Kinh
Thánh: Hê. 10:25; Mat. 18:20; Công. 2:42; 1 Cô. 14:23, 26
I.
ÂN ĐIỂN TẬP THỂ ĐƯỢC TÌM THẤY TRONG SỰ NHÓM HỌP
Lời
Đức Chúa Trời nói: “Đừng bỏ qua việc cùng nhau nhóm họp của chúng ta” (Hê.
10:25). Vì sao chúng ta không nên bỏ nhóm? Vì Đức Chúa Trời ban phát ân điển
của Ngài cho chúng ta qua sự nhóm họp. Ân điển của Đức Chúa Trời ban cho con
người có thể được chia làm hai loại, cá nhân và tập thể. Đức Chúa Trời không
những ban cho chúng ta ân điển cá nhân mà Ngài còn ban cho ân điển tập thể nữa.
Ân điển tập thể này chỉ được tìm thấy trong sự nhóm họp với nhau hay trong
những buổi nhóm.
Chúng
ta đã nói về đề tài cầu nguyện. Một người có thể học tập cầu nguyện một mình ở
nhà, chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ nghe những lời cầu nguyện ấy. Đức Chúa Trời
lắng nghe lời cầu nguyện của cá nhân.
Tuy
nhiên, có một loại cầu nguyện khác. Để loại cầu nguyện thứ hai này được đáp
lời, cần phải cầu nguyện trong những buổi nhóm theo nguyên tắc hai hay ba người
cùng cầu xin trong danh Chúa.
Nếu
ai cố gắng làm điều này một mình, người ấy sẽ không được đáp lời. Nhiều vấn đề
quan trọng phải được cầu nguyện trong những buổi nhóm trước khi được Đức Chúa
Trời đáp lời. Những vấn đề ấy phải được đem đến những buổi nhóm cầu nguyện rồi
chúng ta mới thấy chúng được giải quyết.
Ân
điển tập thể của Đức Chúa Trời đến với con người chỉ qua những buổi nhóm. Anh
em có thể nghĩ một người cầu nguyện một mình là đủ và người ấy có thể tìm kiếm
sự thương xót của Đức Chúa Trời một mình. Nhưng kinh nghiệm của nhiều người cho
thấy lời cầu nguyện của cá nhân sẽ không hiệu quả. Dường như trừ phi hai hoặc
ba người, hay tất cả các anh chị em nhóm lại cầu nguyện, Đức Chúa Trời sẽ không
đáp lời. Vì vậy, sự đáp lời cầu nguyện có hai loại: Một là đáp lời cho những
lời cầu nguyện cá nhân, và hai là đáp lời cho những lời cầu nguyện tập thể. Nếu
chúng ta không nhóm họp với những người khác, một số lời cầu nguyện sẽ không
được đáp lời.
Chúng
tôi cũng đã nói về việc đọc Kinh Thánh. Dĩ nhiên Đức Chúa Trời sẽ ban cho chúng
ta ân điển cá nhân khi chúng ta đọc Kinh Thánh. Tuy nhiên, một số phân đoạn
trong Lời [Chúa] không được mở ra do một người. Đức Chúa Trời ban ánh sáng khi
chúng ta nhóm họp, khi chúng ta hội họp lại với nhau. Trong một buổi nhóm như
vậy, một vài anh em có thể được dẫn dắt để mở ra một phân đoạn nào đó trong Lời
Chúa. Có thể không ai giảng dạy gì về phân đoạn cụ thể ấy trong Lời Chúa, nhưng
sự kiện mọi người hội họp với nhau cho Đức Chúa Trời có cơ hội chiếu ánh sáng
của Ngài ra. Nhiều anh chị em có thể làm chứng rằng họ hiểu Lời Đức Chúa Trời
trong những buổi nhóm nhiều hơn khi họ học tập một mình. Nhiều lúc trong buổi
nhóm, Đức Chúa Trời mở phân đoạn này qua phân đoạn khác trong Lời [Chúa]. Khi
một người nói về một phân đoạn này, ánh sáng chiếu trên một phân đoạn khác.
Bằng cách ấy, nhiều ánh sáng hơn được mở ra và chúng ta nhận được ân điển một
cách tập thể.
Nếu
không nhóm họp với những anh em khác, cùng lắm là chúng ta chỉ có thể có ân
điển dành cho cá nhân; chúng ta sẽ mất phần lớn lao của ân điển tập thể. Đức
Chúa Trời chỉ ban cho chúng ta ân điển tập thể trong buổi nhóm. Nếu không nhóm
họp với các anh em khác, chúng ta sẽ không nhận được ân điển này. Đó là lý do
tại sao Kinh Thánh truyền cho chúng ta không được bỏ qua việc cùng nhau nhóm
họp.
II.
HỘI THÁNH VÀ SỰ NHÓM HỌP
Đặc
tính nổi bật của hội thánh là sự nhóm họp. Cơ Đốc nhân không bao giờ có thể
thay thế các buổi nhóm bằng cách tự theo đuổi [Chúa], tự học hỏi. Đức Chúa Trời
có một loại ân điển chỉ dành riêng cho những buổi nhóm. Nếu không nhóm họp với
những người khác, phần ân điển tập thể ấy sẽ không thể đến với chúng ta.
