CHƯƠNG 1
LỜI MỞ ĐẦU
“Chỉ có người Trung Hoa mới có lối suy nghĩ của người Trung Hoa. Chỉ có người Trung Hoa mới sử dụng được những cốt truyện, những ẩn dụ, những ngụ ngôn Trung Hoa để thuyết phục và làm cho say mê người nghe. Lối diễn đạt của người ngoại quốc khó có thể thuyết phục được người Trung Hoa và không thể biến Trung Hoa thành một quốc gia của Chúa Cứu Thế. Hàng ngàn hoặc hàng vạn giáo sĩ người Anh, người Mỹ sẽ không thể biến Trung Hoa thành một quốc gia Cơ đốc giáo. Chúng ta cần hàng ngàn, hàng vạn người Trung Hoa, những người Trung Hoa thực sự dâng trọn tấm lòng, thân thể và môi miệng cho Chúa. Chúng ta chỉ cần loại người này, không nhất thiết họ phải thông thạo Nho học. Nếu họ tinh thông Nho học thì lại càng quí, nhưng điều quan trọng hơn cả là họ cần phải có lòng quả cảm, chân thành, có tinh thần dâng mình và là những con người khí khái, độc lập. Đã đến lúc chúng ta phải tìm ra một sứ đồ người Trung Hoa cho người Trung Hoa chính gốc Hoa, không là người ngoại quốc.”
“Vị sứ đồ Trung Hoa này xuất hiện từ đâu? Có phải từ Thần học viện chăng? Xin thưa, vị này xuất hiện từ một nơi không ai ngờ. Như bao nhiêu sứ giả của Thượng Đế trước kia đã xuất hiện, chúng ta không biết, chúng ta chỉ có thể cầu nguyện cho vị ấy mau đến. Cầu nguyện để khi người ấy đến thì sẽ giống như Giăng Báp-tít, làm vang dội cả đồng vắng, rúng động cả toàn quốc.”
Những lời nói trên là của Edwin Joshua Duke, một giáo sĩ thuộc Anh quốc giáo được phái đến Phúc Kiến vào năm 1885. Năm mươi năm sau người sứ đồ Trung Hoa ấy đã xuất hiện và đã phát ra những tiếng kêu làm rúng động đồng vắng Trung Hoa. Ấy là một người Trung Hoa, một học giả uyên bác đã dâng trọn vốn liếng tri thức và cuộc sống của mình trên bàn thờ của Chúa, không giữ lại cho mình một chút gì. Người ấy can đảm không sợ hãi, không giả dối, không biết màu mè, chỉ biết cùng đi với Chúa. Người đã ra đi một mình với Chúa, và chỉ đặt tất cả niềm tin vào Chúa. Người không ỷ lại vào một thế lực nào ngoài Chúa. Người ấy chính là Mục sư Tống Thượng Tiết, người thôn Phủ Túc, huyện Phổ Điền, tỉnh Phúc Kiến. Vị sứ đồ Trung Hoa này có một cá tánh rất đặc biệt, với một tâm tình thật nóng cháy, rất yêu linh hồn con người, nhưng lại không có sự hòa nhã của một Cơ đốc nhân thông thường. Người không có một hình dung tốt đẹp, diện mạo không khôi ngô, ăn mặc lại lôi thôi. Nhưng người lại là một học giả uyên bác, một khoa học gia lỗi lạc. Khi người truyền bá Phúc âm thì rất giản dị, dễ hiểu, không một chút phô trương về vốn liếng tri thức của mình.
Tống Thượng Tiết là người đã đề xướng sự thờ phượng trong gia đình. Nhưng chính ông lại đã rời khỏi gia đình mình, không bịn rịn để đi xa truyền bá Phúc âm. Lúc thuyết giảng ông thường múa may chân tay, la lớn tiếng, có khi làm cho người nghe cảm động muốn khóc, nhiều lúc lại khiến thính giả không nhịn được cười. Nhưng khi xuống khỏi tòa giảng, ông trở lại lầm lì, ít nói. Ông tới nơi vắng vẻ một mình, dưới mắt người khác ông là một người quái đản, kỳ khôi. Khi tiếp xúc với những người nước ngoài, đặc biệt là với các giáo sĩ và giáo sư thì có một liên hệ thật là thâm sâu, nhưng đối với người ngoại quốc nào có cung cách khách sáo thì ông phán rất gay gắt. Điều này có thể gây hiểu lầm ông là một người bài ngoại. Ông gớm ghê tội, đả phá và coi tội lỗi như kẻ thù. Nhưng điều làm cho người ta cảm động nhất, ấy là lòng từ ái của Chúa ở trong ông.
Là một nhà tổ chức thiên phú có biệt tài lãnh đạo, nhưng chính ông lại khước từ tổ chức, không thiết lập giáo hội, không thành lập giáo phái, không thích làm lãnh tụ. Bị nhiều người phê phán, nhưng ông coi thường mọi thị phi, không để ý đến vinh dự cá nhân. Ông được rất nhiều người thương yêu và đồng thời cũng bị rất nhiều kẻ chán ghét. Đó là những cá tính của nhà truyền đạo vĩ đại người Trung Hoa này – Mục sư Tống Thượng Tiết. Thoạt nhìn bề ngoài có vẻ như đầy mâu thuẩn, nhưng thật ra ông có một tâm hồn thật tuyệt diệu hài hòa.
Giống như Giăng Báp-tít, Tống Thượng Tiết qua đời trong tuổi tráng niên, hưởng thọ chỉ 43 tuổi. Hầu việc Chúa vỏn vẹn chỉ 15 năm. Thời gian tuy ngắn, nhưng khối lượng công việc thì không nhỏ, mà thành tích lại càng lớn lao hơn nữa. Trong vòng 15 năm ngắn ngủi ấy ông đã làm chấn động cả nước Trung Hoa, chấn động giáo hội cả ở miền Trung và khắp miền Đông Nam Châu Á.
Hàng ngàn người trong vùng đã tin nhận Chúa Cứu Thế sau khi nghe ông giảng. Giáo hội Trung Hoa sở dĩ còn đứng vững sau chiến tranh Trung – Nhật, công lao này phải qui vào quyền Chúa và Mục sư Tống Thượng Tiết. Đời sống tâm linh của những giáo hội đó không bị nao núng và sức sống thuộc linh của giáo hữu không bị khô cạn cũng là nhờ công lao khó nhọc của ông.
Tại Trung Hoa, hoặc các nước Đông Nam Á, trên nước Mỹ, nước Anh hay bất cứ một nơi nào có người Trung Hoa, nếu chúng ta trò chuyện với những tín hữu Cơ đốc người gốc Đông Nam Á, họ đều rất trìu mến khi nhắc đến Mục sư Tống Thượng Tiết. Rất nhiều người ngoại đạo đã tin nhận Chúa Cứu Thế khi nghe ông giảng: nhiều lãnh tụ Cơ đốc đã nản lòng lùi bước nhờ những bài giảng bồi linh của ông mà được trở lại nóng cháy, hăng hái tiến tới trên bước đường hầu việc Chúa. Nhiều nhà lãnh đạo giáo hội, vốn chỉ là hữu danh vô thực, và những người “theo đạo kiếm gạo”, nhờ nghe những sứ điệp của ông đã trở thành những người có sức sống tâm linh thực sự, đầy dẫy Chúa Thánh Linh và trở nên những nhà truyền bá Phúc âm trung kiên của Chúa Cứu Thế. Những thành quả quí báu đó vẫn được tồn tại lâu dài.
Tại Trung Hoa, hoặc các nước Đông Nam Á, trên nước Mỹ, nước Anh hay bất cứ một nơi nào có người Trung Hoa, nếu chúng ta trò chuyện với những tín hữu Cơ đốc người gốc Đông Nam Á, họ đều rất trìu mến khi nhắc đến Mục sư Tống Thượng Tiết. Rất nhiều người ngoại đạo đã tin nhận Chúa Cứu Thế khi nghe ông giảng: nhiều lãnh tụ Cơ đốc đã nản lòng lùi bước nhờ những bài giảng bồi linh của ông mà được trở lại nóng cháy, hăng hái tiến tới trên bước đường hầu việc Chúa. Nhiều nhà lãnh đạo giáo hội, vốn chỉ là hữu danh vô thực, và những người “theo đạo kiếm gạo”, nhờ nghe những sứ điệp của ông đã trở thành những người có sức sống tâm linh thực sự, đầy dẫy Chúa Thánh Linh và trở nên những nhà truyền bá Phúc âm trung kiên của Chúa Cứu Thế. Những thành quả quí báu đó vẫn được tồn tại lâu dài.
CHƯƠNG 2
SỰ TÁI SANH CỦA NGƯỜI CHA VÀ SỰ ĐẮC THẮNG
Trong một tự truyện của Mục sư Tống Thượng Tiết với tựa đề “Lời Chứng Của Tôi”, ông thường thích thú nhắc lại những lời giáo huấn của cha khi còn thơ ấu. Thân sinh của ông rất ưa nhắc lại sự từng trải tái sanh của đời mình. Lúc ấy ông còn quá nhỏ nên không hiểu được ý nghĩa hai chữ “tái sanh”, nhưng ông cảm thấy chuyện này thật phước hạnh.
Thân phụ của Tống Thượng Tiết, Mục sư Tống Học Liên, lúc 16 tuổi đã vào một Thần học viện của quận Phúc Châu thuộc tỉnh Phúc Kiến. Sau hai năm trong trường, ông chỉ là một sinh viên hoàn toàn nô lệ vào thời khoá biểu, học để được lên lớp và lấy điểm một cách máy móc, tâm tình không nóng cháy, cũng không có tinh thần tìm tòi học hỏi, chẳng màng đến thuộc linh, không thật sự nhận biết Chúa Giê-xu. Hai niên học trôi qua một cách vô bổ. Đến năm thứ ba là năm tốt nghiệp, nửa niên học đầu ông vẫn theo lề lối cũ, không có gì đổi mới và sự học cũng rất tầm thường. Đến tam cá nguyệt cuối cùng, trong tâm trí trầm lặng của ông bỗng nhiên có những luồng gió thổi vào và gợn lên những làn sóng nhè nhẹ. Khi học Phúc âm Giăng và thư Phao-lô gửi cho các tín hữu La Mã, ông được sự khải thị của Thánh Linh cảm biết mình là con người đầy tội lỗi. Những sự đen tối trong thâm tâm được Thánh Linh soi rọi vào, những tội lỗi kín giấu được bày ra trước mắt. Ông phải tìm cách giải quyết. Ngày nào chưa giải quyết xong là ngày ấy chưa có sự bình an. Một cuộc chiến khốc liệt tranh chấp trong nội tâm khiến ông ăn ngủ không yên. Đến lúc kiệt sức thì ông chỉ biết kêu cầu với Chúa. Mỗi buổi sáng, trong khi mọi người con an giấc, ông đã thức dậy tìm nơi vắng vẻ để cầu nguyện và đọc Kinh Thánh. Đêm đêm trong khi mọi người đã đi vào giấc ngủ thì ông vẫn thức để cầu nguyện xin Chúa ban cho sự vui thỏa trong lòng, cũng như sự bình an là đã được tha tội.
Một ngày kia, khi bình minh vừa ló dạng, ông đã thú nhận với Chúa tất cả mọi tội lỗi của mình. Trong lúc thật sự đau thương thống hối, ông nhận được sự tha thứ của Chúa, được gần gũi trong sự hiện diện của Ngài. Ngày hôm đó ông được sự sống từ Thánh Linh cũng là khởi điểm một đời sống mới. Lúc ấy ông được 19 tuổi.
Sau khi tốt nghiệp trường Thần Đạo ở Phước Châu, ông trở về quê cũ là huyện Hưng Hóa, cũng gọi là huyện Phổ Điền, làng Phượng Tích, tỉnh Phúc Kiến, bắt đầu cuộc đời truyền bá Phúc âm. Với cuộc đời mới được Thánh Linh thăm viếng, cuộc sống ở nông thôn thật đơn sơ nghèo nàn, nhưng cũng thoải mái dễ chịu. Ông đã cần cù gieo giống, chăm sóc, vun sới những thửa ruộng lòng của những nông dân nơi quê hương. Thấm thoát năm, sáu năm trôi qua, ông lập gia đình năm 25 tuổi. Vợ ông là một cô gái trong một gia đình Phật giáo. Sở dĩ cô gái thơ này nhận lấy Mục sư Tống Học Liên vì ngày trước bố mẹ hai bên gia đình, theo tục lệ cổ truyền đã đính ước cùng nhau, hứa hôn cho hai con khi chúng còn trong bụng mẹ. Bà Tống Học Liên quả là một người đàn bà đảm đang, cần kiệm. Tình thương yêu vợ chồng ngày càng đậm nồng.
