người mắc chứng bệnh ấy. Chính sự mất cảm thức đau đớn khi bị thương
nơi phần đầu các chi đã gây nên sự cùi cụt khủng khiếp gắn liền với bệnh hủi
(chẳng hạn, chạm tay vào lửa mà không biết đau).
Kinh Thánh
dạy rằng Chúa Cứu Thế tẩy sạch lương tâm: “Huyết của dê đực, bò đực và tro bò
cái tơ rảy trên những người ô uế còn có thể thánh hóa, tẩy sạch thân thể họ, huống
chi huyết của Chúa Cứu Thế lại càng có năng lực tẩy sạch lương tâm chúng ta khỏi
hành vi tội lỗi, để chúng ta phụng sự Thượng Đế hằng sống cách trong sạch. Vì
Chúa Cứu Thế đã nhờ Thánh Linh hiến dâng thân Ngài làm sinh tế hoàn toàn cho Thượng
Đế” (He 9:13, 14).
Có một lương
tâm phạm pháp được tẩy sạch và được giải thoát khỏi sự lên án thường xuyên là một
từng trải, nhưng không phải sự tẩy sạch của lương tâm đã làm cho bạn được cứu rỗi
mà chính đức tin trong Chúa Cứu Thế mới cứu bạn, và lương tâm được tẩy sạch là
kết quả của việc đạt đến một mối tương giao phải lẽ với Thượng Đế.
Niềm vui
là một cảm xúc. Nội tâm bình an cũng là một cảm xúc. Tình yêu tha nhân là một cảm
xúc. Quan tâm đến kẻ bị hư mất cũng là một cảm xúc.
Chót hết,
người ta có thể nói: “Tôi tin ở những sự kiện lịch sử Phúc Âm, nhưng tôi vẫn chưa
được cứu”. Có lẽ đúng như thế, vì đức tin cứu rỗi có một bản chất đặc thù - đức
tin cứu rỗi là đức tin sản sanh sự vâng phục, là đức tin đem lại một lối sống.
Có người đã khá thành công trong sự bắt chước lối sống đó ít lâu, nhưng đối với
những người tin cậy nơi Chúa Cứu Thế để được cứu rỗi, thì đức tin này đem lại
cho họ một ước muốn sống bày tỏ từng trải nội tại của đức tin ấy ra bên ngoài. Đó
là một năng lực, kết quả của đời sống tin kính và vâng phục.
Hãy trao
phó đức tin trí thức và đức tin lịch sử của bạn cho Chúa Cứu Thế một cách trọn
vẹn với niềm ao ước thành khẩn, bạn sẽ trở thành con cái của Thượng Đế,căn cứ
trên thẩm quyền của Kinh Thánh. “Tuy nhiên tất cả những người tiếp nhận Chúa đều
được quyền làm con cái Thượng Đế - tiếp nhận Chúa là đặt niềm tin nơi Chúa” (Gi 1:12).
Vì chúng
ta không chiến đấu với người trần gian
nhưng với quyền lực vô hình đang thống trị thế giới tối tăm này và với các tà linh trên trời.
Eph 6:12
nhưng với quyền lực vô hình đang thống trị thế giới tối tăm này và với các tà linh trên trời.
Eph 6:12
ĐẾN đây bạn
đã quyết định rồi - bạn đã được sanh lại - đã được biến cải - đã được xưng công
nghĩa - đã là con cái của Thượng Đế - Việc gì sẽ tiếp diễn? Tất cả chỉ có bấy
nhiêu thôi sao? Chỉ cần một phút quyết định là xong ư? Bạn tự hỏi: “Tôi còn có
những trách nhiệm nào nữa không?”
Phải, bạn
chỉ mới bắt đầu đời sống Cơ Đốc. Bạn vừa mới được sanh vào một thế giới mới -
thế giới thiêng liêng. Mọi việc đều mới mẻ. Thực ra, bạn là một hài nhi về phương
diện thuộc linh. Bạn cần có sự âu yếm, yêu thương chăm sóc và nuôi nấng. Bạn cần
được bồi dưỡng. Bạn cần sự bảo vệ. Đó là một trong những lý do khiến Chúa Cứu
Thế thiết lập Hội thánh. Bạn không thể nào sống đời sống Cơ Đốc đơn độc được. Bạn
cần được giúp đỡ và có sự thông công.
Người mới được
sanh lại trong Chúa Cứu Thế giống như em bé sơ sinh rất cần được yêu thương.
Trong lúc làm công việc xét duyệt lại quyển sách này, tôi và nhà tôi đang nghỉ
hè trên một hòn đảo, cùng với con gái lớn nhất của chúng tôi, con rể tôi và
cháu trai thứ bảy của chúng mới được ba tháng tuổi - cũng là đứa cháu thứ mười
sáu của chúng tôi. Suốt tuần lễ sống với nhau, cậu bé chỉ khóc có hai lần. Tại
sao vậy? Bởi vì cậu bé được tất cả mọi người vuốt ve, yêu thương, chăm sóc,
nuôi dưỡng. Tất cả những gì cậu bé làm, chỉ là ăn, ngủ, và cười vui. Về mặt lý
tưởng mà nói, ngay từ lúc bắt đầu từng trải thuộc linh của mình, các “em bé” Cơ
Đốc nhân rất cần cách nuôi dưỡng như vậy, nhưng rủi thay, thế giới chúng ta hiện
sống đây đã không áp dụng nổi cách bắt đầu đó cho đời sống các Cơ Đốc nhân.
Theo kế hoạch và chủ đích của Thượng Đế, Hội thánh là nơi tiến hành phần bắt đầu
đó.
Có thể bạn
nhận thấy mình có những kẻ thù. Đó là những kẻ thù nguy hiểm, xấu xa sẽ dùng bất
cứ phương cách nào làm cho đời sống Cơ Đốc của bạn bị thất bại. Chỉ vài phút
sau khi quyết định tin Chúa là bạn thấy chúng bắt đầu hành động: hoặc bạn bị
cám dỗ để phạm tội; hoặc bạn có một lúc thất vọng và chán nản. Đúng ra, ngay
sau khi bạn vừa quyết định tin theo Chúa Cứu Thế mọi sự rất hào hứng và hân
hoan. Nhưng dĩ nhiên cũng có những nghi ngờ, những thắc mắc, những nan đề, những
cám dỗ, những chán nản và cả những khó khăn nữa.
Kinh Thánh
dạy rằng bạn có ba kẻ thù sẽ khai chiến với bạn trọn đời. Bạn phải chuẩn bị.
Chúng phải bị đẩy lui.
Trước hết,
ta hãy xem những kẻ thù mình phải đối phó. Chúng ta sẽ lật mặt nạ chúng để xem
chúng thể nào, là ai và chúng hành động ra sao.
Ma quỉ.
Thứ nhất -
ma quỉ. Chúng ta từng biết ma quỉ là một kẻ hùng mạnh chống nghịch Thượng Đế và
đã cám dỗ con cái Ngài. Chúng ta từng thấy là mặc dù bị Chúa Cứu Thế đánh bại
trên cây thập tự, nó vẫn còn sức để quyến dụ con người vào đường ác. Kinh Thánh
gọi nó là “Sa-tan” (Mat 13:19), “quỉ” (Lu 4:33), “quỉ vương” (Gi 8:44), “Kẻ nói dối và cha mọi
người nói dối” (8:44).
“Tên đại tử thù của anh em” (IPhi 5:8), “con rắn ngày xưa” và
“kẻ buộc tội anh em chúng ta” (Kh 12:9-10).
Lúc bạn
quyết định theo Chúa Cứu Thế là lúc nó bị thất bại nặng nề. Bây giờ nó lồng lộn
lên. Và bắt đầu từ đấy nó sẽ cám dỗ bạn, cố dẫn dụ bạn vào đường tội lỗi. Xin bạn
chớ hoảng sợ. Nó không thể cướp đoạt được sự cứu chuộc của bạn và nó không cần
phải cướp đoạt lòng vững tin và chiến thắng của bạn. Nó sẽ vận dụng hết khả năng
gieo giống hoài nghi trong tâm trí để bạn không thể phân biệt sự biến cải của
mình có phải là một thực tại hay không. Bạn không thể lý luận với nó vì nó là kẻ
hùng biện bậc nhất của tất cả mọi thời đại.
Giờ phút
thử thách đến với sự cám dỗ đầu tiên. Bạn đừng lệ thuộc vào cảm xúc của mình;
vì chúng sẽ thay đổi như chong chóng trong cơn gió lốc. Có lẽ phương cách kế tiếp
của ma quỉ là khiến bạn cảm thấy kiêu hãnh và quan trọng - làm cho bạn tin vào
những tham vọng, ham muốn và mục đích của riêng bạn. Khi có cơ hội, ma quỉ sẽ đem
sự ghen ghét vào lòng bạn. Nó sẽ cám dỗ để bạn nói lên những điều không đẹp và
hẹp hòi về người khác. Nó sẽ đặt sự ganh ghét, bất bình và gian manh vào lòng bạn.
Vào một dịp khác, nó sẽ cám dỗ bạn nói dối, và bạn có thể nhận thấy một cách dễ
dàng chính mình là một tên đạo đức giả. Nói dối là một trong những tội lỗi xấu
xa nhất và người ta có thể phạm tội này bằng một ý nghĩ, một lời nói hay hành động.
Bất cứ điều gì có dụng tâm gạt gẫm người khác là sự dối trá. Ma quỉ sẽ tìm cách
khiến bạn trở thành kẻ dối trá. Nó cũng sẽ cố làm cho bạn phải phục vụ nó bằng
cách cám dỗ những người khác phạm tội - dẫn dắt các tín hữu Cơ Đốc khác đi lầm đường
lạc lối. Nếu không cẩn thận, bạn sẽ thấy chính mình là kẻ đang phục vụ cho ma
quỉ. Ma quỉ có quyền lực, khéo léo, xảo quyệt, mưu mô và tinh quái. Nóđược gọi
là “Thần của đời này” (IICo 4:4), “Kẻ thống trị thế gian” (Gi 12:31), “bạo chúa của đế quốc
không gian” (Eph 2:2).
Ma quỉ sẽ
cố gắng làm bạn chán nãn, khiến bạn buông trôi; nó sẽ tìm cách pha loãng lời
làm chứng của bạn; nó sẽ nỗ lực mọi cách để phá hủy mối tương giao giữa bạn với
Chúa Cứu Thế và ảnh hưởng của bạn trên tha nhân.
Bạn sẽ hỏi:
“Làm sao tôi thắng được nó? Tôi phải làm thế nào? Xoay trở lối nào? Có đường
nào thoát không?”
“Anh em
không phải đương đầu với một cám dỗ nào quá sức chịu đựng của con người. Thượng
Đế luôn luôn thành tín. Ngài không để anh em bị cám dỗ quá sức đâu, nhưng trong
cơn cám dỗ Ngài cũng mở lối thoát để anh em đủ sức chịu đựng” (ICo 10:13).
Mấy năm trước
đây, tôi nghe bạn tôi là J. Edwin Orr ví sánh việc Cơ Đốc nhân bị Sa-tan tấn
công với việc một con chuột bị bà nội trợ cầm chổi rượt. Con chuột đã không
nhìn bà nội trợ hay cây chổi, nhưng nó tìm cái lỗ, một lối thoát. Cũng vậy, là
Cơ Đốc nhân, khi bị ma quỉ tấn công, chúng ta cũng phải tìm một “lối thoát”.
Trong câu
trên, Thượng Đế phán rằng Ngài đã mở một lối thoát. Bạn hãy nhớ, sự cám dỗ của
ma quỉ không phải là một dấu hiệu chứng tỏ đời sống bạn không đẹp ý Thượng Đế. Đúng
ra đó là dấu hiệu bày tỏ bạn sống đẹp ý Ngài. Sự cám dỗ không phải là tội lỗi.
Xin bạn nhớ rằng Thượng Đế không bao giờ cám dỗ con cái Ngài - Ngài không bao
giờ làm cho con cái Ngài hoài nghi. Mọi sự nghi ngờ và cám dỗ đều từ ma quỉ mà đến.
Xin cũng hãy nhớ rằng Sa-tan chỉ có thể cám dỗ mà thôi. Nó không thể bắt buộc bạn
chìu theo cám dỗ của nó. Và bạn cũng cần nhớ rằng Sa-tan đã bị Chúa Cứu Thế khuất
phục. Quyền lực của nó đã bị vô hiệu hóa trong đời sống của một Cơ Đốc nhân có
lòng trông cậy hoàn toàn vâng phục Thượng Đế trọn vẹn.
Có một nhà
thơ đã viết:
Quỉ vương
run sợ khi nhìn thấy Người tín đồ yếu đuối nhất cầu xin
Bảo rằng
Sa-tan sẽ bị đánh bại khi chúng ta đọc hay trích dẫn Kinh điển, sẽ bỏ chạy như
một con chó bị tạt nước sôi khi chúng ta chống cự nó, là quá đơn giản hóa sự việc.
Nhưng chúng ta có thể trông cậy vào huyết Chúa Cứu Thế khi bị tấn công. Lắm lúc
chúng ta chỉ cần ẩn mình đằng sau Con Người Chúa Cứu Thế và xin Ngài giải quyết
các vấn đề cho chúng ta. Giu-đe nói: Đến như Mi-ca-ên, là một trong những vị
thiên sứ lớn nhất, khi tranh luận với ma quỉ về thi hài Mai-sen, cũng chẳng dám
nặng lời tố cáo mà chỉ nói: “Cầu Thượng Đế khiển trách ngươi” (câu 9). Đó là việc
chúng ta cần làm - kêu cầu với Thượng Đế.
Kinh Thánh
chép chúng ta “hãy chống lại ma quỉ, nó sẽ lánh xa” chúng ta (Gia 4:7). Nhưng trước đó, Chúa
phán: “Hãy phục tùng... Thượng Đế”. Nếu bạn hoàn toàn vâng phục, phó mình và
quy thuận Chúa Cứu Thế một trăm phần trăm thì bạn có thể “chống lại ma quỉ” và
Kinh Thánh hứa là nó sẽ lánh xa bạn. Ma quỉ sẽ run sợ khi bạn cầu nguyện. Nó bị
đánh bại khi bạn trích hay đọc một đoạn Kinh Thánh cho nó nghe, và nó sẽ chạy
như con chó bị phỏng nước sôi khi bạn chống lại nó. Nhờ quyền lực của Chúa Cứu
Thế, bạn có thể làm cho ma quỉ luôn luôn chạy trốn.
Thế gian.
Kẻ thù thứ
nhì là thế gian. Thế gian có nghĩa là vũ trụ, là hệ thống của thế giới này. Thế
gian có xu hướng dẫn dụ chúng ta vào tội lỗi - những bạn bè xấu, khoái lạc, thời
trang, dư luận và mục đích trần tục.
Trong từng
trải sanh lại của bạn, bạn thấy các thú vui của bạn được nâng lên một bình diện
hoàn toàn mới mẻ và vinh quang. Nhiều người không tin Chúa đã tố cáo rằng đời sống
Cơ Đốc là một bộ luật lệ, những điều cấm kỵ, phủ nhận và ngăn cản. Đây là một
trò dối gạt khác của ma quỉ. Sự thật đó không phải là một chuỗi những “điều
không nên làm” mà là một loạt những “điều nên làm”. Bạn sẽ bận bịu với công việc
của Chúa Cứu Thế nên không có thì giờ dành cho công việc của thế gian.
Giả sử có
người nào mời tôi dùng một đĩa bánh mì vụn sau khi tôi đã dùng một đĩa thịt
ngon lành, tôi sẽ nói: “Dạ, cám ơn ông, tôi đã no rồi ạ!”.
Hỡi các bạn
thanh niên Cơ Đốc, đó chính là bí quyết. Vì được đầy dẫy mọi điều của Chúa Cứu
Thế, yêu mến nhiều điều của Thượng Đế, nên bạn không còn thì giờ dành cho những
thú vui tội lỗi của thế gian này. Kinh Thánh chép: “Kẻ no nê giày đạp tàng mật
dưới chân mình, song điều gì đắng cũng lấy làm ngọt cho kẻ đói khát” (Ch 27:7).
Tuy nhiên,
nếp sống theo thế gian đã bị hàng ngàn tín đồ Cơ Đốc hiểu lầm. Cần làm sáng tỏ điều
này thêm một chút. Có lẽ đây là một trong những khó khăn lớn lao nhất mà một Cơ
Đốc nhân mới mẻ và chưa kinh nghiệm thường gặp phải.
Tấn sĩ
Griffith Thomas đã nói: “Có vài yếu tố của đời sống hằng ngày chính nó chẳng phải
là tội lỗi, nhưng có xu hướng đưa đến tội lỗi nếu các yếu tố ấy bị lạm dụng.
Nghĩa đen của sự lạm dụng là dùng quá độ, và trong nhiều trường hợp, việc sử dụng
quá độ những điều đúng phép trở thành tội lỗi. Hưởng thụ lạc thú là điều hợp
pháp, nhưng lạm dụng sẽ trở thành bất hợp pháp. Hoài bão là một phần thiết yếu
của bản tính, nhưng phải được xây dựng trên những đối tượng hợp pháp và sử dụng
theo một mức độ thích đáng. Công việc hằng ngày của chúng ta, đọc sách, ăn mặc,
giao du với bạn bè và những phương diện khác tương tự, tất cả đều chính đáng và
cần thiết trong cuộc sống, nhưng có thể trở nên không chính đáng, không cần thiết
và có hại. Lo cho những nhu cầu của sự sống là tuyệt đối thiết yếu, nhưng nó có
thể dễ dàng biến thành nỗi ưu tư, và trong một ví dụ Chúa Cứu Thế đã nhắc nhở
chúng ta rằng những lo nghĩ về đời sống này làm nghẹt ngòi hạt giống thiêng
liêng trong lòng. Kiếm tiền là điều cần thiết cho sự sinh sống hằng ngày nhưng
nó có thể trở thành sự ham mê tiền bạc, sau đó tính gian tham lừa đảo của sự giàu
có sẽ xâm nhập và phá hoại đời sống thiêng liêng của chúng ta. Như vậy lối sống
thế gian không "khoanh vùng" trong một giới nào, một cấp nào hay một
hoàn cảnh nào nên chúng ta không thể phân biệt tầng lớp này với tầng lớp kia và
cho rằng giới này sống theo thế gian còn giới nọ sống ngoài thế gian... , một đằng
thì thuộc linh và một đằng thì không thuộc linh. Sống theo thế gian là một trạng
thái tinh thần, một ảnh hưởng thấm nhuần toàn thể đời sống và xã hội loài người,
và chúng ta cần tích cực đề phòng”.
Kinh Thánh
chép: “Đừng yêu thế gian và những gì thuộc về thế gian” (IGi 2:15). Kinh Thánh cũng cảnh
giác rằng “thế gian đang suy vong và tham dục nó cũng bị tiêu diệt, nhưng ai
làm theo ý muốn Thượng Đế sẽ còn lại đời đời” (2:17).
Tuy nhiên,
trong vài trường hợp, những điều này có thể trở thành những vấn đề gây hoang
mang trong đời sống hiện đại của chúng ta. Nhiều bạn trẻ đã hỏi tôi: “Thế này
có sai không?”, hoặc “Thế kia là quấy chứ?”. “Điều này có tội không?”, hoặc “Điều
kia có lỗi chứ?” Một câu hỏi nếu được nêu lên một cách giản dị, thành khẩn và
thiết tha sẽ giải quyết độ chín mươi phần trăm những vấn đề của bạn theo tinh
thần vừa trình bày. Mỗi lần bạn chỉ cần tự hỏi: “Chúa Cứu Thế muốn ta làm gì?”
Hoặc bạn có thể hỏi một câu khác: “Tôi có cần Ngài ban ơn trên chính điều đặc
biệt này không? Chúa Cứu Thế sẽ nghĩ gì về những thú vui, những cuộc giải trí,
những sách vở, bạn bè và chương trình của tôi?” Chúng ta không thể thỏa hiệp
hay mặc cả. Chúng ta phải có lập trường dứt khoát cho Chúa Cứu Thế.
Điều này
không có nghĩa chúng ta phải sống như những người hợm hĩnh hay có mặc cảm tự
tôn trong xã hội, e rằng chúng ta sẽ mắc phải nguy cơ của sự kiêu hãnh thuộc
linh - và tình trạng này còn xấu xa hơn bất cứ lối sống nào khác theo thế gian,
Ngày nay có quá nhiều người xưng danh là Cơ Đốc nhân nhưng lại bắt tay với thế
gian khiến bạn không thể phân biệt được một Cơ Đốc nhân và một kẻ tội lỗi này
ta chớ bao giờ nên vấp phải.
Người Cơ Đốc
nên nổi bật lên như viên kim cương lóng lánh trên một bối cảnh xấu xí. Người Cơ
đốc phải trọn lành hơn tất cả mọi người. Người Cơ Đốc phải minh mẫn, có học thức,
nhã nhặn, khả ái nhưng cương nghị trong những việc mình làm. Người Cơ Đốc phải
tươi cười vui vẻ nhưng không cho phép thế gian dìm mình xuống mức độ của nó.
Kinh Thánh
chép: “Mọi việc, nếu không tin là đúng mà vẫn làm là có tội” (Ro 14:23). Nói cách khác, chúng
ta đừng bao giờ làm những gì chúng ta không hoàn toàn biết chắc và thiếu minh bạch.
Nếu về một điều nào đó khiến bạn nghi ngờ, thắc mắc không rõ điều đó có
"thuộc về thế gian" hay không, chính sách hay nhất là “đừng làm điều đó”.
Xác thịt.
Kẻ thù thứ
ba mà bạn phải đối diện là sự ham muốn xác thịt. Xác thịt là xu hướng xấu xa của
bản ngã nội tại của bạn. Ngay cả khi bạn ăn năn tin Chúa rồi, có lúc những thèm
khát cũ và tội lỗi sẽ trở lại. Bạn sẽ giật mình lấy làm lạ không biết chúng từ đâu
đến. Kinh Thánh dạy rằng bản tính cũ với tất cả những hư hoại của nó vẫn còn đó
và chính những cám dỗ xấu xa từ đó mà ra chứ không từ đâu khác. Nói cách khác đó
là một kẻ nội phản. Khuynh hướng tội lỗi xấu xa luôn luôn hiện diện để kéo ghì
bạn xuống. Chiến tranh đã khởi diễn! Giờ đây bạn có hai bản thể đối chọi nhau
và bên nào cũng nỗ lực tối đa để chiến thắng.
Kinh Thánh
dạy rằng bản tính cũ thích làm những điều nghịch với Thánh Linh trong khi Thánh
Linh muốn bạn làm những việc trái với bản tính cũ (Ga 5:17). Đó là nội chiến của đời
sống trong Chúa Cứu Thế. Bản tính cũ không thể làm đẹp lòng Thượng Đế, không thể
biến cải hay vá víu. Cám ơn Thượng Đế, khi Chúa Cứu Thế Giê-xu chịu chết, Ngài đã
đem bạn đi với Ngài, làm cho bản chất cũ trở nên bất lực và bạn “phải kể mình
thật chết về tội lỗi” (Ro 6:11). Điều này được thực hiện bởi đức tin.
Tuy nhiên,
một lần nữa, bạn cần phân biệt thật cẩn thận giữa sự sử dụng với sự lạm dụng -
sự hợp pháp với sự bất pháp. Một số những điều đó nếu bành trướng sẽ trở thành
thèm muốn tội lỗi hay cũng có thể là không phải.
Tấn sĩ
Thomas nói: “Ý nghĩa nguyên thủy của từ thèm muốn là øng ham thích mãnh liệt”
và không nhất thiết phải là một sự ham muốn tội lỗi vì có những loại ham muốn
thể chất của chúng ta như đói, khát - là điều chúng ta, cũng như loài vật đều
có, và chúng có tính chất tự nhiên chứ không phải tội lỗi. Chỉ có sự lạm dụng
các ham thích đó mới xấu xa - Đói là một ham muốn tự nhiên, nhưng tham ăn là một
ham muốn tội lỗi. Khát là một ham muốn tự nhiên, nhưng vô độ là một ham muốn tội
lỗi. Hôn nhân là điều hợp ý Thượng Đế và những định luật của bản tính, thể chất,
tinh thần và xã hội của loài người. Ngoại tình là một tội lỗi và nghịch ý Thượng
Đế cũng như tất cả những gì thanh khiết trong thể xác, và tâm trí. Nhưng còn có
những ham muốn khác của xác thịt vốn là tội lỗi trên phương diện tư dục và bản
chất. Chẳng hạn như lòng muốn báo thù hay rửa hờn của chúng ta bằng bất cứ giá
nào. Vậy chúng ta phải phân biệt cẩn thận lòng ham muốn hay là một ước vọng mạnh
mẽ, với dục vọng cũng là sự ham muốn nhưng mang tính chất tội lỗi. Trên một vài
phương diện, tội lỗi xác thịt thật đáng ghê tởm hơn hết vì chúng biểu lộ những
khao khát của bản tính muốn làm điều xấu. Không phải ma quỉ hay thế gian hoặc cả
đến chính tấm lòng xấu xa của chúng ta có thể bắt buộc chúng ta phạm tội. Phải
có sự biểu đồng tình và ý chí của chúng ta và chính tại điểm này, bản chất xấu
xa của chúng ta mới xuất hiện với cả quyền lực đáng sợ và khả năng làm quấy của
nó”.
Phao-lô
nói rằng ông không tin cậy vào xác thịt. Tại một chỗ khác, ông nói: “Đừng chìu
theo các ham muốn của xác thịt” (Ro 13:14). Tại một nơi khác nữa,
ông nói: “Tôi đối xử nghiêm khắc với bản thân” (ICo 9:27). Vì thế chính chúng ta
phải hoàn toàn vâng theo và tuân phục Thượng Đế, chúng ta có thể nhờ đức tin mà
bảo đảm rằng bản chất cũ quả thật đã chết rồi.
Chống lại
các kẻ thù.