Trong
Cựu Ước, Đức Chúa Trời truyền lệnh cho dân Israel phải nhóm họp. Ở nhiều chỗ
trong Kinh Thánh, họ được gọi là hội chúng. Việc họ được gọi là hội chúng có
nghĩa là họ phải nhóm lại với nhau.
Sang
thời Tân Ước, sự khải thị lại càng sáng tỏ hơn. Chúng ta có những mạng lệnh rõ
ràng là đừng bỏ qua “việc cùng nhau nhóm họp của chúng ta”. Đức Chúa Trời không
thích cá nhân “tự học hỏi”. Chúng ta phải nhóm lại với nhau rồi mới có thể nhận
được ân điển tập thể từ Ngài. Không ai bỏ nhóm mà lại giữ được ân điển của
Ngài. Bỏ nhóm là một điều khờ dại. Chúng ta phải nhóm họp, chúng ta phải nhóm
họp với những con cái khác của Đức Chúa Trời rồi mới nhận được ân điển tập thể.
Kinh
Thánh cho chúng ta những mạng lịnh cụ thể cũng như những gương mẫu rõ ràng về
việc nhóm họp với nhau. Khi Chúa ở trên đất, Ngài thường nhóm họp với các môn
đồ. Ngài nhóm họp với họ trên núi (Mat. 5:1), trong đồng vắng (Mác 6:32-34), ở
nhà (2:1-2) và nơi bờ biển (4:1). Vào buổi tối cuối cùng trước khi bị đóng
đinh, Ngài mượn một căn phòng lớn trên lầu và nhóm họp với các môn đồ
(14:15-17). Sau khi sống lại, Ngài hiện ra giữa buổi nhóm của họ (Gi. 20:19,
26; Công. 1:4). Trước ngày lễ Ngũ tuần, các môn đồ đồng lòng nhóm họp với nhau
để cầu nguyện (c. 14). Đến ngày lễ Ngũ tuần, họ cũng cùng nhau nhóm họp (2:1).
Sau đó họ tiếp tục bền lòng trong sự dạy dỗ, sự tương giao của các sứ đồ, trong
sự bẻ bánh và sự cầu nguyện. Không bao lâu sau đó, họ bị bắt bớ và trở về nhà
mình. Nhưng họ vẫn nhóm họp với nhau (4:23-31). Sau khi Phi-e-rơ được thả ra,
ông đến căn nhà nơi các môn đồ đang nhóm họp (12:12). 1 Cô-rin-tô chương 14 cho
chúng ta biết rõ cả hội thánh nhóm lại với nhau (c. 23). Đó là toàn thể hội
thánh nhóm lại với nhau. Không ai là một phần tử của hội thánh lại có thể được
miễn nhóm họp với hội thánh.
Từ
ngữ hội thánh có nghĩa là gì? Trong tiếng Hi Lạp từ ngữ hội thánh là ekklesia.
Ek có nghĩa là “ra khỏi”, trong khi klesia nghĩa là “tụ họp hay qui tụ”. Như
vậy, ekklesia nghĩa là sự nhóm họp của những người được gọi ra khỏi. Đức Chúa
Trời không những tìm kiếm một số người được gọi ra khỏi, Ngài muốn những người
được gọi ra khỏi nhóm họp với nhau. Nếu tất cả những người được gọi ra khỏi
phân rẽ với nhau, chúng ta sẽ không có hội thánh, hội thánh sẽ không được sản
sinh.
Sau
khi tin Chúa, có một nhu cầu cơ bản chúng ta cần quan tâm, đó là nhóm lại với
những con cái khác của Đức Chúa Trời. Chúng ta đừng bao giờ có ý tưởng kỳ quặc
rằng mình có thể là những Cơ Đốc nhân “tự học hỏi”. Chúng ta phải loại bỏ tư
tưởng như vậy khỏi tâm trí mình. Đạo Đấng Christ không có những Cơ Đốc nhân “tự
học hỏi”, Đạo Đấng Christ chỉ có sự nhóm họp của toàn thể hội thánh. Đừng nghĩ
rằng chúng ta có thể là những Cơ Đốc nhân đóng cửa phòng cầu nguyện và đọc Kinh
Thánh một mình tại nhà. Đạo Đấng Christ không chỉ được xây dựng trên các cá
nhân nhưng cũng trên sự nhóm họp nữa.
III.