Ngày ngày ông đi truyền giảng Phúc âm cho dân chúng trong làng, đêm về chong đèn dạy vợ viết và đọc. Sau một thời gian nghe chồng giảng dạy hiểu biết, bà chấp nhận từ bỏ Phật giáo, tin Chúa Giê-xu và nhận lễ báp têm. Nhưng đó chỉ là việc làm của con người chứ chưa phải là việc của Đức Chúa Trời. Bà đã xưng nhận đức tin, nhưng sự hiểu biết về Chúa còn rất nông cạn, lòng kính yêu Chúa cũng còn nhiều hạn hẹp. Lập gia đình chưa đầy một năm bà Tống Học Liên sinh hạ một bé gái đầu lòng. Qua năm thứ nhì lại thêm được một trai, đó là anh và chị của Tống Thượng Tiết.
Gia đình bốn người thì vui vẻ nhộn nhịp, nhưng bổn phận của người cha ngày càng nặng. Lương hàng tháng của Mục sư Tống Học Liên lúc ấy được chừng 5,6 đồng. Số lượng quá ít, thật là eo hẹp cho việc chi tiêu trong gia đình.
Trong cảnh nghèo túng, ông Tống Học Liên loay hoay suy nghĩ mãi. Những đêm dài trằn trọc không sao ngủ được. Trong mông lung nghĩ ngợi, hình như có một tiếng nói thì thầm thách thức rằng: Nghiệp dĩ làm người truyền đạo này giống như một kiếp ăn mày! Chưa xong bữa sáng đã phải lo chạy bữa tối. Cuộc đời khốn cùng như vậy, một thư sinh vốn chỉ biết bút nghiên như mình làm sao chịu nổi? Dù chưa phải là một nhà nho học tinh thông, nhưng mình cũng thuộc dòng dõi sĩ phu. Trong gia đình cũng đủ cầm, kỳ, thi, họa. Bây giờ nếu không hành chức nghiệp truyền đạo này chẳng nhẽ không sống nổi hay sao?” Rồi một kết luận nổi lên trong tâm trí: “Thôi thì bỏ chức vụ truyền đạo rời khỏi chốn làng mạc nghèo nàn này, đi đến một thành phố để làm một ký giả cho nhà báo; hay vào một trường ngoại quốc xin một chức vụ giáo sư”. Đó là tiếng nói của ma quỷ. Nhưng rồi Thánh Linh cũng êm dịu nhắc nhở ông những câu trong Kinh Thánh như những ngọn đèn soi thấu đến tâm linh. Châm ngôn đoạn 3 câu 5: “Hãy hết lòng tin cậy nơi Đức Giê-hô-va, chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con”. Lương tâm ông cũng âm thầm trách móc: “Chúa Giê-xu đã ban ân điển tha tội cho ngươi, cho dẫu ngươi có xả thân chịu chết, hay hy sinh bị bắt bớ đánh đập đi nữa thì cũng không thể đền đáp được ân thương xót ấy. Những khó khăn nho nhỏ này của cuộc sống ngươi không thể chịu đựng được cho Ngài sao? Ngươi muốn phụng sự cho thần tài, làm nô lệ cho tiền bạc, chỉ muốn chiếm hữu ruộng đất mà không đơm bông kết trái của sự sống! Ngày ngươi gặp Chúa Giê-xu, ngươi hai bàn tay trắng. Ngươi há không thấy chim trên trời, hoa cỏ ngoài đồng: chúng không trồng, không gieo gặt, cũng chẳng quay tơ dệt chỉ. Chúa nuôi chúng làm sao? Chim vẫn bay lượn trên vòm trời xnh, hoa cỏ vẫn trang điểm các đồng hoang vắng. Mắt của Chúa há không đang theo dõi ngươi và quý ngươi hơn tất cả vạn vật trên đời này hay sao? Ngươi hãy xét lại, trong quá khứ có ai đi rao giảng Phúc âm mà chết đói trong những ngôi làng nghèo nàn này chưa? Ngươi phải lấy lòng tin cậy nơi Chúa Hằng Hữu, lấy lời vua Đavít làm tấm gương soi rọi cho lòng ngươi: “Sư tử tơ bị thiếu kém và đói, nhưng người nào tìm cầu Đức Giê-hô-va chẳng thiếu của tốt gì”.
Sau cuộc chiến tâm linh ác liệt kéo dài từ đêm khuya đến gần sáng, khi trăng đã lặn, và gà đã gáy sáng thì ông Tống Học Liên nghe thấy rõ ràng tiếng nói của Chúa Giê-xu từ trời theo gió sáng sớm rót vào tai: “Tôi tớ của Ta ơi! Đừng sợ, có Ta đây, tất cả những nhu cầu của ngươi, Ta đều đã biết cả rồi”. Ông thức dậy, choàng áo lên người và báo ngay cho vợ biết sự chiến thắng của mình trong đêm qua khi giao chiến với ma quỉ. Từ đó ông không còn ý định rời bỏ chức vụ nữa và bắt đầu chỉnh đốn lại cuộc đời truyền giảng Phúc âm của mình.
Sau kinh nghiệm được thánh hoá này, chức vụ truyền đạo càng ngày càng khiến cho ông phấn chấn. Sau này được Chúa trọng dụng, kết quả lại càng tốt đẹp hơn. Hội Thánh do ông quản nhiệm mới đầu số tín hữu chỉ có hơn 100. Một năm sau con số tăng lên đến 5,6 trăm. Năm thứ ba được trên 1000 tín hữu...
Tống Học Liên chẳng những có quyền năng trong sự giảng dạy, mà cũng đầy ơn trong lãnh vực viết sách báo. Ông rất ham mê đọc sách, nhất là những loại sách cổ, có bao nhiêu tiền ông đều dành để mua sách. Thư viện của gia đình ông có trên 10 ngàn quyển và ông cũng rất quý những quyển sách ấy. Không phải ai cũng dễ dàng mượn sách của ông. Một lần kia, Tống Thượng Tiết làm long bìa một quyển sách, trong lòng rất lo âu, mong sao cha đừng phát giác. Nhưng lỗi lầm không sao giấu mãi được nên cậu đã bị một trận đòn đích đáng.
Tống Học Liên có khả năng văn chương nên đã được mời làm chủ biên tờ Phấn Hưng, tờ báo này có rất nhiều độc giả trong tỉnh Phúc Kiến. Ông cũng rất thích viết nhật ký, mỗi ngày hầu như ông đều ghi lại mọi việc làm, mọi cảm nghĩ của mình. Sau này chính Tống Thượng Tiết cũng được thừa hưởng thói quen này.
Tống Học Liên có khả năng văn chương nên đã được mời làm chủ biên tờ Phấn Hưng, tờ báo này có rất nhiều độc giả trong tỉnh Phúc Kiến. Ông cũng rất thích viết nhật ký, mỗi ngày hầu như ông đều ghi lại mọi việc làm, mọi cảm nghĩ của mình. Sau này chính Tống Thượng Tiết cũng được thừa hưởng thói quen này.
CHƯƠNG 3
NGƯỜI MẸ ĐƯỢC TÁI SANH TRONG MỘT CƠN BẠO BỆNH
Tuy cha của Tống Thượng Tiết là một Mục sư đầy ơn, nhưng cụ bà vẫn chỉ là một người tín đồ “hâm hẩm”. Chỉ việc tề gia nội trợ. Mấy năm sau bà sanh hạ thêm hai người con. Đến lần sinh nở thứ năm thì bà bị một bịnh ngặt nghèo. Đứa con thứ năm có sinh nhưng không có dưỡng. Bà mắc phải một bệnh không ai chẩn đoán được. Khi thì hồn bà như bay lên không trung, sống trong hư ảo với các thiên thần. Khi thì bà trở lại với trần gian sống với gia đình, với chồng con. Bà cứ rên siết trong đau đớn, không một y sĩ nào tìm được căn nguyên hay định được bệnh. Hơn nửa năm trôi qua, bà chỉ sống với những siêu thuốc lúc nào cũng sẵn bên mình. Những danh y và những người có kinh nghiệm trong làn đều cho rằng bà sẽ không còn sống bao lâu nữa. Họ khuyên ông Tống Học Liên nên mua sẵn quan tài và áo quần lo tẩm liệm, để khi hữu sự khỏi phải vội vàng hấp tấp. Ông nghe như vậy chỉ biết nuốt nước mắt chuẩn bị như họ đã khuyên nhủ. Vào một đêm ba mươi nhằm mùa đông giá buốt, dưới ánh đèn dầu leo lét, buồn thảm, trên giường bệnh dường như sự chết đã bao trùm bà. Dẫn hết các con đến trước giường bệnh, ông cầm cánh tay chỉ còn xương bọc da của vợ và nói trong nghẹn ngào nước mắt: “Tôi và các con...” Những tiếng cuối cùng chìm trong uất nghẹn không thốt được thành lời. Bà cố gắng nhướng đôi mắt đã trịu nặng mệt mỏi, nước mắt đầm đìa trên gối, bà cố lấy hết tàn hơi nhưng không thể nói ra được. Bà chỉ còn những hơi thở đứt quãng. Căn phòng rơi vào một khoảng khắc im lặng ghê rợn. Bên ngoài song cửa gió bấc gào từng cơn... Bỗng những tiếng khóc của các con vang lên hòa lẫn với tiếng cầu nguyện của Tống Mục sư tạo thành một tấu khúc buồn thê thảm...
Thình lình bà cụ ngồi bật dậy và nói với chồng: “Lấy cơm và thịt cho em ăn đi!” Một người chỉ còn những hơi thở đứt quãng trong giờ hấp hối, bỗng nhiên ngồi dậy đã là một chuyện lạ, mà lại còn đòi ăn cơm và thịt thì quả là một việc lạ trong những việc lạ! Hơn nữa đã lâu lắm rồi bà chẳn ăn hay uống gì. Tống Mục sư lúc nào cũng tin vào quyền năng của Chúa nên chẳng lấy gì làm ngạc nhiên... Ông vừa hết sức ngợi khen, cảm tạ quyền năng Chúa, vừa đi vô bếp nấu cơm và làm thức ăn rồi mang vào cho vợ.
Số là khi đến ranh giới của sự chết, bà nghe tiếng nói của Chúa Giê-xu là người thầy thuốc có thể ban cho sự sống: “Con ơi, hãy chổi dậy ăn cơm và thịt, đêm nay Ta ban cho con sự sống mới” Nghe được tiếng nói đầy năng quyền này, bà đã bật ngồi dậy, cảm thấy đói và khát, nên đã xin chồng cho ăn uống... Khi được mặc khải như vậy rồi, lòng bà trở nên nóng cháy. Sau này chẳng những bà đồng lao cộng khổ cùng chồng mà còn giúp Tống Mục sư rất nhiều trong chức vụ.
Khi vợ lâm trọng bệnh thì Tống Mục sư đem các con gửi cho một bà quen chăm sóc hộ. Vợ đã khỏi bệnh, ông đi rước các con về. Nhìn các con bà òa lên khóc. Nửa năm thiếu mẹ, lại không được tắm rửa, chăm sóc chu đáo, các con dơ bẩn đáng thương. Bà liền chổi dậy tắm rửa thay quần áo và bắt chí rận cho các con.
Khi vợ lâm trọng bệnh thì Tống Mục sư đem các con gửi cho một bà quen chăm sóc hộ. Vợ đã khỏi bệnh, ông đi rước các con về. Nhìn các con bà òa lên khóc. Nửa năm thiếu mẹ, lại không được tắm rửa, chăm sóc chu đáo, các con dơ bẩn đáng thương. Bà liền chổi dậy tắm rửa thay quần áo và bắt chí rận cho các con.
CHƯƠNG 4
THỜI THƠ ẤU (1901-1909)
Ngày 27-9-1901 nhằm Tết Trung Thu Âm lịch, năm Tân Sửu, lúc 4 giờ chiều, đúng lúc gia đình cùng túng nhất bà Tống Học Liên đã hạ sinh thêm một con trai thứ ba tại làng Phượng Tích. Thêm một miệng ăn là thêm phần khó khăn. Nhưng cám ơn Chúa về phần thuộc linh lúc ấy cả hai ông bà đều có sự sống sung mãn của Chúa Cứu Thế. Họ không lấy sự “thêm người” trong gia đình là một gánh nặng. Trái lại họ biết cám ơn Chúa và đồng tâm đặt tên cho con này là Chủ Ân tức là ân điển của Chúa (sau này đổi lại là Tiến sĩ Tống Thượng Tiết). Tuy tài chánh trong gia đình rất đỗi bần hàn, nhưng bầu không khí vui tươi không bao giờ sút giảm. Ai nấy đều khen gia đình họ Tống là “thiên đàng trên đất”. Đúng vậy, bài Thánh Ca gia đình yêu thích luôn hát là “Khi Chúa Giê-xu ở cùng ấy nơi Thiên cung!”.