Như vậy những
điều vừa nói là ba kẻ thù của chúng ta: Ma quỉ, thế gian và xác thịt. Với tư
cách Cơ đốc nhân, thái độ của chúng ta đối với chúng có thể được tóm lược trong
một từ ngữ là chối bỏ. Không mặc cả, không thỏa hiệp hay do dự gì hết. Như Gi 15:1-27 dạy, ở trong Chúa
Cứu Thế là cách sống duy nhất để Cơ đốc nhân có thể sống “trong” thế gian mà
không “thuộc về” thế gian. Có người bảo rằng Phao-lô đã giải quyết nan đề ấy
khi ông viết cho người Ê-phê-sô: “Phao-lô... sứ đồ của Chúa Cứu Thế Giê-xu gởi
cho các thánh đồ ở thành Ê-phê-sô, cho những kẻ trung tín ở trong Chúa Cứu Thế
Giê-xu” (Eph 1:1). Thành Ê-phê-sô là địa chỉ làm ăn kinh doanh của họ, còn
“trong Chúa Cứu Thế Giê-xu” là địa chỉ nhà riêng của họ! Với ma quỉ, chúng ta
chỉ chống cự lại được khi nào chính chúng ta vâng phục Thượng Đế. Với thế gian,
Kinh Thánh chép: “Mỗi con cái Thượng Đế đều có thể nhờ đức tin mà chiến thắng tội
lỗi, tham dục của thế gian” (IGi 5:4). Đối với xác thịt,
Kinh Thánh viết: “Tôi khuyên anh em đi theo sự hướng dẫn của Thánh Linh, để
thoát khỏi dục vọng của bản tính cũ” (Ga5:16).
Đây là những
tin tức vinh quang cho các bạn là những người đã từng tranh đấu trong những trận
chiến cám dỗ. Các bạn không chiến đấu một mình. Kinh Thánh chép rằng: “nhờ
Thánh Linh giết chết những hành vi xấu của thể xác” (Ro 8:13). Bạn nên nhớ, Chúa
Giê-xu đã hứa Ngài sẽ không bao giờ xa lìa hay từ bỏ chúng ta. Hãy nhớ Chúa đã
hứa với chúng ta khi lìa thế gian, rằng Ngài sẽ sai một Đấng khác đến - Ngôi thứ
ba trong Ba Ngôi - tức là Thánh Linh, được gọi là Đấng An-ủi (thật nghĩa là “Đấng
theo để giúp đỡ“) để Ngài có thể ở với chúng ta mãi mãi (Gi 14:16). Chúa Giê-xu phán: “Ta
không để các con bơ vơ như trẻ mồ côi, ta sẽ đến với các con trong Thân vị của
Chúa Thánh Linh.” Ngài đã dạy rằng Ngài là gốc nho, còn các tín hữu là nhánh
(xem Gi 15:1-27).’
Thánh Linh
là một hữu thể có quyền năng hơn hết trong thế giới ngày nay. Thời kỳ Cựu Ước
là thời đại của Đức Chúa Cha. Thời gian Chúa Giê-xu sống trên thế gian là thời đại
của Đức Chúa Con. Từ khi Thánh Linh giáng lâm đến bây giờ, chúng ta đang sống
trong thời đại của Thánh Linh. Kinh Thánh chép: “Hãy đầy dẫy Thánh Linh” (Eph 5:18) theo đúng nghĩa: “Hãy
cứ thường xuyên được đổ đầy Thánh Linh”. Đó là một tiến trình không ngừng nghỉ.
Như Chúa Cứu Thế đã đến để cho nhân loại được nhìn thấy Thượng Đế và cứu chuộc
họ thế nào, thì cũng vậy, Thánh Linh đã đến để khiến mọi người nhìn thấy Chúa Cứu
Thế trong đời sống người tin nhận Ngài, và giúp mỗi Cơ Đốc nhân có thể đem sự cứu
chuộc đến cho thế gian đang chết mất.
Kinh Thánh
phán rằng lúc bạn tiếp nhận Chúa Cứu Thế làm Cứu Chúa, Thánh Linh ngự trị lòng
bạn. Giờ đây thân thể bạn là “đền thờ Thánh Linh và Ngài đang sống trong anh
em” (ICo6:19).
Phao-lô còn cảnh giác rằng nếu người nào không có Thánh Linh của Chúa Cứu Thế,
người đó không thuộc về Ngài.
Bạn nói:
“Nhưng tôi không thấy nhọc lòng gì. Tôi không cảm thấy Thánh Linh của Thượng Đế
trong tôi”.
Đức tin là
một sự kiện.
Hãy loại bỏ
cảm giác. Bạn không được cứu nhờ cảm giác và bạn có thể cảm biết hay không cảm
biết Đức Thánh Linh. Hãy nhờ đức tin tiếp nhận Ngài như một sự kiện. Ngài sẽ sống
trong bạn ngay bây giờ để giúp bạn sống đời sống Cơ Đốc. Ngài sống trong bạn để
suy tôn, làm vinh hiển và ca ngợi Chúa Cứu Thế trong bạn hầu cho bạn có thể sống
một đời sống hạnh phúc, thắng lợi và hoan hỉ, tôn vinh Chúa Cứu Thế.
Kinh Thánh
dạy “phải đầy dẫy Thánh Linh”, bạn sẽ sinh ra trái của Thánh Linh, tức là “yêu
thương, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân từ, hiền lương, thành tín, hòa nhã, tự
chủ” (Ga 5:22-23). Được đầy dẫy Thánh Linh không phải là điều bạn có thể chọn
hay không chọn. Đó là một mệnh lệnh phải tuân theo - một phận sự phải thi hành.
Làm sao biết
mình được đầy dẫy Thánh Linh? Và làm thế nào để được điều đó? Đó có phải là một
kinh nghiệm tình cảm phải trải qua không? Không - Khi bạn hoàn toàn phó mình và
vâng phục Chúa Cứu Thế một cách trọn vẹn, bấy giờ bạn có thể tiếp nhận bởi đức
tin rằng bạn đã được đầy dẫy Thánh Linh của Thượng Đế. Điều này có nghĩa là
Ngài có thể chiếm hữu trọn vẹn đời sống bạn. Sự dâng mình thật ra là sự tuân phục
trọn vẹn, tuyệt đối, vô điều kiện, một sự tuân phục không thay đổi. “Do lòng thương
xót của Thượng Đế, tôi nài khuyên anh em dâng thân thể mình cho Thượng Đế như một
sinh tế sống và thánh, đẹp lòng Ngài. Đó là cách thờ phượng đích thực của người
theo Chúa” (Ro 12:1).
Chỉ có người
Cơ Đốc nào đã dâng mình, được đầy dẫy Thánh Linh mới có thể chiến thắng thế
gian, xác thịt và ma quỉ. Chính Đức Thánh Linh sẽ chiến đấu cho bạn. “Vì chúng
ta không chiến đấu với người trần gian nhưng với quyền lực vô hình đang thống
trị thế giới tối tăm này và với các tà linh trên trời” (Eph 6:12). Đây là một trận chiến
thuộc linh; bạn không thể chống lại ba kẻ thù này với vũ khí thông thường. Chỉ
khi nào chúng ta trở thành phương tiện và để cho Đức Thánh Linh chiến đấu qua
chúng ta, chúng ta mới chiến thắng hoàn toàn được. Đừng giữ lại một điều gì đối
với Chúa Cứu Thế. Hãy để Ngài hoàn toàn làm Chúa và Chủ đời sống bạn. Ngài
phán: “Các con gọi ta bằng Thầy bằng Chúa là đúng, vì đó là sự thật” (Gi 13:13).
Tôi tin rằng
vô kỷ (unself - consciousness) là trái của Thánh Linh. Người nào bảo rằng: “Tôi
được đầy dẫy Thánh Linh” thì đã tự cao tự thị. Có một sứ đồ hay môn đồ nào vỗ
ngực tự xưng: “Tôi được đầy dẫy Thánh Linh” hay không? Nhưng Kinh Thánh có chép
về một số đông người rằng: “Họ được đầy dẫy Thánh Linh”. Kẻ tự cho mình có tình
yêu thương, tự cho mình có sự vui mừng, tự cho mình là người hòa nhã là đã thể
hiện cái tôi, bản ngã rồi. Như một Cơ Đốc nhân từng nhận xét rất đúng rằng: “Bản
ngã là con số không thuộc linh”.
Có một em
bé nghịch một cái lọ rất quí, em cho tay vào trong lọ và không rút ra được. Cha
em cố hết sức giúp em, nhưng vô hiệu. Người ta đang tính chuyện đập bể cái lọ,
chợt người cha nói: “Này con, bây giờ con hãy cố gắng thử một lần nữa. Con hãy
mở bàn tay ra rồi chụm ngón tay lại thẳng như cha làm đây, rồi rút tay ra”. Ai
nấy đều ngạc nhiên khi cậu bé nói: “Ba ơi, không được đâu. Con không thể để mấy
ngón tay như vậy vì làm thế con sẽ đánh rơi đồng bạc mất!”.
Có lẽ bạn
sẽ mỉm cười nhưng có hằng ngàn người trong chúng ta giống như đứa bé ấy, bận
tâm nắm giữ đồng bạc vô giá trị của thế gian nên không thể chấp nhận được sự giải
thoát. Tôi xin bạn hãy bỏ đồng bạc nhỏ mọn trong lòng bạn ra. Hãy vâng phục!
Hãy tiến lên và để Thượng Đế thực hiện đường lối Ngài trong đời sống của bạn.
Bây giờ,
sau khi đã dâng trọn vẹn chính mình cho Chúa Cứu Thế, hãy nhớ rằng Thượng Đế tiếp
nhận những gì bạn đã dâng cho Ngài. “Người nào Thượng Đế dành cho tôi sẽ đến với
tôi. Người đến với tôi chẳng bao giờ bị tôi xua đuổi” (Gi 6:37). Bạn đã đến với Ngài;
Ngài đã chấp nhận bạn. Và Ngài sẽ chẳng bỏ bạn ra ngoài đâu.
Trái của
Thánh Linh.
Chẳng những
bạn dạn dĩ mà thôi, bạn sẽ sinh ra trái của Thánh Linh. Xin hãy nhớ rằng những
trái Thánh Linh là của Thánh Linh. Bạn không thể tự mình sinh ra những trái ấy.
Đó là những trái siêu nhiên làm cho đời bạn hằng ngày mang một bản chất đặc biệt,
và những trái này phải sinh ra một cách siêu phàm. Theo Ga 5:1-26 thì trái đầu tiên
là yêu thương, và từ gốc ấy, sẽ mọc lên tất cả các trái khác. Chúa Giê-xu phán:
“Đây là mệnh lệnh ta: Các con hãy yêu nhau như ta đã yêu các con... khi các con
vâng giữ mạng lệnh ta là các con tiếp tục sống trong tình yêu của ta, cũng như
ta vâng giữ mạng lệnh Cha và sống mãi trong tình yêu của Ngài” (Gi 15:12, 10). Chúng ta phải phân biệt
các ân tứ của Thánh Linh với trái của Thánh Linh. Các ân tứ thì được ban cho -
còn trái thì nhờ tăng trưởng, phát triển mà có. Muốn có sự tăng trưởng, phát
triển, thì phải có mối liên hệ chặt chẽ thiết thân riêng tư nào đó, như gốc nho
và nhánh nho. Chúng ta cần phải đâm rễ vững nền trong Chúa Cứu Thế.
Nhưng
chúng tôi đã vạch rõ trên đây, một trong các đặc điểm của Thánh Linh là vô kỷ,
không tự thị, không nghĩ về chính mình. Hễ khi nào một người tự hào là mình có
trái thuộc linh thì người ấy đang thể hiện bản ngã.
Một trái
khác của Thánh Linh là vui mừng. Một trong những đặc điểm của Cơ Đốc nhân là niềm
vui từ bên trong, không lệ thuộc hoàn cảnh, tình hình bên ngoài. Nê-hê-mi nói:
“Sự vui vẻ của Đức Giê-hô-va là sức lực của các ngươi” (Ne 8:10). S. D. Gordon, nhà văn
ngoan đạo lừng danh của thế hệ trước đã nói về sự vui mừng: “Vui mừng là một
danh từ và là một điều riêng biệt của Cơ Đốc nhân. Nó là mặt trái của hạnh
phúc. Hạnh phúc là kết quả của một việc tốt đẹp đã xảy ra. Vui mừng có gốc rễ ăn
sâu trong nội tâm và chồi nó mọc lên thì chẳng bao giờ bị khô, bất chấp chuyện
gì xảy ra chăng nữa. Chỉ một mình Chúa Giê-xu mới có thể ban cho sự vui mừng đó.
Ngài có sự vui mừng, reo ca thành âm nhạc từ bên trong, ngay dưới bóng thập tự
giá. Đó là một từ ngữ, một sự việc người ta không thể biết được, trừ khi có
Ngài điều khiển từ bên trong”.
Sir
Wilfred Grenfell, một giáo sĩ đã nói: “Sự vui mừng đích thực không do khá giả
hay giàu sang mà có... cũng không phải nhờ được thiên hạ ngợi khen, nhưng là nhờ
làm một việc gì đó thật xứng đáng”. Còn Alexander MacLaren thì nói: “Theo đuổi
sự vui mừng là đánh mất nó. Phương pháp duy nhất để có được nó là gắn bó với
con đường nhiệm vụ mà chẳng nghĩ đến sự vui mừng, cũng như con chiên, nó chắc
chắn chạy đến mà không cần tìm kiếm, một khi chúng ta đã đi đúng đường thì vị
thiên sứ của Thượng Đế là niềm vui sẽ chắc chắn tìm đến với chúng ta”.
Sẽ có sự
bình an. Phao-lô nói: “Chúng tôi bị áp lực đủ cách, nhưng không kiệt quệ, bị
hoang mang, thắc mắc nhưng không bao giờ tuyệt vọng, bị bức hại nhưng không mất
nơi nương tựa, bị quật ngã nhưng không tiêu diệt” (IICo 4:8-9). Chúng ta có thể liệt
kê tất cả những gì phi thường còn lại - nhẫn nại, nhân từ, hiền lương, thành
tín, hòa nhã, tự chủ, và sẽ thấy tất cả các trái đó kết quả như thế nào trong đời
sống những người thật sự đã vâng phục và được đầy dẫy Thánh Linh.
Chiến thắng
là của bạn. Hãy đòi hỏi lấy! Nó là đặc quyền chính yếu của bạn. Browning nói: “Điều
tốt nhất đang ở trước mặt”. Nói như thế không có nghĩa là Cơ đốc nhân chẳng bao
giờ gặp thất bại hay phải từng trải nhiều giai đoạn xứng đáng trong đời sống.
Nhưng nó có nghĩa là Chúa Cứu Thế cùng đi với bạn bất chấp mọi vấn đề, mọi tình
huống. Sự bình an sẽ đến giữa khi gặp vấn đề và bất chấp tất cả.
Hãy làm
cho người khác điều các con muốn người ta làm cho mình!
Lu 6:31
Lu 6:31
DÙ là chơi
trò chơi, lái xe, hay làm bánh, nếu muốn thành công, bạn phải tuân theo một số
luật lệ nào đó. Tôi nhớ rất rõ việc đã xảy ra mấy năm trước đây gần nhà tôi ở
Montreat, Bắc Carolina. Con đường giữa Black Mountain và Asheville được mở rộng
từ hai đường thành bốn đường cho xe lưu thông. Suốt mấy tuần lễ thi công không
có vạch sơn phân đường. Đêm nọ, một tai nạn xe thảm khốc làm năm người chết bởi
vì “luật đi đường” đã không được đánh dấu rõ ràng.
Kinh Thánh
dạy rằng đời sống Cơ Đốc là một đời sống tăng trưởng liên tục. Khi đã được tái
sanh, bạn được sanh vào thế giới thuộc linh. Bạn trở nên một hài nhi trong gia đình
Thượng Đế. Mục đích của Ngài là làm sao bạn có được tầm vóc trọn vẹn và trưởng
thành trong Chúa Cứu Thế. Nếu bạn cứ ở trong trạng thái ấu trĩ, trở thành một
chú lùn về phần thiêng liêng thì điều này trái với quy luật của Thượng Đế và
thiên nhiên. Trong IPhi 3:18, Kinh Thánh dạy chúng ta phải lớn lên. Điều
này hàm ý bạn cần có sự phát triển đều đặn, liên tục và càng ngày càng gia tăng.
Đọc Kinh
Thánh hằng ngày.
Muốn lớn
lên một cách đúng đắn, cần phải tuân giữ một số luật lệ để sức khỏe thuộc linh được
dồi dào. Trước hết: hằng ngày bạn phải đọc Kinh Thánh. Đó là một trong những đặc
ân lớn của bạn đấy. Đời sống thiêng liêng của bạn cần thức ăn. Loại thức ăn
nào? Thức ăn thuộc linh. Bạn tìm thấy thức ăn thuộc linh này ở đâu? Trong Kinh
Thánh là Lời của Thượng Đế. Kinh Thánh bày tỏ Chúa Cứu Thế, là Bánh Sự Sống cho
linh hồn đang đói và là Nước Sự Sống cho tấm lòng đang khát của bạn. Nếu không
nhận lấy phần bồi bổ thuộc linh hằng ngày, bạn sẽ chết đói và mất sinh lực
thiêng liêng. Kinh Thánh phán: “Anh em đã nếm biết... vậy hãy khát khao Lời
Chúa như trẻ em khát sữa, nhờ đó anh em ngày càng tăng trưởng trong sự cứu rỗi”
(2:2, 3). Bạn hãy đọc Kinh
Thánh, nghiên cứu suy nghiệm và nhớ lấy. Có thể nói chín mươi lăm phần trăm những
khó khăn mà bạn từng trải trong đời sống Cơ Đốc là do việc thiếu đọc và nghiên
cứu Kinh Thánh.
Giả sử có
một nhà khảo cổ học tìm được quyển nhật ký do chính Thành Cát Tư Hãn hay A-lịch-sơn
đại đế viết, hay nguyên bản các bức thư tình của Cơ-lê-ô-pát, hoặc nếu một
trong các phi hành gia tìm được bản thảo của một quyển sách nào đó khi ông ta
lên mặt trăng, thì sẽ có chuyện gì xảy ra? Hãy tưởng tượng cảnh thiên hạ sẽ ùn
ùn kéo đến các hiệu sách để giành mua cho được các bản dịch của một tác phẩm như
thế! Thế nhưng, chúng ta đang có một Quyển Sách mà chính Thượng Đế đã viết cho
nhân loại - vậy mà nhiều người vẫn được cho là văn minh, lại chẳng thèm quan
tâm chú ý gì đến nó, hoặc còn cố công ra sức bài bác, chống đối nó nữa!
Nhiều nơi
trên thế giới các Cơ Đốc nhân vẫn chưa được tự do đọc Kinh Thánh và nghiên cứu
học hỏi Sách ấy với các bạn bè của mình. Thật ra nhiều nơi trên thế giới hiện đang
có một nạn đói thật sự đối với Lời Thượng Đế. Tôi nhớ lại câu chuyện một nhạc sĩ
Trung Hoa trong nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ông này đã ăn năn quy đạo và
tâm linh được củng cố nhờ được đọc từng trang Kinh Thánh, do một người bạn ông
không biết tên xé ra, thỉnh thoảng lén trao cho ông. Cũng có nhiều chuyện kể lại
về các tù nhân sống sót sau hai hoặc ba mươi năm lao động khổ sai, lắm khi bị
tra tấn đánh đập tàn ác nữa, nhưng họ đã ra tù với tâm trí yên lành, hoàn toàn
không chút hận thù cay đắng gì với những kẻ từng giam cầm mình.
Có một câu
chuyện khác nữa về quyền phép của Kinh Thánh tại một bệnh viện tâm thần. Một
thanh niên nọ, vốn là bệnh nhân bị giữ trong một bệnh viện tâm thần, đã viết thư
đến chúng tôi xin một quyển Kinh Thánh. Ngày anh ta được ghi nhận là tỉnh trí
và sau đó được hoàn toàn bình phục đã đúng vào ngày mà anh nhận được quyển Kinh
Thánh và đọc nó. Hiện nay, anh ta đã lập gia đình và tự lo liệu được cho đời sống.
Đừng bằng
lòng đọc lướt qua một đoạn Kinh Thánh cốt để xoa dịu lương tâm. Hãy giấu kín Lời
Chúa trong lòng bạn. Một khúc ngắn được tiêu hóa kỹ có giá trị thiêng liêng lớn
lao cho linh hồn bạn hơn một đoạn dài đọc cách vội vã. Nếu chưa hiểu thấu đáo tất
cả bạn đừng ngã lòng. Nếu bạn không chịu đọc thì quyển sách nào cũng khó hiểu cả!
Hãy đọc những khúc Kinh Thánh dễ trước. Không bao giờ bạn cho em bé sơ sinh ăn
thịt bò nhưng cho em uống sữa trước.
Tôi xin đề
nghị bạn bắt đầu bằng cách đọc sách Phúc Âm Giăng. Khi đọc, Đức Thánh Linh sẽ
soi sáng những đoạn sách cho bạn. Đức Thánh Linh sẽ làm rõ nghĩa chữ khó và làm
sáng tỏ những ẩn ý. Dù không thể nhớ hết, hay hiểu thấu tất cả những gì bạn đã đọc,
xin cứ tiếp tục. Chính việc đọc như thế đó sẽ có hiệu năng thanh lọc lòng trí bạn.
Đừng để việc gì thay thế công việc này trong đời sống hằng ngày của bạn.
Việc học
thuộc lòng Kinh Thánh sẽ giúp bạn những khi không có Kinh Thánh trong tầm tay -
những đêm mất ngủ, lúc lái xe, khi đi du lịch, hoặc khi cần tức khắc đưa ra một
quyết định quan trọng. Nó sẽ an ủi, hướng dẫn, sửa sai, khích lệ, nghĩa là có tất
cả những gì bạn rất cần. Hãy học thuộc lòng Kinh Thánh, càng nhiều càng tốt.
Học tập cầu
nguyện.
Thứ nhì:
hãy học hỏi bí quyết của sự cầu nguyện. Mới đầu những lời cầu nguyện của bạn có
thể lúng túng ấp úng. Bạn có thể sợ sệt và không nói nên lời. Nhưng Đức Thánh
Linh sống trong bạn sẽ giúp đỡ và dạy dỗ bạn. Mỗi lời bạn cầu nguyện đều được đáp
ứng. Đôi khi câu trả lời có thể là “Được”, đôi khi là “Không được” và có khi là
“Hãy chờ”, nhưng dù sao cũng được trả lời.
Cầu nguyện
là cảm thông. Trẻ con đáp ứng lại trước tiên là với cha mẹ nó. Nó chẳng xin xỏ,
đòi hỏi gì cả. Nó chỉ cười khi cha mẹ cười với nó, ậm ừ trong cổ họng khi cha mẹ
trò chuyện với nó. Thế nhưng, những đáp ứng đầu tiên đó đã làm rung động tấm
lòng của mọi người trong gia đình! Cũng vậy, bạn không thể nào tưởng tượng được
nỗi vui mừng của Thượng Đế, khi lần đầu tiên, bạn biết đáp lại tiếng gọi và
tình yêu thương mà Ngài đã dành cho bạn!
Các điều cầu
xin của bạn nên luôn luôn đặt trong điều kiện “Ý Cha được nên”. “Cũng hãy khoái
lạc nơi Thượng Đế, thì Ngài sẽ ban cho ngươi điều lòng mình ao ước” (Thi 37:4). Nhưng sự vui thỏa của
chúng ta trong Ngài phải đi trước việc thực hiện các ước muốn của chúng ta. Thượng
Đế luôn luôn làm những gì tốt đẹp nhất cho con cái Ngài.
Hãy nhớ rằng
bạn có thể cầu nguyện bất cứ lúc nào và ở đâu. Bạn có thể cầu nguyện lúc rửa
chén, đào mương, làm việc tại văn phòng, trong hiệu buôn, trên sân tập thể dục,
cả trong nhà tù, Thượng Đế vẫn nghe bạn! Có một bạn hiện lãnh án tử hình, mỗi
sáng khoảng bốn đến sáu giờ, vẫn cầu nguyện cho chúng tôi. Điều này đã khích lệ
và làm nức lòng chúng tôi.
Nên có một
phương pháp cầu nguyện theo hệ thống. Sự cầu nguyện phối hợp với sự nghiên cứu
Kinh Thánh tạo thành một đời sống Cơ Đốc trọn vẹn và vinh hiển. Kinh Thánh
phán: “Hãy cầu nguyện không ngừng” (ITe 5:17). Nếu trong ngày, bạn
có những lúc biệt riêng cầu nguyện, đời sống vô thức của bạn sẽ được tràn đầy sự
khẩn cầu giữa hai thì giờ biệt riêng cầu nguyện đó. Nếu sáng dậy ra khỏi giường,
bạn chỉ quỳ gối xuống nói vài câu ăn năn tội lỗi, thì không đủ. Phải có những
thì giờ đặc biệt để bạn trò chuyện riêng tư với Thượng Đế. Với một bà mẹ bận rộn
hay một người sống dưới áp lực lớn lao của công việc thì điều đó khó có thể thực
hiện được. Nhưng đây chính là lúc thực hiện sự “cầu nguyện không thôi”. Chúng
ta cầu nguyện trong khi làm việc. Như đã nói, chúng ta cầu nguyện khắp nơi, vào
bất cứ lúc nào.
Ma quỉ sẽ
tấn công bạn trên mỗi bước đường. Nó sẽ khiến trẻ con khóc, điện thoại reo, một
người gõ cửa - sẽ có nhiều lúc gián đoạn, nhưng hãy vững chí! Đừng để bị ngã
lòng. Rồi bạn sẽ sớm thấy rằng những giờ phút cầu nguyện này là lúc vui sướng
nhất trong đời sống bạn. Bạn sẽ mong chờ những giờ phút này với lòng náo nức hơn
bất cứ việc gì khác. Không có sự cầu nguyện liên tục, hằng ngày, có hệ thống, đời
sống bạn sẽ khô khan, chán nản và không kết quả. Không có sự cầu nguyện liên tục,
bạn không bao giờ có thể biết được sự bình an nội tại mà Thượng Đế muốn ban cho
bạn.
Trông cậy
vào Đức Thánh Linh.
Thứ ba:
hãy bền lòng tin cậy vào Đức Thánh Linh. Hãy nhớ rằng Chúa Cứu Thế ngự trong bạn
qua Đức Thánh Linh. Thân thể bạn bây giờ là nơi cư ngụ của Ngôi thứ ba trong Ba
Ngôi. Đừng sai khiến Ngài giúp bạn như sai khiến người giúp việc. Hãy cầu xin
Ngài ngự đến và làm hết mọi sự. Hãy cầu xin Ngài chiếm hữu đời sống bạn. Hãy thưa
với Ngài về tình trạng yếu kém, bất năng, bấp bênh và không tin cậy được của bạn.