CHỨC NĂNG CỦA THÂN THỂ ĐƯỢC BÀY TỎ QUA SỰ NHÓM HỌP
1
Cô-rin-tô chương 12 nói về Thân Thể và chương 14 nói về sự nhóm họp. Chương 12
nói về các ân tứ của Thánh Linh và chương 14 cũng nói về các ân tứ của Thánh
Linh. Chương 12 nói về các ân tứ trong Thân Thể trong khi chương 14 nói về các
ân tứ trong hội thánh. Theo hai chương này, dường như sự hoạt động hỗ tương của
các chi thể trong Thân Thể được bày tỏ trong các buổi nhóm. Khi đặt chương 12
và 14 lại với nhau, chúng ta thấy rõ ràng chương 12 bày tỏ Thân Thể cho chúng
ta trong khi chương 14 bày tỏ Thân Thể [đang hoạt động] trong chức năng của
mình. Một chương nói về Thân Thể trong khi chương kia nói về sự nhóm họp. Một
chương nói về các ân tứ trong Thân Thể trong khi chương kia nói về các ân tứ
trong buổi nhóm. Việc Thân Thể thi hành chức năng được nhận biết cách cụ thể
trong buổi nhóm. Sự giúp đỡ hỗ tương, ảnh hưởng hỗ tương và sự chăm sóc các chi
thể cách hỗ tương (chẳng hạn như mắt giúp đỡ chân, tai giúp đỡ tay, và tay giúp
đỡ miệng) đều được bày tỏ rõ ràng hơn trong những buổi nhóm. Nhờ các buổi nhóm,
chúng ta nhận được nhiều sự đáp lời cầu nguyện. Chúng ta thường không nhận được
ánh sáng cách cá nhân. Nhưng khi đến nhóm, chúng ta tìm được ánh sáng. Những gì
chúng ta thấy cách cá nhân qua sự theo đuổi riêng không bao giờ có thể sánh với
những điều chúng ta thấy trong những buổi nhóm. Tất cả các chức vụ Đức Chúa
Trời chỉ định đều hành động qua sự nhóm họp và vì sự nhóm họp. Nếu một người ít
nhóm họp với những người khác, người ấy ít có cơ hội nhận biết việc thi hành
chức năng của Thân Thể.
Ngoài
việc hội thánh là Thân Thể của Đấng Christ, hội thánh cũng là nơi ở của Đức
Chúa Trời. Trong Cựu Ước, ánh sáng của Đức Chúa Trời ở trong Nơi Chí Thánh. Có
ánh sáng mặt trời ở hành lang (sân ngoài) và có đèn với dầu ô-liu cháy sáng
trước bức màn trong Nơi Thánh. Nhưng trong Nơi Chí Thánh không có ánh sáng
thiên nhiên hay nhân tạo. Chỉ có ánh sáng của Đức Chúa Trời. Nơi Chí Thánh là
nơi Đức Chúa Trời cư trú. Nơi nào Đức Chúa Trời cư trú, nơi đó có ánh sáng của
Ngài. Ngày nay khi hội thánh nhóm họp với nhau như nơi ở của Đức Chúa Trời,
chúng ta tìm được ánh sáng của Ngài. Khi hội thánh nhóm họp, Đức Chúa Trời bày
tỏ ánh sáng của Ngài. Chúng ta không biết vì sao điều này xảy ra. Chúng ta chỉ
có thể nói rằng đó là một trong những kết quả do các chi thể thi hành chức năng
cách hỗ tương. Việc thi hành chức năng cách hỗ tương khiến cho ánh sáng của Đức
Chúa Trời được bày tỏ qua Thân Thể của Ngài.
Phục
Truyền Luật Lệ Ký 32:30 nói: “Nếu Vầng Đá không bán họ và Đức Giê-hô-va không
nộp họ thì làm thế nào một người đuổi một ngàn người, và hai người đuổi mười
ngàn người chạy trốn?” Nếu một người có thể đuổi một ngàn người, làm thế nào
hai người có thể đuổi mười ngàn người chạy trốn? Đó là một điều kỳ lạ. Chúng ta
không hiểu sao lại như vậy, nhưng chỉ biết đó là một sự thật.
Theo
con người, nếu một người đuổi được một ngàn người, hai người chỉ có thể đuổi
được hai ngàn người. Nhưng Đức Chúa Trời phán hai người có thể đuổi mười ngàn
người, tức là thêm tám ngàn nữa.
Khi
hai người rượt đuổi riêng rẽ, mỗi người đuổi được một ngàn người. Cộng chung
lại, chúng ta chỉ có hai ngàn. Nhưng khi hai người liên kết với nhau để đuổi kẻ
thù, chúng ta có sự hoạt động hỗ tương của các chi thể, và họ có thể đuổi được
mười ngàn người, tức là tám ngàn người nhiều hơn khi họ làm việc riêng rẽ. Một
người không biết Thân Thể và không quan tâm đến sự nhóm họp sẽ đánh mất tám
ngàn người. Vì vậy, chúng ta cần học nhận lãnh ân điển tập thể. Đừng nghĩ rằng
ân điển cá nhân là đủ. Chúng tôi xin nhắc lại: Một đặc tính của Đạo Đấng Christ
là nhóm họp. Một Cơ Đốc nhân không bao giờ có thể thay thế sự nhóm họp bằng
cách tự theo đuổi, tự học hỏi. Chúng ta cần thấy điều này cách rõ ràng và chú ý
đến điều này.
Chúa
hứa hiện diện với chúng ta theo hai phương diện: một trong Ma-thi-ơ chương 28
và một trong Ma-thi-ơ chương 18. Trong Ma-thi-ơ 28:20, Chúa phán: “Ta ở cùng
các ngươi luôn cho đến khi chung kết thời đại này”. Người ta có thể cho rằng
lời này ngụ ý sự hiện diện của Ngài trong từng cá nhân. Trong Ma-thi-ơ 18:20,
Chúa phán: “Vì nơi nào có hai hay ba người được nhóm họp lại vào trong danh Ta,
thì có Ta ở giữa họ”. Sự hiện diện của Ngài ở đây chỉ về sự hiện diện trong sự
nhóm họp. Chỉ trong những buổi nhóm chúng ta mới có thể có loại hiện diện thứ
hai. Chúa hiện diện với một cá nhân và Ngài hiện diện trong buổi nhóm là hai
điều khác nhau.