Lúc cậu bé Chủ Ân lên sáu thì gia đình dọn từ làng Phượng Tích đến thành Hưng Hóa. Tống Mục sư kiêm giữ chức vụ hiệu trưởng trường Phúc Âm Thành Hưng, một trường tiểu học của Giáo Hội ngay cạnh nhà thờ. Mỗi Chúa nhật đều có lớp học Thánh Kinh. Chủ Ân thường chăm chỉ đến học lớp này. Những giáo viên trường Chúa Nhật rất sành tâm lý nhi đồng và họ biết cách dạy dỗ, khiến cho các em rất ham thích lớp học mà không cảm thấy chán nản. Chủ Ân nhận rất nhiều ân phước tại lớp học. Sau này, Tống Thượng Tiết kể lại những kỷ niệm với trường Chúa Nhật với đầy vẻ thích thú: “Đó là thời gian tôi thấy thích thú nhất, tôi nhớ từng mẩu chuyện của bài học và thường dùng để ứng dụng cho chân lý cho đời sống thực tế hàng ngày của tôi”.
Trong thời thơ ấu, khi còn hồn nhiên vui đùa với bạn bè, thì một biến cố thương đau đã hằn sâu vào lòng và biến đổi hẳn cuộc đời Chủ Ân. Một buổi chiều, cậu đang cắp sách trên đường từ trường về, gần đến nhà thì nghe mẹ khóc la. Chủ Ân rất sợ hãi, không biết chuyện gì đã xảy ra. Anh và chị đôi mắt đỏ hoe buồn thảm cho biết: “Em gái Thụy Đức đã chết rồi!” Thụy Đức bé bỏng nằm yên trên đất, Chủ Ân chạy lại nhấc cánh tay lạnh cứng của em và nước mắt trào tuôn...
Cái chết của bé Thụy Đức đã ảnh hưởng nặng nề trên đời sống của Chủ Ân. Cậu thường nghĩ ngợi: “Người chết sẽ đi về đâu?” Câu hỏi đã bám chặt vào tâm trí thơ ngây của cậu, không sao xóa mờ được. Nhiều đêm Chủ Ân bị ác mộng, thấy quỷ dữ đến bắt cậu đi làm phu tù cho chúng. Kinh hoàng thức giấc, toát mồ hôi lạnh cậu kêu thét lên để cầu cứu cha mẹ.
Tống Thượng Tiết cũng đã kể một câu chuyện thật hay: “Lúc thơ ấu tôi rất ham thích tiền bạc, việc gì cũng dính líu đến tiền bạc. Mẹ bảo học thuộc lòng Kinh Thánh câu gốc, tôi ra giá mỗi câu một đồng tiền”. Mẹ chỉ muốn mỗi ngày thuộc một câu, sợ học nhiều tôi không nhớ nổi! Sau một năm, tôi có hơn 300 đồng tiền. Tôi tự nghĩ, tôi đã giàu lắm rồi, lúc nào cũng sợ mất tiền, ăn ngủ không yên. Mẹ bảo tôi đem tiền gửi vào “nhà băng” của mẹ và mỗi tháng mẹ cho thêm một đồng lời. Nghe đến tiền lời, tôi cảm thấy thật là sung sướng. Nhưng tôi nhớ lại khi bé Thụy Đức mất đi, những đồ chơi Thụy Đức không mang theo được. Điều này khiến tôi liên tưởng đến cái gia tài của mình: “Tiền! Khi chết đi có mang theo được đâu? Tôi thấy mình thật ngu dại, và điều này đã đánh gục lòng tham tiền bạc của tôi”.
CHƯƠNG 5
CUỘC ĐẠI PHẤN HƯNG TẠI HƯNG HÓA
Năm 1909, Hội Thánh tại Hưng Hóa tổ chức một đại hội bồi linh, từ đại hội này Chúa ban cho một cơn phấn hưng kỳ diệu “có một không hai”. Lửa Thánh Linh bùng cháy mạnh mẽ trong lòng mỗi con cái, tôi tớ Chúa. Trong thời gian đại hội bồi linh đó, Chủ Ân lúc ấy mới lên chín. Một khải tượng về vinh quang rực rỡ của Chúa qua một vùng hào quang chói lọi đã khắc sâu vào tâm khảm cậu.
Chủ tọa hội đồng bồi linh là Mục sư của thành Hưng Hóa, ông cũng thường đến lớp trường Chúa Nhật của Chủ Ân học để kể chuyện. Lối kể chuyện cũng như phong thái của ông đã thu hút khoảng ba, bốn trăm trẻ em trong trường. Chúng đã để hết tâm trí vào những mẩu chuyện ông kể.
Một buổi chiều thứ năm, nhân lễ kỷ niệm Chúa chịu thương khó, ông đã giảng một bài về Chúa bị bắt trong vườn Ghết-sê-ma-nê. Từng lời, từng câu như những mũi tên xuyên thẳng vào lòng người nghe. Ông diễn đạt thật linh động và sâu sắc. Đến 34 năm sau, Chủ Ân hồi tưởng lại mà nước mắt vẫn tuôn trào.
Trong đại hội bồi linh Hưng Hóa, vị Mục sư này giảng dạy cách đầy dẫy Đức Thánh Linh và đầy năng lực từ thiên thượng, đạt được rất nhiều mỹ mãn. Những người đến dự chiếm hết ghế ngồi, hết luôn cả chỗ đứng bên trong, phải tràn ra bên ngoài, các lối đi cũng không còn chỗ chen chân.
Ban tổ chức phải dựng tạm một căn lều, sức chứa khoảng ba, bốn ngàn người. Những chẳng mấy chốc căn lều cũng không đủ vì người đến dự đại hội ngày càng đông. Ngoài dân địa phương, tín hữu những vùng xa như Phước Châu, Hạ Môn rủ nhau kéo đến đại hội.
Các Hội Thánh miền nam Trung Hoa cũng gửi đại diện đến. Thậm chí có những con cái Chúa từ Mỹ Châu cũng đến dự nữa. Đây là một chuyện khó tin, nhưng trong tác phẩm “Lời Chứng Của Tôi”, Tống Thượng Tiết đã ghi lại điều này. Những người đến dự đại hội đều được Chúa Thánh Linh thăm viếng, trở về Hội Thánh nhà với tinh thần nóng cháy và tấm lòng sung mãn.
Trong những buổi thờ phượng, có rất nhiều tín hữu được Chúa Thánh Linh cảm hóa, ăn năn xưng hết tội lỗi của mình. Người này thừa nhận đã thâm lạm công quỹ, người kia xưng là đã ăn cắp của người khác, cậu trai này nhận có đáng cắp cây dù, em bé nọ nhận có ăn cắp quả bóng. Ai nấy xưng ra những tội của mình đã phạm. Thật là kỳ diệu, có hai trăm người nghiện ma túy cũng đứng dậy xưng tội, họ đưa ra những dọc tẩu dùng để hút á phiện, chất thành đống và đã châm lửa đốt cháy đi. Quả là một cảnh tượng cảm động. Cảnh tượng của những người được rửa sạch tội lỗi, mở rộng cửa lòng để tiếp nhận Chúa Thánh Linh. Rất nhiều nhi đồng đến dự đại hội, sau khi được thúc giục xưng tội, chúng đã trưng ra những vật đã ăn cắp. Vô số những quả bóng, sách vở, nghiên bút... được hoàn trả.
Lúc ấy Chủ Ân mới lên chín. Tuy rằng ngày ngày đều đến nhà thờ nghe giảng nhưng chưa xưng nhận tội lỗi nên chưa nhận được sự sống mới. Cậu bé đã cảm nhận có một quyền năng đang thôi thúc khiến cậu không thể không đến nghe được.
Sau này, Tống Thượng Tiết đã tìm hiểu nguyên nhân sâu kín đã đưa đến cuộc phấn hưng: Thời gian trước đại hội tại Hưng Hóa có hai bà cụ bên Mỹ hết lòng kính yêu Chúa, họ đã khẩn thiết cầu nguyện cùng Chúa cho Hội Thánh tại Hưng Hóa. Một ngày kia trong khi cầu nguyện họ nghe thấy tiếng nói từ trên trời: “Sau ngày lễ Chúa chịu thương khó năm 1909, tại Hưng Hóa sẽ có cơn đại phấn hưng”. Họ bèn viết thư báo cho các vị giáo sĩ đang phục vụ tại đây. Thư chưa đến được Hưng Hóa thì ngọn lửa phấn hưng đã bùng cháy. Điều này minh chứng quyền năng của sự cầu thay. Trong tác phẩm “Lời Chứng Của Tôi”, Tống Thượng Tiết viết: “Trong suốt đời tôi, tôi luôn luôn muốn nhớ lại đại hội phấn hưng năm đó. Nó như một đồng cỏ xanh tươi mát, luồng gió của Thánh Linh thổi đến, những hạt giống tốt ở trong Hội Thánh đã lan tràn khắp nơi và nở ra những đóa hoa tươi thắm và kết những quả của sự sống đầy tràn.”
Cuộc phấn hưng tại Hưng Hóa là một bài học rất hữu ích và thiết thực đã hằn sâu vào tâm khảm cậu bé Chủ Ân. Sau này Tiến sĩ Tống Thượng Tiết thường áp dụng nguyên tắc của ngọn lửa Phấn Hưng Hưng Hóa trong suốt cuộc đời truyền bá Phúc âm của ông.
CHƯƠNG 6
MỤC SƯ CON (1912-1913)
Mặc dù đại hội bồi linh mùa hè năm 1909 đã qua đi, nhưng ngọn lửa phấn hưng vẫn còn bốc cháy và càng ngày càng lan rộng. Người tin Chúa ngày càng đông, Hạ đi, Thu đến, Đông qua, Xuân lại. Những người được Chúa đưa vào Hội Thánh tăng lên bội phần. Nhà thờ không còn đủ sức chứa. Mỗi ngày Chúa nhật, những nông dân khắp các làng mạc, từ già đến trẻ cùng mang một tấm lòng thành kính đi lên tỉnh thành để thờ phượng Chúa. Một nhà thờ vốn chỉ có sức chứa bốn hay năm trăm tín hữu, nay phải chứa đến hai hay ba ngàn tín hữu không phải là một công việc của một sớm một chiều. Để giải quyết vấn đề ban tổ chức phải sắp xếp các tín hữu từ các nơi đến, tùy theo xa gần, mà chia thành từng buổi thờ phượng sáng, trưa, chiều. Như vậy những tín hữu phải băng ngàn vượt suối cũng có cơ hội để về nghe giảng và thờ phượng Chúa. Một ngày phải chia làm ba xuất thờ phượng là một phương thức hay để giải quyết nan đề. Nhưng cách giải quyết ấy quá nhọc mệt cho Mục sư Tống Học Liên.
Cũng may là lúc ấy Chủ Ân lên 12 tuổi và đã giúp đỡ được đôi phần cho cha. Trên thực tế, cậu đã đóng vai trò chấp sự lâm thời của Hội Thánh. Sau một năm, một nhà thờ mới trong mơ ước đủ sức chứa hai, ba ngàn tín hữu đã trở thành thực sự. Khánh thành ngôi giáo đường mới, rồi Tống Mục sư lại càng năng nổ hơn nữa vì ông thật sự cảm nhận sự hiện diện của Chúa. Những thân hào nhân sĩ trong xã hội thấy sự phát triển kỳ diệu của Hội Thánh cũng đã có một cái nhìn khác hẳn. Tri huyện của huyện Hưng Hóa khi có những việc khẩn cấp đều đến với Tống Mục sư nhờ giúp ý kiến. Tuy danh tiếng và uy tín với xã hội ngày càng lớn, gia đình họ Tống vẫn nghèo như xưa. Lúc ấy, Tống Chủ Ân đã lên mười ba, vừa đi học ở trường trung học vừa giúp cha trong việc phục vụ Chúa tại Hội Thánh. Ngoài việc phát truyền đạo đơn, bán các sách Phúc âm, cậu Chủ Ân cũng nhiều lúc theo cha vào những làng mạc chung quanh để truyền giảng Phúc âm. Nhiều khi cha bị đau ốm hoặc phải lên tỉnh thành, cậu thay thế cho cha trong việc thờ phượng buổi tối. Dưới sự chứng kiến của vài trăm người, vị “tiểu Mục sư” mười ba tuổi này, đầy quả cảm, lên bục giảng đạo. Chẳng những thế, cậu không tỏ ra một chút gì lúng túng hấp tấp, nói năng gọn ghẽ khúc triết, thật là một điều đáng quý.