Hãy đứng tránh một bên để Ngài thay thế bạn trong tất cả mọi chọn lựa và quyết định
của đời sống bạn. Chúng ta biết rằng Đức Thánh Linh cầu thay cho chúng ta và bổ
khuyết các nhược điểm của chúng ta (Ro 8:1-39).
Bạn không
thể nào đứng vững trong đời sống Cơ Đốc của mình - nhưng Ngài có thể nắm vững bạn.
Thật khó cho Ngài để nắm vững bạn nếu bạn cứ chống đối, chiến đấu và cố sức.
Hãy cứ nghỉ ngơi thoải mái trong Chúa. Hãy buông thả tất cả những sự căng thẳng
và mặc cảm nội tâm. Hãy hoàn toàn nương cậy nơi Ngài. Đừng sợ hãi lo âu về những
quyết định quan trọng - hãy giao cho Ngài quyết định của bạn. Đừng bận tâm đến
ngày mai - Ngài là Thượng Đế của ngày mai, từ khởi điểm Ngài trông thấy chung điểm.
Đừng lo lắng về những nhu cần của đời sống - Ngài sẵn sàng cung cấp. Một Cơ đốc
nhân thật sự đắc thắng là người bất chấp những lo âu, những xung đột nội tâm và
căng thẳng, vẫn luôn tin quyết rằng Thượng Đế đang cầm quyền kiểm soát mọi sự
và cuối cùng sẽ chiến thắng. Hoàn toàn trông cậy vào Thánh Linh, bạn sẽ thấy
nhiều bệnh trạng vật chất và tinh thần biến mất. Dầu chúng ta có những khó khăn
gì, dầu chúng ta gặp hoàn cảnh nào, chúng ta phải nhớ, như Corrie ten Boom thường
nói: “Chúa Giê-xu luôn chiến thắng!”
Thường
xuyên đi nhà thờ.
Thứ tư:
hãy đều đặn nhóm họp thờ phượng Chúa tại Hội Thánh. Cơ Đốc giáo là một tôn giáo
của sự thông công. Theo Chúa Cứu Thế có nghĩa là tình yêu thương, sự công nghĩa,
hầu việc, và những điều này chỉ có thể được thực hiện và bày tỏ qua những mối tương
giao xã hội được tìm thấy trong Hội thánh.
Có Hội
thánh hữu hình và Hội Thánh vô hình. Hội thánh vô hình gồm các tín hữu chân
chính trải qua các thế kỷ và ở khắp thế giới. Hội thánh hữu hình gồm cả tín hữu
Công giáo lẫn Cải chánh - Cải chánh gồm nhiều hệ phái khác nhau. Nhưng Kinh
Thánh đã dạy chúng ta: “Đừng xao lãng việc nhóm họp” (He 10:25). Các Cơ Đốc nhân cần
thông công với nhau.
Hội thánh
là tổ chức của Chúa Cứu Thế trên trái đất. Đó là nơi chúng ta thờ phượng Thượng
Đế, học hỏi Lời Ngài và tương giao với những Cơ Đốc nhân khác. Kinh Thánh gọi Hội
thánh là “một nước thánh”, là “tuyển dân của Thượng Đế”, là “nhà của Thượng Đế
trong Thánh Linh”, là “thân thể Chúa Cứu Thế”. Tất cả những từ ngữ trên đây đều
là những lời nói tượng trưng, những biểu tượng hoặc hình ảnh được dùng để chỉ
tính cách thực tại thiêng liêng của Hội thánh.
Không có
gì thay thế sự nhóm lại với Hội thánh. Nếu là một tín đồ chân chính của Chúa Cứu
Thế, bạn sẽ miệt thị những lý do thoái thác hời hợt như là tiết trời quá nóng,
hay quá lạnh, mưa gió hay tuyết rơi chỉ là những lý do không xứng đáng đối với
một môn đồ chân chính của Ngài. Có nhiều người nói rằng sáng Chúa nhật họ có thể
ở nhà và thờ phượng Thượng Đế trong tâm trí họ. Người nào làm như thế là đã
không dâng hiến cho Thượng Đế sự thờ phượng mà Ngài có quyền hưởng, vì Thượng Đế
là Đấng tạo dựng cả thân thể, tâm trí và linh hồn chúng ta; do đó cả tâm trí và
cơ thể phải tham gia để báo đáp cho Thượng Đế bằng một hành động thờ phượng trọn
vẹn.
Tuy nhiên,
hiện nay tại nhiều nước, việc nhóm lại trong các nhà thờ không được khuyến
khích. Nhiều năm qua, các tín hữu bị buộc phải nhóm lại trong các tư gia, có lẽ
chỉ có từng gia đình riêng rẽ hoặc vài thân hữu là Cơ Đốc nhân nhóm lại với
nhau mà thôi. Chẳng hạn tại Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, chính phủ vừa cho mở
cửa lại một số các nhà thờ vốn đã có từ lâu. Các Cơ Đốc nhân rất cần có nhau;
chúng ta cần nhóm lại với nhau để cùng thờ phượng Thượng Đế, và chẳng có gì
thay thế được việc đi nhóm lại tại nhà thờ.
Đồng thời,
tôi nghĩ là chúng ta phải tri ân ngành truyền giảng bằng các phương tiện điện tử.
Hiện có rất nhiều bệnh viện, các nhà dưỡng lão hoặc cả các khám đường nữa, ở đó,
phương tiện duy nhất để người ta có thể “đi nhà thờ” là xem vô tuyến truyền
hình hay nghe đài phát thanh.
Mặt khác,
nhiều người nói rằng họ có thể ở nhà và nghe một bài giảng phát thanh và cho rằng
điều này thay thế cho buổi nhóm tại nhà thờ. Nghĩ như vậy là không đủ. Bạn
không đi nhà thờ để nghe một bài giảng. Bạn đi nhà thờ để thờ phượng Thượng Đế
và hầu việc Ngài trong sự thông công với những Cơ Đốc nhân khác. Bạn không thể
là một Cơ Đốc nhân thành công và sung sướng nếu không trung tín nhóm lại với Hội
Thánh. Trong Hội thánh bạn sẽ tìm thấy chỗ hầu việc của mình. Chúng ta được cứu
để hầu việc. Người Cơ Đốc sung sướng là người Cơ Đốc đang phục vụ.
Làm một Cơ
Đốc nhân biết làm chứng.
Thứ năm:
hãy trở thành một Cơ Đốc nhân biết làm chứng. Nếu bạn trung tín thực hành bốn
luật lệ vừa trình bày cách, thì luật lệ thứ năm này tự nhiên sẽ được bạn thực
hành - giống như hiện tượng tất yếu của một cốc nước được liên tục rót đầy thì
nó phải chảy tràn ra vậy.
Cách đây
ít lâu, tôi gặp một vấn đề còn quan trọng hơn nhiều, là làm chứng về chính đời
sống mình hay làm chứng Lời Chúa? Và câu trả lời là: “Trong hai cánh của chiếc
máy bay, cánh bên mặt và cánh bên trái, thì cánh nào quan trọng hơn?” Cho rằng
như vậy là khôn khéo lắm rồi nên một ngày nọ, lúc lái xe đưa một số giáo sĩ đi ăn
trưa, tôi lập lại câu trả lời đó. Có một vị lên tiếng và bảo rằng “Đáp như vậy
là khôn khéo lắm. Nhưng không đúng”. Tôi ngạc nhiên, hỏi bà giáo sĩ muốn ngụ ý
gì. Bà đáp: “Qua cả Kinh Thánh, Thượng Đế chỉ hứa ban phước cho Lời Ngài, chớ
không phải là cho đời sống chúng ta: ời ta đã đi ra sẽ không trở về luống-nhưng...
nhưng sẽ làm trọn công việc nó... Ai có Lời ta, hãy truyền giảng Lời ta thật
trung tín... Chúa phán vậy“.” Tôi nhận rằng bà nói đúng. Chúng ta phải chịu
trách nhiệm với Thượng Đế về cuộc đời mình, nhưng trong Lời Ngài, Ngài đã hứa
là sẽ ban phước cho Lời ấy, và điều đó giải thích tại sao có một nhạc sĩ nọ, nhờ
nhặt và đọc được một tờ Kinh Thánh bị xé rời mà đã ăn năn quy đạo. Việc ấy cũng
giải thích được lý do tại sao một bác sĩ giải phẫu tại Bồ-đào-nha, sau một ngày
lội bùn và trở về nhà, thấy có một mẫu giấy dính vào giày mình, ông gở nó ra, đọc
được một phần trong Lời của Chúa, và sau đó ông ăn năn quy đạo.
Bây giờ bạn
được bổ nhiệm làm đại sứ cho Vua của các vua. Bạn phải treo cao lá cờ của quốc
gia bạn trên tòa đại sứ của mình. Giả tỉ như đại sứ Việt-nam tại Ba-tư ra lệnh
hạ cờ Việt xuống vì nó không được người Ba-tư biết đến - thì chính phủ Việt-nam
sẽ triệu hồi ông đại sứ ngay lập tức - ông không xứng đáng đại diện cho Việt-nam.
Nếu bạn
không muốn treo cờ của bạn tại nhà, trong văn phòng, trong cửa hiệu, trường đại
học, thì quả là bạn không xứng đáng làm đại sứ cho Chúa Cứu Thế! Bạn phải bày tỏ
lập trường mình và cho tất cả những ai ở chung quanh bạn biết rõ bạn là một Cơ Đốc
nhân. Bạn phải làm chứng về Chúa Cứu Thế!
Chúng ta
làm chứng bằng hai cách: bằng đời sống và bằng lời nói - chỉ một trong hai cách
không đủ. Sau khi chúng ta đã biến cải, mục đích của Thượng Đế đối với bạn và
tôi là chúng ta trở nên những người làm chứng về ân điển và quyền năng cứu chuộc
của Ngài. Bạn phải là chiến sĩ của Chúa Cứu Thế. Bạn phải là người phút giây
nào cũng sẵn sàng cho Ngài.
Chúa Cứu
Thế phán: “Ai công khai xưng mình là môn đệ ta, ta cũng sẽ công nhận họ trước mặt
Cha ta trên trời” (Mat 10:32). Sách Cong 28:23 trình bày cảnh trạng
rất cảm động. Phao-lô, khi bị cầm tù tại La-mã, từ sáng đến tối đã thuyết phục
nhiều người về Chúa Giê-xu. Đối với chúng ta, hằng ngày phải có người nói:
“Trông kìa có người gieo giống đi ra đặng gieo”.
Người mang
tin tức rất ít khi có sáng kiến mới lạ. Ông chỉ có mỗi một nhiệm vụ là đem thư
từ hay tin tức từ sở đến người nhận. Có thể ông không thích mang tin. Tin tức
mang đi có thể là chuyện buồn bực, lo rầu cho người nhận. Ông không thể dừng lại
giữa đường, bóc phong bì và thay đổi nội dung trong điện tín. Phận sự của ông
là mang tin.
Chúng ta
là những Cơ Đốc nhân có Lời của Thượng Đế. Đấng chỉ huy vĩ đại đã phán: “Hãy đi
và mang sứ điệp này đến cho một thế giới đang chết mất”. Một số người sẽ không
chú trọng đến sứ điệp. Một số người sẽ xé sứ điệp và thay vào bằng một sứ điệp
khác. Một số người bỏ bớt đi một đoạn của sứ điệp. Một số người nói với dân
chúng rằng Thượng Đế không có ý nói như vậy. Người khác nói rằng thật ra Ngài
không viết sứ điệp nhưng chính những người thường hiểu sai ý nghĩa của sứ điệp đã
viết ra.
Chúng ta
hãy nhớ rằng sứ đồ Phao-lô đã cổ vũ những người Cơ Đốc thời xưa chỉ nên dạy dỗ
Lời Chúa. Nên nhớ rằng chúng ta đang gieo giống. Một số hạt giống có thể rơi
trên đất chai cứng và một số rơi giữa gai gốc, nhưng công việc của chúng ta là
cứ tiếp tục gieo giống. Chúng ta không vì cớ đất đai có vẻ không kết quả mà ngừng
gieo giống.
Chúng ta đang
cầm một ngọn đèn. Chúng ta phải làm cho đèn chiếu sáng. Ngọn đèn có thể chỉ là
một cây nến leo lét trong một thế giới tối tăm, nhưng nhiệm vụ của chúng ta là
soi sáng nó ra.
Chúng ta đang
thổi kèn. Trong sự ồn ào ầm ĩ của chiến trận, tiếng của chiếc kèn nhỏ có vẻ lạc
lõng nhưng chúng ta vẫn phải tiếp tục báo động cho những người đang lâm nguy.
Chúng ta đang
nhóm lửa. Trong thế giới lạnh lẽo đầy ghen ghét và ích kỷ, ngọn lửa yếu ớt của
chúng ta có vẻ như vô hiệu, nhưng chúng ta phải tiếp tục làm cho lửa cháy.
Chúng ta đang
đập búa. Những nhát búa có vẻ như làm trói tay chúng ta, nhưng chúng ta phải tiếp
tục. Có lần Amy Carmichael ở Ấn Độ hỏi một người thợ đục đá nhát búa nào làm vở
tảng đá. Người thợ đáp: “Nhát đầu và nhát chót, và tất cả những nhát ở giữa nữa.”
Chúng ta
có thức ăn và thế giới đang đói. Người ta có vẻ như quá bận rộn tìm cách nuôi sống
bằng những thứ khác nên sẽ không nhận lãnh Bánh Hằng Sống, nhưng chúng ta phải
tiếp tục phân phát thức ăn hằng sống cho linh hồn con người.
Chúng ta
có nước và người ta đang khát khô. Chúng ta phải tiếp tục gọi lớn “Hỡi ai là người
khát hãy đến suối nước”. Lắm khi họ không thể đến được và chúng ta phải đem đến
cho họ.
Chúng ta
phải bền chí. Chúng ta đừng bao giờ bỏ cuộc. Hãy tiếp tục dùng Lời Kinh Thánh!
Chúa
Giê-xu phán rằng một số lớn hạt giống bạn gieo sẽ gặp đất tốt để mọc lên và
sanh hoa kết trái. Chúng ta phải là những người trung tín làm chứng. Từng trải
sâu sắc nhất đối với chúng ta là đem được một người khác về với Chúa Giê-xu.
Tôi được đặc ân đưa nhiều người đến sự nhận biết Chúa Cứu Thế để được cứu. Điều
này đáng giá hơn tất cả tiền bạc trên thế giới. Không có sự sung sướng nào, từng
trải nào, cuộc phiêu lưu thơ mộng nào có thể so sánh được với nỗi xúc động khi
chinh phục một người khác cho Chúa Cứu Thế.
Kinh Thánh
chép: “Người khôn ngoan có tài được linh hồn người ta” (Ch 11:30). “Và những kẻ khôn
sáng được rực rỡ như sự sáng trên bầu trời, và những kẻ dắt đem nhiều người về
sự công nghĩa sẽ sáng láng như các ngôi sao đời đời mãi mãi” (Da 12:3). “Các con là muối của
nhân loại” (Mat 5:13). Muối làm ta khát nước. Đời sống của bạn có làm cho người
khác khao khát nước sự sống không?
Hãy yêu thương.
Thứ sáu: hãy
để tình yêu thương làm nguyên tắc ngự trị trên đời sống của bạn. Chúa Giê-xu
phán cùng những người đi theo Ngài rằng: “Các con có yêu nhau, mọi người mới biết
các con là môn đệ ta.” Kinh Thánh dạy rằng: “Anh em thân yêu, chúng ta hãy yêu
thương nhau, vì tình yêu phát xuất từ Thượng Đế. Những người biết yêu thương chứng
tỏ họ là con cái Thượng Đế, và biết rõ Thượng Đế. Ai không yêu thương là chưa
biết Thượng Đế, vì Thượng Đế chính là tình yêu. Thượng Đế biểu lộ tình yêu khi
sai Con Ngài xuống trần chịu chết để đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh viễn.
Nhìn hành động đó, chúng ta hiểu được đâu là tình yêu đích thực: không phải
chúng ta yêu Thượng Đế trước, nhưng Thượng Đế đã yêu chúng ta, sai Con Ngài đến
hy sinh chuộc tội chúng ta” (IGi 4:7-10).
Trong tất
cả những ân tứ mà Thượng Đế ban cho con cái Ngài, tình yêu thương là điều vĩ đại
hơn hết. Trong tất cả các trái Thánh Linh, tình yêu thương đứng hàng đầu.
Kinh Thánh
tuyên bố rằng là môn đồ Chúa Cứu Thế chúng ta phải yêu thương nhau như Thượng Đế
đã yêu thương chúng ta khi Ngài sai Con Ngài chịu chết trên cây thập tự. Kinh
Thánh phán rằng vào giờ phút chúng ta đến với Chúa Cứu Thế, Ngài cho chúng ta
tình yêu phi thường bởi Đức Thánh Linh, và tình yêu đó tràn trề từ nơi lòng
chúng ta. Bằng cớ lớn lao nhất chứng minh chúng ta là người Cơ Đốc ấy là chúng
ta thương yêu lẫn nhau. Nếu bạn sớm học được bí quyết này của Thượng Đế trong từng
trải Cơ Đốc của mình, bạn đã bước được một bước dài trong đời sống Cơ Đốc trưởng
thành và hạnh phúc.
Hãy là một
Cơ Đốc nhân biết vâng lời.
Thứ bảy:
hãy trở thành một Cơ đốc nhân vâng phục. Hãy dành cho Chúa Cứu Thế địa vị thứ
nhất trong mọi lựa chọn của đời sống bạn. Hãy tôn Ngài làm Chúa và Chủ.
Hãy học hỏi
đối phó với cám dỗ.
Thứ tám: học
hỏi cách tránh sự cám dỗ. Như chúng ta từng biết, sự cám dỗ là điều tự nhiên. Sự
cám dỗ không phải là tội lỗi. Chính sự nhượng bộ mới là tội lỗi. Thượng Đế
không khi nào đem sự cám dỗ đến cho bạn. Ngài cho phép sự cám dỗ thử thách bạn.
Cám dỗ là công việc của ma quỉ. Phải nhận biết điều đó. Một phương cách đối phó
với cám dỗ là trích dẫn Kinh Thánh cho kẻ cám dỗ nghe, nó sẽ luôn trốn chạy vì
nó không chống trả được Lời của Thượng Đế.
Khi Chúa
Giê-xu bị cám dỗ trong đồng vắng, phương tiện duy nhất mà Ngài có là lời Kinh
Thánh. Ngài đã phán ba lần: “Có lời chép rằng”.
Bạn nói với
ma quỉ “Thượng Đế phán” và nó sẽ chạy trốn. Đồng thời hãy để Chúa Cứu Thế bởi Đức
Thánh Linh chiến đấu cho bạn. Như một cô gái nhỏ kia từng nói, “Mỗi lần nghe tiếng
ma quỉ gõ cửa, em nhờ Chúa Giê-xu ra mở hộ”.
Ai cũng bị
cám dỗ nhưng có một số người lấy đó làm thú vị. Hình như họ thích bị cám dỗ. Đuổi
một con chuột bằng một cây chổi, bạn thấy nó không nhìn cây chổi, nó tìm một
cái lỗ. Hãy xây mắt bạn khỏi sự cám dỗ và hướng về Chúa Cứu Thế.
Có lần tôi
hỏi một sĩ quan để biết ngoài mặt trận vị ấy muốn điều gì nơi binh sĩ - sự can đảm
hay sự phục tùng. Viên sĩ quan này trả lời ngay “Sự phục tùng!”
Thượng Đế
muốn các bạn vâng phục Ngài hơn bất cứ điều gì khác. Muốn vâng phục, bạn phải
biết các điều răn của Ngài. Đó là một lý do cần phải nghiên cứu và đọc Kinh
Thánh. Kinh Thánh là địa bàn và là quyển sách luật pháp của bạn. Hãy vâng phục
những điều Thượng Đế phán dạy bạn.
Hãy là một
Cơ Đốc nhân trọn lành.
Thứ chín:
hãy trở thành một Cơ đốc nhân trọn lành. Người ta có lý khi nói rằng: “Một số Cơ
Đốc nhân mải nghĩ về những điều trên trời nên ở thế gian họ không tốt”.
Dĩ nhiên
Kinh Thánh dạy phải tránh xa tội lỗi, nhưng không có chỗ nào Kinh Thánh phán rằng
chúng ta phải sống đặc biệt và bất thường một cách không trọn lành. Bạn phải tươi
vui. Bạn phải hào hiệp, nhã nhặn, sạch sẽ về phần thể xác, tinh khiết về phần
tâm trí, điềm đạm và khả ái. Tán tỉnh vớ vẩn, đàm tiếu lăng nhăng, chuyện vãn mờ
ám, vui đùa khêu gợi là những điều nên tránh như rắn lục. Tác phong phải gọn
gàng sạch sẽ, hấp dẫn và càng đoan trang, giản dị càng tốt. Phải tránh mọi cực đoan.
Hãy cố gắng trở nên người đàn ông hay đàn bà lý tưởng. Đời sống và tác phong của
bạn phải đề cao Phúc âm và làm cho Phúc Âm hấp dẫn đối với người khác. Như Tấn
sĩ Barnhouse đã nói rất đúng: “Người ta có thể không đọc Phúc Âm trong quyển
Kinh Thánh bìa da mạ vàng hay bìa vải; nhưng người ta không thể không đọc Phúc
Âm trên đời sống của người Cơ Đốc trung tín với Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Hãy vượt
trên các hoàn cảnh.
Thứ mười:
hãy sống vượt lên trên mọi hoàn cảnh. Thượng Đế đã tạo nên bạn với bản thể hiện
tại. Ngài đã đặt bạn ở vị trí hiện tại để bạn có thể hầu việc và làm vinh hiển
danh Ngài cách tốt đẹp nhất trong hoàn cảnh và địa vị hiện tại đó của bạn. Có một
số người luôn luôn nhìn qua phía bên kia hàng rào vì nghĩ rằng ở đó cỏ xanh hơn.
Họ đã bỏ quá nhiều thì giờ mong được đổi thay và tìm những lời bào chữa tại sao
họ không được như ý, do đó họ đã bỏ qua tất cả những cơ hội tốt và dịp may mắn đối
với họ ngay trong địa vị của họ.
Hãy như sứ
đồ Phao-lô khi ông nói: “Nhưng tôi chẳng ngã lòng, cũng không tiếc mạng sống
mình, chỉ mong dâng trọn cuộc đời cho Chúa và chu toàn nhiệm vụ Chúa Giê-xu ủy
thác, để công bố Tin Mừng về ân phúc của Thượng Đế” (Cong 20:24). Phao-lô đã nói ông từng
trải sự giàu sang cũng như sự nghèo hèn. Ông đã học từng ly từng tí để trở
thành một Cơ Đốc nhân, cả lúc ở trong tù. Đừng để cảnh ngộ đưa bạn vào chỗ sa
sút. Hãy học sống thoải mái và khoáng đạt trong các hoàn cảnh đó, vì nhận biết
chính Chúa luôn luôn ở với bạn.
Những qui
luật và đề nghị này trông có vẻ giản dị - nhưng hãy cố tuân giữ - chúng rất hiệu
nghiệm. Tôi đã thấy chúng được thử nghiệm trong đời sống hằng ngàn người. Tôi đã
trắc nghiệm chúng trong chính đời sống tôi. Tuân giữ một cách thích đáng và
thành tín, chúng sẽ mang lại cho bạn sự bình an linh hồn, hạnh phúc, sự bình an
tâm trí và niềm vui thú, và bạn sẽ học được bí quyết sống một đời sống vui thỏa.
Anh em cũng
được Thánh Linh kết hợp với Chúa Cứu Thế
và với nhau để tạo thành Ngôi Nhà của Thượng Đế.
Eph 2:22
và với nhau để tạo thành Ngôi Nhà của Thượng Đế.
Eph 2:22
CON người
là một sinh vật xã hội, bản tính thích sống quây quần với nhau và cảm thấy an
toàn thỏa mãn hơn hết khi sống giữa đồng loại có cùng một quyền lợi và thái độ.
Trong tất cả những nhóm người kết hợp thành tập thể, tất cả những bộ lạc, chi
phái, tổ chức và xã hội từ trước đến nay, không có đoàn nhóm nào mạnh mẽ hơn, rộng
rãi hay phổ cập hơn Hội thánh.
Thời sơ
khai, con người đã quần tụ để bảo vệ nhau, sau đó rất lâu họ mới biết tổ hợp vì
quyền lợi và những thú vui chung. Với nền văn minh tiến bộ hơn, những “xã hội
kín đáo” (hội kín) được thành hình để hội viên hưởng cái tinh thần “riêng biệt”
và do đó phân biệt họ với những người không phải là hội viên. Những lời thề đặc
biệt, những nghi thức và điều tâm niệm đã được thiết lập và gán ghép nhiều ý
nghĩa trọng đại.
Những nhóm
chủng tộc và quốc gia đã được thiết lập với số người gia nhập giới hạn trong
vòng những người cùng quê quán hay cùng có lòng trung thành dưới một lá cờ. Những
hội đồng hương, những tổ chức ái hữu đại học, những hội thể thao, hội văn chương,
đảng phái chính trị, tổ chức quân sự - tất cả những thứ đó - từ “những câu lạc
bộ chọn lọc nhất” đến những “băng” du đảng ở trung học, đều biểu hiện cho nhu cầu
con người là đi tìm sự an ủi và bảo đảm trong việc giao du với những người tán
thành lối sống của mình, vì lối sống của họ cũng tương tự.
Tuy nhiên,
không có nơi nào con người tìm thấy sự an ủi, yên tâm, bình an cùng một mức độ
như trong Hội thánh, vì tất cả những đoàn nhóm khác đều do con người tạo dựng.
Họ đã vẽ những ranh giới giả tạo và tạo ra ảo ảnh của sự bảo vệ. Trong khi đó Hội
Thánh cung cấp một cơ cấu sống động với sức mạnh nội tại từ chính Thượng Đế
thay vì nhờ cậy những nguồn ngoại tại để có ý nghĩa và sinh lực.
