II. ĐẾN TỈNH HỒ NAM.
Trên đường đi từ phủ Chương Đức đến tỉnh Hồ Nam, Mục sư Kế Chí Văn yêu cầu Tống Thượng Tiết tự “khui quan tài” của chính mình (có nghĩa là nên tự thú nhận những lỗi lầm). Ông nói rằng Tống Thượng Tiết có những khuyết điểm sau đây:
(1) Lẽ đạo nêu ra cội rễ của tội ác là đã truyền giảng quá ít,
(2) Tham lam tiền bạc,
(3) Chỉ đem người khác đến với mình.
Tống Thượng Tiết đã lần lượt trả lời ba điểm đó như sau:
(a) Tôi chỉ khuyên lơn và khích lệ tín hữu luôn luôn nhờ cậy Chúa Thánh Linh để tiêu trừ tư dục của xác thịt.
(b) Nếu cho tôi là tham lam tiền bạc thì tôi chưa từng gian lận của ai. Tôi cũng chưa từng xin tiền một ai. Những gì Cha trên trời ban cho và những gì anh chị em biếu xén, tôi cũng đều xung vào quỹ của Đoàn, tôi chưa từng hưởng thụ riêng tư một điều gì, một vật gì.
(c) Còn nói đến việc tôi chỉ chăm đem người khác về cho riêng tôi thì nên xét lại Chúa cho tôi làm việc hết mình hơn so với người khác. Tôi là người dấn thân vào Đoàn Truyền Giáo lưu động, thì làm sao tôi đưa dẫn người khác về cho riêng tôi?” Để cho hài hòa với những người bạn đồng công, Tống Thượng Tếit đã phát biểu: “Chúa ban cho tôi dư được mặt này thì tôi có những mặt thiếu hụt khác. Nhìn vào công việc của tôi thì thoạt đầu nhiều người đã cho rằng tôi sẽ thất bại. Sự thật tôi chỉ biết vâng phục Chúa đi ra gieo giống và tưới nước. Tôi chỉ chăm nhìn vào Đức Chúa Trời để nhờ Ngài làm cho nó lớn lên hầu cho những người đến sau tôi được vui mừng làm công việc thâu gặt lúa vào kho. Tôi tự nhủ rằng mình phải làm công việc thật rất cẩn thận, và kiến tạo trên nền tảng đã dựng để có thể làm cho mình và các bạn đồng công được vững vàng khi đứng trước tòa thử nghiệm của Chúa Cứu Thế. Đức Chúa Trời là Đấng dò xét trong tâm can và thử nghiệm trong lòng người!” Đó là đức độ khiêm nhường, hiền dịu của Tống Thượng Tiết trước sự khe khắt chỉ trích.
Khi đến Trường Sa thì cả Đoàn Truyền Giáo ngụ tại tư thất Mục sư Trần Xùng Quế. Đoàn tổ chức 10 ngày chiến dịch truyền giảng. Phân chia các phần hành như sau: Mục sư Kế Chí Văn giảng giáo lý cho các sinh viên thần học vào buổi sáng, còn ban đêm thì giảng bồi linh cho tín hữu tại thánh đường hệ phái Giám Lý, Mục sư Tống Thượng Tiết thì ban ngày dạy Thánh Kinh tại trường Giám Lý, ban đêm giảng phấn hưng. Thính giả tại đây có trình độ học vấn khá cao, vì trước đây Hội Nội Địa đã từng thiết lập một trường Kinh Thánh. Thường có những vị Mục sư danh tiếng và những nhân vật có địa vị trong xã hội đến hướng dẫn và giảng dạy trong những buổi thờ phượng. Sau khi ông Hudson Taylor qua đời, Hội Nội Địa đã lập một bệnh viện mang tên ông để kỷ niệm. Ngoài ra Hội cũng mở những trường học của Hội và những trường của tỉnh... Lúc đó nội bộ của Đoàn Truyền Giáo lưu động có nhiều sự xích mích. Bên ngoài lại có nhiều lời công kích. Tống Thượng Tiết cẩn thận dè giữ, kềm lòng một mực kính sợ Chúa. Mỗi khi có buổi nhóm ông đều khẩn thiết cầu nguyện nên Chúa ban cho ông ân tứ rất dồi dào. Những ngày đầu nhóm các trưởng lão không hoan nghênh ông, nhưng sau lại ưu ái mời ông đến truyền giảng cho các sinh viên, con số đến nghe truyền giảng cả ngàn người. Đêm đầu đã có khoảng 3,4 trăm người tin nhận Chúa, qua ngày sau số người đến nghe lại càng đông hơn. Hội trường không còn chỗ để chứa thính giả, Mục sư Trần Xùng Quế thật vui mừng và được yên ủi lớn. Một nữ giáo sĩ thuộc Hội Giáo sĩ Đức hợp tác với Hội Nội Địa, cô đáp xe lửa từ Thượng Hải đến Trường Sa. Bác sĩ Ithel thuộc Bệnh viện Hudson Taylor ra ga đón cô. Vừa gặp mặt, bác sĩ đã hối thúc cô cứ để hành lý lại ga, phần cô nên lên ngay xe kéo đến địa điểm Tống Thượng Tiết đang giản phấn hưng kẻo đến trễ thì không còn chỗ để ngồi. Vị nữ Giáo sĩ ấy đã quên cả mệt nhọc và đến ngay hội trường. Trên đường, bác sĩ Ithel cho vị nữ giáo sĩ này b iết rằng từ ngày Đoàn Truyền Giáo Lưu Động Bêtên đến đã biến Trường Sa thành một nơi “mưa gió”. Chủ đề của sứ điệp hôm ấy là “Con trai hoang đàng”. Câu chuyện này dĩ nhiên là rất quen thuộc với vị nữ giáo sĩ, nhưng cô chưa bao giờ được nghe với một phương pháp giảng dạy như vậy. Diễn giả là Tống Thượng Tiết qua sự thông dịch của ông Lâm Cảnh Khang. Trong sứ điệp hôm ấy, hai người như hai diễn viên diễn lại hoạt cảnh của câu chuyện “con trai hoang đàng” và nhạc đệm là bài “Hãy về Nhà Cha”. Tống Thượng Tiết giảng với tất cả năng lực, nên mồ hôi ướt đẫm cả áo. Bài giảng vừa đầy quyền năng, vừa thuyết phục, số người nghe xong tự động đi lên trước tòa giảng tin nhận Chúa Cứu Thế rất đông. Ngay khi ấy một nữ giáo sĩ khác của Bêtên một lúc gửi ba bức điện tín cho Mục sư Kế Chí Văn về Thượng Hải gấp để điều chỉnh lại nội bộ của Đoàn Truyền Giáo lưu động. Trước khi lên đường, Mục sư Kế Chí Văn đã cam kết là bằng mọi cách ông sẽ họp với Tống Thượng Tiết, nhưng Tống Thượng Tiết trả lời rằng Đoàn Truyền Giáo này đã được dâng cho Chúa thì phải cải tổ lại cho xứng đáng, bằng không ông sẽ rời khỏi sinh hoạt của Đoàn.
Khi Mục sư Kế Chí Văn đã đi rồi, thì hai họ Tống Thượng Tiết, Lâm Cảnh Khang đi đến Thường Đức. Từ đó về sau hai họ Tống Thượng Tiết, Kế Chí Văn ít còn có dịp gặn nhau nữa.
Những ngày đầu ở Thường Đức, Tống Thượng Tiết, Lâm Cảnh Khang làm việc tại Hội Thánh Khiết của Gianã đại. Nhà thờ thì nhỏ người đến tham dự cũng rất ít. Nhưng sau có các nhóm của hệ phái Giám lý và Trưởng lão đến tham gia, nên số thính giả tăng lên nhiều. Công việc của hai vị Tống, Lâm vừa chấm dứt tại Thường Đức thì họ nghe tin là Đoàn Truyền Giáo Bêtên tổ chức một chiến dịch tại Lưỡng Quảng là Quảng Đông và Quảng Tây, do Mục sư Kế Chí Văn là trưởng đoàn. Họ cũng thôi thúc Lâm Cảnh Khang trở về Thượng Hải. Trong lúc ấy hai ông Tống Thượng Tiết, Lâm Cảnh Khang đã xếp đặt đi đến thành phố Hằng Dương rồi mới có thể tuân theo chỉ thị mới được. Lòng buồn bã nhưng riêng Tống Thượng Tiết tin rằng kế hoạch cải tổ này là do nhóm lãnh tụ chứ Mục sư Kế Chí Văn đã hứa chắc với Tống Thượng Tiết là sẽ không tán đồng việc này.
Trước khi hai họ Tống, Lâm đến Hằng Dương họ trở lại nhà Mục sư Trần Xùng Quế tại Trường Sa, và ở lại đây một ít lâu. Cũng trong thời gian này ông Tống nhận được thư của giáo sĩ Hugle mời ông về Thượng Hải để dọn nhà. Mục sư Trần Xùng Quế đề nghị với ông nên trả lời là kỳ đại hội Hằng Dương đã chuẩn bị xong nên phải lo việc Chúa trước, còn việc riêng thì hạ hồi phân giải.
Khi ông Tống và Lâm đến Hằng Dương thì không một ai ra đón ở ga xe lửa mặc dù đã có điện tín báo trước. Hai ông phải tự tìm đường đến Hội Thánh. Khi đến nơi mới vỡ lẽ ra rằng mấy ngày trước có hai người khác đến tự xưng là Tống và Lâm. Hai người này đã tổ chức đại hội cho những làng phụ cận Hằng Dương. Đại hội đã xong, các tín hữu đã tiễn đưa hai vị ấy đi rồi. Họ đâu có ngờ hai ông Tống, Lâm thật chưa tới cho nên chẳng ai ra đón tiếp!
Ba giáo phái ở Hằng Dương hợp tác với nhau tổ chức Đại Hội Liên Hiệp. Mỗi lần nhóm lại, số thỉnh giả lên đến 7,8 trăm người. Những vị trong ban lãnh đạo của các giáo phái nghe rằng Mục sư Kế Chí Văn không đến được nên thất vọng. Họ lại còn nghe đồn đãi rằng Tống Thượng Tiết là người có cảm tình riêng tư, họ lại càng lo âu hơn nữa. Tuy vậy Đại hội tại Hằng Dương lại có kết quả thật là mỹ mãn. Một giáo sĩ của giáo phái Episcopal, Mục sư G.R.Wilson có viết một báo cáo như sau: “Tống Thượng Tiết đã đem quyền lực phục hưng như một cơn gió lốc đến với chúng tôi. Người Trung Hoa cũng công nhận đó là công việc phi thường đến từ Đức Thánh Linh. Trong suốt tuần lễ Đại Hội đó, mỗi ngày hai xuất, mỗi xuất giảng hơn hai giờ đồng hồ. Ông đã giải thích thật cặn kẽ những chương Kinh Thánh, với những câu chuyện bi thương, với những lời tán tụng vui mừng như cuồng phong, như nước lũ chảy xiết va vào ghềnh đá bắn ra tung tóe. Ông cũng thêm vào những động tác sinh động, những câu chuyện trào phúng chua chát, nhưng dí dỏm nhẹ nhàng, gây cho thính giả một ấn tượng mạnh mẽ và một sự cảm động sâu xa. Những động tác của Tống Thượng Tiết cũng rất linh động, Khi thì trên bục giảng ông diễn tả ý tưởng của mình với cả những bước đi, bước nhảy. Khi thì dùng phấn viết lên bảng những ý tưởng trừu tượng. Những động tác của ông lắm lúc cũng pha lẫn những khôi hài. Mục đích chính là để diễn tả sống động câu chuyện Kinh Thánh. Đặc biệt khi Tống Thượng Tiết cầu nguyện, ông đã cầu nguyện như dốc đổ cả năng lực, cả tính mạng mình để trò chuyện với Thượng Đế. Toàn bộ sứ điệp của ông vừa xong, chúng tôi đều cảm thấy mình đang tại điểm cao tốt định. Ai nấy đều thỏa dạ chung một tiếng tán mỹ khoái lạc: Đó là một khải thị thật sự, một năng lực chắc chắn cảm động lòng người không thể nghi ngờ được.
Nghe Tống tiến sĩ Tống Thượng Tiết giảng chúng tôi đã rút ra được những bài học này:
Thứ nhất, Tống Thượng Tiết đã khiến cho lời Thánh Kinh thật sự là Lời Sống. Khi nghe Tống Thượng Tiết giảng về Ê=xê-chi-ên chương 37, chúng tôi khó có thể quên được. Hai tay ông cầm hai khúc xương khô (tượng trưng cho hai vị giáo hữu đã chết khô), ông lại đập hai khúc xương khô vào nhau nghe đôm đốp (tượng trưng cho hai vị đã chết khô mà còn tranh giành danh lợi, địa vị). Ông cất tiếng hỏi lớn rằng “xương khô còn có thể nghe được tiếng nói của Thượng Đế không?”Rồi ông cũng tự trả lời lớn tiếng rằng “cám ơn Chúa chúng nó nghe được, một Giáo hội chết cũng có thể nghe được tiếng của Đức Chúa Trời, miễn là những lời truyền ra quả thật là lời Thượng Đế!”
Thứ nhì, Tống Thượng Tiết đã khiến những tín hữu nguội lạnh, muốn chùn bước được trở lại nóng cháy với Chúa. Ông lấy hình ảnh một người bộ hành bị lọt vào tay kẻ cướp trên đường về Giêricô. Người này có tấm lòng tin vào Lời Chúa trong Thánh Kinh nhưng sự cầu nguyện của tín hữu ấy đã bị ma quỷ cướp giật, còn chính người ấy thì bị nó đánh đập dở sống dở chết ông hỏi: “Nhưng tại sao ma quỷ không đánh cho chết hắn?” Và tự trả lời: “Vì một tín hữu nửa sống nửa chết ma quỷ còn có thể sử dụng được, nên những Cơ đốc nhân có sự sống thật phải tìm ra phương cách để giải cứu những tín hữu dở sống dở chết để họ lấy lại được niềm tin cũng như tìm lại được một đời sống cầu nguyện!”
Thứ ba, Tống Thượng Tiết cũng đã thôi thúc chúng tôi quyết tâm và nóng lòng đi theo Đấng Cứu Thế. Ông đã hướng dẫn chúng tôi đi lên núi của tám phước lành. Tám phước lành tượng trưng cho tám bước của Chúa Cứu Thế ở trần gian từ lúc sanh ra cho đến lúc bước lên đồi Sọ. Bước lên được một bước thì có lời kêu gọi khuyến khích hãy bước thêm một bước nữa, đồng thời có những bài hợp xướng khuyến khích tiến bước thêm thâu vào lòng người. Cuối cùng khi đến đỉnh cao là vì sự công bình mà bị bắt bớ. Bỗng nhiên chiếc bảng đen được cất khỏi, và cây thập tự hiện ra. Tống Thượng Tiết lớn tiếng hỏi hội chúng: “Chúng ta có thể đi theo Chúa đến đồi Gôgôtha chăng? Chúa Giê-xu ôi, xin Ngài cho chúng con tấm lòng khao khát bước theo Ngài không chùn bước, không mệt mỏi!”
Khi Mục sư Wilson kể những câu chuyện trên, những hình ảnh ấy như vẫn còn rõ nét trong trí nhớ của ông, gương mặt ông sáng rực như đang thấy những gì đang diễn ra trước mắt. Cho đến 20 năm sau viết lại hồi ký ông có ghi lại: “Sự truyền đạt chân lý của Tống Thượng Tiết thật có quyền năng và thuyết phục. Cho đến hôm nay, những hình ảnh và lời giảng của ông vẫn còn lung linh trong ký ức tôi. Cả những bài đoản ca, hợp xướng vẫn còn in sâu trong tâm khảm tôi. Đặc biệt có một chuyện tôi cũng không sau quên được. Một buổi chiều Tống tiến sĩ mời tất cả những người muốn thổ lộ tâm sự có thể đến nhà ông ở trọ. Có ba cộng sự viên người Trung Hoa mời tôi cùng đi với họ. Khi gặp ông thì ba vị đó đã thổ lộ tất cả tâm tình cùng Tống Tiến sĩ. Tống Thượng Tiết theo dõi và ghi chú vào một quyển sổ khá lớn. Sau đó ông cứ coi đó, từng việc một mà cầu thay cho họ. Khi ông cầu nguyện, hai dòng nước mắt tuôn trào trên má, lòng dốc đổ cầu thay, ông xin quyền lực thập tự giá của Chúa Cứu Thế với hành động của Chúa Thánh Linh khiến cho hết thảy chúng ta chiến thắng tội lỗi...”
Chiến dịch truyền giảng và phục hưng tại Hàn Dương chấm dứt. Lòng Tống Thượng Tiết có một ưu phiền lớn nên đã viết thư đến các Hội Thánh ở Tốc Kinh, Thiên Tân, Ôn Châu, Yên Đài... để nói rằng ông sẽ rời khỏi tổ chức Đoàn Truyền Giáo Bêtên để hoạt động cho tự do hơn. Ông cũng nhấn mạnh hiện nay ông chưa có một kế hoạch, cũng không có một chương trình gì chắc chắn. Thậm chí gia đình ông rồi cũng chẳng biết sẽ ở nơi nào!
Khi đi ngang qua Trường Sa để về Thượng Hải, những người đồng hành chỉ còn lại duy nhất một người đồng công trung thành ấy là người thông dịch Lâm Cảnh Khang. Khi về đến trụ sở chính của Bêtên, không ai dám đến gần Tống Thượng Tiết, vì sợ ảnh hưởng không tốt đến tương lai của họ. Tống Thượng Tiết đang ở trong tình trạng mịt mờ như Ápraham khi xưa rời khỏi Charan. Đi mà không biết mình sẽ đi về đâu. Nhưng ông biết rằng ý chỉ của Chúa luôn là toàn hảo và tuyệt mỹ. Chắc chắn Ngài sẽ không đối xử tệ với tôi tớ trung kiên của Ngài. Tống Thượng Tiết nhờ Mục sư Than mướn một căn phòng 25 đồng một tháng và lập tức phải dọn nhà về nơi trọ mới. Trong khi dọn nhà, Đoàn cử một nữ giáo sĩ, cô Hồ Tuân Lý đến để kiểm soát. Cô ta chận giữ lại tất cả những thư từ của Tống Thượng Tiết, kể luôn cả những thư riêng, cả những bức thư của gia đình! Cô ta ra lệnh cho Tống Thượng Tiết phải mở hết rương hòm để kiểm soát. Hàng chục ngàn bức thư bị tịch thu cho là sở hữu của Đoàn! Cô ta phải gọi một chiếc xe hàng đến để chở đi!
Những nhà lãnh đạo Bêtên không cho một ai đưa tiễn Tống Thượng Tiết. Chỉ có một mình Lâm Cảnh Khang đại diện đi theo xe để tiễn đưa người bạn đã từng hợp tác đắc lực với Đoàn hơn 3 năm.
Trong hồi ký Tống Thượng Tiết viết: “Hồi tưởng lại quá khứ, tôi thấy bàn tay thiêng liêng hồng ân Chúa hướng dẫn. Trong 3 năm đó Chúa đã huấn luyện tôi, giữ gìn tôi, không để một tai họa nào thình lình vụt đến hại tôi. Chúa đã đỡ tôi cho đủ lông đủ cánh mới khuấy động cái tổ chim. Và Ngài đã xòe ra đôi cánh vững chãi để dạy tôi bay, đỡ nâng tôi để tôi không phải té ngã và đuối sức”. Mục sư Kế Chí Văn cũng nói rằng chính Tiến sĩ Tống Thượng Tiết là người đã làm cho sức mạnh của Đoàn Truyền Giáo được đầy đủ, và Đoàn Truyền Giáo đã mở cửa truyền giảng cho Tống Thượng Tiết. Về phương diện con người mà nhìn, thì lời đó là đơn sơ, nhưng điều trọng yếu là sự quan hệ của hai nhân vật này.
CHƯƠNG 39
CHIẾN ĐẤU MỘT MÌNH TẠI NĂM TỈNH TRUNG HOA (1934)
Sau khi rời chức vụ trong Đoàn Truyền Giáo Bêtên. Phải chia tay với những bạn đồng công sớm tối có nhau trong công trường của Chúa, lòng Tống Thượng Tiết dĩ nhiên có những nỗi buồn khó tả. Dọn đến nơi cư ngụ mới, ông không có việc làm. Suốt ngày phải ở trong nhà lại càng bội phần buồn bực. Chẳng bao lâu, Hội Thánh Phước An Đường thuộc Phước Châu mời Tống Thượng Tiết đến ban phát Lời Chúa vào ngày Chúa Nhật. Công việc này đã phá tan được cái tĩnh lặng của những ngày không việc làm của ông. Người đến tham dự khoảng 2,3 trăm, có 63 người được Chúa thăm viếng, đa số là những người chưa biết Chúa. Mọi chi phí của Hội Thánh đều do một phú hộ đảm trách. Dâng tiền cho Chúa nhưng người đó cứ tiếp tục sống trong tội lỗi, nên Tống Thượng Tiết thật vô cùng đau xót.
Từ khi chia tay với Bêtên Tống Thượng Tiết mới được an ủi. Và nơi đây là công trường đầu tiên của ông. Kế đó Tống Thượng Tiết đến Hồng Đức Đường, số thính giả đến dự được 4,5 trăm người. Ông hoạt động tại đây một tuần lễ, số người đến dự càng ngày càng đông. Kết quả có 104 người tin nhận Chúa. Tiếp theo, Hội Truyền giáo Liên Hiệp Phấn Tiến thuộc Thượng Hải mời Tống Thượng Tiết làm diễn giả cho 3 ngày truyền giảng mùa Xuân tại Cảnh Lâm Đường. Số người đến dự nghe lên đến cả ngàn. Sau đó ông giảng tại Thanh Tâm Đường, có hơn 200 học sinh quyết tâm theo Chúa. Cha Thiên Thượng như đã mở đường cho ông từng bước và đã chuẩn bị rất chi tiết khiến cho Tống Thượng Tiết cảm thấy thật an lòng cho những ngày hầu việc Chúa tự do sắp tới. Danh tiếng của Tống Thượng Tiết bắt đầu lan rộng, bất cứ ông đi đến đâu, những người đến dự nghe cũng rất đông đúc. Hội Thánh như một biển người trong những ngày ông truyền giảng. Có những người muốn có chỗ ngồi đã phải đến sớm trước 2,3 giờ đồng hồ. Nghe xong một xuất thì nhờ bạn bè ra ngoài mua đồ ăn đỡ đói để còn được ở lại nghe giảng tiếp.
Khi thờ phượng, Tống Thượng Tiết tự mình hướng dẫn hội chúng hát. Tay ông cầm một chiếc khăn trắng vẫy gọi thính giả, vỗ tay theo nhịp bài hát. Tống Thượng Tiết cầu nguyện ngắn, sau đó đí thẳng vào bài giảng. Thường thường ông cũng có mang theo một quyển tập soạn bài giảng, nhưng rất ít khi ông nhìn vào đó. Có một hôm sau khi giảng xong, ông phải tiếp chuyệnv ới những người muốn hỏi thêm về giáo lý. Ông đã mải mê giải thích nên đã quên quyển sổ ấy. Về đến nhà lúc giờ cơm mới nhớ lại, ông bỏ cả cơm nước vội vàng trở lại nơi bục giảng để tìm. Những người bạn cùng bàn với Tống Thượng Tiết phải đợi ông về để dùng cơm chung, và họ đợi quá lâu nên phải cùng nhau hát vài bài ca để an ủi cái bụng đang đói meo.
Khi Tống Thượng Tiết giảng thì cử tọa tuyệt đối phải giữ yên lặng, không được làm phiền trong giờ giảng như trẻ con khóc, hay đi ra, đi vào. Kể cả tiếng reo mừng “Cám ơn Chúa”, “Halêlugia” cũng không được kêu lên trong lúc ông đang giảng. Hễ ai vi phạm bị quở trách liền. Khi quở trách thì ông không tiếc lời, không nể nang, không kể bất cứ ai, dù người đó là Mục sư hay là giáo sĩ... Nếu cần phải quở trách là Tống Thượng Tiết liền quở trách lập tức dẫu là giữ hội trường đông đảo, nhiều người chứng kiến. Rất lạ là những trường hợp ông quở trách đều là rất đúng và không một ai bị Tống Thượng Tiết la rầy mà tỏ ý phàn nàn, và người đã bị ông quở trách một lần thì sau trở nên người rất tốt! Tống Thượng Tiết cũng có ơn đặc biệt nữa là thấy được những lỗi lầm sâu kín của những người đứng đối thoại với ông. Một hôm một nhóm thanh niên tìm Tống Thượng Tiết để đàm đạo. Ông bỗng chỉ thẳng vào mặt một nữ sinh mà bảo rằng: “Cô đã ăn cắp một chiếc nhẫn của người ta đến nay vẫn chưa trả lại. Hãy đi trả đã rồi hãy trở lại đây nói chuyện tiếp”. Nữ sinh ấy nghe xong, run rẩy cả người và tuân lệnh.
Phương pháp giảng Kinh của Tống Thượng Tiết thông thường nhất là viết và vẽ trên bảng đen. Cũng có khi ông gọi một thính giả lên bục giảng để giúp ông trong việc giảng giải cho rõ nghĩa. Một hôm đang giảng về thập tự giá, ông gọi một giáo sĩ tây phương lên bục giảng, bắt giáo sĩ giang rộng hai tay ra suốt bài giảng để tượng trưng cho cây thập tự. Một lần nào đó trên bục giảng có chưng hai chậu hoa. Hôm ấy ông giảng về đối phó với tội lỗi. Ông dạy rằng nếu dùng những phương pháp lẻ tẻ tỉa lá và cành thì không thể diệt trừ được tội lỗi. Đối với tội lỗi thì phải trị tận gốc rễ.
Vừa nói ông vừa nắm chậu hoa nhổ nguyên cả rễ. Khi Tống Thượng Tếit giảng về sự phục hưng của giáo hội, ông thường mang lên bục giảng một chiếc lò than. Chất đầy trên đó những củi, than và dùng quạt, quạt rất mạnh, quạt liên tục khiến cho lửa trong lò cháy bừng lên. Đó là tượng trưng cho ngọn gió của Đức Thánh Linh khiến cho lửa thiêng trong giáo hội được nóng cháy. Những khúc củi, than vừa lạnh vừa ướt, tượng trưng cho những tín hữu, và những con người to nhất, lạnh nhất, ướt nhất, lại là những loại khó cháy nhất, đương nhiên đó là những vị lãnh đạo tự cao tự đại... Trách nhiệm chung của mọi người là giữ cho chiếc lò lửa phải luôn luôn bùng cháy. Khi lò đã cháy nóng rồi thì bỏ vào bất cứ một loại củi nào nó cũng cháy thiêu rụi cả.
Trong thời gian đó, Tống Thượng Tiết đã cầu nguyện với Chúa rằng: “Chúa ôi, nếu Chúa muốn con hầu việc Ngài bằng cách đi truyền giáo tự do thì Ngài cho con hai dấu hiệu:
(1) Trong vòng một tháng xin Ngài mở cho con một cánh cửa truyền giáo cho 5 tỉnh,
(2) Đồng thời cho con 800 đồng tiền lộ phí...”
... Cám ơn Chúa, tuy tạp chí Thánh Khiết đã ngưng đăng bài của Tống Thượng Tiết, nhưng những tạp chí khác như “Bố đạo tạp chí”, “Thần tinh báo”, là báo Sao Mai, “Thông Vấn Báo”v.v... đều có đăng tải tin tức sinh hoạt của Tống Thượng Tiết. Nhờ lối truyền thông bằng văn tự này mà kế đó cánh cửa truyền giáo 5 tỉnh Giang Tô, An Huy, Sơn Đông, Triết Giang, Sơn Tây đã mở rộng cho Tống Thượng Tiết. Đồng thời những nơi khác như Hồ Nam, Bảo Định, Bắc Kinh, Thạch Gia Trang, Bao Đầu, Tạc Lai, Tề, Quảng Đông v.v... không hẹn mà cùng gửi thư về mời ông. Trong mỗi thư đều có từ 30 đến 50 đồng để trang trải lộ phí. Đa số tác giả những bức thư đó đều ẩn danh. Trong vòng một tháng số tiền đã lên quá điều mà ông đã cầu xin.
Tống Thượng Tiết nói rằng: “Tôi không thể nào không trung thành và làm việc hết sức mình cho Đấng Thành Tín, Đấng Vạn Năng và không bao giờ thay đổi này. Dù gặp thời hay không gặp thời, cùng khốn hay sung sướng, tôi đều không còn dám tính toan nữa, chỉ xin Chúa Emmanuên ở cùng và đừng bao giờ bỏ tôi”.
Thoạt tiên, Tống Thượng Tiết đến thành phố Trấn Giang thuộc tỉnh Giang Tu. Mặc dù Hội Thánh ở đây đã có liên lạc trước nhưng số tín hữu đến dự rất thưa thớt. Ngày đầu nhóm tại một Hội Thánh thuộc giáo phái Trưởng Lão, mục sư quản nhiệm là một giáo sĩ ngoại quốc, Mục sư Dã Gia Mỹ. Số tín hữu ở đây chỉ lưa thưa vài ba người. Ngày hôm sau ông đến một Hội Thánh Trưởng Lão khác. Buổi thờ phượng đã bắt đầu, đã hát thánh ca vài ba bài rồi mà những người đến tham dự còn lác đác. Tổng số nhiều lắm là khoảng 200 người. Cũng may là có một Hội Thánh ở Bảo Cái có số tín hữu đông hơn và có lòng tìm kiếm Lời Chúa. Tống Thượng Tiết đã quyết định ban ngày tổ chức truyền giảng tại đó. Quả nhiên thấy có nhiều người thực sự được ơn thương xót của Chúa. Trong đó có những tội nhân vốn có tai tiếng xấu trong vùng. Trước khi đến đây, Chúa đã cho Tống Thượng Tiết thấy rõ là tại nơi đây sẽ có 200 người được cứu. Ông nghĩ rằng nội Trấn Giang là tỉnh lỵ của Giang Tô cũng đã đủ số này. Nhưng khi đến Trấn Giang, bắt tay vào việc mới thấy bao nhiêu khó khăn đang chờ đón. Đến ngày thứ 8 rồi mà mới chỉ được 110 người tin nhận Chúa! Ông tự nghi ngờ đến nản lòng, nhưng bỗng nhiên có một cô nhi viện gần đó phái người đến mời ông. Nơi ấy có số người nhóm lại khoảng 2,3 trăm người. Một buổi truyền giảng đầu đã có hơn 80 người tin nhận, cộng với số hôm trước là vừa đúng 200! Lời hứa của Chúa quả là không bao giờ sai lệch!
Kế đó Tống Thượng Tiết đến Túc Huyện. Số người đến dự thính khoảng 7,8 trăm người. Đây là lần đầu tiên ông không có người thông dịch. May là rất ít người không hiểu những điều ông trình bày. Những người được ơn Chúa đa số ở trong ngành giáo dục. Nơi đây cũng có một số người theo Tân Phái, mà những người này đều là những kẻ giả hình và có những hoạt động mờ tối. Ông đã không ngần ngại, trong sứ điệp ông đã vạch rõ ra những tội phạm của họ nên gây ra sự phản đối rất mãnh liệt. Tại đó có một người bị bịnh liết, đôi mắt chỉ thấy lờ mờ, hai cánh tay thì hoàn toàn không còn cử động được, chân không thể đứng vững. Những người quen đã khiêng ông ta đến để nghe Tống Thượng Tiết giảng đạo. Sau buổi truyền giảng ông bảo với người bịnh hãy thú nhận tội lỗi. Ông ta trước hết là tự thú mình là một tên cướp. Vừa nói thì hai cánh tay ông ta cử động được. Rồi ông ta thú nhận là có giết người. Nói đến đây thì đôi mắt ông ta thấy rõ hơn. Sau khi đã thú nhận tất cả tội lỗi khác thì ông ta đứng dậy và đi lại được như bình thường!
Kế đó Tống Thượng Tiết hướng về bắc lên miền Sơn Đông, thành phố Tế Nam. Đây là lần thứ tư ông đến đây, thế mà thính giả đến nghe giảng vẫn rất đông. Thương gia, chính khách, bác sĩ, sinh viên đều tranh nhau đến dự thính. Điều này minh chứng rằng Chúa đã ban cho Tống Thượng Tiết có những cơ hội tốt đẹp, còn hơn cả ngày xưa.
Tại thành phố Lâm Cầu, các Hội Thánh đặt nặng về các ân tứ. Họ chủ trương rằng phần tâm linh phải được siêu thăng trước, rồi mới đến phần thể xác. Vì vậy trong những buổi thờ phượng, trong những giờ ca hát thánh ca hay trong khi cầu nguyện có những người vật vã chết lăn dưới đất, rồi sau đó dần dần mới hồi tỉnh lại. Thỉnh thoảng cũng có người thình lình ngã vật ra, nhưng Tống Thượng Tiết cũng không cấm cản gì. Ngày sau cùng, lúc giảng giáo lý về sự biến hoá và được cất lên thì Tống Thượng Tiết mới giải thích rất cặn kẽ, rõ ràng. Ông nhấn mạnh đến điều quan trọng hơn hết vẫn là tình yêu thương. Có rất nhiều người được Chúa thăm viếng, trong đó có những người lãnh đạo giác ngộ những sai lầm của mình trước kia, cũng có vô số thanh niên được cảm động dâng mình hầu việc Chúa.
Tại Duy Huyện, tất cả những Hội Thánh Trưởng Lão liên kết với nhau nhóm lại tại Lạc Đạo Viên. Những tín hữu đến dự khoảng 200 người. Tại đây cũng có trường nam nữ trung học, với gần 2.000 học sinh. Đang khi nghe giảng, có nhiều người nửa chừng thì bỏ ra về, không chịu hối cải ăn năn. Đến hai ngày cuối của chương trình truyền giảng thì có rất nhiều học sinh không chịu nổi sự thôi thúc của Chúa Thánh Linh, họ không sao ngủ yên, cuối cùng đành thúc thủ và phải “mở quan tài” của mình ra. Có chừng 200 người đã hẹn nhau từ bỏ con đường lầm lạc trở về con đường sự sống và họ thật sự trở thành những tín hữu khiêm nhường và rất khát khao Lời Chúa. Họ đã nhóm lại chia sẻ kinh nghiệm mới gặp Chúa để nâng đỡ nhau. Sau đó họ tổ chức thành những nhóm nhỏ đi truyền bá Phúc âm ở các làng mạc phụ cận.
Rời Duy Huyện, Tống Thượng Tiết đáp xe hơi đến thành phố Bình Đô. Ngọn lửa phấn hưng đang rực cháy. Những người mới dự đại hội trở về đây rất đông, cũng có những người đến từ khắp các nơi xa. Họ đã mang theo những chiếc bánh bao chay để ăn thế cơm. Địa điểm đại hội không tiện nghi và rất chật chội. Một phòng có thể có đến 5,6 chục người chen chúc nhau, nhưng họ không mảy may nào khó chịu hay than trách gì. Điều này chứng tỏ tấm lòng khao khát nghe Lời Chúa của họ lên tới mức nào. Cũng có khoảng 300 người cùng cầu nguyện với nhau thâu đêm. Họ tìm kiếm Chúa hết lòng cho nên khi Tống Thượng Tiết đến nơi đặt tay cầu nguyện cho họ thì 560 người liền có những biểu hiện Chúa Thánh Linh thăm viếng. Tống Thượng Tiết căn dặn họ rất cặn kẽ là đừng quá chú trọng hay đặt nặng vấn đề các linh ân, mà phải giữ mình thánh khiết và đi theo con đường đầy lòng yêu thương. Hội chúng cũng hết lòng cầu nguyện cho hai người bị liệt và Chúa đã chữa lành cho họ.
Tống Thượng Tiết đến thành phố Thanh Đảo hợp tác với hệ phái Báp-tít để truyền bá Phúc âm. Đây là lần thứ ba ông đến thành phố này. Các Hội Thánh Báp-tít tại đây hợp tác với nhau rất chặt chẽ. Họ tổ chức được 40 đội đi truyền giảng Phúc âm. Trong thời gian này có một người bị nhóm quỷ ám, ông liền cùng với các tín hữu hết lòng cầu nguyện cho người ấy. Ai cũng cảm thấy rất rõ tình trạng giao chiến giữa Chúa Thánh Linh và ma quỷ. Khi người ấy nhận một tội thì một quỷ ra khỏi. Cho đến lúc cả đoàn quỷ ma đã rút lui ra khỏi, Chúa Thánh Linh mới ngự vào, nhưng đoàn quỷ ấy vẫn chưa chịu thua hẳn mà vẫn cứ trở về làm xáo trộn hoài. Mãi cho đến khi người ấy chịu vác thập tự giá của mình và đi ra làm chứng về Chúa thì đoàn quỷ mới chịu rút lui hẳn và vắng bóng.
Các giáo sĩ tây phương ở Yên Đài đã được một người nào đó cho hay rằng Tống Thượng Tiết không còn đặt nặng giáo lý cứu chuộc bởi huyết Chúa Cứu Thế và cũng không còn thánh khiết nữa v.v... cho nên họ cũng e ngại Tống Thượng Tiết. Nhưng những tín hữu được ơn thật của Chúa Thánh Linh thì không tin vào lời đồn đãi này. Họ nghĩ rằng ông không thể là người phản phúc vô thường. Dầy vậy để cẩn thận hơn, họ đã sai hai người đại diện, một người Hoa và một người ngoại quốc đến Thanh Đảo điều tra cho biết rõ tự sự. Hai vị điều tra này trở về tường trình quả quyết rằng những giáo lý của Tống Thượng Tiết giảng dạy vẫn như xưa. Họ liền mướn một chiếc xe rước Tống Thượng Tiết về Yên Đài. Chiến dịch truyền giảng tại Yên Đài kéo dài 12 hôm. Đức Chúa Trời đã ở cùng Tống Thượng Tiết và Ngài cho ông những phép lạ để làm cho vững những lời ông truyền giảng. Những phần tử trí thức xưa nay vẫn chống đối Tống Thượng Tiết bây giờ họ đều được Đức Thánh Linh bắt phục sấp mặt trước Chúa.
Khi Tống Thượng Tếit mới đến Tiên Tân Hà Bắc, ông tưởng những Giáo hội tại đây mời đến, nhưng hóa ra là do những người yêu mến Chúa đã lấy đức tin mà mời. Các hệ phái nơi đây không chịu cho mượn nơi nhóm họp, tạm thời chỉ mượn được một ngôi nhà thờ của gia đình nhà họ Lê. Mỗi ngày tổ chức được hai xuất truyền giảng, số người đến nghe mỗi xuất gần 8 trăm, nhưng người được Chúa thăm viếng thật đông đúc. Những nhà lãnh đạo các giáo phái nơi đây đa số đều cực lực chống đối Tống Thượng Tiết. Nhưng những sự phỉ báng, công kích của họ đã có tác dụng ngược lại, nghĩa là những lới ấy trở nên những lời tuyên truyền cổ xúy cho chiến dịch truyền giảng của Tống Thượng Tiết. Số người đến nghe giảng càng ngày càng đông. Những nhà lãnh đạo ấy không thể làm chi hơn được. Tống Thượng Tiết nhận xét rằng nếu những người chăn bầy có thành kiến thì khiến cho bầy chiên bị phân tâm. Hai đàng khó lòng hòa hợp, nên để cho đường ai nấy đi. Những người muốn thoát ly ra khỏi giáo phái gò bó của mình lên đến gần 4%. Nếu để cho những người này không tham dự những buổi thờ phượng hay truyền giảng của giáo phái, thì thà khuyến khích họ nên thiết lập một nơi thờ phượng khác. Vì thế Tống Thượng Tiết đề nghị họ xây dựng thêm một cơ sở cho việc truyền giảng cứu linh hồn đồng bào. Đề nghị này được nhiệt liệt hoan nghênh. Ngay đêm đó số tiền dâng đã lên đến gần 8 ngàn đồng. Một trụ sở được biệt riêng ra làm thánh đường như đã được hiện ra trước mắt. Khi Tống Thượng Tiết vừa đưa ra đề nghị này, có ba chị em trong Hội Thánh như nghe được tiếng hát tuyệt diệu dường như là của các thiên thần cùng các thánh đồ trên trời như cũng tán dương ý kiến này. Đây là lần đầu tiên Tống Thượng Tiết đề nghị thành lập một nơi thờ phượng. Ông chân thành khuyến cáo hội chúng đừng vì việc này mà có lòng tự cao và kỳ thị các Hội Thánh vốn có trước đây. Ông cũng nhắc nhở trong phạm vi khả năng của mình phải hết sức phụ giúp và phải theo đuổi việc hợp tác cho hòa hợp. Sau khi tuyển chọn và bầu cử ban chấp hành, Tống Thượng Tiết cầu nguyện và chúc phước cho họ. Địa điểm truyền giảng này, về sau đã trở thành một trong những Hội Thánh lớn nhất tại Thiên Tân và đã làm chứng rất có hiệu quả cho Chúa.
Hợp tác với hội Trưởng lão hoạt động 3 ngày tại Bắc Kinh. Tống Thượng Tiết băng qua Thiên Tân, thẳng đường đến Hàn Châu thuộc tỉnh Triết Giang. Mục sư Vương Minh Đạo đang chủ tọa Đại hội tại Thái An. Ông được thư của vợ cho biết Tống Thượng Tiết sẽ đáp xe lửa ngang qua đây. Ông Vương Minh Đạo liền đến ga xe lửa để hỏi thăm giờ giấc chuyến xe của ông sẽ đi ngang qua Thái An. Vừa sáng tinh mơ Vương đã ra ga để đón Tống Thượng Tiết và hai họ Tống Vương đàm đạo với nhau được 10 phút thì xe lửa lại tiếp tục lăn bánh. Ấy là lần đầu tiên hai nhà truyền giáo lớn của Trung Hoa gặp nhau. Hôm ấy là ngày 4 tháng 5 năm 1934.
Các nhà lãnh đạo của các hệ phái tại Hàng Châu đã sẵn sàng tiếp đón Tống Thượng Tiết. Họ tổ chức một chiến dịch truyền giảng 10 ngày. Mỗi ngày giảng hai xuất. Đức Thánh Linh thăm viếng cách đặc biệt, học sinh của các trường đến dự rất đông và rất nhiều số người đã đầu phục Chúa. Những tín hữu vốn đã theo đạo lâu năm, đến nay mới biết chắc mình là Cơ đốc nhân. Họ bèn hợp tác với nhau tổ chức thành 50 đội truyền giáo. Có tin đồn phong phanh là tiến sĩ Sherwood Eddic, một giáo sĩ theo Tân phái sắp đến Hàng Châu. Tống Thượng Tiết biết rõ con người này có niềm tin không thuần chính, nên ông đã khuyên các giáo hữu ở đây phải cẩn thận tránh dự những buổi thuyết giảng của vị Giáo sĩ này.
Sau đó Tống Thượng Tiết trở về Thượng Hải, tổ chức những buổi thờ phượng và truyền giảng trong 10 ngày tại thánh đường Mộ Nhĩ. Tống Thượng Tiết nhận thấy rằng những người trước kia đã được đầy ơn Chúa nay như muốn lùi bước. Ông đã vội vàng khuyến khích, nâng đỡ tinh thần họ với tất cả lòng trìu mến yêu thương và huấn luyện họ trở nên những thành viên trung tín của Đoàn Truyền Giáo. Ông giải thích cho họ hiểu chân lý yêu thương người khác tức là yêu thương chính mình, cứu người khác tức là cứu chính mình.
Giã từ Thượng Hải, Tống Thượng Tiết tiến đến Hồ Châu. Khi Tống Thượng Tiết giảng lời Chúa, Đức Thánh Linh đã bắt phục Uông Thiêu Châu là một Mục sư nhưng chỉ lo cho đời sống vật chất riêng tư, nhà cao cửa rộng, ăn ngon mặc đẹp, lo những hoạt động xã hội, muốn gom hết cả danh, cả lợi về cho riêng mình. Ông này nghe Tống Thượng Tiết giảng phải thanh toán hết những quả của tội lỗi, tức là những nợ nần của tội lỗi mà bước đi theo Đức Thánh Linh. Nhưng ma quỷ cũng nhỏ nhẹ nói với ông ta rằng, thừa nhận tội lỗi là một việc làm tổn thương cho danh dự. Ông đã giữ chức vụ Mục sư 15 năm mà nay lại đứng giữa hội chúng xưng nhận những tội lỗi của mình thì coi thế nào được! Không sợ tín đồ chế nhạo chê cười cho sao? Quả tình thì Mục sư Uông cũng rất xấu hổ và sợ hãi. Nhiều lần ông đã muốn đứng lên nhưng lại phải ngồi lỳ trở lại, cho đến lúc ông nghe tiếng Chúa phán bảo ông: “Đừng sợ chi, phải đứng dậy thú nhận hết tội lỗi!” Ông ta không còn chống cự được nữa, đã đứng dậy xưng hết tất cả những tội phạm của mình, nào là giả hình, không rõ ràng về tiền bạc của Hội Thánh... Hội chúng nghe xong, không một ai nhạo cười ông, trái lại mọi người đều ca ngợi đem vinh hiển về cho Chúa. Sau khi được thật sự tái sanh, Mục sư Uông bỏ hết những xảo thuật trước kia để lôi kéo tín đồ như chiếu phim, hình rọi (Slides) cùng những xảo thuật về giao tế để lấy lòng tín đồ. Từ nay ông ta chỉ truyền giảng Phúc âm cách thuần túy. Ông chỉ đặt cho mình một mục tiêu khiêm nhường là nếu có được 100 người tin nhận Chúa là ông đã thỏa ước vọng. Không ngờ Chúa cho kết quả gấp 6,7 lần hơn. Hội Thánh ông đã thành lập được hơn 50 tổ chức truyền giáo và hơn 50 thanh niên nam nữ dâng mình hầu việc Chúa. Sau này trong hồi ký Mục sư Uông đã ghi lại: “Tôi đã từng gian lận tiền của Giáo hội năm này qua năm khác, nhưng rồi tiền như đựng vào túi lủng. Con cái đi học, tốn rất nhiều tiền của mà cũng không đưa nào lên được lớp. Đứa con trai yêu quí bị qua đời rất đột ngột, trong gia đình hết người này đến người kia ốm đau, đa số tiền bác gom góp được rồi cũng không cánh mà bay theo với thuốc men, với tang chay!” Ông cũng thêm cho người đọc một bài học: “Thừa nhận tội lỗi là làm cho Satan xấu hổ và quy vinh hiển về cho Chúa. Đó cũng là điều kiện tiên quyết để được đầy dẫy Đức Thánh Linh”.
Sau khi ghé qua Hội Thánh Hồng Đức, tổ chức cuộc truyền giảng 10 ngày, Tống Thượng Tiết đến Hàng Châu để chủ tọa Đại hội Bồi linh lần thứ 1 trong thời gian nửa tháng. Ban ngày giảng tại Hội Thánh Hồ Sơn Đường, ban đêm giảng tại Tư Trình Đường. Có nhiều đại diện ở các nơi đến dự, nhưng cũng có những vị Mục sư và Giáo sư không tán thành. Cũng có vài ba vị vì nể tình của các tín hữu miễn cưỡng đến cho có mặt. Những vị này trước kia là những con người nóng cháy, nhưng nay lại có thái độ lạnh lùng khiến Tống Thượng Tiết cũng không sao hiểu nổi. Ông thầm nghĩ, mình chỉ lo tổ chức những đội ngũ mục đích chính là huấn luyện những con người đi ra truyền bá Phúc âm cho Chúa. Chẳng lẽ những vị Mục sư Giáo sư mình lại không hoạt động cho những công việc phục hưng Nhà Chúa? Ông cảm thấy một niềm phẫn nộ. Vì quá cảm kích cho công việc chung của Nhà Đức Chúa Trời, vào những ngày cuối của đại hội đã nặng nề quở trách, sửa trị những người lãnh đạo hâm hẩm này.
CHƯƠNG 40
TRĂM TRẬN TRĂM THẮNG
(THÁNG 9, 1934 CHO ĐẾN THÁNG 8, 1935)
(THÁNG 9, 1934 CHO ĐẾN THÁNG 8, 1935)
I. TỪ XOA THÔ ĐẾN PHƯỚC KIẾN
Trước khi đến Phước Kiến, Tống Thượng Tiết đã ghé qua Xoa Thô. Ban ngày hiệp tác với Hội Thánh Trưởng Lão tại Phổ Ích Xã tổ chức truyền giảng đồng thời cũng kêu gọi những tín hữu hãy khao khát và tìm kiếm sự công bình. Ban đêm truyền giảng và giảng phục hưng tại một thánh đường Bêtên, thánh đường này có chỗ cho cả ngàn thính giả. Tống Thượng Tiết đã tổ chức như một đại hội cho tín hữu toàn thành phố, đồng thời cũng truyền giảng Phúc âm. Đại hội kéo dài 12 ngày, rất nhiều người được Chúa thăm viếng, Tống Thượng Tiết đã đặt tay cầu nguyện cho cả ngàn người.
Tháng 9 năm 1934 Tống Thượng Tiết một lần nữa lại đến Phước Châu tổ chức truyền giảng 20 ngày. Nơi đây ông đã lập lại phương thức làm việc hữu hiệu tại Xoa Thô. Trước tiên giảng cho các tín hữu, kêu gọi những người được ơn Chúa, qui tụ họ lại để huấn luyện cho họ sâu nhiệm thêm. Những người này là những nhân sự đắc lực cho chiến dịch. Lần lượt từ Cứu Chúa Đường đến Thiên An Đường và sau cùng đến Tựu Hiền Đường thuộc nội thành, là trung tâm tổ chức Đại Hội cho toàn thành phố. Kết quả của chiến dịch này không kém kết quả ở Xoa Thô, Tống Thượng Tiết đã tổ chức được 94 đội ngũ ra đi truyền bá Phúc âm.