Mỗi năm mùa hè đến là dịp tiện tốt để Chủ Ân hầu việc Chúa. Ánh nắng hè gay gắt không khiến cậu nao lòng. Dưới những bóng mát cây xanh, cậu thường làm chứng cho thân hữu đường lối cứu chuộc của Chúa đối với tội nhân. Những người nghe cảm động ăn năn tin theo Chúa cũng khá nhiều. Điều đó khích lệ, cậu càng hăng say hơn trong sự hầu việc Chúa. Lắm khi cậu đã giảng dưới trời nắng chang chang, mồ hôi nhễ nhãi tràn qua cả chân mày, chảy vào mắt, xót đến độ không thể mở mắt được. Nhưng cậu cũng chẳng quan tâm, lâu lâu dùng hai tay áo lau trán, rồi lại tiếp tục làm chứng về Chúa. Có lắm khi say mê giảng Phúc âm cậu đã quên cả nhọc mệt, quên cả ăn uống.
Mùa hè năm nọ, cậu đến một ngôi làng xa để dạy Kinh Thánh cho gần hai trăm nhi đồng. Một lần khác cậu đến truyền giảng ở Tỷ Cang Trấn, thuộc vùng cao nguyên có chừng sáu chục người hối cải tin nhận Chúa. Cũng vì nóng cháy hầu việc Chúa như vậy nên Chủ Ân đã có biệt danh “Mục sư con”. Âu đó cũng là cách xưng tụng đúng với ý nghĩa. Nhưng sau này hồi tưởng lại, Tống Thượng Tiết cho đó chỉ là những nông nỗi tuổi trẻ, không có sức sống của Chúa. Dụng ý chỉ là muốn nâng cao chính mình, thoả mãn lòng hiếu thắng, đem vinh dự về cho cha mà thôi.
Mùa hè năm nọ, cậu đến một ngôi làng xa để dạy Kinh Thánh cho gần hai trăm nhi đồng. Một lần khác cậu đến truyền giảng ở Tỷ Cang Trấn, thuộc vùng cao nguyên có chừng sáu chục người hối cải tin nhận Chúa. Cũng vì nóng cháy hầu việc Chúa như vậy nên Chủ Ân đã có biệt danh “Mục sư con”. Âu đó cũng là cách xưng tụng đúng với ý nghĩa. Nhưng sau này hồi tưởng lại, Tống Thượng Tiết cho đó chỉ là những nông nỗi tuổi trẻ, không có sức sống của Chúa. Dụng ý chỉ là muốn nâng cao chính mình, thoả mãn lòng hiếu thắng, đem vinh dự về cho cha mà thôi.
CHƯƠNG 7
TỐNG ĐẠI ĐẦU
Tống Chủ Ân khi mới sanh đã có một cái đầu lớn khác thường. Lớn lên đi học, tất cả các cỡ mũ nón trong tiệm không có cái nào Chủ Ân có thể đội vừa. Nhưng điều này cũng chẳng có gì quan trọng, vì nếu có một cỡ mũ nào vừa, thì gia đình cũng chẳng đủ tiền để mua. Biện pháp giải quyết tốt nhất là Chủ Ân đã để tóc thật dài rồi quấn quanh sọ thành một cái mũ thiên nhiên. Đầu đã lớn lại không cắt tóc nên nhìn lại càng lớn hơn. Các bạn đồng lứa đã dành cho Chủ Ân biệt danh là “Đại Đầu”. Mới đầu cả gia đình chẳng ai thích hỗn danh này, nhưng được gọi mãi cũng chẳng phải chịu.
Đầu to chẳng những là một dị tướng, mà tâm hồn Chủ Ân cũng rất khác thường. Đầu to, một phần cũng là do di truyền. Mục sư Tống Học Liên có một cố tật là nóng tính, khi cơn giận nổi lên thì la hét, mặt tái như chàm, ai nhìn thấy cũng bắt sợ và tìm cách lấn xa. Tống “Đại Đầu” đã thừa hưởng tánh xấu ấy khi người cha dạy dỗ hơi quá đáng thì “Đại Đầu” cũng không chịu nhịn. Một lần kia vì một chuyện nhỏ mà “Đại Đầu” xúc phạm đến thân sinh. Bị cha phạt, “Đại Đầu “ bực tức và trốn mãi trong gầm giường. Sau một thời gian khá lâu người nhà đi tìm đâu cũng chẳng thấy, ai nấy đều rất sợ hãi. Trước đã có một lần, tranh cãi với cha, bị cha mắng và phạt, “Đại Đầu” làm bộ nhảy xuống giếng đòi tự tử để dọa cha. Biết đâu lần này lại chẳng xảy ra sự thật? Mãi cho đến khuya Tống “Đại Đầu” mới từ gầm giường bò ra, người nhà mới thở phào trút hết lo âu. Lại một lần nữa, Đại Đầu đã làm cha phiền giận. Bị quở mắng, cậu la thét phản đối và dùng đầu húc vào một lu nước thật lớn, lu nước vỡ tan, nhưng đầu “Đại Đầu” không hề hấn gì. Với một nết xấu như vậy nên Chủ Ân rất thường bị đòn vọt của cha. Một lần kia, sau khi đã cho con một trận đòn nên thân, Tống Học Liên yên lặng vào trong thư phòng. Sau khi bị đòn “Đại Đầu” cũng hiếu kỳ muốn biết cha mình vào thư phòng để làm gì. Qua khe hở, cậu ghé mắt nhìn lén vào phòng thì thấy cha đang úp mặt nức nở khóc. Chủ Ân không chịu đựng nổi nên chạy vào và hỏi cha: “Cha ơi, cha đang làm chi đó, tại sao con bị đòn con không khóc mà cha lại khóc?” Tống Học Liên trả lời: “Đó là lòng thương con mà cha phải phạt con. Chúa yêu chúng ta còn hơn thế nữa!”
Sống trong bầu không khí đạo đức và gia phong như vậy, tuy thỉnh thoảng cũng có tranh cãi to tiếng, nhưng điều quan hệ là trong gia đình rất hài hòa.
Những buổi sáng xuân hồng, những chiều trăng thu, Tống Mục sư không quên đưa các con đi thăm những nơi danh lam thắng cảnh, thưởng lãm những tác phẩm tuyệt vời của Thượng Đế trong thiên nhiên. Cậu bé Chủ Ân đặc biệt thích cùng cha lên núi để cầu nguyện.
Cả một tuổi thơ Tống Thượng Tiết được lớn lên trong một gia đình nho phong, đạo hạnh như vậy nên đã có một ảnh hưởng sâu đậm và một ấn tượng không thể nhạt phai trong ký ức.
CHƯƠNG 8
TUỔI TRUNG HỌC (1913-1917)
Tống Thượng Tiết đã thừa hưởng tính đam mê sách vở của cha. Cần kiệm được chút tiền, Tống Học Liên chỉ dùng vào việc mua sách báo, Tống Thượng Tiết triệt để tán thành cha trong việc này. Cậu xin cha đặt mua các loại nguyệt san, tạp chí. Người chống đối triệt để việc mua sách là bà Mục sư. Gia đình quá nghèo, tiền lương ít ỏi, con cái lại đông. Bà cho rằng đem tiền đi mua sách là phí phạm.
Gia đình Tống Học Liên có thiết lập một thư viện tuy đơn sơ nhưng rất tao nhã. Đó chính là nơi đã chiếm nhiều thì giờ trong ngày của Tống Thượng Tiết. Bất luận là sau công việc hay sau giờ tan học ở trường, bóng dáng của cậu lúc nào cũng loay hoay trong thư phòng. Cậu từng nói: “Đọc sách báo là tâm sự với những người bạn tri kỷ”. Cậu đã đọc những tiểu thuyết cổ cũng như kim văn, những truyện ký của những danh nhân, ngay cả những tạp chí phụ nữ. Các bạn bè chế giễu, nhưng cậu chẳng quan tâm mà trả lời họ: “Miễn là sách báo thì tôi đọc!” Tống Thượng Tiết đắm chìm say mê trong sách báo.
Mục sư Tống Học Liên đọc báo thấy Trường Hải Quân Phước Châu đăng thông cáo tuyển sinh viên, ông hằng khuyến khích con nộp đơn thi vào hải quân. Tống Thượng Tiết nghĩ rằng: “Trường Hải Quân chắc cũng giống như những trường võ bị khác. Một khi đã thi đậu rồi thì họ sẽ đài thọ tất cả trong suốt thời gian theo học. Nếu mình thi đậu thì cũng bớt cho gia đình một gánh nặng. Các môn thi thì chỉ cần đầy đủ sức khỏe và Hán văn. Hai môn này thi cũng dễ thôi”. Thầy giáo cũng như bè bạn cậu đều khuyến khích, vì họ tin chắc rằng cậu sẽ thi đậu chẳng mấy khó khăn. Nhưng mới vòng đầu khám sức khỏe chân của cậu bỗng nhiên bị sưng. Theo thể lệ đã không đủ tiêu chuẩn sức khoẻ thì Hán văn có xuất sắc đến đâu cũng bị loại! Học sinh trong trường có nhiều người ứng thí nhưng chỉ có hai người trúng tuyển. Họ rất lấy làm hãnh diện về thành quả này. Nhưng thương thay, có ai biết được tương lai mình. Hai chàng sĩ quan hải quân này chẳng bao lâu kẻ trước người sau đã tử trận. Những ước vọng thăng quan tiến chức, dĩ nhiên cũng cùng hai chàng đi vào cát bụi. Việc có ai ngờ được. Sau này hồi tưởng lại Tống Thượng Tiết đã tạ ơn Chúa không xiết kể.
Không trúng tuyển trường võ bị hải quân. Cậu học lại trường cũ, và tiếp tục làm mọt sách. Lúc ấy Trung Hoa Dân Quốc mới thành lập. Để tưởng nhớ những tháng năm sỉ nhục, kỷ niệm những mối quốc hận, và khuyến khích lòng yêu nước của toàn dân, nhà trường đặt ra rất nhiều ngày lễ nghỉ. Tuy không có giờ học nhưng cậu vẫn đến trường, trong những lớp học thênh thang, vắng lặng chỉ một mình mình yên tĩnh ngồi đọc sách. Bạn bè cùng trường, cùng lớp đều cho cậu là người thiếu nhiệt huyết, thiếu lòng yêu nước. Họ thường chế giễu cậu và thậm chí có người đã cho cậu những biệt danh như “loài động vật có máu lạnh”. Cậu vốn là người cần mẫn, hiếu học nên chẳng để tâm đến những chuyện vụn vặt ấy.
Ở tuổi trung học rồi mà cậu vẫn chưa không chú tâm đến áo quần cũng như diện mạo của mình. Một phần vì tính hiếu học, một phần tình trạng kinh tế gia đình quá eo hẹp. Muốn chưng diện như bạn bè cũng chẳng lấy đâu ra tiền. Cho nên suốt thời trung học, cậu luôn là bạn thiết của chiếc áo ngắn và đi chân đất. Lần đầu tiên cậu được mặc áo dài là ngày tốt nghiệp trung học. Cậu ra trường với hạng tối danh dự. Để khuyến khích con, và cũng để con khỏi mất mặt với bạn bè, Tống Mục sư đã mua một tấm lụa nhiễu xanh may cho cậu một chiếc áo dài. Đó là chiếc áo đại lễ, cũng là chiếc áo dài mà Tống Thượng Tiết được mặc lần đầu tiên trong đời.
CHƯƠNG 9
THỜI GIAN TRƯỚC KHI DU HỌC
Sau khi tốt nghiệp trung học, việc tiếp tục sách đèn là cả một vấn đề cho gia đình. Tống Thượng Tiết dự định lên thủ đô Nam Kinh vào đại học Kim Lăng. Để chuẩn bị hành trang cho ông, mẹ và chị cả đã lo may áo quần, sắm sửa vật dụng. Trong khi đó thì ông cũng đang có hai công việc là dịch sách và xuống các làng mạc để truyền giảng Phúc âm. Mục sư Tống Học Liên viết nhật ký rất chuyên cần. Tống Thượng Tiết thừa hưởng thói quen này và ông bắt đầu viết nhật ký vào năm 1917. Cũng như cha, ông viết nhật ký rất chuyên cần, cơm có thể quên ăn, nhưng nhật ký thì không bao giờ có thể quên viết. Những cộng sự viên của ông sau này đều xác nhận, cho dù bận rộn đến đâu, mỗi ngày ông ít nhất cũng dành ra một giờ để ghi nhật ký. Ông ghi chữ rất nhỏ, liên tục ghi lại tất cả những chi tiết của đời mình cho đến khi qua đời, không thiếu sót một ngày nào. Đó là những tài liệu quý báu và chính xác, nhưng tiếc thay chính tôi là tác giả “Cuộc Đời Tống Thượng Tiết” này cũng chưa được hân hạnh đọc quyển nhật ký ấy.