Một số người biết sự hiện diện của Chúa với tư
cách là những cá nhân. Nhưng sự hiểu biết này không đầy đủ. Sự hiện diện đầy
sức lôi cuốn và quyền năng hơn chỉ được chúng ta kinh nghiệm trong những buổi
nhóm; chúng ta không thể kinh nghiệm sự hiện diện như vậy cách cá nhân. Mặc dầu
về phương diện cá nhân, chúng ta có thể có sự hiện diện của Ngài, nhưng sự hiện
diện ấy không bao giờ lớn lao hay có quyền năng bằng sự hiện diện của Ngài
trong những buổi nhóm. Nhưng khi ở giữa các thánh đồ, chúng ta có thể chạm đến
một sự hiện diện mà mình không thể kinh nghiệm với tư cách là những cá nhân.
Chúng ta phải học tập nhóm họp với các anh chị em vì trong buổi nhóm chúng ta
kinh nghiệm được sự hiện diện đặc biệt của Chúa. Đó là một phước hạnh vô cùng
lớn lao. Với tư cách cá nhân, chúng ta không bao giờ có thể cảm nhận được sự
hiện diện này. Chúng ta không thể tìm thấy một Cơ Đốc nhân “tự học hỏi” nào
kinh nghiệm được sự hiện diện đầy quyền năng này.
IV.
CÁC NGUYÊN TẮC NHÓM HỌP
Chúng
ta nên nhóm họp như thế nào? Nguyên tắc đầu tiên trong Kinh Thánh liên quan đến
sự nhóm họp là tất cả các buổi nhóm đều được tiến hành trong danh Chúa.
Ma-thi-ơ 18:20 nói: “Được nhóm họp lại vào trong danh Ta”; phần này có thể dịch
là: “Được nhóm họp lại dưới danh Ta”.
Được
nhóm họp lại dưới danh Chúa nghĩa là gì? Nghĩa là ở dưới uy quyền của Chúa.
Chúa là trung tâm và mọi người được kéo đến với Ngài. Chúng ta không đến một
buổi nhóm để thăm một số anh chị em nào đó, cũng không đến nhóm vì bị lôi cuốn
bởi những anh chị em nào đó. Chúng ta đến buổi nhóm để cùng nhau được nhóm họp
lại với các thánh đồ khác dưới danh Chúa. Chúa là trung tâm. Chúng ta không
nhóm họp để nghe một người nào đó giảng dạy nhưng để gặp Chúa. Nếu anh em nhóm
để nghe một người nào đó giảng, tôi e rằng anh em đến dưới danh của người đó
chứ không phải dưới danh Chúa. Đôi khi danh con người được dùng để lôi cuốn
người ta. Đó là kéo người ta đến dưới danh người đó. Nhưng Chúa nói rằng chúng
ta phải nhóm họp dưới danh Ngài.
Chúng
ta nên đến dưới danh Chúa vì Chúa không ở với chúng ta theo ý nghĩa thuộc thể
(Lu. 24:5-6). Bất cứ khi nào Chúa không hiện diện theo phương diện thuộc thể,
thì cần có danh Ngài. Khi Chúa hiện diện trong thân thể, nhu cầu về danh Ngài
giảm đi. Danh hiện diện vì chính con người của Ngài không hiện diện. Về phương
diện thân thể vật lý của Chúa, thì Ngài ở trên trời. Tuy nhiên, Ngài đã để lại
cho chúng ta một danh. Chúa hứa rằng nếu chúng ta nhóm họp dưới danh Ngài, Ngài
sẽ ở giữa chúng ta. Mặc dầu Chúa đang ngồi trên trời, danh Ngài vẫn ở giữa
chúng ta và Linh Ngài cũng ở giữa chúng ta. Thánh Linh là Đấng giữ gìn danh
Chúa. Thánh Linh là Đấng bảo vệ danh Chúa; Ngài bảo vệ và canh giữ danh Chúa.
Bất cứ nơi nào có danh Chúa, ở đó có Thánh Linh, và tại đó danh Chúa được bày
tỏ ra. Những ai muốn nhóm họp, cần phải nhóm họp dưới danh Chúa.
Nguyên
tắc thứ hai của sự nhóm họp là mục tiêu của sự nhóm họp phải là để gây dựng
người khác. Trong 1 Cô-rin-tô chương 14, Phao-lô bảo nguyên tắc cơ bản của sự
nhóm họp là gây dựng người khác, chứ không phải gây dựng chính mình. Mọi sự
trong buổi nhóm đều nên vì mục đích gây dựng người khác, chứ không phải gây
dựng chính chúng ta. Nói các thứ tiếng gây dựng người nói, nhưng thông dịch các
thứ tiếng gây dựng người khác.
Vì
vậy, chúng ta phải nghĩ đến người khác khi nhóm họp. Không phải chúng ta nói
bao nhiêu, nhưng những gì chúng ta nói có gây dựng người khác không.
Anh
em có muốn giúp ích cho buổi nhóm không? Tính cá nhân của một người có được xử
lý chưa là điều được thấy rõ nhất trong sự nhóm họp. Một số người chỉ nghĩ đến chính
mình. Họ ấp ủ một bài giảng trong lòng và họ muốn giảng, họ phải nói ra khi đến
nhóm. Họ có một bài thánh ca trong lòng và họ muốn hát. Họ không quan tâm bài
giảng ấy có giúp ích cho buổi nhóm không hay bài thánh ca ấy có làm cho hội
chúng sống động hay không. Những người như vậy không đem gì khác hơn là sự
thiệt hại đến buổi nhóm.