Sau chiến dịch ở Phước Châu, Tống Thượng Tiết định đi thẳng đến Hạ Môn chứ không ghé lại Huệ An, vì ông không muốn băng qua Hưng Hóa, nơi đó vừa xảy ra những vụ đốt nhà cướp bóc của bọn thổ phỉ. Tuy nhiên Chúa không cho phép nên Tống Thượng Tiết lại có dịp trở về quê hương Hưng Hóa và gặp mặt cha già. Tống Thượng Tiết về đến nhà trong lúc cụ Mục sư Tống Học Liên đang lên cơn hen suyễn rất nặng. Không gặp mặt nhau mới một năm mà tóc của cụ đã bạc trắng, răng như không còn chiếc nào. Dù cụ mệt yếu, nhưng cụ cũng ráng ngồi dậy trò chuyện cùng con. Lâu ngày già yếu bịnh hoạn cụ không ăn uống gì, nhưng đêm hôm đó vì có con nên vui miệng cụ đã ăn một bữa ngon lành. Tống Thượng Tiết báo cáo với cha công việc truyền giáo ở các nơi khiến cho cụ rất vui mừng cảm tạ Chúa. Nhưng trong lòng vẫn còn ấp ủ một điều gì. Cuối cùng cụ đã thổ lộ điều lo lắng nhất của cụ là hai người con út. Cụ nhờ Tống Thượng Tiết nếu cha có mệnh hệ gì thì đem hai nhỏ dại này về thay cho cha nuôi dạy chúng. Được vậy thì không còn vui mừng nào hơn cho cha. Tống Thượng Tiết nhận liền để không phụ lòng cha già. Cụ lại tiếp “Nếu con yêu thương hai đứa con út này của cha thì cũng như đã yêu thương chính cha vậy!” Cụ Mục sư đưa Tống Thượng Tiết xuống lầu và ngâm bài thơ: “Đời người giống như kiếp lữ hành”. Và sau đó cụ cầu nguyện chúc phước cho con để chia tay.
Trải qua một cuộc hành trình mệt nhọc, thêm với tâm nguyện của cha và chiếc mền màu đà của cha tặng cho bị thất lạc chưa tìm thấy, khiến cho Tống Thượng Tiết linh cảm giờ phút giã từ cha già hiền từ không còn bao lâu nữa! Những lời thơ của cha ngâm tặng trước khi chia tay như hãy còn văng vẳng bên tai, cùng với những lời dặn dò gửi gắm như ghi khắc sâu trong tâm khả.
Trong vòng một tháng từ ngày 13-10 đến 13-11 Tống Thượng Tiết tổ chức một chiến dịch truyền giảng từ Huệ An đến Tuyền Châu, Chương Châu và Hạ Môn. Thính giả đến dự nghe ở Huệ An phỏng chừng 500 người. Nửa là tín hữu, nửa học sinh. Tống Thượng Tiết cũng cầu nguyện chữa bệnh cho 7,8 người và tổ chức được gần 50 đội ngũ ra đi truyền bá Phúc âm trong những làng mạc quanh vùng.
Tại Tuyền Châu, số tín hữu của 3 Hội Thánh với học sinh các trường nam nữ trung học Bồi Nguyên và Bồi Anh lên đến gần 800 đến nghe thuyết giảng. Nhưng ban tổ chức đã không chuẩn bị chu đáo nên những người đến chỉ nghe một cách thụ động mà không có tấm lòng khao khát tìm kiếm Chúa. Các tín hữu thì không mấy ai mang theo Thánh Kinh. Người thông dịch không đủ khả năng. Học sinh thì đến với thái độ “xem cho vui!” Do đó nơi đây không kết quả là bao! Nhưng cũng may, lúc ấy có gần 80 tín hữu từ Huệ An lên, họ được coi như tiếp viện binh. Chính những tín hữu này đã truyền tấm lòng nóng cháy của họ cho hội chúng tại Tuyền Châu. Từ đó số người được Chúa thăm viếng tăng lên khoảng 800 người. Tống Thượng Tiết cũng đặt tay cầu nguyện cho những người bị bệnh. Có một vị trưởng lão vốn là một y sĩ, không tin quyền năng cầu nguyện chữa bệnh nên đã xúi giục những người khác khiêng đến những con bệnh trầm trọng để cố tình gây khó khăn cho Tống Thượng Tiết. Nhưng Chúa đã bày tỏ sự vinh hiển của Ngài, nên những người tê liệt đã đứng dậy, những người câm đã mở miệng nói. Vị trưởng lão đó đã chân thành đầu phục Chúa. Tiếp theo 11 vị trưởng lão khác cũng khiêm tốn đầu phục Chúa và mời Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện cho từng người. Từ đó ân phước của Chúa như một nguồn suối nước tuôn trào lan ra cả hàng ngàn người khác, tràn khắp cả Chương Châu. Bốn Hội Thánh nơi đây đã liên kết tổ chức truyền giảng thêm 6 ngày. Thính giả lên đến cả ngàn người, cầu nguyện cho 640 người, thành lập được gần 80 đội truyền giáo. Tống Thượng Tiết có một người anh và một em trai đang dạy học tại Chương Châu. Khi rời Chương Châu, Tống Thượng Tiết được hơn 600 tín hữu nơi đây tiễn đưa. Ai nấy đều khóc cho cuộc chia tay này. Trong số tiễn đưa đó có anh em của Tống Thượng Tiết, họ không có tình thắm thiết như của các tín hữu khác. Ông cảm nhận được rằng tình yêu của anh em trong Chúa còn sâu đậm hơn cả tình máu mủ!
Các nhà lãnh đạo các Hội Thánh tại Hạ Môn, nghĩ rằng một nhà thờ có sức chứa 800 người thì quá đủ để mời Tống Thượng Tiết đến tổ chức chiến dịch truyền giảng. Không ngờ số thính giả kéo đến từ ngoại ô thành phố có đến gần 3000. Người! Nhà thờ không còn một chỗ chen chân, thậm chí diễn giả cũng như người thông dịch không có chỗ để có thể cựa quậy! Giải pháp tạm thời là căng những chiếc lều thật lớn để chứa thính giả, nhưng số thính giả cũng quá đông nên chỉ còn cách giải quyết là ai có vé mới được vào cửa hội trường. Thiếu nhi dưới 12 tuổi không được vào! Những chiếu lều lớn cũng không đủ sức chứa, nên những lần kế tiếp ban tổ chức phải dùng sân vận động của thư viện Anh Huệ để làm địa điểm truyền giảng lộ thiên ban đêm có thể chứa được hơn 7.000 người, còn ban ngày phải tổ chức trong lều lớn tại Hạ Môn. Dân ở đảo Cổ Lan cách Hạ Môn một eo biển cũng kéo nhau đến nghe truyền giảng. Chiếc phà ngày thường đưa khách sang đất liền, nay không sao đáp ứng được nhu cầu, nên có nhiều người đã phải mướn thuyền để băng ngang eo biển. Số người muốn đi quá đông, còn thuyền trống nhưng không đủ người chèo nên đa số dân ở đảo chỉ biết nhìn biển xanh mà tiếc nuối! Giáo hội thấy được tình cảnh như vậy bèn mướn một chiếc tàu máy lớn để chở thính giả qua lại Hạ Môn và Cổ Lan. Trên bộ thì mướn xe đó để chuyên chở thính giả từ các nơi. Chủ xe đó đã nghe truyền giảng đã tin nhận Chúa nên đã hạ giá vé. Cũng nhờ vậy mà người đến dự thính những buổi truyền giảng ngày càng đông thêm. Những người chống đối Tống Thượng Tiết đăng báo vu cáo ông dùng những lời ma quái để mê hoặc quần chúng rằng ông đã làm những tà thuật. Họ đã xúi giục dân chúng mang đến hội trường những con bệnh thật kỳ quái để phá rối và thử thách tài ông. Những người nghe được những chuyện này, khuyên ông đừng lọt vào bẫy của họ. Nhưng ông không lùi bước, trái lại ông càng tỉnh thức cầu nguyện để nắm chắc lời hứa của Chúa. Mặt khác ông mời một số anh chị em lên núi cùng ông đồng tâm cầu nguyện khẩn thiết với Chúa. Số người bệnh đã qui tụ lại trên 2.000 người, trong số ấy có vài chục người bị mù, câm, tê liệt. Tống Thượng Tiết cầu nguyện với Chúa rằng: “Chúa đã hứa rằng, những kẻ tin Ngài sẽ làm những việc lớn hơn Ngài đã làm. Bây giờ con tin, và xin cho con thấy được sự vinh hiển của Ngài”. Ông cầu nguyện tiếp tục ba giờ đồng hồ thì những người mù đã thấy được, người câm nói được, người tê liêt đã đứng dậy và đi về nhà mình. Có một bà đã bị liệt hơn 40 năm cũng được Chúa chữa lành lập tức. Về sau bà ta có gửi cho Tống Thượng Tiết một tấm hình để làm bằng chứng và để kỷ niệm. Cũng hôm ấy có hơn 1.000 người bệnh khác đã được chữa lành. Có hơn 5.000 người được cứu trong chiến dịch ấy, và đã cầu nguyện cho 2.250 người, tổ chức được 300 đội ngũ đi ra truyền bá Phúc âm. Tiếng hát ngợi ca Chúa vang rền cả thành phố. Thật là một cơn phấn hưng chưa từng có. Bệnh nhân đến xin Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện: họ phải cầm trên tay một thẻ màu có chữ ký của ông. Có ba màu thẻ khác nhau để phân biệt là tín hữu, thân hữu hay người mới đến nghe truyền giảng lần đầu. Những người được chữa lành đi khắp các nơi làm chứng về quyền năng của Chúa. Đại hội truyền giảng chỉ định tổ chức trong 6 ngày, nhưng phải kéo dài đến 12 ngày. Những người đến dự nghe mang theo cả ghế ngồi và dù, để phòng khi trời mưa cũng không cần phải tìm chỗ trú. Những người khao khát thức ăn thuộc linh đã không còn để ý đến việc ăn uống của mình nữa. Có những người trước kia vốn thuộc vào nhóm cứng lòng, dùng phương pháp nào cũng không lay chuyển được họ, nhưng nay đã phải chịu khuất phục và được cứu.
Tại Hạ Môn có một sòng bài rất lớn, vì sự phấn hưng này mà số con bạc đã giảm sút rất nhiều, cuối cùng phải đóng cửa. Những cuộc thú nhận tội lỗi, đền bù lại những điều trước kia đã thâm lạm, những lời chúc mừng nhau vì cuộc sống mới v.v... ngày nào cũng nghe và nơi nào cũng có. Cuộc phấn hưng này như một cơn cháy lớn lan tràn. Mười hai ngày trôi qua thật nhanh chóng! Dân chúng các nơi qui tụ về quá đông, gây trở ngại nhiều cho việc lưu thông nên cảnh sát đã phải ra lệnh Đại hội. Khi Tống Thượng Tiết giã từ, đã có trên 2.000 người tiễn đưa. Cuộc phấn hưng vẫn tiếp diễn khi ông đã ra đi. Các Hội Thánh địa phương tiếp tục công tác nuôi dưỡng, những buổi nhóm lại tại các giáo đường lúc nào cũng đông đúc.
Cơn phấn hưng đã đến, đạo Chúa đã được dịp mở tung ra, chiến dịch truyền giảng tại Hạ Môn quả là một cuộc đại thắng của Chúa qua sự ra trận chiến đấu của Tống Thượng Tiết.
II. TẠI VÙNG TRIẾT GIANG VÀ GIANG TÔ.
Hành trình tới là Tống Thượng Tiết từ Hạ Môn đi tàu lên Thượng Hải rồi chuyển tàu sang Nam Kinh. Vì sương mù dày đặc nên tàu không thể rời bến đúng ngày, do đó Đại Hội tại Nam Kinh không thể khai mạc đúng ngày. Những tín hữu nơi ấy cũng nhẫn nại chờ đợi.
Trong khi chờ tàu đi Nam Kinh, Tống Thượng Tiết đã nằm mơ thấy cha nói chuyện với mình rằng: “Cha phải rời con để đến nơi ở với Chúa. Phần con còn 7 năm ở trên đời này để hầu việc Chúa, con phải cố gắng làm việc và trung kiên cho đến cuối cùng!”.
Khi tới Nam Kinh, Tống Thượng Tiết tưởng các Hội Thánh tại đây liên kết với nhau mời ông đến hầu việc Chúa. Nhưng rồi họ cũng vì bất đồng ý kiến nên chương trình thay đổi: Hội Thánh Quí Cách chủ trị Đại hội thay vì Nam Kinh. Tuy đổi chủ những những tín hữu hết lòng yêu kính Chúa vẫn đến tham dự. Nhiệt tình của họ ở nơi đây rất thấp so với Hạ Môn và đảo Cổ Lan. Do đó trong những sứ điệp, Tống Thượng Tiết đã sửa trị rất nặng. Cuối cùng Chúa cũng cho được gần 6 trăm người tin nhận Chúa.
Kế đó Tống Thượng Tiết đến làng Nam Sa Hương. Nơi này tủy nhỏ và vắng vẻ nhưng cũng có hệ phái Trưởng Lão đến hoạt động. Họ đã tổ chức được những nhóm và những bầy nhỏ... Tống Thượng Tiết truyền giảng ở trụ sở Hội Nội Địa, có chừng 400 người đến dự. Trong giờ cầu nguyện có nhiều người xưng nhận tội lỗi, họ tự ý đóng góp tiền bạc để bồi thường lại những gì đã gây thiệt hại cho người khác.
Tại Gia Hưng, một thành phố chỉ có chừng 8 chục tín hữu, học sinh có khoảng 600 nhưng ít ai chịu đến tham dự. Buổi truyền giảng sáng cũng như chiều, chỉ có khoảng 100 người thôi. Chiến dịch tổ chức được 9 ngày, và sau đó cũng thành lập được 48 đội đi ra truyền bá Phúc âm. Đa số học sinh đến, mục đích là để xem những phép lạ. Tống Thượng Tiết quyết định không cầu nguyện chữa bệnh. Nhưng khi ông đang cầu nguyện cho những vấn đề khác thì Đức Chúa Trời bày tỏ sự vinh hiển của Ngài. Một người ăn mày, hai tay bị khô quắp đã được chữa lành.
Trong khi đang hầu việc Chúa tại Gia Hưng, Tống Thượng Tiết bị cơn đau bao tử hành 3 ngày. Sau buổi truyền gảing, một người bà con đến với người y tá để đưa ông về nhà. Khi bà ta thăm hỏi sức khỏe của thân phụ Tống Thượng Tiết, linh tính báo cho ông biết rằng, đau bao tử là điều Chúa cho biết cha mình đã qua đời, ông dùng chiếc đèn pin chiếu vào không trung và nói rằng: “Ở trên trời!” Người bà con lấy làm phật lòng lối đùa bỡn của Tống Thượng Tiết, nhưng không ngờ đó là câu trả lời thật chính xác. Cụ Mục sư Tống Học Liên đã qua đời tháng 11 năm 1934, đúng vào ngày Tống Thượng Tiết như nói đùa với người bà con.
Sau chiến dịch tại Hạ Môn thì tình trạng phát triển càng ngày càng xuống, Tống Thượng Tiết biết ngay là Chúa không muốn mình mang lòng kiêu ngạo mà che lấp vinh quang của Đức Chúa Trời. Từ thành phố Gia Hưng, Tống Thượng Tiết trở về Thượng Hải và hướng dẫn những buổi huấn luyện cho các Đoàn truyền giáo lưu hành để chuẩn bị...
III. ĐI XUỐNG MIỀN NAM
Nhằm ngày Tết nguyên Đán 1935, Tống Thượng Tiết đáp tàu đi Hạ Môn. Nơi hoạt động đầu tiên là Quảng Châu. Theo chương trình thì Chiến dịch truyền giảng đó định vào ngày 9 tháng giêng, nhưng chuyến tàu đã bị hoãn lại. Tống Thượng Tiết phải đổi chuyến tàu, vì thế ngày khai mạc phải hoãn lại 2 ngày. Khi đến Quảng Châu mới biết nếu ông đi chuyến tàu trước thì đã bị hải tặc cướp phá. Chúa đã tránh cho ông một lần khỏi phiền phức và sợ hãi.
Chuyến đi này không do một hệ phái nào đài thọ, mà do một số chị em được Chúa thăm viếng trong những chiến dịch phục hưng trước. Họ mời ông đến giảng cho đại hội bồi linh phấn hưng. Tống Thượng Tiết nghĩ rằng, một sự mời mọc không do những vị Mục sư hay những nhà lãnh đạo thì không được danh chánh ngôn thuận. Ông do dự, nhưng Chúa Thánh Linh đã thôi thúc ông nên ông đã nhận lời. Khi đến nơi ông mới hay là các Hội Thánh đã chuẩn bị sẵn sàng.
Tuần thứ nhất ông giảng tại Hội Thánh Huệ Ái Đường, một hai ngày đầu được Chúa thăm viếng khá nhiều, nhưng không ngờ Hội Thánh Hiệp Tiến rất sợ Tống Thượng Tiết lột mặt nạ tiến sĩ Eddie bất tín. Họ đã mướn các cảnh sát chìm đến để giữ an ninh, nhưng trong sứ điệp của Tống Thượng Tiết, ông không hề nhắc tới tên của nhân vật này. Cảnh sát không có lý do gì ra tay bắt Tống Thượng Tiết.
Qua tuần lễ thứ nhì, cũng vì sự cản trở của Hiệp Tiến Hội mà Hội Thánh Hội Ái Đường vận động cách nào cũng không mướn được hội trường. Có người đã đề nghị nên cất tạm lều chứa khoảng 5.000 người. Nhưng để tránh những phiền toái, lộn xộn có thể xảy ra, buổi thuyết giảng đầu tiên đã được tổ chức tạm tại Hội Thánh Bá Đạo Đường. Số người đến dự thính lên đến khoảng 1.600 người, mà nhà thờ lại quá hẹp nên phải chen nhau mà đứng. Tống Thượng Tiết đã cầu thay cho phần tâm linh của 879 người. Trong số những người này họ đã đề cử ra 12 ủy viên để xây cất nhà thờ. Chính 12 ủy viên đó đã làm gương là mỗi người dâng 1.000 đồng. Ngay đêm hôm ấy số tiền thu được 20.000 đồng.
Tại thành phố Yết Dương có một số lãnh tụ Cơ Đốc vốn đã được Chúa thăm viếng trong chiến dịch phục hưng tại Xoa Thô trở về thành lập một đội ngũ truyền bá chân lý Phúc âm. Họ đã cậy đức tin mời Tống Thượng Tiết đến để truyền giảng. Những người này đã hợp tác tổ chức rất chu đáo, nên mặc dầu Tống Thượng Tiết đã đến trễ một ngày nhưng rồi cũng có gần 400 người đến tham dự. Trong tất cả những buổi giảng phục hưng có hơn 700 người đã được Chúa thăm viếng và đã tổ chức được hơn 45 đội ngũ đi ra truyền bá Phúc âm, người bệnh đã được Chúa chữa lành.
Tống Thượng Tiết đến thành phố Mai Huyện đúng vào dịp tết Nguyên Đán nên những ngày đầu số người đến tham dự không đông lắm. Nhưng sau đó đã tăng lên hơn 500 và họ đã cầu thay cho sự tăng trưởng tâm linh cho 288 người. Tại đây có một vị trưởng lão nổi tiếng là người có nhiệt tâm cụ đã xây cất nhà thờ, sáng lập trường học, đề xướng những công tác xã hội, và công việc tốt khác không sao kể hết. Con cháu cụ đầy đàn, thật là một người có phước. Một hôm chẳng may cụ bị vấp ngã và chân của cụ bị què. Khi đến nghe truyền giảng, cụ nhờ Tống Thượng Tiết cầu thay, nhưng cụ không được chữa lành...
Tống Thượng Tiết định qua Hạ Môn nhưng vì chuyến tàu đình hoãn. Trong lúc chờ tàu, ông đã quyết định tổ chức những buổi giảng luận bồi linh để tìm sự phấn hưng. Tín hữu nghe được tin này đã tấp nập đến dự, khiến cho ai nấy đều tin rằng: Khi ý định Đức Chúa Trời được bày tỏ thì cho dù bị đình hoãn nhưng cũng là sự ích lợi cho những người kính yêu Chúa... Cụ trưởng lão què ở Mai Huyện (đã nói đến đoạn trên) cũng kíp đến Xoa Thu để xin đặt tay cầu nguyện một lần nữa. Những tín hữu tại Xoa Thu đều thầm nghĩ rằng nếu chiếc chân của cụ này được chữa lành thì chắc chắn Hội Thánh sẽ được cơn phấn hưng lớn. Khi người ta khiêng vị trưởng lão ấy đến nhờ Tống Thượng Tiết cầu nguyện chữa bệnh thì ông lại từ chối, vì Chúa cho ông biết rằng, vị trưởng lão này trước kia là một tay buôn lậu ma túy, sau đến thành phố này để ẩn thân...
Bỗng nhiên vị trưởng lão tắt thở và chết ngay giữa nhà thờ. Vợ con của cụ rất đau đớn và khóc lóc thảm thiết ngay trong thánh đường. Những người đến dự rỉ tai nhau to nhỏ những điều họ biết về ông cụ. Bầu không khí trong thánh đường vô cùng căng thẳng và thính giả bắt đầu xôn xao hỗn loạn. Tống Thượng Tiết vẫn bình tĩnh thong thả nói với mọi người: “Chúa sẽ chịu trách nhiệm về việc này!” Và ông khóc lóc với Chúa, cầu nguyện rằng: “Chúa ôi xin Chúa tỏ ra sự vinh hiển của danh Ngài. Xin Chúa cứu ông cụ này sống lại!” Vị trưởng lão ấy đã sống lại, và cụ đã thú nhận rất nhiều tội khiếp đảm như thâm lạm công quỹ, buôn lậu ma túy, hiếp dâm cùng rất nhiều việc xấu xa ô uế khác...
Vừa đến Hạ Môn, giáo hội đã cho xe hơi chờ sẵn để đón Tống Thượng Tiết. Nhưng đi giữa đường thì xe bị chết máy. Về đến thành phố thì mọi nhà đã lên đèn. Ông than thở sao mà gặp quá nhiều chuyện ngoài ý như vậy, ông vừa bước vào hội trường, thấy mấy ngàn thính giả đang kiên nhẫn đợi chờ, mọi sự mệt mỏi, bực dọc như đều tan biến.
Tại Hạ Môn rất ít tín hữu được nghe Tống Thượng Tiết giảng luận, nhưng một số người trước đã biết Tống Thượng Tiết đã đi ra nói nhiều về những ân tứ của ông cho nhiều người khác. Một bà cụ họ Thái vốn rất sùng Phật Giáo, đôi mắt gần mù hẳn. Cụ muốn thử nhờ Tống Thượng Tiết cầu nguyện chữa bệnh nên cụ đã đến để nghe Tống Thượng Tiết truyền giảng. Nghe xong bà cụ cảm thấy lòng mình phấn chấn, trong buổi đại hội cầu nguyện chữa bệnh. Bà cụ theo tục lệnh của những nhà quyền quý đã ngồi kiệu đến dự lễ cầu nguyện. Khi đến phiên bà cụ, Tống Thượng Tiết đã la lên “Halêlugia ngợi khen Chúa!” bà cụ họ Thái thấy một luồng sáng thật lớn và đôi mắt cụ được sáng lại, vinh hiển Chúa được tôn cao. Từ đó bà cụ đã để thì giờ đọc Kinh Thánh và đem tất cả những tượng thần trong nhà thiêu hủy hết. Gia đình bà cụ đã biến thành một gia đình Cơ đốc gương mẫu. Về sau đã di dân sang Phi luật tân và đã làm sáng danh Chúa tại đó.
Tại Kim Tỉnh, có một người bị bệnh cùi đã từ lâu, khi nghe Tống Thượng Tiết truyền giảng ông đã tin nhận Chúa Giê-xu. Vợ người này vốn là một Cơ đốc nhân, sống về nghề nông, làm lụng vô cùng vất vả nhưng cũng không đủ sống, đã thế lại bị trộm cướp mất sạch. Một hôm người đàn bà này lê tấm thân mệt mỏi, đói lả đến nghe Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm. Vừa lết đến nhà thờ là bà đã mê man. Khi tỉnh dậy bà thuật rằng, trong giấc ngủ bà ta đã thấy thiên sứ muốn đưa bà về thiên đàng. Nhưng bà xin trên trần gian này bà còn một người chồng bị bệnh phung, bà muốn còn sống để chăm sóc chồng thêm một thời gian nữa. Thiên sứ đã cam kết cùng bà là cả hai vợ chồng đều cùng sẽ được chữa lành. Quả nhiên cơ thể vốn đau yêu, mỏi mệt thường xuyên của bà cũng dần dần hồi phục, và người chồng sau khi đã được Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện tức thì Chúa chữa lành. Những vết sưng phù trên mình biết mất, về sau chỉ còn lại vết thẹo, và đã sống thêm được nhiều năm trên đất. Khi sắp qua đời ông đã nói rằng: “Chiên Con của Đức Chúa Trời mặc áo trắng đến tiếp đón tôi về nhà ở trên trời!” Người vợ còn ở lại sống trên cõi đời lâu hơn. Bạn bè của bà ở Phi-luật-tân sau này đều làm chứng cho sự thật này.
Phép lạ ấy càng đồn ra, những người đến dự nghe truyền giảng ngày càng đông hơn. Nhà thờ không thể chứa hết, nên phải nhóm lại ở ngoài trời. Tuy trời nắng rất gay gắt nhưng mỗi ngày vẫn nhóm lại 3 xuất. Chỉ trong ngày đầu đã có 2000 người tin nhận Chúa. Đúng như lời hứa của Chúa: “Các con sẽ làm việc Ta làm, lại còn làm việc lớn hơn...” quả đã được thực hiện. Trong vòng thính giả cũng có những người đến từ Đài Loan, vùng Đông Nam Á, và những người đến từ các thành phố Đức Hóa, Vĩnh Xuân. Có 1.927 người xin đặc biệt cầu thay cho đời sống tâm linh, và 2.000 người xin cầu nguyện chữa bệnh. Tống Thượng Tiết cũng đã cầu nguyện phóng thích cho mấy chục người ra khỏi xiềng xích của quỷ ám. Đặc biệt có một sự việc khiến cho Tống Thượng Tiết cảm động sâu xa: thành phố Kim Tỉnh vốn số tín hữu không đông lắm. Từ khi phó hội trưởng Cơ đốc giáo toàn quốc, Mục sư Hứa Thịnh Viên đến quản nhiệm Hội Thánh. Ông đã cậy đức tin xây lên một ngôi giáo đường lớn chứa trên 1.600 người. Nhiều người nghĩ rằng chuyện này không cần thiết lắm. Nhưng Chúa đã hứa với Mục sư là mai mốt sẽ làm cho ngôi giáo đường này đầy tín hữu và hơn nữa nó không đủ chỗ cho tín hữu ngồi. Khi Tống Thượng Tiết đến truyền giảng thì Lời Chúa hứa đó đã thực hiện.
Trở lại Hạ Môn, Tống Thượng Tiết lại tổ chức những buổi thuyết giảng bồi linh tại miền nam Phước Kiến trong thời gian 2 tuần mục đích là củng cố niềm tin các tín hữu để họ được vững vàng hơn trong Chúa hầu cho không bị các tà thuyết mê hoặc. Từ Đài Loan và Phi-luật-tân cũng cử đại biểu đến tham dự, những chiếc lều loại lớn căng lên cũng còn quá nhỏ so với số thính giả đến tham dự. Sau phải tháo tất cả vách dựng chung quanh để chứa cho đủ tất cả những thính giả gần xa đến dự. Kết quả của chiến dịch bồi linh này thật đáng khích lệ vì có 160 thanh niên nam nữ dâng mình vào Thần Học Viện để ra hầu việc Chúa. Số Mục sư cũng đến tham dự với thái độ khiêm nhường cũng không ít. Do đó Satan đã giận dữ và phá quấy bằng cách xúi giục những kẻ chống đối dùng báo chí để công kích. Đảng bộ Quốc Dân Đảng cũng ra lệnh trục xuất Tống Thượng Tiết. Ông đã phải tạm di chuyển đến đảo Cổ Lan, bên kia biển. Buổi thuyết giảng lúc rạng đông, chưa đến 5 giờ mà đã có hơn 5.000 người lặng lẽ đợi chờ. Công an tại Hạ Môn đã thông báo cho biết Tống Thượng Tiết là một phạm nhân nguy hiểm. Nhưng người vợ của Cục trưởng Cục Công An đã cất đi cái thông báo đó. Đợi cho đại hội đã hoàn tất, và Tống Thượng Tiết đã bình an rời khỏi Hạ Môn, bà mới cho phổ biến thông báo trên.
Lúc chiến dịch sang đến Tuyền Châu, Giáo hội đã được một Tham Mưu Trương ẩn danh giúp đỡ nên đã tổ chức một đại hội ba ngày trong một căn lều có sức chứa hơn 4.000 người. Tin đồn ra quá rầm rộ, nên Tống Thượng Tiết thấy rằng lưu lại đây rất bất lợi nên đã lặng lẽ trở về Hạ Môn rồi đáp tàu về Thượng Hải.
IV. HƯỚNG VỀ MIỀN BẮC
Từ Thượng Hải, Tống Thượng Tiết hướng về miền bắc lên Bắc Kinh. Tuần thứ nhất giảng tại Hội Thánh Trưởng Lão, tuần thứ nhì và thứ ba giảng tại Hội Thánh Á Tư Lập. Sau những đợt thuyết giảng bồi linh này đã biến đổi được một số đông những người nguội lạnh trong các Hội Thánh. Họ như được thay vào một đời sức sống mới, nên những công việc trong Hội Thánh như có thêm sức sống. Những tín hữu trung kiên với Chúa đã chiến đấu cho Phúc âm một cách can trường khiến cho Tống Thượng Tiết rất được khích lệ. Trong một đêm Tống Thượng Tiết giảng về sứ điệp “Sự đầy dẫy Đức Thánh Linh trong ngày lễ Ngũ Tuần”. Có một giáo sĩ ngoại quốc đặc biệt đã mời một số yếu nhân trong chính quyền giới đến tham dự. Tống Thượng Tiết đã rất nhã nhặn bào với giáo sĩ nọ mời những vị đó ngồi vào hàng ghế đầu để nghe giảng. Vị giáo sĩ này mời các thượng khách ấy lên ngồi ngay trên tòa giảng. Những con người này lại hợm hĩnh, thiếu lịch sự, ngồi trong thánh đường nghe giảng mà thái độ ngạo mạn, lại còn hút thuốc lá, khiến cho thính giả ngồi phía dưới nhìn lên rất lấy làm khó chịu. Họ thì thầm to nhỏ cùng nhau bất mãn vì thái độ thiếu nhã nhặn của những người đó. Tống Thượng Tiêt đã đuổi họ đi rất khéo. Vốn là trong bài giảng về Đức Thánh Linh, Tống Thượng Tiết thường hay dùng một lò lửa lớn với than và củi tươi đốt lên để làm ví dụ cho thính giả dễ hiểu. Hôm ấy Tống Thượng Tiết đã hướng thắng vào các vị “thượng khách” mà quạt lửa. Khói bay lên mù mịt và lửa tung tóe bay vào người họ, các vị quan liêu này đã phải chạy đi nơi khác. Tống Thượng Tiết là một người thẳng thắn, không nể vì những kẻ ngạo mạn cho dẫu họ là ai đi chăng nữa.
Tại Bắc Kinh có một người đàn bà tin Chúa sau khi nghe Tống Thượng Tiết truyền giảng, bà bị người chồng đánh đập, nhưng càng bị đánh bà ta lại càng ca hát ngợi khen Chúa. Càng ca hát lại càng bị đánh dữ dội! Ông chồng vũ phu này vừa đánh lại vừa mắng chửi thậm tệ: “Đánh mày, mày còn ca hát, vậy tao sẽ đánh cho mày chết, xem thử mày còn có thể hát ca không!” Nhưng người đàn bà này vẫn cứ ca hát ngợi khen Chúa. Tánh tình hung hăng của người chồng càng dữ dội, ông ta tuyên bố rằng: “Ngài mai không cho mày đi nghe giảng đạo nữa. Tao là chồng, tao có quyền quản chế mày. Bây giờ mày cần gì thì tao cho, nhưng tao cấm mày không được tin Giê-xu!” Nhưng người đàn bà này vẫn hát “Tôi cần Giê-xu”. Mãi về sau người chồng không còn cách gì có thể ngăn cấm vợ, lương tâm ông ta cũng bị cáo trách nên cuối cùng đã cùng vợ quỳ gối cầu nguyện Chúa xin tha tội. Người chồng cũng đã được Chúa biến đổi. Người đàn bà này đã làm chứng rằng: “Với nước mắt tôi đã cầu nguyện với Chúa ‘con cần Giê-xu’. Tôi chỉ nói như vậy và tất cả mọi nan đề đều được giải quyết. Tất cả mọi khốn khổ tôi đều chịu đựng được, và đã trải qua bao nhiêu nhục nhã tôi vẫn cất lên được tiếng hát ngợi khen Chúa”.
Đại Danh Phủ là một thành phố nghèo xơ xác, nhưng khi Tống Thượng Tiết đến tổ chức truyền giảng cũng có gần 800 người đến dự nghe. Cuộc sống của d6n thành phố này thật vất vả, lợi tức của mỗi người dân chỉ được tối đa một đồng một tháng, thậm chí có những người suốt đời chưa hề thấy những đồng tiền bằng đồng, nhưng tổng số cũng lên đến gần 60 đồng! Trong số đó có rất nhiều “hai đồng tiền của người đàn bà góa”. Những đội ngũ đi ra truyền bá Phúc âm cũng đem về cả trăm người cho Chúa. Họ cũng cậy ơn Chúa cầu nguyện chữa lành cho một người bị mù từ hồi mới lọt lòng mẹ.
Tại Đại Danh Phủ có một vị giáo sĩ tây phương thuộc Hội Thánh Bêtên. Ông này mua cho mình rất nhiều ruộng đất, lập nhiều vườn cây trái, thành lập một nông trại chăn nuôi... Ông định thành lập Hội Thánh rồi sai phái giáo sĩ đi đây đó truyền bá Phúc âm. Chẳng may thình lình ông ta bị một con dê mang từ ngoại quốc về húc và ông đã qua đời sau đó. Sản nghiệp của ông đã quy về cho Hội Thánh Bêtên. Thật đúng như lời Thánh Kinh: “Trong lòng loài người có nhiều mưu kế; song ý chỉ của Đức Giê-hô-va sẽ thành được” (Châm Ngôn 19:21).
Thành phố Vệ Huy là nơi mà các giáo sĩ tây phương đến rất sớm. Họ đã xây cất 30 dãy nhà lầu, thành lập Thần Học Viện. Đến năm 1927 phong trào chống Cơ đốc giáo nổi lên rất mạnh. Hầu hết các Giáo sĩ đều phải trở về nước, công sức và tiền của bỏ ra rất nhiều nhưng chỉ được vài chục người tin Chúa! Vì vậy càng thấy rõ do mưu toan của con người thì không thể gặt hái nhiều kết quả! Có một điều rất lạ là khi đến thành phố Vệ Huy, Tống Thượng Tiết bỗng bị đau răng phải đến nha sĩ nhổ và sau đó bị sưng lên rất đau đớn. Ông cũng ráng nhịn đau mà truyền giảng, nhưng khi Tống Thượng Tiết vừa rời khỏi Vệ Huy, mới đặt chân lên thành phố Trịnh Châu thì những nơi sưng và đau tự nhiên đã lành hẳn!!
V. PHI LUẬT TÂN
Trở lại Thượng Hải, Tống Thượng Tiết liền nộp đơn xin chiếu khán đi Phi-luật-Tân. Tống Thượng Tiết được Chúa hứa tại đây Ngài sẽ cho ông một điều quý báu rất kín nhiệm. Tống Thượng Tiết đã kiên nhẫn chờ đợi lời hứa này hơn hai tuần lễ, nếu không thì ông đã đi nơi khác để làm việc rồi, trong lúc đợi chờ, ông rãnh rỗi thấy thời gian trôi qua thì lòng như lửa đốt... Đến Phi-luật-tân hoạt động nửa tháng... đây là lần đầu tiên Tống Thượng Tiết truyền giảng ở nước ngoài. Dân cư của quốc gia này chỉ lo làm ăn buôn bán, không mấy ai chú tâm đến đời sống tâm linh. Những kiều dân Trung Hoa tuy cũng bận rộn với công việc làm ăn, nhưng dẫu sao họ cũng còn quan tâm đến đời sống thuộc linh. Ban điều hành đã tổ chức những giờ nhóm họp rất là bất tiện. Buổi sáng từ 5:50 đến 7 giờ, buổi tối từ 8:00 đến 10:00. Tống Thượng Tiết đã phải đi ngủ trễ và dậy sớm rất nhọc mệt. Những buổi nhóm ban sáng người đến dự khoảng 200, còn buổi tối có khoảng 1.000, đa số là dân đảo Luzon, còn một ít thì đến từ các đảo khác. Buổi chiều truyền giảng cho người Phi-luật-tân tại một nhà thờ của người ngoại quốc, số người đến dự cũng chỉ được vài mươi! Ngày Chúa Nhật nhiều lắm cũng chỉ có vài trăm người tham dự và có 4,5 chục người được Chúa thăm viếng. Một lần kia tổ chức truyền giảng cho học sinh, có vài trăm học sinh đến dự, nhưng cũng chỉ có vài chục em tin nhận Chúa. Qua tuần lễ thứ nhì, Tống Thượng Tiết dạy nghiên cứu sách Khải thị vào buổi chiều, khoảng 300 người đến tham dự lớp học. Ngày hôm sau đặc biệt cầu nguyện cho những người bị bệnh thì nhiều người được chữa lành, qui vinh hiển về cho Chúa. Những Hoa kiều nơi đây đa số đã bỏ vợ người Hoa và cưới con gái người Phi. Nhưng sau khi tin nhận Chúa đã trở lại cùng vợ cũ, hành động này đã làm chứng tốt cho Chúa. Về sau có mười mấy vị đại diện về Hàng Châu tham gia những buổi học Kinh Thánh. Nhưng lời Chúa hứa ban cho điều quý báu rất kín nhiệm, Tống Thượng Tiết vẫn chưa thấy tỏ tường và ông còn đang chờ đợi.
Trong thời gian truyền giảng tại Phi-luật-tân, Tống Thượng Tiết cũng không lo ngại gì hết. Khi cần ông vẫn thẳng thắn đả kích tội lỗi, nhất là tội của những kẻ chỉ mang danh Cơ đốc nhân mà không thực sự là người của Chúa Cứu Thế. Nhiều khi Tống Thượng Tiết đã chỉ thẳng vào một người đang ngồi trong đám thính giả và vạch rõ tội của người đó ra, và chưa bao giờ ông đã nói sai. Thường thường phía trong chiếc áo màu lam của Tống Thượng Tiết, ông mặc một chiếc áo rất cũ và trên đó viết đầy những thứ tội lỗi như nói dối, ăn cắp, tà dâm, ích kỷ, hận thù, hung dữ, bất tín... Lúc nào nói đến những kẻ giả hình, ông cởi chiếc áo màu lam khoác ngoài ra để cho thính giả thấy chiếc áo trong quái đản đó! Khi ông nói đến quyền năng của huyết cứu chuộc của Chúa Cứu Thế thì ông máng chiếc áo dơ bẩn đầy tội lỗi ấy lên cây thập tự. Phía trong chiếc áo “dơ bẩn” đó là một chiếc áo vừa trắng, vừa sạch...
Trong số thính giả của một buổi truyền giảng nọ, có vị Tổng Lãnh sự Trung Quốc tại Phi-luật-tân đến tham dự. Trước kia ông này làm việc tại Bắc Kinh và Tân-gia-ba, vốn là một người nghiện rượu và đam mê cờ bạc. Ông ta góa vợ, nhưng sắp tục huyền với một người đàn bà khác. Bà này đã khuyên ông ta nên đến nghe Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm. Khi ông ta nghe Tống Thượng Tiết nói về các thứ tội lỗi, ông tưởng như Tống Thượng Tiết đã đem việc nhà của ông ra mà kể vậy. Ông ta đã bị bắt phục và tin nhận Chúa Giê-xu. Một thời gian sau ông ta đổi về Nam Kinh tiếp tục đến dự một Đại hội truyền giảng khác, vào đêm thứ năm thì câu củi khô này như đã được đun vào trong lửa hừng. Ông ta thật sự được tái sanh năm 38 tuổi, về sau trở thành Viện trưởng một trường Kinh Thánh tại Java, thuộc xứ Nam Dương. Thấy ông là một người trưởng giả, khiêm hòa, nhân hậu, ít ai có thể tin được ông vốn là một người có một quá khứ hoang đàng trụy lạc như vậy.
... Tại một đảo khác của Phi-luật-tân, Tống Thượng Tiết đã tổ chức truyền giảng trong căn lều dựng tạm lên để làm xưởng cưa gỗ. Một nữ tín hữu đã lùi bước bỏ Chúa từ lâu. Bà nghe những “truyền thuyết” về Tống Thượng Tiết cũng muốn đến nghe thử. Bà quyết tâm rằng sẽ không nhìn thẳng vào ánh mắt của Tống Thượng Tiết để mình sẽ không bị mê. Sứ giả truyền giảng này quả là một con người đặc biệt, chẳng những qua lối diễn giảng của ông mà chính mắt bà ta trông thấy chuyện kỳ lạ: Một ký giả họ Châu vốn là một người còng lưng, đầu thì chúi xuống gần đụng đất, nhưng sau khi được Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện, chiếc lưng còng của ông đã thẳng lên, và ông ta đã đưa thẳng tay lên trời la lớn: “Tôi được thẳng lưng rồi! Tôi đứng thẳng lên được rồi!” Chính người ký giả này về sau đã tổ chức một hiệp hội truyền giảng Phúc âm hoạt động rất mạnh mẽ. Người nữ tín hữu “đến xem cho biết” đó cũng đã được phục hưng, tấm lòng trở lại nóng cháy, trở nên chấp sự của Hội Thánh địa phương.
Tống Thượng Tiết giã từ Phi-luật-tân trở về Thượng Hải, đến ngay Hàng Châu để hướng dẫn một lớp học Thánh kinh và truyền giảng của tín hữu toàn quốc. Đại hội này do ba người nữ tín hữu tại Hàng Châu khởi xướng. Họ đã hiệp nhau cầu nguyện nhiều ngày, mượn nơi nhóm lại, cũng như những nơi tạm trú cho các đại diện tín hữu các nơi đến. Nơi ở của nam giới là một khách sạn còn nơi ở của nữ giới là ký túc xá của trường nữ Hoành Đạo. Hội trường chính để nhóm họp là của Hội Thánh Hồ Sơn Đường. Đại diện của các nơi đến dự lên đến trên 300, trên phân nửa đến từ Hạ Môn, người địa phương tham dự có đến gần 600. Đại hội khai mạc ngày 10 tháng 7 đến ngày 9 tháng 8 năm 1935. Một vị tín hữu ở mãi thành phố Đại Danh Thủ, vì kinh tế eo hẹp nên đã đi bộ đến để tham dự Đại hội, thật là một tấm gương trung thành và kiên nhẫn hiếm có.
CHƯƠNG 41
VỀ MIỀN NAM (1935)
Tống Thượng Tiết vẫn còn nhớ rõ, khải tượng lúc còn đang du học tại Hoa Kỳ, một người bạn đã biếu cho ông một chiếc địa cầu (chương 21). Lúc bấy giờ ông không mưu định gì đến những nơi xa xôi để truyền giảng nhưng Chúa đã khuyến khích ông bằng một câu Kinh Thánh trong Khải Thị 3:8: “Ta biết công việc của con, dù năng lực kém cỏi, nhưng con đã vâng giữ lời Ta, không chối bỏ danh Ta. Ta đã mở trước mặt con một cái cửa chẳng ai có quyền đóng lại”...
... Các Hội Thánh Huê kiều trong vùng Đông Nam Á Châu vốn có liên hệ mật thiết với các Hội Thánh tại Phước Kiến và Quảng Đông. Mặc dù chưa có liên hệ với Tống Thượng Tiết nhưng các tín hữu tại hai tỉnh trên đã viết thư cho đồng bào mình ở ngoại quốc để làm chứng những gì Tống Thượng Tiết đã làm cho Chúa. Do đó dù các đồng bào còn ở hải ngoại cũng đã nghe đến danh của Tống Thượng Tiết. Trước hết, ông nhận lời mời của Hội Phúc Âm Liên Hiệp Tân-gia-ba nhằm vào hạ tuần tháng 8 năm 1935. Đại hội phấn hưng sẽ khai mạc vào ngày 30 tháng 8, ban tổ chức đại hội nghĩ rằng nếu có khoảng vài ba trăm người đến dự cũng đã là vui lắm rồi. Nhưng ân điển của Chúa vượt quá lòng mong ước của con người, người đến tham dự quá đông nên ban tổ chức đã phải dời đại hội sang thánh đường Hội Thánh Giám Lý, nhưng vẫn không đủ chỗ ngồi. Thông dịch viên cung ứng không đủ, vì sau khi dịch một hai bài đã mất tiếng, không đủ sức tiếp tục. Về sau bà Ngô Tĩnh Linh đã dùng loa phóng thanh để dịch sang tiếng Hạ Môn, vấn đề mới được giải quyết. Mỗi ngày giảng ba xuất, chiến dịch kéo dài trong vòng 14 ngày và kết thúc vào 12 tháng 9. Trong thời gian ấy đã truyền giảng 40 lần có trên 1.500 người được Chúa thăm viếng, cầu thay cho 880 người, thành lập được 111 đội ngũ ra đi truyền bá Phúc âm, có trên 80 thanh niên nam nữ dâng mình hầu việc Chúa.
Tại Ma-lắc-ca, thuộc Mã-lai-Á, có nhiều chứng tích của công cuộc truyền giáo. Tống Thượng Tiết đã đến thăm địa điểm dịch Kinh Thánh ra Hán ngữ của giáo sĩ Marison. Truy niệm những nhà truyền giáo ngày xưa và suy nghĩ đến những công khó của lúc khai sơn phá thạch gieo những hạt giống Tin Lành đầu tiên, lời Kinh Thánh đã được chứng thực “công khó của anh em trong Chúa không vô ích”. Ông Hiệu trưởng của trường nữ trung học nơi ấy đã đồng công cộng tác với Tống Thượng Tiết, riêng ông hiệu trưởng trường nam thì không hợp tác nên những buổi truyền giảng ban ngày chỉ có vài chục người đến tham dự, buổi chiều và tối có khoảng gần 400. Tuy vậy Chúa vẫn tiếp tục tiếp nhận thêm mỗi ngày người được cứu vào Hội Thánh. Hầu hết nữ sinh đều được ân sủng của Chúa, Tống Thượng Tiết cầu thay cho 345 người. Buổi thuyết giảng ngày thứ sáu là ngày bế mạc, một buổi thờ phượng nhuốm đầy tình yêu và quý mến. Vì có một đại diện của nữ hoàng đến công tác nơi đây, nên Tống Thượng Tiết đã thay đổi địa bàn hoạt động.
Tại đảo Pénang cũng có Hội Thánh Giám lý và Hội Thánh Anh Em, nhưng hai hệ phái này có sự phân rẽ nhau. Tống Thượng Tiết truyền giảng tại một địa điểm của Hội Thánh người ngoại quốc, giáo đường chứa được khoảng 800 người, có những người từ các thành phố khác đến, mục đích chính là được Chúa chữa lành bệnh chứ chưa từng nghe Phúc âm bao giờ, có nhiều người đã được Chúa xót thương. Trong Hội Thánh Anh Em có một tín hữu cưới cả hai chị em làm vợ, nói là bắt chước ông Giacốp trong Kinh Thánh, nhưng sau khi nghe Tống Thượng Tiết giảng đã biết lỗi và tình nguyện bỏ đi một bà!
Rời Pénang Tống Thượng Tiết vượt biển qua đảo Sumatra, nơi đây có một Hội Thánh đã thành lập được 13 năm rồi nhưng chỉ vỏn vẹn có 47 tín hữu. Đa số học sinh và giáo viên của các trường tại đảo này đều thuộc Tân phái. Buổi truyền giảng đầu tiên đã có hơn 400 người ào ạt kéo đến nghe, thái độ của những người này ồn ào vô trật tự như đến một hí trường. Tống Thượng Tiết đã quở trách họ nặng nề, nhưng Mục sư sở tại và chấp hành Hội Thánh thì cho là Tống Thượng Tiết thiếu lòng yêu thương. Đêm hôm ấy Tống Thượng Tiết thuyết giảng về huyết cứu chuộc của Chúa Cứu Thế và đã có hơn 100 người cầu nguyện tin nhận Chúa. Một vị chấp sự trong Hội Thánh cũng xưng tội, hối cải.
Trở lại Mã-lai Peclec, Hội Thánh nơi đây có rất nhiều tín hữu, trông dường như rất phát triển, nhưng trình độ thuộc linh không đồng đều, lúa mạch và cỏ lùng lẫn lộn. Những tín hữu bị các hệ phái loại ra cũng nhập về đây cho nên hài cốt khô chất đống lên cao. Thị trấn này nhà cửa trông lưa thưa, nhưng đến giờ khai mạc đã thấy hàng trăm chiếc xe đạp khắp nơi ào ạt chạy về. Tống Thượng Tiết thấy rằng họ cũng rất khát khao Lời Chúa. Nhưng muốn truyền giảng cho họ phải có hai người thông dịch ra tiếng Hạ Môn và tiếng Phước Châu. Có khoảng trên 800 người được ơn Chúa.
Ngày 18 tháng 10 Tống Thượng Tiết phải trở lại Tân-gia-ba để giảng một tuần lễ cho hội đồng bồi linh. Tại các nơi đến dự có trên 400 cộng với tín hữu địa phương hơn 2.000, nhưng nhờ máy phóng thanh Tống Thượng Tiết hướng dẫn hội chúng nghiên cứu các bài học Thánh Kinh, giúp tín hữu sâu nhiệm hơn những tín lý căn bản, ngõ hầu không bị các tà thuyết lung lạc. Những đoàn viên truyền bá Phúc âm đã lên đến khoảng 1.000 người và chia thành 132 đội, nên cần phải có một sự điều hành hợp lý. Tống Thượng Tiết đã gợi ý thành lập một tổng bộ đoàn truyền giảng để khai triển cá nhân chứng đạo và truyền giảng quy mô lộ thiên. Trong chiến dịch quy mô này, thống kê cho biết số người tin nhận Chúa lên đến 5.000 người. Các giáo đường từ đấy không còn chỗ trống cho tín hữu đến thờ phượng. Thậm chí những ngoại ô thành phố cũng phải xây cất thêm nhiều cơ sở để thờ phượng. Hội đồng bồi linh bế mạc vào tháng 10. Tống Thượng Tiết rời Tân-gia-ba để trở về nước. Khi chia tay những người đưa tiễn lên đến cả ngàn, bày tỏ tấm lòng nhiệt thành của người Trung Hoa đối với ông. Vì người tiễn đưa quá đông, nên nhân viên hỏa xa không thể cho họ lên tàu để giã từ người ra đi. Nhân viên công lực cũng đã phải ra lệnh cho những người đi đưa tiễn sắp hàng dài. Tống Thượng Tiết đứng nơi đầu toa xe, rồi lần lượt những người bước lên bục bắt tay giã từ rồi bước qua bên kia cửa toa xe để nhường bước cho người kế tiếp. Người người lũ lượt lên, xuống như một dòng nước chảy.