Thời gian còn ở trung học, ngoài việc viết nhật ký và lo soạn bài vở của nhà trường, ông đã phụ giúp cha dịch sách báo và viết bài cho tạp chí Phấn Hưng. Ông phụ trách chủ biên nhiều tạp chí trong trường, gửi bài đăng trên nhiều tạp chí địa phương. Thay cha phụ trách chủ biên tờ Phấn Hưng Báo không phải là việc quá sức và xa lạ với ông. Anh rể của ông cũng là người uyên thâm Nho học nên đã giúp ông rất nhiều trong công việc báo chí. Ngoài việc làm báo, ông còn có kế hoạch truyền giảng Phúc âm cho đồng bào tại các làng mạc. Kế hoạch này được các vị giáo sĩ tây phương tán trợ. Ông kết hợp cùng những thanh niên đồng tâm tình, mỗi tuần đi vào các thôn làng, trường học, tiếp xúc với các giáo viên xin phép, để cùng các bạn truyền giảng Phúc âm cho các học sinh. Ông kể những câu truyện trong Thánh Kinh, dạy họ hát Thánh ca tôn vinh Chúa. “Đoàn truyền giáo” cũng dạy cho học sinh những trò vui tươi tao nhã, và tặng cho họ những tấm hình mang ý nghĩa về sự tích Thánh Kinh...
Một ngày kia, đang khi hăng say truyền giảng trong các làng xa thì ông được điện tín báo cho biết là người chị cả bị bịnh dịch tả cấp tính đã lìa đời chỉ trong vòng ba, bốn tiếng đồng hồ. Cái chết của chị là một thách thức rất lớn đối với ông. Chương trình dự định lên thủ đô vào đại học Kim Lăng coi như gẫy đổ.
Mỗi buổi sáng, ông một mình lên ngọn đồi gần nhà. Trong cái tịch mịch của thiên nhiên, cô đơn cầu nguyện xin Chúa cho được kinh nghiệm tái sanh. Những cơn gió thoảng trong cây lá, những khóm hoa tươi thắm, tất cả như muốn hướng dẫn ông truy tầm cho bằng được những linh ân từ thiên thượng. Một hôm, ông nhớ lại lời nói của cha: “Cha được tái sanh là nhờ đọc Thánh Kinh thơ La-mã và Phúc âm Giăng”. Ông bắt đầu đọc hai Kinh sách này. Đọc đi đọc lại đến mấy mươi lần, nhưng ông cũng chẳng thấy có gì đổi mới. Ông bóp trán suy tư: Phải đi vào con đường khổ tu để khắc phục thân xác chăng? Nhưng ông cũng chẳng cảm thấy nhận thêm được những gì mong ước. (Lúc ấy ông chưa ý thức được sức sống mới đến từ Chúa Thánh Linh, và thời điểm đó phải do Chúa kiểm sóat và định đoạt chứ không phải do nơi ý muốn của con người).
Tuy rằng kế hoạch vào đại học gần như gẫy đổ do cái chết của người chị cả, nhưng ý chí và tinh thần hiếu học của ông không gì cản nổi. Vấn đề khó khăn là lúc ấy những biến chuyển chính trị đang bị khơi động khắp nơi. Nhất là các trường học, các sinh viên thường sách động bãi khóa. Nếu không bãi khóa thì sinh viên cũng chẳng còn tinh thần mà học hành. Giáo sư, sinh viên ai cũng muốn tham gia chính trị, không mấy ai còn nghĩ đến chuyện học hành hay dạy dỗ. Mọi nơi, mọi trường đều bế tắc như nhau! Tống Thượng Tiết nảy ra ý định du học nước ngoài. Ý định này thật là xa vời. Hoàn cảnh gia đình túng quẫn. Vào một đại học ở thủ đô Nam Kinh đã là một gánh quá nặng cho gia đình, làm sao có thể nghĩ đến việc xuất ngoại du học? Do đó khi ông đem ý định này ra bàn với cha thì liền bị cha quở trách: “Đừng có mơ mộng hão huyền, con tưởng cha có nhiều tiền của để con có thể ra nước ngoài tiến thân mưu tìm danh vọng sao? Con không biết cha là ai sao? Cha chỉ là một Mục sư nghèo!” lời quở trách này cũng không làm cho Tống Thượng Tiết buồn. Cha trên đất không ủng hộ, thì cầu Cha trên trời vậy. Ông bèn lên núi, trình xin với Cha trên trời ý nguyện du học nước ngoài. Ông cũng trình bày rõ là xuất ngoại du học là để suốt đời phục vụ Chúa. Ông kiên nhẫn cầu nguyện như thế khoảng một tuần. Quả thật Cha trên trời là Đấng quyền năng có đầy đủ biện pháp. Ông nhận được một thư của Miss Kans do một giáo sĩ Tây phương trao lại. Trong thư cô tỏ ý là có nghe Tống Thượng Tiết có ý định muốn xuất ngoại du học, nhưng vì tình trạng kinh tế gia đình eo hẹp, nên không thể thực hiện được ý nguyện. Cô cũng biết Tiết là một thanh niên hiếu học, nên cô tình nguyện giúp đỡ bằng cách viết thư cho trường Ohio Wesleyan University, tại thành phố Delaware. Cô xin trường cho Tiết một học bổng và cũng hứa rằng sau khi Tiết đến Hoa Kỳ, cô sẽ giúp tìm cho một việc làm bán thời gian để có thể vừa học vừa làm.
Nhận được bức thư này ông hết lòng cám ơn Chúa. Vừa múa tay chân, vừa sung sướng báo tin mừng cho cha, nhưng Tống Mục sư vẫn nhẹ nhàng bảo: “Cha quả tình không có khả năng để cho con xuất ngoại du học. Con phải biết là cha làm người truyền đạo hơn 30 năm nay, tất cả tiền dành dụm chưa tới một trăm đồng! Cho dẫu là cha mẹ cho con tất cả thì cũng chưa đủ được nửa tiền cước phí! Gia đình ta thì phải xoay trở cách khó khăn, cha thật hết lòng mong con đi du học, nhưng khả năng hoàn toàn bị hạn chế”. Những lời tâm sự hợp tình hợp lý của cha, chẳng khác nào một gáo nước lạnh tạt vào mặt. Suy nghĩ mông lung, ông lại trở lên núi để cầu xin thêm sự tiếp trợ của Cha toàn năng. Những bạn học cùng tốt nghiệp với Tống Thượng Tiết, có người đã đi làm, cũng có người đã ra giữ chức vụ truyền đạo. Họ là những học trò của Mục sư Tống Học Liên. Nghe bạn có chí đi du học, với ý định sau khi tốt nghiệp trở về nước để lo hầu việc Chúa, họ rất vui mừng. Họ cũng biết gia đình Tống Mục sư không đủ khả năng tài chánh, nên đã hết lòng vui vẻ hùn nhau lại kẻ ít người nhiều cho bạn mượn để làm lộ phí. Góp gió thành bão, chẳng mấy chốc đủ tiền mua vé tàu.
Ai cho mượn bao nhiêu, Tống Thượng Tiết đều ghi vào sổ rõ ràng, định bụng sau này khi đến Mỹ, tìm được việc làm, ông sẽ dành dụm gửi về trả nợ dần cho bạn bè.Đúng lúc mua vé tàu thì đồng mỹ kim xuống giá nên số tiền bạn bè góp lại cho mượn, chẳng những đủ để mua vé tàu mà còn dư để may được một bộ âu phục, và mua một số hành trang cần thiết trước khi lên đường. Tống Thượng Tiết ra đi nhằm mùa Xuân, ngày 10 tháng 3 năm 1919. Trong chuyến đi ấy cũng có bảy sinh viên cùng quê với ông.
CHƯƠNG 10
VƯỢT THÁI BÌNH DƯƠNG
Ngày Tống Thượng Tiết rời quê hương Hưng Hóa lên đường xuất ngoại nhằm lúc Tống Mục sư có việc gấp phải ra tỉnh thành nên không có dịp tiễn đưa. Chỉ có mẹ ở nhà, bà đã âu yếm nắm lấy tay con dặn dò và trao gửi những lời tâm huyết. Người anh đưa tiễn ra tận bến tàu và giúp đỡ những việc cần thiết. Tuổi trẻ, lần đầu tiên xa gia đình, xa quê hương, Tống Thượng Tiết không tránh khỏi bịn rịn, lưu luyến. Nhưng niềm hy vọng như vầng dương rực sáng đưa lối dẫn đường, nên nỗi buồn biệt ly cũng sớm được xua tan. Qua vài ngày chiếc tàu nhỏ đã đến Thượng Hải, một thành phố tráng lệ, xa hoa. Bảy người bạn đồng hành của ông đều là con của những gia đình giàu có, nên thời gian chờ đợi ở Thượng Hải mặc sứ cho họ ngày ngày đi đến những chốn ăn chơi, đi xem xinê, đến các hí viện... Riêng ông thì không bước ra khỏi phòng của khách sạn. Chẳng những không đến những nơi du hí, mà ngay cả những cửa hàng danh tiếng như hãng Sincere và hãng Vĩnh An, ông cũng không đặt chân đến. Suốt ngày ở trong khách sạn đọc Kinh Thánh, cầu nguyện, đọc sách báo, viết nhật ký, không có gì khác hơn những sinh hoạt thường ngày sống trong gia đình ở quê nhà. Vào ngày mưa, bảy chàng sinh viên con nhà giàu đó không ra ngoài đi du hí được, họ đem Tống Thượng Tiết ra làm đề tài giễu cợt chê ông là một người quê mùa.
Thật ra thì Tống Thượng Tiết cũng đã từng tuyên bố: “Tôi vốn quê mùa, không biết đến các lạc thú của kinh thành”. Ông nghĩ đến tiền lộ phí là do vay mượn mà có thì làm sao phung phí, tiêu xài như những con nhà giàu kia được. Ngày 20 tháng 3, chiếc tàu Nero, nhổ neo hướng về Mỹ quốc. Để không bị nhìn như những người đi lao động khổ sai khi nhập cảnh Mỹ quốc, buộc lòng Tống Thượng Tiết phải mua vé tàu thượng hạng với giá $240.
Khi con tàu vào hải phận quốc tế thì bắt đầu lắc lư theo nhịp sóng. Tất cả những bạn đồng hành đều bị say sóng, riêng ông rất tỉnh táo, một mình lên boong tàu. Biển xanh bao la, bầu trời lồng lộng quang đãng, lòng ông lúc nào cũng khấp khởi mừng vui, luôn ca ngợi Đấng sáng tạo nên vạn vật và vũ trụ này. Những buổi chiều xuống, ông đi dạo trên boong tàu, nhìn cảnh mặt trời lặn chìm trong sóng biển nhấp nhô xanh biếc, áng chiều tạo thành những thảm gấm tuyệt vời trên không trung. Tựa vào thành tàu nhìn cảnh hùng tráng của mặt trời chiều trên đại dương mà hai dòng nước mắt tuôn trào. Không phải vì cô đơn xa nhà, xa quê hương, cũng không phải vì chia ly tình phụ mẫu, huynh đệ, cũng không phải ưu tư về tương lai mịt mờ, nhưng vì nghĩ đến bao nhiêu ân điển rộng lớn của Thiên Chúa mà ông tuôn dòng lệ ấm.
Vốn xuất thân trong một gia đình nghèo khó nên khi ở trong phòng thượng hạng của con tàu chở hành khách này là dịp ông được sống những ngày chưa bao giờ được hưởng trong cuộc đời. Bảy người bạn đồng hành vì say sóng nên không thể dậy để dùng bữa. Một mình ngồi trên bàn ăn dành cho 8 khẩu phần, ông tha hồ chọn những thức ăn mình ưa thích. Ngoài ra còn có hai người bồi phòng hầu hạ trong suốt thời gian lênh đênh trên biển.
Sau khi đến Mỹ quốc, giá vàng bỗng lên cao. Tống Thượng Tiết bán số vàng còn lại trị giá được $246. Ông chỉ để lại $6 cho mình làm phí tổn, số còn lại gửi về cho cha để trả nợ cho bạn bè. Thật kỳ diệu, khi ra khỏi nước thì giá vàng xuống, nay đến đất Mỹ thì giá vàng lại lên cao. Số tiền $240 chẳng những thanh toán xong nợ nần, mà lại còn dư. Thật đáng ngợi khen Chúa vì sự sắp đặt của Ngài!
Trả xong nợ nần, Tống Thượng Tiết đề nghị người anh cũng nên qua Mỹ học.