Một
số anh chị em đã là Cơ Đốc nhân nhiều năm, nhưng họ vẫn không biết cách nhóm
họp. Họ ít quan tâm đến trời hay đất, Chúa hay Thánh Linh, họ chỉ quan tâm đến
chính mình. Dường như họ nghĩ rằng hễ khi nào họ có mặt, ngay cả khi có mặt một
mình, họ có thể có một buổi nhóm. Theo cái nhìn của họ, không anh chị em nào
hiện diện cả. Họ là người duy nhất đang hiện diện. Thái độ ấy thật là kiêu
ngạo. Khi họ nói lên trong buổi nhóm, họ muốn nói cho đến khi mình thỏa mãn.
Cuối cùng họ là những người vui vẻ duy nhất; những anh chị em khác đều không
vui vẻ. Họ cảm thấy mình có một “gánh nặng” cần phải tuôn đổ ra. Nhưng ngay khi
họ mở miệng, những người khác phải nhận lấy “gánh nặng” ấy và vác về nhà.
Một số người thích cầu nguyện dài. Khi họ cầu
nguyện, những người khác đều mệt mỏi. Khi một người nào đó phá vỡ nguyên tắc
nhóm họp, cả hội thánh đều phải chịu đựng.
Trong
một buổi nhóm chúng ta không được làm buồn lòng Thánh Linh. Một khi chúng ta
làm buồn lòng Ngài, mọi ơn phước đều biến mất. Trong buổi nhóm, nếu chúng ta
chăm sóc đến nhu cầu của những người khác và tìm cách gây dựng người khác, thì
Thánh Linh được tôn trọng. Ngài sẽ thực hiện công tác gây dựng và chúng ta được
gây dựng.
Tuy
nhiên, nếu chúng ta không gây dựng người khác, mà lại nói năng cẩu thả và làm
buồn lòng Thánh Linh, thì buổi nhóm của chúng ta sẽ vô ích. Khi nhóm họp, chúng
ta không nên nghĩ đến việc nhận được gì từ buổi nhóm cho chính mình. Mọi hoạt
động nên vì lợi ích của người khác. Nếu anh em nghĩ lời nói của mình sẽ đem lại
lợi ích cho người khác, anh em nên nói. Nếu anh em nghĩ sự im lặng của mình sẽ
có ích cho người khác, anh em nên im lặng. Luôn luôn tìm cách chăm sóc người
khác, đó là nguyên tắc cơ bản của sự nhóm họp.
Điều
này không có nghĩa là mọi người đều nên im lặng trong buổi nhóm. Nhiều lúc phát
ngôn gây tổn hại cho người khác, nhưng im lặng cũng làm thiệt hại người khác.
Nếu anh em không quan tâm đến người khác, buổi nhóm sẽ bị thiệt hại dầu anh em
im lặng hay phát ngôn. Anh em nói phải vì ích lợi cho buổi nhóm và anh em im
lặng cũng phải vì lợi ích của buổi nhóm. Hãy luôn luôn tìm cách gây dựng người
khác. Những ai nên nói không nên im lặng. Trong buổi nhóm, xin nhớ rằng “Hãy
làm mọi sự để gây dựng” (1 Cô. 14:26). Mọi người nên đến nhóm với một mục tiêu
trong tâm trí: mình đến đó vì người khác, không phải chỉ vì chính mình. Chúng
ta không nên làm điều gì gây vấp ngã cho người khác. Nếu sự im lặng của chúng
ta gây vấp phạm cho người khác, chúng ta nên nói. Nếu nói mà gây vấp phạm cho
người khác, chúng ta nên im lặng. Chúng ta cần học tập nói vì mục đích gây dựng
người khác và chúng ta cần học tập im lặng cũng vì mục đích gây dựng người
khác. Bất cứ điều gì chúng ta làm đều vì mục đích gây dựng người khác, chứ
không phải gây dựng chính mình. Khi chúng ta không vì chính mình, cuối cùng
chính chúng ta sẽ được gây dựng. Nhưng khi chỉ nghĩ đến chính mình, chúng ta sẽ
không được gây dựng.
V.
TRONG ĐẤNG CHRIST
Tại
đây, tôi sẽ đề cập đến một vấn đề khác. Mỗi khi nhóm họp và tương giao với nhau
cách hỗ tương, là những tín đồ, chúng ta phải nhớ rằng chúng ta là một trong
Đấng Christ. Xin chúng ta đọc một số câu Kinh Thánh:
1
Cô-rin-tô 12:13 chép: “Vì cùng trong một Linh, chúng ta đều đã được báp-têm vào
trong một Thân Thể, dầu là người Do Thái hay người Hi Lạp, nô lệ hay tự do, tất
cả đều được ban cho uống chung một Linh”. Chữ dầu có nghĩa là không phân biệt.
Trong Thân Thể của Đấng Christ, không có những sự khác biệt của thế gian. Trong
một Linh, chúng ta đều đã được báp-têm vào trong một Thân Thể và được ban cho
uống cùng một Linh.