Khi tàu sắp khởi hành, một đứa bé khoảng 12 tuổi đến quỳ dưới chân Tống Thượng Tiết mà khóc lóc kể lể rằng đã bị mẹ bỏ, nó van xin Tống Thượng Tiết thương tình nhận làm con nuôi. Tống Thượng Tiết nói rằng, ông ta lấy bốn biển làm nhà cho nên không thể giúp gì được. Một khi đã bị mẹ bỏ rời đứa trẻ trở thành kẻ xấu số. Ông đã nhờ một trẻ viên của Giáo hội giúp đỡ. Tống Thượng Tiết nghĩ đến những con sơ sinh trong Chúa: Nếu không có ai tiếp tục nuôi dưỡng, tương lai họ cũng trở thành những kẻ lang thang. Tống Thượng Tiết cưu mang vấn đề này như một gánh nặng trên vai, nên một đại hội để chuyên về học Kinh Thánh đã thành hình trong suy tưởng của ông.
CHƯƠNG 42
HÀNH TRÌNH VỀ MIỀN DUYÊN HẢI VÀ ĐÀI LOAN
(1935-1936)
(1935-1936)
I. CÁC TỈNH GIANG TÔ, HÀ BẮC, SƠN TÂY VÀ THÀNH PHỐ THƯỢNG HẢI.
Sau khi về nước, Tống Thượng Tiết nỗ lực kêu gọi thanh niên dâng mình hầu việc Chúa. Những ai có thể chịu gian khổ và lao lực để đi chăm sóc các bầy chiên của Chúa. Tại Giang Âm đã có hơn 200 thanh niên đáp lời kêu gọi đó. Còn tại thành phố Trấn Giang vì dân chúng lo thực tập tránh oanh tạc nên số người đến tham dự rất ít. Và những người đến nghe giảng đa số đã được Chúa thăm viếng những lần trước, trong số ấy có rất nhiều người đã thực hiện lời hứa nên đã vào trường thần học. Riêng cô Hoàng Ái Quang đã đến tận Vân Nam để khai phá những cuộc truyền bá Phúc Âm.
Khi đi qua tỉnh Nam Kinh thấy Đoàn Truyền Giáo tại đây dưới sự hướng dẫn của đoàn trưởng Tàu Vạn Sơn hoạt động rất tích cực, Tống Thượng Tiết rất cảm động và được khích lệ cho chức vụ của mình. Ông sợ là một nhân viên hỏa xa, ông ta có soạn một tài liệu giáo lý căn bản nhan đề “Cánh Lông Trên Mũi Tên” và ông Sơn thường hướng dẫn đồng nghiệp sau 4 giờ chiều đi ra các đường phố để truyền bá Phúc âm. Hàng tuần có họp nhau lại để cầu nguyện và báo cáo những thành quả thu hái được. Họ khích lệ nhau và cầu thay cho nhau. Cách một tuần đoàn đến thăm một Hội Thánh để tổ chức truyền giảng. Bốn đêm trước họ đã lo chuẩn bị bằng cách mời hai chàng sinh viên Lâm, Từ và ông thư ký Hội Thánh họ Lý dùng kèn và nhạc khí đánh những bản nhạc để thu hút người đến nghe. Các đoàn viên khác thì đi phát các truyền đạo đơn, tiếp đãi những khách đến dự. Trong buổi nhóm thì dạy Kinh Thánh, làm chứng hay tập cho hội chúng những bài hát để ca ngợi Chúa. Mỗi người tận dụng những ơn tứ Chúa đã cho mình để cùng phục vụ Chúa. Trong số đoàn viên có Lâm Hưng Niên, sau khi tốt nghiệp đại học đã dâng mình vào thần học viện Linh Tri, do Mục sư Giả Ngọc Minh sáng lập, ông là người đã bỏ mình vì Chúa tại Kim Tỉnh trong thời gian quân đội Nhật chiếm đóng.
Trong Thần học viện nữ tại Nam Kinh có nhiều bông trái do Tống Thượng Tiết gây dựng nên. Tống Thượng Tiết đã cùng họ nghiên cứu Phúc âm Ma-thi-ơ chương 9 để học biết “làm sao để trở thành một công cụ cho Chúa sử dụng”, vừa hướng dẫn họ hát những bài đoản ca mang ý nghĩa: “Đau xót cho những cảnh khốn khổ lưu lạc”, và “cần những người ra đi ngay để cứu vớt những linh hồn đáng thương đó”. Ngay đêm hôm ấy có vài sinh viên xin nghỉ học để theo Tống Thượng Tiết đến Hổ Hồ. Năm 1930 Tống Thượng Tiết đã đến đây một lần, lần này ông đến để liên kết năm hệ phái tại đây để tổ chức một buổi truyền giảng tại nhà thờ của Hội Thánh Giám lý. Thính giả đa số là sinh viên và có gần 500 người được Chúa thăm viếng. Sau buổi truyền giảng hôm ấy, một bác sĩ họ Thái của trường nữ Thần học Nam Kinh cũng một số sinh viên muốn đi cùng Tống Thượng Tiết đến làng Trương Thôn để truyền giảng. Viện cớ Trương Thôn là một thị trấn nhỏ, hẻo lánh nên đã lựa lời từ chối không cho những người ấy tháp tùng. Vì thế số sinh viên ấy đã trở lại trường tiếp tục việc học. Thật ra, Tống Thượng Tiết không muốn phụ nữ tháp tùng trong những chuyến truyền giảng như thế này, sợ có nhiều điều bất tiện. Lòng Tống Thượng Tiết ước mong có một thanh niên giống như Timôthê đối với Phao-lô vậy, nhưng cho đến lúc ấy ông vẫn chưa được toại nguyện. Trương Thôn là một thị trấn nhỏ chỉ có khoảng hơn 100 gia đình, lúc ấy lại nhằm lúc giữa mùa đông, lại hay bị cướp phá nên ban đêm không thể nhóm họp được... Mặt trời vừa mọc là đánh ống kẻng kêu gọi người trong làng đến nghe truyền giảng. Thế mà chỉ ít phút là đã... đã có hơn cả ngàn người ngồi chật cả căn lều mới dựng... số người được Chúa thăm viếng khá đông. Truyền giảng xong, Tống Thượng Tiết vội vã chia tay. Những người nhận được hồng ân của Chúa đã tiễn đưa ông đến mấy dặm đường, vừa đi vừa ca hát tôn vinh Chúa, tiếng hát vang xa khắp xóm làng.
Thời tiết tại Thiên Tân rất lạnh và tâm linh của tín hữu nơi đây lạnh cũng không kém. Tinh thần của họ không bằn anh em tín hữu ở trong các thôn xóm, họ ngại thời tiết lạnh lẽo nên đến dự nhóm rất ít, chỉ có độ vài trăm người đến tư gia của đoàn trưởng Trương Châu Từ để cùng nhau học về sách Khải Thị. Tống Thượng Tiết liền triệu tập những người lãnh đạo trong các đoàn truyền giảng để cầu nguyện. Ông khuyến khích mọi người tự mở nắp quan tài tội lỗi của chính mình, bỏ hết những thành kiến. Những ai lạc bước nên quay lại cho kịp lúc, những ai tưởng mình vững vàng thì lại càng phải cẩn thận để tránh tính kiêu ngạo thuộc linh.
Đoàn truyền giáo Bắc Kinh được Mục sư Vương Minh Đạo chăm sóc, nên giữ được những tín lý thuần chính. Không giống như những người ở trong Đoàn tại Thiên Tân, đói nhưng không biết chọn thức ăn. Bất cứ ai cũng mời đến chia sẻ giáo lý nên niềm tin đã có phần sai lệch và rất nhiều quan điểm đối chọi nhau. Tại thành phố Từ Châu, vì sự kiên nhẫn của một chị em tín hữu cho nên đến nay mới được chấp thuận mời Tống Thượng Tiết đến để tổ chức một chiến dịch truyền giảng 10 ngày. Vì hội trường nhỏ hẹp nên ban tổ chức nghĩ ra một cách là bán những huy chương nho nhỏ để hạn chế số người vào cửa. Tổng cộng đã bán trên 700 cái. Mỗi ngày giảng ba xuất, xuất nào cũng không còn chỗ trống. Những ngày sau cùng, những người đến từ phương xa có ý định rời đại hội sớm nhưng vì một cơn bão tuyết thình lình xảy đến nên đã phải ở lại. Nhờ đó họ đã học hỏi được nhiều điều và nhất là nhận được năng quyền từ Chúa Thánh Linh.
Trên con thuyền xuôi về Thành phố Thái Châu, Tống Thượng Tiết bị cảm cúm và lên cơn suyễn nặng nên rất mệt nhọc. Dầu vậy ông cũng cố gắng giảng một bài. Rất tiếc hôm ấy số tín hữu cũng như thân hữu đến dự rất ít, kể cả những người từ ngoại ô thành phố cũng chỉ trên 100 người. Dân thành phố Thái Châu rất mê tín, thờ lạy đủ mọi thứ thần tượng. Muốn cho dân thành phố ấy chú ý ông đã tổ chức những buổi truyền giảng ngoài trời. Trong số tín đồ cũng có những người thuộc “bầy nhỏ” mà cũng tin là những bài linh ca, những điệu linh vũ, có thể đuổi được tà ma. Ngay trong vòng những “bầy nhỏ”, họ tin rằng Chúa sắp trở lại, nên họ khuyên con em mình không nên đi học nữa, ở nhà chuyên tâm đón chờ để được cất lên trời. Những người trong nhóm này chống đối Tống Thượng Tiết mãnh liệt. Ban đầu lãnh tụ của họ cũng muốn hợp tác với ông, nhưng sau thì đổi ý, chỉ có những giáo sĩ ngoại quốc là đồng tâm nhất chí cùng Tống Thượng Tiết. Ngày xuất phát của Đoàn Truyền Giáo đã bị dân chúng ném đá, chế giễu, điều đó nói lên tấm lòng chai đá của dân địa phương.
Tại thành phố Tuyên Thành có bác sĩ Lâm Xương Niên rất yêu mến Chúa. Khi Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm tại tỉnh Hô Hồ, vì vợ lâm bệnh nên ông Lâm không đến tham dự được. Ông đã ngày đêm cầu nguyện xin Chúa sai Tống Thượng Tiết đến thành phố Tuyên Thành, Chúa đã nhậm lời và một mình bác sĩ Lâm đã một mình chịu hết mọi tổn phí. Ông cũng đích thân đánh điện mời hết thân hữu đến tham dự. Nhà thờ của Hội Thánh chỉ có thể chứa tối đa 200 người. Khi thân hữu đến ngồi đầy hết phòng thì trời đổ mưa. Bầu không khí của buổi nhóm lại rất nóng cháy thuộc linh. Bác sĩ Lâm được cử làm Đoàn trưởng Đoàn Truyền Giáo. Lâm Y sĩ cũng mong ước sẽ bảo trợ cho 100 truyền đạo tình nguyện đi truyền bá Phúc âm.
Thành phố Đằng Huyên là một trong những nơi mà Tống Thượng Tiết và Đoàn Truyền Giáo Bêtên chưa bao giờ đến viếng thăm. Tín hữu nơi ấy mời Tống Thượng Tiết đến để truyền giảng Phúc âm, nhưng nhà thờ không đủ rộng cho hội đồng, nên phải tạm thời căng lên một chiếc lều để có thể chứa được 1.000 người. Số người đến dự đã vượt quá con số dự trù vì có nhiều đại diện ở nhiều nơi phái đến. Trường trung học đệ nhị cấp Hoàng Đạo có hơn 200 học sinh nam nữ được ơn Chúa. Có một sinh viên thần đạo vì bịnh tim phải nằm tĩnh dưỡng, nhưng sau khi cầu nguyện đã có thể đến dự nghe thuyết giảng và nhân đó đã được Chúa chữa lành. Có một người chị em, sau khi tốt nghiệp trung học đã mạo danh Chúa trà trộn vào thần học viện. Cô học được 4 năm, đến ngày ra trường. Nghe Tống Thượng Tiết giảng cô đã thú nhận tội lỗi với nhà trường, không nhận bằng cấp tốt nghiệp và xin cầu nguyện để được Chúa Thánh Linh thăm viếng.
Tống Thượng Tiết đến thành phố Lục Hiệp thuộc tỉnh Giang Tô vào tháng ba, nơi đây tín hữu rất ít, nên những người đến tham dự đa số là các cụ già dốt nát và nghèo khó, quanh năm dành dụm nhiều lắm cũng chỉ được nửa đồng bạc! Đại hội kéo dài 7 ngày, ngày nào cũng có nhiều người thú nhận tội... Giáo hội ở đây quá nghèo, chỉ còn đủ khả năng đài thọ cơm nước 4 ngày nên những người đó nửa chừng đã phải bỏ về. Cũng rất may là hơn 300 nam nữ học sinh của hai trường trung học đến dự nghe giảng, trong số đó cũng có các con em của các vị Mục sư. Hết thảy đã được Chúa thăm viếng và có nhiều học sinh được sự cảm động dâng hiến đời mình để hầu việc Chúa.
Trở về Thượng Hải, chỉ trong 3 ngày mà Tống Thượng Tiết đã giảng 16 bài bồi linh cho những đoàn viên các đoàn truyền giáo. Ông Thạch Tân Ngã thông dịch, nhưng vì có 2 lần ông Thạch không kịp hiểu hết ý hay đã vấp váp trong khi dịch nên đã bị Tống Thượng Tiết “đuổi” xuống không cho dịch tiếp. Tình trạng này cũng thường xảy ra cho những vị dịch cho Tống Thượng Tiết. Về sau Thạch Tân Ngã kể lại những kinh nghiệm của ông: “Lối giảng của Tống Thượng Tiết rất sống động và đầy năng quyền. Các thính giả cho dẫu đứng chen chúc nhau để nghe, nhưng ai nấy đều tập trung tinh thần vào sứ điệp của ông. Tôi thấy diễn giả Tống Thượng Tiết đầy dẫy linh lực từ trên cao. Linh lực này như tràn khắp hội trường, và chính cái linh lực này là nền tảng thúc đẩy những người nghe đã mạnh dạn bước lên phía trước để thú nhận tội lỗi kín giấu của mình. Riêng tôi có nhiều lúc cảm thấy mất mặt và rất bực bội với Tống Thượng Tiết, nhưng không bao giờ tôi dám có ý nghĩ thù hằn hay giận ông”.
II. TỪ HẠ MÔN ĐẾN ĐÀI LOAN.
Sau lễ Phục sinh, giáo hội tại Hạ Môn bắt tay vào việc chuẩn bị cho Đại hội Thánh Kinh cho Cơ đốc nhân toàn quốc. Các Hội Thánh đã dâng hiến được 1.000 đồng để lo cho tổn phí di chuyển và ăn ở cho hơn 100 đại biểu từ miền Bắc đến. Từ đây, mỗi lần Tống Thượng Tiết giảng đều đề cập đến vấn đề hiện diện trong những buổi thờ phượng. Ông mong kêu gọi nhiều tín hữu hơn để phát triển Nước Trời trên đất.
Trong lúc ấy hệ phái Trưởng Lão tại Đài Bắc cũng mời Tống Thượng Tiết ra Đài Loan để truyền bá Phúc âm. Đài Loan lúc bấy giờ đang ở dưới chế độ cai trị hà khắc của Nhật. Những người am tường tình hình chính trị đều khuyên can Tống Thượng Tiết không nên ra Đài Loan. Nhưng ông đã cầu nguyện và lòng ông đã quyết. Ông cũng e dè và cẩn thận bội phần. Hành trang của ông lần này rất nhẹ nhàng, không mang theo cây Thập tự, cũng không mang cả tập nhật ký v.v... để cho “đối phương” khỏi nghi ngờ.
Ngày 15 tháng 4 Tống Thượng Tiết cùng với hai anh em Vương Tống Nhân và Vương Tống Thành đến Đài Bắc. Việc trước tiên là Tống Thượng Tiết xin gặp ngài Tổng Đốc và được vị tổng đốc này sai phái vài người lính để làm cận vệ cho ông. Tống Thượng Tiết không nghĩ đến việc ngơi nghỉ, liền ra quân truyền bá Phúc âm. Các Hội Thánh lân cận nghe tin đều tụ hội về hơn cả ngàn người. Trong khi hội chúng đang nghe giảng, các viên cảnh sát theo Tống Thượng Tiết vì trách nhiệm “hộ tống”, đôi mắt họ cứ láo liên dò xét hết người này đến người khác. Những người muốn đi lên cầu nguyện cũng phải sợ sệt và ngại ngùng. Nhưng vì được Đức Thánh Linh thôi thúc nên nhiều người cũn đã mạnh dạn lên phía trước. Và đa số là những Mục sư lãnh đạo các hệ phái, những chấp sự, trưởng lão... Cầu nguyện chữa bệnh là một trong số những vấn đề ở đây bị cấm ngặt, nhưng ân điển và quyền năng đã tràn dâng như nước lũ, không gì ngăn cản được những phép lạ của Ngài.
Trong một bài giảng, Tống Thượng Tiết đã mời bốn người lên trên tòa giảng để làm một thí dụ sống. Mỗi người mang trên ngực hình vẽ một trái tim trong đó viết tên những thứ tội lỗi. Ông trình bày thật rõ ràng là chỉ có huyết của Chúa Cứu Thế mới rửa sạch được những tội lỗi đó. Trong số bốn người đó có một người trên ngực có mang một cái bướu lớn, nhưng sau khi làm người mẫu như vậy thì cái bước lớn ấy đã tiêu đi mất. Có một người bị bệnh cấp tính, trong buổi giảng đã la lên đau đớn. Tống Thượng Tiết đã đặt tay cầu nguyện tại chỗ và người bệnh đã được lành. Cảnh sát Nhật nghe tin, sai nhân viên đến giám sát gắt gao hơn. Những bài giảng đều được ghi chép cẩn thận, và những thư từ của thân hữu gởi đến cho Tống Thượng Tiết đều bị kiểm duyệt rất kỹ. Một lần nọ, Tống Thượng Tiết muốn đến suối Lưu Huỳnh cách đó chừng vài chục dặm, ông cũng được một xe hơi chở đầy nhân viên cảnh sát chạy theo để “hộ tống”. Dưới sự giám sát gắt gao như vậy, nhưng Tống Thượng Tiết cũng cầu nguyện được cho 841 người và thành lập hơn 130 đội truyền bá Phúc âm. Các đội này không được phép đi truyền giảng công khai ngoài đường phố, họ chỉ được đi vào từng gia đình để chứng đạo cá nhân. Chính quyền Nhật tại Đài Loan rất nghi ngờ gia cấp trí thức tìm cầu chân lý. Vì vậy, nên cho dẫu đã xin phép nhiềulần, nhưng Tống Thượng Tiết chỉ được phép giảng Phúc âm cho giáo viên và học sinh của một trường mà thôi. Vào ngày thứ bảy có khoảng 80 học sinh đến nghe giảng. Nghe nói sau đó những học sinh này đều bị đuổi và ông hiệu trưởng người ngoại quốc cũng bị cách chức, ngôi trường này cũng đã được chính phủ quản lý!
Khi Tống Thượng Tiết đến Đại Trung thì những người đã từng được nghe giảng ở Đài Bắc đều kéo đến để được nghe thêm. Số thính gải ở Đại Trung do đó đã tăng lên gấp đôi. Ông đang giảng nửa chừng thì trời bỗng đổ cơn mưa, 2.000 thính giả đang ở trong một chiếu lều vải đã chen chúc nhau trú mưa và cầu nguyện trong một phòng chỉ có sức chứa đến 800 người! Họ đã cầu nguyện cho trời ngừng mưa, và quả nhiên ngày hôm sau trời tạnh ráo.
Để tránh sự dóm ngó của chính quyền, Tống Thượng Tiết đã âm thầm bảo các bệnh nhân ghi tên họ và chứng bệnh vào một mảnh giấy. Ông đã bỏ qua phần xức dầu, chỉ có cầu nguyện cho các con bệnh mà thôi. Chúa đã thành tín và chữa lành cho họ. Trong hội trường, những người được chữa lành đã lớn tiếng hô to Halêlugia, nhưng ông ngăn họ bớt lại. Cũng may là sự kiểm soát của thành phố này không gắt gao như ở Đài Bắc, nên ít có sự ngăn cấm. Tống Thượng Tiết đã cầu nguyện cho 1.484 người.
Lúc đến Đài Nam, một số người nghe giảng tại Đài Trung lại tháp tùng đi theo khiến cho thính giả tăng cao. Có chừng hơn 5.000 người đã hội họp nhau trong một căn lều...
Chính phủ Đài Nam cũng phái một nhân viên đến ga xe lửa để nghinh đón Tống Thượng Tiết và xem ông như ngài Hạ Xuyên Phong Điểm. Việc canh phòng của cảnh sát ở Hà Nam lỏng lẻo hơn những nơi khác nên sau khi tan trường các học sinh cũng có thể đến dự nghe giảng. Giáo hội đã xin phép chính phủ cho Tống Thượng Tiết cầu nguyện cho người bệnh. Chính phủ đồng ý cho phép, nhưng Chúa Thánh Linh của Đức Chúa Trời lại không cho, nên Tống Thượng Tiết cầu nguyện cho người bệnh. Chính phủ đồng ý cho phép, nhưng Chúa Thánh Linh của Đức Chúa Trời lại không cho, nên Tống Thượng Tiết đã không xức dầu đặt tay cầu nguyện cho một ai, dầu vậy số thính giả vẫn đến càng ngày càng đông. Hơn một trăm Hội Thánh phụ cận đều có phái một nơi ít nhất vài chục người đến dự, số thính giả lên hơn 3.000 người. Trong số 50.000 tín hữu ở Đài Nam thì có hơn một phần trăm đã đến dự đại hội này. Tống Thượng Tiết đã cầu nguyện cho đời sống tâm linh của 3.146 người. Thành lập được gần 600 đội đi ra truyền bá Phúc âm. Số người dâng đời sống để biệt riêng ra truyền bá Phúc âm cho Chúa lên hơn 600 người. Trong kỳ Đại hội này tín hữu đồng tâm dâng hiến tiền bạc, vòng vàng, nữ trang, châu báu... để làm kinh phí cho những đội ra đi truyền bá chân lý Phúc âm. Số tiền và nữ trang trị giá trên 4.000 đồng. Các Hội Thánh ở Đài Đông đã cử hơn 100 đại diện đến dự, mỗi người đã chi phí khoảng 50 đồng, sau khi những đại biểu này hưởng được phước hạnh thiêng liêng trong kỳ đại hội thì nghĩ đến bà con bạn bè và anh chị em trong các Hội Thánh nhà nên họ đã khẩn khoản mời Tống Thượng Tiết dành thì giờ đến Đài Đông. Nhưng linh trình của Tống Thượng Tiết đã được hoạch định rồi nên không thể nhận lời mời của họ được!
Ngày chia tay có hơn 700 người ra đến bãi biển để tiễn đưa, nhưng không có chi phiền hà xảy ra. Các nhân viên an ninh chỉ tịch thu một quyển lịch nhỏ. Chính quyền Nhật thấy Tống Thượng Tiết truyền giảng đầy quyền năng, khiến lòng người cảm động khóc sướt mướt và xưng nhận tội lỗi của mình. Họ sợ ông có ảnh hưởng mạnh với quần chúng, cổ động lòng dân gây nên những xáo trộn chính trị nên đã cho nhân viên an ninh bảo vệ tối đa, không cho Tống Thượng Tiết gần gũi và tiếp xúc nhiều với quần chúng.
Có 600 tín hữu tại Đài Loan ghi danh đến Hạ Môn dự đại hội, nhưng chỉ có ba trăm người được cấp giấy phép xuất cảnh mà thôi... Chiến dịch truyền giảng tại Đài Loan đã để lại nhiều kỷ niệm khó quên. Trong một lần đang giảng, Tống Thượng Tiết bỗng chỉ vào một thính giả đang chăm chú nghe và nói: “Đáng trách thay là kẻ giả hình!” Người mà ông điểm diện đó là vị trưởng lão họ Quách của Hội Thánh. Ông này biết là Tống Thượng Tiết chưa bao giờ gặp ông thì thể nào biết tích của mình rõ như vậy. Ông bèn nghĩ rằng vị Mục sư sở tại đã nói cho Tống Thượng Tiết biết mọi điều về mình. Hôm sau, vị trưởng lão này ngồi vào một xó tối để nghe giảng, nhưng không ngờ, một lần nữa Tống Thượng Tiết chỉ ngay vào ông và nhắc lại: “Đáng chết thay là kẻ giả hình!” Vị trưởng lão này càng tin chắc rằng vị Mục sư sở tại đã báo cáo ngọn nguồn với Tống Thượng Tiết. Ông ta rất căm giận, không thèm đến dự nghe giảng nữa, cũng cấm cả vợ không được bén mãng đến nhà thờ, và có thề quyết là sẽ giết chết ông Mục sư sở tại! Một hôm vị trưởng lão này sai vợ đến mời Mục sư về nhà. Khi Mục sư vừa bước vào, vị trưởng lão rút ra một thanh trường kiếm sắc bén, định sẽ lấy hết sức đâm thẳng vào ngực Mục sư, nhưng trong lúc đó Mục sư được thúc giục quỳ xuống cầu nguyện. Lưỡi kiếm lệch đi, cắm thẳng vào vách và gãy làm đôi! Vị trưởng lão đã giác ngộ tội ác của mình to lớn quá bèn quỳ xuống bên cạnh vị Mục sư và khóc lóc xưng hết những tội lỗi của mình. Ông ta được Chúa thứa tha và đã trở thành một người kính yêu Chúa và phục vụ Ngài với tất cả tấm lòng.
III. KINH DIÊN THỊNH HỘI – ĐẠI HỘI VÀ HỌC KINH THÁNH
Trở về Hoa Lục Tống Thượng Tiết đi ngang qua Xoa Thô để đến thành phố Trung Sơn. Những nhà lãnh đạo Hội Thánh nơi đây không hoan nghênh Tống Thượng Tiết nên ông phải tổ chức những buổi bồi linh tại ngoại ô cách xa trung tâm thành phố đến hàng chục dặm. Những tín hữu khao khát Lời Chúa nên đã không quản ngại những lời đàm tiếu, những sự ngăn trở của các vị lãnh đạo cũng như đường sá xa xôi. Họ đã rủ nhau đến dự nhóm để nghe giảng. Có những người mù cũng không ngại trời mưa gió, đường sá trơn ướt, họ bị té lên té xuống nhiều lần nhưng vẫn tiếp tục đi. Có rất nhiều người ở lại ngoại thành chờ để được dự nghe bài giảng buổi tối.
Sau đó, Tống Thượng Tiết đến huyện Đài Sơn do lời mời của một nữ tín hữu và một số anh chị em. Những nhà lãnh đạo nơi đây cũng thuộc thành phần chống đối Tống Thượng Tiết. Họ đã xúi giục tín hữu không nên nghe lời giảng của “Tống khùng!” Nhưng những lời xúi giục đó đã vô hiệu.
Lúc bấy giờ lãnh tụ Hồ Hán Dân vừa qua đời, vị Mục sư quản nhiệm Hội Thánh đã treo hình của vị lãnh tụ đó lên và mời toàn thể tín hữu đứng dậy để nghiêm túc chia buồn... cũng đúng lúc đó có bác sĩ họ La đã bước lên nhẹ nhàng mang tấm hình ấy xuống và hướng dẫn hội chúng dâng lời cầu nguyện cho quê hương, đất nước. Vị Mục sư quản nhiệm Hội Thánh tuyên bố là tất cả thư từ gởi cho Tống Thượng Tiết phải qua kiểm duyệt của ông. Mục đích ông muốn chận lại những số tiền con cái Chúa dâng để Tống Thượng Tiết làm lộ phí, nhưng chẳng may là không có một thư nào có tiền cả!
Tại Đài Sơn, Tống Thượng Tiết đã cầu thay cho 356 người. Trong khi đang cầu nguyện cho những người lên để xưng nhận tội lỗi, có một vị Mục sư giương mắt chăm chú nhìn, chính ông Mục sư đó là người vừa nghiện rượu vừa nghiện thuốc mà lại cứng lòng chẳng chịu hối cải. Không đầy nửa năm sau vị Mục sư này chết bất đắc kỳ tử vì một bệnh quái lạ!
Sau đó Tống Thượng Tiết đến thăm và giảng tại các Hội Thánh Trưởng Lão, Giám lý và Ngũ Tuần. Đến Quảng Châu mở một chiến dịch truyền giảng 10 ngày xong quay về Hồng Kông giảng cho một đại hội truyền giảng và bồi linh từ 14 đến 23 tháng 6. Trong khi giảng tại các nơi này Tống Thượng Tiết không quên khuyên tín hữu nên đến Hà Môn để tham dự đại hội Thánh Kinh.
Đã được chuẩn bị chu đáo từ lâu nên ngày 10 tháng 7 năm 1936 đại hội Thánh Kinh lần thứ II của Cơ đốc nhân được tổ chức đúng kỳ hạn tại Hạ Môn. Học viên ghi danh chính thức là 1.600 người, cộng thêm những người từ Hạ Môn và đảo Cổ Lai đến ghi danh tổng số lên đến hơn hai ngàn. Những tín hữu ưu tú của Thánh Giáo quốc nội và quốc ngoại qui tụ về cùng một thánh đường, quả là một Đại Hội lớn chưa bao giờ có. Mỗi ngày Tống Thượng Tiết giảng hai bài; sáng từ 7:30 đến 11:00; tối từ 7:00 đến 10:00. Buổi nhóm lại tuy dài và đúng vào mùa hạ nóng bức, nhưng từ diễn giả cho đến thính giả không ai cảm thấy mỏi mệt. Đại hội bắt đầu học chương đầu sách Sáng Thế cho đến chương cuối của sách Khải Thị. Đúng ý nghĩa của một Đại hội Thánh Kinh chứ không là một Đại hội Phấn hưng hay là Đại hội Truyền giáo. Đại hội này nhằm tôn cao Chúa Cứu Thế, đi sâu vào sự thánh hóa của cuộc sống Cơ đốc nhân. Những bài giảng của Tống Thượng Tiết đều được ghi chép cẩn thận và đã được xuất bản tại Hạ Môn với nhan đề “Tống Thượng Tiết Giảng Kinh tập” (những bài giảng của Tống Thượng Tiết). Sách dày gần 600 trang. Đại hội Thánh Kinh kỳ II đã được Chúa ban nhiều phước mới như sau:
1. Chúa đã dùng hội trường Tam Nhứt Đường mới xây cất tại đài Cổ Lan (chưa kịp dâng cho Chúa).
2. Có tin đồn quân đội Quảng Đông sẽ khai chiến với quân đội trung ương. Cũng có tin đồn rằng cuộc chiến tranh Hoa – Nhật có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Nhưng qua suốt kỳ Đại hội các đại diện không ai bị nao núng mà tất cả đều tự do hưởng linh lương không có điều gì gây trở ngại.
3. Trường học của Giáo hội đã được mượn để làm nơi tạm cư cho các đại biểu. Giáo viên và viên chức nhà trường đều là những chiêu đãi viên phục vụ rất ân cần.
4. Tuy đã vào mùa hạ nhưng thời tiết vẫn mát mẻ.
5. Lo ẩm thực cho hơn 1.000 đại biểu không phải là chuyện dễ. Mặc dầu ba bữa ăn là tranh giành với ruồi nhặng, nhưng không có ai bị ốm đau.
6. Sau đại hội, các chuyến xe và tàu đều khởi hành đúng giờ. Các đại diện đã lên đường bình an, sau đó ít hôm có một trận bão lớn thổi qua, nhưng không gây trở ngại gì cho các vị đại diện.
7. Trong kỳ đại hội này có một đại diện không có ghi danh trước. Vị này là người hành khất trên đường đi đến dự đại hội, tất cả học viên của đại hội đều rất cảm động vì hành động này.
Ma quỉ cũng đã hoạt động phá rối rất nhiều mặt. Buổi khai mạc Đại hội Thánh Kinh, Tống Thượng Tiết nghĩ rằng, thông qua toàn bộ Kinh Thánh trong vòng một tháng quả là một thời gian quá ngắn gnủi. Nên Tống Thượng Tiết đã hối hả cho tranh thủ với thời gian. Như một con bịnh kinh niên gặp phải một lang y quá chậm: Người thông dịch cho Tống Thượng Tiết chậm chạp quá, không thể đáp ứng được nhu cầu của Đại hội nên ông như thường lệ đã thẳng thắn mời thông dịch viên này xuống khỏi bục giảng. Tuy người này đã xuống khỏi bục giảng nhưng lòng dạ của ông không chịu xuống. Ông đã viết bài đăng báo đả kích và gửi thư dọa nạt đủ điềi, gây xáo trộn cho Đại hội không ít, khi Tống Thượng Tiết bèn xin lỗi người này rồi thì dẹp qua tất cả những lời công kích cũng như những thư từ dọa nạt để chuyên tâm nghiên cứu Kinh Thánh. Chúa Thánh Linh đã đích thân hướng dẫn và Đại hội đã bình an trong một tháng cùng nhau học hỏi Lời Chúa. Tống Thượng Tiết đã cấp chứng chỉ cho 972 người trung tín suốt kỳ Đại hội không vắng mặt một ngày nào. Trước khi chia tay, Tống Thượng Tiết ban lời từ giã như sau: “Các anh chị em thân mến, các anh chị cùng tôi làm việc trong suốt 30 ngày qua, công tác coi như hoàn tất. Đối với Đức Chúa Trời cũng như đối với loài người tôi không hổ thẹn vì tôi đã nói những điều Chúa muốn tôi nói. Những ngày đầu tôi e ngại cho sức khỏe chính tôi và người thông dịch, nhưng cám ơn Chúa đêm hôm nay Chúa vẫn cho chúng tôi đủ sức đứng đây để gặp mặt tất cả mọi người. Trong một tháng Đức Chúa Trời đã chuẩn bị cho chúng ta mọi thứ nhu cầu để chúng ta an tâm nghiên cứu qua toàn bộ Thánh Kinh. Kể từ đây quyển Thánh Kinh này coi như một bức thư của quý vị. Bây giờ quý vị có thể mang về và tôi đã chỉ biếu cho quý vị một chiếc chìa khóa để quý vị có thể tự nghiên cứu. Trong đó còn ẩn tàng rất nhiều của quý đang chờ đợi, quý vị nên tiếp tục tự mình khai phá thêm. Điều tôi hoài mong là Đức Chúa Trời sẽ trọng dụng quý vị để làm những người lính tinh nhuệ cho Chúa trong những ngày cuối cùng, đó là mục đích tối hậu của đại hội Thánh Kinh này. Không biết còn bao lâu nữa tôi sẽ lìa khỏi thế gian, nhưng tôi còn sống ngày nào là tôi phải làm cho xong bổn phận của mình ngày ấy. Tôi đã biếu cho quý vị Lời của Đức Chúa Trời mà Ngài đã giao thác cho tôi để sau khi tôi lìa đời thì có thể an bình mà gặp mặt Chúa. Trong 30 ngày này, tôi thường run sợ trước mặt Chúa vì cần phải rao giảng Lời của Ngài thật chính xác. Bây giờ nhiệm vụ của tôi đã hoàn tất, còn quý vị sẽ về quê hương của mình. Tôi chỉ có thể cầu nguyện cho quý vị, mong rằng công việc của kỳ đại hội này mang lại kết quả lớn cho Chúa. Những người gieo giống với nước mắt, sẽ gặt hái trong vui mừng. Tôi vững tin rằng Đức Chúa Trời sẽ không để cho Đại hội này ra luống công. Mặc dầu có nhiều người công kích báng bổ, nhưng trước mặt Chúa và trước mắt loài người có lương tâm, tôi không thấy xấu hổ. Tôi đã không quản ngại điều gì, tôi chỉ biết liều mình để truyền giảng Phúc âm. Tôi không tham lam tiền bạc, và trong một tháng vừa qua tôi như bị cách biệt với thế giới bên ngoài. Nhiều người muốn thăm gặp tôi, nhưng tôi đã không thể tiếp họ lâu, tôi cũng chân thành xin những vị ấy thứ lỗi cho. Bất đắc dĩ tôi phải hành xử như vậy, vì mỗi ngày tôi phải chuẩn bị chu đáo cho những thức ăn thuộc linh để chia sẻ cho mọi người. Trong thời gian này thư từ đến rất nhiều nhưng tôi cũng không có thì giờ để đọc những bức thư ấy, lên ngồi trên tàu, tôi sẽ xin đọc những bức thư ấy. Sau cùng, tôi cầu mong Chúa ban phước cho quý vị. Mong quý vị về đến quê nhà sẽ khích động việc học Thánh Kinh. Các phước hạnh quý vị đã nhận được nhưng không, thì cũng nên ban cho nhưng không. Trong một tháng qua kinh phí tính ra thật lớn lao, nhưng Đức Chúa Trời đã chu tất mọi sự cho chúng ta. Ma quỷ đã tấn công chúng ta tuy hung hăng, nhưng thật không đáng kể. Tôi chân thành cầu mong Đức Chúa Trời trọng dụng quý vị, khiến quý vị trở thành những tinh binh trong cuộc chiến cuối cùng. Tôi xin nhận chịu tất cả những lời phê phán, trong vòng một tháng nay. Tất cả những điều khổ tâm chỉ có Đức Chúa Trời biết. Những hiểu lầm của con người, tôi xin giao phó tất cả cho Chúa.
Anh chị em thân mến, sau khi đại hội bế mạc, có một số người phải về Nam Dương, có người về Đài Loan, có những đại diện về Hoa Trung, Hoa Bắc v.v... Mong Chúa trọng dụng quý vị như những ngọn đèn ở vùng Đông Nam Á, ở Đài Loan, Hoa Trung, Hoa Bắc. Còn những vị ở Hồng Kông và Quảng Đông tôi biết quý vị sẽ chịu gian khổ nhiều hơn những người khác, nhưng tôi cũng cầu xin Chúa cho quý vị luôn đắc thắng. Các đoàn truyền giáo tại miền Nam Phước Kiến tuy chưa gặp thời, tôi cũng cầu mong Chúa của chúng ta giữ gìn quý vị. Các anh chị em ở Hạ Môn và Cổ Lai, trong một tháng qua có nhiều việc gây khó khăn nhiều cho quý vị, tôi chân thành xin lỗi quý vị, mong rằng quý vị được an ủi từ nơi Chúa.
Xin thưa với quý vị là ân điển của Chúa thật dư dật! Trước kỳ Đại hội tôi đã xin Chúa ba điều:
- Thứ nhất, xin cho thời tiết mát mẻ, thuận tiện.
- Thứ nhì, xin học viên có tinh thần tốt trong suốt thời gian Đại hội.
- Và thứ ba, xin cho học viên đến dự có sức khỏe tốt.
Cám ơn Chúa, Ngài đã yêu chúng ta, không những suốt một tháng qua thời tiết thật lý tưởng, tinh thần của những buổi học ngày đã càng tốt hơn trong suốt thời gian đại hội. Tuy phải chen chúc nhau trong hội trường, nhưng Chúa Thánh Linh đã giáng xuống đầy dẫy trên mỗi người, khiến cho ai nấy đều khao khát Lời Chúa. Tuy có vài người trong chúng ta đau yếu nhưng sau khi cầu nguyện, thảy đều được mạnh khỏe. Cám ơn Chúa vinh hiển quy thuộc Ngài, Halêlugia!
Cầu mong tình yêu của Đức Chúa Trời ở cùng quý vị trên đường về.
Những ân phước nhận được tại đây cần chia sẻ cho nhiều người, càng chia sẻ sẽ càng được nhiều hơn. Nếu không chia sẻ cho người khác thì mình cũng chẳng còn được lại gì.
Những ngày sắp tới hành trình của tôi cũng chưa dự đoán được, nhưng tôi hoàn toàn đầu phục theo sự hướng dẫn của Chúa. Tôi e rằng năm sau sẽ không có Đại hội Thánh Kinh lần III. Nhưng tôi mong rằng nơi nào có đôi ba anh chị em yêu mến Chúa, thì hãy tổ chức những buổi dưỡng linh với nhau.
Cầu xin Chúa ở cùng quý vị cho đến ngày Ngài trở lại. Amen.”
Đáng lý sau một tháng lao nhọc như vậy, phải có một thời gian để ngơi nghỉ, nhưng Tống Thượng Tiết đã phải đi ngay lên Phước Châu, tổ chức 7 ngày đại hội tại Hội Thánh Chúa Cứu Thế. Những đại diện từ hải ngoại nhân kỳ nghỉ hè cũng về đại hội rất đông để nhận sự gây dựng từ những cơ sở phấn hưng của các giáo hội miền bắc Phước Kiến. Tại đây sự bắt bớ cũng rất dữ dội nên suýt nữa ông phải vào tù.
CHƯƠNG 43
XUỐNG MIỀN NAM LẦN THỨ NHÌ
(THÁNG 9 ĐẾN CUỐI 1936)
(THÁNG 9 ĐẾN CUỐI 1936)
Khởi hành từ Thượng Hải đến Sarawac để giảng cho chiến dịch truyền giảng. Ngang qua Hồng Kông, Đoàn Truyền Giáo Cơ đốc đã mời Tống Thượng Tiết ở lại giảng bồi linh. Lúc đến Tân-Gia-ba đoàn truyền giáo tại đây cũng mời Tống Thượng Tiết đến giảng 3 ngày tại giáo đường A-Nhật với chủ đề là “Tình Yêu Thương”. Sau đó Đoàn Truyền Giáo triệu tập tất cả những đoàn viên để tổ chức dưỡng linh và hướng dẫn cho đoàn bầu cử những viên chức cho nhiệm kỳ II.
Thành phố Siêu Vu của Sarawack cũng gọi là Tân Phước Châu có một vị Mục sư ngoại quốc chống đối Tống Thượng Tiết kịch liệt, khi vị ấy qua đời, một giáo sĩ mới lên nhiệm chức thì cánh cửa truyền giáo nơi đó được mở toang. Động cơ nào đã thúc đẩy vị giáo sĩ mới này mời Tống Thượng Tiết? Số là có một tín hữu họ Lâm đã từng được nghe Tống Thượng Tiết giảng và được Chúa thăm viếng tại Ma-lắc-ca. Ông có tâm tình nóng cháy nên khi về đến Siêu Vu đi ra truyền bá Phúc âm khắp các làng mạc chung quanh khiến Hội Thánh được phấn hưng. Cũng có một người chị em tín hữu sau khi được gây dựng tại Tân-gia-ba, đức tin tăng trưởng mạnh mẽ và cũng có ân tứ chữa bệnh. Hai người này là hạt giống truyền giáo của Tống Thượng Tiết, mang lại nhiều kết quả thiết thực cho Hội Thánh. Coi quả biết cây, vị Giáo sĩ mới này nhận biết Tống Thượng Tiết không phải là một phần tử phá rối, làm chia rẽ Hội Thánh... mà trái lại.
Tại thành phố Siêu Vu có khoảng 40 Hội Thánh, những năm trước đây người Trung Hoa nhờ Giáo hội nộp đơn xin thiết lập trường học. Giáo hội chủ trương nếu xây thêm một giáo đường. Do đó Giáo hội và học đường có liên kết trong việc truyền giáo. Việc truyền bá Phúc âm như vậy là do các giáo viên đảm nhiệm, nhưng họ chưa bao giờ được huấn luyện về thần đạo nên nền tảng giáo lý của họ không được vững vàng lắm. Những lúc nhóm họp họ chỉ cho hát thánh ca, rồi kể những câu chuyện trong Thánh Kinh và những lời giáo huấn về luân lý đạo đức mà thôi... Có một vị giáo viên đã hỏi một phụ tá của Tống Thượng Tiết: Có phải Nicôđem là mẹ của nicô không? Trong tiếng Hoa phiên âm chữ Nicôđem là Nica Để-mẫu. Từ đó cũng có thể thấy được sự thiếu hiểu biết của họ về Thánh Kinh là thể nào, dầu vậy cũng đáng mừng vì họ đã hỏi. Chứng tỏ họ là những người có tấm lòng khiêm nhường, khao khát học hỏi Lời Chúa. Khi tham dự những buổi nhóm, họ lại không tự tỏ ra mình là những nhà lãnh đạo, không phô trương địa vị của mình, nhưng họ kiên nhẫn lắng nghe như những người khác và cũng cùng với hội chúng đưa tay lên xưng những tội lỗi của mình rất thành khẩn. Sự có mặt của họ tạo nên bầu không khí tốt đẹp cho sự nhóm lại thờ phượng, học Kinh Thánh.
Trong vòng 10 ngày từ 21-9 đến 1-10 Tống Thượng Tiết đã hướng dẫn được 1583 người trở lại đầu phục Chúa. Đó là việc chưa từng có tại thành phố Siêu Vu trong vòng 100 năm nay. Mọi gia đình tại Siêu Vu đã được ảnh hưởng của chiến dịch truyền giáo này. Nhiều tín hữu tại Siêu Vu đã tháp tùng cùng Tống Thượng Tiết tới Silitê tham dự chiến dịch truyền giảng. Không xa nhà thờ lắm có một đoàn xiếc đang lưu diễn nên buổi truyền giảng cũng có ít nhiều trở ngại. Dân chúng trong vùng đa số sống bằng nghề cạo mủ cao su nên phải thức rất sớm, thường không mấy ai dám thức khuya. Vì vậy nếu không phải vì lòng rất khát khao chân lý thì không mấy ai đến dự nghe những buổi truyền giảng này. Nhờ thời tiết tốt nên nhiều công nhân trong đồn điền cao su có thể đến tham dự. Có một người chưa bao giờ bước chân vào nhà thờ nhưng những liên tiếp ba hôm như có một tiếng nói thôi thúc trong lòng khiến người ấy phải đến nhà thờ và cũng ra lệnh phải đọc chương thứ 7 của Phúc âm Ma-thi-ơ. Người này rất đỗi sợ hãi tuân lệnh đến nghe. Quả nhiên ông được Chúa thăm viếng, nhận biết chính Đức Thánh Linh đã khuyến khích mình.
Tống Thượng Tiết không lùi bước trước mọi trở ngại, Satan quấy phá cũng không kém. Một bác sĩ trong vùng thấy Tống Thượng Tiết cầu nguyện chửa bệnh mà chín phần mười bệnh nhân của ông đã được chữa lành. Mất mối lợi nên ông đã rủa sả và phỉ báng Tống Thượng Tiết rất thậm tệ, đồng thời kiện cáo với chính quyền. Việc này đã gây xáo trộn trong hội trường không ít. Ngoài ra viên bác sĩ này còn kêu gọi thêm những bác sĩ tây phương công kích Tống Thượng Tiết về ba vấn đề: (1) làm xáo trộn trật tự địa phương, (2) cầu nguyện chữa bệnh là giả dối, (3) lừa bịp để lấy lòng quần chúng. Tống Thượng Tiết không biết những hành động ghen tị của ông ta, chỉ một lòng cầu nguyện xin Chúa xót thương, cứu chuộc và biến đổi vị bác sĩ này.
Lâm Hồng Trí là một người rất được dân chúng Ma-lắc-ca tín nhiệm và kính phục, nhưng Tống Thượng Tiết không nhớ vì thấy rằng ông ta là người chủ trương báptem tam nhất (phải làm báptem ba lần), cũng là người đưa ra dự đoán ngày giờ Chúa trở lại. Đức tin lệch lạc như vậy cần phải chấn chỉnh lại.
Sau đó Tống Thượng Tiết hoạt động tại thành phố Pasal và Kua-la-lum-pur. Sau cùng là ông đến thành phố Penang. Vị đại diện Hội Thánh Kinh Hội của thành phố này ngày trước có ở Hạ Môn và đã mời Tống Thượng Tiết đến thăm thành phố Penang. Nhưng khi ông tới nơi này thì người này lánh mặt. Lúc ấy ông ta đang lo xây cất nhà thờ, và nghĩ rằng nên mời Tống Thượng Tiết đến sẽ có ảnh hưởng không tốt đến việc dâng hiến của tín hữu! Thật là một ý nghĩ ích kỷ lạ lùng. Đúng ra nếu tín hữu thật sự được Chúa thăm viếng thì càng vui lòng hiến dâng cho công việc của Chúa. Tại sao họ nghĩ ngược lại? Có một vài tín hữu trách Tống Thượng Tiết rằng, trong khi chờ đợi tàu đi Rangoul, tại sao không tận dụng thời gian để truyền giảng? Ông trả lời là vị Mục sư quản nhiệm đã viết thư cho biết là phải đợi khánh thành nhà thờ đã, rồi mới truyền giảng được. Các tín hữu này tức tắc đến gặp Mục sư của họ để can thiệp. Vị Mục sư này buộc lòng phải mời Tống Thượng Tiết giảng tại một nhà thờ của Hội Thánh bạn, nhưng Tống Thượng Tiết lấy lý do là cả đôi bên đều không chuẩn bị nên đã từ khước buổi truyền giảng đó.
Hội Thánh tại Rangoul, Miến Điện không có Mục sư quản nhiệm. Tạm thời 12 vị chấp sự luân phiên nhau chăm sóc Hội Thánh. Ngày trước có một Mục sư ngoại quốc đến quản nhiệm, nhưng bây giờ người Trung Hoa tự đảm nhiệm công việc, đóng góp tiền của để duy trì những sinh hoạt trong Hội Thánh. Viên giám đốc của hệ phái này vốn không tán thành việc tự lập như vậy, cho nên nhân dịp Hội Thánh Giám lý đang triệu tập đại hội thường niên, ông này liền đặc biệt mời Tống Thượng Tiết đến giảng một bài. Ông ta hy vọng rằng Tống Thượng Tiết sẽ khuyên 12 vị chấp sự nên bỏ ý định tự lập đi mà nên tiếp tục trực thuộc vào các giáo sĩ ngoại quốc để có sự “hiệp nhất” và sinh hoạt của Hội Thánh “không bị ngăn trở”. Tống Thượng Tiết nghĩ rằng vị Giáo sĩ Giám đốc này không có ý định thâu hồi quyền tự trị của Hội Thánh và xưa nay ông không hề xen vào chuyện nội bộ của các Hội Thánh nên ông không đả động gì về việc này.