CHƯƠNG 11
TRƯỚC VÀ SAU KHI VÀO TRƯỜNG ĐẠI HỌC (1919-1921)
Khi đến Mỹ, Tống Thượng Tiết cảm thấy một nỗi cô đơn xâm chiếm. Nhất là tiếng Anh chưa thông thạo, phát âm không chính xác, đi đến đâu cũng gặp khó khăn. Thứ đến là cuối tháng Tư mới nhập học ở Tiểu bang Ohio. Sau khi hỏi thăm mới biết Miss Kans đang ở Bắc Kinh chưa về Mỹ nên không tìm được ai quen biết. Trường Wesleyan University thật có dành cho Tống Thượng Tiết một học bổng, nhưng ông không thể ở ký túc xá nhà trường ngay được. Mướn phòng ở ngoài thì mỗi ngày phải tốn một Mỹ kim, mà trong túi chỉ còn có 6 đồng. Làm sao có thể kham nổi?
Cách giải quyết duy nhất là phải tìm một việc làm. Nhưng tìm việc không phải là dễ nơi đất lạ quê người. Trong rừng người mênh mông đó, biết xin việc với ai, mà xin việc gì đây? Lúc cùng đường thì ông gặp được người thư ký của hội YMCA. Muốn nhờ ông ta giúp đỡ nhưng vì tiếng Anh nói chưa thông nên người thư ký ấy không hiểu Tiết muốn gì. Đến với con người để xin và nhờ cậy chẳng được chi, Tiết trở lại xin với Thiên Chúa. Ngài bèn sắp xếp cho ông được làm ở một tiệm bán vải, lau sàn nhà, chùi cửa kiếng, lương mỗi giờ là một đồng. Theo quan niệm của người Á đông, nhất là người Trung Hoa, đó là một việc rất thấp kém trong xã hội. Do đó ông rất sợ phải lau những cánh cửa ngoài mặt tiền. Sợ những bạn người cùng trang lứa bắt gặp, nhất là những thiếu nữ đi ngang cửa tiệm. Về sau ông tìm được một việc ban đêm tại hãng Westinghouse, mỗi giờ được 45 xu, mỗi đêm làm 11 giờ, mỗi tuần làm năm ngày rưỡi thì được 27 đồng. Trừ tiền ăn ở, số còn lại cũng chẳng được bao nhiêu. Mỗi tháng tính ra chỉ còn khoảng 80 đồng, không đủ để chi tiêu sau khi tựu trường.
Tống Thượng Tiết tiếp tục cầu nguyện và tin tưởng Chúa toàn năng chắc chắn đã có một chương trình cho mình. Trong khi làm việc trong nhà máy, ông thường hát những bài hát Trung Hoa để giải khuây. Những công nhân cùng hãng, trắng cũng như đen đều lắng tai nghe, họ rất thích thú và không thấy mệt mỏi khi làm việc. Một ngày kia, những điệu nhạc ấy lọt vào tai của ông giám đốc. Ông ta mời Tống Thượng Tiết về nhà và yêu cầu hát một ca khúc Trung Quốc. Sau khi hát, ông ta rất thích thú, hai người bắt đầu chuyện trò để hiểu nhau hơn. Ông giám đốc hỏi lý cớ nào mà chàng đến Mỹ. Tiết cung kính tâm sự “Tôi vốn là một Cơ đốc nhân, ao ước đến Mỹ để học, sau khi thành đạt trên đường học vấn tôi sẽ về Trung Quốc để truyền bá Phúc âm. Nhưng hiện nay vì hoàn cảnh khó khăn cho nên phải xin việc làm để tự lập và dành dụm tiền học cho cả niên khóa. Viên giám đốc kiên nhẫn nghe hết câu chuyện Tiết kể, ông suy nghĩ giây lâu rồi nói: “Bây giờ tôi có thể giao cho anh đứng máy cắt thép số 93, tiền lương mỗi giờ là $1. Nhưng công việc ấy khá nguy hiểm, máy cắt thường tiện đứt chân tay những người điểu khiển nó”. Viên giám đốc chưa dứt lời thì Tiết đã vui xin nhận việc đó.
Mùa hạ trôi qua, Tống Thượng Tiết dành dụm được đúng $600, đủ tiền cho lục cá nguyệt đầu của năm học. So với các bạn đồng lứa thì chưa ai có lương cao như vậy. Ông tin quyết rằng đó là phần thưởng Chúa đã dành ban cho mình, để ông yên tâm trong việc học hành. Đức tin của ông còn được thể hiện qua nhiều việc khác nữa. Ngày tựu trường, Tống Thượng Tiết đến tìm và xin gặp ông giám học thỉnh cầu một việc thật dị thường: xin trong vòng 3 năm sẽ học hết những môn của Đại Học. Ông giám học nghe xong chỉ biết lặng yên nhìn Tiết mà lắc đầu: “Với trình độ Anh ngữ của cậu kém chưa chắc 5 năm nữa cậu đã học xong chương trình đại học”.
Sự thật hoàn toàn trái ngược với suy nghĩ của ông giám học. Ngay kỳ thi đầu, Tiết đã có số điểm cao nhất lớp. Nhất là môn thiên văn học, nhiều sinh viên bị rớt vì dưới điểm trung bình, cũng có người lãnh điểm không. Riêng Tiết đã có số điểm rất cao, khiến mọi người phải ngạc nhiên thán phúc. Các vị giáo sư sau khi thảo luận với nhau đã nói với Tống Thượng Tiết: “Nếu cứ cố gắng, chắc sau ba năm anh có thể ra trường”.
CHƯƠNG 12
TRONG CƠN BẠO BỆNH VÀ NGHÈO NÀN (1921)
Năm 1921, sau thế chiến thứ nhất, nước Mỹ lâm vào một tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Nhiều nhà máy phải đóng cửa, công nhân thất nghiệp ngày càng đông. Thế nên mùa hạ của niên học thứ nhì Tống Thượng Tiết đi tìm việc làm thật khó khăn. Đồng thời, anh của ông là Tống Thượng Liên cũng đã đến Mỹ để du học. Bản thân mình lo chưa xong lại còn phải lo tìm việc cho anh. Khó quá nhưng ông đã hoàn toàn tin cậy Chúa với cả đức tin của mình.
Quả nhiên, Chúa đã nhậm lời: chẳng những người anh có việc làm mà chính ông cũng đã tìm được 2 việc, một ở khách sạn, một ở nhà máy cán thép. Đây là một công việc vô cùng nặng nhọc, nhưng vì sinh kế và học phí, nên Tiết cũng phải ráng sức chịu đựng. Sau vài ngày làm việc, vì cố gắng quá sức, Tiết bỗng cảm thấy choáng váng, nhịp tim đập liên hồi, thân nhiệt lên cao quá độ và đầu đau nhức như búa bổ. Dầu vậy Tiết vẫn gắng gượng đi làm thêm hai ngày nữa nên bệnh lại càng thêm trầm trọng, buộc lòng phải xin nghỉ phép để vào bệnh viện. Khám nghiệm thấy trên mông của cậu có một mụn nhọt lớn. Bác sĩ cho biết nếu không giải phẫu thì có thể nguy hiểm đến tính mạng. Thật là một nan đề, làm sao có tiền để trang trải sở phí bệnh viện, thuốc men và nhất là tiền giải phẫu của bác sĩ đây? Cuối cùng ông từ chối giải phẫu, rời bệnh viện và chỉ còn biết bám vào lòng thương xót của Chúa. Nếu Ngài muốn ông chết, thì ông xin tuân phục, chứ không thể đào đâu ra tiền để thanh toán tổn phí bệnh viện và bác sĩ.
Sau mấy ngày, cơn đau nhức lại hành hạ thể xác. Tiết không sao chịu đựng nổi. Bạn bè thúc giục, nài nỉ, cậu đành phải trở lại bệnh viện để chịu giải phẫu, còn chuyện tiền bạc thì hạ hồi phân giải. Trước khi vào phòng giải phẫu, cậu xin y tá giấy bút để viết cho cha một bức thư cuối cùng, vì nghĩ rằng, có thể mình không qua được cơn giải phẫu. Khi không còn một vương vấn nào nơi trần gian, Tống Thượng Tiết thấy tâm tư mình nhẹ nhàng thanh thoát, hoàn toàn nương mình trong cánh Chúa.
Khi thuốc mê đã hết tác dụng, Tống Thượng Tiết dần dần hồi tỉnh, ý nghĩ đầu tiên đến với chàng là: “Lấy đâu ra tiền để trả bệnh viện?” Dầu chàng được một y tá đầy kinh nghiệm, niềm nở chăm sóc bệnh nhân, lại cũng là một con cái Chúa, nhưng không thể đưa chàng ra khỏi vòng suy tính số tiền phải trả bệnh viện.
Một ngày nọ, Tống Thượng Tiết đang tựa lưng trên giường bệnh, đang lo âu cho số phận không may của mình thì có một nhóm thanh niên ào vào phòng... Người thì mang hoa tươi, kẻ thì xách cây trái, ai nấy đều cười nói vui vẻ, rối rít thăm hỏi bệnh tình. Họ là những thanh niên của Hội Thánh mà Tiết thường đến thờ phượng chung. Có cả ông Mục sư quản nhiệm Hội Thánh nữa. Tống Thượng Tiết vô cùng xúc động trước tấm thịnh tình nồng hậu đó, không cầm được hai dòng nước mắt hạnh phúc. Một mối tình ruột thịt trong Cứu Chúa đã dâng trào trong họ và tình thương của Ngài đã san bằng biên giới quốc gia, chủng tộc.
Sau những giây phút mừng vui thăm hỏi ân tình ấy, thì thực tại tiền bạc lại trở về quấy phá. Tuy vết thương chưa lành hẳn nhưng ông nghĩ rằng nên xuất viện càng sớm càng tốt. Thời gian dưỡng bệnh sau giải phẫu đáng lý là một tháng, nhưng mới hai tuần ông đã rời bệnh viện. Khi ông từ biệt bác sĩ để ra về, ông cảm thấy thật xấu hổ vì không có tiền để thanh toán cho bệnh viện. Xót thương cho hoàn cảnh nghèo túng của mình, ông không cầm được hai dòng nước mắt.
Vị bác sĩ đầy kinh nghiệm chứng kiến cảnh ấy, biết được tâm trạng thầm kín khó nói của chàng, nên đã vỗ vai và an ủi: “Người bạn trẻ ơi, đừng quá bận tâm về tiền bạc. Bệnh viện chỉ lấy 80% số tiền phí tổn, và số tiền ấy cũng chỉ có $30 thôi. Vả chăng cũng đã có một tín hữu hảo tâm được Chúa Thánh Linh thúc giục đã thanh toán xong số tiền ấy rồi. Bây giờ bạn có thể ra về mà khỏi phải bận tâm. Cầu xin Chúa ban phước lành cho bạn”.
Nghe xong những lời ấy của bác sĩ, Tống Thượng Tiết cảm thấy như gánh nặng ngàn cân vừa cất khỏi vai mình. Ông có cảm tưởng như có thể nhón nhẹ gót là đụng đến trần nhà, lòng tràn đầy vui sướng và cảm kích, không ngớt cám ơn Chúa và vị ân nhân ẩn danh đó. Ông khập khiễng bước ra khỏi bệnh viện. Vết thương đó đã không bao giờ khỏi hẳn suốt cuộc đời ông. Thỉnh thoảng nó khiến ông đau đớn, nhức nhối khó chịu. Về sau, chính ông đã tâm sự: “Nhiều khi tôi có nài xin Chúa cất bớt cho tôi sự đau đớn, nhưng Ngài không khứng nhậm lời. Tôi biết Chúa muốn dùng điều này để dạy dỗ tôi. Vì mỗi khi đau, nhức nhối là như một lời nhắc nhở: Tôi vốn một con người bất toàn, xấu xa, gian ác, kiêu ngạo và bất lực”.
Nghe xong những lời ấy của bác sĩ, Tống Thượng Tiết cảm thấy như gánh nặng ngàn cân vừa cất khỏi vai mình. Ông có cảm tưởng như có thể nhón nhẹ gót là đụng đến trần nhà, lòng tràn đầy vui sướng và cảm kích, không ngớt cám ơn Chúa và vị ân nhân ẩn danh đó. Ông khập khiễng bước ra khỏi bệnh viện. Vết thương đó đã không bao giờ khỏi hẳn suốt cuộc đời ông. Thỉnh thoảng nó khiến ông đau đớn, nhức nhối khó chịu. Về sau, chính ông đã tâm sự: “Nhiều khi tôi có nài xin Chúa cất bớt cho tôi sự đau đớn, nhưng Ngài không khứng nhậm lời. Tôi biết Chúa muốn dùng điều này để dạy dỗ tôi. Vì mỗi khi đau, nhức nhối là như một lời nhắc nhở: Tôi vốn một con người bất toàn, xấu xa, gian ác, kiêu ngạo và bất lực”.