Ga-la-ti
3:27-28 chép: “Vì bao nhiêu người đã báp-têm vào trong Đấng Christ thì đều đã
mặc lấy Đấng Christ. Không thể có người Do Thái hay người Hi Lạp, không thể có
nô lệ hay người tự do, không thể có nam hay nữ, vì anh em đều là một trong
Christ Jesus”. Chúng ta đều đã chịu báp-têm vào trong Đấng Christ và chúng ta
cũng đều mặc lấy Đấng Christ. Không thể có người Do Thái hay Hi Lạp, nô lệ hay
người tự do, nam hay nữ, vì tất cả chúng ta đều trở nên một trong Đấng Christ.
Cô-lô-se
3:10-11 chép: “Đã mặc lấy người mới, là người đang được đổi mới để đạt đến sự
hiểu biết đầy đủ theo hình ảnh của Đấng tạo dựng nên người ấy, là nơi không thể
có người Hi Lạp và Do Thái, cắt bì và không cắt bì, người man rợ, người Sy-the,
nô lệ, người tự do, nhưng Đấng Christ là tất cả và trong tất cả”. Cả Ga-la-ti
3:28 lẫn Cô-lô-se 3:11 đều dùng nhóm chữ không thể có. Không thể có một sự khác
biệt nào cả vì chúng ta đã mặc lấy người mới, chúng ta được cấu tạo thành một
người mới. Người mới này được tạo dựng theo Đức Chúa Trời (Êph. 4:24). Trong
con người mới không thể có người Hi Lạp hay người Do Thái, chịu cắt bì hay
không chịu cắt bì, người man rợ hay người Sy-the, nô lệ hay người tự do. Chỉ có
Đấng Christ là tất cả và trong tất cả. Chỉ có một thực thể và tất cả đều trở
nên một.
Khi
đọc ba phân đoạn Kinh Thánh này, chúng ta lưu ý rằng các tín đồ là một trong
Đấng Christ. Trong Chúa thì không phân biệt địa vị quá khứ. Trong con người mới
và trong Thân Thể của Đấng Christ không có sự phân biệt nào cả. Nếu chúng ta
đưa những sự khác biệt nhân tạo này vào trong hội thánh, mối liên hệ giữa các
anh chị em sẽ bị chuyển sang một nền tảng sai trật.
Đến
đây chúng ta đã đề cập năm sự khác biệt: sự khác biệt giữa người Hi Lạp và
người Do Thái, giữa người tự do và nô lệ, giữa nam và nữ, giữa người man rợ và
người Sy-the, giữa người chịu cắt bì và người không chịu cắt bì.
Sự
khác biệt giữa người Do Thái và người Hi Lạp có hai ý nghĩa. Trước hết, người
Do Thái và người Hi Lạp là hai dòng giống khác nhau, họ thuộc về hai quốc gia
khác nhau. Trong Thân Thể của Đấng Christ, trong Đấng Christ và trong người
mới, không thể có người Do Thái hay người Hi Lạp. Người Do Thái không nên khoe
khoang mình là dòng dõi của Áp-ra-ham và là tuyển dân của Đức Chúa Trời; họ
không nên khinh thường người các nước khác. Chúng ta phải nhận thức rằng cả
người Do Thái lẫn người Hi Lạp đều đã được làm nên một trong Đấng Christ rồi.
Các biên giới không còn tồn tại trong Đấng Christ. Trong Chúa, tất cả đều đã
trở nên anh em. Chúng ta không thể chia rẽ con cái Chúa thành những tầng lớp
khác nhau. Trong Thân Thể Đấng Christ và trong người mới, chỉ có một thực thể.
Nếu đem ý tưởng về huyết thống và hương vị của từng miền vào trong hội thánh,
thì anh em không biết hội thánh của Đấng Christ là gì. Bây giờ anh em đang ở
trong hội thánh, anh em cần phải thấy chúng ta không có sự phân biệt nào giữa
người Do Thái và người Hi Lạp ở đây. Người Do Thái khó từ bỏ sự khác biệt này.
Nhưng Kinh Thánh nói rằng trong Đấng Christ không thể có người Do Thái và người
Hi Lạp. Đấng Christ là tất cả trong tất cả. Trong hội thánh chỉ có Đấng Christ.
Có
một sự khác biệt nữa giữa người Do Thái và người Hi Lạp. Người Do Thái có tính
nhiệt thành và mộ đạo, trong khi người Hi Lạp tiêu biểu cho tính ưa chuộng tri
thức. Về mặt lịch sử, mỗi khi anh em nói về tôn giáo, người ta nghĩ đến người
Do Thái. Mỗi khi anh em nói về khoa học và triết học, người ta nghĩ đến người
Hi Lạp. Đó là sự khác biệt về đặc tính. Tuy nhiên, dầu họ có đặc tính khác biệt
như thế nào đi nữa, người Do Thái có thể là Cơ Đốc nhân và người Hi Lạp cũng có
thể là Cơ Đốc nhân. Những người nhiệt thành về tôn giáo có thể trở nên Cơ Đốc
nhân, và những người trí thức cũng có thể trở thành Cơ Đốc nhân. Trong Đấng
Christ, không có sự khác biệt nào giữa người Do Thái và người Hi Lạp. Một bên
quan tâm đến cảm giác của lương tâm, còn bên kia quan tâm đến lý lẽ và sự suy
luận. Hai loại người này có khác nhau không? Theo xác thịt, rõ ràng tính chất
họ rất khác nhau. Một bên hành động theo cảm giác, còn bên kia hành động theo
trí tuệ. Nhưng trong Đấng Christ không có sự khác biệt nào giữa người Do Thái
và người Hi Lạp. Người nhiệt thành có thể trở nên Cơ Đốc nhân và người lạnh
lùng cũng có thể trở nên Cơ Đốc nhân. Người bước đi theo trực giác có thể làm
Cơ Đốc nhân và người bước đi theo lý luận cũng có thể là Cơ Đốc nhân. Mọi loại
người đều có thể là Cơ Đốc nhân.