Nguồn gốc
Hội thánh.
Danh từ Hội
thánh xuất phát từ ngữ căn Hy-lạp ecclesia nghĩa là “những người được gọi ra”
hay là một tập hợp dân chúng. Mặc dù danh từ “Hội thánh” đã sớm trở thành một
thuật ngữ Cơ Đốc, nó có một lịch sử tiền-Cơ Đốc. Khắp thế giới Hy-lạp, danh từ
Hội thánh mang ý nghĩa tổ hợp bình thường của một đoàn thể công dân trong một
quốc gia tự do. Một nhóm công dân có thể được dân chúng lựa chọn để thảo luận
và biểu quyết những vấn đề của công cộng. Danh từ “Hội thánh” này cũng đã được
dùng trong Cựu Ước và đã được dịch là “hội chúng” hay “cộng đồng”, một tổ chức
gồm những hội viên được chỉ định làm tuyển dân của Thượng Đế. Do đó chúng ta thấy
trong sách Công-vụ Các Sứ-đồ, Ê-tiên (một trong bảy chấp sự đầu tiên của Cơ Đốc
giáo. Ông là người có tiếng tốt, đầy dẫy đức tin, Thánh Linh và trí khôn; là người
đầu tiên chết vì đạo đã dùng danh ấy từ khi diễn tả Mai-sen “là người thuộc Hội
thánh tại nơi đồng vắng”. Vì vậy, trong thế kỷ thứ nhất, danh từ Hội thánh gợi
cho người Hy-lạp, một ý niệm về một xã hội dân chủ tự trị, và cho người
Do-thái, một xã hội thần quyền mà hội viên là thần dân của Thượng Đế.
Danh từ Hội
thánh được chính Chúa Giê-xu dùng trước tiên để mô tả xã hội Cơ Đốc khi Ngài
phán với Phê-rơ rằng: “Con là Phê-rơ, nghĩa là đá. Ta sẽ xây dựng Hội thánh ta
trên vầng đá này, quyền lực của Địa ngục không thắng nổi Hội thánh đó” (Mat 16:18). Như vậy, chính Chúa
Giê-xu đã sáng lập Hội thánh. Ngài là hòn đá góc nhà vĩ đại và Hội thánh xây dựng
trên đá đó. Ngài là nền tảng của mọi từng trải Cơ Đốc và Hội thánh được xây dựng
trên Ngài. “Vì ngoài nền móng thật đã đặt xong là Chúa Cứu Thế Giê-xu, chẳng ai
có thể đặt nền móng khác” (ICo 3:11). Chúa Giê-xu đã tuyên bố chính Ngài là Đấng
sáng lập Hội thánh và Hội thánh thuộc về Ngài, và chỉ thuộc về Ngài mà thôi.
Ngài đã hứa sẽ sống với và sống trong tất cả những hội viên của Hội Thánh Ngài.
Đây không chỉ là một tổ chức mà còn là một cơ cấu hoàn toàn không giống bất cứ
một cơ cấu nào thế gian này đã từng biết: Chính Thượng Đế sống với và sống
trong những người tầm thường là hội viên của Hội Thánh Ngài.
Chúa
Giê-xu là đầu.
Tân Ước dạy
rằng mặc dù thực sự chỉ có một Hội thánh, có thể có những Hội thánh địa phương,
không hạn chế số lượng, thành lập thành nhiều hệ phái, tổ chức hay hội đồng. Những
Hội thánh địa phương và các đoàn nhóm thuộc những hệ phái có thể được phân chia
theo đường lối quốc gia và thần học hay tùy tính khí của các hội viên. Tuy
nhiên, Tân Ước dạy rằng dù có thể có những sự chia rẽ và phân hóa trong cơ cấu
của Hội thánh, chúng ta vẫn chỉ có một “Chúa” mà thôi. Một thánh ca đã có lời lẽ
như sau: “Nền móng duy nhất của Hội thánh là Chúa Cứu Thế Giê-xu”.
Chúa Cứu
Thế Giê-xu là đầu của Hội thánh vĩ đại và phổ cập này. Mọi sinh hoạt và giáo lý
của Hội thánh từ Ngài mà đến, vì Ngài là nguồn gốc của tất cả mọi từng trải tôn
giáo của người Cơ Đốc.
Trong thời
đại điện tử ngày nay, ta có thể so sánh dễ dàng điều này với một hệ thống có một
tổng đài là nơi hội tụ và nối tiếp nhau của tất cả các đường dây. Trong một hệ
thống hỏa xa, luôn luôn có một văn phòng trung ương ban hành mệnh lệnh, điều
hành mọi chuyến tàu hỏa. Trong quân đội, vị tướng lãnh chỉ huy ra lệnh cho nhiều
đơn vị dưới quyền mình. Các cấp thừa hành có thể hiểu mạng lệnh của cấp chỉ huy
mình theo nhiều cách hơi khác nhau, nhưng lệnh của vị chỉ huy vẫn là căn bản
cho hành động của họ.
Đứng về mặt
Hội thánh, Chúa Giê-xu ở vào địa vị của vị tổng tư lệnh. Bởi lệnh Ngài, Hội
Thánh đã hiện hữu, quyền năng của chính Hội thánh đến trực tiếp từ nơi Ngài, và
mỗi nhóm người trong Hội thánh tùy nghi tuân theo mạng lệnh Ngài càng đúng càng
tốt. Vị tổng tư lệnh mong rằng những mệnh lệnh của ông được thi hành cách trung
thành, Chúa Giê-xu cũng vậy, Ngài mong mỗi nhánh của Hội thánh tuân giữ những lời
dạy dỗ của Ngài cách trung thành trọn vẹn nhất.
Hội thánh đã
từng bị chỉ trích rất nhiều về những tranh cãi nội bộ, những sự vụn vặt và thiếu
đoàn kết hiển nhiên. Tuy nhiên, những điều này chỉ là những vấn đề bên ngoài,
là những xung khắc xảy ra do việc hiểu hơi khác nhau về mạng lệnh của vị tư lệnh
chứ không hề có tác dụng nào trên sự khôn ngoan của vị tướng hoặc quyền uy tuyệt
đối của ông khi ban hành mạng lệnh!
Nghiên cứu
những tín điều căn bản của các hệ phái, bạn sẽ thấy trên căn bản cũng như lịch
sử, những tín điều này hầu như giống nhau. Các hệ phái có thể khác nhau về nghi
thức, chống báng nhau về kỹ thuật phân giải trình bày thần học, nhưng trên căn
bản tất cả đều nhìn nhận Chúa Giê-xu là Thượng Đế nhập thể, Đấng đã chết trên
thập tự giá và đã sống lại để con người có sự cứu rỗi - và đó là tất cả sự kiện
quan trọng cho toàn thể nhân loại.
Hội thánh
- hay nhiều Hội thánh?
Bây giờ
thì bạn đã chấp nhận Chúa Cứu Thế là Cứu Chúa của bạn và đặt niềm tin cậy mình
trong Ngài, bạn đã trở thành một hội viên của Hội thánh vĩ đại phổ thông. Bạn
là một phần tử của gia đình đức tin. Bạn là một phần thân thể của Chúa Cứu Thế.
Bây giờ bạn đã được kêu gọi để vâng phục Chúa Cứu Thế và nếu vâng phục Ngài bạn
sẽ theo gương Ngài, họp với những người khác để thờ phượng Thượng Đế. “Đừng xao
lãng việc nhóm họp như một số người thường làm, nhưng hãy khuyến khích nhau, nhất
là lúc này, vì Chúa gần trở lại” (He10:25).
Thật vậy,
bây giờ chúng ta không bàn đến Hội thánh vĩ đại phổ thông nữa mà đề cập đến Hội
thánh địa phương, Hội thánh trong chính cộng đồng của bạn, Hội Thánh có nhiều
khuyết điểm và thiếu sót mà bạn biết rõ. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng giữa con
người không có gì hoàn hảo và những cơ cấu do con người thiết lập để tôn vinh
Thượng Đế đều đầy dẫy những nhược điểm tương tự. Chúa Giê-xu là con người trọn
vẹn duy nhất từng sống. Còn tất cả chúng ta chỉ là tội nhân đã ăn năn, cố gắng
theo gương tốt đẹp của Ngài, và nếu Hội Thánh xưng rằng chính mình hay bất cứ một
phần tử nào của Hội thánh không lầm lẫn hoặc toàn bích thì đã tự bịt mắt bưng
tai đối với mình.
Có lần
Samuel Rutherford nhận được lời than phiền của một số thành viên trong Hội
thánh bất mãn với vị mục sư và tình trạng chi hội địa phương của họ. Ông đã viết
thư trả lời bằng cách nghiêm khắc trách cứ họ, bảo rằng họ chẳng có trách nhiệm
gì về đời sống của vị mục sư. Nhưng họ phải có trách nhiệm cầu nguyện cho ông
ta, phải cứ ở lại trong chi hội để làm việc cho Chúa. Được như vậy, thì Chúa sẽ
tôn vinh và ban phước cho họ.
Đền Tạm
vào thời Hê-li đã thoái hóa khủng khiếp, đến mức dân chúng khinh dể lễ vật dâng
cho Chúa bởi vì Hê-li “đã biết tánh nết quái gở của các con trai mình mà không
cấm” (ISa3:13).
Nhưng cậu bé Sa-mu-ên vẫn sống trong một môi trường như thế và lớn lên trở
thành một nhà tiên tri lớn.
Trong Tân Ước,
chính các cấp lãnh đạo Đền thờ đã đóng đinh Chúa Cứu Thế vào thập tự giá, thế
nhưng, sau khi Ngài phục sinh và thăng thiên, các môn đệ Ngài vẫn “cứ ở trong Đền
thờ, ca ngợi Thượng Đế” (Lu 24:53).
Khi Chúa
Giê-xu sáng lập Hội thánh, Ngài định ý là các môn đồ Ngài sẽ gia nhập Hội thánh
và trung thành với Hội thánh. Ngày nay, nếu không chánh thức gia nhập một Hội
Thánh nào, bạn có thể ngạc nhiên trước số Hội thánh muốn mở cửa đón bạn. Trong
khi chọn lựa Hội thánh để gia nhập, có thể bạn có xu hướng tự nhiên là trở lại
với Hội thánh của mình thời thơ ấu, hay bạn có thể muốn lựa chọn dựa trên phán đoán
thuộc linh nay đã già dặn hơn của bạn. Gia nhập một Hội thánh không phải là điều
ta có thể thực hiện cách hời hợt, vì nếu Hội thánh thật có ích cho bạn, và quan
trọng hơn nữa, nếu muốn Hội thánh cho bạn cơ hội lớn lao nhất để phục vụ người
khác, bạn phải lựa chọn với lòng nguyện cầu, một Hội thánh mà bạn thấy có thể hầu
việc Thượng Đế một cách đắc lực nhất.
Một Hội
thánh cho tất cả mọi người.
Có người
thấy dễ đến gần Thượng Đế hơn trong những đền thờ tráng lệ và với một vài nghi
thức. Người khác lại thấy họ chỉ có thể tìm được Thượng Đế trong sự giản dị. Người
này chỉ có cảm tình với một loại công việc nào đó, người khác lại cảm thấy dễ
chịu hơn trong bầu không khí khác. Vấn đề quan trọng không phải là chúng ta làm
như thế nào, mà là sự thành thật và mục đích sâu xa của công việc chúng ta làm,
và mỗi người nên tìm gia nhập một Hội thánh để với tư cách cá nhân, chúng ta có
thể thực hiện mục đích đó một cách hiệu quả nhất.
Đừng lầm lẫn
gắn bó mình với vị mục sư nào đó thay vì với chính toàn thể Hội thánh. Vị mục sư
có thể thay đổi - điều này có lợi cho sự bảo trì và khích lệ Hội thánh - nhưng
những chủ trương của Hội thánh vẫn thế; và chính bạn cần trung tín với Hội
thánh và Chúa Cứu Thế. Nếu các hội viên trong hội chúng nhìn nhận rằng chính tình
yêu thương giữa họ đối với Chúa Giê-xu và lòng ước muốn thành thật theo bước Người
đã liên kết họ lại, thì điều đó tạo nên một Hội thánh vững vàng.
Cơ Đốc
nhân thật không đi nhà thờ vì thời trang, vì làm cho mình có một địa vị trong cộng
đồng, vì công khai thừa nhận mình là một người công bình và ngay thẳng. Người Cơ
Đốc chân thật cũng không đi nhà thờ để xoa dịu linh hồn và đem lại cho mình sự
bình an, mặc dù chính điều đó là một trong những phần thưởng dồi dào nhất của
việc gia nhập Hội thánh.
Người Cơ Đốc
chân thật đi nhà thờ không chỉ vì những điều lợi Hội thánh mang lại cho mình,
nhưng còn vì những gì mình có thể đóng góp vào đấy. Người Cơ Đốc đi nhà thờ, để
góp thêm lời cầu nguyện của mình vào lời cầu nguyện của những người khác; để
hòa giọng mình vào những giọng khác ca ngợi Chúa, để thêm sức trong việc cầu
xin Chúa ban phước, để thêm giá trị cho lời làm chứng về ơn cứu rỗi trong Chúa
Cứu Thế Giê-xu. Người Cơ Đốc đi nhà thờ để cùng những người khác thờ phượng Thượng
Đế, cùng chiêm ngưỡng lòng thương xót và yêu thương vô bờ bến của Ngài. Người ấy
cũng đi nhà thờ để có mối thông công cần thiết với các bạn bè cũng là tín hữu
như mình.
Các Cơ Đốc
nhân không tích cực tham gia sinh hoạt của một chi hội địa phương nhắc tôi nhớ đến
một cục than đang cháy bị gắp ra khỏi lò lửa. Chắc bạn cũng từng thấy và biết
việc gì xảy ra rồi. Khi bị đem ra khỏi một lò than đang cháy rực, cục than lần
lần nguội lạnh và tắt đi.
Tại miền
Viễn Tây, khi chó sói tấn công một đàn cừu, việc đầu tiên chúng làm là cố gắng
khiến bầy cừu chạy tan lạc, rồi chúng xông vào để giết con cừu nào bị cô lập.
Hội thánh
là nơi để ký thác ngân quỹ.
Hội thánh
phải là nơi để ký thác ngân quỹ của bạn vào các công trình Cơ Đốc. Kinh Thánh dạy
về sự dâng một phần mười. Một phần mười là phần mười lợi tức của bạn. Phần mười
lợi tức đó thuộc về Chúa. Ngoài phần mười đó, bạn nên dâng cho Chúa tùy theo sự
thạnh vượng Chúa ban cho mình. Dâng tiền là một đức tính Cơ Đốc cần phải dệt
vào nếp sống hằng ngày của chúng ta cho đến khi nó trở thành một phần không thể
phân biệt được với những phần còn lại. Sự rộng rãi là động cơ của chúng ta
trong mọi việc.
Chúa Cứu
Thế phán: “Người cho có phúc hơn kẻ nhận” (Cong 20:35). Ngài hiểu biết sự hiến
dâng làm cho tâm tư ấm áp và linh hồn được thỏa mãn như thế nào. Ngài muốn dành
đặc ân đó cho chúng ta. Sự ích kỷ bắt nguồn từ sự sợ hãi - và một Cơ Đốc nhân
phải đứng vững không sợ hãi. Chúa Giê-xu luôn luôn đứng vững với hai bàn tay mở
ra - chứ không phải nắm chặt cách ích kỷ và tham lam. Nếu được, ta nên dâng hiến
cách âm thầm lặng lẽ. Chúa Giê-xu cũng dạy, khi bố thí chúng ta “... đừng cho
tay trái biết tay phải làm việc gì” (Mat 6:3).
Không thể đo
lường sự hiến dâng bằng tiền bạc, cũng bằng những thùng quần áo cũ. Có khi món
quà lớn lao nhất là sự thân hữu và tình giao hảo. Một câu nói tử tế, một lời
chào thân mật, một buổi chiều dành cho người cô đơn, có thể đem lại nhiều kết
quả cho vương quốc của Thượng Đế. Bạn không thể nào trở thành một người chinh
phục linh hồn, trừ phi bạn đã dự bị để dâng một phần nào của mình. Chẳng những
tiền bạc của bạn, nhưng thì giờ, tài năng của bạn, tất cả đều phải cung hiến
cho việc phục vụ Chúa Cứu Thế.
Không nên
hạn chế sự dâng tiền quá một phần mười bằng những qui luật nhất định hay những
phương cách máy móc, mà nên tùy theo các nhu cầu bạn nhận thấy. Phải căn cứ vào
nhu cầu mà Chúa Cứu Thế đã nêu ra làm luật lệ (Mat 6:1-4). Có thể đó là một người
láng giềng, em bé giao báo hằng ngày, hoặc một người ở Phi châu hay Nam Mỹ xa
xôi. Sự dâng tiền là biểu hiện tình thương của chúng ta đối với Thượng Đế.
Chúng ta dâng cho Ngài để đáp ứng tình thương vĩ đại Ngài đã ban cho chúng ta
và nhờ đó chúng ta gieo rắc tình yêu thương của Ngài rộng ra.
Cơ Đốc
nhân cũng phải chia xẻ các trách nhiệm của cộng đồng khi thì giờ và tiền bạc
cho phép. Những người được tặng sẽ phải biết là bạn đã nhơn danh Chúa Cứu Thế
dâng tặng. Thư kèm theo tiền gửi đến một tổ chức xã hội hoặc từ thiện nên viết:
“Là một Cơ Đốc nhân tin rằng Chúa muốn tôi trợ giúp cộng đồng tùy khả năng, tôi
xin gởi món quà này. Xin Thượng Đế ban phước cho quí vị”.
Hãy cẩn thận
đừng phạm tội ăn trộm đối với Thượng Đế. Kinh Thánh chép: “Các ngươi hãy đem hết
thảy phần mười vào kho, hầu cho có lương thực trong nhà ta, Thượng Đế phán, xem
ta có mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi
không chỗ chứa chăng” (Ma 3:10).
Tấn sĩ
Louis Evans đã nói: “Phúc Âm không vụ lợi, nhưng cần có tiền để phát triển Cơ Đốc
giáo và để cung cấp cho người truyền giảng đạo Chúa”. Hành động dâng hiến cũng
là một hành động thờ phượng như cầu nguyện hay hát thánh ca.
Hội thánh
truyền bá Phúc Âm.
Hội thánh
có mục đích phổ biến Phúc Âm. Hội thánh nhận mệnh lệnh “Vậy, các con hãy đi dìu
dắt tất cả các dân tộc làm môn đệ ta” và làm phép báp-tem cho những ai tin. Sứ
mạng căn bản và chính yếu của Hội thánh là truyền rao Chúa Cứu Thế cho những người
hư mất. Ngày nay thế giới đang kêu cứu vô cùng khẩn cấp, nài xin Hội Thánh giúp
đỡ. Thế giới bị tràn ngập bởi nan đề xã hội, đạo đức và kinh tế. Nhân loại đang
đi xuống và bị cuốn trôi dưới những làn sóng tội ác và nhục nhã. Thế giới cần
Chúa Cứu Thế. Sứ mạng của Hội thánh là quăng dây cứu sinh cho những tội nhân đang
hư mất ở khắp mọi nơi.
Chúa
Giê-xu phán: “Nhưng khi Thánh Linh giáng trên các con, các con sẽ nhận được quyền
năng làm chứng cho ta tại Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, và khắp thế
giới” (Cong1:8).
Với quyền năng của Thánh Linh, chúng ta có thể hợp tác với những Cơ Đốc nhân
khác để chinh phục kẻ khác cho Chúa Cứu Thế. Sáu mươi lăm phần trăm dân chúng
trên thế giới chưa nghe về Phúc Âm của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Trong thế hệ này
chúng ta đã thất bại thê thảm trong việc rao giảng Phúc Âm cho một thế giới đang
cần. Theo các dịch giả bản Kinh Thánh Wycliffe vẫn còn trên ba ngàn ngôn ngữ và
thổ ngữ mà Kinh Thánh chưa được phiên dịch.
Hội thánh đầu
tiên không có Kinh Thánh, không có thần học viện, nhà in, văn phẩm Cơ Đốc, cơ sở
giáo dục, vô tuyến truyền thanh, truyền hình, xe hơi, máy bay vậy mà trong vòng
một thế hệ, Phúc Âm đã được truyền rao ra hầu hết những nơi trên thế giới mà người
ta được biết thời bấy giờ. Bí quyết rao truyền Phúc Âm đó là quyền năng của Đức
Thánh Linh.
Ngày nay
trước những phương pháp truyền thông vô cùng cải tiến, quyền năng của Đức Thánh
Linh vẫn y nguyên. Chúng ta không nên dùng sức riêng của mình làm mọi sự để rồi
phải gặp thất bại.
Ngày nay,
những bàn chân duy nhất mà Chúa Cứu Thế có là bàn chân của bạn. Những bàn tay
duy nhất Ngài có là tay của bạn. Lưỡi duy nhất mà Ngài có là lưỡi của bạn. Hãy
sử dụng tất cả tài năng, phương tiện và phương pháp có thể áp dụng được để chinh
phục người khác cho Chúa Cứu Thế. Đó là sứ mạng lớn lao của Hội thánh. Phương
pháp chúng ta có thể thay đổi. Chúng ta có thể truyền Phúc Âm bằng sự viếng thăm,
giáo dục, những đoàn truyền giáo, cơ xưởng kỹ nghệ, nhóm nhỏ thông công, truyền
thanh và truyền hình, điện ảnh hay phương pháp truyền giảng đại chúng.
Tôi biết rằng
hiện nay, tại nhiều nơi trên thế giới, Hội thánh đang bị đặt ra ngoài vòng pháp
luật, bị mất tín nhiệm, và nhiều khi hầu như còn bị tiêu diệt nữa. Thế nhưng
câu “Huyết của những người tử vì đạo là hột giống tốt cho Hội thánh” rất nhiều
lần vẫn cứ được chứng minh là đúng. Mà Hội thánh của Thượng Đế là một Hội thánh
tập trung vào Kinh Thánh; dầu bị bách hại, vẫn ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn.
“Nơi nào có hai ba người nhóm nhau lại, thì ta ở giữa họ” đã ứng nghiệm đúng
nguyên văn tại nhiều nơi trên thế giới. Ở những nơi như thế, mặc dầu các tín hữu
Cơ Đốc phải chịu nghèo thiếu, học vẫn trung tín dâng phần mười. Và khi có một
thành viên nào gặp hoạn nạn, thì những người khác vẫn góp phần mình để cứu trợ.
Không được cơ hội truyền giảng công khai, họ vẫn tìm cơ hội để làm chứng bằng đời
sống mình. Chẳng hạn khi có một Cơ Đốc nhân bị trừng phạt tàn nhẫn vì một lý do
bất công nào đó nhưng vẫn vui vẻ cam chịu, thì một khách qua đường tình cờ nào đó
sẽ len lén tới gần và rỉ tai người ấy: “Tôi thấy cả. Việc này thật bất công. Vậy
mà bạn vẫn vui!” Thế là người tín hữu Cơ Đốc được cơ hội tốt để san sẻ đức tin
nơi Chúa Cứu Thế của mình.
Cho nên,
tuy Hội thánh của Chúa Cứu Thế có chịu đau khổ, nhưng vẫn tăng trưởng. Thật là
một thách thức để mỗi chúng ta đều cùng hành động giống như vậy!
Hãy làm
cho người khác điều các con muốn người ta làm cho mình!
Lu 6:31
Lu 6:31
TỪ khi quyết
định theo Chúa Giê-xu và bắt đầu học Kinh Thánh, tự bạn thấy mình phải đương đầu
với nhiều trách nhiệm và vấn đề xã hội khác nhau. Bạn đã làm hòa với Thượng Đế.
Bạn không còn chiến đấu và nghịch thù với Ngài nữa. Tội lỗi đã được tha thứ. Bạn
có những chân trời mới cho suy tư của mình - những viễn ảnh mới cho đời sống
mình. Cả thế giới đã thay đổi. Bây giờ bạn bắt đầu nhìn những người khác qua
nhãn quan của Chúa Giê-xu. Những ý kiến và lý tưởng cũ đã thay đổi. Những thành
kiến bạn có trước kia đã bắt đầu biến dạng, lòng vị kỷ vốn là đặc tính của bạn
trên nhiều lãnh vực trong đời sống mình bây giờ không còn nữa. Bỗng nhiên bạn
hiểu ra câu chuyện ngắn ngủi sau: Có người hỏi: “Tôi là người ûi“giữ em tôi
sao?” Và câu trả lời là: “Không, tôi là anh của em tôi”.
Nhiều người
đã từ chối đời sống Cơ Đốc vì nó đã bị trình bày trên bình diện tiêu cực thay
vì tích cực. Họ nói rằng tác phong Cơ Đốc nhân chống tất cả những gì vui thú và
có lợi. Họ nói người Cơ Đốc giống như người đàn bà than phiền mọi việc đáng làm
trên đời này đều là vô đạo đức và bất hợp pháp!
Trái với sự
tin tưởng của thế gian, một Cơ Đốc nhân chân chính không có nghĩa là từ bỏ mọi
thú vui thật sự. Chỉ có thú vui tội lỗi không đến từ Thượng Đế. Sự chấp nhận trọn
vẹn Chúa Cứu Thế và lòng cương quyết để ý chỉ Thượng Đế dẫn dắt hầu như tức khắc
sẽ đem bạn đến nguồn gốc của niềm vui chân chính nhất, đó là sự thông công với
Chúa Cứu Thế. Nếu bạn là người chưa được sanh lại, điều này có vẻ như một tiếng
khóc, rất cách xa sự vui thú, nhưng những ai thật sự đã từng trải mối thông
công với Chúa Cứu Thế hàng ngày đều biết rằng điều này vượt tất cả những sinh
hoạt của thế trần.
Trong bài
giới thiệu tuyển tập George Macdonald, C. S. Lewis viết: “Dường như ông là một...
tay chơi, biết tán thưởng sâu sắc tất cả những gì thật sự đẹp đẽ mà tiền bạc có
thể mua được cũng như những gì không thể mua được bằng tiền”.