Cũng có một Hội Thánh do một Mục sư họ Trần quản nhiệm, tín hữu không tới 10 người. Khi Tống Thượng Tiết đến giảng, vị Mục sư ấy là người đầu tiên đứng lên xưng nhận tội lỗi. Ông ấy tuyên bố rằng: “Tất cả những việc của tôi làm đều là giả dối. Nhiều năm qua tôi không biết rõ những giáo lý căn bản, nên tôi có tội nặng nề với Chúa”. Ông ta đã khẩn thiết cầu nguyện với Chúa và Đức Thánh Linh đã thăm viếng ông. Về sau ông cũng thường kiêng ăn cầu nguyện và đã trở nên đầy năng quyền giảng dạy và có sức thuyết phục con người trở về cùng Chúa. Chúa cũng cho ông có ân tứ cầu nguyện chữa bệnh. Ông tâm sự với Tống Thượng Tiết rằng: “Tôi bây giờ mới thật có sự vui mừng thật của Chúa!
Khi Tống Thượng Tiết truyền giảng tại Miến Điện chỉ có một người chị em dịch ra một tiếng Phúc Kiến. Trong số thính giả thì có đủ người có tiếng nói khác nhau, lại cũng có rất nhiều thính giả người Ấn Độ. Tuy họ không hiểu nhưng thấy cũng có người cảm động và khóc lóc. Tống Thượng Tiết rất lấy làm lạ, nhất là trong giờ cầu nguyện chữa bệnh. Nhiều người trong số họ đã đến dù không hiểu tiếng, nhưng bệnh tật cũng đều được chữa lành.
Về sau đó những người Ấn đã tiếp xúc với Tống Thượng Tiết và ngỏ ý mời ông qua Ấn Độ truyền bá Phúc âm cho đồng bào của họ. Tống Thượng Tiết nói rằng: “Bắt đầu từ đấy tôi thấy tôi cũng mắc món nợ Tin Lành với người Ấn Độ nữa!”
Khi quay lại Mã-lai để truyền giảng thêm một đợt nữa, ông đã đưa dẫn thêm được 400 người tin nhận Chúa. Hội Thánh tổ chức lại những đội ngũ truyền bá Phúc âm để bù dắp vào những đội đã lưu lạc đi những nơi khác. Tiếp theo, Tống Thượng Tiết giảng cho một Đại hội phấn hưng do đoàn viên của đoàn truyền giáo đã chuẩn bị. Sau đó tổ chức đại hội Thánh Kinh Tân-gia-ba và Mã-lai-Á trong một tuần để nghiên cứu Ngũ Kinh Môise, sách tiên tri Đaniên, Phúc âm Lu-ca và Thư Lamã. Ngày bế mạc đại hội Thánh Kinh (20/12/1936) cũng là ngày kết thúc chiến dịch truyền giáo tại vùng Đông Nam Á Châu. Những nhà lãnh đạo Hội Thánh sợ không có kinh phí nên không dám tổ chức đại hội Thánh Kinh, nhưng được Đoàn Truyền Giáo đã dâng 800 đồng, nên đã triệu tập các học viên đến dự. Trong đó có 1.000 người đại diện cho liên bang Mã-lai-Á (chiếm 1/3 tổng số học viên). Sau khi Đại hội Thánh kinh chấm dứt, Tống Thượng Tiết mời tất cả các đại diện đến trà đàm và xin họ cứ thẳng thắn kiểm thảo. Các đại diện đã chân thành thổ lộ tâm tình của mình và ông cũng bộc lộ tâm tư của ông, nên đã xóa tan hết những hiểu lầm còn lại trong lòng của nhau. Ngày 22/12/1936 Tống Thượng Tiết trở về Thượng Hải bằng chiếc tàu biển của nước Ý. Số tín hữu ra bến tàu tiễn đưa ông có đến hàng ngàn người, cũng có người cảm kích, thương mến cũng nhiều người lưu luyến và chảy nước mắt để tiễn đưa. Ngày hôm sau, tờ Thời bào Straight Times đã đăng tin như sau: “Hôm qua con tàu Contair Verdi của Ý rời bến, trên ấy có một hành khách trẻ tuổi Trung Hoa. Có đến hàng ngàn người đưa tiễn với sự thương tiếc ngậm ngùi, một cuộc tiễn đưa đầy nước mắt... Người Trung Hoa trẻ tuổi ấy là nhà truyền giáo Tiến sĩ Tống Thượng Tiết. Ông ta lên đường trở về Trung Quốc sau khi đã chủ trì hai Đại hội truyền giáo tại Tân-gia-ba và Mã-lai-á. Những khách đưa tiễn như muốn tràn ngập cả boong tàu, trong phòng khách và tràn ra cả trên bến... Trên tay họ cầm những lá cờ nhỏ, vẫy chào như tiễn đưa một vị đại quốc khách. Tống Thượng Tiết đã dùng một bài văn ngắn như một lời giã biệt với những người thân của ông. Họ cất tiếng hát những bài Thánh ca để tiễn đưa, hơn phân nủa không kềm giữ được sự xúc động của mình nên đã để cho nước mắt tuôn trào. Họ đang từ biệt một sứ giả truyền giảng Phúc âm nóng cháy. Sứ giả này, ngày xưa lúc du học tại Hoa Kỳ đã từng bị người ta nhốt vào bệnh viện tâm thần, bây giờ là người dẫn dắt ngàn ngàn người Trung Hoa tin nhận Chúa Cứu Thế”.
Tống Thượng Tiết với phương pháp truyền giảng không theo truyền thống cũ, khiến cho những nhà lãnh đạo thủ cựu phải nhức đầu. Ông đã làm cho Cơ đốc giáo và cho chính ông trở nên những đề tài phong phú trên mặt báo tại những nơi mà ông đặt chân đến. Chẳng những Mã-lai-á mà tất cả những nơi đến đều gây được một không khí thật sôi động và đưa dẫn nhiều người đầu phục Chúa Cứu Thế Giê-xu... Trong số hàng trăm người Huê kiều trên con tàu này, đa số là công nhân xen lẫn những sinh viên nam nữ, trên ngực đeo huy hiệu của đoàn truyền giáo, trên tay cầm lá cờ nhỏ có chữ thập, ai nấy đều chăm chú nhìn vào Tống Thượng Tiết. Ông nói rất ít, có khi chỉ thầm thì một vài câu rất nhỏ với người bên cạnh. Kế đó họ đã trổi lên hát thánh ca, và lan dần ai nấy đều hát theo. Các hành khách khác cũng như nhân viên trên tàu đều nhìn Tống Thượng Tiết với vẻ kinh ngạc. Ngạc nhiên hơn cả là những Linh mục từ Lamã về Viễn Đông, các vị ấy không hiểu đoàn người vẫy lá cờ có cây thánh giá kia là có ý gì? Họ không thể nhận ra được người được đưa tiễn trịnh trọng như vậy lại là một người trẻ tuổi có vẻ như một đấu thủ quần vợt hơn là một nhà truyền bá Phúc âm...”
CHƯƠNG 44
CÔNG TÁC TRƯỚC ĐÊM QUỐC NẠN
(THƯỢNG BÁN NIÊN 1937)
(THƯỢNG BÁN NIÊN 1937)
I. QUẢNG ĐÔNG – PHƯỚC KIẾN
Về đến Thượng Hải vào cuối năm 1936. Vào tháng 2 năm 1937 Tống Thượng Tiết băng qua Xoa Thô để đến Triều Châu. Hơn 1000 người tại Triều Châu đã được Chúa thăm viếng. Đoàn Truyền Giáo tại Yết Dương khá vững vàng. Ông tổng đoàn trưởng bằng đức tin lập một Hội Thánh, tín hữu hơn 100 người. Hai Hội Thánh Báp-tít và Trưởng Lão tranh nhau mời Tống Thượng Tiết, khiến ông rất khó xử! Nhưng vì chân đang bị đau, nhà thờ của Hội Thánh Báp-tít lại gần chỗ Tống Thượng Tiết cư ngụ nên ông đã nhận lời mời của hệ phái này, khiến cho hệ phái Trưởng Lão không được vui. Họ đòi lại tất cả những chăn mền đã cho ông mượn. Tống Thượng Tiết định khiển trách những nhà lãnh đạo Trưởng lão nhưng được Chúa nhắc nhở phải nhu mì khiêm nhường, nên ông đã có lời tạ lỗi cùng hệ phái Trưởng Lão, vì sợ họ hiểu lầm và hai bên có sự ngăn cách. Có hai điều khiến Tống Thượng Tiết được khích lệ: Một nông dân tại nơi đây đã mơ thấy rất nhiều người leo lên cây để nghe Tống Thượng Tiết giảng nên ông định bán một vụ khoai lang để có tiền đến dự Đại hội, nhưng chưa kịp bán thì được một người bạn từ Đông Nam Á gửi về cho 200 đồng nên cả gia đình đều đi dự được. Quả nhiên khi đến nơi thì thấy Đại hội nhóm họp ngoài trời, người dự thính đông không xiết kể...
... Nhân ngày tất niên Âm lịch những nhà lãnh đạo các Hội Thánh tại Xoa Thô yêu cầu nghỉ nhóm đại hội và giảng phấn hưng. Vào mồng một Tết và Chúa nhật đầu năm chỉ nhóm lại làm lễ tạ ơn Tân Xuân. Tống Thượng Tiết không thấy thích thú với việc đón Tết, vui Xuân nên đã triệu tập các đoàn viên Đoàn Truyền Giáo lên núi để huấn luyện vào sáng mồng một Tết, còn sáng Chúa Nhật đầu năm vẫn nhóm lại thờ phượng như thường, buổi chiều và tối thì truyền giảng. Những người trong Hội Thánh tuy bề ngoài phải chấp thuận, nhưng trong lòng không mấy vui. Trên danh nghĩa thì các Hội Thánh đã hiệp nhau lại mời Tống Thượng Tiết đến ban phát Lời Chúa, trong số đó có Hội Thánh Phổ Ích Xã, nhưng hôm ấy Hội Thánh này lại mời một diễn giả khác để tỏ thái độ chống đối Tống Thượng Tiết. Nhưng chẳng sao, các tín hữu tại Xoa Thô có lòng nóng cháy nên hôm ấy nhà thờ Bêtên đông nghẹt người đến dự nhóm. Những người này đã phải hy sinh buổi tiệc đêm 30 và những ngày Tết Nguyên Đán, họ đến nhà thờ sớm, mong có chỗ ngồi phía trên để dễ tiếp nhận những món ăn thuộc linh. Buổi chiều Chúa Nhật trong chương trình đến mục dâng hiến, Tống Thượng Tiết đã ngăn lại vì cho rằng một buổi giảng phấn hưng không phải là một buổi thờ phượng của ngày Chúa nhật. Trong số thính giả rất nhiều người lần đầu tiên đến dự nghe giảng. Các tín hữu trong giờ thờ phượng sáng đã dự dâng hiến rồi buổi chiều chắc chắn là không sẵn sàng, nên dâng hiến thêm một lần nữa là không nên. Vì lý do đó mà gây nên một điều không được vui giữa Tống Thượng Tiết cùng những nhà lãnh đạo Hội Thánh. Họ ngấm ngầm tìm cách trả đũa lại. Buổi giảng phấn hưng nào cũng kêu gọi hội chúng dâng hiến, đến ngày cuối cùng họ mở thùng dâng hiến ra, kiểm lại thì số dâng hiến lên đến 400 đồng, nhưng họ chỉ biếu Tống Thượng Tiết 100 thôi. Hội chúng thấy tấm lòng nhỏ nhen của họ thì lấy làm khó chịu và bất mãn!
Những vị Mục sư và Giáo sư tại thành phố Vĩnh Xuân đã chứng kiến ngọn lửa phục hưng bùng cháy tại Hạ Môn, nên rất mến phục Tống Thượng Tiết. Họ đã mời Lâm Phối Khiên và khuyên ông nên bắt chước Tống Thượng Tếit đến giảng phục hưng. Nhưng bây giờ chính Tống Thượng Tiết đích thực đã đến đây nên họ rất cảm kích và vui mừng. Ngoài tín hữu địa phương, các nơi khác đã qui tụ về hơn 700 người. Hội trường lại quá nhỏ nên phải tổ chức ngoài trời. Lúc đó đang mùa nắng gắt nên hội chúng đã phải căng lên những chiếc mền thay cho vải lều. Satan cũng tăng cường phá khuấy. Nó xui giục dân chúng quanh vùng đốt pháo để đối lại những bài thánh ca của Hội chúng. Trong lúc ấy, một vị Mục sư Tây phương từ Hưng Hóa đến báo cáo khẩn cấp là bầy chiên của các Hội Thánh ở đây đã bị các “bầy nhỏ” rủ rê đi hết, mong Tống Thượng Tiết đến gấp để cứu vãn tình hình. Ông chỉ khuyên họ phải cầu nguyện thật nhiều.
Trong thời gian hoạt động tại thành phố Vĩnh Xuân, Tống Thượng Tiết đã đặt tay cầu nguyện cho 1.012 người, thành lập được 200 tổ chức truyền giáo, nhưng ông đã phát biểu rất khiêm tốn: “Nền tảng vững chắc là do Lâm Phối Khiên xây đắp, tôi chỉ là người gặt hái thành quả của người anh em ấy thôi!”
Trên đường về Hưng Hóa, khi ngang qua Tuyền Châu các nhà lãnh đạo các Hội Thánh ra ga xe lửa để gặp mặt Tống Thượng Tiết. Trong lúc đó nhân viên hỏa xa cho biết rằng đường rầy có trở ngại nên không thể lên đường đi Hưng Hóa ngay được, nên họ đã tận dụng thì giờ tổ chức được hai buổi giảng bồi linh, và Tống Thượng Tiết đã nhân cơ hội này khuyên nhủ, khích lệ anh em yêu thương nhau.
Về đến Hưng Hóa, một mặt về thăm mẹ, một mặt tổ chức những buổi giảng bồi linh, nhưng tín hữu tại quê hương lại không mấy nhiệt tình khiến ông vô cùng thất vọng. Dầu vậy Chúa cũng an ủi tôi tớ Ngài. Có một vị y sĩ bỏ nhà thờ ra về, nhưng Chúa Thánh Linh thôi thúc, ông bèn trở lại để công khai ăn năn thống hối trước mặt Chúa. Lại có một người đàn bà tên là Ngô Ngũ Muội, cánh tay mặt bị tê liệt đã lâu năm, không chải tóc được. Sau khi giảng xong, Tống Thượng Tiết đã có lời kêu gọi thính giả lên xưng nhận tội lỗi và cầu nguyện. Người đàn bà teo tay này cũng theo dòng người đi lên. Tống Thượng Tiết không biết cánh tay người này bị teo nên chỉ cầu nguyện cho bà được tha tội mà thôi. Nhưng lạ thay khi tội lỗi được tha thì cánh tay của bà cũng lành theo.
Giảng 4 bài tại Phước Châu xong thì Tống Thượng Tiết đến Diên Bình. Đây là nơi ông đã bị đả kích và tẩy chay vào năm 1929. Bây giờ tình hình đã xoay chuyển hẳn, tất cả các Mục sư, giáo sư đều đến tham dự đông đủ. Số thính giả lên đến 500 người. Thoạt đầu các sinh viên cũng tỏ ý coi thường Tống Thượng Tiết, nhưng ông đã cứ nhịn nhục. Đến ngày cuối, Tống Thượng Tiết cầu nguyện cho những người bệnh. Có một em bé mù từ khi mới lọt lòng mẹ đã được Chúa cho sáng mắt. Người mẹ bồng em trong lòng, thấy em nhìn ngắm được, bà ta vừa sợ vừa mừng. Những người vốn coi thường Tống Thượng Tiết, nay ánh mắt họ nhìn ông đã đổi khác. Một người bị bán thân bất toại cũng được Chúa chữa lành. Những người thuộc phái duy lý thấy vậy cũng phải tin quyền năng chữa bệnh. Những người xin được cầu thay lên đến 400.
Tại thành phố Kiến Âu có một vài tín hữu ngày trước đã được Chúa thăm viếng trong kỳ Đại hội Phước Châu, hiệp nhau mời Tống Thượng Tiết về giảng phục hưng và truyền giáo. Con đường đến Kiến Âu thường có cướp bóc, nhưng vì được Chúa sai đi nên Tống Thượng Tiết đã không ngần ngại và bất chấp cả những hiểm nguy dọc đường. Hai vị thông dịch viên cũng tháp tùng cùng Tống Thượng Tiết. Giữa đường xe bị tai nạn, đâm vào một chiếc xe chạy ngược chiều. Hành khách nhiều người bị thương, riêng Tống Thượng Tiết và hai thông dịch viên thì vô sự nhờ Chúa che chở phủ bao.
Khi Tống Thượng Tiết truyền giảng trong nhà thờ của hệ phái Episcopal, hệ phái này kính trọng khu vực của bàn thờ. Những nhà lãnh đạo Hội Thánh đã lợp lên một giảng đài tạm thời trước nhà thờ vị họ không muốn khu vực bàn thờ bị hội chúng tràn ngập. Nhưng thính giả ngày càng đông nên giảng đài tạm thời phải dần dần dời lại phía sau. Cuối cùng, khu vực bàn thờ cũng bị tràn ngập nên đành bó tay. Tống Thượng Tiết giảng đến ngày thứ sáu thì người thông dịch tắc tiếng. Không nói được ra lời nữa, nhưng chẳng kiếm được ai thay thế nên chỉ biết cầu nguyện nhờ sự thương xót của Chúa. Trong chiến dịch này những người được cứu lên đến 500, cầu nguyện cho 408 người. Tình yêu của Chúa có tác động diệu kỳ, trên những sinh viên kiêu ngạo và cứng lòng, nay họ mềm mại và đầy tình thương, quan tâm đến những bạn hữu chưa biết Chúa và thường thành khẩn cầu thay cho các em. Ban tổ chức đại hội quan niệm rất đứng đắn rằng, việc tối quan trọng là cứu rỗi linh hồn đồng bào nên đã miễn phí ăn ở cho những đại biểu nghèo từ xa đến tham dự Đại hội.
Sau chiến dịch truyền giáo tại Phước Châu, Tống Thượng Tiết định một thân một mình, không mang theo hành trang gì đến thành phố Cổ Điền. Những xe đò sợ thổ phỉ cướp phá nên không dám khởi hành, nhưng ông lại nhận được điện thoại báo cho biết sẽ có 4 chiếc xe quân đội hộ tống cho đoàn xe đò, nên Tống Thượng Tiết đã đến Diên Bình bình an. Từ Diên Bình ông đáp tàu đi Cổ Điền. Trên tàu chật quá không còn một chỗ để ngả lưng. Ông kinh nghiệm được một phần nào cái cảnh “không có chổ gối đầu”.
Tại Cổ Điền, Tống Thượng Tiết gặp nhiều khó khăn ngăn trở: Một vị giáo sĩ Tây phương nào đó cho là mình có những phương pháp truyền giáo mới nên không tán thành việc làm của Tống Thượng Tiết. Trong những buổi truyền giảng lúc nào cũng có sự quấy phá như chó chạy vào nhà thờ, bóng đèn rơi xuống bất thường, thông dịch viên phải thay đổi luôn vì bị khản tiếng và mệt mỏi. Lúc bấy giờ đúng vào ngày lễ Phục Sinh nên những người ở trọ đều về nhà, hơn nữa thời tiết lại mưa gió bất thường. Tuy vậy số người đến dự nghe giảng cũng vẫn rất đông, có đến trên 1.500 người.
Tại thành phố Phước Thành cũng có một số giáo viên chống đối Tống Thượng Tiết, họ cấm không cho học sinh đến cầu nguyện. Đảng bộ Quốc Dân Đảng cũng có một số đảng viên chống đối Tống Thượng Tiết. Ông thị trưởng định cấm truyền giáo nên đã ra lệnh cho 10 cảnh sát viên đến giữ các cổng không cho tín hữu ra vào. Có hai nữ tín hữu đến ra mắt thị trưởng và chất vấn rằng: “Phải chăng nhóm họp tôn giáo là phi pháp? Chế độ này không cho tự do tín ngưỡng chăng?” Ông thị trưởng đáp rằng: “Đó là do chính các người trong giáo hội của các bà đã tố cáo. Họ cho rằng Tống Thượng Tiết không truyền bá chân lý, ông ta là một phần tử nguy hiểm”. Hai bà này liền xin ông ta phái người đến để quan sát, phán đoán những lời giảng của Tống Thượng Tiết. Ông thị trưởng đã làm theo lời đề nghị của hai bà. Người giám thị nghe Tống Thượng Tiết giảng đề tài “Người con trai hoang đàng”. Đến nửa chừng thì tay chân run rẩy, không sao ghi chép được, thế nhưng ông ta vẫn chưa chịu ăn năn hối cải. Một viên giám thị khác họ Cao, định bụng khi Tống Thượng Tiết giảng xong sẽ đứng lên chất vấn, bài bác Tống Thượng Tiết. Nhất là khi hội chúng hát bài “Không nên khuất kế Satan” để đáp ứng lại lời giảng, thì viên giám thị này càng nộ khí xung thiên lên la hét ầm ĩ, về báo cáo cùng ông thị trưởng nên ông ta đã ra lệnh tầm nã, bắt Tống Thượng Tiết. Hai nữ tín hữu kia cũng không kém, đến mời ông thị trưởng đích thân đến nghe giảng. Ông ta đồng ý, và khi nghe Tống Thượng Tiết giảng bài “gánh nước chết”. Ông ta đã cảm động rơi nước mắt, ông đã ra lệnh cho hội chúng được phép nhóm họp nghe giảng, ngợi khen Chúa! Nhưng khó khăn vẫn chưa hết, trong lúc đó lại có đại hội thể thao cũng được tổ chức trong thành phố này. Hầu hết các học sinh đều tham gia Đại hội này. Có rất nhiều người nửa chừng đã bỏ về để đi nghe truyền giảng. Hai ngày sau cùng của Đại hội truyền giáo đã phải tổ chức 4 buổi giảng mỗi ngày, để bù đắp lại những ngày thiếu vắng, vì sợ học sinh không còn cơ hội để nghe Phúc âm. Sau kỳ Đại hội này, một giáo sĩ ngoại quốc dành riêng cho Tống Thượng Tiết một chiếc xe hơi để trở về Hưng Hóa. Có đến gần 500 tín hữu đến ca hát để tiễn đưa Tống Thượng Tiết lên đường.
Tống Thượng Tiết vốn đã nhiều lần khước từ lời mời về Hưng Hóa, vì ông nghĩ rằng, “tiên tri không được tôn trọng nơi quê hương mình”... Nhiều lắm cũng có chừng 7,8 trăm người đến tham dự, hơn nữa Đảng Bộ Quốc Dân Đảng nơi ấy cũng đang để ý đến Tống Thượng Tiết rất nhiều, nhưng Đức Thánh Linh đã thôi thúc ông: “Chẳng phải nhiều năm qua con đã cầu thay cho Hội Thánh quê hương của con sao?” Tống Thượng Tiết không dám dập tắt Chúa Thánh Linh nên cứ để Ngài hướng dẫn bước đường của ông. Tình hình trên thực tế không sao ngờ được, thính giả đến dự nghe Tống Thượng Tiết giảng có hơn 4.000 người. Gần 2.000 người được cứu. Có đến gần 200 người tình nguyện dâng mình hầu việc Chúa. Thành lập được 400 tổ truyền giáo. Hơn nữa số thân hữu, những người đồng công, những tín hữu lâu năm ăn năn hối cải tội lỗi rất đông cũng có những sĩ Tây phương cũng đến nhờ Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện, và nhiều người bệnh đã được Chúa chữa lành... Tống Thượng Tiết không những rất vui mừng mà còn thấy đức tin của mình thật còn quá nhỏ bé... Hội Thánh có đặt hai thùng để đựng tiền dâng hiến: Một để lo chi phí của Hội Thánh và một để lo kinh phí cho Tống Thượng Tiết đi truyền giáo. Khi kiểm tiền thì thùng đựng tiền lộ phí cho Tống Thượng Tiết được 270 đồng và ông đã dâng lại tất cả cho Hội Thánh.
II. GIANG TÔ, TRIẾT GIANG, HÀ NAM VÀ GIANG TÂY – NGANG QUA HẠ MÔN ĐẾN THƯỢNG HẢI.
Tống Thượng Tiết dừng lại Hội Thánh Thanh Tâm Đường để chia sẻ kinh nghiệm và những điều học hỏi được trong những chuyến đi truyền giáo vừa qua. Sau đó ông đến Nam Kinh. Mục sư Giảm Mỹ Thăng mời Tống Thượng Tiết về lưu lại tại nhà, và hàng ngày cùng cầu nguyện với Mục sư Schubert. Đây là một điều khích lệ trong cuộc đời Tống Thượng Tiết.
Các Hội Thánh tại Nam Kinh phối hiệp mời Tống Thượng Tiết giảng 10 ngày cho Đại hội. Thành quả lớn trong vòng truyền giáo này là đã gặp được Mục sư Giả Ngọc Minh và hai người đã đồng công thành lập một Linh Tu Học Viện. Lúc sơ giao, Tống Thượng Tiết những tưởng Mục sư Giả Ngọc Minh theo phái Linh Ân nên cũng không dám hợp tác chặt chẽ lắm, sau ông thấy những sinh viên của học viện có đời sống thuộc linh nóng cháy và lòng yêu Chúa của họ thật là thắm thiết, nên những thành kiến được xóa tan. Sau này trong những vòng truyền giảng, Tống Thượng Tiết thấy những người có tâm tính muốn hầu việc Chúa và tỏ ý muốn học thêm lời Chúa, ông rất ân cần giới thiệu cùng họ nên đến theo học ở Linh Tu Học Viện.
Khi đến Hàng Châu, Tống Thượng Tiết nói rõ là sẽ không khiển trách các giáo sư, chấp sự trong Hội Thánh nữa, mà chỉ khuyên họ nên lấy tình yêu thương mà cư xử cùng nhau, nên những vị lãnh đạo Hội Thánh rất vui vẻ đến dự Đại hội. Cũng có những giáo sĩ ngoại quốc cùng tín hữu của các “bầy nhỏ” đến tham dự, nên các tấm lòng độ kỵ ở Tô Châu và Linh Ba đã được rộng mở. Tuy nhiên vì sự quấy phá của phiến loạn nên ngoại trừ thành phố Hải Châu những nơi khác không ai đến được.
Tiếp tục cuộc hành trình, Tống Thượng Tiết đã đến các thành phố Lạc Dương, Vận Thành, Hứa Xương, Tí Dương và Chính Dương v.v... Tại Lạc Dương, một người mù được chữa lành đã đứng lên làm chứng giữa hội chúng rằng: “Khi các ông nhắm mắt cầu nguyện thì tôi được mở mắt và thấy lại được ánh sáng!” Một người ngoại quốc nói rằng: “Đó là hồng ân của Thiên Chúa chứ không phải công lao của ông Tống!” Tống Thượng Tiết bèn đồng thanh nói lớn Amen.
Sau đó Tống Thượng Tiết đến Nam Quang Đào. Hơn 1.200 thính giả đã chờ sẵn tại đại lễ đường Bách Gia Thôn, gồm các đại biểu của các vùng chung quanh cũng đến tham dự. Những người bệnh để chờ được chữa lành lại càng đông hơn nữa. Một Mục sư ngoại quốc đang phục vụ Chúa tại đây đã gả con gái yêu quí của mình cho một người đầu bếp Trung Hoa. Gia đình này đã đến nghe Tống Thượng Tiết và sau đó mời ông về nhà dùng cơm. Họ tỏ ra là những cơ đốc nhân nhu mì, khiêm nhường, hòa nhã và thánh khiết.
Khi đến Thái Nguyên, một đại diện của Hội Thánh ra ga xe lửa đón Tống Thượng Tiết, trên đường người này cứ luôn miệng ngợi ca Tống Thượng Tiết. Ông liền nghiêm chỉnh khiển trách người này: “Tôi đến đây mục đích là để làm vinh hiển danh Chúa, bây giờ tôi chưa nói một lời nào về Chúa mà ông đã tôn vinh tôi rồi, như vậy có ý nghĩa gì?” Người ấy bèn ngưng những lời ngợi ca khách sáo.
Tống Thượng Tiết tá túc trong nhà một bác sĩ họ Phan. Những buổi truyền giảng được tổ chức trong một bãi đậu xe rất lớn và những chiếc lều được tạm thời dựng lên để che mưa nắng. Các quận huyện trong tỉnh Sơn Tây hầu như đều có cử đại diện đến tham dự. Các giáo sĩ Tây phương cũng khiêm nhường đến nhờ Tống Thượng Tiết cầu thay. Họ hòa mình để giảng Phúc âm cho người bản xứ, họ đã sinh hoạt và phục sức giống như người Trung Hoa... Một người câm từ miền xa muốn đến dự đại hội những đã bị trễ nên rất buồn và kêu khóc thảm thiết, nên Mục sư sở tại đã khẩn thiết xin Tống Thượng Tiết cầu thay cho người đáng thương này. Tống Thượng Tiết nói cùng vị Mục sư đó rằng: “Chúa đã dùng tôi chẳng lẽ lại không dùng ông. Tại sao chính ông không cầu thay cho người câm này?” Vị Mục sư này chẳng đặng đừng, phải cầu nguyện cho người này. Quả nhiên Chúa đã xót thương và chữa cho người câm có đức tin kia nói được. Anh ta đã mở miệng ca ngợi Thượng Đế. Tống Thượng Tiết nói cùng vị Mục sư ấy rằng: “Mục sư ơi, há phải tất cả những người đầy tớ trung thành của Chúa đều có thể tỏ ra quyền năng của Chúa sao? Từ nay không nên ỷ lại vào con người họ Tống này. Hãy sử dụng quyền năng Chúa ban đồng đều cho hết thảy những ai tin nhận Ngài!” Giăng 1:12, Ma-thi-ơ 28.
Vừa về đến Thượng Hải Tống Thượng Tiết đã phải chuận bị đi Phước Châu để hướng dẫn đại hội Thánh Kinh của Đoàn Truyền Giáo trong khu vực Hoa Nam. Trước đó những Hội Thánh tại kinh đô Bắc Kinh đã mời ông hướng dẫn Đại hội Thánh Kinh toàn quốc lần thứ III. Nhưng Chúa Thánh Linh đã ngăn trở và cho biết là sẽ gặp nhiều khó khăn và ngăn trở. Do đó ông đã từ chối Bắc Kinh mà nhận lời mời vùng Hoa Nam, hướng dẫn Đại hội 10 ngày vào thượng tuần tháng 7. Ban tổ chức xin một tháng, nhưng ông chỉ nhận lời nửa tháng thôi. Phần lớn trong ban tổ chức không tán thành cho ông còn có thái độ quan liêu, nhưng ông nhẹ nhàng từ chối, lấy cớ là sau này có dịp tiện khác sẽ đến... Ông không cần tranh luận với họ làm gì.
Khi đến Thượng Hải thì khói lửa chiến tranh đã phủ kín Bắc Kinh, chẳng bao lâu thì biến cố 7 tháng 7 xảy ra. Chỉ thị của Chúa đã được người ta thấy rõ. Tại Thượng Hải rất nhiều tin đồn đãi về chiến tranh và dân chúng tại Phúc Kiến cũng rất hoang mang. Tống Thượng Tiết nghĩ rằng Đại hội cầu nguyện chắc cũng không thành. Lúc ấy ông nhận được thư mời của tỉnh Phước Châu, trong thư cũng cho biết là đã chuẩn bị sẵn sàng. Ban chấp hành Hội Thánh Giám Lý cũng đã cử 300 truyền đạo đến tham dự Đại hội. Không những khu vực Hoa Nam mà cả Hoa Đông, Hoa Trung và cả 9 tỉnh quanh vùng cũng đã ghi danh tham dự, tổng số lên đến hơn 1.500 người. Đại hội đã dự trù và chuẩn bị chu đáo như vậy, cho dù tình hình chiến cuộc có sôi động đến đâu, Tống Thượng Tiết cũng chỉ biết bằng đức tin đến đó với Chúa mà thôi.
CHƯƠNG 46
VIỆT NAM VÀ VÂN NAM
(TỪ THÁNG 5 ĐẾN 8 NĂM 1938)
(TỪ THÁNG 5 ĐẾN 8 NĂM 1938)
Sáng sớm ngày 10 tháng 5 năm 1938 quân đội Nhật tấn công vào Hạ Môn. Dân chúng ùn ùn băng qua biển đến đảo Cổ Lang tị nạn. Trưa hôm ấy tiếng đại bác nổ đinh tai nhức óc. Tống Thượng Tiết đứng trên núi cao nhìn đất nước mình chìm trong khói lửa chiến tranh. Chiều hôm ấy ông đến dự tiệc tại nhà một tín hữu yêu mến Chúa để tiễn đưa ông lên đường... Tống Thượng Tiết nhớ đến lời Chúa trong Thi Thiên 2: “Chúa dọn bàn cho con trước mặt kẻ thù nghịch con...” Sáng hôm sau ông cùng với gần 2.000 người dân tị nạn đáp tàu Phong Khách đi Hồng Kông. Tàu nhổ neo không bao lâu thì thành phố Hạ Môn thất thủ. Đến Hồng Kông ngày 1, nhưng phải đợi 5 ngày mới có tàu thủy đi Việt Nam. Với tình hình hiện tại thì khó lòng đến kịp Đại hội tại Việt Nam như đã dự định. Trong khi chờ đợi tàu tại Hồng Kông, không bỏ phí một giây khắc nào, ông đã triệu tập các đoàn viên Đoàn Truyền Giáo vào trưa ngày 14 nhóm bồi linh tại Hội Thánh Báp-tít. Ông nhận thấy rằng những đoàn viên tại Hồng Kông không mấy khát khao Lời Chúa. Để tranh thủ thời giờ đào tạo những chiến sĩ mới nên ông chọn huấn luyện tại Cửu Long. Những đoàn viên tại Hồng Kông suy bì, có lời than phiền, nhưng Tống Thượng Tiết không chú tâm lắm về điều đó. Nhà thờ Hội Thánh Báp-tít tại Cửu Long không đủ chỗ chứa những học viên mới đến dự ngày càng đông, ban tổ chức đã mượn tạm thư viện Yên Sinh để làm nơi huấn luyện...
Ngày 20 tàu cặp bến Hải Phòng – Việt Nam. Đại hội đầu tiên họp tại Hà Nội, thủ đô của Bắc Việt. Người đến dự không đông lắm, dịch giả là một giáo sĩ người Pháp. Tống Thượng Tiết chê vị giáo sĩ này dịch quá chậm, ngược lại người dịch lại chê những giảng dạy giáo lý của Tống Thượng Tiết quá thô thiển. Nhưng chính cái giáo lý nông cạn đó đã cứu được hơn 100 người, khích lệ hơn 55 người tình nguyện dâng mình hầu việc Chúa và thành lập được 8 tổ chức truyền giáo Phúc âm. Những ngày hầu việc Chúa tại Hà Nội vừa xong, Tống Thượng Tiết phải đi xe lửa ngay vào miền Nam. Qua thành phố Sàigon xuống Vĩnh Long (vì giáo phái Phúc âm Liên Hiệp đang tổ chức Đại hội thường niên tại đây). Các nhà lãnh đạo Tin Lành Nam Việt đều tụ họp về Đại hội, các cộng đồng người Việt, các Giáo sĩ ngoại quốc cũng như người Hoa Kiều tại Vĩnh Long đều đồng công với Tống Thượng Tiết, nên những cảnh huống diệu kỳ đã xảy ra. Trước nhất là có 221 người được Chúa thăm viếng, họ đã tranh nhau mở “quan tài” của lòng mình, tranh nhau xưng nhận tội lỗi, không ai có thể cản lại được. Trong một lần giảng dạy, Tống Thượng Tiết mời 4 người lên tòa giảng, 4 người này chưa biết dụng ý của ông nên ai cũng lộ vẻ hí hửng, tưởng mình được mời lên tòa giảng là để làm gương cho người khác. Khi 4 người đã xếp hàng trên tòa giảng, Tống Thượng Tiết dùng phấn trắng viết lên nền áo đen của họ (áo dài đen là quốc phục của người Việt Nam) những loại tội lỗi: Tham lam tiền bạc, nói dối... Sau khi viết xong, những tín hữu ngồi dưới đều lấy làm lạ vì những tội lỗi ghi lên người nào cũng đều đúng với trường hợp của người ấy. Nhất là trường hợp hai vị sau cùng, người bị viết lên áo tội đánh nhau, đúng là sáng hôm ấy đã đánh vợ; còn người mang tội nói dối là đã từng phạm tội tà dâm, từng bị anh em trong Hội Thánh khuyên giải, nhưng một mực chối cãi. Các tín hữu tham dự hôm ấy đều to nhỏ với nhau là Mục sư Tống Thượng Tiết biết hết, quả là ân tứ của một vị Sứ Đồ thời Chúa Giê-xu. Rời Vĩnh Long đến Sàigòn, Tống Thượng Tiết đã giảng dạy tại một nhà thờ của người Trung Hoa tại Chợ Lớn, ông đã dùng đề tài “Dâng mình truyền bá Phúc âm” để giảng dạy. Kết quả là có 31 người đứng dậy tình nguyện dâng mình. Những người này liền được khuyến khích tổ chức thành một đoàn truyền giáo, chia thành 15 tổ, mỗi tổ 4 người và Tống Thượng Tiết tặng cho mỗi tổ đó một lá cờ Thập tự. Họ cam kết cùng nhau là mỗi tuần ra đi truyền bá Phúc âm một ngày. Từ đó các Hội Thánh Hoa Kiều tại vùng Sàigòn Chợ Lớn rất được hưng thịnh. Lúc Tống Thượng Tiết giảng tại Sàigòn, người phụ trách thông dịch là Mục sư Vi Úc Lương. Một lần kia Mục sư Vi bị bệnh bao tử cấp tính đang lên cơn đau dữ dội, ông xin kiếu, nhưng Tống Thượng Tiết trả lời rằng: “Tôi cũng đang trong cơn đau rất khó chịu, nhưng cũng phải lớn tiếng khuyên người ta hối cải ăn năn. Xin chúng ta đừng để tâm đến việc đau đớn của chính mình nữa, và phải chịu khó hơn nữa!” Hai tôi tớ của Chúa, một giảng một dịch trong cơn đau đớn của thân thể mình, thật đã biểu lộ được lòng trung kiên với Chúa.
Sau đó Tống Thượng Tiết ra miền Trung – Đà Nẵng. Mỗi lần Tống Thượng Tiết giảng người đến dự có khoảng 500. Có một người Tàu Quảng Đông lao xương đã nhiều năm, lặn lội từ rất xa đến để xin Mục sư cầu nguyện chữa bệnh. Tống Thượng Tiết bảo ông ta trước hết phải nghe Tin Lành và tin nhận Chúa Cứu Thế, từ bỏ hết mọi dục vọng, tội lỗi thì bệnh tật sẽ được chữa lành, không có gì khó khăn. Nhưng người này không hiểu được ngôn ngữ của Tống Thượng Tiết cũng như của người thông dịch, nên ông đành phải cho người này đọc tuyển tập bài giảng phấn hưng.
Đọc thì ông hiểu được, càng đọc càng khao khát nên ông vừa đọc vừa khóc lóc ăn năn, hội chúng cũng đồng lòng với ông ta nên đã cầu thay cho ông, vinh hiển của Đức Chúa Trời được bày tỏ: Bệnh lao xương của ông đã được Chúa chữa lành.
Lúc trở lại Hà Nội, người Pháp hết sức thuyết phục Tống Thượng Tiết ở lại tổ chức truyền giảng, nhưng ông đã có chương trình phải về Côn Minh ngày 18 tháng 6, nên không thể nán lại được.
Từ Hà Nội đi xe lửa về Côn Minh, trên chuyến xe lửa này phải chui qua 120 cái hầm, và hơn 10 chiếc cầu sắt bắc qua sông. Cuộc hành trình này khí hậu mát mẻ nên Tống Thượng Tiết không thấy mệt nhọc lắm. Tại Côn Minh trừ những người theo hệ phái Cơ đốc Phục Lâm và những “bầy nhỏ”, ngoài ra các hệ phái khác đều liên hiệp mời Tống Thượng Tiết giảng cho Đại hội 8 ngày. Những ngày đầu không hiểu vì cứng lòng hay bị mặc cảm xấu hổ mà không ai dám lên phía trước xưng nhận tội lỗi và cầu nguyện. Nhưng Tống Thượng Tiết vẫn kiên nhẫn chờ đợi Đức Thánh Linh làm việc và Ngài quả nhiên đã thực hiện quyền năng chữa lành cho hai người mù thấy được và hai người câm nói được. Sự kiện này đã làm náo động cả thành phố, cuối cùng những người thuộc “bầy nhỏ” cũng đến nghe Tống Thượng Tiết truyền giảng.
Sau chiến dịch này Tống Thượng Tiết đi qua thành phố Sở Hùng, phương tiện ông di chuyển là một chiếc xe vừa cũ vừa nát. Tại thành phố Sở Hùng Tống Thượng Tiết được nữ giáo sĩ Cầm Tố Trinh tiếp đãi rất nồng hậu, Cầm Tố Trinh tên thật là Kirnellia Morgan người Hoa Kỳ, nữ Giáo sư này đã từng dự trại hè bồi linh Thượng Hải, được Chúa Thánh Linh thăm viếng nên đã dâng mình đến Sở Hùng truyền giáo Phúc âm. Lúc bấy giờ dân chúng thành phố Sở Hùng chống đối Cơ đốc giáo mãnh liệt, họ tẩy chay nữ giáo sĩ này rất gắt gao, không ai cho cô ta mướn nhà để làm cơ sở truyền giáo. Cô mướn được một căn nhà hoang, người dân thành phố đồn rằng đây là một căn nhà ma. Đã thế người cho mướn lại không giao chìa khóa, nên cô đã phải ngủ ngoài sân mấy đêm. Sau tìm được một ổ chó nằm, cô Giáo sĩ này đã vào đó tìm được chốt cửa để vào dọn dẹp căn nhà hoang, một mình ở trong đó... Những hành động đó đã cảm hóa được dân thành phố Sở Hùng. Họ cảm nhận được tình yêu thương siêu việt của cô, chẳng bao lâu họ đã đổi thù thành bạn. Có hơn 100 người tin nhận Chúa, thành lập được 11 tổ cầu nguyện và truyền giảng, một Hội Thánh nhỏ và cửa đã mở để truyền giảng Phúc âm cho 7 huyện. Cô giáo sĩ này đã đơn thân độc mã thành lập Hội Thánh Bêtên tại miền Trung Vân Nam. Hội Thánh này không có liên hệ gì với Hội Thánh Bêtên tại Thượng Hải. Để hòa đồng với người Trung Hoa, cô giáo sĩ này đã trang phục như người Trung Hoa, ăn ở như người Trung Hoa... sống một đời sống kham khổ và khiêm nhường, chuyên tâm kính Chúa yêu người, thế mà cũng có người chỉ trích và chống đối kịch liệt. Người này vốn là một cộng sự viên với nữ giáo sĩ, vì lòng đố kỵ đã từ bỏ không hợp tác nữa, và rồi bị ma quỉ lợi dụng để thành lập một hệ phái lấy tên là Giê-xu để đối lập với người nữ giáo sĩ này, và cũng đã công kích phá hoại nhiều mặt, tìm mọi cách trục xuất người nữ giáo sĩ tận tụy này ra khỏi xứ...
Những buổi truyền giảng tại thành phố Sở Hùng rất nhiều người tham dự vui vẻ. Có hơn 100 đại diện ở các huyện lân cận đến dự. Giáo sĩ Hàng Ái Quang cũng đưa đến 17 người trong đó có một người bị bại liệt 11 năm đã được Chúa chữa lành. Người chị em thù địch với nữ Giáo sĩ Cầm Tố Trinh cũng có đến Đại hội với mục đích dò xét tình hình, nhưng người này mới bước vào nhà thờ đã được Đức Thánh Linh thăm viếng. Bà ta đã đứng dậy giữa hội chúng xưng nhận tội lỗi của mình và thú nhận rằng: “Trước kia những giáo lý của tôi phổ biến không phải là chân lý, tất cả những gì tôi làm đều do xác thịt xấu xa điều khiển. Đến bây giờ tôi mới nhìn biết Chúa Cứu Thế, tôi nhìn thấy con người xấu xa của tôi cũng nhờ Giáo sĩ Cẩm. Cô Giáo sĩ này đã không chấp nhất tôi, cũng không cư xử ngu xuẩn như tôi, nên con quỉ hận thù trong tôi đã bị xua đuổi ra ngoài và bây giờ tôi nhìn mọi người đều rất đáng yêu nhất là cô Giáo sĩ họ Cầm Tố Trinh.
Thành phố Sở Hùng ngày nào cũng mưa, con đường đất bị lở nên xe cộ đã bị ngưng đọng 6,7 ngày. Tống Thượng Tiết phải lên đường gấp để đến cho kịp giảng Đại hội tại thành phố Đại Lý, khai mạc vào ngày 10 tháng 6. Ông loay hoay tìm cách nhưng chưa kiếm ra phương tiện gì. Cảm ơn Chúa, trời đã ngưng mưa 1 ngày trước khi Đại hội Sở Hùng bế mạc. Ngày mồng 9 lúc 4 giờ sáng, Chúa bảo Tống Thượng Tiết hãy ra bến xe phía Đông thành phố, ông vâng lời. Quả nhiên có một chuyến xe chuẩn bị khởi hành, nhưng ông không được phép lên xe. Ông thầm nghĩ hay Chúa bảo mình đến đây để tiễn đưa một người nào khác? Vừa lúc ấy lại có một chuyến xe khác đến, nhưng lại là xe chuyên chở binh lính, thường dân không được lên. Nhưng ông vẫn cứ lên đại, người tài xế ra điều kiện nếu muốn đi phải trả 21 đồng thì có thể “du di” được!... Đến thành phố Trấn Nam mới biết rằng chuyến xe trước sợ bị nhà binh trưng dụng nên không dám khởi hành, chuyến xe sau có Tống Thượng Tiết tháp tùng là xe chở binh sĩ nên không ai dám chận xét gì. Sự sắp đặt của Chúa thật diệu kỳ! Kỳ diệu càng hơn nữa là khi ngang qua thành phố Sa Kiều là nơi cô Hàng Ái Hoa đang hầu việc Chúa. Quân đội muốn dùng nhà thờ để làm nơi đóng quân, nhưng vì có sự hiện diện của Tống Thượng Tiết, nên hình như ông là người bảo vệ cho cô Hàng. Chúa đã kêu gọi một thiếu nữ họ Hầu từ thành phố Côn Minh và hướng dẫn cô này đến Sở Hùng để làm quen với cô Hàng Ái Quang, chẳng bao lâu sau hai cô đã trở nên hai người bạn chí thân. Sau kỳ đại hội tại Sở Hùng, thiếu nữ họ Hầu này đã cùng với Hàng Ái Quang đến Sa Kiều để cùng nhau hầu việc Chúa. Trước đó ít ngày cô Hàng Ái Quang đã được Chúa khải thị cho biết rằng trong vòng ít ngày nữa Tống Thượng Tiết sẽ đi ngang qua đây nên cô đã chuẩn bị một căn phòng trên lầu cho ông đến có chỗ nghỉ ngơi. Tống Thượng Tiết quả đã đến nhưng đến với các quân nhân và cũng đi với các quân nhân, cô Hàng Ái Quang đã quen với những cuộc di quân như thế này, nhưng riêng cô Hầu thì rất lo âu. Tống Thượng Tiết đã hiệp chung với hai người nữ truyền đạo cầu nguyện và họ đã có được một đêm Chúa gìn giữ bình an. Ngày hôm sau Tống Thượng Tiết lại tiếp tục tháp tùng xe nhà binh, giống như người lính chiến đã nhận lệnh tiến quân ra tiền tuyến.
Xe chạy trên đường núi khúc khuỷu, gồ ghề nên bị trục trặc nhiều lần và cuối cùng phải dừng hẳn! Các chiến sĩ phải xuống xe và chuẩn bị đi bộ, nhưng còn Tống Thượng Tiết thì làm sao? Hơn 100 dặm đường dài còn lại, ông không thể theo kịp những người lính đầy sức lực trẻ trung này, chắc là ông sẽ bị rơi rớt lại và sẽ trở nên người khách độc hành giữa rừng núi hoang vu. Ông quyết định ở lại cùng người tài xế và khuyến khích anh ta tiếp tục sửa chữa chiếc xe, ông còn bảo đảm với anh ta là: “Chắc chắn lần này anh sẽ sửa được vì tôi đã cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời”. Quả nhiên một lúc sau chiếc xe đã nổ máy. Các binh lính tranh nhau lên xe. Người tài xế lại trách ông tại sao không cầu nguyện sớm hơn tý nữa! Khoảng 5 giờ chiều xe đến thành phố Hạ Quang cách Đại Lý khoảng 30 dặm. Nữ truyền đạo Trần Ngọc Linh đang truyền giáo tại Hạ Quang và đã gây dựng được một Hội Thánh hơn 70 tín hữu. Cô có ý mời Tống Thượng Tiết ở lại giảng bồi linh cho Hội Thánh này nhưng ông không thể chìu ý được nên đã bảo cô phái 10 người đến tham dự Đại hội ở Đại Lý. Tống Thượng Tiết dùng xe kéo tiếp tục cuộc hành trình. Lòng người dân thành phố Đại Lý rất cứng cỏi. Bao nhiêu nhà truyền đạo đã làm việc tại đó đã 60 năm mà chỉ có 2 người tin nhận Chúa! Một buổi sáng kia, ông đã triệu tập những tín hữu Trung Hoa cũng như những Giáo sĩ ngoại quốc đến cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện ông đã khóc lóc khẩn nài cùng Chúa và buổi truyền giảng hôm đó Chúa đã cho có 98 người tin nhận Chúa trong số đó có 18 người dâng mình hầu việc Chúa.
Tống Thượng Tiết tiếp tục đến các thành phố Hạ Quang rồi Sa Kiều, tháp tùng theo ông có khoảng 20 tín hữu. Còn khoảng 100 dặm nữa mới đến được thành phố Nhiêu An, mới đi được 10 dặm thì trời kéo mây đen mịt mù, đe dọa một trận mưa rất lớn! Ông liền cầu nguyện xin Chúa cho tạnh mưa, cho trời mát mẻ để tiếp tục thu ngắn đoạn đường xa. Trong lúc ấy nữ truyền đạo Cầm Tố Trinh cũng từ thành phố Diêm Pho đi đến Nhiêu An, cùng một con đường của đoàn người Tống Thượng Tiết nhưng ngược chiều... cô truyền đạo thấy phía xa vần vũ mây đen nặng chịu nên đã cầu xin Chúa cho gió đẩy mưa về phía cô để Tống Thượng Tiết cùng đoàn người tháp tùng được đi trong tạnh ráo! Khi đến Nhiêu An mọi người biết rằng Chúa đã nhận lời cho Tống Thượng Tiết đã không bị mưa ướt nên rất hớn hở, vui mừng như những đứa trẻ. Điều này khiến cho Tống Thượng Tiết được an ủi khích lệ nhiều.