Một
khi trở nên Cơ Đốc nhân, anh em phải buông bỏ khí chất thuộc về quá khứ ở đằng
sau. Trong hội thánh không có những điều như vậy. Hội thánh thường bị thiệt hại
vì nhiều người cố gắng đem hương vị thiên nhiên và đặc điểm khác thường của
mình vào hội thánh. Khi những người không thích nói chuyện qui tụ lại với nhau,
họ trở nên một nhóm im lặng. Khi những người nói nhiều qui tụ lại với nhau, họ
trở thành một nhóm nói nhiều. Khi những người lạnh lùng qui tụ lại với nhau, họ
trở nên một nhóm người lạnh lùng. Khi những người nhiệt thành qui tụ lại với
nhau, họ trở thành một nhóm người nhiệt thành. Kết quả là có nhiều sự khác biệt
được xây dựng lên giữa vòng các con cái Đức Chúa Trời.
Tuy
nhiên, không có chỗ cho tính khí thiên nhiên trong hội thánh. Trong Đấng Christ
và trong con người mới, không có chỗ cho tính tình thiên nhiên. Đừng nghĩ rằng
những người khác sai lầm vì tính tình của họ khác với anh em. Anh em phải nhận
biết tính tình của mình cũng không được người khác chấp nhận. Dầu anh chị em
nhanh nhẹn hay im lặng, lạnh lùng hay nồng hậu, lý trí hay tình cảm, khi đã trở
nên một anh em hay một chị em, thì anh chị em phải lột bỏ những điều ấy. Nếu
anh em đem những yếu tố thiên nhiên vào trong hội thánh, chúng sẽ trở thành nền
tảng cho sự rối loạn và chia rẽ. Khi anh em đem tính tình và khí chất của mình
vào hội thánh, anh em sẽ lấy chính mình làm tiêu chuẩn và thước đo. Những ai
đạt được tiêu chuẩn của anh em được xếp loại là những Cơ Đốc nhân tốt, những ai
không đạt đến tiêu chuẩn của anh em sẽ bị xếp loại là những Cơ Đốc nhân kém
cỏi. Những ai hòa hợp với cá tính của anh em được cho là đúng đắn và những ai
không hòa hợp với cá tính của anh em sẽ bị cho là sai lầm. Khi điều ấy xảy ra,
hội thánh sẽ bị thiệt hại do tính tình và khí chất của anh em. Những sự khác
biệt như vậy không bao giờ được tồn tại trong hội thánh.
Sự
khác biệt thứ hai là sự khác biệt giữa người tự do và kẻ nô lệ. Sự khác biệt
này cũng bị loại trừ trong Đấng Christ. Trong Đấng Christ, sự khác biệt giữa kẻ
nô lệ và người tự do không tồn tại.
Phao-lô
viết các Thư Cô-rin-tô thứ nhất, Ga-la-ti và Cô-lô-se trong thời đại La Mã là
thời kỳ người ta thực hành chế độ chiếm hữu nô lệ. Vào thời ấy, nô lệ giống như
gia súc hay đồ dùng, họ là tài sản của chủ mình. Con cái do những người nô lệ
sinh ra đương nhiên trở thành nô lệ, suốt đời họ không có quyền tự do. Sự khác
biệt giữa người tự do và nô lệ rất lớn. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời không cho phép
sự khác biệt này tồn tại trong hội thánh. Các Thư Cô-rin-tô thứ nhất, Ga-la-ti
và Cô-lô-se đều nói không thể có người tự do hay nô lệ. Sự khác biệt này bị
loại trừ trong Đấng Christ.
Sự
khác biệt thứ ba là sự khác biệt giữa nam và nữ. Trong Đấng Christ và trong con
người mới, nam và nữ có cùng địa vị, giữa họ không có sự khác biệt nào cả. Nam
không được chiếm hữu địa vị đặc biệt, nữ cũng không. Vì Đấng Christ là tất cả
trong tất cả, nên không có sự khác biệt giữa nam và nữ. Trong các vấn đề thuộc
linh, không có sự khác biệt giữa nam và nữ. Một anh em được cứu bởi sự sống của
Đấng Christ, tức là nhờ sự sống của Con Đức Chúa Trời. Một chị em cũng được cứu
nhờ sự sống của Đấng Christ, là sự sống của Con Đức Chúa Trời. Anh em ấy trở
nên con của Đức Chúa Trời, và chị em ấy cũng trở nên con của Đức Chúa Trời. Trong
Đấng Christ, chúng ta đều là con của Đức Chúa Trời, không có sự khác biệt nào
giữa nam và nữ.