Chính
George MacDonald đã viết: “Tôi ao ước nếu có thể được thì luôn luôn có một lò sưởi
cháy rực vào mùa đông, một bình hoa vào mùa hè chào đón mình. Bằng không, hãy để
cho tôi tưởng tượng chúng tốt lành như thế nào, và sau đó tôi vùi đầu vào công
việc. Tôi không nghĩ rằng hài lòng là khinh thường điều ta không có”.
Chính tác
giả Thi-thiên đã viết: “Họ nhờ sự dư dật của nhà Chúa mà được thỏa nguyện; Chúa
sẽ cho họ uống nước sông phước lạc của Chúa” (Thi 36:8). Thượng Đế cũng đã
phán: “Ngài sẽ chẳng từ chối điều tốt lành gì cho ai ăn ở ngay thẳng” (84:11). Phao-lô nói rằng:
“Con hãy khuyên bảo người giàu có ở đời này: đừng kiêu ngạo và tin tưởng nơi tiền
của không bền lâu, nhưng phải đặt hy vọng nơi Thượng Đế, Đấng rộng rãi ban mọi
vật cho chúng ta được hưởng” (ITi 6:17).
Sự kiện
chúng ta thông công hằng ngày với Chúa Cứu Thế phải giúp chúng ta sống cách thực
tế. Lối sống theo Chúa Cứu Thế không bắt buộc người ta phải chối bỏ tất cả những
quyền lợi hay cao vọng nào. Mặc dù Kinh Thánh dạy rằng Chúa Cứu Thế có thể trở
lại bất cứ lúc nào, Kinh Thánh cũng khích lệ chúng ta tiếp tục làm việc như thường
lệ đến khi Ngài trở lại.
Ví dụ,
không có gì sai quấy cả trong việc ăn uống, dựng vợ gả chồng trong thời đại
Nô-ê, ngoại trừ các sinh hoạt đó đã bị băng hoại thành những sự lạm dụng tội lỗi
(Lu 17:26). Cũng không có điều gì sai lầm trong việc mua bán, trù hoạch
và xây cất trong thời đại của Lót, ngoại trừ các sinh hoạt đó đã được theo đuổi
bằng những phương pháp tội lỗi (Lu 17:28). Điều sai lầm quan trọng
trong thời Nô-ê và Lót là người ta khiến cho những sinh hoạt vừa nói trở thành
mục tiêu duy nhất của đời sống mình. Họ không nghĩ gì khác hơn là những vui thú
cá nhân, tài sản cá nhân và những quyền lợi vật chất họ đã góp nhặt. Họ đã trở
thành những kẻ quá mê say với những điều thuộc đời này nên không dành thì giờ
cho Thượng Đế. Điều này không đẹp ý Ngài và Thượng Đế đã đem sự đoán phạt đến
cho những kẻ chống nghịch Ngài.
Có người
nói: “Kinh Thánh không phải được viết ra để khuyến khích người ta chú trọng đến
những công việc của thế gian này. Kinh Thánh giả định rằng người ta đã chú trọng
quá mức lợi quyền thế gian. Kinh Thánh nhằm mục đích khuyến khích con người
nhìn vào những công việc trần thế theo quan điểm những vấn đề thuộc linh có tầm
quan trọng và giá trị lớn lao hơn”.
Kinh Thánh
dạy rằng chúng ta phải thi hành những công việc hằng ngày và phải hãnh diện
trong sự làm trọn những công việc đó một cách tốt đẹp. Chúng ta sinh ra trên đời
này để làm một công việc nào đó, và những ai đòi xưng rằng họ là người Cơ Đốc đều
được dạy dỗ để không những chỉ làm việc mà phải làm việc hết sức mình.
Kinh Thánh
ca ngợi Bết-sa-lê-ên là thợ kim khí, thợ đá và thợ mộc tài ba “Ta đã làm cho người
đầy dẫy Thần của Thượng Đế, sự khôn ngoan, sự thông sáng và mọi sự hiểu biết để
làm mọi thứ nghề thợ, đặng bày ra và chế tạo đồ vàng, bạc và đồng đặng khắc và
khảm ngọc, đẽo gỗ và làm được mọi thứ nghề thợ” (Xu 31:3-5). Gia-cốp và các con
làm nghề chăn chiên. Giô-sép làm thủ tướng. Đa-ni-ên là một chính khách. Cả
Giô-sép và Chúa Giê-xu đều làm thợ mộc và một số môn đồ là ngư phủ. Chúng ta được
nghe kể về hoạn quan xứ Ê-thi-ô-bi coi giữ kho tàng cho nữ vương Can-đác; Ly-đi,
buôn bán hàng sắc tía; Phao-lô, Bê-rít-sin, và A-qui-la làm nghề may lều trại;
Lưu-ca làm y sĩ.
Chắc chắn
lý tưởng Cơ Đốc không đòi hỏi con người phải chối bỏ mọi quyền lợi trong các
sinh họat thuộc đời sống này; nhưng chỉ cần con người tìm kiếm sự hướng dẫn của
Thượng Đế để làm trọn công việc hằng ngày với tất cả khả năng mình và bất cứ
lúc nào cũng giữ cho cả công việc lẫn ước vọng của mình thuận phục Chúa, . Do đó,
Chúa Cứu Thế hứa ban cho sự trợ giúp thiết thực trong đời sống hằng ngày của
chúng ta trên mặt đất này. Ngài giúp đỡ chúng ta trong công việc và chúc phước
cho chúng ta trong sự vui thú của chúng ta.
Trong một
bài khảo luận lý thú F. W. Boreham, trích dẫn sách Ê-sai, kể lại bác phó mộc ở
Na-xa-rét đã khích lệ các thợ vàng trải qua mọi thời đại như thế nào. Chúa
Giê-xu đã tạo cảm hứng cho các nhà văn, các họa sĩ, nhạc sĩ, điêu khắc gia lừng
danh nhất, vốn cùng được Ngài soi sáng cho.
Ngài cũng
giúp đỡ chúng ta để đương đầu với những vấn đề xã hội và thường chính ở điểm
này chúng ta rối trí. Vì chính do các công việc hằng ngày và cách chúng ta đối
phó với những vấn đề xã hội chung quanh mà thế gian nhìn biết Chúa Cứu Thế
trong chúng ta.
Như nhạc
phụ tôi, cố tiến sĩ L. Nelson Bell đã có lần viết trong tờ ‘Nhật báo của Giáo hội
Trưởng lão miền Nam’: “Nếu bạn đi nhà thờ vào ngày Chúa Nhật, người ta có thể ức
đoán rằng bạn là một Cơ Đốc nhân. Nhưng còn những người mà bạn có dịp tiếp xúc
trong suốt tuần ở ngoài đường, trong sở, trong cửa hiệu và nhiều nơi khác thì
sao?” Nghề nghiệp của Cơ Đốc nhân chân chính góp phần vào điều đó. Sự tham gia
và dự phần tích cực vào chương trình và những sinh hoạt của Hội Thánh là điều
không thể tránh được trong đời sống Cơ Đốc. Nhưng như tất cả chúng ta đều biết,
sự mưu sinh, những trách nhiệm với gia đình, những công việc thường ngày, tất cả
phối hợp lại để thử nghiệm bản chất thật của từng trải và đức tin Cơ đốc của
chúng ta. Người khác sẽ thấy gì trong những cuộc tiếp xúc hằng ngày đó? Những bạn
đồng sự của chúng ta trong tuần có nói rằng chúng ta là người Cơ đốc không? Có điều
gì trong chúng ta gợi cho những người tình cờ quen biết, một ý nghĩ là chúng ta
khác với những người không biết Chúa Cứu Thế không? Dĩ nhiên trắc nghiệm thật sự
về đức tin Cơ Đốc phải tìm thấy trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
“Thực tại
của sự xưng nhận đức tin Cơ Đốc của chúng ta được bày tỏ bằng nhiều cách: trong
những điều chúng ta nói cũng như những điều chúng ta không nói; trong những điều
chúng ta làm cũng như những điều chúng ta không làm. Mặc dù Cơ Đốc giáo chính yếu
không phải là một vấn đề ngoại tại, nó vẫn có tính cách gây ấn tượng trong sự đối
thoại, trong các thói quen, trong sự giải trí, quan tâm, và những khát vọng được
ghi nhận trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Liệu cuộc đối thoại của chúng
ta có tôn vinh Chúa Cứu Thế không? Liệu những thói quen của chúng ta có phải là
những thói quen Ngài chấp nhận không? Những nguồn giải trí của chúng ta có phải
là những thứ tiêu khiển mà Ngài có thể tham dự không? Chúng ta có cúi đầu dâng
lời tạ ơn khi dùng bữa ở một nơi công cộng không? Để ý sự chú trọng của chúng
ta đối với những điều vật chất, liệu người ta có thể phát biểu rằng chúng ta
yêu thích những điều cao thượng hay là chúng ta quá quan tâm chính yếu đến thế
gian này? Liệu người ta có nhìn thấy nơi chúng ta một tham vọng để đạt đến một địa
vị không xứng hợp với địa vị một Cơ Đốc nhân không? Chúng ta phải tự hỏi những điều
này và nhiều điều khác nữa vì do những điều đó mà người ta phán đoán để biết
chúng ta có phải là Cơ Đốc nhân hay không”.
Thái độ của
chúng ta đối với vấn đề kỳ thị chủng tộc như thế nào? Thái độ chúng ta đối với
vấn đề tính dục ra sao? Đối với mối tương quan chủ thợ? Thái độ của chúng ta như
thế nào đối với vấn đề phá thai, nếp sống tình dục lệch lạc, lạm dụng ma túy, rượu
và những vấn đề liên hệ với chúng? Tất cả những điều này rất thật và rất thực tế
cần phải được trả lời, giải thích và thực hành trước mặt đồng loại chúng ta.
Nguyên tắc
chỉ đạo trong sự giao thiệp của chúng ta với thế gian phải là “Hãy làm cho người
khác điều các con muốn người ta làm cho mình!” (Lu 6:31).
Nhiều người
đã công kích “Phúc âm xã hội”, nhưng Chúa Giê-xu dạy chúng ta phải truyền giảng
Phúc Âm cho thế gian. Thật ra chẳng hề có một “Phúc Âm xã hội” nào cả. Đó là một
cái tên đặt sai. Chỉ có một Phúc âm duy nhất: “Nếu ai truyền giảng cho anh em một
Phúc Âm nào khác... Người ấy đáng bị Thượng Đế lên án” (Ga 1:9). Đồng thời chúng ta cũng
được truyền dạy trong ITi 5:8 “Ai không săn sóc bà con thân thuộc,
nhất là gia đình mình, là người chối bỏ đức tin, còn xấu hơn người không tin
Chúa”. Chính phủ sẽ đỡ được bao nhiêu gánh nặng nếu các Cơ Đốc nhân đều chịu
trách nhiệm về nhu cầu của người nhà mình.
Chén nước
lạnh đến ‘sau’ và lắm khi là ‘trước’, chớ không phải là để ‘thay thế’cho Phúc
Âm. Hơn ai khác, Cơ Đốc nhân phải quan tâm đến các vấn đề xã hội và các bất
công xã hội. Trải qua các thế kỷ, Hội thánh đã đóng góp nhiều hơn bất kỳ một tổ
chức nào khác, nhằm nâng cao tiêu chuẩn xã hội lên những đỉnh cao mới. Bắt trẻ
con lao động đã bị đặt ngoài vòng pháp luật, chế độ nô lệ đã bị hủy bỏ tại Anh
quốc, Hoa-kỳ và vài nơi khác trên thế giới. Cương vị phụ nữ đã được nâng lên những
độ cao chưa từng thấy trong lịch sử và nhiều sự cải cách khác đã được thực hiện
do ảnh hưởng của những lời dạy của Chúa Giê-xu. Người Cơ Đốc phải dành lấy địa
vị mình trong xã hội với lòng can đảm để bênh vực những gì tốt, đúng và đáng trọng.
Phải là một
công dân tốt.
Thứ nhất:
Người Cơ Đốc phải là một công dân tốt. Kinh Thánh dạy rằng người Cơ Đốc phải
tuân theo luật pháp. Kinh Thánh cũng dạy phải trung thành với quốc gia. Sự
trung thành với quốc gia và lòng yêu nước không có nghĩa là chúng ta không thể
công kích một số luật lệ bất công có thể gây ra sự kỳ thị giữa những tập thể đặc
biệt. Thượng Đế không thiên vị người nào. Mọi người phải có những cơ hội bình đẳng.
Chính quyền gương mẫu cho chúng ta là chính quyền của Thượng Đế.
Kinh Thánh
cũng dạy rằng chúng ta phải hợp tác với chính quyền. Sứ đồ Phao-lô khuyên Ti-mộ-thư:
“... Khẩn nguyện, cầu xin, cầu thay cho mọi người, cho Nhà nước, cho các cấp
lãnh đạo... ” (2:1, 2). Người ta hỏi Chúa
Giê-xu: “Đóng thuế có phải là một việc làm hợp pháp không?” Ngài đã làm gương lưu
đời bằng cách đóng thuế. Điều khiển chánh quyền, duy trì trật tự đều phải có tiền.
Người trốn thuế là ký sinh trùng đứng về phương diện công dân và là một kẻ ăn
trộm thực sự. Không có Cơ Đốc nhân chân chính nào là người trốn thuế. Chúa Giê-xu
phán rằng chúng ta phải “Hãy nộp cho Hoàng đế những gì của Hoàng đế, và trả lại
Thượng Đế những gì thuộc về Ngài!” (Mac 12:17). Chúng ta không phải
chỉ là những người đóng thuế. Chỉ tuân hành luật pháp thôi cũng chưa đủ. Chúng
ta phải mưu cầu và hành động vì lợi ích quốc gia. Có khi chúng ta được kêu gọi để
hiến thân vì nước. Chúng ta phải vui vẻ làm những điều này - như làm cho Thượng
Đế. Chúng ta phải tận tâm trong công việc mình như những công dân tốt.
Chúng ta
phải có lòng bác ái và góp phần vào những tổ chức từ thiện đang làm điều tốt đẹp
để cải tiến nhân loại. Chúng ta nên tham gia các hoạt động cứu trợ và xây dựng đầy
thiện tâm.
Cơ Đốc
nhân phải chú ý đến các cô nhi viện, bệnh viện, nhà dưỡng lão, nhà tù và những
cơ sở xã hội khác. Chúa Giê-xu phán: “Điều răn thứ nhì cũng giống như thế: Phải
yêu thương người đồng loại như chính bản thân!” (Mat 22:39). Hãy tưởng tượng một nước
không có lấy một cơ quan từ thiện nào hết! Chắc không ai muốn sống tại nước ấy
cả.
Tôi nhớ có
đến thăm một xứ trong đó có các nhà dưỡng lão của cả chính phủ lẫn của tổ chức
Cơ Đốc giáo. Trong nhà dưỡng lão của Cơ Đốc giáo chúng tôi thấy tình yêu thương
đang hành động, còn trong nhà dưỡng lão của chính phủ người ta chỉ làm việc một
cách lạnh lùng, chiếu lệ. Vị bác sĩ làm việc cho cả hai nhà dưỡng lão ấy cho biết
những người sống trong nhà dưỡng lão của Cơ Đốc giáo chẳng những hạnh phúc hơn
mà còn sống lâu hơn. Chúng ta phải dự phần vào trong cộng đồng. Những ai có
trách nhiệm phải được kính trọng, ủng hộ và hợp tác. “Mọi người phải vâng phục
chính quyền vì chẳng có chính quyền nào không do Thượng Đế thiết lập” (Ro 13:1).
Phải hiếu
khách.
Thứ nhì:
người Cơ Đốc phải hiếu khách (ITi 3:2). Kinh Thánh dạy rằng
nhà chúng ta phải rộng mở đối với mọi người và những người vào ra trong gia đình
chúng ta phải cảm biết được sự hiện diện của Chúa Cứu Thế. Điều gì Thượng Đế
ban cho chúng ta phải chia xẻ với những người khác. Làm được như vậy, Thượng Đế
sẽ ban ân phước và thịnh vượng cho gia đình chúng ta.
Một quan điểm
đúng đắn về tính dục.
Thứ ba:
Chúng ta phải có thái độ Cơ Đốc đối với vấn đề tính dục. Không chỗ nào trong
Kinh Thánh dạy rằng tính dục là một tội lỗi, mặc dù nhiều nhà bình giải Kinh
Thánh cố gắng trình bày tính dục như thế. Kinh Thánh dạy rằng sự sử dụng sai lầm
tính dục là tội lỗi. Vì tính dục, một hành động nhờ đó tất cả sự sống trên quả đất
này được sáng tạo, phải là một trong những từng trải kỳ diệu, ý nghĩa và thỏa
vui của con người.
Tuy nhiên,
con người với bản chất xấu xa và băng hoại, đã biến hành động yêu thương giữa
hai con người vốn vinh quang toàn vẹn, thành một cái gì thấp hèn, rẻ tiền và dơ
bẩn. Tính dục, nếu tước bỏ tình yêu, sự kính trọng hỗ tương và lòng mong muốn
chân thành trao gởi niềm vui và sự trọn vẹn cho người khác phái, sẽ trở thành
hành động của loài cầm thú mà thôi, và Kinh Thánh đã cảnh cáo chúng ta về điều
này không mơ hồ một chút nào!
Điều quan
trọng, Kinh Thánh là một trong những quyển sách trên thế giới đề cập rõ ràng nhất
về vấn đề tính dục. Kinh Thánh không có thái độ ngăn cấm, không bào chữa cho
tính dục là phải hay quấy. Thái độ tinh quái, bí mật, lúng túng, “tảng lờ như
không có” đối với vấn đề tính dục hoàn toàn là sản phẩm của con người.
Để tìm
cách loại bỏ phương cách bí mật, “chớ nên bàn đến” đối với tính dục, thì nền văn
minh hiện tại của chúng ta lại nhấn mạnh quá mức tính chất máy móc của nó và rất
ít để tâm đến hoàn cảnh thiêng liêng nguồn gốc của sự phát biểu tràn đầy tình
yêu của loài người.
Tòa án xét
xử về những vụ ly dị của chúng ta chứng tỏ con người đã bất lực bi thảm trong
việc thực hiện mối tương giao tính dục lâu bền và tốt đẹp nếu không có một nền
tảng vững chắc cho những giá trị thuộc linh.
Tính dục
là một phần của đời sống mà chúng ta không thể hủy bỏ, mà dù có muốn đi nữa, vì
không có nó mọi sự sống phải đình chỉ. Sử dụng đúng đắn, tính dục có thể biến
gia đình thành Thiên đàng. Dùng sai, tính dục sẽ làm cho gia đình trở nên Địa
ngục. Sử dụng tính dục cách khôn ngoan nó sẽ trở nên một kẻ hầu việc kỳ diệu. Nếu
dùng sai lầm nó sẽ tác hại như một chủ nhân ông ghê gớm.
Những người
Cơ Đốc lấy làm bất bình và bị xúc phạm khi vấn đề tính dục được nêu lên nhan
nhãn trong lời tựa các báo, bị khai thác trong các quảng cáo và sử dụng như một
lối câu khách rẻ tiền bên ngoài các rạp hát. Họ hổ thẹn vì đồng loại mình quá
ngu muội, thô bỉ và trơ trẽn đến nỗi làm ô uế và bóp méo hành động nhờ đó mà
muôn loài được Thượng Đế ban ơn.
Quan điểm
Cơ Đốc giáo về hôn nhân.
Thứ tư: Diễn
tiến tự nhiên là những ai chấp nhận quan điểm Cơ Đốc về tính dục sẽ chấp nhận
quan điểm Cơ Đốc về hôn nhân. Trước khi bạn bước vào hôn nhân, hãy lưu tâm đến
những ngụ ý thuộc linh thật sự làm cho một cuộc hôn nhân trần tục được gắn liền
với thiên thượng. Trong quá trình trưởng thành, chúng ta dần dà học biết về
tình yêu thương, trước hết đối với cha mẹ chúng ta và các thân hữu, và sau đó đối
với một người sẽ phải chia xẻ cuộc đời với chúng ta. Chúng ta đã từng thấy quá
trình này diễn tiến khó khăn như thế nào, vì theo tự nhiên chính sự thù ghét chớ
không phải tình yêu thương đã đến với người có tội chưa được sanh lại.
Nhiều người
đã gặp sự không may ghê gớm vì đã chọn lựa bạn đời mình trong khi vẫn còn ở
trong những sự nhọc nhằn của thế gian, xác thịt và ma quỉ hoặc trong khi người
bạn đời mà họ lựa chọn vẫn còn ở trong tình trạng hoàn toàn tội lỗi. Do đó,
không có gì lạ khi có nhiều cuộc hôn nhân giữa hai linh hồn không hiểu gì về phần
thiêng liêng, không có khả năng yêu thương thật sự và lâu bền, đã chấm dứt trước
các pháp đình chuyên ly dị.
Hôn nhân
là một mối dây liên kết thánh khiết vì giúp cho hai người giải quyết định mạng
thuộc linh của mình. Thượng Đế đã tuyên bố hôn nhân là điều tốt đẹp, vì Ngài đã
biết rằng người đàn ông cần một bạn đường giúp đỡ và người đàn bà cần một người
che chở. Ngài đòi hỏi những người làm chồng và làm vợ không bao giờ được xao
lãng mục đích nguyên thủy của hôn nhân. Vai trò của người vợ là yêu thương,
giúp đỡ và khuyến khích chồng trong mọi trường hợp và người chồng có nhiệm vụ
thương yêu, bảo vệ và nuôi dưỡng vợ con để gia đình tràn đầy sự bình an và hòa
hợp của Thượng Đế. Họ phải thuận phục lẫn nhau, yêu thương nhau.
Những cuộc
hôn nhân tạo dựng trong sự hiểu biết rõ ràng về mục đích và luật pháp của Thượng
Đế không cần đến các tòa án ly dị. Hôn nhân nào thiếu lý tưởng đó trước hết nên
tìm học để biết Thượng Đế mong gì ở người chồng và người vợ, rồi cầu nguyện để được
Ngài dẫn dắt và giúp đỡ trong sự tuân giữ các điều răn Ngài.
Giải pháp
của Cơ Đốc giáo về các vấn đề chủ thợ.
Thứ năm:
Chúng ta phải có thái độ Cơ Đốc trong tương quan chủ thợ. Kinh Thánh phán: “Tôi
tớ phải luôn luôn vâng phục chủ. Không phải chỉ lo làm đẹp lòng chủ khi có mặt,
nhưng phục vụ với tấm lòng chân thành và tôn kính Chúa. Làm việc gì cũng nên tận
tâm như làm cho Chúa chớ không phải cho người. Đừng quên Chúa sẽ tưởng thưởng
anh em phần cơ nghiệp xứng đáng. Vì Chúa Cứu Thế mới là Chủ đích thực của anh
em. Nếu anh em không tận tâm, Chúa sẽ báo trả, Ngài không hề thiên vị” (Co 3:22-25).
Nếu Chúa Cứu
Thế chiếm ưu tiên trong mối tương quan chủ thợ sẽ không có một cuộc đình công
nào hết. Sẽ không có những cuộc tranh chấp dằng dai giữa đôi bên mà không bên
nào có thiện chí nhân nhượng. Chủ nhân sẽ đối xử với thợ thuyền một cách rộng lượng
và thợ thuyền sẽ hăng hái làm việc xứng đáng với đồng lương - vì họ sẽ không những
chỉ làm việc vì đồng lương mà còn làm việc cho Thượng Đế.
Kinh Thánh
dạy rằng mọi công việc lương thiện đều có giá trị và người Cơ Đốc phải là người
công nhân trung tín nhất, có thiện chí và hữu hiệu nhất trong tất cả. Tại hãng
xưởng, người Cơ Đốc phải tỏ ra là một người mong muốn công lý; nhưng không luồn
cúi để thủ lợi bất chính.
Cũng vậy,
chủ nhân Cơ Đốc phải đối xử với thợ thuyền mình bằng sự quí trọng và độ lượng để
làm gương cho những chủ nhân khác. Một người có các ý niệm Cơ Đốc thật sự không
thể không lo lắng đến các biện pháp an toàn, các điều kiện làm việc tốt đẹp và
sự an lạc của những người làm việc cho mình. Người Cơ Đốc sẽ không coi công
nhân như những nhân lực nhưng coi họ như những con người.
Cả hai giới
chủ nhân và thợ thuyền đều phải nhớ rằng các điều kiện cải tiến và sự thông cảm
nhiều hơn mà họ được hưởng ngày nay vốn là kết quả của một sự phục hưng thuộc
linh lớn lao. Các nghiệp đoàn xuất xứ từ Hội thánh và từ các tổ chức phục hưng
mạnh mẽ của Wesley trong thế kỷ thứ mười tám. Sự tự do xã hội cho giới công
nhân bắt đầu khi một lãnh tụ Cơ Đốc là Lord Shaftesbury, một người thuộc hàng
quí tộc, bị gia đình chống đối mãnh liệt đã lãnh đạo cuộc đấu tranh, suốt đời vận
động đòi những điều kiện làm việc được tốt đẹp hơn, bớt giờ làm việc, tăng lương,
và sự đối xử tử tế với công nhân.
Nếu không
có sự phục hưng thuộc linh của thế kỷ thứ mười tám, những thắng lợi do lao động
thu đoạt đã không thực hiện được, hay có thể đã bị đình trệ rất lâu sau đó
trong lịch sử chúng ta. Khi những lãnh tụ lao động đề cập đến việc đặt tôn giáo
ra ngoài vòng pháp luật, không đếm xỉa đến Thượng Đế, Kinh Thánh và Hội thánh,
họ nên nhớ luôn rằng những điều họ có ngày nay là do quyền năng của Phúc Âm
Chúa Cứu Thế.
Một số
lãnh tụ lao động đã trở thành xấc láo, kiêu căng, giàu có, tự mãn và ham mê quyền
thế. Nhiều kỹ nghệ gia cũng vậy. Tất cả những người này phải tự hạ mình trước mặt
Thượng Đế, tìm hiểu những nhu cầu của nhau, hoàn toàn nhờ cậy lẫn nhau; và trên
hết, cố gắng áp dụng Luật Vàng trong tinh thần hết sức thực tế.
Quan điểm
của Cơ Đốc giáo về chủng tộc.