Mưa rào đã trút xuống nên thành phố Nhiêu An đã ngập lụt, nhưng người đến dự đại hội vẫn rất đông đúc, cũng có nhiều người từ các huyện lân cận như Diêm Phong, Nhiêu Châu đến tham dự. Cộng sự viên ngày trước đã từng bắt bớ Giáo sĩ Cẩm nay cũng cùng chồng đến tham dự. Người chồng đã đứng giữa hội chúng làm chứng rằng, hồi trước ông ta đã có ý định giết Giáo sĩ Cẩm, bây giờ biết mình là người có tội và đã thật lòng ăn năn. Đôi bên không còn giận hờn và đã đổi oán trách ra thân yêu vì cùng là con cái của Chúa, cùng truyền bá Phúc âm, phát triển Hội Thánh Ngài. Mọi người nghe lời chứng ăn năn hối cải ấy mà được gây dựng, phục hưng.
Một nữ giáo sĩ khác tại thành phố Quảng Thông phục vụ Chúa bằng cách thiết lập vườn trẻ và thường đến các nhà tù để truyền bá Phúc âm. Cô đã gây dựng được một Hội Thánh được hơn 80 tín hữu. Cô đã tháp tùng với Tống Thượng Tiết từ Nhiêu An băng qua Trấn Nam, Sở Hùng đến Nhứt Bình Lãng. Cô cưỡi lừa để đi theo chiếc kiệu của Tống Thượng Tiết. Đến Trấn Nam không mướn được kiệu nữa, nên cô đã nhường lừa cho Tống Thượng Tiết cưỡi, còn mình thì đi bộ, tuy đoạn đường còn rất xa. Rất may là khi đến Sở Hùng lại mướn được kiệu...
Ra khỏi Nhứt Bình Lãng khoảng 10 dặm là thành phố Xã Tư, tại đây có một nữ Giáo sĩ mới ngoài 20 tuổi. Xã Tư là một thành phố gần như hoang vu, dân cư thưa thớt nghèo nàn, người nữ giáo sĩ trẻ này đã mướn một căn phòng thật là thô sơ, tồi tàn, tiền mướn mỗi năm là 40 đồng. Cô lại còn nuôi một đứa bé bị tật sứt môi. Mỗi tháng hai cô cháu chỉ 15 đồng bạc để chi dùng. Cuộc sống thật cam khổ chật vật. Trong phòng kê một chiếc giường gỗ, một chiếc bàn nhỏ ọp ẹp, ngoài ra không còn một vật gì!... Trong dịp Tống Thượng Tiết đi qua thành phố, người nữ Giáo sĩ trẻ đã ra tiễn đưa ông. Khi thấy hoàn cảnh của cô, Tống Thượng Tiết đã phải thốt lên: “Vân Nam đã được Thượng Đế hậu đãi, biết bao nhiêu thanh niên nam nữ Trung Hoa đã đến đây khai hóa và truyền bá Phúc âm. Nhất là cô Giáo sĩ ngoại quốc trẻ tuổi này. Cô ta đã bỏ quê hương, không quản ngại ngàn dặm xa xôi, đến nơi hẻo lánh này để chịu cô quạnh, gian khổ bần cùng đầy gian nan bắt bớ, cô ta quả là một của lễ sống đã tình nguyện chôn tuổi thanh xuân trong một nước xa lạ giữa một dân tộc xa lạ... Tống Thượng Tiết ơi, Tống Thượng Tiết ơi, hãy theo gương đó mà đừng phụ ơn Chúa!...”
Sau đó họ tiếp tục đến Côn Minh bằng xe hơi. Sáng ngày 4 tháng 8 rời Côn Minh, băng qua Việt Nam hướng lên Hồng Kông mà về Thượng Hải. Chương trình hoạch định là 5 giờ sáng đến Hà Nội, 11 giờ đến Hải Phòng, 12 giờ xuống tàu thủy hướng về miền Đông rồi quay về hướng Bắc mà về Trung Quốc. Nhưng xe lửa đến Việt Nam đã bị trễ 51 phút, nên chắc chắn là không thể kịp chuyến xe lửa Hà Nội – Hải Phòng. Tống Thượng Tiết rất nóng lòng, nên đã cầu nguyện xin Chúa giữ chuyến xe Hà Nội – Hải Phòng lại. Quả nhiên Chúa đã nhậm lời, Tống Thượng Tiết vừa đến Hà Nội đã vội vã lên tàu, vừa đặt chân lên được toa xe là tàu chuyển bánh, Tống Thượng Tiết sửng sốt đến bàng hoàng, một giây lâu sau mới hoàn hồn, trở về thực tại, và đi tìm chỗ ngồi.
CHƯƠNG 47
THÁI LAN, TÂN-GIA-BA VÀ MÃ-LAI
(HẠ BÁN NIÊN 1938)
(HẠ BÁN NIÊN 1938)
Mùa hè oi bức của 1938 vừa qua, Tống Thượng Tiết đã nhận lời mời đến Thái Lan. Tàu vừa cặp bến Bangkok giáo sĩ Margaret Mecor của hệ phái Trưởng lão Hoa Kỳ cùng một số đại diện tín hữu Trung Hoa đã lên tàu đón mừng Tống Thượng Tiết. Chỉ mới nhìn thấy Tiến sĩ Tống Thượng Tiết với mái tóc úp ngang ướt trán, họ đã thấy lòng vui thỏa. Đại hội phấn hưng dự trù tổ chức tại Hội Thánh Tâm Liên, Bangkok. Mỗi ngày có 3 buổi thuyết giảng, liên tục trong 7 ngày. Buổi sáng và buổi chiều giảng bồi linh cho tín hữu, những tín đồ người Trung Hoa tham dự nhiệt thành. Những Giáo sĩ ngoại quốc cũng có tham dự, nhưng nghe đồn rằng Tống Thượng Tiết thuộc phái “cảm xúc”, nên họ cũng rất dè dặt. Nhưng vào nghe Tống Thượng Tiết giảng, thấy toàn là những giáo lý thuần chính nên họ đã có thái độ cởi mở để tiếp nhận những chân lý trong sứ điệp của ông. Ban đêm dành cho truyền giảng, người Hoa và người Thái Lan đến dự nghe ngày càng đông. Tống Thượng Tiết giảng bằng Anh ngữ và được dịch ra Thái ngữ và Hoa ngữ (Triều Châu). Trong một đêm truyền giảng, Tống Thượng Tiết đã dùng Lu-ca đoạn 9, truyện người thâu thuế Xachê. Ông kêu gọi mọi người noi gương Xachê: xưng nhận tội lỗi của mình và khi đã được Chúa tha thứ thì lấy tài sản mình bù đắp cho những kẻ nghèo khó.
Ông cũng dùng ví dụ này để làm sáng tỏ vấn đề: “Có một bà góa nọ, có một con trai độc nhất, nên rất yêu quí và nuông chiều. Cậu này biết là mẹ rất yêu thương mình, không bao giờ quở phạt, nên đã bắt chước bạn xấu làm chuyện xằng bậy: Cậu ăn cắp tiền của mẹ để rượu chè, cờ bạc. Mẹ hết tiền cậu quay ra trộm cắp. Bị bắt, đưa ra tòa bị phạt vạ đến 500 đồng. Người mẹ vẫn một lòng thương con, muốn chuộc con nhưng không sao có đủ 500 đồng. Nhưng bà vẫn không tuyệt vọng, đã đi làm thuê gánh đá mướn mỗi ngày chỉ được 100... đồng xu. Bà tính là tích lũy dần trong vài ba năm nữa thì sẽ đủ tiền để chuộc đứa con yêu dấu của mình ra khỏi vòng tù tội. Vì tình yêu con thúc đẩy nên bà cứ làm, không quản ngại nhọc nhằn. Một hôm chẳng may bà bị sẩy chân vấp ngã rất nặng đến phải gãy tay và ngất xỉu tại công trường. Người chủ thấy được đã cứu sống bà và hỏi han bà, tại sao bà đã lớn tuổi mà còn phải làm việc lao khổ như vậy. Bà cụ bèn đem tất cả sự thật trình cho chủ nghe... Rồi kết luận nhưng hôm nay tôi bị rủi ro như thế này, làm sao còn có thể làm nữa để tích lũy đủ số tiền 500 đồng để chuộc con tôi?” Nói xong nước mắt bà cụ cũng tuôn trào theo với nỗi lòng quặn thắt. Người chủ thấy hoàn cảnh đáng thương của bà cụ nên đã tặng cho 500 đồng để đóng tiền phạt cho con. Khi con ra khỏi tù, bà cụ đã nói cùng con: “Con ơi, Con hãy nhìn cánh tay gãy của mẹ. Mẹ đã gãy cánh tay này để đổi lấy sự tự do cho con, con có còn muốn đi rượu chè, cờ bạc nữa chăng?” Cậu con đã biết ăn năn hối hận khóc sướt mướt vì tình yêu trời biển của mẹ đối với mình. Về sau những bạn bè xấu vẫn tiếp tục quyến rũ cậu vào con đường tội lỗi, nhưng cậu một mực từ chối, vì làm theo lời bạn bè và tánh ích kỷ của mình thì là bất hiếu với mẹ vô cùng!”
Ông cũng dùng ví dụ này để làm sáng tỏ vấn đề: “Có một bà góa nọ, có một con trai độc nhất, nên rất yêu quí và nuông chiều. Cậu này biết là mẹ rất yêu thương mình, không bao giờ quở phạt, nên đã bắt chước bạn xấu làm chuyện xằng bậy: Cậu ăn cắp tiền của mẹ để rượu chè, cờ bạc. Mẹ hết tiền cậu quay ra trộm cắp. Bị bắt, đưa ra tòa bị phạt vạ đến 500 đồng. Người mẹ vẫn một lòng thương con, muốn chuộc con nhưng không sao có đủ 500 đồng. Nhưng bà vẫn không tuyệt vọng, đã đi làm thuê gánh đá mướn mỗi ngày chỉ được 100... đồng xu. Bà tính là tích lũy dần trong vài ba năm nữa thì sẽ đủ tiền để chuộc đứa con yêu dấu của mình ra khỏi vòng tù tội. Vì tình yêu con thúc đẩy nên bà cứ làm, không quản ngại nhọc nhằn. Một hôm chẳng may bà bị sẩy chân vấp ngã rất nặng đến phải gãy tay và ngất xỉu tại công trường. Người chủ thấy được đã cứu sống bà và hỏi han bà, tại sao bà đã lớn tuổi mà còn phải làm việc lao khổ như vậy. Bà cụ bèn đem tất cả sự thật trình cho chủ nghe... Rồi kết luận nhưng hôm nay tôi bị rủi ro như thế này, làm sao còn có thể làm nữa để tích lũy đủ số tiền 500 đồng để chuộc con tôi?” Nói xong nước mắt bà cụ cũng tuôn trào theo với nỗi lòng quặn thắt. Người chủ thấy hoàn cảnh đáng thương của bà cụ nên đã tặng cho 500 đồng để đóng tiền phạt cho con. Khi con ra khỏi tù, bà cụ đã nói cùng con: “Con ơi, Con hãy nhìn cánh tay gãy của mẹ. Mẹ đã gãy cánh tay này để đổi lấy sự tự do cho con, con có còn muốn đi rượu chè, cờ bạc nữa chăng?” Cậu con đã biết ăn năn hối hận khóc sướt mướt vì tình yêu trời biển của mẹ đối với mình. Về sau những bạn bè xấu vẫn tiếp tục quyến rũ cậu vào con đường tội lỗi, nhưng cậu một mực từ chối, vì làm theo lời bạn bè và tánh ích kỷ của mình thì là bất hiếu với mẹ vô cùng!”
Kể xong câu chuyện, Tống Thượng Tiết nhắn nhủ với thính giả rằng: “Anh chị em thân mến, Chúa Giê-xu yêu quí vị cho đến nỗi đã vì tội lỗi của quí vị mà đã giáng thế làm người. Thậm chí bỏ mình vì quí vị trên cây thập tự để cứu chuộc tội lỗi của quí vị. Chúa nhân từ đã vì quí vị mà chịu nhục hình quá lớn, lẽ nào quí vị không noi gương Xachê quyết tâm từ bỏ tội lỗi của mình, để trở nên một con người mới sinh lại? Mong quí vị hãy noi gương Xachê, xưng nhận mọi tội lỗi của mình, không những chỉ làm một người được Chúa cứu mà còn là một người biết thương yêu người khác”. Trong số thính giả đang nghe Tống Thượng Tiết có một số người trước kia đã từng được nghe ông giảng tại Xoa Thô. Họ đều công nhận rằng sự giảng của Tống Thượng Tiết bây giờ sâu nhiệm hơn, lý luận vững chãi hơn... Kết quả chiến dịch truyền giảng này có hơn 700 người hối cải và tin nhận Chúa Cứu Thế trong số đó có 10 người dâng mình đi hầu việc Chúa. Sau chiến dịch, ông đã thành lập được 30 tổ chức truyền giáo, những đoàn viên của Đoàn Truyền Giáo đã nguyện ước rằng, mỗi tuần ít nhất phải đi truyền bá Phúc âm một lần, mỗi tháng tổ chức trại mộ lần để những đoàn viên được bồi dưỡng tâm linh và trao đổi kinh nghiệm. Theo tường trình của giáo sĩ Mecor thì tín hữu Hoa Kiều tại Thái Lan được phấn hưng mạnh mẽ, điều này nữ giáo sĩ này chưa từng chứng kiến, và đây cũng là kết quả do sự cầu nguyện của chính họ trong suốt 30 năm qua. Sau Bangkok, Tống Thượng Tiết đến Nakhum Batom truyền giảng trong 7 ngày, rồi từ đó qua Tân-gia-ba...
... Đến Tân-gia-ba, Tống Thượng Tiết dùng nhà thờ Hội Siôn là địa điểm cho hội đồng bồi linh 10 ngày cho toàn thể tín hữu trong vùng Đông Nam Á. Người đến tham dự vô cùng đông đúc và người giảng dạy đầy quyền năng của Đức Thánh Linh... Sau chiến dịch bồi linh và truyền giảng đã thành lập được 51 đội truyền giáo. Cộng với những đội đã thành lập trước, tổng số là 183 đội. Đoàn truyền giáo Tân-gia-ba đã thành lập năm 1935 bây giờ càng vững mạnh hơn. Các người chị em như Ngô Tĩnh Linh, Hoàng Bích Loan... đã cổ động tài chánh để xây dựng một tu viện gọi là Học viện Kim Luyện Linh (đã thành lập ngày 14/5/1937), và có một nền tảng giáo lý vững vàng. Tống Thượng Tiết chứng kiến những công trình này cũng như những thành quả Chúa ban cho ông, những con cái Chúa đã phục vụ hết mình, và hết lòng kính yêu Chúa nên ông rất được khích lệ và yên ủi. Tống Thượng Tiết càng thấy lời của Gamalio là chân lý: “Điều gì đến từ Đức Chúa Trời thì không bao giờ bị hủy diệt”. Ngày 13/11 Tống Thượng Tiết đã dùng Khải Huyền chương 3:7-11 làm nền tảng giảng dạy: “Philađenphi chẳng những là một Hội Thánh thánh khiết mà còn nắm giữ chìa khóa của vua Đavít, nếu đã mở thì không ai đóng được và đã đóng thì không mở được vì Chúa biết được việc làm của họ, họ có sức mạnh là tuân theo chân lý của Chúa, họ đã không rời bỏ danh của Thượng Đế trên họ nên Chúa đã mở rộng cửa truyền giáo và khi đã mở rồi thì không ai đóng lại được. Trên bước đường tôi đi truyền giáo, khi đến thành phố Tây An thuộc Thiểm Tây đã thấy một mộ bia của một giáo sĩ Cảnh Giáo (Nestorian) hơn 1.000. Cảnh giáo là một tà phái Cơ đốc giáo. Tuy Cảnh Giáo đã đến Trung Quốc trong một thời gian, nhưng chẳng bao lâu sau đã vắng bóng, cửa đã đóng thì không ai mở được. Tôi hằng ngày vác thập tự gái đi trên đường hẹp để truyền bá Phúc âm, nhưng Đức Chúa Trời đã mở cánh cửa cho tôi chẳng những tại nội địa Trung Quốc mà còn cả Đài Loan, và toàn vùng Đông Nam Á. Cánh cửa của Chúa đã mở thì càng ngày càng rộng. Các anh chị em thân mến, nếu anh chị em chịu gánh vác thập tự giá của Đức Chúa Trời, chắc chắn Ngài sẽ mở cửa truyền giáo cho chúng ta. Có một người đã hỏi tôi “khi đi truyền giáo ông có một chiêu bài nào không?” Tôi trả lời “Tôi không có một bí quyết nào, tôi chỉ rao truyền chân lý của Thập tự mà thôi! Trước ngày đại hội tại Phước Châu có một vị tiến sĩ trước tôi đã giảng cho đại hội. Các Hội Thánh đã chuẩn bị cho ông thật chu đáo, giới thiệu về ông rất nhiều, trường học cũng cho học sinh nghỉ để đến dự nghe. Nhưng khi tôi đến không mấy ai lưu tâm, trường học vẫn sinh hoạt bình thường... do đó số người đến tham dự rất thưa thớt! Tôi không giảng một điều gì khác hơn là Thập tự giá của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Có người đã nói cùng tôi rằng: “Ông là một Tiến sĩ khoa học, tại sao không nói gì về khoa học mà chỉ toàn bàn đến thiên đàng địa ngục?” Tôi trả lời: “Khoa học tôi đã quên cả rồi, Đức Chúa Trời đã cất nó lìa khỏi tôi, nên bây giờ tôi chỉ nói về thập tự giá!” Mặc dù đề tài đó không quyến rũ con người, nhưng Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã hành động nên số người nghe ngày càng đông, học sinh tuy không được nghỉ nhưng cũng tự động đến tham dự. Trời mưa suốt thời gian chiến dịch, nhưng đêm nào nhà thờ cũng không còn một chỗ trống. Sau chiến dịch đó có hơn 100 người đã cùng tôi lên Thượng Hải để được huấn luyện thêm, hầu sẽ đi ra hầu việc Chúa. Chúa đã mở thì không ai đóng lại được. Tôi xin đang cử một thí dụ điển hình về tấm lòng thuận phục Chúa và vì danh vinh hiển của Ngài mà phục vụ. Có một người anh em, vốn rất thích ăn ngon mặc đẹp... nhưng sau khi được Chúa thăm viếng, đã tình nguyện dâng hiến cả cuộc đời mình, lên tận Mông Cổ để truyền bá Phúc âm. Ông ta đã sống một cuộc sống kham khổ, ban đêm màn trời chiếu đất, ban ngày truyền chân lý của Chúa Cứu Thế. Ông đã sống và ăn mặc như người Mông Cổ. Đã lâu ngày không được cạo mặt nên râu ria ra xồm xoàm, giống hệt như người Mông Cổ. Nếu ông không tự giới thiệu thì tôi đã không thể nào nhìn ra con người “ngày xưa” của ông.
Hôm sau là ngày 14, Tống Thượng Tiết đã dùng II Côrinhtô, đoạn 15:14 để làm chứng chính ông đã dâng cuộc đời mình là vì tình yêu của Chúa, ông không còn sống cho chính mình nữa. Tống Thượng Tiết nhận thấy số thính giả phái nữ nhiều hơn phái nam rất nhiều nên đã dùng chuyện tích của bà Liđi để khích lệ hội chúng, ngày Chúa đến sẽ thấy nhiều bà Liđi người Trung Hoa!”
Rời Tân-gia-ba, Tống Thượng Tiết đã đến Kua-la-lum-pur, Y-pộ, Taijing, đảo Pinang... Rất nhiều người được nghe Tống Thượng Tiết giảng Phúc Âm mà tin nhận Chúa. Cũng có nhiều người chỉ mang danh Cơ đốc nhân cũng đã được làm mới lại một thần linh ngay thẳng. Nhiều Hội Thánh và các đoàn truyền giáo đã được thành lập tại những nơi Tống Thượng Tiết đi ngang qua truyền giáo.
Vì quá lao lực, cũng như lao tâm nên sức khỏe của Tống Thượng Tiết ngày càng suy yếu: bệnh tim bộc phát, lưng đau nhức, và liên tục bị bịnh cảm cúm hành hạ, nhưng ông đã không tiếc thân thể của mình, vẫn tiếp tục đi hết nơi này đến nơi khác, giảng dạy Đại hội này qua Đại hội khác, mỗi ngày giảng ba bốn bài là chuyện bình thường của ông. Đàm đạo cá nhân với những người đến thăm viếng, rất ít thì giờ ngơi nghỉ. Có một hôm nhận lời giảng tại Penang, nhưng phải nhờ người khác dùng ghế bố khiêng lên tòa giảng. Khi giảng ông chỉ nói đủ cho người thông dịch nghe và người này đã lớn tiếng thông dịch lại cho cả hội chúng. Lần giảng dạy này, Tống Thượng Tiết như đã kể lại “cuộc hành trình” của ông đã đi và giảng dạy tại các nơi khác...” Bây giờ tôi cảm thấy đã yếu mòn và mỏi mệt. Những ngày tôi xông xáo, lớn tiếng khi giảng dạy, nhảy lên nhảy xuống tòa giảng... ngày ấy thật sự đã xa rồi!... Ước nguyện của tôi là được về với Chúa tại trên bục giảng đang lúc truyền bá Phúc âm của Chúa Cứu Thế.
Cuối năm 1938, Tống Thượng Tiết về Thượng Hải, nghỉ ngơi một thời gian ngắn tại nhà riêng, sống những giây phút hạnh phút ngắn ngủi với gia đình. Tuy thời gian rất ngắn nhưng ông cũng hồi phục được phần nào sức khỏe.
CHƯƠNG 48
LẦN ĐẦU TIÊN ĐẾN JAVA (MÙA XUÂN 1939)
Sau khi được tịnh dưỡng nghỉ ngơi đôi chút tại nhà. Tống Thượng Tiết tuy không còn tráng kiện như xưa, nhưng sức khỏe cũng phần nào hồi phục, nên lại bắt đâu đi ra làm việc. Lúc ấy quân đội Nhật đã chiếm đóng phía Đông Trung Quốc. Trong những vùng bị địch chiếm đóng, quân đội Nhật rất hạn chế việc truyền giảng Phúc âm. Từ những khu đã bị chiếm màm đi vào những khu tự do, không phải là không thể được, nhưng vô cùng khó khăn, nên Đông Nam Á là vùng còn có thể đến để truyền giảng dễ dàng mà thôi. Những thành phố của vùng này người Hoa cư ngụ rất đông. Chỉ những phần đất thuộc địa của Hòa Lan là Tống Thượng Tiết chưa đến. Hội Thánh Huê kiều tại Nam Dương có thư mời Tống Thượng Tiết và ông thấy đây cũng là lúc thuận tiện để đáp lời mời ấy.
Tháng Giêng năm 1938 Tống Thượng Tiết đến thành phố Surabagia, phía đông đảo Java. Tín hữu Cơ đốc người Hoa cũng như nhiều thân hữu đã tranh nhau đến nghe người mà họ hằng ngưỡng vọng, truyền giảng Phúc âm. Người Hoa cư ngụ tại đây dùng nhiều ngôn ngữ khác nhau nên cuộc truyền giảng đã phải nhờ đến hai người phiên dịch: Tiếng Hạ Môn và tiếng Mã Lai. Ngày đầu ông đã dùng ngụ ngôn “con trai hoang đàng” trong Lu-ca đoạn 15 để truyền giảng. Trước khi giảng, ông đã hướng dẫn hội chúng hát Thánh Ca. Những đoản ca do ông tự biên soạn như “Hãy về nhà Cha”. Hội chúng thuộc lòng rất nhanh. Sau khi hát, ông mời mọi người cứ tự nhiên lớn tiếng cầu nguyện, nhưng họ chưa quen với lối cầu nguyện như vậy nên rất ít người hưởng ứng. Ông phải yêu cầu hội chúng cầu nguyện theo ông. Ông cầu nguyện một câu thì hội chúng lặp lại câu đó. Cả hội chúng cầu nguyện xong, Tống Thượng Tiết bắt đầu giảng. Nhiều người đã từng được nghe Tống Thượng Tiết, tưởng rằng sẽ phải nghe lại câu chuyện “người con trai hoang đàng” mà họ đã quen thuộc. Nhưng họ nhận ra rằng ông rất thích dùng đề tài này khi truyền giảng, nhưng mỗi một lần đều có nội dung mới, quyền năng mới. Mỗi lần giảng thì như cặn kẽ hơn, khúc chiết hơn. Lần này ông đã nhấn mạnh đến tấm lòng đứa con hoang đàng lưu luyến thế gian. Người lãnh tử chìm đắm trong tội ác, tiêu sạch hết phần gia tài của mình thừa hưởng, không còn chừa lại một chút gì. Hoang phí bao nhiều tiền của, nhưng phần tinh thần không còn lại được gì, quả đúng như một câu châm ngôn đã dạy: “Khoái lạc là cội nguồn của khổ đau”. Tiền bạc đi ra thì liền tiếp theo là đói khổ! Từ địa vị con của một đại điền chủ giàu có, trở thành một gã chăn heo. Tệ hại hơn nữa là ăn không đủ no nên đành phải lấy vỏ đậu là thức ăn của heo mà ăn. Khi đã ăn đồ ăn của heo là tự hạ mình xuống cấp của loài heo! Lầy của thừa hưởng ra đi là chấm dứt tình nghĩa cha con. Thế rồi dâng hiến những gì thừa hưởng để mua lấy những giây phút lạc thú, hậu quả là đó, lạnh, cơ cực và trở nên loài... heo! Yêu thế gian đến mức độ ấy quả là khó có xưa nay. Nếu quí vị lấy hết cái mức độ yêu thế gian đó mà yêu Thượng Đế thì thật là vô cùng tốt lành. Nhưng con người khi yêu Thượng Đế lại yêu với thái độ cầm chừng. Thật đáng thương thay! Người lãng tử trong ngụ ngôn khi tiền tài đã hết, thì bao nhiêu gái đẹp, bạn thân, rượu ngon, lạc thú đua nhau ra đi... Khoái lạc đã tan theo mây khói. Đi tìm lạc thú ở đời như ban đêm đi vớt mặt trăng dưới lòng sông, sáng ngày bẻ bàng đi về với hai bàn tay trắng, thân xác rã rời, mệt mỏi... Giảng xong, Tống Thượng Tiết mời những ai muốn tin nhận Chúa Cứu Thế xin đưa tay lên, ban đầu hội chúng còn dè giữ, chỉ vài cánh tay đưa lên, nhưng càng về sau người tin nhận càng nhiều, phía trước tòa giảng là một rừng người với cánh tay đã đưa cao. Tống Thượng Tiết mời những người đã đưa tay, quỳ gối xuống để cầu nguyện và xưng nhận tội lỗi của mình, và sau đó ông mời tất cả mọi người đã xưng nhận đức tin phải trung tín đến dự nhóm những buổi còn lại vì Tống Thượng Tiết đã có dự định giảng 22 bài thâu gọn toàn bộ Phúc âm nếu vắng mặt một buổi coi như không nhận lãnh được toàn bộ ân phúc mà Thượng Đế muốn ban cho. Những người Trung Hoa cho Tống Thượng Tiết biết rằng buổi chiều và tối thì thuận tiện cho việc học giáo lý hơn buổi sáng thì ít ai có thể dự được vì còn phải đi làm việc. Nhưng Tống Thượng Tiết vẫn giữ nguyên ý định là phải giảng dạy tất cả giáo lý đã soạn trong vòng một tuần lễ, và Lời Chúa phải được giảng dạy đầy đủ. Nhiều người Trung Hoa đã chiều theo quyết định của Tống Thượng Tiết là không mở tiệm buôn bán buổi sáng còn hơn bỏ những buổi học lời Chúa quý báu, không thể có dịp tiện thứ hai. Bài giảng thứ hai của Tống Thượng Tiết là “Quyền năng của huyết Đấng Cứu Thế”. Ông đã xác nhận sự kiện Chúa Cứu Thế Giê-xu đã bị đóng đinh trên thập tự là một sự thật. Bài giảng sống động và sâu nhiệm. Cả hội chúng đã yên phăng phắc, một cây kim rời xuống cũng có thể nghe thấy. Cả hội chúng chẳng những được nghe về vấn đề Thượng Đế đã chết cho loài người mà còn hình dung được hành động của Chúa Cứu Thế vì tội lỗi của họ mà chịu hình phạt và chịu chết. Tiếp đến ông giảng về nguồn nước sống, thiên đàng, địa ngục, một đời sống bằng đức tin, hối cải, tái sanh, dâng mình hầu việc Chúa, Chúa Cứu Thế tái lâm... Cả hội chúng đều cảm nhận rằng mỗi bài giảng là một bài học sống động, gây ấn tượng sâu sắc và không thể nào phai mờ trong trí nhớ, nhất là khi ông giảng về tình yêu thương của Thượng Đế trong I Côrinhtô, đoạn 13, và ông lồng vào sơ lược về tiểu sử của chính mình. Ông đã nói lên một con người tự cao tự đại, khoe mình, trái ngược hẳn với bản tính khiêm nhường, yên lặng của Chúa. Một con người thể ấy đồng liệt với kẻ có tội, quả thật con người là hư vong, đáng bị đóng đinh, chết trên cây thập tự và không thể có một lời nào tự biện hộ cho mình... Nhưng vì lòng nhân ái của Thượng Đế, Ngài đã bằng lòng chết trên cây thập tự vì chúng ta. Lời của Thượng Đế đã được giãi bày cách tự do và là ánh sáng soi dọi cho chúng ta nhìn thấy được vi phạm cũng như tội lỗi của mình, đồng thời Lời Chúa cũng có năng quyền ban cho người nghe năng lực để có can đảm xưng nhận tội lỗi và muốn gội rửa những xấu xa tội lỗi của mình.
Sau mỗi buổi truyền giảng Tống Thượng Tiết đều dành thì giờ và cơ hội cho những người muốn đầu phục Chúa có dịp để xưng nhận tội lỗi của mình. Ông cũng nhận lời đặt tay cầu nguyện cho những người khao khát quyền năng và ân tứ của Chúa Thánh Linh.
Một nữ giáo sĩ người Hòa Lan, Cô Conerly Bobe đã thuật lại không khí sung mãn cũng như nhiệt tình của hội chúng trong nhà thờ dâng trào như ba đào tràn tuôn, cô nói tiếp những làn sóng lớn mạnh mẽ đó phải được duy trì để mở mang nước Chúa trên đất này. Trên 30 tổ truyền bá Phúc âm “tam tam” đã được thành lập. Những tổ viên tay cầm cờ thập tự đi đến trường học, bệnh viện, vào các hang cùng ngõ hẻm để rao giảng Phúc âm của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Đó là những tổ truyền giáo đầu tiên đã được thành lập trên đảo Java. Tống Thượng Tiết thành lập xong các tổ của các địa phương trên toàn đảo sau đó ông mở lớp huấn luyện trong 10 ngày. Số tổ viên truyền giáo rất đông nên không thể tổ chức huấn luyện trong nhà thờ được mà phải dựng thêm những trại lớn.
Trước khi rời thành phố, một buổi sáng Tống Thượng Tiết được thúc giục triệu tập một buổi nhóm cầu nguyện đặc biệt cho những người bị bịnh. Những người tham dự buổi nhóm này phải được Mục sư quản nhiệm chứng nhận là đã từng dự nghe giảng trên ba ngày, hôm ấy những người bịnh đến dự chiếm đa số. Tống Thượng Tiết dùng thư Giacơ 5:14-16, và giải thích cho thính giả biết rằng Đấng có quyền chữa bệnh là Chúa chứ không phải là dầu cũng chẳng phải là người xức dầu. Người xức dầu cũng chỉ là một tôi tớ của Chúa mà thôi. Sau bài giảng, những người bệnh nối tiếp nhau đi lên. Ông đã nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-xu xức dầu cho họ, và ra lệnh cho bệnh tật phải rời khỏi họ. Những người được Chúa chữa lành chiều hôm ấy đều đến dự nhóm, trong số ấy có bạn đồng hương của nữ giáo sĩ Bobe. Bệnh của cô này rất nguy kịch, nhưng sau khi xức dầu, cầu nguyện con bịnh đã lìa khỏi cô. Về sau cô ấy đã trở thành một sứ giả rất đắc lực cho Phúc âm. Tất cả những người tham dự nghe Tống Thượng Tiết giảng tại Java, thấy ông rất mệt nhọc cũng như tình yêu linh hồn đồng bào và đồng loại, đã cảm hóa mọi người, một tình cảm sâu sắc giữa diễn giả và thính giả. Một ràng buộc ruột thịt phát sinh, ông như người cha đã sanh họ ra trong Chúa Thánh Linh, họ nhìn thấy tình yêu thương ấy phát xuất từ đáy lòng của ông.
Sau khi chia tay cùng Tống Thượng Tiết, những con người đã dâng mình cho Chúa đã quyết tâm sống theo mẫu mực của Ngài. Lòng họ tràn ngập niềm vui và phước hạnh từ Đức Thánh Linh. Đó là một cuộc sống tâm linh mà họ chưa từng nếm trải. Tiếp theo Tống Thượng Tiết đã đến Patlagongan, Cemaran và Bandong thuộc miền trung đảo Java cũng như những nơi khác. Những hạt giống Phúc âm được gieo ra và gặt hái những thành quả thuộc linh cho Chúa thì giấy mực không tả hết được.
Trung tuần tháng hai, Tống Thượng Tiết đến thủ đô Patavia của East India (Ấn Độ) một thuộc địa của thực dân Hòa Lan, tức là Jacarta ngày nay. Địa điểm truyền giảng là một nhà thờ rộng lớn của người Bồ Đào Nha. Mỗi tối có hơn 2.000 người đến dự thính, đó là những buổi truyền giảng lớn chưa từng có ở Pattavia. Nội dung những buổi truyền giảng không khác bao nhiêu với những buổi truyền giảng đầy ơn và được Chúa ban phước trước đây. Nhưng có một điều đáng ghi nhớ là trong số thính giả có một người đã thắc mắc về sự sống lại của thân thể: “Thưa ông, sau khi con người chết thì rữa nát, hư thối thì làm sao có thể sống lại được?” Tống Thượng Tiết đã trả lời rằng: “Bây giờ chúng ta đã đi vào phạm vi khoa học thì tôi xin được mạn phép nói về khoa học. Ông bèn giảng dạy lại môn hóa học, là môn học sở trường của ông, nhưng từ khi rời khỏi phòng thí nghiệm của trường học, ông chưa bao giờ nói đến nó! Tống Thượng Tiết đã dùng một ly nước lạnh và một khối nhỏ phèn chua. Ông bỏ miếng phèn vào ly nước, khuấy đều, miếng phèn tan hết trong nước. Để chiếc ly lên lửa, nước bốc hơi và khối phèn trở lại hình dạnh cũ nhưng trong và đẹp hơn trước kia nhiều. Người tín đồ Cơ đốc sau khi chết một thời gian có thể rữa mục nhưng khi tiếng kèn trổi lên báo hiệu ngày Chúa trở lại họ sẽ sống lại giống y như nước phèn đã tan trong nước chỉ cần bốc hơi nước là kết tụ lại thành phèn nguyên chất. Con người còn có thể làm cho vật chất tan rã rồi kết tụ lại, huống chi là Thượng Đế. Chính là Đấng đã tạo dựng nên cõi càn khôn vũ trụ từ hư vô, chẳng nhẽ Ngài bất lực không làm cho con người đã rữa nát có thể sống lại hay sao?” Kết quả cuộc truyền giảng tại Pattavia có chừng 450 người tin nhận Chúa. Tổ chức được 46 lớp học Thánh Kinh, những bệnh nhân có đức tin đã được chữa lành rất nhiều. Buổi truyền giảng bế mạc đặc biệt dành để cầu nguyện chữa bệnh. Nhưng người đến tham dự trên 1.000. Có một bé gái người Hòa Lan có một thân thể quá mập, đôi chân lại yếu không thể bước đi được. Có 2 người đàn ông (mà một là Mục sư) đã khiêng cô bé này đến hội trường trước rồi bỏ đi về. Cả hội chúng ngạc nhiên và lo rằng cô bé này nếu không được chữa lành thì ai sẽ khiêng về? Sau khi được Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện, như thường lệ, ông bảo bệnh nhân hãy đi về, vì người quá đông, không thể cứ đứng đó được. Cô bé này cũng như mọi người khác đã được chữa lành đứng lên và tự bước đi một mình về nhà.
Hạ tuần tháng 3, vòng truyền giáo tại Java kết thúc và Tống Thượng Tiết trở về Thượng Hải.
CHƯƠNG 49
TRỞ LẠI THÁI LAN (MÙA HÈ 1939)
Công cuộc truyền giáo mùa hè năm ngoái tại Thái Lan đã để lại thành quả tốt đẹp giữa vòng người Hoa Kiều cũng như người Thái. Những người đã được Chúa thăm viếng rất nhớ Tống Thượng Tiết và đã có rất nhiều thư nhắc nhở ông sớm thực hiện lời hứa trở lại Thái Lan một lần nữa.
Ngày 18/5/1939, Tống Thượng Tiết từ Thượng Hải đến Tân-gia-ba dự lễ mãn khóa đầu tiên của Kim Liên Linh tu viện. Ông ban huấn từ cho các sinh viên tốt nghiệp. Sau đó tổ chức ngay hai ngày truyền giảng đặc biệt nói chuyện với các đoàn viên trong Đoàn Truyền Giáo Phúc âm.
Sau đó ông sang Thái Lan, đến Bangkok ngày 25 tháng 5. Mục sư giáo sĩ Maccord của hệ phái Trưởng lão đã tiếp đón và mời Tống Thượng Tiết về nhà cùng với Mục sư Thái Lan Bulmatchittesan. Trong những bài giảng của lần viếng thăm này Tống Thượng Tiết đã dựa vào Phúc âm Mác để làm nền tảng chiều dọc và những kinh nghiệm bản thân làm nền tảng cho sự dạy dỗ chiều ngang. Ví dụ như khi giảng bài thứ nhất ông đã dùng đề mục “Báptem của Đức Thánh Linh”, ông lấy hình ảnh Giăng Báp-tít mặc áo bằng da lạc đà để nói lên tâm tình của Giăng, tự coi mình như một con lạc đà. Ông tiếp: lạc đà là một phương tiện chuyên chở rất hữu dụng trong sa mạc, lạc đà mỗi buổi sáng đã quỳ trước mặt chủ để mang tất cả những hành trang nặng nề. Cũng một thể ấy, chúng tôi làm việc cho Đức Chúa Trời cũng phải dậy thật sớm đến trước mặt Chúa nhận lãnh tất cả những ý chỉ của Ngài để vác và gánh sứ mạng đi cho hết đoạn đường của ngày ấy. Mỗi buổi sáng tôi cũng đến cùng Chúa, xin Chúa cho biết những việc đáng phải làm, những lời đáng phải nói, không dám sai lệch những ý chỉ của Ngài. Tôi hoàn toàn chiếu theo mệnh lệnh của Chúa nên mỗi lần tôi truyền giảng có thể thuyết phục hàng trăm người đến cùng Chúa. Họ ăn năn và xưng nhận tội lỗi cùng Ngài và được Chúa Thánh Linh ban cho sự sanh lại. Những kết quả của việc làm này hoàn toàn ngoài toan tính của tôi vì tôi chỉ thực hiện mệnh lệnh của Chúa. Nếu đem sức riêng và tài năng của tôi thì không thể thuyết phục một người nào đầu phục Chúa. Một người hối cải trở về là khiến cho bao nhiêu thiên sứ trên trời đều reo vui, không phải là một việc dễ thực hiện!”
Trong chuyến truyền giáo Thái Lan lần này, Tống Thượng Tiết chẳng những truyền giảng cho người HOa mà cũng truyền giảng cho người Thái tại Hội Thánh của họ. Người Thái có một ấn tượng rất tốt với Tống Thượng Tiết. Mục sư Chittesan đã từng nói rằng: “Tống Thượng Tiết ít nói chuyện, nhưng truyền giảng rất nhiều và nhiều nhất là cầu nguyện”. Chuyến truyền giáo này, ngoại trừ Bangkok, ông còn đến Chiangmai, Nacong, Patong, Thombury, Lampan... Bất cứ đến nơi nào, công việc đầu tiên của ông vẫn là công kích tội lỗi, tiếp đến là nói đến sự tha thứ của Đức Chúa Trời. Những người được Chúa thăm viếng, sau khi đã xưng nhận tội lỗi, hối cải cùng Chúa thì họ rất vui mừng mà phục vụ Đức Chúa Trời, tranh nhau tham gia vào các tổ truyền Phúc âm. Họ cam kết cùng nhau mỗi tuần sẽ ra đi truyền bá Phúc âm một lần. Về sau tăng lên mỗi tuần lễ hai lần. Bất cứ tại đâu, để kết thúc cho chiến dịch truyền giảng là một buổi đặt tay cầu nguyện cho những người bị bệnh. Rất nhiều người đã được Chúa chữa lành. Trong một bản tường trình của một vị Mục sư Thái Lan: “Người mù được thấy, người què được đi, người câm nói được. Nhiều chứng bịnh nan y đều được Chúa chữa lành, và quyền năng là một thực sự và được kéo dài lâu bền. Vì có quyền năng chữa bệnh, có năng lực truyền giảng nên ông đã có nhiều công với các Hội Thánh. Ông đã được nhiều người Hoa cũng như người Thái tôn sùng, nhưng ông không muốn cho ai tôn cao mình. Ông đã phát biểu trong một bài giảng rằng: “Anh chị em thân mến, anh chị em đừng tưởng tôi là một con người ngay lành, ngược lại tôi vốn là một kẻ trộm cướp, mà lại là hạng trộm cướp cừ khôi. Tôi đã từng đả kích, phê phán sở đoản của người khác, đã dối gạt, lừa đảo người khác. Khi đến nước Mỹ, tôi là một thanh niên 19 tuổi, làm công gian lận cho chủ, làm ít khai nhiều. Miệng của tôi là miệng dối gạt. Khi đi học những năm đầu thành tích của tôi luôn luôn được 100/100. Nhưng về sau công việc nhiều tôi đã mệt mỏi sa sút, nhưng vẫn muốn duy trì thành tích cao ấy nên đôi mắt tôi đã gian lận trong kỳ thi: Đôi mắt tôi là đôi mắt gian tham. Tôi là một sinh viên hóa học, mỗi lần thí nghiệm cần đến sự cân đo rất chính xác, nhưng vì tôi đã quá mệt mỏi nên tôi đã phải dùng đến xảo thuật của bàn tay tôi: Đôi tay tôi là đôi tay của kẻ trộm... Trong thâm tâm tôi nổi lên một niềm hận thù độc ác, tôi muốn mọi người đều chết chỉ một mình tôi sống thôi. Tôi cũng cho là tất cả mọi người đều xấu xa, chỉ một mình tôi là công chính! Việc học của tôi không ai có thể vượt qua được. Lòng dạ tôi chất chứa những xấu xa ghê tởm. Mọi người đều nhìn tôi như là một người thánh thiện, sự thật tôi đã nghiền ngẫm những dâm thư trong những canh khuya nửa đêm về sáng. Tôi lấy làm thích thú những đoạn tả về dâm ô, tôi đã gạch viết màu lên những đoạn dâm dục ấy... Tôi không có một tình yêu thương nào đối với người anh của tôi cùng sang du học tại Mỹ với tôi. Anh tôi đã phải nhờ vả vào tài năng của tôi để sống, nên tôi đã mắng mỏ, hành hạ bất cứ lúc nào. Những lúc tức giận, tôi có ý muốn giết cả anh tôi nữa. Ôi con người xấu xa gian ác của tôi! Tôi là một tội nhân lớn nhất, đáng chết nhất. Ngày 11/2/1927 tôi rất đau khổ khi nghĩ đến con người gian ác của mình. Tôi đã quỳ trước mặt Chúa xưng nhận hết mọi lỗi lầm gian ác của mình trong 27 năm qua. Tôi đã đổ nước mắt để cầu xin, nước mắt đã thấm ướt cả gối. Tôi đã thức và cầu nguyện suốt đêm trong thống hối. Nửa đêm Chúa Giê-xu đã hiện ra với tôi, nhỏ nhẹ nói cùng tôi rằng: “Con cái bé mọn của ta ơi, tội của con được tha rồi, hãy nhìn vết đinh trên tay và trên chân của Ta. Ta đã chết vì tội lỗi của con, bây giờ con có thể an tâm. Từ đó tôi như đứa con hoang đàng trở về nhà Cha. Tôi đã được Chúa biến đổi thành một con người khác hẳn. Hôm nay tôi có thể đứng trước mặt quý vị để rao giảng Phúc âm, làm chứng mạnh dạn là Chúa có thể cứu một tội nhân lớn như tôi, chắc chắn sẽ cứu được quý vị, bất kể tội lỗi quý vị lớn như thế nào. Quý vị chỉ cần chịu xưng nhận tội lỗi của mình và tin nhận ân sủng cứu rỗi kỳ diệu của Chúa Cứu Thế trên cây thập tự thì quý vị sẽ được tha thứ và được cứu rỗi tức thì!”
Vòng truyền giáo thứ hai của Tống Thượng Tiết tại Thái Lan kết thúc vào ngày 2/8. Kết quả của hai vòng truyền giáo Thái Lan theo thống kê của hệ phái Trưởng Lão từ 1915 đến 1935: Số tín hữu từ 8.000 xuống còn 7.000 nhưng vì cuộc phục hưng do Tống Thượng Tiết con số lại tăng lên 9.000. Trong thời gian quân đội Nhật chiếm đóng Thái Lan rất nhiều các nhà lãnh đạo Hội Thánh bị bắt bớ giam cầm, nhưng nhìn chung không có một hiện tượng suy thoái thuộc linh nào.
Năm 1940 khi giáo sĩ Maccord về Mỹ, chiến tranh tại vùng Thái Bình Dương bùng nổ, Thái Lan bị quân đội Nhật chiếm đóng. Lúc bấy giờ có một bác sĩ người Thái đang nghiên cứu y khoa tại Baltimore, Hoa Kỳ. Giáo sĩ Maccord đã hỏi vị bác sĩ này rằng: “Theo như ông nghĩ thì Hội Thánh tại Thái Lan có thể duy trì trong cuộc chiến này không?” Vị bác sĩ này đã trả lời: “Được, nhưng phải qui công cho Tiến sĩ Tống Thượng Tiết!”
CHƯƠNG 50
LẠI ĐẾN JAVA (HẠ BÁN NIÊN 1939)
Hạ tuần tháng 8 năm 1939 Tống Thượng Tiết trở lại Java lần thứ hai. Trong vòng truyền giáo này, ông ghé Batavia trước tiên, cũng dùng nhà thờ của Hội Thánh Bồ Đào Nha là nơi truyền giảng, số người tham dự cũng đông đảo như lần trước. Truyền giảng được vài hôm thì cả khu phố người Hoa cư ngụ đều như được khuấy động lên, không một ai là không đến nghe Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm. Ngọn lửa phục hưng đã bùng lên, những lá cờ thập tự được thấy ở mọi nơi. Tiếng hát ngợi khen chúa của tín hữu nam nữ như vang động khắp nơi. Có người đã ví sánh hiện tượng này giống như hiện tượng cơn phục hưng tại xứ Wells.
Một nhà đại phú Trung Hoa cư ngụ tại khu Bogo là địa điểm nghỉ mát danh tiếng của thành phố Battavia, ông ta chưa từng biết Chúa là ai, nhưng lần này vì ngưỡng vọng đại danh của Tiến sĩ Tống Thượng Tiết nên ông nhờ một người bạn hướng dẫn đến để nghe giảng. Sau giờ giảng, vị đại phú này xin yết kiến Tống Thượng Tiết và đã dùng bao thơ đựng 1.000 đồng để làm lễ ra mắt. Nhưng Tống Thượng Tiết với ân tứ phân biệt Chúa cho đã thấy tận đáy lòng của vị đại phú này. Tống Thượng Tiết nhận chiếc phong bì và quẳng nó vào không trung và nói rằng: “Của ma quỉ!”... Những tờ giấy bạc từ trong phong bì bay tung tóe, những thính giả còn lại trong nhà thờ rất lấy làm kinh ngạc. Hành động của Tống Thượng Tiết cũng khiến vị đại phú kia cũng sững sờ. Tống Thượng Tiết nói với “người nhà giàu” rằng: “Nếu ông không hối cải ăn năn thì ông và tiền bạc của ông sẽ bị hủy diệt cùng một lúc.
Một nhà đại phú Trung Hoa cư ngụ tại khu Bogo là địa điểm nghỉ mát danh tiếng của thành phố Battavia, ông ta chưa từng biết Chúa là ai, nhưng lần này vì ngưỡng vọng đại danh của Tiến sĩ Tống Thượng Tiết nên ông nhờ một người bạn hướng dẫn đến để nghe giảng. Sau giờ giảng, vị đại phú này xin yết kiến Tống Thượng Tiết và đã dùng bao thơ đựng 1.000 đồng để làm lễ ra mắt. Nhưng Tống Thượng Tiết với ân tứ phân biệt Chúa cho đã thấy tận đáy lòng của vị đại phú này. Tống Thượng Tiết nhận chiếc phong bì và quẳng nó vào không trung và nói rằng: “Của ma quỉ!”... Những tờ giấy bạc từ trong phong bì bay tung tóe, những thính giả còn lại trong nhà thờ rất lấy làm kinh ngạc. Hành động của Tống Thượng Tiết cũng khiến vị đại phú kia cũng sững sờ. Tống Thượng Tiết nói với “người nhà giàu” rằng: “Nếu ông không hối cải ăn năn thì ông và tiền bạc của ông sẽ bị hủy diệt cùng một lúc.