Sự
khác biệt thứ tư là sự khác biệt giữa người man rợ và người Sy-the. Đó là sự
khác biệt về văn hóa. Có những sự khác biệt về tiêu chuẩn văn hóa, nhưng Phao-lô
nói với chúng ta rằng những sự khác biệt về văn hóa của người man rợ và người
Sy-the cũng bị xóa bỏ trong Đấng Christ.
Dĩ
nhiên chúng ta cần học tập làm người Do Thái giữa vòng người Do Thái, và làm
người ở dưới luật pháp với những người ở dưới luật pháp (1 Cô. 9:20-22). Giữa
vòng những người thuộc các nền văn hóa khác nhau, chúng ta nên cư xử theo văn
hóa của họ. Chúng ta nên học làm một với mọi người ở mọi nơi. Khi tiếp xúc với
những người có văn hóa khác, chúng ta nên học tập làm một với họ trong Đấng
Christ.
Sự
khác biệt cuối cùng là sự khác biệt giữa người chịu cắt bì và người không chịu
cắt bì. Sự khác biệt này liên quan đến dấu hiệu của sự tin kính trong xác thịt.
Người Do Thái có dấu cắt bì trên thân thể họ. Dấu vết này bày tỏ họ thuộc về
Đức Chúa Trời, họ kính sợ Đức Chúa Trời và từ chối xác thịt. Nhưng họ quá nhấn
mạnh đến sự cắt bì. Cộng vụ các Sứ đồ chương 15 nói về một vài người Do Thái cố
gắng bắt buộc người Ngoại bang chịu cắt bì.
Các
Cơ Đốc nhân cũng có “dấu hiệu của sự tin kính trong xác thịt”. Chẳng hạn như
báp-têm, sự trùm đầu, sự bẻ bánh, sự đặt tay, v.v... đều có thể trở nên dấu
hiệu của sự tin kính. Báp-têm có ý nghĩa thuộc linh, nhưng cũng có thể là dấu
hiệu của sự tin kính trong xác thịt. Sự trùm đầu của các chị em có ý nghĩa
thuộc linh, nhưng cũng có thể là dấu hiệu của sự tin kính trong xác thịt. Sự bẻ
bánh và sự đặt tay có ý nghĩa thuộc linh, nhưng những điều đó cũng có thể trở
nên dấu hiệu của sự tin kính trong xác thịt. Tất cả những điều này đều có ý
nghĩa thuộc linh, chúng đều là những vấn đề thuộc linh. Tuy nhiên, chúng ta có
thể dùng những điều này để phân rẽ con cái Đức Chúa Trời, kiêu ngạo về những
dấu hiệu mà người khác không có và hậu quả là gây chia rẽ. Nếu làm như vậy,
chúng ta đã hạ thấp những điều này khỏi bình diện thuộc linh và làm cho những
điều đó chỉ còn là dấu hiệu trong xác thịt. Khi tình trạng ấy xảy ra, theo
nguyên tắc, chúng ta cũng giống như người Do Thái khoe khoang về sự cắt bì;
báp-têm, sự trùm đầu, sự bẻ bánh, và sự đặt tay trở nên “sự cắt bì” của chúng
ta. Nếu dựa trên những điều này mà phân biệt con cái Đức Chúa Trời, chúng ta đã
tạo nên những sự khác biệt theo xác thịt. Tuy nhiên, trong Đấng Christ không có
sự khác biệt nào giữa cắt bì và không cắt bì. Không một dấu hiệu nào của xác
thịt được dùng để phân biệt con cái Đức Chúa Trời. Trong Đấng Christ, chúng ta
được trở nên một. Sự sống trong Đấng Christ là một. Tất cả những điều này ở bên
ngoài sự sống của Đấng Christ. Dĩ nhiên, có thực tại thuộc linh đi kèm theo
những dấu hiệu thuộc thể này là điều tốt. Nhưng nếu ai có thực tại thuộc linh
mà thiếu dấu hiệu thuộc thể, chúng ta không thể loại trừ họ. Con cái của Đức
Chúa Trời không nên để cho những dấu hiệu thuộc thể làm thiệt hại sự hiệp nhất
trong Chúa và sự hiệp nhất của con người mới.
Tất
cả chúng ta đều là anh chị em. Chúng ta là người mới trong Đấng Christ. Tất cả
chúng ta đều là những chi thể trong Thân Thể, và tất cả chúng ta đều là những
phần thuộc về Thân Thể. Khi ở trong hội thánh, chúng ta không nên có một sự
khác biệt nào ở ngoài Đấng Christ. Mọi người đều đứng trên một nền tảng mới.
Mọi người đều ở trong con người mới được Chúa tạo dựng và mọi người đều ở trong
Thân Thể được Ngài gây dựng. Chúng ta phải thấy tất cả các con cái Đức Chúa
Trời đều là một. Không có chỗ nào cho sự hơn thua trên dưới. Chúng ta phải loại
trừ những tư tưởng giáo phái và bè phái khỏi lòng mình. Nếu chúng ta làm như
vậy, sẽ không có sự chia rẽ trong buổi nhóm của hội thánh của Đức Chúa Trời và
trong sự tương giao giữa các thánh đồ. Chúng ta phải chú ý đến những điều này
trong sự nhóm họp và phải sống bày tỏ một nếp sống như vậy trong bước đi hằng
ngày của mình. Nguyện Đức Chúa Trời ban phước cho chúng ta.