CHƯƠNG 13
KHẢI TƯỢNG NĂM 1922
Mặc dù tình trạng sức khỏe rất yếu kém và tiền bạc thật eo hẹp, nhưng Tống Thượng Tiết vẫn không để nó ảnh hưởng trên việc học. Ngược lại, chàng càng cố gắng nhiều hơn nữa.
Thấm thoát một niên học nữa lại trôi qua, Tống Thượng Tiết vẫn chiếm ưu hạng. Một sinh viên ngoại quốc, công việc mưu sinh chiếm mất một nửa thời gian đèn sách, ấy thế mà ông vẫn đạt được thành quả rất tốt đẹp. Thật là một điều đáng kinh ngạc khiến nhiều người phải thán phục. Nhưng, ông thì cho rằng mình có được năng lực này là do sự ban cho từ trên cao.
Những ngày lễ nghỉ, ông tổ chức những cuộc truyền giảng, mời các bạn cùng trường, cùng lớp tham gia. Ra các vùng ngoại ô thành phố rao giảng Phúc âm cho người chưa biết Chúa. Dưới mắt nhìn của ông thì nông dân Mỹ là những người trung hậu, chất phác, hiền hòa. Họ cần được nghe Phúc âm và sống đời sống của Chúa Cứu Thế. Dân chúng vùng ngoại ô cũng rất thích được nghe những buổi truyền giảng của Tống Thượng Tiết tổ chức. Số người tin nhận Chúa ngày càng đông. Báo chí Mỹ bắt đầu chú ý và đăng tải những mẩu chuyện về các buổi truyền giảng đó. Tên tuổi của ông, trước kia được nhiều người biết đến qua những tạp chí tại huyện Hưng Hóa, nay bắt đầu xuất hiện trên các báo chí Mỹ.
Các Đoàn Truyền giáo Phúc âm, được các tín hữu trong những thôn làng câhn thành, nồng hậu tiếp đón và học cũng cung ứng cho đoàn mọi nhu cần thật chu đáo. Những tấm thịnh tình này khiến cho Tống Thượng Tiết thật vô cùng xúc động và ấm lòng. Một ngày kia, ông gặp một đôi vợ chồng, nếp sống tin kính của họ đã gây cho chàng một ấn tượng sâu sắc. Họ thật sự tôn Chúa Giê-xu làm chủ gia đình. Người vợ là một phụ nữ trầm lặng nhưng vui ve, lịch thiệp nói năng dịu dàng. Ông đã đặt cho bà này mỹ danh “Cây phong lan trong thung lũng tĩnh lặng”. Còn người chồng là một tín hữu trung kiên, có đời sống tâm linh sâu nhiệm Lời Chúa. Tiếp xúc qua một lần, Tống Thượng Tiết đã có nhận xét ông ta còn hơn cả những vị Mục sư hữu danh vô thực, không có sức sống của Chúa bên trong. Hai ông bà chỉ có một bé gái thật linh hoạt dễ thương. Điều khiến cho Tống Thượng Tiết chú ý hơn cả là mỗi tối trước khi đi ngủ, cô bé đều quì gối cầu nguyện bên giường.
Lễ Tạ Ơn năm nọ, dân chúng làng Smithview mời đoàn truyền giáo Phúc âm của Tống Thượng Tiết đến truyền giảng. Đêm ấy, sau khi truyền giảng xong, đoàn tá túc trong gia đình của một tín hữu. Cũng chính đêm ấy Chúa cho ông một khải tượng kỳ diệu, và ông tin quyết rằng điều mà Chúa cho ông thấy thì Ngài cũng muốn ông phải thực hiện. Trong giấc ngủ mơ màng, ông thấy mình đang lang thang trên một vùng đồi núi, cảnh trí giống hệt như miền đông tỉnh Hưng Hóa, nơi ông thường tới lui để cầu nguyện khi còn ở quê nhà. Đang chìm đắm trong suy tưởng của tịch mịch núi đồi, bỗng ông nghe những tiếng kêu cứu thất thanh từ dưới đáy vực vang lên. Từ trên cao nhìn xuống, ông thấy một dòng suối cuồn cuộn chảy, và xa xa có những người đang chới với, kêu van vì sắp chết đuối. Tống Thượng Tiết băng mình xuống triền núi để kịp thời cứu họ, đường đi thật gập ghềnh, hiểm trở, bụi hoang và gai góc giăng mắc khắp lối. Khi ông đến được chân núi thì mình mẩy mang đầy thương tích, máu me tuôn ra xối xả. Đứng trên bờ, nhìn con suối nhỏ, nước suối từ từ dâng lên, lan rộng mãi ra, biến thành một dòng sông lớn, rồi lớn mãi thành một đại dương bao la. Trong đại dương ấy lố nhố đủ mọi loại hạng người, mọi chủng tộc, mọi sắc dân... Họ đang chới với, đắm chìm và cất lên những tiếng kêu cứu thật bi thương thê thảm. Nhìn qua bên kia đại dương chỉ thấy mịt mùng, không bờ, không bến. Dưới lòng đại dương bỗng dâng lên những cơn sóng cuồng nộ, giận dữ như muốn cuốn phăng cả đám người đáng thương ấy đi. Ông cố gắng tìm hết mọi phương cách để cứu những con người vô vọng đó, nhưng vô phương. Trong lúc bó tay chưa thể nghĩ ra được một phương cách cứu vãn, tiếng kêu than vọng lên càng lúc càng khẩn khoản, bi ai. Nóng lòng muốn cứu họ, Tống Thượng Tiết vô cùng bối rối, ông khẩn nguyện cùng Cứu Chúa: “Chúa ôi, con xin tuân theo lệnh Ngài, xin giúp con để cứu những người đang chìm ngập trong biển mênh mông này.” Ông bỗng thấy mình trở thành một đứa trẻ thơ, đồng thời cũng là một tội nhân. Tay chân, mình mẩy bị những giây xích vàng, xích bạc quấn chặt lấy. Ông cố gắng bước tới nhưng không sao dơ chân lên được. Hình như phía sau có những người cầm những giây xích ấy kéo giật ngược lại, ông hoàn toàn thất vọng. Rồi ông thấy một con chim ưng từ một vùng trời nào xa xăm bay tới, ngày càng tỏ, ngày càng lớn, xà xuống đậu trên đầu ông. Nhìn kỹ lại thì không phải là chim ưng, mà là một cây thập tự nhuộm máu đỏ. Trên cây thập tự có khắc một dòng chữ: “Ngước nhìn thập tự hướng trước mà chạy”. Cây thập tự bỗng lìa khỏi đầu ông, và bay đi, xé gió rít vang như một tấu khúc khải hoàn của những chàng dõng sĩ. Những xiềng xích trên người ông bỗng đứt lìa và rơi rụng xuống đất. Ông thấy nhẹ nhàng thanh thoát, lướt nhanh về phía trước để cứu những người đang bị giạt trôi đi ấy. Đang khi ông còn hơi chần chờ, thì bỗng nhiên thấy mình đang bập bềnh giữa biển cả mênh mông. Ông thôi không còn sợ hãi mà quyết một lòng sống chết với những người đang đắm chìm trong đại dương. Khi thấy mình cũng chung số phận sắp chết đuối như họ, ông liền kêu cầu cùng Chúa xin tiếp lấy linh hồn mình.
Tiếng nguyện cầu vừa dứt, ông thấy như chân mình chạm đất, liền đứng thẳng dậy, thì ra mình đang đứng trên cây thập tự nhuộm hồng đó và bay đi như một con chim ưng rồi, đáp đậu ngay giữa đại dương. Cây thập tự như một thanh nam châm vĩ đại, có lực hút tất cả những người đang chới với trong đại dương. Những ai trôi giạt đến gần đều được cây thập tự hút lấy, mọi xiềng xích trên mình họ đều bị bứt đứt và rời ra. Cây thập tự nằm ngang trên mặt biển, rồi lớn dần, lớn dần. Số người đứng trên cây thập tự ngày càng nhiều, nhiều đến độ không thể đếm được nữa. Cây thập tự càng lớn, càng che khuất diện tích của đại dương và khiến cho đại dương biến mất, chỉ còn lại một nền tảng vững vàng như núi đá, là cây thập tự với hàng triệu, triệu người đứng trên ấy.
Cảnh trí chung quanh bấy giờ trở nên huy hoàng, rực rỡ khiến Tống Thượng Tiết vô cùng hạnh phúc. Rồi ông nghe một tiếng kèn vang lừng trổi lên và nơi ấy biến thành một khu vườn với bốn mùa tươi thắm quanh năm, người người vui thỏa, luôn cất tiến ca ngợi Chân Thần. Tống Thượng Tiết thấy mọi người đến bắt tay mình. Nhìn kỹ lại thì ông thấy đó là những bà con ruột thịt, bạn bè thân thiết, đồng bào máu mủ thân yêu. Tống Thượng Tiết vô cùng vui sướng, múa tay, vung chân..., suýt chút là đá nhằm phải người bạn đồng liêu Smith đang nằm bên cạnh.
Sáng hôm sau Tống Thượng Tiết kể lại khải tượng cho các bạn trong Đoàn, mọi người đều bàng hoàng cảm động. Riêng ông thì ghi khắc giấc mộng ấy vào tâm khảm và tin chắc rằng đó là khải tượng Chúa ban cho, một ấn chứng cho suốt cuộc đời phục vụ Chúa của mình sau này? Khi còn ở trên đất Mỹ cũng như lúc đã trở về Trung Quốc hay bất cứ một nơi nào, mọi người được nghe ông thuật lại giấc mộng khải tượng lạ lùng ấy đều không tránh khỏi bồi hồi xúc động. Giấc mộng ấy là một ấn tượng sâu sắc không thể nào phai nhòa trong trí nhớ. Mỗi khi có dịp là ông lại chia sẻ khải tượng thiêng liêng ấy.
CHƯƠNG 14
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC TRONG VINH DỰ 1923
Năm cuối cùng của đại học cũng là năm Tống Thượng Tiết bận rộn nhất và nghèo ngặt nhất. Cùng túng vì ảnh hưởng của cơn khủng hoảng kinh tế Hoa Kỳ lên đến cao điểm sau Thế Chiến thứ I. Phần lớn các hãng xưởng đều bị phá sản và phải đóng cửa, nạn thất nghiệp lan tràn. Để duy trì sự sống và có thể tiếp tục được việc học, Tống Thượng Tiết phải chấp nhận những công việc nặng nề, vất vả nhất mà thù lao lại thật là khiêm nhường. Khóa học sắp mãn, bài vở chất chồng, thi cử dồn dập. Riêng ông lại càng bận rộn hơn những sinh viên khác vì phải cố gắng rút ngắn thời gian cả chương trình 4 năm thành 3 năm. Ông phải luôn thức thật khuya, dậy thật sớm để thanh toán cho xong bài vở. Công việc nặng nhọc, bài vở nhiều, sức khỏe kém dần và tinh thần càng ngày càng sa sút làm ông rất dễ nóng giận vô cớ. Trong thời gian bị dồn nén vì công việc và bài vở này, đã xảy ra ba việc thật đáng tiếc khiến ông đau xót và ân hận suốt đời. Ông cho đó là những vết nhơ trong cuộc đời mình.
Thứ nhất là cung cách cư xử thiếu lễ giáo của ông với anh mình. Hai anh em ăn chung, học chung. Nhưng vì ông thông minh, học giỏi hơn nên sinh lòng kiêu căng, tự mãn. Tất cả các việc bếp núc, chén bát, dọn dẹp đều phó mặc cho người anh, còn mình thì chẳng hề đụng đến ngón tay. Đôi khi cơm không ngon miệng, nhà cửa không vén khéo, ông không vừa ý còn la rầy người anh. Người anh, vì còn cần phải nhờ vả đến em trong việc học hành nên đàng phải nhịn nhục, nín chịu. Nhưng Tiết càng ngày càng tỏ ra quá quắt, người anh không còn nhịn được nữa, nên anh em đã có cuộc cãi vã to tiếng. Về sau cảm thấy lỗi lầm hoàn toàn thuộc về mình, ông vô cùng hối tiếc. Ông đã xin lỗi và làm hòa với anh.