Thứ sáu:
người Cơ Đốc nhìn nhận vấn đề chủng tộc qua quan điểm của Chúa Cứu Thế và chấp
nhận rằng Hội thánh đã thất bại trong sự giải quyết vấn đề lớn lao đó của nhân
loại. Chúng ta đã để cho giới thể thao, các loại hình giải trí, quân đội, giáo
dục và kỹ nghệ vượt qua chúng ta. Hội thánh phải là một người làm chuẩn. Hội
thánh phải tình nguyện làm những gì các tòa án đang thực hiện bằng áp lực và cưỡng
chế. Nhưng nói cho cùng, giải pháp duy nhất thật sự sẽ tìm được nơi chân thập tự
giá khi chúng ta đến với nhau trong tình yêu thương huynh đệ. Dân chúng thuộc mọi
chủng tộc càng đến gần Chúa Cứu Thế và thập giá Ngài bao nhiêu thì họ càng gần
nhau bấy nhiêu.
Kinh Thánh
chép rằng, trong Chúa Cứu Thế không có sự phân biệt dân Do-thái hay dân ngoại
bang, không có đàn ông hay đàn bà, người Hy-lạp hay người dã man, người giàu
hay người nghèo. Kinh Thánh bày tỏ rằng tất cả chúng ta đều là một trong Chúa Cứu
Thế. Nơi chân thập tự giá mặt đất bằng phẳng. Khi Chúa Cứu Thế mở mắt thiêng
liêng cho chúng ta, chúng ta không còn thấy màu da, giai cấp, điều kiện mà chỉ
thấy những con người với những khát vọng, lo sợ, nhu cầu và mong ước của chính
chúng ta. Chúng ta bắt đầu nhìn dân chúng qua đôi mắt của Thầy mình. Hãy kết bạn
với nhau - hãy mời họ về nhà bạn.
Quan điểm
của Cơ Đốc giáo về kinh tế.
Thứ bảy:
Thái độ Cơ Đốc phải nổi bật trong vấn đề kinh tế. Chúa Giê-xu phán rằng đời sống
của một người không nằm trong tài sản của người ấy. Tiền bạc là một tên nô lệ tốt
nhưng lại là một chủ nhân xấu. Tài sản là để sử dụng, hưởng thụ, chia xẻ, bố
thí, chớ không phải để giấu đi. Phao-lô dạy rằng tham tiền là “cội rễ mọi điều
ác” (ITi 6:10). Của cải có nơi có chỗ và có quyền lực riêng, nhưng không được
chiếm giữ ngôi vị hay ảnh hưởng đến uy quyền. Sự tham lam đặt tiền bạc lên trên
tình người. Nó xiềng xích người ham mê và khiến họ trở thành nạn nhân. Nó làm cứng
lòng và ngăn chặn những động lực cao đẹp và hủy diệt những phẩm chất thiết yếu
của đời sống.
Hãy coi chừng
sự tham lam trong mọi giai đoạn và hình thức! Tất cả chúng ta phải tự giữ mình
tránh vấp phạm bằng sự cảnh giác, cầu nguyện, tự chế và kỷ luật. Đời sống không
phải là vấn đề tiền bạc, nhà cửa, ruộng đất, khả năng kiếm ra tiền và thành
tích tài chánh. Không thể dung túng cho sự tham lam biến con người thành nô lệ
cho của cải.
Khi người
ta nhờ Chúa Giê-xu dàn xếp cuộc tranh chấp gia tài giữa hai anh em, Ngài đã từ
chối bằng một lời cảnh cáo và bằng một ví dụ thật hay. Ngài đã kể chuyện người
chủ đất giàu có đang ở giữa thời kỳ thịnh vượng, ông ta có những viễn tượng về
sự giàu có lớn lao hơn nên đã lập những kế hoạch dài hạn sẽ giúp cho cuộc sống
mình được đầy đủ tiện nghi vật chất và vinh quang cá nhân mà ông ta hằng thiết
tha ấp ủ. Rõ ràng đó là một người có tài, biết tiết kiệm, biết chịu khó, dè dặt,
lương thiện và có đạo đức trong công việc làm ăn, nhưng lại là nạn nhân của
lòng ham muốn và tư lợi cũng như nhiều người khác.
Ông đã đo
lường sự thành công của mình bằng những cánh đồng, những vựa lúa đầy, và nuôi dưỡng
linh hồn mình bằng những ảo mộng của loài người. Cuộc đời của ông ta bị tiền bạc
bao bọc. Ông ta đã thiết lập các kế hoạch của mình, không nghĩ gì đến Thượng Đế
hay đến sự bấp bênh của đời sống.
Nhưng Thượng
Đế đã phán quyết lời cuối cùng và những dự định dài hạn đã bị cắt ngắn bởi cái
chết đột ngột. Tài sản gom góp khó nhọc đã trôi tuột qua những ngón tay lạnh
giá để bị phân chia, vung vãi và bị người khác phung phí trong khi chính ông ta
đã phải đứng trước mặt Thượng Đế chẳng có gì để phô bày về đời sống mình trên
thế gian.
Hơn ai hết,
người Cơ Đốc phải nhận thức rằng chúng ta ra đời với hai bàn tay trắng - và
chúng ta sẽ lìa đời với hai bàn tay không. Thật ra chúng ta chẳng sở hữu một
cái gì cả - không tài sản và không ngôi thứ - suốt cả cuộc đời. Chính Thượng Đế
sở hữu tất cả, và chúng ta chỉ là những người quản lý tài sản Ngài trong khoảng
thời gian ngắn ngủi trên mặt đất. Mọi vật xung quanh mà chúng ta kể là tài sản
của mình đó chỉ là những điều Thượng Đế cho mượn, và khi nào chúng ta không còn
ý thức chân lý thấm nhuần này chúng ta trở nên tham lam và ham muốn.
Khi chúng
ta nắm giữ một đồ vật hay một người nào, và nói “cái này của tôi”, khi chúng ta
nhìn những gì người khác có với cặp mắt thèm muốn và dự định “chiếm cho kỳ được
bằng mọi cách” là chúng ta đã quên rằng dù có chiếm được chúng, chúng ta cũng
không thể mang chúng theo khi chúng ta phải tường trình lần cuối trước tòa phán
xét.
Điều này
không có nghĩa là những tài sản của thế gian tự nó là tội lỗi - Kinh Thánh
không nói thế. Kinh Thánh trình bày rõ ràng rằng Thượng Đế mong đợi chúng ta cố
gắng làm điều tốt nhất với tài ba, khả năng và hoàn cảnh sẵn có. Nhưng cũng như
vấn đề tính dục, có một con đường phải và một con đường quấy để tạo nên tiền bạc;
có một cách đúng và một cách sai để thực hiện quyền lực. Có rất nhiều Cơ Đốc
nhân đã hiểu lầm điều này, họ đã mang một niềm hãnh diện thuộc linh rất tội lỗi
và tai hại khi bị nghèo đói, khi phải khoanh tay chờ đợi và nói “Ý Chúa được
nên” trong lúc con cái họ bị đau khổ và bỏ bê. Sứ đồ Phao-lô nói: “Ai không săn
sóc bà con thân thuộc, nhất là gia đình mình, là người chối bỏ đức tin, còn xấu
hơn người không tin Chúa” (5:8).
Chúa
Giê-xu đã thuật một trong những ví dụ rõ ràng nhất của Ngài để minh chứng chính
điểm này. Ngài kể chuyện người giàu giao cho mỗi người làm công của mình một số
tiền để đầu tư khi ông ta đi vắng nơi một xứ xa. Lúc trở về, ông thấy một vài
gia nhân khôn ngoan đã biết đầu tư nên tiền bạc sinh sôi nẩy nở, ông ca ngợi sự
suy tính kỹ càng, tánh thận trọng của họ; nhưng đoán phạt gia nhân sợ hãi và
thiếu sáng kiến không biết phải dùng tiền làm lợi gì đã đem cất giấu phòng kẻ
trộm.
Hãy làm việc
và nhận lãnh kết quả của công lao mình theo luật pháp của Thượng Đế và tiêu
dùng nó để thực hiện những điều răn của Ngài. Hãy dâng hiến một phần mười cho
Chúa. Hãy dâng hiến một phần mười “tài vật và hoa lợi đầu mùa” (Ch 3:9) cách trung tín, vì
Kinh Thánh chép làm như thế là đúng và công bình. Bất cứ lúc nào bạn thấy nghi
ngờ về những giá trị vật chất, hãy mở Kinh Thánh ra và đọc điều Chúa Giê-xu dạy
dỗ về tiền bạc, điều Ngài đã phán về cách kiếm tiền, cách sử dụng và phân phối
tài sản. Hãy tự hỏi: “Trong trường hợp này, Chúa Giê-xu sẽ làm gì?” và hãy tự hướng
dẫn bằng câu tự vấn đó và chỉ câu đó thôi.
Trong số
các bạn thân của tôi, có một kỹ nghệ gia rất giàu có. Ngày nọ trong lúc cùng ăn
trưa với nhau, ông ta điềm tĩnh báo với tôi rằng, hôm qua anh vừa bán được một
sản phẩm trị giá 13 triệu Mỹ kim. Nhưng rồi thình lình anh ta đổi đề tài câu
chuyện bằng cách reo lên một cách thích thú: “Nhưng xin anh hãy nghe điều tôi vừa
mới khám phá được trong Kinh Thánh sáng hôm nay”. Đây quả thật là một con người
biết dành quyền ưu tiên cho mọi việc theo đúng thứ tự của chúng.
Quan điểm
của Cơ Đốc giáo về nhân loại đang đau khổ.
Thứ tám:
Người Cơ Đốc phải lưu tâm đến nhân loại đau khổ quanh mình. Những khu xóm lụp xụp
bẩn thỉu rộng lớn trong chính quốc gia bạn sống phải là một gánh nặng cho bạn.
Sự nghèo nàn và đau khổ của hằng ngàn người trong khu vực bạn ở phải là mối lưu
tâm của bạn. Bạn phải tham gia các tổ chức và hội đoàn để xoa dịu sự đau khổ của
nhân loại quanh bạn. Nhiều người đã để quá nhiều thì giờ vào các công trình cao
cả lại không đóng góp gì hết để giảm thiểu sự khổ đau hiển nhiên ở ngay tầm
tay. Ai là người lân cận của chúng ta? Ấy là người ở gần chúng ta hơn hết. Có
thể đó là vợ, là chồng, là con, hay những người ở sát cạnh nhà ta. Người lân cận
là người ở gần chúng ta hơn hết - sau đó là ở trong thành phố, trong đất nước của
chúng ta - sau nữa là khắp thế giới.
Kinh Thánh
chép rằng dân chúng nghe Chúa Giê-xu phán một cách thích thú. Đi đến đâu Ngài cũng
chữa bệnh cho người ốm, an ủi kẻ buồn rầu, và khuyến khích một cách thực tiễn.
Người Cơ Đốc phải lưu tâm giúp đỡ, thiết lập và phát triển bệnh viện, cô nhi viện,
nhà dưỡng lão, và những cơ sở từ thiện khác đang cố gắng giúp đỡ những người
kém may mắn. Người Cơ đốc phải lưu tâm góp phần giúp đỡ chia xẻ sự giàu có của
quốc gia mình cho những kẻ thiếu thốn tại các vùng khác trên thế giới. Người Cơ
Đốc phải yểm trợ bất cứ cơ quan quốc gia hay quốc tế nào có mục đích giúp đỡ những
người xấu số trên thế giới. Xin có một lời nhắc nhở ở đây. Khi nào chúng ta
dâng tiền của Thượng Đế cho một tổ chức, với tư cách là những quản lý trung
tín, chúng ta phải kiểm tra xem số tiền ấy đã được sử dụng như thế nào. Có nhiều
tổ chức có trách nhiệm, nhiều công tác từ thiện xứng đáng được chúng ta ủng hộ
và cầu nguyện cho - nhưng cũng có nhiều tổ chức khác mà chúng ta không nên ủng
hộ.
Không có nơi
nào trong Kinh Thánh dạy rằng chúng ta phải sống cuộc đời yếm thế. Trái lại,
Kinh Thánh dạy hoàn toàn khác hẳn. Chúng ta phải hợp tác với những người đang
thực hiện mục đích tốt đẹp là góp phần nâng đỡ người bất hạnh. Thượng Đế cần những
cán bộ xã hội, bác sĩ, y tá, điều dưỡng, cán bộ từ thiện và nhiều loại người
khác nữa có khả năng làm vơi bớt nỗi khổ của nhân loại.
Câu châm
ngôn của Phù-Luân-Hội là “Phụng sự trước, cá nhân sau”. Phương châm của Câu Lạc
Bộ Kiwanis là “Chúng tôi xây dựng”. Phương châm của Hội Lions là “Sự tự do, trí
thông minh, sự an toàn của tổ quốc”. Tất cả những tư tưởng này đều bắt nguồn từ
Cơ Đốc giáo. Tất cả những tổ chức này thật sự là phó sản của Cơ Đốc giáo mặc dù
một số hội viên không phải là Cơ Đốc nhân. Hương thơm của Chúa Cứu Thế nằm
trong mùi thơm của bất cứ công tác xã hội nào.
Tình yêu
thương anh em.
Thứ chín:
Người Cơ Đốc có một bổn phận đặc biệt đối với các Cơ Đốc nhân khác. Những người
bạn Cơ Đốc đều thuộc về một tầng lớp đặc biệt. Chúng ta phải có một tình yêu
siêu nhiên đối với họ. “Yêu thương anh em tín hữu chứng tỏ chúng ta đã thoát chết
nơi hỏa ngục để hưởng sự sống vĩnh viễn” (IGi 3:14). Chúng ta phải yêu kẻ
thù của chúng ta. Chúng ta cũng phải yêu cả những người bách hại và đặt điều
nói xấu chúng ta nữa.
Nhưng điều
lớn lao nhất trong tình yêu nhân loại của chúng ta là yêu thương Cơ Đốc nhân
khác. Chúa Giê-xu phán: “Đây là mệnh lệnh: ta các con hãy yêu nhau như ta đã
yêu các con” (Gi 15:12).
Kinh Thánh
dạy chúng ta phải phục vụ lẫn nhau: “Hãy lấy lòng yêu thương làm đầy tớ lẫn
nhau”.
Xin Chúa
hãy giúp con sống ngày này qua ngày khác. Bằng cách tự quên mình. Đến nỗi khi
con quì gối nguyện cầu. Những lời cầu nguyện của con sẽ dành cho kẻ khác.
Hãy giúp
con trong tất cả những việc con làm. Bao giờ cũng thành tâm và chân thật. Và
ghi nhận rằng mọi điều con làm cho Chúa. Cũng cần phải làm cho người khác.
Người
khác, Chúa ơi, phải, người khác. Nguyện điều này trở thành phương châm của con.
Nguyện cho con sống vì người khác. Hầu cho con có thể sống như Ngài.
C. D.
Meigs
Kinh Thánh
chép rằng bổn phận chúng ta đối với nhau trong tư cách người Cơ Đốc là phải làm
gương cho nhau. Phao-lô nói: “Đừng để ai khinh con vì trẻ tuổi, nhưng con phải
làm gương cho các tín hữu trong lời nói, việc làm, tình thương, đức tin và tấm
lòng trong sạch” (ITi 4:12). Đây không phải là lời đề nghị - mà là một mệnh lệnh! Đây
không phải là lời khuyến cáo mà là bổn phận. Chúng ta phải là những người Cơ Đốc
gương mẫu.
Kinh Thánh
cũng dạy chúng ta phải tha thứ nhau “Phải có lòng nhân từ, yêu mến nhau, phải
tha thứ nhau như Thượng Đế đã tha thứ anh em trong Chúa Cứu Thế” (Eph 4:32). Chúa Giê-xu phán rằng
nếu bạn không tha thứ thì Cha bạn ở trên trời sẽ không tha thứ tội lỗi cho bạn.
Ngài cũng phán: “Khi các con cầu nguyện, nếu có điều bất bình với ai, hãy tha
thứ, để Cha các con trên trời tha lỗi các con” (Mac 11:25).
Là Cơ Đốc
nhân, chúng ta được dạy dỗ là không nên xét đoán lẫn nhau, và tốt hơn là quyết định
không bao giờ ngăn đường cản lối anh em mình.
Kinh Thánh
phán rằng chúng ta phải tùng phục lẫn nhau; phải nhún nhường đối với nhau.
Chúng ta phải tôn trọng quí mến lẫn nhau, phải đặt người khác trước rồi mới đến
mình sau.
Suốt sáu năm
cuối cùng của đời mình, nhạc mẫu tôi phải sống trên chiếc xe lăn tay do hậu quả
của chứng tai biến mạch máu não. Nhạc phụ tôi, tiến sĩ L. Nelson Bell vốn là một
lực sĩ rất tích cực, cũng là y sĩ, giáo sĩ và nhà văn (vào năm cuối cùng đời
mình, ông cũng phục vụ với tư cách chủ tọa Giáo hội Trưởng lão miền Nam trước
khi Giáo hội ấy thống nhất), đã hoàn toàn dành thì giờ chăm sóc bà bằng tình
yêu thương. Một hôm, ông đã nói với nhà tôi: “Con biết không, đó là những ngày
hạnh phúc nhất trong cuộc đời của cha”. Và những ai trong chúng tôi đã được thấy
ông chăm sóc nhạc mẫu tôi như thế nào, thì mới biết câu nói ấy có ý nghĩa gì.
Là Cơ Đốc
nhân, chúng ta phải chia xẻ gánh nặng cho nhau. Có những gánh nặng mà mỗi người
phải tự chịu đựng vì không ai làm hộ cho mình được, và nếu bỏ quên thì sẽ không
ai gánh cho cả. Có gánh nặng của lòng chân thật - của sự vâng giữ Lời Chúa - của
việc giáo dục con cái - của sự săn sóc người vợ. Trong tất cả những trường hợp đó,
cá nhân phải chịu đựng gánh nặng của chính mình. Nhưng còn có những gánh nặng
khác mà các bạn ta có thể giúp chúng ta chịu đựng, như buồn rầu, rủi ro, thử
thách, cô đơn, những lo lắng về gia đình, những khó khăn về tâm linh và những
trách nhiệm công vụ.
Kinh Thánh
phán, là Cơ Đốc nhân chúng ta phải rộng lòng đối với nhau. Thượng Đế phán rằng
nhiệm vụ người Cơ Đốc là phải săn sóc những người góa phụ và kẻ cô nhi, và phải
giúp đỡ kẻ nghèo trong xã hội Cơ Đốc. Kinh Thánh phán: “Hãy góp phần giải quyết
những nhu cầu của các thánh đồ... hãy thực hành lòng hiếu khách... tiếp đón người
lạ... an ủi người sầu muộn... đừng quên chiêu đãi những khách lạ”. Và Chúa
Giê-xu đã phán: “Các con tiếp đãi anh em ta tức là tiếp đãi ta... Người cho có
phúc hơn kẻ nhận... Thượng Đế yêu thương kẻ vui lòng dâng hiến”. Tất cả những điều
này là những bổn phận xã hội của chúng ta đối với nhau trong tư cách Cơ Đốc
nhân.
Hành động
hòa nhã.
Sau hết,
những người Cơ Đốc phải là người hòa nhã, và đây là một trong những đức tính Cơ
Đốc khó khăn nhất! Chính năng lực của sự xác tín của chúng ta đôi khi khiến
chúng ta cho rằng mình đúng và kẻ khác là sai. Điều này tốt đẹp nếu các định kiến
đó căn cứ trên những lời “Ngươi phải” và “Ngươi chớ” của Kinh Thánh hơn là căn
cứ vào những ý kiến riêng của chúng ta. Tình trạng nhiều hệ phái khác nhau thường
đối với nhau trong Hội thánh đã làm nổi bật cái xu hướng ghê gớm của con người
là kết hợp thành nhóm nhỏ, những nhóm này xây dựng trên những định kiến sâu đậm
về các vấn đề nhỏ nhặt, và mỗi nhóm cứ khăng khăng rằng chỉ có họ mới có câu trả
lời đúng.
Như cố Tấn
sĩ Harry Ironside đã có lần nói: “Hãy coi chừng kẻo chúng ta bị sai lầm lấy
thành kiến làm định kiến”.
Chắc chắn
chúng ta phải phàn nàn về sự hung dữ, độc ác, bất lương, nhưng sự dung thứ đáng
khen của chúng ta đối với tội lỗi nhiều khi trở thành sự dung túng đáng chê
trách đối với người bị vấp phạm. Chúa Giê-xu ghét tội lỗi nhưng yêu thương tội
nhân.
Tôi đã buồn
cười và kinh ngạc khi nghe một người có quá trình tôn giáo đáng kể, cách đây
không lâu tuyên bố trên truyền hình rằng: “Bạn không thể nào buộc Chúa Giê-xu kết
bạn với những người khả nghi hay với những kẻ mà ý nghĩ và thái độ căn bản trái
với những gì mà Chúa Giê-xu đã biết là đáng trọng và đúng đắn!”
Một người
như thế phải biết rằng Chúa Giê-xu đã không sợ hãi khi kết hợp với bất cứ ai! Một
trong những điều mà các thầy dạy luật và thầy Biệt-lập đã phẩm bình Chúa Giê-xu
gắt gao là thiện ý của Ngài. Ngài giúp đỡ và trò chuyện, trao đổi ý kiến với bất
cứ ai, dù họ là người thu thuế, là kẻ trộm cắp, giáo sư thông thái hay gái
giang hồ, giàu hoặc nghèo! Ngay cả các môn đồ của Ngài cũng từng gièm pha số người
tiếp xúc với Ngài nơi công cộng, nhưng điều này không làm giảm bớt tình thương
của Chúa Giê-xu đối với tất cả những thành phần nhân loại nghèo nàn, đui mù đang
vật lộn với cuộc sống.
Chúa Giê-xu
đã có tinh thần cởi mở và bao dung chưa từng có ở thế gian này. Sự xác tín nội
tâm của Ngài quá mạnh mẽ, quá cương quyết, quá vững vàng nên Ngài có thể hòa
mình với bất cứ nhóm người nào, Ngài tin chắc rằng mình sẽ không bị xấu lây.
Chính sự sợ hãi đã làm cho chúng ta không muốn nghe quan điểm của người khác, e
rằng ý kiến của chính chúng ta bị đả kích chăng. Chúa Giê-xu không có sự sợ hãi
đó, không có quan điểm ti tiện như vậy, không cần phải chống đỡ để tự bảo vệ.
Ngài đã biết sự khác nhau giữa lòng nhân hậu và sự hòa giải và chúng ta nên học
tập ở Ngài. Ngài đã nêu cho chúng ta tấm gương cao cả và sáng chói của chân lý
phối hợp với lòng thương xót đời đời, và trong lúc gần lên trời Ngài đã phán:
“Hãy đi và làm như vậy” (Lu 10:37).
Đó chỉ mới
là đôi điều trong mấy chục điều được kể là những bổn phận xã hội của người Cơ Đốc.
Chính Cơ Đốc nhân không thể rút lui và sống như một ẩn sĩ cô độc. Cơ Đốc nhân
là một thành phần của xã hội. Do đó những lời dạy dỗ của Chúa Giê-xu chứa đựng đầy
đủ thái độ của chúng ta đối với đồng loại.
Hãy nghiên
cứu Kinh Thánh, đọc Kinh Thánh và sống theo Kinh Thánh. Có thế, bạn mới chứng
minh quyền năng biến đổi của Chúa Cứu Thế trong bạn cho thế giới đầy rối loạn
này.
Vì khi có
tiếng truyền lịnh, tiếng của thiên sứ trưởng và tiếng kèn của Thượng Đế, chính
Chúa sẽ từ trời giáng xuống. Lúc ấy, những người qua đời trong Chúa Cứu Thế sẽ
sống lại trước hết. Sau đó chúng ta, những người còn sống trên mặt đất, sẽ cùng
với họ được cất lên trong đám mây, để nghênh đón Chúa giữa không gian. Như thế,
chúng ta sẽ ở với Ngài mãi mãi. Anh em nên dùng lời Chúa mà an ủi nhau.
ITe 4:16-18
ITe 4:16-18
TRƯỚC đây
ít lâu, mục điểm sách của một nhật báo lớn tại Hoa kỳ có bài nhan đề “Nền văn
chương của định mệnh”. Trong bài báo ấy, người ta liệt kê tất cả nhan đề của những
quyển sách hiện nay đề cập ngày tận thế. Cũng có một số phim ảnh hiện nay được đem
ra chiếu, được gọi là các phim ảnh về “trận Ha-ma-ghê-đôn”. Mối bận tâm đến những
ngày sau rốt đã xâm nhập một cách ngoạn mục vào thế giới tiêu khiển giải trí.
Người ta tự hỏi chẳng hay có còn một thế giới cho ngày mai hay không? Người ta
quan tâm đến những gì sẽ xảy ra vào năm 2.000 - hoặc chẳng hay chúng ta có thể đạt
tới cái năm để làm mốc ranh giới đó hay không? Do những cuộc chạy đua vũ trang
và những căng thẳng trên thế giới, loạn lạc đang xảy ra hầu như trên tất cả các
lục địa, một số lãnh tụ trên thế giới nghi ngờ việc chúng ta có thể tồn tại sau
năm 2.000 - bởi vì hầu như hằng ngày chúng ta đều nhận thấy tình hình cứ ngày
càng tồi tệ hơn.
Có người
nêu câu hỏi: “Bao giờ Chúa Cứu Thế Giê-xu tái lâm?” Chúa không dạy chúng ta suy
đoán một ngày nào đó, nhưng có để lại dấu hiệu mà chúng ta sẽ thảo luận sau. Chỉ
riêng trong Tân Ước thôi, việc Chúa Cứu Thế Giê-xu tái lâm được đề cập hơn 300
lần. Điều này chứng tỏ Đức Thánh Linh, Đấng chỉ đạo việc viết Kinh Thánh, đã nhấn
mạnh một cách khác thường sự kiện Chúa Cứu Thế sắp trở lại thế gian.