Sau Battavia Tống Thượng Tiết đếnt hành phố Bogo, nhưng tại đây ông đã gặp một rắc rối không nhỏ. Văn phòng của sở di trú bắt Tống Thượng Tiết phải làm thêm thủ tục nhập cảnh, nên cuộc hành trình đã phải hoãn lại mấy hôm, không đến đúng như chương trình đã ấn định. Lợi dụng thời gian ấy các tín hữu Hoa kiều đã dựng được một căn lều rất lớn vì nhà thờ quá nhỏ. Khi lều đã dựng xong, họ công bố ngày giờ truyền giảng của Tống Thượng Tiết. Người ta như nước thủy triều lên ào ạt khắp nơi dồn về, phía trên là thành phố Băng Đông, phía dưới là thành phố Battavia, thậm chí có những người ở các làng mạc xa xôi của miền trung và thượng du cũng đổ xuống... phải căng lều lớn phủ cả sân quần vợt nữa mà vẫn không đủ chỗ cho người đến dự thính. Trong kỳ đại hội này, cơn đau kinh niên của Tống Thượng Tiết lại bộc phát, hai bên hông đau đớn dữ dội. Mỗi lần đứng trên bục giảng hai tay phải đỡ lấy thân mình cho giảm bớt trọng lượng của thân thể đè lên xương sống. Giảng xong một bài phải lấy nước nóng đắp lên xương sống để giảm bớt cơn đau. Tuy sức khỏe có phần yếu kém nhưng quyền năng của sự giảng dạy vẫn rất mạnh mẽ, Thánh Linh vẫn làm việc diệu kỳ. Mỗi lần giảng xong kêu gọi ăn năn tin nhận Chúa số người hưởng ứng đi lên phía trước cũng như những lần truyền giảng trước Đại hội kéo dài một tuần có chừng 900 người đã đầu phục Chúa Cứu Thế.
Khi hầu việc Chúa tại Bogo, một vị tín hữu đã hỏi Tống Thượng Tiết rằng: “Bí quyết nào đã giúp ông trở nên một nhà đại truyền giáo?” Tống Thượng Tiết trả lời: “Phải cẩn thận về thiên tài, phải dè giữ với phái nữ, phải vâng phục theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, và phải biết chắc rằng Chúa đã kêu gọi thì Chúa sẽ mở đường!”
Rời thành phố nghỉ mát thanh lịch Bogo, Tống Thượng Tiết lần lượt đến các thành phố Chiliwan, Sambolom, Machilan, Bololargio... Sinh hoạt ở những nơi này rất phồn thịnh, dân cư đông đúc. Sau đó các Hội Thánh Liên Hiệp tổ chức đại hội bồi linh và truyền giảng tại thành phố Surabagia. Tất cả những công tác chuẩn bị đều do một tín hữu, chủ nhân của một cơ xưởng, phụ trách. Ban tổ chức quyết định chọn một khoảng đất trống cạnh một ngôi đền Hồi Giáo để dựng lên một căn lều có thể chứa được 4.000 người. Chiến dịch dự định kéo dài 10 ngày. Mục tiêu chính là huấn luyện cho 500 đoàn viên của các đoàn truyền giảng Phúc âm. Ông đến thành phố này vào ngày 18/9 và bắt đầu giảng dạy vào ngày hôm sau. Ban ngày chú trọng đến việc bồi linh, thính giả là những đoàn viên các đoàn truyền giáo từ đảo Java cũng như các nơi khác đến tham dự. Ban đêm đặc biệt truyền giảng Phúc âm, tín hữu cũng như người chưa biết Chúa đến tham dự rất đông. Các báo chí Trung Hoa viết bài về chiến dịch này rất nhiều, khiến cho người đến tham dự ngày càng đông hơn. Cả khu phố do người Hoa cư ngụ đã được khuấy động lên. Sứ điệp của ông như thường lệ chủ yếu là đả kích tội lỗi. Sau mỗi buổi truyền giảng, ông hỏi những người đã lên đứng trước tòa giảng để đầu phục Chúa: “Ai đã từng ăn cắp vật dụng của người khác? Những ai đã từng lừa gạt người chủ đã mướn mình? Quý vị có công khai thừa nhận tội lỗi của mình không?” Những người quỳ gối đó đã lần lượt đưa tay lên và ông đã cầu nguyện cho họ. Đêm cuối cùng, ông dùng Lu-ca đoạn 21 với đề tài “Chúa Giê-xu tái lâm”. Ông đã yêu cầu thính giả: (1) Hãy có thái độ như người đàn bà góa, dâng hết điều mình có; (2) Phải nhận thức được rằng đền thờ ở thành Jêrusalem đã được xây cất bằng vật liệu quí giá, trong đó lại chôn giấu nhiều châu báu. Nhưng 70 năm sau, khi binh lính La Mã đến, vì muốn tìm kiếm châu báu nên đã đập phá đền thờ, đến đỗi không còn một hòn đá nào nằm trên hòn đá nào. Họ sang bằng bình địa, để ứng nghiệm lời Chúa đã nói trước; (3) Phải phân biệt được những Cơ đốc nhân giả, vì có nhiều người mạo danh Chúa, tự xưng là Đấng Cứu Thế, trong những ngày sau rốt chắc chắn sẽ có nhiều Christ giả, tiên tri giả, giáo sư giả; (4) Phải biết rõ hoàn cảnh của mình, quý vị sẽ chứng kiến chiến tranh và nhiều thiên tai xảy đến nhưng đừng ngạc nhiên, vì những việc này phải xảy ra; (5) sẽ nhìn thấy sự bắt bớ lớn; (6) Sẽ nhìn thấy một cuộc đảo lộn toàn thế giới, nhất là những tin tức chiến sự. Tống Thượng Tiết chẳng những đã trưng dẫn hùng hồn những dự ngôn trong Thánh Kinh chắc chắn sẽ được ứng nghiệm, nhưng cũng đưa ra những dự đoán như thành phố Thượng Hải, và những vùng phụ cận. Phía bắc Thượng Hải có nhiều cao ốc, phía Nam những công trình xây cất vững chãi, xi măng cốt sắt, những nhà lầu chọc trời. Người ta đã hao tốn tiền bạc công sức mới xây cất lên được như vậy nhưng chỉ cần một đêm bị oanh tạc và pháo kích, tất cả sẽ trở thành bình địa. Bây giờ quý vị đến Thượng Hải sẽ không còn thấy những công trình kiến trúc đẹp mắt ấy nữa. Ngoại trừ vùng Tô Giới. Thượng Hải đã trở thành tro bụi. Vật chất có thể bị Satan hủy phá và trên thực tế vật chất không có một chân giá trị nào. Những chiếc đàn dương cầm hạng tốt trị giá có đến gần 3.000 đồng, nhưng những tên Hán gian tại Hàn Châu đã bán những chiếc đàn dương cầm họ cướp giật được chỉ vài chục đồng, những chiếc cúp bằng bạc quí giá trong những trường đại học, trước kia bị trộm đã phải chuộc lại mấy lần nhưng nay vào tay kẻ gian chỉ bán lại vài ba đồng bạc.
Sau buổi nói chuyện này không bao lâu thì Trân Châu Cảng bị oanh kích, quân đội Nhật chiếm đóng đa số các quốc gia trong vùng Đông Nam Á. Nhiều người là nạn nhân của chiến tranh, nhớ lại lời cảnh các của Tống Thượng Tiết, bàng hoàng thức tỉnh.
Ngày bế mạc đại hội, như thường lệ, Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện cho những người bệnh. Những người xin chữa bệnh cần phải được ghi danh. Tất cả những người mù, điếc, câm và nhiều bệnh nan y khác đã đến ghi danh, ông đã nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-xu mà cầu nguyện chữa lành cho họ. Trong những chiến dịch truyền giảng của Tống Thượng Tiết, ông thường dùng ngày bế mạc làm ngày cầu nguyện chữa bệnh, ông làm như vậy để tránh tình trạng những người chỉ vì thân thể của mình bệnh hoạn mà đến với Chúa, mà không chú tâm vào sự cứu chuộc về phần tâm linh.
Kết quả của kỳ đại hội tại thành phố này được ghi nhận như sau: bán ra 5.000 quyển Thánh Kinh, những quyển Thánh Kinh vần Hán hay Mã văn đều bán rất nhanh chóng, nên phải đặt mua thêm tại thành phố Battavia. Những người đến dự nghe Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm đông không đếm xuể. Các Hội Thánh đều thấy rằng nhà thờ của mình thật bé nhỏ so với số tín hữu gia tăng nên Hội Thánh nào cũng nghĩ đến việc mở rộng và cất thêm phòng nhóm họp. Đồng thời nhu cầu người chăn bầy cũng rất cấp bách nên phải tìm đủ mọi cách để đáp ứng nhu cầu.
Ngày 30/9, Tống Thượng Tiết lên tàu tại bến cảng Subagia để đến thành phố Macaxe thuộc đảo Silipat. Hàng trăm tín hữu đến bến cảng tiễn đưa Tống Thượng Tiết. Họ hát những bài Thánh Ca để tỏ lòng quyến luyến lúc tạm biệt.
Sau chuyến truyền giảng tại thành phố Mancaxe, Tống Thượng Tiết chuyển qua các quần đảo Malacca để tổ chức một chiến dịch một tháng. Đến sáng ngày 13/11, Tống Thượng Tiết an bình trở lại Tân-gia-ba. Những tín đồ nói tiếng Phước Kiến thuộc các Hội Thánh Phước Linh Đường, Chân Quang Đường và Thiên Đạo Đường liên hiệp nhau mời ông đến giảng cho Đại hội từ ngày 13 đến ngày 19 tại nhà thờ Phước Linh Đường. Thành lập thêm được 21 tổ chức truyền giáo mới. Sau đó, ông đến những vùng lân cận, mỗi nơi tổ chức truyền giảng trong vòng một tuần. Tống Thượng Tiết lên tàu tại Tân-gia-ba để về Thượng Hải. Những tín hữu ra bến cảng tiễn đưa ông đều tỏ ý mong muốn rằng ông sẽ trở lại Tân-gia-ba vào năm 1940. Ông đã nhận lời, nhưng lời hứa này đã chẳng bao giờ thực hiện!!
CHƯƠNG 51
SẮP LÌA ĐỜI (1940-1941)
I. THƯỢNG HẢI
Ngày 18/1/1940 Tống Thượng Tiết trở về Thượng Hải với một cơ thể bệnh hoạn ốm yếu. Ông vốn không phải là một người khỏe mạnh, lại thiếu được chăm sóc. Mỗi lần giảng dạy ông đều mang hết tâm lực, mồ hôi, nước mắt ra mà phục vụ. Ông đã “liều mình” hầu việc Chúa như thế trong 15 năm, và bây giờ đã gần tới giai đoạn “xong cuộc chạy”. Năm xưa khi cuộc sống tâm linh vừa được “làm mới lại”, Chúa đã khải thị cho ông biết, ông có 15 năm để phục vụ Ngài, tính ra thì bây giờ là giai đoạn cuối.
Lúc ông còn du học tại Hoa Kỳ cũng đã qua một lần giải phẫu vì bịnh trĩ, nhưng vì tài chánh eo hẹp ông đã phải xuất viện quá sớm (xin xem lại chương 12), vết thương chưa khỏi hẳn. Lại nữa khi phục vụ trong đoàn truyền giáo lưu động Bêtên, những bạn đồng công như Mục sư Kế Chí Văn... đều khuyên ông nên vào lại bệnh viện Bêtên để trị liệu. Bệnh viện này và Đoàn Truyền Giáo đều trực thuộc một tổ chức, Bêtên, các bác sĩ của bệnh viện cũng là những người đồng công với Đoàn Truyền Giáo. Nhưng Tống Thượng Tiết một mực khước từ, cố gắng chịu đựng. Khi nghỉ ngơi ở nhà tại Thượng Hải cũng không nghỉ ngơi cho đúng mức, dường như không bao giờ ông tự lo nghĩ cho bản thân mình. Những buổi sáng cầu nguyện, ông thường mời bạn bè đến nhà giảng giải Kinh Thánh cho họ và cùng họ cầu nguyện. Tống Thượng Tiết thường tâm sự: “Trong khi học Kinh Thánh và cầu nguyện, những cơn đau đớn của tôi giảm xuống rất nhiều, ông biết Chúa dùng những cơn đau đớn để luyện, để hoàn chỉnh những thiếu sót như tánh tình nóng nảy của tôi...” Bạn bè của Tống Thượng Tiết ai cũng phải thừa nhận là tánh tình của tiên sinh đã thay đổi rất nhiều. Ngày xưa ông không bao giờ chịu theo tập quán của Hưng Hóa, khi có một bạn thân đến nhà dùng cơm, chủ nhà phải ra hầu khách, nhưng bây giờ Tống Thượng Tiết đã biết thuận phục theo tập tục của quê hương, yên lặng để các bà phục vụ.
Thường ngày Tống Thượng Tiết đọc 11 đoạn Thánh Kinh, và ông dành rất nhiều thì giờ cho việc cầu nguyện, viết nhật ký tâm linh. Ông rất chuyên cần viết nhật ký, hầu như chưa bao giờ bỏ qua một ngày nào. Nhật ký của ông là một tài liệu rất quý báu về cuộc đời Tống Thượng Tiết, nhưng tiếc thay, chính tôi – tác giả viết quyển sách này – cũng chưa được hân hạnh được đọc tập nhật ký tâm linh đó! Lắm khi vì quá nhọc mệt vì công việc hằng ngày ông đã đọc và nhờ người em trai ghi chép hộ. Nhưng người em này viết quá chậm nên Tống Thượng Tiết đã phải nhờ một sinh viên thần học làm giúp công việc này. Những thì giờ rãnh rỗi Tống Thượng Tiết trả lời thư từ cũng như những nan đề của tín hữu hay thính giả, trong và ngoài nước.
Mục sư Vương Minh Đạo tại Bắc Kinh được tin Tống Thượng Tiết lâm trọng bệnh. Lúc ấy có bà Vương Minh Đạo và bà Liêu Cảnh Văn cũng đang dưỡng bệnh tại Thượng Hải. Bà Mục sư Vương Minh Đạo muốn đến thăm Tống Thượng Tiết (lúc ấy đang dưỡng bệnh tại nhà mẹ mình, nhưng bà mẹ đã khuyên chưa nên đến thăm Tống Thượng Tiết vội, vì chính bà cũng còn đang đau chưa khỏi hẳn. Nhưng bà Mục sư Vương vì quá nóng lòng nên đã xin mẹ cho đến thăm Tống Thượng Tiết. Bà đã chứng kiến sự đớn đau của Tống Thượng Tiết thì biết rằng, ông đã dứt khoát không chịu nhờ cậy vào thầy thuốc của đời này. Ông nghĩ rằng, chính mình đã nhân danh Chúa Giê-xu chữa bệnh cho biết bao nhiêu người và họ đều được chữa lành. Nay đến phiên mình chẳng lẽ lại đi đến thầy thuốc của đời này mà không chịu cầu xin quyền năng của Chúa Cứu Thế Giê-xu? Làm như vậy chẳng những chứng tỏ mình kém đức tin mà lại ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của biết bao nhiêu người khác, danh Chúa không được hiển vinh. Biết như vậy nên không ai dám khuyên Tống Thượng Tiết đến bác sĩ. Bà Mục sư Vương thấy tình hình không ổn bà đã dùng Phúc âm Ma-thi-ơ đoạn 9 câu 12: “Vì người bệnh mới cần y sĩ, chứ người khỏe mạnh thì không”. Để khuyên Tống Thượng Tiết nên vào bệnh viện chữa trị. Cuối cùng ông đã thuận phục chịu nhập viện Đại Công tại Thượng Hải. Bác sĩ Trương chữa trị cho Tống Thượng Tiết là một tín hữu rất yêu mến Chúa, nhưng sức khỏe của Tống Thượng Tiết quá yếu nên phải chuyền máu cho lại sức mới có thể giải phẫu được. Cuộc giải phẫu kéo dài hơn 3 giờ đồng hồ. Những mảng thịt thối rữa, cắt bỏ đi cũng đến 3 chậu nhỏ!! Khi Tống Thượng Tiết đang ở trong phòng mổ, nhiều tôi tớ con cái Chúa đã tha thiết khẩn nguyện cho ông. Ông đã bị bịnh trĩ rất nặng, thời gian hậu giải phẫu ông cần phải nghỉ ngơi và điều trị dài hạn tại bệnh viện.
Thời gian Tống Thượng Tiết nằm bệnh viện, có 2 đoàn viên Đoàn Truyền Giáo Hàn Châu đến chăm sóc, nuôi dưỡng ông, một là cô họ Trương và một thanh niên tên Chu Duy Hinh. Chu Duy Hinh đã nhiều lần cầu nguyện rằng: “Chúa ôi, nếu Ngài đẹp lòng, xin Chúa rước con về trước còn ông Tống Thượng Tiết xin Ngài để lại”
Từ phòng mổ khiêng ra, Tống Thượng Tiết vẫn ở trong trạng thái mê man, thần sắc mệt mỏi xanh xao. Nhiều ngày sau, bạn bè vào thăm vẫn thấy ông nằm đau đớn, rên siết trên giường bệnh. Tĩnh dưỡng một tháng trong bệnh viện, sức khỏe hồi phục được đôi chút và phải xuất viện về nhà riêng. Bà Mục sư Vương Minh Đạo đến thăm đã nghe ông hát như một trẻ thơ bài đoản ca phổ nhạc theo lời của câu Kinh Thánh “Vì người bệnh mới cần y sĩ, chứ người khỏe mạnh thì không cần!” Tống Thượng Tiết về nhà đúng lúc khánh thành nhà thờ Hoài Ân Đường tại Thượng Hải. Ban tổ chức đại hội phấn hưng và truyền giảng nghĩ rằng cho dẫu với tiếng tăm của Tống Thượng Tiết cũng không sao thu hút đủ thính giả chiếm hết chỗ vì nhà thờ quá rộng. Họ đã nhiều lần khẩn khoản mời ông đến. Ông nghĩ rằng khi sức khỏe trở lại được phần nào thì cũng có thể tiếp tục phục vụ Chúa được nên đã nhận lời mời. Người đến dự rất đông, nhưng trong nhà thờ rất ồn ào và mất trật tự. Ông từ từ tiến lên bục giảng, lấy tay đập mạnh xuống bàn, lớn tiếng hỏi hội chúng rằng: “Đây là thánh đường hay là hí viện?” Hội chúng lúc ấy mới yên lặng và trật tự trở lại. Đề tài giảng dạy hôm ấy là “Ngày Chúa trở lại thình lình như kẻ trộm đến trong ban đêm!” Đến gần cuối bài, ông cảm thấy mệt quá nên phải ngồi xuống để tiếp tục cho xong bài giảng. Kết quả có hơn 90 người tin nhận Chúa. Về đến nhà Tống Thượng Tiết liền phải nằm vật xuống vì thấy trở lại mệt mỏi và đau đớn. Ông than thở với những người chung quanh: “Không ngờ tôi bây giờ đã trở thành người vô dụng!”
Ngày 15/11, vết mổ của Tống Thượng Tiết bị làm độc, sưng tấy lên thật đau đớn, cơ thể lại càng suy yếu. Các bác sĩ cũng như bạn bè ai cũng khuyên ông nên đến trị liệu tại bệnh viện Hiệp Hòa thuộc Bắc Kinh. Ông đã nghe lời và ngày 4/12, một mình đi lên Bắc Kinh. Lúc chia tay, ông dặn dò người nhà rằng: “Xưa nay tôi vẫn cầu nguyện Chúa chữa bệnh cho người khác, bây giờ đến lượt những người được Chúa chữa lành ấy chắc cũng vì con bệnh của tôi mà cầu thay cho tôi”
II. TẠI BẮC KINH
Sau khi vào bệnh viện Hiệp Hòa định bệnh, kết quả cho biết là Tống Thượng Tiết vừa bị ung thư, vừa lao phổi. Ông phải giải phẫu lần thứ nhất vào ngày 14/12/1940, lần thứ nhì ngày 28/1/1941, và phải nằm trong bệnh viện 6 tháng để điều trị. Trong thời gian đó thì con trai của giáo sĩ C.J.Litton Burgh hội China Inland Mission cũng đang điều trị tại bệnh viện đó, ông bà giáo sĩ này rất năng đến bệnh viện. Qua sự giới thiệu của Mục sư Vương Minh Đạo ông bà quen với Tống Thượng Tiết và đôi bên nhiều lần đàm đạo cùng nhau. Tống Thượng Tiết chia sẻ là con bệnh của ông là một sự dạy dỗ của Chúa, Ngài muốn ông phải sửa đổi tính xấu của mình. Về điều này thì giáo sĩ Litton Burgh đã nghe thấy từ lâu, nay mặt gặp mặt thì con người trước mặt giáo sĩ là một con người đầy tình thương, đã quá ôm đồm công việc đến đỗi đã không nghĩ gì đến thân mình. Còn về tánh nóng nảy và coi thường người khác như lời người ta đồn đãi thì bây giờ chẳng còn một vết tích nào trong con người đối diện này.
Những lần giải phẫu này tuy đã thành công, nhưng đã quá trễ. Sáu tháng trước Tống Thượng Tiết đã cố tình trì hoãn nhiều lần vì những chuyến truyền giáo... Con bệnh đã trở nên quá trầm trọng nên tình trạng sức khỏe của Tống Thượng Tiết không được khả quan lắm.
Tống Thượng Tiết xuất viện ngày 7 tháng 7, và đã dọn về phía tây của Bắc Kinh, mướn một phòng trong khu “cây thông”, đây là một danh lam thắng cảnh. Tĩnh dưỡng chưa được bao lâu, ông nhận được hung tin: Giôsuê, con trai mình bị viêm dạ dày đã sớm lìa đời. Trong hoàn cảnh đau đớn thân xác này lại còn chịu đựng thêm điều đau thương lòng quặn thắt. Với người khác chắc bình thường đã phải có thái độ tra vấn, nghi ngờ lớn, nhưng Tống Thượng Tiết đã biết Chúa thật là sâu nhiệm nên ông không đến nỗi ưu sầu thái quá. Bà Tống Thượng Tiết sau đó đã đưa ba con gái từ Thượng Hải lên Bắc Kinh ở chung với chồng để tiện bề chăm sóc. Sức khỏe của Tống Thượng Tiết cũng dần dần hồi phục. Ông bắt đầu lại bằng những công việc nhẹ không hao tốn sinh lực nhiều như trò chuyện cùng những người thân đến viếng thăm... Trong thời gian dưỡng bệnh này, ông tự học Kinh Thánh theo phương pháp đối chiếu, đọc Tân Cựu Ước 3 đoạn, một đoạn trong sách Khải Thị để tìm biết sự tương quan sâu sắc của Lời Chúa. Ông cũng mời những tín hữu và những người bạn đồng công cùng học Kinh Thánh theo lối đối chiếu này. Cũng trong thời gian này Tống Thượng Tiết soạn được 15 đoản ca, và viết những bức thư cho các Đoàn Truyền Giáo Phúc âm trong cũng như ngoài nước kêu gọi sự cầu nguyện phục hưng.
Mùa thu năm ấy sức khỏe của Tống Thượng Tiết có phần khả quan hơn, ông có thể đi bách bộ quanh trong vùng “cây thông”. Chốn này ngày xưa chỉ dành riêng cho các vua chúa và gia đình hoàng tộc đến nghỉ hè và săn bắn. Nơi đây có những cảnh trí thật là tuyệt sắc và khí hậu hiền hòa mát mẻ. Người đầy tớ trung thành của Chúa ở đây tạm nghỉ ngơi để thưởng thức những danh lam thắng cảnh thật là thích hợp cho sức khỏe của Tống Thượng Tiết. Trong khu Hương Sơn có một vườn hoa Tĩnh Nghi là nơi mà Tống Thượng Tiết thường chống gậy đến thưởng ngoạn và ngơi nghỉ. Vừa thấy hoa Tống Thượng Tiết đã dùng hoa để làm thí dụ để giảng giải chân lý Kinh Thánh cho những người đồng hành thưởng lãm cảnh đẹp trong huê viên. Ông thường lên ngọn đồi gần đó để đọc Kinh Thánh và suy gẫm Lời Chúa. Cũng năm ấy, mùa đông, Tống Thượng Tiết được Chúa cho một khải tượng và ông bắt đầu dùng những ngụ ngôn trong Phúc âm để giảng giải cho người nhà và các cộng sự viên nghe.
Sau đây là một vài lời của bà Tống Thượng Tiết thuật lại: “Mỗi ngày ông vẫn đều đặn ăn nuốt lời Chúa, và suy gẫm Lời ấy. Một mặt ông hồi tưởng lại những ngày qua, kiểm điểm lại những việc làm trong quá khứ, một mặt khích lệ vợ con siêng năng học Lời Chúa. Hằng đêm chúng tôi đều có gia đình lễ bái. Ngày ấy các con chúng tôi còn trong tuổi ấu thơ nên chúng không thấy thích thú với lối giảng kinh và giải kinh cho người lớn. Vì thế nên ông đã kể cho chúng tôi mỗi ngày một sự tích trong Kinh Thánh. Những mẩu chuyện nghe rất đơn sơ, nhưng đều tiềm ẩn những giáo lý rất cơ bản, và rất quan trọng cho tăng trưởng tâm linh. Phương pháp giảng dạy này không nhất thiết theo thứ tự trong Kinh Thánh. Khi được cảm động và Thánh Linh thôi thúc giảng sách nào thì ông giảng sách đó, vì vậy ông không giảng theo tài liệu đã soạn sẵn, mà nhờ Thánh Linh soi dẫn trong khi cầu nguyện. Nhiều khi chúng tôi không biết ông đã bắt đầu từ đâu và kết thúc lúc nào, ông thường nói rằng: “giống như gió thổi, gió thổi đến đâu chúng ta theo đến đó, chúng ta không giảng dạy tự ý mình’. Khi ông giảng dạy, có những cộng sự viên ghi chép, về sau sắp xếp lại thành những chuyện tích liên tục trong Kinh Thánh. Nội dung chú trọng đến chân lý của Hội Thánh, mục đích là xuất bản thành một tập sách để giúp đỡ cho những người hầu việc Chúa. Những đầy tờ Chúa phải biết làm cách nào để thiết lập Hội Thánh, làm thế nào cho Hội Thánh mang ý hướng là gia đình của Chúa. Đồng thời ông cũng đưa ra những mẫu mực của người đầy tớ Đức Chúa Trời... Người đầy tớ của Đức Chúa Trời phải biết làm sao trang bị phẩm chất thuộc linh, quán triệt những chân lý về sự chết con người cũ, sự sống con người tái sanh, nên thánh, và kinh nghiệm về những chân lý ấy hầu có thể đáp ứng được những nhu cầu Đức Chúa Trời...” Bà Tống Thượng Tiết đã viết lời tựa cho tập sách trên như sau: “Lời Chúa đã thấm nhuần vào đời sống của Tống Thượng Tiết, ông đã phối hợp những gì ông lãnh hội được từ trong Thánh Kinh cộng với những việc làm và kinh nghiệm thuộc linh cá nhân ông trong mười mấy năm qua. Đó là căn nguyên của tập “Những Mẫu Chuyện Tích Kinh Thánh”.
Tập sách này với bút pháp ký thuật nên đã thu hút được sự thích thú của độc giả muốn tìm hiểu và học hỏi Thánh Kinh đồng thời cũng giúp để giải đáp những thắc mắc về quá trình thuộc linh của chính tác giả. Tống Thượng Tiết đã tự thuật rằng: “Sự bại hoại của tôi thật là đáng ghét nên tôi càng phải nhờ quyền năng của thập tự giá để đóng đinh con người cũ, cố gắng vượt qua những khó khăn để cùng Chúa bước vào sự đắc thắng của Đấng Cứu Thế. Trong những mẫu chuyện này đều đi thẳng vào trọng điểm để người đọc nhìn được Chúa Cứu Thế để làm vui lòng Ngài. Có như vậy mới mong trở nên một con người hoàn toàn làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Tập sách ngụ ngôn và ẩn dụ của Thánh Kinh này mãi đến tháng 7/1951 mới được xuất bản. Nội dung của tập truyện đầy dẫy những linh ý dùng để thức tỉnh và được viết bằng một lối văn dung dị nhẹ nhàng. Rất tiếc đây là sự ghi chép lại những lời khẩu thuật của Tống Thượng Tiết chứ chưa phai do chính tay ông viết nên. Chính ông cũng chưa có thì giờ sửa chữa lại, nếu không thì tác phẩm này đã trở thành một danh tác như Pilgrim Progress.
Năm 1942, sức khỏe của Tống Thượng Tiết lại có phần khả quan hơn, nên gia đình đã dành riêng cho ông một phòng nhỏ gọi là Ân điển viện. Đặc biệt để cho ông học Kinh Thánh bất định kỳ hoặc đàm đạo với bạn bè thân thiết trong Chúa như Vương Minh Đạo, Uông Triệu Tường, Dương Thiệu Đường, Cổ Nhân Ẩn. Ông Cổ vốn là một tài tử điện ảnh nên có một cuộc sống vô cùng phóng đảng lãng mạn. Khi nghe truyền giảng ông Cổ đã ăn năn đầu phục Chúa, trở nên một trong những bông trái tốt đẹp của Tống Thượng Tiết. Lúc bấy giờ Cổ đang giúp cho Tống Thượng Tiết thực hiện công tác truyền giảng tại Bắc Kinh, ông đã mời tất cả người nhà lên Bắc Kinh. Cả gia đình họ Cổ đang trên đường từ Hồng Kông lên Bắc Kinh thì đụng phải thủy lôi của Quân đội Nhật. Tàu chìm và cả gia đình đều mất tích giữa biển khơi. Cổ Nhân Ẩn vô cùng đau xót. Biết được câu chuyện thương tâm này, thì Tống Thượng Tiết đề nghị với bạn: “Bây giờ bạn cùng tôi có thể song ca không?” Người bạn họ Cổ chưa hiểu ý của Tống Thượng Tiết nên thắc mắc: “Tại sao lại phải song ca, tâm trạng này mà còn hát với xướng nỗi gì?” Tống Thượng Tiết điềm nhiên trả lời: “Chúng ta cùng có thể hát bài ca của Gióp. Bạn hát chương thứ nhất, còn tôi hát chương thứ hai. Bạn mất hết người thân, tôi rửa nát hết thi thể!”
Trong Ân điển viện, Tống Thượng Tiết tiếp tục viết. Theo bà Tống Thượng Tiết sau thuật lại thì những công trình của Tống Thượng Tiết trong giai đoạn này là những bài “Bồi Dưỡng Tâm Linh”, “Truyện Tích Kinh Thánh” và những “Tự Truyện”. Ba thể loại này đều do những khải thị Chúa ban cho trong những lúc ông đớn đau và khó khăn trên giường bệnh.
Tình hình chiến sự trên thế giới bây giờ là quân đội Đức đang tấn công vào Nga. Máy bay Nhật oanh tạc trên Trân Châu Cảng và ngọn lửa chiến tranh ngày càng lan rộng... Hồng Kông, Tân-gia-ba, Mã-lai-á, Nam-dương, Thái Lan, Việt Nam, Miến Điện... đều là những nơi mà Tống Thượng Tiết đã từng ghé qua trên những chuyến truyền giảng. Ảnh hưởng chiến tranh càng ngày càng sâu đậm, nhiên vật liệu ngày càng thiếu hụt, tiếp theo là những biến chuyển chính trị tại Trung Quốc. Vì thế, hy vọng những tác phẩm của Tống Thượng Tiết được xuất bản thật xa vời! Quân đội Nhật coi Cơ đốc giáo là một liên quan mật thiết với các thế lực tây phương và Hoa Kỳ nên có thái độ hoài nghi thù địch với tín đồ Cơ đốc. Các Hội Thánh trên khắp vùng Đông Nam Á đều bị quân đội Nhật tàn hại. Tống thượng Tiết tưởng nhớ những người bạn cố tri cũng như những người bạn sơ giao. Gánh nặng trong lòng ông ngày càng nặng nề, nên bệnh tình của ông đột phát rất nguy kịch. Lúc bấy giờ bệnh viện Hiệp Hòa tại Bắc Kinh đã bị quân đội Nhật chiếm đóng và chỉ phục vụ cho những sĩ quan cao cấp trong quân đội Nhật Hoa. Do đó Tống Thượng Tiết phải chuyển đến điều trị tại Thiên Tân. Ông lại phải qua cơn giải phẫu thứ ba ngày 27/3/1943 và điều trị trong 3 tháng. Sau đó ông trở lại Bắc Kinh, ghé thăm Vương Minh Đạo một đêm, ngày hôm sau trở về Hương Sơn. Lúc bấy giờ ông không còn đủ sức để giảng nữa, nhưng có thể vẫn tiếp tục đàm đạo với những người đến thăm viếng. Tháng 6/1944 bệnh tình đã đến hồi nguy kịch, người nhà đã phải đưa ông vào bệnh viện Đức Quốc tại Bắc Kinh vào ngày 12/6 để chịu giải phẫu lần thứ tư. Ngày 16 Vương Minh Đạo cùng với các anh em quốc tịch Đức với tình yêu thương đến thăm viếng và chăm sóc rất tận tình. Tống Thượng Tiết xuất viện ngày 1/7, về đến Hương Sơn thì hơi thở đã quá yếu ớt và những cơn đau đớn kéo đến liên miên, nhưng Tống Thượng Tiết vẫn liên tục cầu nguyện. Có thể đây là lời nhắn nhủ sau cùng của Tống Thượng Tiết gửi đến cho Hội Thánh.
“Sau này tất cả mọi công việc chúng ta có thể làm được chỉ là cầu nguyện!” Câu nói này đã trở thành phương châm của người Cơ đốc Trung Hoa trong vùng Đông Nam Á khi những hoạt động truyền giáo bị bắt buộc đình chỉ.
Vào thượng tuần tháng 8, bịnh tình của Tống Thượng Tiết đã đến giai đoạn vô cùng nghiêm trọng. Thạch Thiên Dân từ Hương Sơn nhờ người mang một bức thư đến cho Mục sư Vương Minh Đạo. Vương Minh Đạo nhận được thư vào đêm 16, định sáng ngày 17 lên gặp Tống Thượng Tiết, nhưng vì công việc đa đoan nên phải hoãn lại một ngày, và sáng ngày 18/8, Vương Minh Đạo đã đáp xe lên Hương Sơn. Vì đường xa đến 40 dặm, qua khỏi trưa Vương Minh Đạo mới đến thì đã quá trễ, Tống Thượng Tiết đã lìa đời vào bình minh hôm đó. Sáng sớm 16/8 là những giây phút cuối cùng, Tống Thượng Tiết đã nói cùng vợ rằng: “Đức Chúa Trời đã chỉ thị cho tôi phải đi về!” Đêm ấy ông bị hôn mê, song ngày 17, trở lại tỉnh táo, ông hát nho nhỏ: “Thập tự giá sẽ mãi mãi là vinh diệu cho chính tôi”. Và những bài thánh ca tương tự. Sau đó, Tống Thượng Tiết dường như trải qua một cơn đớn đau tột độ rồi đi vào trong bình an và vui mừng lớn. Tống Thượng Tiết dặn dò gia đình: “Con gái trưởng Tống Thiên Anh, sau này sẽ làm nữ truyền đạo vùng Đông Bắc Trung Hoa. Con gái thứ Tống Thiên Châu sẽ làm nữ truyền đạo vùng Đông Nam Á. Con gái thứ ba Tống Thiên Quyền sẽ làm truyền đạo tự do ở trong toàn quốc Trung Hoa!” Trước kia, ông đã từng ước mơ: “Nếu tôi có 100 người con, tôi đều mong muốn chúng tất cả là những người đi truyền bá Phúc âm. Lời nói sau cùng của Tống Thượng Tiết với vợ vào lúc nửa đêm: “Đừng sợ, vì Chúa Giê-xu đang đứng trước cửa!”
Tống Thượng Tiết đã được Chúa rước đi vào lúc 7 giờ 7 phút
Sáng ngày 18/ 8/ 1944
Sau này bà Tống Thượng Tiết đã ghi lại đoạn đường cuối cuộc chạy đua của Tống Thượng Tiết như sau: “Ngày 2/7/1943, Tống Thượng Tiết, tôi tớ Chúa, trải qua lần giải phẫu thứ tư trong bệnh viện Đức Quốc tại Bắc Kinh. Sau khi dưỡng thương trở về Hương Sơn, vết mổ bệnh trị sâu và dài là quả đấm quyết định vào sức khỏe của ông. Nhà tôi đau đớn đến không thể trở mình được. Trong khi nhà tôi lâm trọnh bệnh thì nhiều chi thể của Chúa thuộc đủ mọi thành phần: bác sĩ, y tá... cũng như những đồng lao ngày trước đến chăm sóc thăm viếng, tỏ rõ tình yêu thập tự giá của Chúa Cứu Thế. Nhà tôi thường nói rằng: “tuy thể xác của tôi thối rửa, nhưng xin cho miệng tôi không hư không thối để tôi có thể cầu nguyện với Chúa được”. Đây quả là một lời khẩn nguyện đầy nước mắt và máu. Đến giây phút lâm chung nhà tôi nói với tôi rằng: “Đừng chuẩn bị cho anh một quan tài đắt tiền, đừng lập mộ bia, lăng tẩm đồ sộ, đừng mang theo anh áo quần gì, chỉ việc lấy đất lấp lên thân thể hư thối này là được rồi. Tôi mong khi Chúa trở lại tôi sẽ được sống lại và bốc lên không trung. “Con cáo có hang, chim trời có tổ song Con Người không có chỗ gối đầu”. Người tôi tớ lớn của Chúa là Môise Chúa đã chôn cất và rồi không ai biết mồ mả của ông ở đâu. Làm việc cho Chúa suốt đời, tôi cũng muốn ẩn tàng, không lập mộ, dựng bia; tôi không muốn cho người đời biết tôi nằm nơi nào. Nếu mình và các con muốn biết nơi anh nằm nơi nào thì chỉ cần một tảng đá với dòng chữ “Đầy tớ bé mọn của Chúa, họ Tống, thế là đủ lắm rồi”
Cám ơn Chúa đã yêu dấu tôi tớ của Ngài, ba năm đầu Ngài trưởng dưỡng tôi tớ Ngài tại Hưng Hóa nhưng ba năm cuối của cuộc đời Ngài nuôi dưỡng tại Hương Sơn. Đêm 17/8, không trăng sao, vì ngoài trời mưa rả rích, trong phòng chỉ có một ngọn đèn heo hắt. Nhà tôi thấy tôi đã quá mệt mỏi nên không nở để cho tôi cứ mãi ngồi bên ông như thế, nên đã hối thúc tôi đi ngủ. Tôi đang lơ mơ đi vào giấc ngủ thì nghe nhà tôi cầu nguyện, tôi choàng dậy, thấy nhà tôi đang chắp hai tay trong tư thế thờ phượng, và cầu nguyện tiếng đứt khoảng. Tôi thấy thật lẻ loi, chỉ có thể đến quì gối bên nhà tôi và cất tiếng nguyện cầu: “Chúa ơi, xin cất tôi tớ Chúa trong ban ngày, đừng rước đi trong ban đêm vì thân hữu bạn bè của tôi tớ Chúa đều còn đang ngon giấc!” Cầu nguyện xong đứng dậy ngợi khen Chúa, tôi thấy đôi môi nhà tôi mấp máy, và mặt nhà tôi bỗng phát ra một ánh sáng trắng chói lòa, lúc ấy thì trong phòng chỉ có một ngọn đèn dầu rất nhỏ. Tôi chiêm ngưỡng được ánh sáng kỳ diệu này trong lòng được niềm vui và an ủi lớn. Thế rồi nhà tôi hôn mê đi... cho đến sáng thì tỉnh lại và lại cất tiếng hát ngợi khen Chúa. Hát được 3 bài, rồi sự đau thương sâu thẳm nhất ngày hôm ấy đã trở thành một sự an bình và vui mừng cao vời tột đỉnh: Nhà tôi đã được gặp và đi ở với Chúa, Đấng mà ông hết lòng yêu mến thờ phượng và phục vụ!”
Bình minh ngày 18/8, ông Giăng Tống đã được Chúa rước đi. Ông ở tạm trên đời 43 năm để an nhiên trở về nhà trên trời, nghỉ ngơi trong lòng của Đức Chúa Trời. Những người thân yêu trong gia đình Tống Thượng Tiết ngoài bà cùng 3 cô con gái Thiên Anh, Thiên Châu, Thiên Quyền còn có thân hữu bác sĩ, y tá. Khi Mục sư Vương Minh Đạo vừa đến nơi, tang quyến đã mời ông làm lễ tẩm liệm cho Tống Thượng Tiết. Năm giờ chiều cùng ngày làm lễ nhập quan, Vương Minh Đạo đã dùng Khải Huyền 14:13 giảng cho buổi lễ: Tôi nghe tiếng từ trời nói: “Hãy chép: Từ nay, phúc cho những người chết trong Chúa!” Thánh Linh xác nhận: “Đúng! Họ sẽ nghỉ ngơi mọi lao khổ và thu gặt kết quả rất tốt đẹp”. Ngày 22 tháng 8 cử hành lễ an táng, mọi người đều muốn ông Vương Minh Đạo chủ lễ. Lễ an táng hôm ấy ngoài thân bằng quyến thuộc còn nhiều thân hữu từ Thiên Tân, Yên Đài, Xoa Thô, Hạ Môn, Phước Châu... hơn 200 người. Ông Vương Minh Đạo dùng Giê-rê-mi 1:4-9 để giảng cho tang lễ. (Đại ý của bài giảng xin xem chương 53). Sau lễ tại nhà thờ, đoàn người đưa quan tài Tống Thượng Tiết đến nghĩa trang trên núi phụ cận của Hương Sơn. Nơi đồi an nghỉ này, ngày trước Tống Thượng Tiết vẫn thường lui tới để đọc và suy gẫm lời Chúa. Quyển Thánh Kinh được chôn với thi hài Tống Thượng Tiết là do ông Peter Trương tặng. Ông Trương là một học giả, tốt nghiệp ngôn ngữ học tại Đại học Yến Kinh, vì lao phổi nên cũng đến Hương Sơn để tịnh dưỡng. Ông Trương là một Cơ đốc nhân trung tín và có ý định ra nước ngoài để truyền bá Phúc âm nên khi Tống Thượng Tiết đến nghỉ ngơi tại Hưng Sơn, ông thường lui tới đàm đạo với Tống Thượng Tiết. Peter Trương cũng là một trong những người đưa Tống Thượng Tiết đến nơi phần mộ. Đoàn người vừa đi vừa hát:
“Công trình lao khổ đã hoàn tất.
Chiến tranh hung tàn cũng từng nếm trải.
Người bộ hành đã đi qua sóng gió cuộc đời.
Bây giờ ở bên bờ kia hưởng an nghỉ,
Cha ôi! Kính cẩn đem tôi tớ ngủ yên
Dâng Cha ta gìn giữ cách từ ái.
Đến bờ kia vết nước mắt đều tan biến.
Đến nơi ấy những nghi nan sẽ được am tường.
Cuộc đời sẽ ra sao?
Xin Chúa là quan án công bình và chính trực.
Cha ơi! Kính cẩn dâng tôi tớ Ngài an nghỉ,
Giao Cha ta gìn giữ cách từ ái”
CHƯƠNG 52
LỜI BÌNH PHẨM
Tiến sĩ Tống Thượng Tiết là một vĩ nhân thuộc linh một thời đại. Mặc dù ảnh hưởng đến Hội Thánh Trung Quốc nội ngoại rất lớn lao, nhưng Tống Thượng Tiết cũng chỉ là một con người. Con người với đủ những bất toàn và khuyết điểm. Vì vậy thái độ của người đời đối với ông không tránh khỏi được những phê phán gay gắt, khắt khe. Những phê phán này thường đến từ những con người hay bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu.
Tại đây chúng ta cũng nên điểm qua một vài phê phán bất công của người đời đối với một đầy tớ trung kiên của Đức Chúa Trời:
1. Bất cứ đến truyền giảng và bồi linh nơi nào, Tống Thượng Tiết cũng dặn dò phải cho ông uống nước súp gà trước khi giảng. Người đời đã phê phán uống nước súp thay nước lã là phí phạm. Đối với thời bấy giờ, như vậy là tốn kém, nhưng một vài tô súp gà thì có đáng là bao đối với mỗi ngày Tống Thượng Tiết phải giảng ba bốn bài, mỗi bài giảng có khi kéo dài đến 3,4 giờ đồng hồ. Và chúng ta cũng biết, mỗi lần giảng Tống Thượng Tiết thường gào thét như muốn dốc đổ cả lòng mình ra và muốn xuyên thấu lời Chúa vào lòng người nghe. Vì vậy mỗi lần giảng ông đã hao tốn sức lực rất nhiều. Nếu so sánh với người đời, một người làm việc lao tâm lao lực đến như thế thì phải có cao lương mỹ vị và phải được nuôi dưỡng thêm sâm nhung bổ lượng. Thế thì sao phê phán gắt gay khi Tống Thượng Tiết chỉ dùng vài chén súp gà?!
2. Tống Thượng Tiết là một người có tính tình nóng nảy, hay la rầy những người đồng công cộng tác khi bị trái ý. Chúng ta phải cảm thông với một con người làm việc quá nhiều lại không hề được nghỉ ngơi đúng mức nên tánh tình rất dễ bị gắt gỏng. Tuy nhiên sau mỗi lần Tống Thượng Tiết có lời nói hay hành vi nóng nảy thì ông đều nhận lỗi biết đó là điều chẳng hay. Thường thì ông khóc lóc tự trách mình, cho là con người cũ tác yêu tác quái. Mỗi khi Tống Thượng Tiết nổi nóng thì ai cũng phải sợ và tránh xa, vì ông không kiêng dè một ai, cho dẫu là yếu nhân, danh nhân, tuổi cao hay có địa vị quyền thế trong xã hội. Việc cần phải nói là ông nói, giáo huấn, la rầy. Người ngoại cuộc thấy hình như ông lấy làm thú vị khi la rầy như thế. Do đó họ đã than phiền, trách móc ông. Nhưng vấn đề được đặt ra là những người bị la rầy, giáo huấn có đáng được như vậy chăng? Nếu đáng phải giáo huấn la rầy mà không giáo huấn la rầy thì có phải Tống Thượng Tiết đã không phải là một người bạn chân thành, chính trực? Thói thường, người đời chỉ thích được khen tặng, ve vuốt mà không muốn bị chỉ trích, chê bai. Tống Thượng Tiết là người thẳng thắn không dung túng tội lỗi, ông có la rầy, giáo huấn thì cũng xuất phát tự tấm lòng yêu thương mà thôi. Bằng chứng là nhiều người sau khi đã bị Tống Thượng Tiết la rầy, sau trở nên những con người đổi mới. Hạng người được Tống Thượng Tiết giáo huấn nhiều nhất là thích nịnh bợ và được nịnh bợ. Vì sau khi bị la rầy họ không còn dám bợ đỡ nữa! Còn kẻ được nịnh bợ sau khi được giáo huấn cũng không còn có cảm giác lên mấy khi được nịnh bợ... Từ đó chúng ta thấy tánh hay la rầy những khuyết điểm người khác không phải là khuyết điểm mà trái lại đó là một ưu điểm. Người mang tâm tình thế tục không sao hiểu thấu và không mang nhãn quan của tình yêu thì không thể chỉ trích Tống Thượng Tiết được.
3. Có người khác phê bình cho rằng Tống Thượng Tiết thích phái nữ hơn. Những lời phê bình này không có ẩn ý gì đen tối vì điều này ai cũng biết thì Tống Thượng Tiết là một người hoàn toàn thanh sạch, không thể chê trách được. Ông thích chọn những người nữ thông dịch cho ông hơn thì quả là đúng và có nhiều lý do chính đáng: (1) Sự chú ý của người nữ tập trung hơn, nên dịch trung thực hơn và đi thẳng vào từng chữ từng câu, không suy diễn hay giải thích méo mó; (2) Thanh âm của người nữ trong trẻo hơn, vang xa hơn, hệ thống khuếch thanh lúc bấy giờ còn rất hạn chế trong các nơi đông người. Đó là lý luận của ông, dĩ nhiên không phải ai cũng đồng ý với lý luận này! Nhưng đó cũng là kinh nghiệm nghề nghiệp cá biệt của Tống Thượng Tiết. Nhưng dẫu sao thì đó không phải là một khuyết điểm của ông như nhiều người đã cố tình nêu lên. Hơn nữa Tống Thượng Tiết đối với phụ nữ rất là mực thước, không bao giờ đùa bỡn, không để miệng thế gian có thể đàm tiếu được. Bằng chứng có một hôm cô Trịnh Toại Lam đến nhà Tống Thượng Tiết để ghi lại bài giảng ông thuật lại. Ông đã vui vẻ nói cô Trịnh: “Đêm qua cô đọc tiên tri Ê=xê-chi-ên, tôi được một bài giảng, bây giờ tôi xin kể, cô cố gắng nghe và ghi chép lại cho thật đúng”. Ngay sau đó ông gọi vợ và con gái: “Nào, mẹ nó ơi, Thiên Chân ơi, hãy lên lầu ngay bây giờ nghe cha giảng Thánh Kinh!” Bà Tống cùng Thiên Chân, thứ nữ của Tống Thượng Tiết, lúc ấy mới lên 7 cùng lên lầu. Nhưng bà Tống dọn dẹp phòng ốc nên chỉ ngồi một lát rồi xuống dưới nhà. Thiên Chân xuống theo mẹ, nhưng cha không cho bắt phải ngồi lại để nghe ông giảng Thánh Kinh. Cô bé Thiên Chân đáng thương như đã bị giam lỏng hơn một tiếng đồng hồ, bé muốn khóc nhưng lại không dám nên gương mặt bé mếu mó trông rất tội nghiệp. Trịnh Toại Lam rất bất bình nhưng sợ uy của Tống Thượng Tiết nên không dám lên tiếng binh vực cho cô bé. Mãi về sau cô Trịnh mới biết hậu ý của Tống Thượng Tiết: Không phải ông chuyên chế bắt cô bé phải vâng phục, hay muốn cho cô bé phải nghe những giáo lý cao siêu, nhưng trước kia những cuộc đàm đạo đều ở nhà dưới, hôm nay lên lầu là để được yên tĩnh hơn, nhưng để tránh sự hiểu lầm có thể xay ra... nên cô bé Thiên Chân trở thành “nạn nhân” bất đắc dĩ.