C. S.
Lewis, vị giáo sư nổi tiếng của hai Trường Đại học Cambridge và Oxford, có lần
bảo rằng có ba điều khiến người ta không tin rằng Chúa Cứu Thế sắp tái lâm. Thứ
nhất, Chúa Giê-xu đã không tái lâm theo điều thiên hạ trông đợi hồi thế kỷ thứ
nhất. Do đó họ nói rằng: “Tốt lắm, mọi việc vẫn đâu vào đấy, và Ngài đã không
trở lại. Vậy, tại sao bây giờ Ngài lại tái lâm?” Lý do thứ hai là theo thuyết
tiến hóa - tức là ý kiến cho rằng chúng ta đã tự mình tiến bộ nhiều rồi, do đó
chúng ta chẳng cần gì đến Chúa Cứu Thế nữa. Lý do thứ ba là sự tái lâm của Chúa
Cứu Thế sẽ cắt ngang thời đại duy vật chủ nghĩa, cũng là thời đại tốt đẹp nhất
của chúng ta - tức là thời đại mà người ta có được tất cả những gì mình yêu
thích nhất trên đời này. Tuy ông đã qua đời mấy năm rồi, cái nhìn của giáo sư
Lewis về thời đại của chúng ta thật thấu suốt.
Mấy ngày
trước khi Tổng thống J. F. Kennedy nhậm chức, tôi được mời đến gặp ông và Thượng
nghị sĩ George Smathers tại Florida trong một buổi đánh cù (golf), và buổi tối
thì đến thăm trại Kennedy ở Palm Beach. Lúc chúng tôi từ sân cù trở về bằng xe
hơi, vừa ngừng xe Tổng thống Kennedy quay sang hỏi tôi: “Ông có tin rằng Chúa Cứu
Thế Giê-xu sắp trở lại thế gian không?” Câu hỏi làm tôi hết sức ngỡ ngàng. Thứ
nhất, tôi thật không ngờ là ông Kennedy lại hỏi một câu như vậy, và hai nữa,
tôi không chắc ông ấy biết rõ Chúa Giê-xu, là Đấng mà người ta bảo là sắp trở lại!
Vì chỉ mới được gặp trong thời gian ngắn, chưa nắm vững được kiến thức về tôn
giáo của ông, tôi trả lời: “Vâng, thưa Tổng thống, tôi tin như vậy”.
Ông nói:
“Tốt lắm. Vậy xin ông giải thích cho tôi”. Thế là tôi có cơ hội nói chuyện vài
phút về sự tái lâm của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Tôi vẫn tự hỏi tại sao Tổng thống
Kennedy lại nêu câu hỏi đó ít lâu, khi ông bị ám sát. Trong tang lễ của Tổng thống,
Đức Hồng Y Cushing đọc mấy câu Kinh Thánh tôi đã trích dẫn ở đầu chương sách này,
và nhiều triệu người trên khắp thế giới đã theo dõi và được nghe buổi tường thuật
tang lễ ấy.
Câu 17 đặc
biệt nổi bật hẳn lên: Vào ngày đó, chúng ta là những kẻ sống mà còn ở lại sẽ
cùng được cất lên không trung với những người đã qua đời để gặp Chúa. Câu “được
cất lên” dịch từ một từ Hi-văn có nghĩa là được rứt ra. Ngày Chúa Giê-xu tái
lâm đang nhanh chóng đến gần để “rứt” những kẻ theo Ngài “ra khỏi” tất cả các mộ
phần trên thế giới, và chúng ta là những người còn sống và còn ở lại, sẽ nối
gót họ trong cuộc vượt thoát vĩ đại ấy! Đây là hy vọng về tương lai cho Cơ Đốc
nhân.
Vì cớ các
lời hứa trong Cựu Ước.
Tại sao
Chúa Cứu Thế sắp tái lâm? Có năm lý do khiến Chúa Cứu Thế phải trở lại thế gian
này. Thứ nhất, Ngài phải trở lại vì các lời hứa trong Cựu Ước phải ứng nghiệm.
Hàng chục lời tiên tri về sự giáng lâm của Ngài đã được ứng nghiệm. Chẳng hạn
như Kinh Thánh chép: “Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta, tức là một con trai
ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ đặt trên vai Ngài. Ngài sẽ được xưng là Đấng
Lạ Lùng, là Đấng Mưu Luận, là Thượng Đế quyền năng, là Cha Đời Đời, là Chúa
Bình an. Quyền cai trị và sự bình an của Ngài sẽ thêm mãi không thôi, ở trên
ngôi Đa-vít và trên nước Ngài, đặng làm cho nước bền vững và lập lên trong sự
chánh trực công bình, từ nay cho đến đời đời” (Es 9:5, 6). Có người đã nói: “Khi
chính quyền được giao phó cho Ngài, thì sẽ được củng cố và hòa bình sẽ bất tận”.
Khúc sách
này vẫn chưa ứng nghiệm trọn vẹn. Một con trẻ đã được sanh ra. Một con trai đã được
ban cho. Nhưng quyền cai trị vẫn chưa được đặt trên vai Ngài. Trong lần đến thứ
nhất, Ngài vẫn chưa đem đến sự bình an và công lý cho thế gian này. Nhưng khi
tái lâm, Ngài sẽ đem đến những điều đó, bởi vì Kinh Thánh dạy rằng tất cả các lời
tiên tri rồi đều sẽ ứng nghiệm. Trong sách Mai-ca, nhà tiên tri nói: “Ngài sẽ
làm ra sự phán xét giữa nhiều dân, đoán định các nước mạnh nơi phương xa; và họ
sẽ lấy gươm rèn lưỡi cày, lấy giáo rèn lưỡi liềm; nước này chẳng giá gươm lên
nghịch cùng nước khác và cũng không tập sự chiến tranh nữa” (Mi 4:3). Nhưng hãy nhìn các trận
chiến tranh hiện đang xảy ra. Hãy nhìn cuộc chạy đua vũ trang đang leo thang.
Tuy nhiên, sẽ có ngày người ta đều đem giáo để rèn thành lưỡi liềm; sẽ có ngày,
chẳng còn một nước nào giá gươm lên để chống lại một nước khác. Tại sao vậy? Vì
Chúa Hòa Bình đã trở lại - Ngài sắp là Nhà Vua cai trị cả thế giới.
Vì chính
những lời khẳng định của Ngài.
Thứ hai,
Chúa Cứu Thế phải tái lâm vì chính những lời khẳng định của Ngài. Ngài vốn là
chân lý tuyệt đối. Hai chương 24 và 25 của sách Mã-thi được dành trọn cho những
lời khẳng định về sự tái lâm của Ngài. Mat 24:27 chép rằng: “Vì ta
sẽ đến như chớp nhoáng chiếu rực khắp vòm trời trong nháy mắt. Đông phương hay
Tây phương cũng sẽ đồng thời thấy ta”. Trong 25:31-32, Kinh Thánh lại chép: “Khi
ta quang vinh trở lại địa cầu với tất cả các thiên sứ thánh, ta sẽ ngồi trên
ngôi vinh hiển. Tất cả các dân tộc sẽ tập họp trước mặt ta... ” Lời tiên tri
này vẫn chưa ứng nghiệm, nhưng chính Ngài đã nói như vậy, và tôi tin rằng sẽ ứng
nghiệm.
Chúa Giê-xu
chẳng bao giờ nói dối chúng ta. Ngài phán: “Trong nhà Cha ta có nhiều chỗ ở, nếu
không, ta đã nói cho các con rồi. Ta đi chuẩn bị chỗ ở cho các con. Khi chuẩn bị
xong, ta sẽ trở lại đón các con về với ta để các con ở cùng ta mãi mãi” (Gi 14:2, 3). Ngài đã ra đi để rồi
sẽ đích thân trở lại. Chính Chúa Giê-xu sắp tái lâm! Điều đó chứng tỏ Ngài yêu
thương chúng ta dường nào! Kế hoạch cứu rỗi không chỉ khiến chúng ta mãn nguyện
trong đời này, và ban cho chúng ta một đời sống mới trên đất, mà Ngài còn có cả
một kế hoạch vĩ đại cho tương lai nữa. Một tương lai miên viễn!
Kinh Thánh
chép rằng rồi đây chúng ta sẽ đồng cai trị với Ngài. Chúng ta là những người thừa
kế Chúa Cứu Thế và sắp được cùng sống đời đời với Ngài. Ngài hiện đang làm gì?
Ngài đang sửa soạn cho chúng ta một ngôi nhà để ở. Việc ấy đã bắt đầu từ gần
hai ngàn năm rồi. Ngôi nhà ấy sẽ lộng lẫy, tráng lệ biết bao! Điều mà Thượng Đế
đã chuẩn bị cho những ai yêu mến Ngài, thì mắt người không nhìn được, tai người
không nghe được, lòng người không hiểu được thật thấu đáo!
Vì địa vị
hiện tại của Sa-tan.
Còn có một
lý do thứ ba để Chúa Cứu Thế phải tái lâm: địa vị hiện tại của quỉ Sa-tan. Hữu
thể có quyền phép nhất trên thế gian hiện nay, ngoài bản thân Thượng Đế, là ma
quỉ. Điểm hết sức lạ lùng là Kinh Thánh chép rằng ma quỉ cũng có thể vào thiên đàng,
đến tận ngôi ngự của Thượng Đế. Kinh Thánh chép rằng nó là kẻ tố cáo anh em cả
ngày lẫn đêm. Ngài gọi nó là một chê-ru-bin được xức dầu, là sư tử gầm rống, là
vua của các loài thú dữ. Nó thường xuyên đi đây đi đó, tìm kiếm người nó có thể
cắn xé được. Và trong khi cám dỗ Chúa Giê-xu nó đã chỉ cho Ngài toàn thể các nước
trên thế gian này, và nó quyến rủ Ngài: “Thầy chỉ cần quỳ gối lạy tôi, tôi sẽ
cho Thầy tất cả!” (Mat 4:9). Chúa Giê-xu đã không tranh cãi với nó. Quỉ Sa-tan vốn có
quyền ban cho Chúa Giê-xu vũ trụ này là hệ thống của điều ác. Nhưng tạ ơn Thượng
Đế, để đứng vững, Chúa chúng ta đã viện dẫn Kinh Thánh và đó là điều duy nhất
mà ma quỉ không tài nào chống lại nổi! Kinh Thánh luôn luôn đánh bại Sa-tan.
Trong IICo 4:4, Sa-tan còn được gọi là
“thần của đời này”. Câu này có nghĩa rằng nó là kẻ chỉ đạo các tà giáo, các triết
thuyết của thế gian. Kinh Thánh chép rằng toàn thể vũ trụ (thế gian, đời này) được
đặt dưới quyền cai trị của nó. Nếu chẳng có chuyện gì xảy đến cho Sa-tan cả thảy
mọi sự sẽ đi về đâu? Ai sẽ giải quyết được vấn đề tội ác? Ai sẽ đối phó nổi với
Sa-tan? Nhân loại vốn bất năng bất lực trước mặt nó. Loài người không thể nào
trói nổi nó. Hội thánh không thể truất ngôi nó. Luật pháp cũng bất lực. Liên Hiệp
Quốc không biết phải kìm chế nó như thế nào. Người ta còn không biết cả việc họ
đang phải đối phó với một quyền năng thuộc linh - một quyền năng khổng lồ của điều
ác đang hoành hành trong thế giới ngày nay.
Tuy nhiên,
xin chúng ta đừng quên một sự kiện. Có một Đấng có quyền hơn quỉ Sa-tan! Đấng ấy
từng đánh bại nó gần hai ngàn năm trước tại thập tự giá. Ma quỉ vốn không muốn
Chúa Giê-xu lên thập tự giá vì nó sợ những gì Ngài thực hiện tại đó. Nó vốn biết
rằng khi Chúa Giê-xu chịu chết trên thập tự giá, tức là Ngài đã gánh hết tội lỗi
của cả thế gian. Và từ thập tự giá Thượng Đế đã phán với nhân loại rằng: “Ta
yêu thương các ngươi. Ta muốn tha thứ mọi tội lỗi cho các ngươi. Ta muốn các ngươi
trở thành con cái ta, để một ngày kia, các ngươi sẽ đến với ta ở thiên đàng”.
Và nếu Chúa Giê-xu xuống khỏi thập tự giá, thì chúng ta cũng không thể được cứu.
Chúng ta không thể lên thiên đàng. Chính vì lý do đó mà ma quỉ không muốn Ngài
lên thập tự giá. Chính vì lý do đó mà nó mới cám dỗ Ngài: “Nếu ngươi là Con Thượng
Đế, hãy xuống khỏi thập tự giá đi”. Tại thập tự giá và trong sự sống lại của
Chúa Cứu Thế Giê-xu, quỉ Sa-tan đã bị thất bại thảm hại nhất.
Nhưng ma
quỉ vẫn còn được tự do, vẫn phụ trách vũ trụ này, vẫn tác oai tác quái trên thế
gian này. Tất cả những bất công, những cuộc chiến tranh xảy ra trên thế giới, đều
do ma quỉ gây ra - nghĩa là tất cả các vụ sát nhân, tất cả mọi đều gian ác, tất
cả những gì là khủng khiếp đang tiếp tục diễn ra. Bằng quyền lực tối cao của
nó, nó cũng có một kế hoạch siêu nhiên, cả đến chuyện muốn truất ngôi Thượng Đế
nữa!
Cả trên trời
lẫn dưới đất này, chỉ có một Đấng có thể đối phó với ma quỉ, và Ngài sắp tái
lâm để chống lại nó. Ngài sắp quăng quỉ Sa-tan xuống vực sâu không đáy và cuối
cùng là ném nó vào hồ lửa. Sau đó, sẽ không còn điều ác nữa. Chúng ta sắp được
giải thoát khỏi sức thúc đẩy khủng khiếp đó của tội ác, khỏi quyền lực của
Sa-tan từng cai trị trong lòng người ta qua rất nhiều thế kỷ rồi. Chính vì lý
do ấy mà Chúa Cứu Thế phải đến. Ngài là Đấng duy nhất làm nổi việc đó. Ngay bây
giờ, cả thế giới đang trông chờ một vị cứu tinh, như tôi được đọc trong một tạp
chí: “Ôi, ước gì thế giới này có được một vị cứu tinh”
Vì sự hỗn
loạn hiện nay trên thế giới.
Và thứ tư,
Chúa Giê-xu phải tái lâm vì tình trạng hỗn loạn hiện nay trên thế giới - một thế
giới đầy dẫy đau đớn, khổ sở, đói khát, chiến tranh, sát nhân, tham dục, thù hận,
gian lận và băng hoại. Mọi hình thức chính quyền có thể có của loài người đều dường
như thất bại. Mỗi một chính quyền mới dường như đều không thành công trong việc
đối phó với các vấn đề của chúng ta. Thế giới ngày càng trở thành bất lực và vô
vọng hơn khi chúng ta bước vào thời đại kỹ thuật điện toán ngày càng phức tạp
Kinh Thánh chép: “Hãy bảo những kẻ có lòng sợ hãi rằng: Khá vững lòng, đừng sợ
nữa! Đây này, Thượng Đế các ngươi sẽ lấy sự báo thù mà đến, tức là sự báo trả của
Thượng Đế. Chính Ngài sẽ đến và cứu các ngươi!” (Es 35:4). Chúa Cứu Thế Giê-xu sắp
giải cứu chúng ta khỏi bản thân chúng ta. Hiện nay, có nhiều nhà xã hội học tin
rằng chúng ta vốn có khả năng tự hủy mình. Quả thật chúng ta có thể làm như vậy.
Nhân loại có đủ khả năng để tự hủy ngay bây giờ. Nhưng Chúa Cứu Thế sắp tái
lâm. Và y như con người đang sẵn sàng ném tất cả những quả bom của mình vào kẻ
khác, thì Ngài cũng sắp đến để thiết lập vương quốc công chính, vinh hiển, hòa
bình và công bằng của Ngài. Chừng đó, thế giới của chúng ta sẽ tốt đẹp biết
bao!
Bạn đã sẵn
sàng chưa?
Vì những
người đã chết trong Chúa Cứu Thế.
Lý do thứ
năm khiến Chúa Cứu Thế phải tái lâm là vì những người chết trong Chúa Cứu Thế -
tức là những người tin tưởng và tin cậy Thượng Đế, nhưng đã qua đời. Khi xem cuốn
phim “Lò thiêu người”, tôi nghĩ đến tất cả số người đã bị Hitler tàn sát - một
số lớn là những người tin Chúa. Nhiều ngàn người từng chịu bất công, bị giết,
và tất cả số người đã qua đi trong lịch sử với tư cách người tin Chúa Cứu Thế
và từng tự hỏi tại sao mình phải qua đời. Chắc có nhiều người tự hỏi tại sao
mình phải chịu tử vì đạo. Chúa Giê-xu sắp tái lâm, và sắp có một sự phục sinh của
vô số người. Các tín hữu sắp được khiến từ kẻ chết sống lại! Và những ai còn sống
và còn lại cũng đều sẽ được cất lên không trung để được ở với Chúa mãi mãi. Nhưng
chừng nào việc đó xảy ra? Chúng ta không biết chính xác ngày nào, nhưng tôi tin
rằng ngày ấy gần lắm rồi. Chắc chắn là đã hai ngàn năm gần hơn lúc Ngài đưa ra
lời tiên báo ấy.
Chúa
Giê-xu có để lại một số dấu hiệu giúp chúng ta theo dõi. Ngài phán, trước hết sẽ
có tình trạng hỗn loạn về phương diện trí thức và tinh thần, có rắc rối loạn lạc
khắp nơi trên thế giới “... dưới đất, các dân tộc đều hoang mang rối loạn... ”
(Lu 21:25). Từ ngữ “hoang mang” có nghĩa là bị dồi dập từ bốn phía.
Còn từ ngữ “rối loạn” có nghĩa là không có lối thoát. Nhân loại chúng ta quả sắp
đạt tới điểm không còn lối thoát.
Lối thoát.
Jean Paul
Sartre có viết một quyển sách nhan đề ‘Không có lối ra’, ông bảo với chúng ta rằng
không có một lối thoát nào cho nan đề của nhân loại. Không có lối thoát. Nhưng
tôi xin nói với bạn là có một lối thoát. Lối thoát đó là Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Chúa
Giê-xu cũng dạy rằng ngay trước khi Ngài trở lại, sẽ có tình trạng sụp đổ về mặt
tinh thần. Ngài phán: “Ngày ta trở lại, thế giới vẫn ăn uống, mua bán, trồng tỉa,
xây cất y như thời Lót. Đến khi Lót ra khỏi thành Sô-đôm, lửa và diêm sinh từ
trời trút xuống hủy diệt tất cả” (17:28, 29). Rồi Ngài lại nói: “Phải,
ngày ta trở lại cũng sẽ giống như thế.” (c.30). “Ngày ta trở lại, thế giới vẫn
an nhiên hưởng thụ - cưới gả, tiệc tùng - như thời Nô-ê” (Lu 17:26). Trong cả hai trường hợp
- vào thời của Nô-ê cũng như của Lót - luân lý bại hoại, các mối luân thường đạo
lý đều tan rã y như chung quanh chúng ta hiện nay vậy. Thế giới đang sa vào
tình trạng vô luân chưa từng thấy trong lịch sử. Chúa Giê-xu bảo rằng ngay trước
lúc Ngài tái lâm, thì tình hình nhân loại sẽ là như vậy.
Thứ ba,
Chúa Giê-xu cũng bảo rằng sẽ có sự sa ngã. Điều này có nghĩa nhiều người tin
Chúa sẽ sa ngã hoặc cá nhân, hoặc tập thể. Và “nhiều tiên tri giả sẽ dấy lên và
sẽ dối gạt nhiều người”. Hãy nhìn các tiên tri giả chúng ta đang có hiện nay.
“Chúa Thánh Linh đã dạy rõ ràng: Trong thời kỳ cuối cùng, một số người sẽ bỏ đức
tin, đi theo các thần lừa gạt và lời dạy của ác quỉ” (ITi 4:1). Sẽ có sự sa ngã, chối
bỏ đạo thật. Nhiều người hiểu sai về Thượng Đế và chỉ thấy Cơ Đốc giáo một cách
phiến diện. Họ không phải là môn đồ thật của Chúa Giê-xu. Họ đã vô tình bị sa
ngã rồi - tuy không phải về mặt tri thức. Rất có thể là họ vẫn còn tin, nhưng lối
sống của họ chứng tỏ họ đã sa ngã rồi. Chính đời sống của bạn biện minh cho điều
bạn tin. Chúa Giê-xu phán: “Các ngươi nhờ những trái nó mà nhận biết được”. Và
ma quỉ vẫn rình mò chung quanh để nói rằng: “Sao? Thượng Đế há có phán... ?” để
cố lung lạc chúng ta nghi ngờ Lời thánh của Ngài. Hiện có rất nhiều tiên tri giả
đi đây đi đó, bảo rằng: “Đừng nên tin điều này... ” Tôi xin quả quyết với bạn rằng
Kinh Thánh vốn được Thượng Đế mặc khải từ chữ đầu đến chữ cuối. Sách ấy chính
là Lời thánh của Thượng Đế. Thế nhưng vẫn có người bảo chúng ta rằng: “Chúa Cứu
Thế Giê-xu cũng chỉ là một con người mà thôi”, nghĩa là Ngài không phải là Thượng
Đế. Không đâu, thưa bạn, Chúa Cứu Thế Giê-xu là Thượng Đế sanh-ra-làm-người.
Ngài vừa là Thượng Đế mà đồng thời cũng là một con người. Ngài vốn đầy lòng yêu
thương chúng ta, đến nỗi đã chịu chết thay cho chúng ta.
Điểm thứ tư:
Chúa Giê-xu vạch rõ tinh thần vô luật pháp sẽ gia tăng. Ngài bảo rằng hễ tinh
thần bất tuân luật pháp càng gia tăng thì tình yêu thương giữa con người với
nhau sẽ giảm bớt đi (Mat 24:12). Hiện nay, các nhật báo vốn đầy dẫy những tin tức như thế.
Có bao giờ bạn nghe nạn khủng bố lan tràn khắp thế giới như hiện nay không? Các
hoạt động khủng bố đang gia tăng khủng khiếp hầu như trên tất cả các quốc gia.
Do kỹ thuật tân tiến, người ta chẳng còn biết phải làm sao để đối phó. Chúa
Giê-xu phán trong Lu 21:9 “... khi nghe có chiến tranh loạn lạc...
” và từ ngữ “loạn lạc” ở đây ngụ ý là việc nổi loạn chống lại mọi uy quyền.
Chúng ta đang thấy điều đó xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Chúa Giê-xu dạy rằng
đó chính là một trong các dấu hiệu. Rồi Ngài phán là sẽ có nhiều hội nghị hòa
bình. Phao-lô viết: “Khi người ta nói: Hòa bình và an ninh! thì hủy diệt xảy đến
bất ngờ như sản phụ bị quặn đau trước giờ sinh nở; họ không thể nào tránh
thoát” (ITe 5:3). Nhà tiên tri Ê-sa viết: “Những người ác chẳng hưởng sự
bình an bao giờ” (Es 48:22). Trước đây, chưa bao giờ có nhiều người đi tìm hòa bình đến
thế. Liên Hiệp Quốc cứ họp liên miên, mà phiên họp nào cũng khẩn cấp cả. Các Hội
nghị, các Quốc hội trên thế giới cũng tìm kiếm hòa bình. Các lãnh tụ thế giới,
các bộ trưởng đi công du khắp thế giới để mưu tìm hòa bình, mong vá víu một
chút chỗ này, một chút chỗ kia. Hễ họ đến Washington, thì rắc rối lại xảy ra tại
nhiều nơi khác ở đâu đó. Chúa Giê-xu từng báo trước “Nếu những ngày tai họa
không được rút ngắn, cả nhân loại sẽ bị diệt vong. Nhưng vì con dân Chúa, số
ngày khủng khiếp sẽ giảm bớt” (Mat 24:22).
Rồi Chúa
Giê-xu lại nói về việc khác: Phúc Âm sẽ được nhấn mạnh và truyền giảng khắp thế
gian trước ngày Ngài tái lâm “Phúc Âm Nước Trời phải được công bố khắp thế giới
cho mọi dân tộc đều biết, rồi mới đến ngày tận thế”. Hiện nay là lần đầu tiên,
Phúc Âm được truyền giảng khắp thế giới cho ai nấy đều nghe. Bằng các đài phát
thanh, phát hình, sách báo, bằng vệ tinh, Phúc Âm đang được truyền giảng. Chẳng
có nơi nào mà người ta không được nghe. Và đây là lần đầu tiên.
Thế thì,
chúng ta phải làm gì đây? Chúng ta phải đối phó như thế nào? Thứ nhất, hãy tự
thanh lọc, Kinh Thánh chép: “Mọi người hãy lấy niềm hy vọng này để tự thanh lọc”.
Bạn có hy vọng về sự tái lâm của Chúa Cứu Thế Giê-xu chăng? Thế thì bạn hãy sống
với niềm hy vọng đó: sống một cuộc đời thanh sạch, tin kính, thuận phục và dâng
trọn cho Chúa. Theo một ý nghĩa, khi tin nhận Chúa Cứu Thế chúng ta đã được
thánh hóa. Nhưng đến ngày gặp Ngài mặt đối mặt chúng ta sẽ được thánh hóa hoàn
toàn để trở thành trọn vẹn, như Ngài vốn trọn vẹn vậy. Chúng ta sẽ nhìn thấy
Ngài như chính Ngài vốn có vậy.
Thứ hai,
chúng ta phải kiên trì chờ đợi. Tôi biết rằng lắm khi chúng ta cũng có phần nào
lo lắng, tự hỏi chẳng hay có thật Chúa Giê-xu sắp tái lâm hay không. Kinh Thánh
chép: “Anh em phải kiên nhẫn... chẳng còn bao lâu nữa, Đấng ta chờ mong sẽ trở
lại, Ngài không chậm trễ đâu” (He 10:36, 37). Ngài đã định một
ngày. Thượng Đế biết ngày ấy. Mọi sự đã an bài, Ngài sẽ tái lâm đúng kỳ, không
sớm cũng chẳng muộn một giờ nào cả.
Việc thứ
ba chúng ta phải làm là thức canh. Từ ngữ “thức canh” này có nghĩa là chúng ta
phải mong ước Ngài tái lâm. Chúng ta phải luôn luôn nghĩ đến ngày Ngài tái lâm.
Ở đầu chương này, tôi đã trích câu “chờ đợi sự trông cậy hạnh phước của chúng
ta, và sự hiện ra của sự vinh hiển Thượng Đế”.