Từ đó chúng ta có thể hiểu được Tống Thượng Tiết không phải chỉ là một con mọt sách không biết gì về cách xử thế, ngượi lại ông là một người tế nhị biết thích ứng với hoàn cảnh để xử sự. Một con người chẳng những tự mình buộc mình trong khuôn khổ kỷ luật nghiêm túc, mà còn buộc những người đồng công cũng phải ở trong khuôn khổ đúng cách và ích lợi ấy. Tôi xin dẫn chứng một vài thí dụ khác:
- Mùa Xuân năm 1938, Cô Trịnh Toại Lam có việc cần phải từ Thượng Hải về Phước Châu gấp, nhưng không có người đồng hành. Lúc ấy có một nhà truyền đạo tuổi trung niên – là người đồng hương Hồng Kông với cô Trịnh – muốn dùng đường bộ xuống làm việc phía bắc Phước Kiến, Trịnh Toại Lam muốn tháp tùng đi theo người truyền đạo này về Phước Châu, nhưng Tống Thượng Tiết không cho, lấy cớ rằng, trong thời buổi ly loạn, đường xá giao thông thường bị gián đoạn, nam nữ đồng hành sẽ có nhiều bất tiện. Trịnh Toại Lam vì lòng nao nức muốn về nhà ngay, cô cho rằng đồng hành với một người truyền đạo kính sợ Chúa chắc là an toàn. Nhưng Tống Thượng Tiết phản đối kịch liệt, ông bắt cả ba cùng nhau cầu nguyện nhiều lần và cuối cùng chuyến đi bị ngăn trở. Mãi về sau khi đã hiểu bíêt ra, Trịnh Toại Lam mới thấy được sự khôn ngoan và chí lý của Tống Thượng Tiết. Nếu không nghe theo lời chỉ dạy của ông hôm đó sợ đã có xảy ra nhiều điều không hay.
- Khi Tống Thượng Tiết muốn thiết lập tại Thượng Hải một trạm thông tin liên lạc với các đoàn truyền giáo quốc nội và hải ngoại, Tống Thượng Tiết có ý mời cô Trịnh Toại Lam phục trách, nhưng lại ngại cô Trịnh tuổi trẻ thiếu kinh nghiệm, lại là thiếu nữ không đủ nghị lực. Nhưng nếu dùng một người nam thì lại không lo được những công việc lặt vặt, cần sự tỉ mỉ. Nên biện pháp dùng một nam một nữ là lý tưởng. Nhưng Tống Thượng Tiết giữ gìn ý tứ buộc hai người muốn làm việc chung với nhau trước nhất phải đính hôn với nhau đã. Tống Thượng Tiết tự đứng ra làm ông mai và chủ hôn, thậm chí cũng là người chịu trách nhiệm về lương bổng cho cả hai “nhân viên” này. Nhưng cô Trịnh đã trả lời rằng: “Tôi chỉ muốn sống độc thân để hầu việc Chúa”. Cho nên Tống Thượng Tiết đành hy sinh, bỏ qua kế hoạch thành lập trụ sở thông tin liên lạc tại Thượng Hải.
- Tháng 7/1932, một nhân viên của Bêtên gặp một cô họ Vương trong trại hè và muốn đính ước cùng cô này, nhưng cũng trong ngày đó lại có một cô họ Lưu trên danh nghĩa là từ Phước Châu đến dự trại bồi linh nhưng kỳ thực là đến để theo đuổi anh chàng nhân viên này. Chàng ta vốn rất đẹp trai lại có tài năng về âm nhạc, hướng dẫn ca hát Ban Thanh Niên Hội Thánh Phước Châu. Cô họ Lưu rất thích anh chàng đẹp trai này nên thường nhờ mẹ mời chàng cùng đi ra ngoài chơi hoặc dạo phố mua sắm. Chàng thanh niên đẹp trai này cũng thuận ý và đôi bên cũng đã có lời đính hôn. Nhưng anh chàng lại không chung thủy, nên khi thấy cô họ Vương đã muốn thay lòng đổi dạ. Tống Thượng Tiết biết được việc này, đã bẻ trách và sửa trị trước mặt mọi trại viên. Chàng thanh niên đó đã phải đứng dậy xưng nhận tội lỗi trước mọi người. Người thiếu nữ họ Vương vô cùng xấu hổ, cô họ Lưu cũng thấy tủi nhục và việc đính ước của hai người vì vậy đành tan vỡ!
4. Tống Thượng Tiết thường nói: “Tôi không khoe mình, mỗi ngày tôi đều ra mắt Chúa, vì tấm lòng tôi thanh sạch”. Nếu Tống Thượng Tiết có một tà ý nào trong vấn đề nam nữ thì chắc chắn không làm sao gặp được mặt Chúa và cũng không thể nhận được quyền năng thiên thượng đến từ Ngài như vậy.
5. Vấn đề Tình và Tiền? Một số người trong Đoàn Truyền Giáo lưu động Bêtên đã từng nghi ngờ Tống Thượng Tiết đã tự ý nhận tiền dâng hiến của các tín hữu hay âm thầm bảo các nhà hảo tâm muốn dâng hiến cho Đoàn Truyền Giáo gửi về tư gia cho ông. Sự thật thì những lời đàm tiếu đó vô căn cứ và hoàn toàn sai sự thật, nên nơi đây chúng ta cũng không cần phải nhiều lời minh xác cho một việc không căn cứ này. Ngay cả cho đến khi Tống Thượng Tiết đi hầu việc Chúa tự do (không lệ thuộc vào một cơ quan tổ chức nào) thì vẫn bị mang tiếng là người tham lam tiền bạc. Nhưng với cái nhin thật khách quan, hãy nhìn vào cuộc sống của Tống Thượng Tiết. Không bao giờ ông có một hành động hưởng thụ vật chất. Luôn luôn ông dùng những phương tiện di chuyển rẻ tiền nhất, hành trang không quá một chiếc vali nhỏ, trang phục thì luôn luôn mặc một chiếc áo vải thô, nơi ở thì rất giản đơn. Con người có một cuộc sống như vậy thì tham lam tiền bạc để làm gì? Khi Tống Thượng Tiết đi hầu việc Chúa, đương nhiên các đoàn thể cũng như cá nhân biếu tiền cho ông cũng nhiều, vì họ biết rằn gông là người đi hầu việc Chúa tự do, không được một cơ quan nào đài thọ tiền bạc lương bổng. Hơn nữa nhiều người cảm kích đời sống hy sinh của ông muốn giúp đỡ để ông có phương tiện mà hầu việc Chúa, truyền giảng Phúc âm của Ngài. Một người hầu việc Chúa nhận tiền công từ nơi Chúa thì không thể kết luận là người tham lam tiền bạc được. Nếu giả định rằng Tống Thượng Tiết khước từ tất cả những món tiền mà con cái Chúa giúp đỡ thì những vạch là tìm sâu cũng có thể lên án hoặc phao lên rằng ông là người tìm cầu danh vọng, bằng sức lực và tài năng để có tiếng thơm và mua chuộc lòng người về với mình!! Chúng ta cũng biết rất rõ rằng, những số tiền Tống Thượng Tiết nhận được, ông đã dè xem chi tiêu cho mình trong khi đi lại hầu việc Chúa, giúp cho gia đình một ít, số còn lại ông đều dâng hiến cho Chúa. Gia đình của Tống Thượng Tiết cũng xác nhận rằng, ông rất ít khi gửi tiền về nhà, nếu có thì cũng qua những người được ủy quyền để trao lại, còn phần nhiều ông trực tiếp gửi vào chương mục của Hội Thánh. Người em của Tống Thượng Tiết nhiều lần đã khuyên Tống Thượng Tiết nên gửi chút tiền về cho chị và các cháu. Nhưng thường được nghe ông trả lời: “Cha trên trời chắc chắn sẽ lo toan!”
Người em trai của ông chia xẻ: “Tống Thượng Tiết vốn không phải là người có sức khỏe tốt, nhưng lại rất “liều mình” trong công việc Chúa. Đã vậy lại gặp quá nhiều trở ngại chống đối, thậm chí có kẻ muốn ám hại mạng sống ông nữa. Chúng tôi rất e ngại. Khi Tống Thượng Tiết hầu việc Chúa ở hải ngoại có ai gửi tiền đến là chúng tôi phải gấp rút gửi ngay vào ngân hàng!” Những lời tâm sự là đúng sự thật, vì ông thường tâm tình với con gái yêu của mình rằng: “Ba đã được Chúa sai quạ nuôi trong suốt thời gian hầu việc Chúa!” và lúc sắp lâm chung, ông cũng trăn trối cùng vợ con: “Chắc chắn sau này mình và các con, Chúa cũng sẽ sai quạ nuôi như tiên tri Êli đầy tớ của Đức Chúa Trời vậy”. Tống Thượng Tiết lìa đời không để một tài sản nhỏ nào cho vợ và các con, tiền bạc trong ngân hàng cũng không.
6. Tống Thượng Tiết là một người tính nóng nảy, trong gia đình đôi lúc cũng nổi cơn nóng giận, nhưng rất hiếm, còn bình thường ông sống rất hài hòa hạnh phúc với gia đình. Ông thường bắt chước các con âu yếm gọi vợ là mẹ. Lối xưng hô thân mật này nói lên tấm lòng tha thiết mến yêu của ông đối với vợ”.
Tuy vậy thời gian ông dành cho gia đình chẳng được bao nhiều lần, mỗi lần lại quá ngắn và thường bị rầy rà... Lúc nào ông cũng bận rộn phải thư từ cho thân hữu xa gần, và phải làm nhiều việc linh tinh khác. Những lúc được về với gia đình gần như ông đã dành tất cả cho các con. Một lần kia, có một người đến thấy mấy đứa nhỏ đang nô đùa với một người trung niên. Họ đùa giỡn với nhau thật hào hứng. Chờ một lát khá lâu, người khách lên tiếng hỏi một cô bé: “Có Tiến sĩ Tống ở nhà không?” Cô bé vừa mời vừa chỉ ngay vào người trung niên đang nô đùa với cô: “Dạ đây!” Khách rất đỗi ngạc nhiên, vì tưởng người này là kẻ giúp việc trong nhà cho Tống Thượng Tiết. Vì trông người này chẳng những mặt mày xấu xí, phục sức lại tồi tàn, mà khách đến nhà cũng chẳng để tâm chào hỏi, cứ mải mê đùa giỡn với các con?... Nhìn qua vài nét như vậy cũng thấy được nếp sống gia đình đầm ấm của Tống Thượng Tiết. Nhưng những giây phút phước hạnh ấy của các con Tống Thượng Tiết rất hiếm hoi. Tổng cộng mỗi năm ông sống chung với gia đình chỉ độ 30 ngày.
Khi gia đình Tống Thượng Tiết dời từ Hưng Hóa lên Thượng Hải vì Thượng Hải là tụ điểm của trục lộ giao thông, thuận tiện giao dịch với ngoại quốc. Trong cuộc chiến chống Nhật, Thượng Hải trải qua hai lần tai biến. Hai lần ấy Tống Thượng Tiết đều để vợ con tự lo trong khói lửa chinh chiến, còn mình thì mãi lo hầu việc Chúa ở phương xa. Nhiều người đã phê phán gay gắt Tống Thượng Tiết về điểm thiếu bổn phận và trách nhiệm với vợ con. Nhưng họ đã quên đi lời Chúa Giê-xu dạy rằng: “Ai yêu cha mẹ, vợ con, anh em hơn Ta thì không đáng cho Ta...”
7. Thái độ với người thông dịch: Nhiều lần Tống Thượng Tiết không cho người thông dịch tiếp tục nữa vì dịch sai, lúng túng hay diễn dịch dài dòng làm mất ý chính. Hành động này cũng làm cho nhiều người khó chịu, nhưng suy cho cùng, chính Tống Thượng Tiết đã không tiếc chính mình, coi danh dự mình như rơm rác. Tất cả tập trung của ông: Sứ điệp của Cha phải rao giảng cho rõ ràng. Ông nghĩ rằng người khác cũng nên có thái độ như vậy. Người dịch khi thấy mình không đủ khả năng thông dịch thì tự ý nên đi xuống để người khác làm việc cho có hiệu quả hơn. Nhất là đối với những thông dịch viên đã dịch sai hẳn ý của ông muốn nói. Như ngày 5/6/1932, tại Hội Thánh Thượng Hữu Đường thuộc Phước Châu, Tống Thượng Tiết kêu gọi các nữ sinh trong dịp nghỉ hè nên đến các làng mạc để truyền bá Phúc âm, thế mà người thông dịch đã dịch rằng “Những cô gái dù đã lập gia đình rồi cũng phải ra đi rao giảng Phúc âm”... Đó là một sự sai lầm khá khôi hài nhưng chưa đến nổi trầm trọng như tháng 7/1935. Trong một Đại hội nghiên cứu Thánh Kinh của Đoàn Truyền Giáo Phúc âm toàn quốc lần thứ 1 tại Hàn Châu, trong một bài giảng, Tống Thượng TIết mô tả tâm trạng của Mác khi chia tay với Phao-lô và Banaba để quay trở về Jêrusalem. Vì là một thanh niên trẻ tuổi đi truyền giáo lâu ngày nên bị “homesick” nhớ nhà; ấy thế mà người thông dịch đã chuyển ngữ ra là vì Mác còn trẻ tuổi, còn ham sắc dục nên phải quay về nhà...” Chữ “homesick” tương tự như chữ háo sắc của Hạ Môn.
Tuy đại hội tổ chức tại Hàn Châu nhưng có hơn 300 người từ Hạ Môn đến tham dự và họ đã ghi chép lại. Sai lầm như vậy quả là một tai ương! Về sau cũng vì chuyện ghi chép sai này mà có người đã đả kích Tống Thượng Tiết kịch liệt, cho rằng ông là một người bị thần kinh... Như vậy chuyện ông mời người chuyển ngữ cho tiện đi xuống há không phải là chuyện đáng nên làm chăng?
Tác giả của tập sách này cũng đã gặp nhiều người đã từng thông dịch cho Tống Thượng Tiết. Họ cũng bị những đau thương oan ức:
a. Tiếng Quan Thoại vùng Hưng Hóa của Tống Thượng Tiết thật khó nghe. Nếu không quen và không biết nhiều tiếng địa phương Hưng Hóa thì không thể thông dịch cho ông được.
b. Khi giảng Tống Thượng Tiết hay chạy tới chạy lui trên tòa giảng, người dịch nhiều khi không chạy theo kịp, nên đã nghe không rõ.
c. Lúc Tống Thượng Tiết giảng thường dùng “trợ huấn cụ”. Thông dịch viên nghĩ rằng với trợ huấn cụ rõ ràng như vậy thì không cần phải thông dịch nữa, nhưng ông lại nghĩ rằng nếu không thông dịch theo nhịp của ông với trợ huấn cụ thì sức mạnh của bài giảng mất ý nghĩa đi rất nhiều. Ông thường rất bất mãn với người dịch không cố gắng đúng nhịp điệu làm theo lời và hành động với ông. Thí dụ như khi giảng về Naaman, quan tổng binh xứ Siry tắm bảy lần để được sạch bệnh phung, Tống Thượng Tiết đã dùng tòa giảng như bờ sông và phía dưới là dòng sông. Nên ông đã nhảy lên nhảy xuống đúng 7 lần.
d. Tống Thượng Tiết rất nóng tính, người dịch nghe không kịp cũng không dám hỏi lại nhiều, không hỏi thì không dịch được... cứ như thế mà đâm ra lúng túng... Tống Thượng Tiết lại phải thay đổi người dịch, xem ra sự than phiền của người dịch cũng không phải là vô lý.
8. Lắm lúc Tống Thượng Tiết đang khi giảng, ông nhìn thấy một chữ bỗng nảy sinh ra những ý mới mẻ:
a. Chẳng hạn nhìn Chữ Nam Xương, Tống Thượng Tiết giải thích, chữ này dạy cho tôi được “chỉ Nam phải quang xương”.
b. Một hôm khác, ông thấy chữ Học Liên là tên của cụ thân sinh. Tống Thượng Tiết giải thích: Dạy cho tôi một bài “học”, và “liên” tức là hạ các thành phố nhỏ, rồi sau đó sẽ liên thông đến các thành phố lớn.
c. Một lần về Hưng Hóa truyền giảng chỉ có hơn 50 người lên phía trước cầu nguyện xưng nhận Chúa, Tống Thượng Tiết nói còn những người khác là “bất Hưng bất Hóa”.
d. Lúc Tống Thượng Tiết đến giảng tại Khai Phong, vì tình hình chiến sự, nên phải giới nghiêm, nên những buổi truyền giảng phải họp lại ở ngoại thành, sau 7 giờ tối giới nghiêm không ai được ra hay vào nữa, sau một thời gian tình hình bớt căng thẳng, Mục sư có thể hướng dẫn hội chúng lui tới, Tống Thượng Tiết phát biểu: “Quả đúng đã Khai Phong rồi”.
e. Vương Thuận là tên của một người câm. Tống Thượng Tiết nói rằng khi mới nghe tên của anh này, tôi chắc chắn anh ta sẽ được chữa lành vì nếu lật ngược tên của anh lại là Thuận Vương nghĩa là “thuận phục Đấng Cứu Thế là Vua của muôn vua”;
f. Mông Thành: Tống Thượng Tiết hy vọng cả thành đều mong ơn Chúa;
g. Trường Lạc: Tống Thượng Tiết mong Chúa ban thưởng cho tôi là vĩnh phước Trường Lạc;
h. Ngô Châu: Tống Thượng Tiết đã lấy chữ ngô trong hán tự tách ra làm hai, một phần là Ngộ có nghĩa là Tôi. Phần thứ hai là chữ thập (+): Mang cái tôi đóng đinh trên thập tự giá có nghĩa là mang con người cũ của tôi mà treo trên cây gỗ đó.
Giải thích theo lối chiết tự như thế, tiếng Anh gọi là Ennagram (graphology), lâu lâu dùng và phải dùng cho thật chính xác mới có nghĩa và thâm thúy, chứ như người thiếu học lại không được Chúa Thánh Linh hướng dẫn mà bắt chước dùng thì nhiều khi lố lăng, gán ghép không hợp lý. Người thông dịch lại quá vội vàng, khó có đủ thì giờ để hiểu rõ ý hầu dịch cho thật sát nghĩa.
Lắm lúc Tống Thượng Tiết trích ra những chữ được phiên âm ra chữ hán hay những địa danh ngoại quốc để phân tích và giải thích theo sự hiểu biết của ông. Thí dụ như Tống Thượng Tiết đã dùng chữ Giêrasê trong Phúc âm Mác đoạn 5: “Tôi rất thích căn cứ vào ba chữ hán phiên âm này để giải thích ý nghĩa này: (1) Giê phân tích theo hán tự là các khúc cây; (2) ra: Chữ hán là lập có nghĩa là sự hướng dẫn; (3) sê: chữ chánh là rừng cây, có ý nói rằng chỉ cần một người thật sự được hồng ân cứu chuộc thì có thể hướng dẫn nhiều người khác đến Chúa Cứu Thế. Chúa Giê-xu ở trên bờ Giêrasê tuy chỉ cứu được một người nhưng nhờ đó mà cả vùng nghe đến hồng ân cứu chuộc. Chúa Giê-xu rất coi trọng phương pháp “Giêrasê” này. Đức Chúa Giê-xu chỉ cần cứu một người đàn bà Samari, sau đó là cả thành kéo đến tin nhận Chúa. Trên đường Đamách Chúa chỉ bắt phục một mình Saulơ, để rồi khai phá cả một kỷ nguyên Hội Thánh và từ đó vô số người tin nhận Chúa. Tống Thượng Tiết không phải là người phân tích Thánh Kinh theo lối xét ý nghĩa của từng chữ, nhưng ông muốn gây sự thích thú cho người nghe. Để có thêm ý nghĩa mới Tống Thượng Tiết đã dùng Ma-thi-ơ đoạn 5, nói về các phước lành, giảng và phân tích cùng một lúc với sách Giôna và đối chiếu những Thi Thiên cùng sách Phúc âm Mác. Ông cũng dùng 7 ngày sáng tạo trong Sáng Thế Ký để tỉ đối với quá trình cuộc đời chính mình. Cũng may mà Tống Thượng Tiết không đi sâu vào chiều hướng này.
Về phương diện này Mục sư Vương Minh Đạo đã có lời bình phẩm như sau: “Mùa xuân năm 1932, tôi đến giảng cho vài Hội Thánh tại tỉnh Sơn Đông đã nghe một số tín hữu than phiền về cách giải thích Kinh Thánh theo lối chiết tự, chính tôi cũng có những ý tưởng chống đối Tống Thượng Tiết. Lúc bấy giờ ông đang giảng tại một số Hội Thánh cũng thuộc vùng Sơn Đông, ông đã cố tình bàn quá rộng để mất hết ý nghĩa ban đầu và nhất là khi ông giải thích các địa danh và tên người trong Thánh Kinh đã không nghiên cứu đến nguyên văn của nó mà chỉ căn cứ vào ý nghĩa chữ Hán mà giải thích, sai lệch cả ý nghĩa nguyên thủy của nó. Thí dụ như khi Tống Thượng Tiết giải nghĩa tên của Philát: Phi chữ Hán là bỉ có nghĩa “nợ”, Lát chữ Hán là “lôi kéo”. Có nghĩa là người của nó lôi kéo đến thì đông, còn các người đến đó thì ít... Đại loại những lối giải thích và giải nghĩa Thánh Kinh như vậy khiến tôi thật thắc mắc không biết tại sao một người đã từng du học ngoại quốc lại không biết những địa danh và tên người trong Thánh Kinh chỉ là những phiên âm chứ đâu có mang ý nghĩa gì trong Hán văn? Vì vậy thoạt đầu đối với Tống Thượng Tiết tôi đã có một ấn tượng rất xấu. Nhưng vì lúc đó tôi chưa từng biết tới ông cũng như chưa nghe ông giảng Thánh Kinh nên không dám có ý kiến gì. Nhưng về sau tôi thấy tận mắt những kết quả Tống Thượng Tiết mang lại thật vĩ đại, có vô số người đã ăn năn xưng tội, tin nhận Chúa Cứu Thế và nhận được sự cứu rỗi. Có rất nhiều tín đồ được phấn hưng khi nghe ông giảng bồi linh. Về sau Tống Thượng Tiết lại mạnh dạn chỉ trích hội chúng và tất cả các hệ phái về tội lỗi, ông không e ngại giáo quyền, cũng không quan tâm đến danh dự cá nhân mình. Tại một vài nơi, thậm chí có những người âm mưu ám hại Tống Thượng Tiết. Nhưng Chúa đã gìn giữ nên Tống Thượng Tiết không bị trúng độc thủ mưu của họ. Tôi cũng từng nghe Tống Thượng Tiết lớn tiếng hô hào truyền bá Phúc âm bất chấp sự nguy hiểm đến tính mạng của mình. Tôi phải thừa nhận rằng Tống Thượng Tiết quả là một người đã được Chúa trọng dụng. Từ đó những ấn tượng của tôi về Tống Thượng Tiết đã hoàn toàn thay đổi. Phương pháp giải Kinh của ông có một đôi khi không thích hợp và đi quá xa ý chính, nhưng vì ân tứ của Chúa ban cho ông là để kêu gọi con người đến với Chúa Cứu Thế chứ không phải để diễn giải Thánh Kinh. Đối với phương pháp dùng chữ Hán để giải thích các đại danh từ, có người cho rằng Tống Thượng Tiết chỉ nhìn mặt chữ rồi phân tích chữ ấy ra trong ý nghĩa chữ Hán để giải thích Thánh Kinh là xằng bậy! Căn cứ vào ký ức và những bản ghi chép được của cô Trịnh Toại Lam – gần như buổi thuyết giảng nào của Tống Thượng Tiết cô cũng có mặt. Cô ghi lại như sau: “Việc Tống Thượng Tiết giải thích ý nghĩa các tên người và địa danh chỉ có một mục đích làm cho người nghe có một ấn tượng sâu sắc hơn khiến cho người ta dễ nhớ, nhưng lắm lúc người nghe cũng tung ra những tin đồn thất thiệt. Như có người đã thuật lại cho Mục sư Vương Minh Đạo về việc Tống Thượng Tiết đã giải thích tên Philát – như chúng ta đã nghe qua – là không đúng sự thật. Chính tai tôi đã nghe được hai lần, Tống Thượng Tiết nói rằng sự thất bại của Philát là vì ông ta để cho áp lực quần chúng gào thét, ông ta đã nhượng bộ, trong khi đó ông ta biết chắc là Chúa Giê-xu là người công nghĩa, vô tội. Ông ta có ý phóng thích Ngài, nhưng những tiếng gào thét hãy giết nó đi, “hãy giết nó đi, ví bằng quan tha người này thì quan không phải là trung thần của Sêsa”. Lương tâm của Philát bị khỏa lấp, và ông ta đã giao Chúa Giê-xu cho quần chúng, cuối cùng họ đã đóng đinh Ngài trên thập tự giá. Tống Thượng Tiết không giải thích tên Philát theo lối chiết tự. Theo tôi thì Tống Thượng Tiết chỉ muốn nêu lên một nguyênt ắc “Ý kiến đa số chưa hẳn đã là đúng tuyệt đối” Trong Thánh Kinh thư Rôma 12:17 dạy chúng ta “Chớ lấy ác trả ác cho ai, phải chăm tìm điều thiện trước mắt mọi người”. Việc lấy mắt đền mắt, răng đền răng dưới mắt loài người là công lý. Nhưng Thánh Kinh dạy chúng ta ngược lại. Vì vậy khi muốn phê phán một người nào, chúng ta nên theo nguyên tắc “chăm tìm điều thiện” có nghĩa là phải đắn đo suy xét cho chín chắn, nếu hợp lý hợp tình rồi hãy đi đến kết luận...
Chúng ta cũng không khó khăn lắm mà suy nghĩ rằng, lúc bấy giờ Trung Hoa nền giáo dục chưa được phổ biến rộng rãi. Có một số người dốt nát, nền tảng đức tin không vững chắc, xu thời, thậm chí không biết gì về nguyên tắc của Thánh Kinh, cứ dựa vào ý nghĩa chữ Hán mà giải thích, việc này có xảy ra nhưng qui trách nhiệm cho Tống Thượng Tiết là một điều bất công. Cũng như nhiều người đã dùng Thánh Kinh để suy diễn và giải thích sai lệch, nhưng Thánh Kinh không chịu trách nhiệm về những hành động đó vậy.
Tại đây chúng ta cũng nên điểm qua một vài phê phán bất công của người đời đối với một đầy tớ trung kiên của Đức Chúa Trời:
1. Bất cứ đến truyền giảng và bồi linh nơi nào, Tống Thượng Tiết cũng dặn dò phải cho ông uống nước súp gà trước khi giảng. Người đời đã phê phán uống nước súp thay nước lã là phí phạm. Đối với thời bấy giờ, như vậy là tốn kém, nhưng một vài tô súp gà thì có đáng là bao đối với mỗi ngày Tống Thượng Tiết phải giảng ba bốn bài, mỗi bài giảng có khi kéo dài đến 3,4 giờ đồng hồ. Và chúng ta cũng biết, mỗi lần giảng Tống Thượng Tiết thường gào thét như muốn dốc đổ cả lòng mình ra và muốn xuyên thấu lời Chúa vào lòng người nghe. Vì vậy mỗi lần giảng ông đã hao tốn sức lực rất nhiều. Nếu so sánh với người đời, một người làm việc lao tâm lao lực đến như thế thì phải có cao lương mỹ vị và phải được nuôi dưỡng thêm sâm nhung bổ lượng. Thế thì sao phê phán gắt gay khi Tống Thượng Tiết chỉ dùng vài chén súp gà?!
2. Tống Thượng Tiết là một người có tính tình nóng nảy, hay la rầy những người đồng công cộng tác khi bị trái ý. Chúng ta phải cảm thông với một con người làm việc quá nhiều lại không hề được nghỉ ngơi đúng mức nên tánh tình rất dễ bị gắt gỏng. Tuy nhiên sau mỗi lần Tống Thượng Tiết có lời nói hay hành vi nóng nảy thì ông đều nhận lỗi biết đó là điều chẳng hay. Thường thì ông khóc lóc tự trách mình, cho là con người cũ tác yêu tác quái. Mỗi khi Tống Thượng Tiết nổi nóng thì ai cũng phải sợ và tránh xa, vì ông không kiêng dè một ai, cho dẫu là yếu nhân, danh nhân, tuổi cao hay có địa vị quyền thế trong xã hội. Việc cần phải nói là ông nói, giáo huấn, la rầy. Người ngoại cuộc thấy hình như ông lấy làm thú vị khi la rầy như thế. Do đó họ đã than phiền, trách móc ông. Nhưng vấn đề được đặt ra là những người bị la rầy, giáo huấn có đáng được như vậy chăng? Nếu đáng phải giáo huấn la rầy mà không giáo huấn la rầy thì có phải Tống Thượng Tiết đã không phải là một người bạn chân thành, chính trực? Thói thường, người đời chỉ thích được khen tặng, ve vuốt mà không muốn bị chỉ trích, chê bai. Tống Thượng Tiết là người thẳng thắn không dung túng tội lỗi, ông có la rầy, giáo huấn thì cũng xuất phát tự tấm lòng yêu thương mà thôi. Bằng chứng là nhiều người sau khi đã bị Tống Thượng Tiết la rầy, sau trở nên những con người đổi mới. Hạng người được Tống Thượng Tiết giáo huấn nhiều nhất là thích nịnh bợ và được nịnh bợ. Vì sau khi bị la rầy họ không còn dám bợ đỡ nữa! Còn kẻ được nịnh bợ sau khi được giáo huấn cũng không còn có cảm giác lên mấy khi được nịnh bợ... Từ đó chúng ta thấy tánh hay la rầy những khuyết điểm người khác không phải là khuyết điểm mà trái lại đó là một ưu điểm. Người mang tâm tình thế tục không sao hiểu thấu và không mang nhãn quan của tình yêu thì không thể chỉ trích Tống Thượng Tiết được.
3. Có người khác phê bình cho rằng Tống Thượng Tiết thích phái nữ hơn. Những lời phê bình này không có ẩn ý gì đen tối vì điều này ai cũng biết thì Tống Thượng Tiết là một người hoàn toàn thanh sạch, không thể chê trách được. Ông thích chọn những người nữ thông dịch cho ông hơn thì quả là đúng và có nhiều lý do chính đáng: (1) Sự chú ý của người nữ tập trung hơn, nên dịch trung thực hơn và đi thẳng vào từng chữ từng câu, không suy diễn hay giải thích méo mó; (2) Thanh âm của người nữ trong trẻo hơn, vang xa hơn, hệ thống khuếch thanh lúc bấy giờ còn rất hạn chế trong các nơi đông người. Đó là lý luận của ông, dĩ nhiên không phải ai cũng đồng ý với lý luận này! Nhưng đó cũng là kinh nghiệm nghề nghiệp cá biệt của Tống Thượng Tiết. Nhưng dẫu sao thì đó không phải là một khuyết điểm của ông như nhiều người đã cố tình nêu lên. Hơn nữa Tống Thượng Tiết đối với phụ nữ rất là mực thước, không bao giờ đùa bỡn, không để miệng thế gian có thể đàm tiếu được. Bằng chứng có một hôm cô Trịnh Toại Lam đến nhà Tống Thượng Tiết để ghi lại bài giảng ông thuật lại. Ông đã vui vẻ nói cô Trịnh: “Đêm qua cô đọc tiên tri Ê=xê-chi-ên, tôi được một bài giảng, bây giờ tôi xin kể, cô cố gắng nghe và ghi chép lại cho thật đúng”. Ngay sau đó ông gọi vợ và con gái: “Nào, mẹ nó ơi, Thiên Chân ơi, hãy lên lầu ngay bây giờ nghe cha giảng Thánh Kinh!” Bà Tống cùng Thiên Chân, thứ nữ của Tống Thượng Tiết, lúc ấy mới lên 7 cùng lên lầu. Nhưng bà Tống dọn dẹp phòng ốc nên chỉ ngồi một lát rồi xuống dưới nhà. Thiên Chân xuống theo mẹ, nhưng cha không cho bắt phải ngồi lại để nghe ông giảng Thánh Kinh. Cô bé Thiên Chân đáng thương như đã bị giam lỏng hơn một tiếng đồng hồ, bé muốn khóc nhưng lại không dám nên gương mặt bé mếu mó trông rất tội nghiệp. Trịnh Toại Lam rất bất bình nhưng sợ uy của Tống Thượng Tiết nên không dám lên tiếng binh vực cho cô bé. Mãi về sau cô Trịnh mới biết hậu ý của Tống Thượng Tiết: Không phải ông chuyên chế bắt cô bé phải vâng phục, hay muốn cho cô bé phải nghe những giáo lý cao siêu, nhưng trước kia những cuộc đàm đạo đều ở nhà dưới, hôm nay lên lầu là để được yên tĩnh hơn, nhưng để tránh sự hiểu lầm có thể xay ra... nên cô bé Thiên Chân trở thành “nạn nhân” bất đắc dĩ.
Từ đó chúng ta có thể hiểu được Tống Thượng Tiết không phải chỉ là một con mọt sách không biết gì về cách xử thế, ngượi lại ông là một người tế nhị biết thích ứng với hoàn cảnh để xử sự. Một con người chẳng những tự mình buộc mình trong khuôn khổ kỷ luật nghiêm túc, mà còn buộc những người đồng công cũng phải ở trong khuôn khổ đúng cách và ích lợi ấy. Tôi xin dẫn chứng một vài thí dụ khác:
- Mùa Xuân năm 1938, Cô Trịnh Toại Lam có việc cần phải từ Thượng Hải về Phước Châu gấp, nhưng không có người đồng hành. Lúc ấy có một nhà truyền đạo tuổi trung niên – là người đồng hương Hồng Kông với cô Trịnh – muốn dùng đường bộ xuống làm việc phía bắc Phước Kiến, Trịnh Toại Lam muốn tháp tùng đi theo người truyền đạo này về Phước Châu, nhưng Tống Thượng Tiết không cho, lấy cớ rằng, trong thời buổi ly loạn, đường xá giao thông thường bị gián đoạn, nam nữ đồng hành sẽ có nhiều bất tiện. Trịnh Toại Lam vì lòng nao nức muốn về nhà ngay, cô cho rằng đồng hành với một người truyền đạo kính sợ Chúa chắc là an toàn. Nhưng Tống Thượng Tiết phản đối kịch liệt, ông bắt cả ba cùng nhau cầu nguyện nhiều lần và cuối cùng chuyến đi bị ngăn trở. Mãi về sau khi đã hiểu bíêt ra, Trịnh Toại Lam mới thấy được sự khôn ngoan và chí lý của Tống Thượng Tiết. Nếu không nghe theo lời chỉ dạy của ông hôm đó sợ đã có xảy ra nhiều điều không hay.
- Khi Tống Thượng Tiết muốn thiết lập tại Thượng Hải một trạm thông tin liên lạc với các đoàn truyền giáo quốc nội và hải ngoại, Tống Thượng Tiết có ý mời cô Trịnh Toại Lam phục trách, nhưng lại ngại cô Trịnh tuổi trẻ thiếu kinh nghiệm, lại là thiếu nữ không đủ nghị lực. Nhưng nếu dùng một người nam thì lại không lo được những công việc lặt vặt, cần sự tỉ mỉ. Nên biện pháp dùng một nam một nữ là lý tưởng. Nhưng Tống Thượng Tiết giữ gìn ý tứ buộc hai người muốn làm việc chung với nhau trước nhất phải đính hôn với nhau đã. Tống Thượng Tiết tự đứng ra làm ông mai và chủ hôn, thậm chí cũng là người chịu trách nhiệm về lương bổng cho cả hai “nhân viên” này. Nhưng cô Trịnh đã trả lời rằng: “Tôi chỉ muốn sống độc thân để hầu việc Chúa”. Cho nên Tống Thượng Tiết đành hy sinh, bỏ qua kế hoạch thành lập trụ sở thông tin liên lạc tại Thượng Hải.
- Tháng 7/1932, một nhân viên của Bêtên gặp một cô họ Vương trong trại hè và muốn đính ước cùng cô này, nhưng cũng trong ngày đó lại có một cô họ Lưu trên danh nghĩa là từ Phước Châu đến dự trại bồi linh nhưng kỳ thực là đến để theo đuổi anh chàng nhân viên này. Chàng ta vốn rất đẹp trai lại có tài năng về âm nhạc, hướng dẫn ca hát Ban Thanh Niên Hội Thánh Phước Châu. Cô họ Lưu rất thích anh chàng đẹp trai này nên thường nhờ mẹ mời chàng cùng đi ra ngoài chơi hoặc dạo phố mua sắm. Chàng thanh niên đẹp trai này cũng thuận ý và đôi bên cũng đã có lời đính hôn. Nhưng anh chàng lại không chung thủy, nên khi thấy cô họ Vương đã muốn thay lòng đổi dạ. Tống Thượng Tiết biết được việc này, đã bẻ trách và sửa trị trước mặt mọi trại viên. Chàng thanh niên đó đã phải đứng dậy xưng nhận tội lỗi trước mọi người. Người thiếu nữ họ Vương vô cùng xấu hổ, cô họ Lưu cũng thấy tủi nhục và việc đính ước của hai người vì vậy đành tan vỡ!
4. Tống Thượng Tiết thường nói: “Tôi không khoe mình, mỗi ngày tôi đều ra mắt Chúa, vì tấm lòng tôi thanh sạch”. Nếu Tống Thượng Tiết có một tà ý nào trong vấn đề nam nữ thì chắc chắn không làm sao gặp được mặt Chúa và cũng không thể nhận được quyền năng thiên thượng đến từ Ngài như vậy.
5. Vấn đề Tình và Tiền? Một số người trong Đoàn Truyền Giáo lưu động Bêtên đã từng nghi ngờ Tống Thượng Tiết đã tự ý nhận tiền dâng hiến của các tín hữu hay âm thầm bảo các nhà hảo tâm muốn dâng hiến cho Đoàn Truyền Giáo gửi về tư gia cho ông. Sự thật thì những lời đàm tiếu đó vô căn cứ và hoàn toàn sai sự thật, nên nơi đây chúng ta cũng không cần phải nhiều lời minh xác cho một việc không căn cứ này. Ngay cả cho đến khi Tống Thượng Tiết đi hầu việc Chúa tự do (không lệ thuộc vào một cơ quan tổ chức nào) thì vẫn bị mang tiếng là người tham lam tiền bạc. Nhưng với cái nhin thật khách quan, hãy nhìn vào cuộc sống của Tống Thượng Tiết. Không bao giờ ông có một hành động hưởng thụ vật chất. Luôn luôn ông dùng những phương tiện di chuyển rẻ tiền nhất, hành trang không quá một chiếc vali nhỏ, trang phục thì luôn luôn mặc một chiếc áo vải thô, nơi ở thì rất giản đơn. Con người có một cuộc sống như vậy thì tham lam tiền bạc để làm gì? Khi Tống Thượng Tiết đi hầu việc Chúa, đương nhiên các đoàn thể cũng như cá nhân biếu tiền cho ông cũng nhiều, vì họ biết rằn gông là người đi hầu việc Chúa tự do, không được một cơ quan nào đài thọ tiền bạc lương bổng. Hơn nữa nhiều người cảm kích đời sống hy sinh của ông muốn giúp đỡ để ông có phương tiện mà hầu việc Chúa, truyền giảng Phúc âm của Ngài. Một người hầu việc Chúa nhận tiền công từ nơi Chúa thì không thể kết luận là người tham lam tiền bạc được. Nếu giả định rằng Tống Thượng Tiết khước từ tất cả những món tiền mà con cái Chúa giúp đỡ thì những vạch là tìm sâu cũng có thể lên án hoặc phao lên rằng ông là người tìm cầu danh vọng, bằng sức lực và tài năng để có tiếng thơm và mua chuộc lòng người về với mình!! Chúng ta cũng biết rất rõ rằng, những số tiền Tống Thượng Tiết nhận được, ông đã dè xem chi tiêu cho mình trong khi đi lại hầu việc Chúa, giúp cho gia đình một ít, số còn lại ông đều dâng hiến cho Chúa. Gia đình của Tống Thượng Tiết cũng xác nhận rằng, ông rất ít khi gửi tiền về nhà, nếu có thì cũng qua những người được ủy quyền để trao lại, còn phần nhiều ông trực tiếp gửi vào chương mục của Hội Thánh. Người em của Tống Thượng Tiết nhiều lần đã khuyên Tống Thượng Tiết nên gửi chút tiền về cho chị và các cháu. Nhưng thường được nghe ông trả lời: “Cha trên trời chắc chắn sẽ lo toan!”
Người em trai của ông chia xẻ: “Tống Thượng Tiết vốn không phải là người có sức khỏe tốt, nhưng lại rất “liều mình” trong công việc Chúa. Đã vậy lại gặp quá nhiều trở ngại chống đối, thậm chí có kẻ muốn ám hại mạng sống ông nữa. Chúng tôi rất e ngại. Khi Tống Thượng Tiết hầu việc Chúa ở hải ngoại có ai gửi tiền đến là chúng tôi phải gấp rút gửi ngay vào ngân hàng!” Những lời tâm sự là đúng sự thật, vì ông thường tâm tình với con gái yêu của mình rằng: “Ba đã được Chúa sai quạ nuôi trong suốt thời gian hầu việc Chúa!” và lúc sắp lâm chung, ông cũng trăn trối cùng vợ con: “Chắc chắn sau này mình và các con, Chúa cũng sẽ sai quạ nuôi như tiên tri Êli đầy tớ của Đức Chúa Trời vậy”. Tống Thượng Tiết lìa đời không để một tài sản nhỏ nào cho vợ và các con, tiền bạc trong ngân hàng cũng không.
6. Tống Thượng Tiết là một người tính nóng nảy, trong gia đình đôi lúc cũng nổi cơn nóng giận, nhưng rất hiếm, còn bình thường ông sống rất hài hòa hạnh phúc với gia đình. Ông thường bắt chước các con âu yếm gọi vợ là mẹ. Lối xưng hô thân mật này nói lên tấm lòng tha thiết mến yêu của ông đối với vợ”.
Tuy vậy thời gian ông dành cho gia đình chẳng được bao nhiều lần, mỗi lần lại quá ngắn và thường bị rầy rà... Lúc nào ông cũng bận rộn phải thư từ cho thân hữu xa gần, và phải làm nhiều việc linh tinh khác. Những lúc được về với gia đình gần như ông đã dành tất cả cho các con. Một lần kia, có một người đến thấy mấy đứa nhỏ đang nô đùa với một người trung niên. Họ đùa giỡn với nhau thật hào hứng. Chờ một lát khá lâu, người khách lên tiếng hỏi một cô bé: “Có Tiến sĩ Tống ở nhà không?” Cô bé vừa mời vừa chỉ ngay vào người trung niên đang nô đùa với cô: “Dạ đây!” Khách rất đỗi ngạc nhiên, vì tưởng người này là kẻ giúp việc trong nhà cho Tống Thượng Tiết. Vì trông người này chẳng những mặt mày xấu xí, phục sức lại tồi tàn, mà khách đến nhà cũng chẳng để tâm chào hỏi, cứ mải mê đùa giỡn với các con?... Nhìn qua vài nét như vậy cũng thấy được nếp sống gia đình đầm ấm của Tống Thượng Tiết. Nhưng những giây phút phước hạnh ấy của các con Tống Thượng Tiết rất hiếm hoi. Tổng cộng mỗi năm ông sống chung với gia đình chỉ độ 30 ngày.
Khi gia đình Tống Thượng Tiết dời từ Hưng Hóa lên Thượng Hải vì Thượng Hải là tụ điểm của trục lộ giao thông, thuận tiện giao dịch với ngoại quốc. Trong cuộc chiến chống Nhật, Thượng Hải trải qua hai lần tai biến. Hai lần ấy Tống Thượng Tiết đều để vợ con tự lo trong khói lửa chinh chiến, còn mình thì mãi lo hầu việc Chúa ở phương xa. Nhiều người đã phê phán gay gắt Tống Thượng Tiết về điểm thiếu bổn phận và trách nhiệm với vợ con. Nhưng họ đã quên đi lời Chúa Giê-xu dạy rằng: “Ai yêu cha mẹ, vợ con, anh em hơn Ta thì không đáng cho Ta...”
7. Thái độ với người thông dịch: Nhiều lần Tống Thượng Tiết không cho người thông dịch tiếp tục nữa vì dịch sai, lúng túng hay diễn dịch dài dòng làm mất ý chính. Hành động này cũng làm cho nhiều người khó chịu, nhưng suy cho cùng, chính Tống Thượng Tiết đã không tiếc chính mình, coi danh dự mình như rơm rác. Tất cả tập trung của ông: Sứ điệp của Cha phải rao giảng cho rõ ràng. Ông nghĩ rằng người khác cũng nên có thái độ như vậy. Người dịch khi thấy mình không đủ khả năng thông dịch thì tự ý nên đi xuống để người khác làm việc cho có hiệu quả hơn. Nhất là đối với những thông dịch viên đã dịch sai hẳn ý của ông muốn nói. Như ngày 5/6/1932, tại Hội Thánh Thượng Hữu Đường thuộc Phước Châu, Tống Thượng Tiết kêu gọi các nữ sinh trong dịp nghỉ hè nên đến các làng mạc để truyền bá Phúc âm, thế mà người thông dịch đã dịch rằng “Những cô gái dù đã lập gia đình rồi cũng phải ra đi rao giảng Phúc âm”... Đó là một sự sai lầm khá khôi hài nhưng chưa đến nổi trầm trọng như tháng 7/1935. Trong một Đại hội nghiên cứu Thánh Kinh của Đoàn Truyền Giáo Phúc âm toàn quốc lần thứ 1 tại Hàn Châu, trong một bài giảng, Tống Thượng TIết mô tả tâm trạng của Mác khi chia tay với Phao-lô và Banaba để quay trở về Jêrusalem. Vì là một thanh niên trẻ tuổi đi truyền giáo lâu ngày nên bị “homesick” nhớ nhà; ấy thế mà người thông dịch đã chuyển ngữ ra là vì Mác còn trẻ tuổi, còn ham sắc dục nên phải quay về nhà...” Chữ “homesick” tương tự như chữ háo sắc của Hạ Môn.
Tuy đại hội tổ chức tại Hàn Châu nhưng có hơn 300 người từ Hạ Môn đến tham dự và họ đã ghi chép lại. Sai lầm như vậy quả là một tai ương! Về sau cũng vì chuyện ghi chép sai này mà có người đã đả kích Tống Thượng Tiết kịch liệt, cho rằng ông là một người bị thần kinh... Như vậy chuyện ông mời người chuyển ngữ cho tiện đi xuống há không phải là chuyện đáng nên làm chăng?
Tác giả của tập sách này cũng đã gặp nhiều người đã từng thông dịch cho Tống Thượng Tiết. Họ cũng bị những đau thương oan ức:
a. Tiếng Quan Thoại vùng Hưng Hóa của Tống Thượng Tiết thật khó nghe. Nếu không quen và không biết nhiều tiếng địa phương Hưng Hóa thì không thể thông dịch cho ông được.
b. Khi giảng Tống Thượng Tiết hay chạy tới chạy lui trên tòa giảng, người dịch nhiều khi không chạy theo kịp, nên đã nghe không rõ.
c. Lúc Tống Thượng Tiết giảng thường dùng “trợ huấn cụ”. Thông dịch viên nghĩ rằng với trợ huấn cụ rõ ràng như vậy thì không cần phải thông dịch nữa, nhưng ông lại nghĩ rằng nếu không thông dịch theo nhịp của ông với trợ huấn cụ thì sức mạnh của bài giảng mất ý nghĩa đi rất nhiều. Ông thường rất bất mãn với người dịch không cố gắng đúng nhịp điệu làm theo lời và hành động với ông. Thí dụ như khi giảng về Naaman, quan tổng binh xứ Siry tắm bảy lần để được sạch bệnh phung, Tống Thượng Tiết đã dùng tòa giảng như bờ sông và phía dưới là dòng sông. Nên ông đã nhảy lên nhảy xuống đúng 7 lần.
d. Tống Thượng Tiết rất nóng tính, người dịch nghe không kịp cũng không dám hỏi lại nhiều, không hỏi thì không dịch được... cứ như thế mà đâm ra lúng túng... Tống Thượng Tiết lại phải thay đổi người dịch, xem ra sự than phiền của người dịch cũng không phải là vô lý.
8. Lắm lúc Tống Thượng Tiết đang khi giảng, ông nhìn thấy một chữ bỗng nảy sinh ra những ý mới mẻ:
a. Chẳng hạn nhìn Chữ Nam Xương, Tống Thượng Tiết giải thích, chữ này dạy cho tôi được “chỉ Nam phải quang xương”.
b. Một hôm khác, ông thấy chữ Học Liên là tên của cụ thân sinh. Tống Thượng Tiết giải thích: Dạy cho tôi một bài “học”, và “liên” tức là hạ các thành phố nhỏ, rồi sau đó sẽ liên thông đến các thành phố lớn.
c. Một lần về Hưng Hóa truyền giảng chỉ có hơn 50 người lên phía trước cầu nguyện xưng nhận Chúa, Tống Thượng Tiết nói còn những người khác là “bất Hưng bất Hóa”.
d. Lúc Tống Thượng Tiết đến giảng tại Khai Phong, vì tình hình chiến sự, nên phải giới nghiêm, nên những buổi truyền giảng phải họp lại ở ngoại thành, sau 7 giờ tối giới nghiêm không ai được ra hay vào nữa, sau một thời gian tình hình bớt căng thẳng, Mục sư có thể hướng dẫn hội chúng lui tới, Tống Thượng Tiết phát biểu: “Quả đúng đã Khai Phong rồi”.
e. Vương Thuận là tên của một người câm. Tống Thượng Tiết nói rằng khi mới nghe tên của anh này, tôi chắc chắn anh ta sẽ được chữa lành vì nếu lật ngược tên của anh lại là Thuận Vương nghĩa là “thuận phục Đấng Cứu Thế là Vua của muôn vua”;
f. Mông Thành: Tống Thượng Tiết hy vọng cả thành đều mong ơn Chúa;
g. Trường Lạc: Tống Thượng Tiết mong Chúa ban thưởng cho tôi là vĩnh phước Trường Lạc;
h. Ngô Châu: Tống Thượng Tiết đã lấy chữ ngô trong hán tự tách ra làm hai, một phần là Ngộ có nghĩa là Tôi. Phần thứ hai là chữ thập (+): Mang cái tôi đóng đinh trên thập tự giá có nghĩa là mang con người cũ của tôi mà treo trên cây gỗ đó.
Giải thích theo lối chiết tự như thế, tiếng Anh gọi là Ennagram (graphology), lâu lâu dùng và phải dùng cho thật chính xác mới có nghĩa và thâm thúy, chứ như người thiếu học lại không được Chúa Thánh Linh hướng dẫn mà bắt chước dùng thì nhiều khi lố lăng, gán ghép không hợp lý. Người thông dịch lại quá vội vàng, khó có đủ thì giờ để hiểu rõ ý hầu dịch cho thật sát nghĩa.
Lắm lúc Tống Thượng Tiết trích ra những chữ được phiên âm ra chữ hán hay những địa danh ngoại quốc để phân tích và giải thích theo sự hiểu biết của ông. Thí dụ như Tống Thượng Tiết đã dùng chữ Giêrasê trong Phúc âm Mác đoạn 5: “Tôi rất thích căn cứ vào ba chữ hán phiên âm này để giải thích ý nghĩa này: (1) Giê phân tích theo hán tự là các khúc cây; (2) ra: Chữ hán là lập có nghĩa là sự hướng dẫn; (3) sê: chữ chánh là rừng cây, có ý nói rằng chỉ cần một người thật sự được hồng ân cứu chuộc thì có thể hướng dẫn nhiều người khác đến Chúa Cứu Thế. Chúa Giê-xu ở trên bờ Giêrasê tuy chỉ cứu được một người nhưng nhờ đó mà cả vùng nghe đến hồng ân cứu chuộc. Chúa Giê-xu rất coi trọng phương pháp “Giêrasê” này. Đức Chúa Giê-xu chỉ cần cứu một người đàn bà Samari, sau đó là cả thành kéo đến tin nhận Chúa. Trên đường Đamách Chúa chỉ bắt phục một mình Saulơ, để rồi khai phá cả một kỷ nguyên Hội Thánh và từ đó vô số người tin nhận Chúa. Tống Thượng Tiết không phải là người phân tích Thánh Kinh theo lối xét ý nghĩa của từng chữ, nhưng ông muốn gây sự thích thú cho người nghe. Để có thêm ý nghĩa mới Tống Thượng Tiết đã dùng Ma-thi-ơ đoạn 5, nói về các phước lành, giảng và phân tích cùng một lúc với sách Giôna và đối chiếu những Thi Thiên cùng sách Phúc âm Mác. Ông cũng dùng 7 ngày sáng tạo trong Sáng Thế Ký để tỉ đối với quá trình cuộc đời chính mình. Cũng may mà Tống Thượng Tiết không đi sâu vào chiều hướng này.
Về phương diện này Mục sư Vương Minh Đạo đã có lời bình phẩm như sau: “Mùa xuân năm 1932, tôi đến giảng cho vài Hội Thánh tại tỉnh Sơn Đông đã nghe một số tín hữu than phiền về cách giải thích Kinh Thánh theo lối chiết tự, chính tôi cũng có những ý tưởng chống đối Tống Thượng Tiết. Lúc bấy giờ ông đang giảng tại một số Hội Thánh cũng thuộc vùng Sơn Đông, ông đã cố tình bàn quá rộng để mất hết ý nghĩa ban đầu và nhất là khi ông giải thích các địa danh và tên người trong Thánh Kinh đã không nghiên cứu đến nguyên văn của nó mà chỉ căn cứ vào ý nghĩa chữ Hán mà giải thích, sai lệch cả ý nghĩa nguyên thủy của nó. Thí dụ như khi Tống Thượng Tiết giải nghĩa tên của Philát: Phi chữ Hán là bỉ có nghĩa “nợ”, Lát chữ Hán là “lôi kéo”. Có nghĩa là người của nó lôi kéo đến thì đông, còn các người đến đó thì ít... Đại loại những lối giải thích và giải nghĩa Thánh Kinh như vậy khiến tôi thật thắc mắc không biết tại sao một người đã từng du học ngoại quốc lại không biết những địa danh và tên người trong Thánh Kinh chỉ là những phiên âm chứ đâu có mang ý nghĩa gì trong Hán văn? Vì vậy thoạt đầu đối với Tống Thượng Tiết tôi đã có một ấn tượng rất xấu. Nhưng vì lúc đó tôi chưa từng biết tới ông cũng như chưa nghe ông giảng Thánh Kinh nên không dám có ý kiến gì. Nhưng về sau tôi thấy tận mắt những kết quả Tống Thượng Tiết mang lại thật vĩ đại, có vô số người đã ăn năn xưng tội, tin nhận Chúa Cứu Thế và nhận được sự cứu rỗi. Có rất nhiều tín đồ được phấn hưng khi nghe ông giảng bồi linh. Về sau Tống Thượng Tiết lại mạnh dạn chỉ trích hội chúng và tất cả các hệ phái về tội lỗi, ông không e ngại giáo quyền, cũng không quan tâm đến danh dự cá nhân mình. Tại một vài nơi, thậm chí có những người âm mưu ám hại Tống Thượng Tiết. Nhưng Chúa đã gìn giữ nên Tống Thượng Tiết không bị trúng độc thủ mưu của họ. Tôi cũng từng nghe Tống Thượng Tiết lớn tiếng hô hào truyền bá Phúc âm bất chấp sự nguy hiểm đến tính mạng của mình. Tôi phải thừa nhận rằng Tống Thượng Tiết quả là một người đã được Chúa trọng dụng. Từ đó những ấn tượng của tôi về Tống Thượng Tiết đã hoàn toàn thay đổi. Phương pháp giải Kinh của ông có một đôi khi không thích hợp và đi quá xa ý chính, nhưng vì ân tứ của Chúa ban cho ông là để kêu gọi con người đến với Chúa Cứu Thế chứ không phải để diễn giải Thánh Kinh. Đối với phương pháp dùng chữ Hán để giải thích các đại danh từ, có người cho rằng Tống Thượng Tiết chỉ nhìn mặt chữ rồi phân tích chữ ấy ra trong ý nghĩa chữ Hán để giải thích Thánh Kinh là xằng bậy! Căn cứ vào ký ức và những bản ghi chép được của cô Trịnh Toại Lam – gần như buổi thuyết giảng nào của Tống Thượng Tiết cô cũng có mặt. Cô ghi lại như sau: “Việc Tống Thượng Tiết giải thích ý nghĩa các tên người và địa danh chỉ có một mục đích làm cho người nghe có một ấn tượng sâu sắc hơn khiến cho người ta dễ nhớ, nhưng lắm lúc người nghe cũng tung ra những tin đồn thất thiệt. Như có người đã thuật lại cho Mục sư Vương Minh Đạo về việc Tống Thượng Tiết đã giải thích tên Philát – như chúng ta đã nghe qua – là không đúng sự thật. Chính tai tôi đã nghe được hai lần, Tống Thượng Tiết nói rằng sự thất bại của Philát là vì ông ta để cho áp lực quần chúng gào thét, ông ta đã nhượng bộ, trong khi đó ông ta biết chắc là Chúa Giê-xu là người công nghĩa, vô tội. Ông ta có ý phóng thích Ngài, nhưng những tiếng gào thét hãy giết nó đi, “hãy giết nó đi, ví bằng quan tha người này thì quan không phải là trung thần của Sêsa”. Lương tâm của Philát bị khỏa lấp, và ông ta đã giao Chúa Giê-xu cho quần chúng, cuối cùng họ đã đóng đinh Ngài trên thập tự giá. Tống Thượng Tiết không giải thích tên Philát theo lối chiết tự. Theo tôi thì Tống Thượng Tiết chỉ muốn nêu lên một nguyênt ắc “Ý kiến đa số chưa hẳn đã là đúng tuyệt đối” Trong Thánh Kinh thư Rôma 12:17 dạy chúng ta “Chớ lấy ác trả ác cho ai, phải chăm tìm điều thiện trước mắt mọi người”. Việc lấy mắt đền mắt, răng đền răng dưới mắt loài người là công lý. Nhưng Thánh Kinh dạy chúng ta ngược lại. Vì vậy khi muốn phê phán một người nào, chúng ta nên theo nguyên tắc “chăm tìm điều thiện” có nghĩa là phải đắn đo suy xét cho chín chắn, nếu hợp lý hợp tình rồi hãy đi đến kết luận...
Chúng ta cũng không khó khăn lắm mà suy nghĩ rằng, lúc bấy giờ Trung Hoa nền giáo dục chưa được phổ biến rộng rãi. Có một số người dốt nát, nền tảng đức tin không vững chắc, xu thời, thậm chí không biết gì về nguyên tắc của Thánh Kinh, cứ dựa vào ý nghĩa chữ Hán mà giải thích, việc này có xảy ra nhưng qui trách nhiệm cho Tống Thượng Tiết là một điều bất công. Cũng như nhiều người đã dùng Thánh Kinh để suy diễn và giải thích sai lệch, nhưng Thánh Kinh không chịu trách nhiệm về những hành động đó vậy.
CHƯƠNG 53
NHỮNG LỜI TÔN KÍNH CỦA VƯƠNG MINH ĐẠO
Ngày 22/8/1944, trước khi thi hài của Tống Thượng Tiết được mai táng, đã có một buổi thờ phượng. Mục sư Vương Minh Đạo dùng Lời Chúa chia sẻ trong dịp này. Có hơn 200 người đến dự tang lễ. Tuy bài giảng của Vương Minh Đạo không được ghi chép lại, nhưng căn cứ trên những bài văn đăng tải trên tập san “Thức Ăn Thuộc Linh” số 71 thì bài văn đọc trong lễ an táng của Tống Thượng Tiết đại ý như sau: “Tống Thượng Tiết quả là một con người đặc biệt, rất thông minh, gần như khuyết điểm duy nhất của ông là trực tánh. Những người đã từng nghe ông giảng, hay có dịp tiếp xúc với ông đều nhận xét rằng, Tống Thượng Tiết là một người không câu nệ, phải là làm, vì vậy đã xúc phạm đến nhiều người, khiến họ có ác cảm với ông, và cho rằng ông là người kiêu ngạo. Sự thật thì trái lại, Tống Thượng Tiết là một người rất khiêm nhường, nhưng ông lại không khéo léo trong cách cư xử, nên dễ bị ngộ nhận. Tôi (Vương Minh Đạo) nghe những ai đã nặng lời chỉ trích Tống Thượng Tiết thì cũng đã dùng lời lẽ để thanh minh, giải thích cho họ cảm thông. Tôi thấy Tống Thượng Tiết cũng cần được giúp đỡ trong vấn đề này. Khi ông vào bệnh viện Hiệp Hòa tại Bắc Kinh, tôi đã dặn dò khuyên can ông rất nhiều. Có một lần tôi hỏi ông về trường hợp một người than phiền cùng tôi, ông này đến thăm Tống Thượng Tiết, nhưng bị ông đuổi ra khỏi nhà, tại sao ông lại cư xử như vậy? Tống Thượng Tiết đã trả lời rằng: “Tôi cần có thì giờ để cầu nguyện, để học Kinh Thánh, tôi không có thì giờ tiếp ông ta, nên đã phải xin ông ta ra khỏi nhà” Tôi nhỏ nhẹ hỏi thêm: “Ông cầu nguyện, đọc Kinh Thánh mục đích có phải để giúp đỡ cho tha nhân chăng? Vậy tại sao có người đến mong ông giúp đỡ, ông lại đuổi người ta? Như vậy có phải đã trái với nguyên tắc sở nguyện của ông chăng? Mặc dù tôi biết ông rất cần tĩnh lặng trong khi cầu nguyện và học Kinh Thánh, nhưng nếu không thể tiếp chuyện với khách thì cũng nên uyển chuyển nói rõ lý do, xin hẹn sẽ nói chuyện khi khác thì mới phải lẽ. Sao lại phải xẳng xớm đuổi ra khỏi nhà?” Tống Thượng Tiết trả lời: “Tôi sẽ không hành động như vậy nữa!” Tôi lại nói với Tống Thượng Tiết: “Bây giờ tôi có cần dạy cho ông phải nói như thế nào trong những trường hợp như vậy?” Tống Thượng Tiết cười xòa, tôi cũng cười theo... Tôi lại bắt sang một chuyện khác: “Có nhiều người viết thư cho ông, chẳng hạn các đại diện Hội Thánh các nơi có thư mời ông đến giảng bồi linh và truyền giáo, ông có trả lời cho họ không?” Tống Thượng Tiết trả lời:
- “Nếu nơi nào tôi thấy có thể đi được, tôi viết cho họ biết là tôi sẽ đến lúc nào, để họ tiện việc sắp xếp chương trình. Còn những nơi nào tôi không đến được tôi không hồi âm, vì không thấy thư tôi trả lời, họ tất phải biết là tôi không đến được!”
- Tôi tấn công thêm: “Người khác đã viết thư mời ông, đi được hay không ông cũng phải hồi âm cho họ kẻo họ cứ ngóng trông mãi”.
- “Tôi không có đủ thì giờ để viết những lá thư như thế”
- “Không có thì giờ cũng phải viết chứ, cùng lắm thì phải nhờ một người khác làm thế cho”
Về sau Tống Thượng Tiết đã nhận lời khuyến cáo của tôi.
Tôi hỏi Tống Thượng Tiết qua một đề tài khác:
- “Khi có một ai biếu quà hay tiền, ông có cám ơn người ta không?”
- “Tôi chỉ cám ơn Chúa, tôi không cám ơn người”. Tôi liền nhắc nhở ông:
- “Cám ơn Chúa đương nhiên là quan trọng, nhưng không thể thiếu sót mà không cám ơn người. Ông nên đọc quyển “Cách xử thế với tín hữu”. Tống Thượng Tiết cười và trả lời:
- “Tất cả tác phẩm của ông Vương tôi đều rất thích đọc, ngoại trừ quyển “Cách Xử Thế với Tín Hữu”. Vì tôi sợ nó!”
- “Ông cần phải đọc để học hỏi. Ông sợ, nhưng phải đọc. Tôi sẽ biếu ông một quyển khác và ông phải hứa với tôi là sẽ cố gắng đọc!” Tống Thượng Tiết nở một nụ cười như trẻ thơ, trong đó cũng hàm ý rằng: “Sao ông làm khó cho tôi quá vậy?” Chúng tôi cùng cười xòa với nhau, thật vui vẻ và hồn nhiên... Tôi biết thật Tống Thượng Tiết đã giữ lời hứa, đã học và thực hành “Cách Xử Thế Với Tín Hữu” rất kỹ vì 2 năm sau khi tôi đến Hương Sơn thăm Tống Thượng Tiết thì ông đã biết ra tận cửa để đón khách, biết chấp tay vái chào, biết cám ơn, khách giã từ ra về ông tiễn khách ra tận cổng. Trước kia ông không bao giờ có những cử chỉ đó, dù bất cứ là khách nào. Khi mới gặp lại tôi, ông đã cười và nói với tôi bằng tiếng Phúc Kiến rằng: Xử Thế Với Tín Hữu”. Ông mỉm cười lặp đi lặp lại với tôi câu này nhiều lần, hồn nhiên như trẻ thơ, không màu mè, không khách sáo.
Ngày trước, nhiều người thấy thái độ “không thủ lễ” của Tống Thượng Tiết tưởng rằng ông là người ngạo mạn, kỳ thực ông chỉ có cái lỗi là thiếu xã giao mà thôi!
Trực tính là khuyết điểm lớn của Tống Thượng Tiết, nhưng ông lại có rất nhiều ưu điểm ít ai sánh kịp. Tống Thượng Tiết là một người chân thành và chánh trực, trong con người đó không một chút giả trá, không bao giờ hiềm khích cùng ai. Lòng nghĩ thế nào thì phát ra lời thế ấy. Chưa bao giờ thất hứa với ai. Ông không vị nể ai, chính vì thế mà ông làm mích lòng nhiều người nhưng cũng chính vì thế mà ông được nhiều người nể phục!!.. Tôi rất kính trọng Tống Thượng Tiết vì ông là người ngay thẳng. Tôi biết rằng nhiều người hầu việc Chúa rất có tài, cũng lắm người có nhiều ân tứ đặc biệt, nhưng tìm cho ra những người trung thực, trong lòng giống như ngoài miệng thì rất là hiếm! Cái bề ngoài giả tạo hình như là bản chất của dân tộc Trung Hoa chúng tôi. Ngay cả những người đã dâng mình hầu việc Chúa cũng không thoát khỏi thông lệ đó. Có nhiều người hầu việc Chúa, nói năng tao nhã, cử chỉ lịch thiệp, khả ái, lúc mới sơ giao đã chinh phục được cảm tình cũng như sự nể vì của người đối diện, nhưng khi gần gũi một thời gian thì chân tướng giả hình, quỷ quyệt bèn lộ ra! Thấy hành vi cử chỉ khéo léo của họ và nghe những lời đạo đức họ giảng trong nhà thờ thì họ đúng là môn đồ của Chúa Giê-xu, nhưng khi quan sát kỹ thấy được hành vi giả trá lời nói ngọt ngào gian giảo thì họ đúng là môn đệ của Satan. Có nhiều người hầu việc Chúa nhưng trước mặt là một người mà sau lưng lại là một con người khác hẳn. Trên tòa giảng là thiên thần mà ngoài đời là quỷ sứ. Trước mặt thì dịu dàng ngào ngọt nhưng sau lưng là chua chát đắng cay. Quý vị thấy trên mặt họ một chiếc mặt nạ tu hành đạo đức, nhưng sau đó cũng hàm chứa một điều gì đó khó có thể che giấu nổi! Muốn tìm một người chân thành, không giả trá 100% - với bộ mặt nguyên hình không giả tạo, thì thật là hiếm hoi, mà Tống Thượng Tiết là một trong số hiếm hoi đó ở giữa tr ần gian này. Ông là một con người trung thực trong mọi hoàn cảnh, trong mọi nơi chốn, đối xử công bằng với mọi lứa tuổi, mọi hạng người. Người đời dễ nhận ra sở đoản của Tống Thượng Tiết vì ông không thích và cũng không có tài che giấu. Những người hầu việc Chúa khác có nhiều khuyết điểm gấp mấy chục lần của ông, thậm chí có khi còn gấp cả trăm lần nhưng vì khéo che giấu nên khó ai có thể thấy được! Nhiều người đã phê bình tính bộc trực của Tống Thượng Tiết, nhưng riêng tôi, tôi kính mến Tống Thượng Tiết không phải tôn trọng những sở đoản của ông nhưng tôi tôn quý sự chân thành chính trực của ông. Dĩ nhiên những sở đoản là những bất toàn của con người cần phải sửa đổi và ông đã sửa đổi.
Có một điều đáng buồn là, những người khi mới được Chúa kêu gọi vào chức vụ thì rất nóng cháy hăng say, có một tấm lòng ngay thẳng, chân thành. Nhưng khi có tuổi, kinh nghiệm dày dạn, từng trải gian nan, những chính trực chân thành tuổi trẻ biến dần thành giả trá cong queo! Lúc tuổi trẻ mới bước chân vào con đường hầu việc Chúa là một con cừu ngay thẳng trong sạch, lúc xế chiều lại là một con cáo già nguy hiểm. Tôi thấy những đổi thay nghịch lý đó, nên thường nhắc nhở bản thân tôi, cẩn thận nếu không cũng lọt vào tình trạng bi đát ấy!
Tống Thượng Tiết lìa đời vào tuổi trung niên, ông chỉ sống vỏn vẹn có 43 tuổi. Nhưng những thành quả của công việc ông làm quả là vĩ đại. Những nơi Tống Thượng Tiết đã đến giảng Phúc âm cũng không ít. Những người ông đã tiếp xúc cũng quá đông. Những phê phán đả kích mà Tống Thượng Tiết đã chịu đựng cũng không thiếu nặng nề. Nếu Tống Thượng Tiết đã học được những quanh co lươn lẹo của lòng người thì những việc đó cũng không lấy chi làm lạ, nhưng đến lúc lìa đời mà ông vẫn giữ tấm lòng chân thành, chính trực. Quả là một chuyện khó tìm ở trần gian.
Tống Thượng Tiết còn có ưu điểm đáng quý nữa là lòng quả cảm, gan dạ. Ông mang tâm tình can đảm của các bậc tiên tri trong thời Cựu Ước. Tống Thượng Tiết là một dũng sĩ đả phá tội lỗi.
Tống Thượng Tiết không lo âu về những lời đả kích, chống đối của người khác, ông hầu như quên đi an toàn tính mạng cũng như danh dự của riêng mình. Nếu không nhờ sự quan phòng của Chúa thì Tống Thượng Tiết đã nhiều lần bị người khác đả thương, và lắm kẻ muốn ám hại mạng sống ông. Điều đó cũng có thể xảy ra vì tôi thiết nghĩ rằng ngoài xã hội cũng như trong Giáo hội ngày nay nhiều tội ác đang đà bành trướng mạnh! Toàn thế giới nơi nào cũng bị quyền lực tối tăm chi phối. Phải chi chúng ta có được những con người có tâm tình và dũng cảm như những tiên tri ngày xưa, coi nhẹ tính mạng riêng mình, xem thường danh dự, bất chấp lòng người gian trá, dũng cảm tấn công tội lỗi và Satan. Thế giới và Giáo hội chúng ta cần những con người như thế. Nhưng những con người ấy quả là hiếm hoi. Ngày nay chúng ta đã tìm được một con người như thế, là Tống Thượng Tiết, nhưng ông đã sớm giã từ chúng ta, làm sao chúng ta không thương tiếc?
Tống Thượng Tiết được ban cho một ân tứ đặc biệt để lãnh một trách nhiệm, sứ mạng đặc biết ấy là cáo trách tội lỗi, truyền bá Phúc âm, khuyên con người ăn năn, hối cải, tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu, đưa con người đến sự cứu chuộc. Công việc giải Kinh không phải là sở trường của Tống Thượng Tiết, ông cũng không có ơn điều hành Hội Thánh, cũng không có khiếu về giao tế trong khi tiếp xúc với những người chung quanh. Ông rất dễ bị quần chúng kích động, ông cũng rất dễ bị lừa gạt, không dùng ông vào việc quản nhiệm Hội Thánh hay hướng dẫn một đoàn thể được. Nhiều người nghe Tống Thượng Tiết giảng đã được Chúa thức tỉnh, được cứu rỗi, được phục hưng lại thấy Chúa đã dùng Tống Thượng Tiết cách lạ lùng trong công cuộc truyền giảng Phúc âm, tưởng rằng điều gì, việc gì ông cũng biết, cũng làm được: thật là sai lầm. Sự sai lầm này cũng rất phổ biến trong các Giáo hội ngày nay. Hội chúng chỉ cần nhìn thấy một người nào đó có ân tứ giảng dạy, làm cho hội chúng cảm động, là có thể giải đáp mọi nan đề, bất cứ gặp chuyện rối rắm nào cũng xin gặp mặt để học hỏi, xin ý kiến và sẽ dễ dàng làm theo tất cả những sự hướng dẫn của vị đó, vì tưởng rằng một người đã được Đức Chúa Trời dùng thì trở nên giống như chính Ngài! Sai lầm này nếu không được sửa chữa tích cực, không những không có ích lợi gì cho Hội Thánh mà còn có hại cho tôi tớ Chúa nữa.
Khi thấy Tống Thượng Tiết được Đức Chúa Trời sử dụng cách đặc biệt, chúng ta đã thấy một hiện tượng dở khóc dở cười. Một số người không được một ân tứ nào, chẳng có lòng nhiệt thành, cũng không được sự kêu gọi của Đức Chúa Trời, thấy Tống Thượng Tiết thành công trong giảng dạy, được nhiều người mến mộ, nên đã học đòi theo lối giảng dạy nóng cháy của ông, học đòi theo cả lối chạy lui chạy tới trên tòa giảng, cũng học đòi cáo trách tội lỗi người khác, rập khuôn theo cung cách, nét mặt của ông khi giảng dạy, thậm chí bắt chước cả những khuyết điểm của Tống Thượng Tiết nữa!! Họ cố gắng làm ra mình là Tống Thượng Tiết thứ nhì, thứ ba v.v... Nhưng họ biến họ thành trò hề cho thế nhân, thật lố bịch và làm nhục nhã cho Hội Thánh. Những người có tâm tình đã phải cười ra nước mắt!
Đức tính vĩ đại nhất của Tống Thượng Tiết là lòng chân thành. Chính vì lòng chân thành đó mà ông được Chúa trọng dụng, được người yêu kính. Chính vì lòng chân thành đó mà những khuyết điểm của Tống Thượng Tiết dễ được tha thứ. Sự giảng dạy của ông phát ra từ lòng chân thành, ngay cả nhữngn cử chỉ múa may, chạy lui chạy tới trên tòa giảng, hay la hét trong khi giảng dạy. Mỗi khi tôi đọc lại những sách tiên tri trong Cựu Ước, tôi phải khâm phục lòng quả cảm đã trung thành của những vị tiên tri ấy. Xét qua lịch sử của dân Do Thái, họ bội nghịch Thượng Đế, phạm đủ các tội trọng: Thờ hình tượng, tà dâm, xảo trá, ích kỷ. Đời sống của họ đi ngược hẳn với mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Một dân tộc như vậy, sống trong một thời đại như vậy quả là cần những vị tiên tri kính sợ Đức Chúa Trời, can đảm, chính trực để thức tỉnh họ. Trở về với tình trạng của Giáo hội Trung Quốc ngày nay, quả giống như tình trạng của dân Do Thái ngày xưa. Cả thế giới và Giáo hội ngày nay cũng cần những vị tiên tri của Đức Chúa Trời, đầy can đảm dám đả kích tội lỗi, không nghĩ đến cả danh dự, tính mạng của mình, đứng dậy hô hào dân sự từ bỏ tội lỗi, tà thần mà quay trở về với Chúa Hằng Hữu. Trong giáo hội Trung Quốc hôm nay, cũng có thể tìm được một ít người có trí thức, một ít người có ân tứ thuộc linh, một ít người có nếp sống tin kính, nhưng tìm cho ra được một người mang tâm tình của các tiên tri đời xưa thì thật là quá hiếm hoi, mà Tống Thượng Tiết chính là con người quá hiếm hoi đó. Tìm được nhưng ông lại sớm lìa đời. Rồi đây chúng ta có hy vọng gì tìm được một Tống Thượng Tiết thứ nhì chăng? Tống Thượng Tiết đã an nghỉ cùng Chúa nhưng công việc của Đức Chúa Trời thì chắc chắn là chưa an nghỉ. Hôm nay Ngài vẫn tiếp tục kêu gọi những con người thích hợp để sử dụng torng công việc của nhà Ngài. Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục chuẩn bị và đào tạo những người can đảm dám dâng đời sống mình cho Ngài. Năng lực của Đức Chúa Trời vẫn đến một cách mạng mẽ trên những người quả cảm, trung kiên hầu việc Ngài. Lời của Chúa vẫn hằng kêu gọi: “Ta sẽ sai ai đi? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Êsai 6:8; và Ngài cũng hứa với người đã được Chúa sai đi: “Đừng thoái thác vì tuổi trẻ! Con sẽ đến tất cả những nơi Ta sai con đi và truyền giảng tất cả những lời Ta dạy con. Đừng sợ loài người vì Ta ở với con luôn để giải cứu con. Chúa Hằng Hữu hứa với con điều đó!” Vậy con hãy đứng dậy, mặc áo sẵn sàng, đi bảo chúng những lời Ta dạy con. Đừng sợ chúng nó, nếu không, Ta sẽ bỏ mặc con để cho con run sợ khi gặp chúng. Này ngày nay Ta cho con một thành kiên cố, làm cột sắt tường đồng để chống với cả đất nước Giu-đa, từ các cấp lãnh đạo chính trị và tôn giáo cho đến các thường dân trong nước. Họ sẽ chống đối, tranh đấu với con, nhưng không bao giờ thắng nổi, vì Ta ở với con để giải cứu con” (Giê-rê-mi 1:7-8;17-18).
Tội lỗi của thế gian ngày càng gia tăng, sự phân hóa của Hội Thánh ngày càng trầm trọng. Những tiên tri của ngày nay chịu đáp ứng lời kêu gọi của Chúa xin hãy trả lời: “Có tôi đây, xin hãy sai tôi!”
- “Nếu nơi nào tôi thấy có thể đi được, tôi viết cho họ biết là tôi sẽ đến lúc nào, để họ tiện việc sắp xếp chương trình. Còn những nơi nào tôi không đến được tôi không hồi âm, vì không thấy thư tôi trả lời, họ tất phải biết là tôi không đến được!”
- Tôi tấn công thêm: “Người khác đã viết thư mời ông, đi được hay không ông cũng phải hồi âm cho họ kẻo họ cứ ngóng trông mãi”.
- “Tôi không có đủ thì giờ để viết những lá thư như thế”
- “Không có thì giờ cũng phải viết chứ, cùng lắm thì phải nhờ một người khác làm thế cho”
Về sau Tống Thượng Tiết đã nhận lời khuyến cáo của tôi.
Tôi hỏi Tống Thượng Tiết qua một đề tài khác:
- “Khi có một ai biếu quà hay tiền, ông có cám ơn người ta không?”
- “Tôi chỉ cám ơn Chúa, tôi không cám ơn người”. Tôi liền nhắc nhở ông:
- “Cám ơn Chúa đương nhiên là quan trọng, nhưng không thể thiếu sót mà không cám ơn người. Ông nên đọc quyển “Cách xử thế với tín hữu”. Tống Thượng Tiết cười và trả lời:
- “Tất cả tác phẩm của ông Vương tôi đều rất thích đọc, ngoại trừ quyển “Cách Xử Thế với Tín Hữu”. Vì tôi sợ nó!”
- “Ông cần phải đọc để học hỏi. Ông sợ, nhưng phải đọc. Tôi sẽ biếu ông một quyển khác và ông phải hứa với tôi là sẽ cố gắng đọc!” Tống Thượng Tiết nở một nụ cười như trẻ thơ, trong đó cũng hàm ý rằng: “Sao ông làm khó cho tôi quá vậy?” Chúng tôi cùng cười xòa với nhau, thật vui vẻ và hồn nhiên... Tôi biết thật Tống Thượng Tiết đã giữ lời hứa, đã học và thực hành “Cách Xử Thế Với Tín Hữu” rất kỹ vì 2 năm sau khi tôi đến Hương Sơn thăm Tống Thượng Tiết thì ông đã biết ra tận cửa để đón khách, biết chấp tay vái chào, biết cám ơn, khách giã từ ra về ông tiễn khách ra tận cổng. Trước kia ông không bao giờ có những cử chỉ đó, dù bất cứ là khách nào. Khi mới gặp lại tôi, ông đã cười và nói với tôi bằng tiếng Phúc Kiến rằng: Xử Thế Với Tín Hữu”. Ông mỉm cười lặp đi lặp lại với tôi câu này nhiều lần, hồn nhiên như trẻ thơ, không màu mè, không khách sáo.
Ngày trước, nhiều người thấy thái độ “không thủ lễ” của Tống Thượng Tiết tưởng rằng ông là người ngạo mạn, kỳ thực ông chỉ có cái lỗi là thiếu xã giao mà thôi!
Trực tính là khuyết điểm lớn của Tống Thượng Tiết, nhưng ông lại có rất nhiều ưu điểm ít ai sánh kịp. Tống Thượng Tiết là một người chân thành và chánh trực, trong con người đó không một chút giả trá, không bao giờ hiềm khích cùng ai. Lòng nghĩ thế nào thì phát ra lời thế ấy. Chưa bao giờ thất hứa với ai. Ông không vị nể ai, chính vì thế mà ông làm mích lòng nhiều người nhưng cũng chính vì thế mà ông được nhiều người nể phục!!.. Tôi rất kính trọng Tống Thượng Tiết vì ông là người ngay thẳng. Tôi biết rằng nhiều người hầu việc Chúa rất có tài, cũng lắm người có nhiều ân tứ đặc biệt, nhưng tìm cho ra những người trung thực, trong lòng giống như ngoài miệng thì rất là hiếm! Cái bề ngoài giả tạo hình như là bản chất của dân tộc Trung Hoa chúng tôi. Ngay cả những người đã dâng mình hầu việc Chúa cũng không thoát khỏi thông lệ đó. Có nhiều người hầu việc Chúa, nói năng tao nhã, cử chỉ lịch thiệp, khả ái, lúc mới sơ giao đã chinh phục được cảm tình cũng như sự nể vì của người đối diện, nhưng khi gần gũi một thời gian thì chân tướng giả hình, quỷ quyệt bèn lộ ra! Thấy hành vi cử chỉ khéo léo của họ và nghe những lời đạo đức họ giảng trong nhà thờ thì họ đúng là môn đồ của Chúa Giê-xu, nhưng khi quan sát kỹ thấy được hành vi giả trá lời nói ngọt ngào gian giảo thì họ đúng là môn đệ của Satan. Có nhiều người hầu việc Chúa nhưng trước mặt là một người mà sau lưng lại là một con người khác hẳn. Trên tòa giảng là thiên thần mà ngoài đời là quỷ sứ. Trước mặt thì dịu dàng ngào ngọt nhưng sau lưng là chua chát đắng cay. Quý vị thấy trên mặt họ một chiếc mặt nạ tu hành đạo đức, nhưng sau đó cũng hàm chứa một điều gì đó khó có thể che giấu nổi! Muốn tìm một người chân thành, không giả trá 100% - với bộ mặt nguyên hình không giả tạo, thì thật là hiếm hoi, mà Tống Thượng Tiết là một trong số hiếm hoi đó ở giữa tr ần gian này. Ông là một con người trung thực trong mọi hoàn cảnh, trong mọi nơi chốn, đối xử công bằng với mọi lứa tuổi, mọi hạng người. Người đời dễ nhận ra sở đoản của Tống Thượng Tiết vì ông không thích và cũng không có tài che giấu. Những người hầu việc Chúa khác có nhiều khuyết điểm gấp mấy chục lần của ông, thậm chí có khi còn gấp cả trăm lần nhưng vì khéo che giấu nên khó ai có thể thấy được! Nhiều người đã phê bình tính bộc trực của Tống Thượng Tiết, nhưng riêng tôi, tôi kính mến Tống Thượng Tiết không phải tôn trọng những sở đoản của ông nhưng tôi tôn quý sự chân thành chính trực của ông. Dĩ nhiên những sở đoản là những bất toàn của con người cần phải sửa đổi và ông đã sửa đổi.
Có một điều đáng buồn là, những người khi mới được Chúa kêu gọi vào chức vụ thì rất nóng cháy hăng say, có một tấm lòng ngay thẳng, chân thành. Nhưng khi có tuổi, kinh nghiệm dày dạn, từng trải gian nan, những chính trực chân thành tuổi trẻ biến dần thành giả trá cong queo! Lúc tuổi trẻ mới bước chân vào con đường hầu việc Chúa là một con cừu ngay thẳng trong sạch, lúc xế chiều lại là một con cáo già nguy hiểm. Tôi thấy những đổi thay nghịch lý đó, nên thường nhắc nhở bản thân tôi, cẩn thận nếu không cũng lọt vào tình trạng bi đát ấy!
Tống Thượng Tiết lìa đời vào tuổi trung niên, ông chỉ sống vỏn vẹn có 43 tuổi. Nhưng những thành quả của công việc ông làm quả là vĩ đại. Những nơi Tống Thượng Tiết đã đến giảng Phúc âm cũng không ít. Những người ông đã tiếp xúc cũng quá đông. Những phê phán đả kích mà Tống Thượng Tiết đã chịu đựng cũng không thiếu nặng nề. Nếu Tống Thượng Tiết đã học được những quanh co lươn lẹo của lòng người thì những việc đó cũng không lấy chi làm lạ, nhưng đến lúc lìa đời mà ông vẫn giữ tấm lòng chân thành, chính trực. Quả là một chuyện khó tìm ở trần gian.
Tống Thượng Tiết còn có ưu điểm đáng quý nữa là lòng quả cảm, gan dạ. Ông mang tâm tình can đảm của các bậc tiên tri trong thời Cựu Ước. Tống Thượng Tiết là một dũng sĩ đả phá tội lỗi.
Tống Thượng Tiết không lo âu về những lời đả kích, chống đối của người khác, ông hầu như quên đi an toàn tính mạng cũng như danh dự của riêng mình. Nếu không nhờ sự quan phòng của Chúa thì Tống Thượng Tiết đã nhiều lần bị người khác đả thương, và lắm kẻ muốn ám hại mạng sống ông. Điều đó cũng có thể xảy ra vì tôi thiết nghĩ rằng ngoài xã hội cũng như trong Giáo hội ngày nay nhiều tội ác đang đà bành trướng mạnh! Toàn thế giới nơi nào cũng bị quyền lực tối tăm chi phối. Phải chi chúng ta có được những con người có tâm tình và dũng cảm như những tiên tri ngày xưa, coi nhẹ tính mạng riêng mình, xem thường danh dự, bất chấp lòng người gian trá, dũng cảm tấn công tội lỗi và Satan. Thế giới và Giáo hội chúng ta cần những con người như thế. Nhưng những con người ấy quả là hiếm hoi. Ngày nay chúng ta đã tìm được một con người như thế, là Tống Thượng Tiết, nhưng ông đã sớm giã từ chúng ta, làm sao chúng ta không thương tiếc?
Tống Thượng Tiết được ban cho một ân tứ đặc biệt để lãnh một trách nhiệm, sứ mạng đặc biết ấy là cáo trách tội lỗi, truyền bá Phúc âm, khuyên con người ăn năn, hối cải, tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu, đưa con người đến sự cứu chuộc. Công việc giải Kinh không phải là sở trường của Tống Thượng Tiết, ông cũng không có ơn điều hành Hội Thánh, cũng không có khiếu về giao tế trong khi tiếp xúc với những người chung quanh. Ông rất dễ bị quần chúng kích động, ông cũng rất dễ bị lừa gạt, không dùng ông vào việc quản nhiệm Hội Thánh hay hướng dẫn một đoàn thể được. Nhiều người nghe Tống Thượng Tiết giảng đã được Chúa thức tỉnh, được cứu rỗi, được phục hưng lại thấy Chúa đã dùng Tống Thượng Tiết cách lạ lùng trong công cuộc truyền giảng Phúc âm, tưởng rằng điều gì, việc gì ông cũng biết, cũng làm được: thật là sai lầm. Sự sai lầm này cũng rất phổ biến trong các Giáo hội ngày nay. Hội chúng chỉ cần nhìn thấy một người nào đó có ân tứ giảng dạy, làm cho hội chúng cảm động, là có thể giải đáp mọi nan đề, bất cứ gặp chuyện rối rắm nào cũng xin gặp mặt để học hỏi, xin ý kiến và sẽ dễ dàng làm theo tất cả những sự hướng dẫn của vị đó, vì tưởng rằng một người đã được Đức Chúa Trời dùng thì trở nên giống như chính Ngài! Sai lầm này nếu không được sửa chữa tích cực, không những không có ích lợi gì cho Hội Thánh mà còn có hại cho tôi tớ Chúa nữa.
Khi thấy Tống Thượng Tiết được Đức Chúa Trời sử dụng cách đặc biệt, chúng ta đã thấy một hiện tượng dở khóc dở cười. Một số người không được một ân tứ nào, chẳng có lòng nhiệt thành, cũng không được sự kêu gọi của Đức Chúa Trời, thấy Tống Thượng Tiết thành công trong giảng dạy, được nhiều người mến mộ, nên đã học đòi theo lối giảng dạy nóng cháy của ông, học đòi theo cả lối chạy lui chạy tới trên tòa giảng, cũng học đòi cáo trách tội lỗi người khác, rập khuôn theo cung cách, nét mặt của ông khi giảng dạy, thậm chí bắt chước cả những khuyết điểm của Tống Thượng Tiết nữa!! Họ cố gắng làm ra mình là Tống Thượng Tiết thứ nhì, thứ ba v.v... Nhưng họ biến họ thành trò hề cho thế nhân, thật lố bịch và làm nhục nhã cho Hội Thánh. Những người có tâm tình đã phải cười ra nước mắt!
Đức tính vĩ đại nhất của Tống Thượng Tiết là lòng chân thành. Chính vì lòng chân thành đó mà ông được Chúa trọng dụng, được người yêu kính. Chính vì lòng chân thành đó mà những khuyết điểm của Tống Thượng Tiết dễ được tha thứ. Sự giảng dạy của ông phát ra từ lòng chân thành, ngay cả nhữngn cử chỉ múa may, chạy lui chạy tới trên tòa giảng, hay la hét trong khi giảng dạy. Mỗi khi tôi đọc lại những sách tiên tri trong Cựu Ước, tôi phải khâm phục lòng quả cảm đã trung thành của những vị tiên tri ấy. Xét qua lịch sử của dân Do Thái, họ bội nghịch Thượng Đế, phạm đủ các tội trọng: Thờ hình tượng, tà dâm, xảo trá, ích kỷ. Đời sống của họ đi ngược hẳn với mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Một dân tộc như vậy, sống trong một thời đại như vậy quả là cần những vị tiên tri kính sợ Đức Chúa Trời, can đảm, chính trực để thức tỉnh họ. Trở về với tình trạng của Giáo hội Trung Quốc ngày nay, quả giống như tình trạng của dân Do Thái ngày xưa. Cả thế giới và Giáo hội ngày nay cũng cần những vị tiên tri của Đức Chúa Trời, đầy can đảm dám đả kích tội lỗi, không nghĩ đến cả danh dự, tính mạng của mình, đứng dậy hô hào dân sự từ bỏ tội lỗi, tà thần mà quay trở về với Chúa Hằng Hữu. Trong giáo hội Trung Quốc hôm nay, cũng có thể tìm được một ít người có trí thức, một ít người có ân tứ thuộc linh, một ít người có nếp sống tin kính, nhưng tìm cho ra được một người mang tâm tình của các tiên tri đời xưa thì thật là quá hiếm hoi, mà Tống Thượng Tiết chính là con người quá hiếm hoi đó. Tìm được nhưng ông lại sớm lìa đời. Rồi đây chúng ta có hy vọng gì tìm được một Tống Thượng Tiết thứ nhì chăng? Tống Thượng Tiết đã an nghỉ cùng Chúa nhưng công việc của Đức Chúa Trời thì chắc chắn là chưa an nghỉ. Hôm nay Ngài vẫn tiếp tục kêu gọi những con người thích hợp để sử dụng torng công việc của nhà Ngài. Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục chuẩn bị và đào tạo những người can đảm dám dâng đời sống mình cho Ngài. Năng lực của Đức Chúa Trời vẫn đến một cách mạng mẽ trên những người quả cảm, trung kiên hầu việc Ngài. Lời của Chúa vẫn hằng kêu gọi: “Ta sẽ sai ai đi? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Êsai 6:8; và Ngài cũng hứa với người đã được Chúa sai đi: “Đừng thoái thác vì tuổi trẻ! Con sẽ đến tất cả những nơi Ta sai con đi và truyền giảng tất cả những lời Ta dạy con. Đừng sợ loài người vì Ta ở với con luôn để giải cứu con. Chúa Hằng Hữu hứa với con điều đó!” Vậy con hãy đứng dậy, mặc áo sẵn sàng, đi bảo chúng những lời Ta dạy con. Đừng sợ chúng nó, nếu không, Ta sẽ bỏ mặc con để cho con run sợ khi gặp chúng. Này ngày nay Ta cho con một thành kiên cố, làm cột sắt tường đồng để chống với cả đất nước Giu-đa, từ các cấp lãnh đạo chính trị và tôn giáo cho đến các thường dân trong nước. Họ sẽ chống đối, tranh đấu với con, nhưng không bao giờ thắng nổi, vì Ta ở với con để giải cứu con” (Giê-rê-mi 1:7-8;17-18).
Tội lỗi của thế gian ngày càng gia tăng, sự phân hóa của Hội Thánh ngày càng trầm trọng. Những tiên tri của ngày nay chịu đáp ứng lời kêu gọi của Chúa xin hãy trả lời: “Có tôi đây, xin hãy sai tôi!”
Mục sư Vương Minh Đạo
Ngày 15 tháng 9 năm 1944
PHỤ LỤC
BÀI GIẢNG LUẬN CỦA TỐNG THƯỢNG TIẾT
(LỜI NHẮN NHỦ)
(LỜI NHẮN NHỦ)
Trong cơn đau ốm của người đầy tớ ngay lành, trung tín của Đức Chúa Trời.
Một trăm mười ba ngày trên giường bệnh này trong tâm linh tôi thấy rõ sự dìu dắt dạy dỗ của Chúa thật tỏ tường. Trước kia tôi đặt trọng tâm vào việc truyền giảng Phúc âm, bây giờ tôi thấy việc cầu nguyện mới là tối quan trọng. Thế giới thuộc linh đúng là vô hạn vô lượng. Người đầy tớ ngay lành trung tín của Chúa cần phải chú ý đến 12 điều sau đây:
1. Đối với thế gian và xác thịt phải chết một cách trọn vẹn. Đối với tôi, điều tối quan trọng là chết thật sự: “Hiện nay tôi sống không phải là tôi sống nữa nhưng Chúa Cứu Thế sống trong tôi”. Cái tôi chết đi là có ích cho tôi bội phần.
2. Phải được mặc khải trực tiếp từ Chúa. Không chỉ truyền giảng suông, mà còn phải nói những dự ngôn mà chính Chúa đã khải thị cho biết. Không những chỉ nhận những mặc khải của Chúa Cứu Thế ở tấm lòng, mà còn phải bộc phát ra cả trong hành động, trong cuộc sống.
3. Phải học thuần thục toàn bộ Thánh Kinh. Không dùng khôn ngoan riêng để đọc Kinh Thánh. Cũng không thuần chỉ dùng tri thức thần học để nghiên cứu Thánh Kinh. Nhưng Lời Chúa phải thực sự trở nên thứa ăn để nuôi dưỡng và trở nên máu và thịt của chính mình. Cơ thể xác thịt đã thành Đạo là Lời Chúa. Thuận phục theo thánh ý mà phân giải Lời Ngài.
4. Trong lúc cầu nguyện phải nghe được tiếng của Chúa, nhờ đó biết vâng phục sự hướng dẫn của Chúa qua lời Kinh Thánh. Gần gũi với Chúa để có sự tương giao thuộc linh. Mặt đối mặt với Chúa để nhận quyền năng Ngài để có thể chống trả quyền lực của Satan.
5. Phải được thấm nhuần trọn vẹn Chúa Thánh Linh. Đôi chân được hướng dẫn chạy theo con đường vâng phục. Đầu gối đầu phục, biết quì cầu nguyện không ngừng. Biết lấy sự hiện diện của Đức Chúa Trời là niềm vui và hạnh phúc. Chiếc lưng thấm nhuần sự ngay thẳng làm chứng cho chân lý. Bàn tay vâng phục biết tuân hành ý chỉ của Chúa. Môi miệng được thấm nhuần có lời nói xuyên thấu lòng người. Đôi mắt được thấm nhuần Chúa Thánh Linh thì phân biệt được mọi sự. Lỗ tai thấm nhuần, nghe được tiếng phán êm dịu của Chúa. Mặt mày thấm nhuần Chúa Thánh Linh sáng rực như mặt thiên sứ. Đầu óc thấm nhuần Chúa Thánh Linh sẽ không còn thành kiến nào. Tấm lòng được thấm nhuần sẽ lấy lòng Chúa làm lòng mình. Toàn thân được thấm nhuần sẽ phản chiếu vinh quang đẹp đẽ của Đức Chúa Trời.
6. Phải có tấm lòng tràn đầy tình thương tha nhân, nhìn thấy con người đang bị hư vong, thì lòng nóng cháy như thiêu đốt. Hãy bắt chước Chúa Cứu Thế liều mạng sống mình cho bằng hữu mình. Thà mất cả thế gian mà cứu được linh hồn con người. Sứ đồ Phao-lô đã xem việc truyền giảng Phúc âm như một món nợ phải trả: “Nếu không truyền bá Phúc âm là một tai họa cho tôi”.
7. Phải can đảm nêu cao thập tự của Chúa Cứu Thế, không cậy vào lý giải, chủng tộc hay luật pháp mà gây chia rẽ.
8. Cầu nguyện là một vấn đề thường xuyên và cấp bách, quyền năng lớn lao của Đức Chúa Trời được bày tỏ không khi nào tách rời khỏi sự cầu nguyện trên lầu cao. Người tín hữu được thấm nhuần. Nước Sống sẽ đương nhiên được biểu lộ ra nhiều ân tứ. Không có người dạy chân lý của Hội Thánh nhưng có sự khai mở Hội Thánh; không có người đề xướng đi các phương trời xa để truyền bá Phúc âm, nhưng Philíp nghe được tiếng Chúa đi vào nơi đồng vắng để giảng dạy về Chúa Giê-xu cho quan thái giám; Không có người đặt trọng tâm vào nói tiếng lạ, nhưng họ biết nói tiếng lạ; Không có người chỉ dạy khuôn mẫu của cuộc sống, nhưng họ biết sống thương yêu nhau; không có người truyền dạy Phúc âm xã hội, nhưng họ biết cứu giúp cô nhi quả phụ; Không có người kêu gọi dâng hiến, đóng góp, nhưng họ đã bán cả gia sản để coi như của chung... Những ân tứ này đều đầy dẫy trong họ sau khi họ được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Có thể nói, tất cả những gì họ được từ trong Đức Thánh Linh không tách rời khỏi sự đồng tâm khẩn thiết cầu nguyện trên lầu cao.
9. Vác thập tự giá cách nhẫn nhục và vui lòng. Với một tấm lòng chịu đựng gian khổ, không lấy Phúc âm làm điều xấu hổ cho mình. Bắt chước sự hy sinh của Chúa Cứu Thế. Không cầu danh lợi, chỉ xin được sống sung mãn trong Chúa Cứu Thế.
10. Nhìn biết được quỷ kế của Satan. Có khả năng phân biện chân giả. Dám đứng vào những nơi hư nát của Hội Thánh để gánh vác những công việc khó khăn nhất, mạnh dạn bảo vệ chân lý sống.
11. Đầy dẫy lòng yêu thương, sẵn sàng hợp tác với những người đang hầu việc Chúa. Không tự xây cho mình một tháp Babên. Không chia bè, lập phái. Những việc lấy làm tốt đẹp phải để ý mà làm. Không kể là việc của người này hay người nọ, chỉ cần Phúc âm của Chúa Cứu Thế được rao ra thì phải thấy lòng mãn nguyện. Phải đồng tâm hiệp ý cho Phúc âm được phát triển, số người được cứu gia tăng, cầu xin danh của Chúa được tôn vinh.
12. Tỉnh thức chờ đợi Chúa trở lại. Nhẫn nại giữ đạo Chúa trong cơn thử thách. Trong mọi hoàn cảnh đều phải biết ngợi khen Chúa. Trung tín cho đến chết.
Hỡi các anh chị em, tôi hằng cầu nguyện cho Hội Thánh trong nước và ngoài nước. Cầu xin Chúa đào tạo thật nhiều những con người phục vụ Chúa, những người đầy tớ đẹp lòng Chúa là 2 nhiệm vụ của tôi nhận lãnh từ nơi Chúa sau khi đã cầu nguyện hơn 100 ngày. Người Truyền đạo của Đức Chúa Trời nên tìm dịp đến những nơi thanh vắng để suy gẫm học hỏi Lời Chúa, sẽ thấy được những gì tôi đã thấy và sẽ được những gì Chúa muốn cho người đó được.
Đó là lời thuật lại của Tiến sĩ John Sung Tống Thượng Tiết đang nằm trong lòng Chúa.
Ngày 24 tháng 10 năm 1941.
http://aogvn.com