Điều thứ tư
là chúng ta phải làm việc. Có người nói: “Tốt lắm, Chúa sắp tái lâm rồi, vậy
hãy chấm dứt mọi hoạt động mà chúng ta đang tham gia”. Không phải vậy đâu. Có
thể trong vòng một trăm năm nữa, hoặc một ngàn năm nữa Ngài vẫn chưa trở lại.
Có thể Ngài vẫn chưa tái lâm trong thế hệ này của chúng ta. Hãy cố gắng hết sức
mình để vì Chúa Cứu Thế đem Phúc Âm đến cho đồng bào đồng loại mình. Sự tái lâm
của Ngài phải là động lực thúc đẩy chúng ta hướng về công tác ấy.
Điểm cuối
cùng: chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng. Bạn đã sẵn sàng chưa? “Vậy các con phải
sẵn sàng, vì ta sẽ đến trong giờ các con không ngờ” (Lu 12:40). Kinh Thánh chép: “Bởi
đức tin, Nô-ê được Chúa mách bảo cho về những việc chưa thấy, và người thành
tâm kính sợ, đóng một chiếc tàu để cứu nhà mình”. Chữ “kính sợ” ở đây có nghĩa
là sợ hãi, kinh hoàng. Vâng! Có người được kéo vào nước trời bằng tình yêu thương,
và có người thì vào đó nhờ biết sợ hãi. Chúng ta có quyền sợ hãi. Vì đối với với
những kẻ không biết Chúa Giê-xu với tư cách là Chúa và Cứu Chúa mình, thì điều đó
có nghĩa là sự phán xét, là hỏa ngục. Chúng ta phải đến với Chúa Cứu Thế khi
hãy còn cơ hội.
Ngài sẽ
lau hết nước mắt cho họ. Sẽ không còn ai chết nữa.
Cũng chẳng còn tang chế, khóc than, đau khổ, vì mọi thứ ấy đã qua rồi.
Kh 21:4
Cũng chẳng còn tang chế, khóc than, đau khổ, vì mọi thứ ấy đã qua rồi.
Kh 21:4
ĐẾN đây bạn
đã biết ý nghĩa của sự bình an trong Thượng Đế là thể nào rồi. Bạn đã biết trở
thành một người Cơ Đốc có nghĩa gì. Bạn đã biết giá phải trả để đạt lấy điều
hão huyền được mệnh danh là hòa bình và hạnh phúc. Tôi biết có nhiều người sẵn
sàng ký một chi phiếu 1 triệu mỹ kim nếu họ có thể tìm được sự bình an. Hằng
triệu người đang đi tìm nó. Mỗi lần họ gần tìm được sự bình an mà bạn tìm thấy
trong Chúa Cứu Thế, thì Sa-tan lái họ ra xa, bịt mắt họ lại. Nó tung hỏa mù. Nó
lừa bịp họ. Và họ đánh mất sự bình an đó! Nhưng bạn đã tìm được sự bình an! Giờ
đây sự bình an ở với bạn đời đời. Bạn đã tìm thấy bí quyết của cuộc đời.
Trong hậu
bán thế kỷ 20 này, bốn mươi năm hoặc bốn mươi lăm năm sau này, từ ngữ “hòa
bình” rất thường được sử dụng. Chúng ta nói về hòa bình, có nhiều hội nghị về
hòa bình; thế nhưng hiện nay, dường như thế giới đang hướng về một cái gì khác
hơn là hòa bình.
Phao-lô từng
nói về nhân loại: “Họ chẳng biết con đường hạnh phúc, an vui” (Ro 3:17). Nhìn quanh mình,
chúng ta chẳng thấy được chút hòa bình cá nhân, gia đình, xã hội, kinh tế hoặc
chính trị đâu cả. Tại sao vậy? Vì trong tất cả chúng ta đều có mầm mống của
nghi ngờ và hung dữ, thù hằn và hủy diệt.
Chúa
Giê-xu phán: “Phúc cho người hòa giải” (Mat 5:9). Chúng ta phải nỗ lực
tìm cầu hòa bình. Điều này không có nghĩa là cầu an. Chúng ta phải làm việc vì
hòa bình. Nhưng Chúa Giê-xu cũng tiên báo: “Các con sẽ nghe chiến tranh bùng nổ,
và những tin tức khủng khiếp về chiến tranh. Đừng bối rối, vì các biến cố ấy phải
xảy ra, nhưng chưa đến ngày tận thế. Dân tộc này sẽ tiến đánh dân tộc khác, nước
nọ tuyên chiến với nước kia. Nhiều xứ sẽ gặp động đất và nạn đói” (24:6, 7).
Người ta
chỉ hưởng được hòa bình khi đã được Thượng Đế tha tội - khi chúng ta đã làm hòa
với Thượng Đế, và có được một đời sống hài hòa với đồng bào đồng loại, và nhất
là, với Thượng Đế. Thượng Đế đã phán: “Những kẻ gian ác chẳng hưởng sự bình an”
(Es 57:21). Nhưng nhờ huyết tại thập tự giá, Chúa Cứu Thế đã vì chúng
ta làm hòa với Thượng Đế để chính Ngài trở thành sự bình an (hòa bình) của
chúng ta. Nếu chúng ta lấy đức tin tiếp nhận Ngài, chúng ta được Thượng Đế kể
là công chính, và có thể từng trải sự thanh thản nội tâm, vốn chẳng có thể đến
với con người bằng bất luận một con đường nào khác. Một khi Chúa Cứu Thế đã ngự
trị tấm lòng, chúng ta được giải thoát khỏi mọi ý thức, mọi mặc cảm tội lỗi vẫn
ám ảnh mình. Một khi đã được thanh tẩy khỏi mọi cảm thức về việc bị tiêm nhiễm
tội lỗi và trở thành không xứng đáng, chúng ta sẽ có thể ngẩng đầu một cách an
toàn, vì biết rằng mình có thể tin cậy nhìn thẳng vào mặt đồng bào đồng loại:
“khi tánh hạnh của người nào đẹp lòng Thượng Đế, thì Ngài cũng khiến các thù nghịch
người ở hòa thuận với người” (Ch 16:7). Điều quan trọng hơn nữa
là chúng ta biết mình sẽ ứng hầu trước mặt Thượng Đế khi phải qua đời với cùng
một cảm thức an bình như vậy.
Trong Kinh
Thánh, Chúa Giê-xu cho chúng ta biết rằng chiến tranh sẽ cứ tiếp tục cho đến cuối
cùng (the end of the age). Ngài vốn biết rõ bản tính con người sẽ chẳng thay đổi
gì nếu chưa được tái sanh thuộc linh. Ngài vốn biết rõ phần đông nhân loại sẽ
chẳng bao giờ chịu biến cải để quay lại tin nhận Ngài. Đa số nhân loại trên thế
giới hiện nay vẫn chưa được “sanh lại”. Cho nên bạo lực vẫn có tiềm năng bùng nổ
ngay trong gia đình, trong cộng đồng, và trên thế giới.
Kinh Thánh
mô tả ba loại hòa bình:
Hòa bình với
Thượng Đế.
Trước hết,
là hòa bình với Thượng Đế “Vậy nhờ đức tin chúng ta được kể là người công
chính, và giải hòa với Thượng Đế qua trung gian của Chúa Cứu Thế Giê-xu” (Ro 5:1). “Huyết Chúa Cứu Thế đổ
ra trên cây thập tự đã tái lập hòa bình giữa Thượng Đế và nhân loại” (Co 1:20). Bạn có thể có được một
tâm trạng bình an tức khắc - là được hòa bình (hòa thuận) với Thượng Đế.
Cuộc chiến
tranh quan trọng nhất hiện xảy ra trên thế giới là cuộc chiến tranh giữa loài
người với Thượng Đế. Thiên hạ không ngờ mình đang đánh nhau với Thượng Đế. Nhưng
nếu ai chưa biết Giê-xu là Chúa Cứu Thế, chưa đầu phục Ngài, tôn Ngài làm Chúa
mình, thì Thượng Đế kể người ấy đang tranh chiến với Ngài. Sự ngăn cách đó vốn
do tội lỗi tạo ra. Kinh Thánh chép rằng: “Vì mọi người đều phạm tội, không còn
phản chiếu vinh quang Thượng Đế” (Ro 3:23). Có người nói: “Ồ, tôi
đã gia nhập Hội thánh. Tôi đã chịu phép báp-tem rồi”. Nhưng vấn đề là Chúa
Giê-xu đã đến để sống trong lòng người ấy hay chưa? Không phải chỉ với tư cách
là Chúa Cứu Thế nhưng còn với cương vị là Chúa tể ngự trị đời sống người ấy,
hay chưa?
Sẽ là điều
thảm hại nhất cho bạn nếu tôi không nói với bạn rằng bạn đang bị chết mất, đang
bị diệt vong trừ phi bạn đã ăn năn tội lỗi và tin nhận Chúa Cứu Thế làm Cứu
Chúa mình.
“Vì Thượng
Đế yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai (“là
chính bạn đấy) tin Con ấy, không bị hư mất, mà được sự sống đời đời” (Gi 3:16). Đây không phải chỉ là
tin bằng trí óc, nhưng còn là tin bằng cả tấm lòng nữa. Đó là sự tin cậy trọn vẹn,
phó thác trọn vẹn, dấn thân hoàn toàn. Chúng ta đem mọi sự đến với thập tự giá
nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu đã chịu chết vì tội chúng ta. Bởi sự chết trên thập tự
giá, Ngài đã hòa giải với Thượng Đế. Nếu chúng ta quay lưng với Ngài, không
dâng cuộc đời cho Ngài, chúng ta sẽ chẳng có chút hy vọng nào cho tương lai.
Thượng Đế đã
phải trả giá là chính Con Ngài, để một người được hòa thuận lại với Ngài. Phê-rơ
nói: “Bằng huyết quý báu của Chúa Cứu Thế, Chiên Con vô tội không tì vết của Thượng
Đế” (IPhi 1:19). Nếu tôi là người duy nhất sống trên thế gian này, Chúa
Giê-xu chắc cũng vui lòng chịu chết vì tôi, bởi vì Ngài yêu thương tôi. Mà Ngài
cũng yêu thương chính bạn nữa! Tình yêu thương của Ngài đã được tuôn đổ ra trên
thập tự giá.
“Gặp tôi
trên Thiên Đàng”
Tôi có đọc
một quyển sách viết về tiểu sử nữ hoàng Victoria, và được biết thỉnh thoảng nữ
hoàng vẫn đến thăm các khu xóm tồi tàn của thành phố Luân-đôn. Có lần bà vào một
nhà nọ, uống trà với một bà cụ, và khi cáo từ, nữ hoàng hỏi: “Thưa cụ, tôi có
thể giúp gì được cho cụ không?” Bà cụ đáp: “Vâng, thưa nữ hoàng, xin nữ hoàng
hãy gặp tôi trên Thiên Đàng”. Nữ hoàng quay sang bà cụ và dịu dàng nói: “Vâng,
tôi sẽ có mặt ở đó, nhưng sở dĩ được như vậy, là chỉ nhờ dòng huyết đã đổ ra
trên thập tự giá vì cụ và vì tôi”. Trong thời trị vì của mình, nữ hoàng
Victoria là người phụ nữ có uy quyền nhất trên thế giới. Nhưng nữ hoàng vẫn phải
nhờ vào huyết của Chúa Cứu Thế để được cứu rỗi. Và chúng ta cũng vậy. Kinh
Thánh chép rằng Thượng Đế là Chúa Bình An (ICo 14:33). Thượng Đế nhờ thập tự
giá cung cấp sự cứu rỗi cho chúng ta, Ngài giải hòa bằng cách đổ huyết mình ra.
Cuộc chiến tranh giữa bạn với Thượng Đế có thể kết thúc nhanh chóng, và hòa ước
có thể được ký kết trong huyết Chúa Cứu Thế Giê-xu, Con Ngài.
Bạn đã được
hòa thuận lại với Thượng Đế chưa? Bạn đã có được sự bình an trong Thượng Đế chưa?
Hay tội lỗi vẫn còn trong lòng bạn để chia cách bạn với Thượng Đế?
Sự bình an
của Thượng Đế.
Sự hòa
bình thứ hai được Kinh Thánh đề cập là sự bình an của Thượng Đế. Hễ ai nhận biết
Chúa Cứu Thế Giê-xu, đều có thể giải quyết mọi vấn đề và đối diện với sự chết
mà vẫn có sự bình an của Thượng Đế trong lòng. Khi người bạn đời của bạn qua đời,
hay con cái của bạn đau yếu, hoặc bạn bị mất việc làm, bạn vẫn có được sự bình
an mà trí bạn không thể nào hiểu thấu. Rất có thể bạn đổ lệ trước phần mộ, nhưng
sự bình an, sự yên tịnh vẫn ngập tràn lòng bạn.
Trên tờ nhật
báo nọ, người ta trích dẫn lời một bác sĩ tâm thần bảo rằng ông không thể thêm
gì vào toa thuốc mà Phao-lô đã kê ra cho nhân loại để chữa trị bệnh âu lo.
Phao-lô viết: “Đừng lo lắng chi cả, nhưng trong mọi việc hãy cầu nguyện, nài
xin và cảm tạ trong khi trình bày các nhu cầu của mình cho Thượng Đế. Sự bình
an của Thượng Đế mà con người không hiểu thấu sẽ bảo vệ trí óc và tâm khảm anh
em, khi anh em tin cậy Chúa Cứu Thế Giê-xu” (Phi 4:6, 7). Chớ lo phiền chi hết.
Biết bao lần bạn và tôi đã trăn trở, mong tìm được một chút bình an? Sự bình an
của Thượng Đế có thể đến với bạn ngay giờ này.
Co 3:15 chép rằng: “Cầu xin sự bình an của Chúa Cứu Thế Giê-xu
ngự trị trong lòng anh em”. Một số người trong các bạn tin rằng mình nhận biết
Chúa Giê-xu là Cứu Chúa mình, nhưng thật ra, các bạn vẫn chưa tôn Ngài làm Chúa
mình. Các bạn thiếu sự bình an của Thượng Đế để chiến đấu với những náo loạn,
những thử thách và những áp lực trong đời sống. Sự bình an của Thượng Đế hiện
có trong lòng các bạn chăng?
Chúng ta đều
quen thuộc với sự biến đổi xảy ra cho Sau-lơ trên đường về thành Đa-mách, khi
Chúa Cứu Thế ngự vào lòng ông và biến đổi ông từ một kẻ tử thù của Ngài thành một
trong những người bênh vực Ngài mạnh mẽ nhất. Ngày nay sự kiện đó cũng đang xảy
ra, và vẫn được thực hiện cùng một phương cách đã biến đổi Sau-lơ thành Phao-lô
- đó là sự sanh lại trong Chúa Cứu Thế Giê-xu!
Không có
triết lý nhân bản nào có thể thực hiện được những thay đổi như thế hay cung ứng
một sức mạnh như thế. Sức mạnh phi thường đó dành sẵn cho bạn mỗi khi bạn cầu
xin bất cứ lúc nào. Thượng Đế phán: “Đừng sợ, vì Ta ở với ngươi; chớ kinh khiếp,
vì Ta là Thượng Đế của ngươi! Ta sẽ bổ sức cho ngươi, phải, Ta sẽ giúp đỡ ngươi,
lấy tay hữu công bình Ta mà nâng đỡ ngươi” (Es 41:10).
Dù gặp
hoàn cảnh nào, dù có sự kêu gọi nào, dù mang nhiệm vụ nào, dù phải trả giá nào,
dù phải hy sinh thế nào - sức mạnh của Ngài sẽ là sức mạnh của bạn trong giờ bạn
cần.
Có những
quyền lợi vật chất do đời sống Cơ Đốc mang lại. Tội lỗi và mặc cảm không xứng đáng
của nội tâm làm phương hại đến sự an lạc vật chất và tinh thần. Ý thức bất khiết
và vô luân về thể chất, ý thức căm thù đối với đồng loại, ý thức về sự bất lực,
bất mãn và bất tài của chúng ta trong việc thực hiện các mục đích chúng ta mong
ước - tất cả những điều đó là những nguyên do thật sự của bệnh tật về cơ thể và
tinh thần. Mặc cảm vấp phạm và tội lỗi mà một người bình thường mang trong lòng
khiến họ không xứng đáng thi hành những bổn phận của họ và làm cho họ bị ốm đau
về tâm trí lẫn thân xác. Không phải ngẫu nhiên mà Chúa Giê-xu đã kết hợp sự chữa
lành với sự rao giảng và dạy dỗ khi Ngài còn ở thế gian. Có mối tương quan thực
hữu giữa đời sống thuộc linh với sức khỏe của thể xác và tâm trí.
Hòa thuận
với Thượng Đế, sự bình an của Ngài trong lòng một người, và niềm vui được thông
công với Chúa Cứu Thế, tự chúng vốn có tác dụng hữu ích trên thân thể và tâm
trí, đưa đến việc phát triển và duy trì năng lực thể xác và tinh thần. Vì thế,
Chúa Cứu Thế đem đến cho cả thân thể lẫn tâm trí cũng như phần thuộc linh những
điều ích lợi nhất, thêm vào với sự bình an nội tâm là sự phát triển sinh hoạt
thuộc linh, niềm vui được thông công với Chúa Cứu Thế, và một sinh lực mới đồng
thời với sự sanh lại.
Có vài ân
huệ đặc biệt mà chỉ có Cơ Đốc nhân thật sự mới vui hưởng. Chẳng hạn như ân huệ được
có sự thông sáng và sự dẫn dắt thiên thượng cách liên tục. Kinh Thánh chép: “Nếu
anh em không hiểu biết đường lối Chúa, hãy cầu xin Ngài chỉ dẫn. Vì Ngài không
quở trách những người cầu xin, nhưng luôn luôn sẵn sàng ban khôn ngoan dồi dào
cho họ” (Gia 1:5).
Người Cơ Đốc
cũng có tinh thần lạc quan thật sự, bảo đảm rằng theo sự mặc khải thiên thượng,
chung cuộc mọi việc sẽ trở nên tốt đẹp.
Người Cơ Đốc
cũng có vũ trụ quan. Vũ trụ quan này cho thấy mục đích và cứu cánh của Thượng Đế
mà mọi sự đang hướng về đó. Quan điểm này bảo đảm với chúng ta rằng mặc dù có sự
tranh chiến giữa con người với nhau và mặc dù có những năng lực hủy diệt của
thiên nhiên hình như đang nắm giữ chúng ta trong nanh vuốt của chúng, Thượng Đế
vẫn còn tại vị trên ngai và chỉ huy tất cả. Chính Sa-tan đã bị quyền năng Ngài đẩy
lui và chỉ được ban cho cơ hội sử dụng ảnh hưởng xấu xa của nó tùy theo Thượng Đế
thấy là thích hợp, và trong thời gian Ngài cho phép. Kinh Thánh dạy chúng ta rằng
Thượng Đế có một kế hoạch nhất định cho mỗi giai đoạn lịch sử, cho mỗi quốc gia
và cho mỗi cá nhân. Kinh Thánh tiết lộ kế hoạch của Ngài về sự tái lâm của Chúa
Cứu Thế khi vương quốc Ngài sẽ được thiết lập như chúng ta đã được thấy. Thế
nên, đối với người Cơ đốc, đời sống có một kế hoạch và một sự bảo đảm, rằng Thượng
Đế cuối cùng sẽ chiến thắng tất cả những gì bất nghĩa.
Tóm tắt về
sự cao trọng của đời sống so với mọi đường lối sống khác, chúng ta không thể bỏ
qua lợi điểm mà người Cơ Đốc sẽ có đời đời. Gióp đã nói: “Nếu loài người chết
có được sống lại chăng?” (Giop 14:14). Chính Gióp đã tự trả lời câu hỏi trên
khi ông nói: “Còn tôi, tôi biết rằng Đấng Cứu Chuộc tôi vẫn sống, đến lúc cuối
cùng Ngài sẽ đứng trên đất” (19:25).
Viễn ảnh tươi
đẹp làm sao! Tương lai tốt lành làm sao! Hy vọng tràn trề làm sao! Đời sống hứa
hẹn làm sao! Tôi sẽ không chịu đổi chỗ với người giàu nhất và có thế lực nhất
trong thế gian. Tôi thà chỉ làm con của Vua, người đồng kế tự với Chúa Cứu Thế,
một phần tử của Hoàng gia thiên thượng!
Tôi biết
tôi từ đâu đến, tại sao tôi đang ở đây, tôi biết tôi sẽ đi về đâu - và tôi có sự
bình an trong lòng mình. Sự bình an của Chúa chảy tràn tâm tư và ngập cả hồn
tôi!
Bão tố đang
gào thét. Đại dương đang dồn dập đập vào gành đá những lượn sóng khổng lồ. Chớp
lóe lên, sấm vang động, gió thổi ào ào nhưng con chim nhỏ đang ngủ trong hốc đá,
đầu bình thản ủ dưới đôi cánh, chim đang ngon giấc. Đó là sự bình an: có thể ngủ
yên trong giông tố!
Trong Chúa
Cứu Thế chúng ta được thoải mái và bình an giữa những xáo trộn, hỗn loạn và bối
rối của đời này. Giông tố gào thét nhưng lòng ta được yên nghỉ. Cuối cùng,
chúng ta tìm thấy được sự bình an!
Hòa bình
trong tương lai.
Sự bình an
thứ ba mà Kinh Thánh đề cập là sự hòa bình trong tương lai. Kinh Thánh hứa rằng
rồi đây sẽ là thời mà cả thế giới có hòa bình. Dường như thế giới này đang hướng
về trận Ha-ma-ghê-đôn. Trong Kh 6:4, Giăng bảo: “Một con ngựa
hồng đi ra, người cỡi ngựa nhận một thanh gươm lớn và được quyền gây chiến
tranh khắp thế giới, khiến người ta giết hại lẫn nhau”. Chúng ta sẽ không có
hòa bình - một nền hòa bình trường cửu - trước ngày Chúa Bình an đến.
Và Ngài đang
đến. Có một ngày, trời sẽ mở ra, và Chúa Cứu Thế Giê-xu sẽ tái lâm. Ngài sẽ đặt
quyền cai trị trên hành tinh này và chúng ta sắp có hòa bình cùng công bằng xã
hội. Thật là một thời kỳ tuyệt vời!
Ê-sa tiên
báo: “Quyền cai trị sẽ đặt trên vai Ngài. Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ Lùng, là
Đấng Mưu Luận, là Thượng Đế Quyền Năng, là Cha Đời Đời, là Chúa Bình An. Ngài
cai trị và sự bình an của Ngài cứ thêm mãi không thôi” (Es 9:5, 6) Hãy nghĩ xem: sẽ chẳng
còn đánh nhau, chẳng còn chiến tranh, chẳng còn thù hận nữa. Tất cả sẽ chỉ còn
là hòa bình!
Được ở với
Chúa Cứu Thế.
Bạn đã nhận
biết Chúa Cứu Thế chưa? Đã chắc chắn rằng Ngài đang ngự trong lòng bạn chưa? Có
lẽ bạn nghĩ: “Tôi muốn chắc chắn mình đã hòa thuận với Thượng Đế. Tôi muốn chắc
chắn mình đã sẵn sàng qua đời. Tôi muốn tội lỗi mình được tha. Tôi muốn mọi vi
phạm của mình đều được cất đi, xóa sạch. Tôi muốn được ở với Chúa Cứu Thế khi
Ngài đến thiết lập nước Ngài”.
Tất cả tùy
thuộc bạn, và được dành cho bạn vô điều kiện. Bạn không cần gì phải làm việc khổ
nhọc để có được những điều đó. “Anh em được cứu nhờ ân phúc Thượng Đế, do đức
tin nơi Chúa Cứu Thế. Đây là một tặng phẩm của Thượng Đế, chớ không do anh em.
Không phải là kết quả của công đức anh em, nên chẳng ai có thể khoe khoang” (Eph 2:8, 9).
Hãy dâng tấm
lòng và đời sống của bạn cho Chúa Cứu Thế ngay bây giờ. Xin đừng trì hoãn.
Như
đã ấn định, mỗi người chỉ chết một lần rồi bị Chúa xét xử.
He 9:27
He 9:27
NĂM ngoái, có một chương trình truyền
hình nhan đề “Đời sau”. Trong phần kết thúc, cả địa cầu dường như chỉ còn là một
bãi tha ma đầy xác người. Đối với triệu triệu người, hình ảnh trên là một từng
trải bối rối và là một cơn ác mộng.
Nếu triệu
triệu người có thể tưởng tượng một mùa đông ảm đạm do chiến tranh hạt nhân gây
ra cho tương lai họ sẽ là như thế, thì sự kiện sẽ càng khủng khiếp hơn biết bao
nếu họ biết được rằng đến cuối cùng, “đời sau” thật sự dành cho những người chối
bỏ Chúa Cứu Thế không phải chỉ là một cảnh đen tối như thế, mà còn là một sự đoán
phạt tệ hại hơn nhiều, là một hỏa ngục đời đời, đem các hình ảnh trên TV kia so
với cảnh ấy thì chỉ như một cuộc dạo chơi mà thôi.
Tuy nhiên,
dẫu tình hình có đen tối đến đâu thì tương lai của bạn cũng không do tình hình
thế giới quyết định. Tương lai bạn lệ thuộc vào sự kiện đã xảy ra trên thập tự
giá từ hai ngàn năm rồi, và vào việc bạn có bằng lòng tin nhận hay chối bỏ Chúa
Bình an.
Khi cập nhật
hóa quyển sách này, chúng tôi khẩn nguyện với Chúa, để bạn không trì hoãn thêm
một giây phút nào nữa trên con đường đi tìm cứu cánh cho cuộc đời. Thì giờ vốn
ngắn ngủi hơn là khi quyển sách này mới được viết ra. Rất ít người trong chúng
ta biết chắc khi nào cái chết sẽ đến với mình. Vậy, ngay hôm nay bạn hãy hòa
thuận lại với Thượng Đế để được Sự Bình An Trong Ngài.
Kính lạy
Thượng Đế,
Con là một
tội nhân; con rất hối tiếc về các tội lỗi của con; con xin ăn năn; con bằng
lòng xây khỏi các tội lỗi mình.
Con xin
tin nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa; con xin tuyên xưng Ngài là Chúa; con muốn
theo Ngài, phục vụ Ngài và người khác trong mối thông công với Hội thánh Ngài.
Con cầu
nguyện trong danh Chúa Giê-xu. A men.