Thứ hai là việc không ngay thẳng trong lúc thi cử. Trong các kỳ thi tại các trường đại học ở Mỹ thì không có giám thị. Khi nhận được đề thi thì thí sinh chỉ việc làm bài. Làm xong, trước khi nộp, mỗi người phải viết vào bài của mình dòng chữ: “Có Chúa chứng kiến, tôi đã làm bài thi một cách ngay thẳng, không gian lận”. Xong, viết tên vào bài của mình và nộp. Trong vòng sinh viên, thì cũng đủ thành phần, dĩ nhiên cũng có nhiều người đã không ngay thẳng trong việc thi cử. Riêng với Tống Thượng Tiết thì từ các lớp tiểu học, rồi trung học, đại học không bao giờ gian lận trong khi thi cử. Nhưng kỳ thi mãn khóa ra trường này thì ông đã không giữ được sự ngay thẳng cố hữu của mình. Dưới mắt nhìn của nhiều sinh viên thì việc này cũng bình thường thôi, nhưng đối với ông thì đây là một tội lỗi không tha thứ được.
Thứ ba, vì tình trạng kinh tế vẫn khó khăn, và bài vở quá bề bộn, nên ông cũng thường khai thêm giờ làm ở sở. Thêm giờ làm thì lãnh lương được nhiều hơn. Về sau, ông đã ăn năn, và đã đi làm bù lại những giờ đã khai man đó.
Đúng như dự định, Tống Thượng Tiết đã hoàn tất chương trình đại học bốn năm trong vòng ba năm. Niên khóa ấy có chừng 300 sinh viên tốt nghiệp, trong số đó chỉ có 20 sinh viên đậu tối ưu, đa số là phái nữ. Duy có ông và ba nam sinh viên khác đậu văn bằng cử nhân danh dự mà thôi. Mỗi ngành học đều có phần thưởng bằng hiện kim cho sinh viên xuất sắc. Tống Thượng Tiết được phần thưởng về ngành khoa học vật lý. Nhiều người rất kinh ngạc vì chàng là một sinh viên nghèo, vừa làm vừa học, mà đã hoàn tất chương trình đại học bốn năm trong vòng ba năm, lại ra trường với cấp bằng danh dự. Báo chí Mỹ đua nhau đăng tải tin này, nhiều tờ đã không ngần ngại đăng cả hình của ông lên với tựa lớn ở trang đầu. Nhiều tờ báo ở Châu Âu cũng đăng tải nguồn tin hấp dẫn này.
CHƯƠNG 15
SAU KHI TỐT NGHIỆP MÙA HÈ 1923
I. KHẢI TƯỢNG TRONG TRẠI HÈ
Xong cử nhân, Tống Thượng Tiết rời mái trường với nhiều kỷ niệm vui buồn. Vấn đề được đặt ra cho ông bây giờ là làm sao tìm ra được một con đường thích hợp. Nỗi khó khăn bây giờ của ông không phải là đối diện với một ngõ cụt không lối thoát. Ngược lại, ông đứng giữa một ngã tư đường, mà lối nào cũng đầy hoa gấm gọi mời. Thật khó nghĩ, không biết phải chọn lối nào trong bốn lối:
Một đại học ở Minnesota, mời ông làm phụ tá cho trưởng phòng thí nghiệm hóa học, được trả lương hằng năm là 700 mỹ kim.
Một nhà hảo tâm muốn tặng cho ông học bổng 1.000 mỹ kim một năm để theo học y khoa tại viện đại học Haward. Ông đã từ chối học bổng hậu hĩ này, thứ nhất là điều kiện sức khỏe không cho phép theo học ngành này, thứ đến vì người anh còn phải theo học ở Ohio, nên ông còn phải ở lại đó để giúp đỡ anh.
Đại học tiểu bang Ohio chấp thuận cấp cho ông một học bổng để tiếp tục học chương trình Cao học. Ngoài ra, hằng năm ông còn nhận được 300 mỹ kim để chi tiêu. Có người biết mục đích của Tống Thượng Tiết là sau khi đã học hành xong tại Mỹ sẽ trở về Trung Quốc để truyền bá Phúc âm, nên đề nghị cấp học bổng cho ông vào học ở Chủng Viện Thần Học.
Trước bốn con đường tươi sáng đó, ông đã chọn con đường thứ ba là vào viện Đại học tiểu bang Ohio, thuộc thành phố Columbus. Tương lai thật huy hoàng, sáng lạng, đường danh vọng trước mặt như gấm trải, hoa thêu nhưng ông vẫn luôn băn khoăn, bồi hồi. Lòng dạ luôn bất an và như hối tiếc một điều gì vừa đánh mất! Chính ông cũng không tìm thấy được nguyên nhân thầm kín của nỗi lòng băn khoăn ấy. Để tự trấn an, ông rủ một người bạn trong đoàn truyền giảng Phúc âm đi dự trại hè sinh viên miền Tây Hoa kỳ tổ chức tại Le Geneva, tiểu bang Wisconsin. Từ Columbus đến Le Geneva phải mấy ngàn dặm đường bộ, tổn phí di chuyển cũng phải trên 50 mỹ kim một người. Đến giờ lên đường, ông chỉ còn ít đồng dính túi, nhưng ông vẫn quyết định ra đi trong đức tin bằng cách quá giang xe.
Hôm ấy trời nóng bức, Tống Thượng Tiết cùng người bạn ra xa lộ đón xe xin đi nhờ. Cũng có một đôi chiếc cho đi nhờ vài chặng đường. Họ cứ làm như vậy để thâu ngắn cuộc hành trình. Nhưng trong một đêm nóng bức nọ, người cho quá giang đã bỏ họ xuống ở một khoảng đường vắng vẻ, không quán trọ, không nhà cửa để xin tá túc qua đêm. Vừa đói lại vừa khát, nhưng ông cùng người bạn đồng hành quyết định cứ tiếp tục cuộc hành trình. Họ cắm cúi cùng nhau đi bộ suốt một đêm trường. Sáng hôm sau, chân thì mỏi nhừ, bụng đói, miệng khát, thân thể mệt nhoài... Hai người không còn cất bước được nữa. Ông đề nghị với bạn: “Thôi cứ đứng dậy chờ sự trợ giúp của Chúa”. Vừa dứt lời thì có một chiếc xe từ xa tiến lại. Ông vừa thầm nguyện vừa đưa khăn tay vẫy, tỏ ý xin đi nhờ. Chiếc xe từ từ dừng lại, chủ nhân vui vẻ mời hai chàng lên xe và hứa sẽ đưa họ đến tận Chicago. Từ đáy lòng, ông dâng lên những lời chân thành cảm tạ và ngợi khen Chúa để bày tỏ nỗi vui thỏa của mình.
Xe lăn bánh được một đoạn đường, ông lấy ra một quyển sổ và xin chữ ký đôi vợ chồng trẻ tốt bụng để lưu niệm. Lúc ấy mới hay họ cũng là bạn đồng trường với ông ở đại học Wesleyan. Đôi vợ chồng trẻ này vừa cưới nhau và họ lên Chicago để hưởng tuần trăng mật. Họ cũng đã biết nhiều về thành tích vẻ vang của ông qua báo chí, nay vì tình cờ mà được gặp gỡ tận mặt, họ thật vui mừng và biểu lộ nhiệt tình cảm mến ông. Đến Chicago thì trời đã tối, nên đôi vợ chồng trẻ mời hai chàng vào khách sạn nghỉ ngơi và thết đãi một bữa cơn chiều thật thịnh soạn. Cơm tối xong họ ưu ái bắt tay nhau từ giã.
Từ thành phố Chicago đến hồ Geneva, địa điểm trại không xa lắm, đi xe bus chỉ tốn vài đồng. Ông đã không quản ngại ngàn dặm xa xôi để đến tham dự trại, nhưng những vấn đề mang ra thảo luận trong kỳ trại này không đáp ứng những khát khao tâm linh của ông. Ông thất vọng, lòng lại tràn đầy bất an. Ông rời trại, tìm đến một ngọn đồi vắng để đọc Kinh Thánh và cầu nguyện. Câu chuyện Chúa Giê-xu dùng năm cái bánh và hai con cá đãi năm ngàn người ăn tối diễn ra thật sinh động trước mắt. Ông vô cùng vui sướng, và để diễn tả nỗi lòng tràn ngập hân hoan, ông đã một mình nhảy nhót múa tay, khoa chân trên đồi vắng.
Tống Thượng Tiết nhận được bài học qua suy tưởng và những hình ảnh hiện ra trong đầu óc chàng thật rõ ràng: có những vật thật nhỏ mọn tầm thường, không đáng gì dưới con mắt loài người, nhưng khi ở trong tay Thượng Đế Toàn Năng thì trở thành giá trị lớn lao vô cùng. Ngài đã làm thành vật thể từ cõi hư vô. Vì vậy hành động dâng hiến cho Chúa là hành động bắt nguồn từ đáy sâu của lòng chân thành, hy sinh. Năm cái bánh và hai con cá biểu tượng một cách toàn diện thân thể chúng ta: Con người có ngũ quan, ngũ tạng, năm ngón tay, năm ngón chân, hai tay, hai chân, hai mắt, hai tay... Sinh tế đẹp lòng Chúa hơn hết là khi chúng ta tận hiến thân thể, cuộc đời mình cho Ngài. Chắc chắn Ngài sẽ không khinh rẻ mà còn dùng năng quyền tuyệt đối của Ngài để biến đổi chúng ta, khiến chúng ta trở thành hữu ích cho vô số người đang đói khát trông chờ. Do đó chúng ta không thể và không có phép dùng thân thể đã được chuộc bằng một giá rất cao là chính huyết của Chúa Cứu Thế Giê-xu để tham dự vào những hành vi bẩn thỉu, xấu xa. Chúng ta phải dâng chính thân mình làm của lễ sống và thánh cho Chúa. Thân thể chúng ta thuộc về Chúa. Nếu chúng ta còn tìm cách để người khá vui lòng về mình, hoặc tìm những tư lợi thỏa mãn riêng tư thì chúng ta không còn là tôi tớ của Chúa Cứu Thế nữa (Galati 1:10).
II. PHÉP LẠ CHỮA BỆNH KỲ DIỆU CỦA THƯỢNG ĐẾ
Từ trại hè Geneva về lại tiểu bang Ohio, Tống Thượng Tiết nhờ người tìm việc làm cho mùa hè. Lúc bấy giờ xin việc làm không phải là chuyện dễ. Cuối cùng ông cũng được nhận vào làm ở một nhà máy. Mới làm được một tiếng đồng hồ thì ông cảm thấy choáng váng và người lên cơn sốt. Biết không thể nào tiếp tục công việc được nữa, ông đành phải rời nhà máy để vào bệnh viện khám sức khỏe. Kết quả khám nghiệm là ông bị lao phổi. Muốn điều trị bệnh lao phổi thì phải được ở một nơi có không khí trong lành. Vị Mục sư sở tại đã giới thiệu cho ông một nông trại để làm việc canh tác. Tánh tình và sở thích của Tiết không thích hợp với việc đồng áng. Dù đã cố gắng hết sức, nhưng chỉ làm việc được ba tuần là ông phải tự ý rời nông trại. Công việc đồng áng trong ba tuần lễ ấy đối với ông thật là nặng nhọc, vất vả và bực mình. Đã vậy ông chẳng được trả một đồng thù lao nào mà lại còn bị trách mắng đủ lời!
Tống Thượng Tiết trở lại trường học với tinh thần và thể chất bạc nhược. Tất cả những ý chí, ước vọng về tương lai to lớn của những ngày mới tốt nghiệp đại học như tan biến theo mây khói. Dù con đường lợi danh vẫn còn rộng mở và quyến rũ, nhưng với ông, bây giờ chúng chỉ là những cạm bẫy hư vinh! Ông nhận thức được ý nghĩa đời người thật hư ảo nếu chỉ chạy theo những danh lợi, hư vinh. Tất cả đều hão huyền như những bong bóng nước của cơn mưa giông chiều. Không một con đường danh vọng gấm hoa nào còn có thể quyến rũ được ông. Chỉ những giờ phút cầu nguyện tương giao với Chúa là có ý nghĩa đích thật. Đó cũng là con đường duy nhất mà ông có thể bước đi nhẹ nhàng không vướng bận.
Lại rơi vào hoàn cảnh: “Tay không làm thì hàm không nhai”, ông phải xin một chân rửa chén đĩa cho một nhà hàng. Mỗi ngày phải rửa hơn một ngàn chén đĩa, nên tay của ông bị sưng lên đau đớn. Đã thế, chủ nhà hàng lại đối xử tệ với ông như với những kẻ làm thuê vô học khác, chỉ cho ăn những thức ăn khách ăn dư thừa. Ông thà nhịn đói chứ không chịu sỉ nhục ăn cơm canh thừa. Nhẫn nhục rửa chén đĩa trong hai tuần cũng chẳng được một đồng thù lao nào, chàng lại phải bỏ việc ra đi...
Chỉ một thời gian ngắn sau, ông lại tìm được một việc khá đặc biệt: làm phu cắt cỏ hai bên vệ đường. Dưới ánh mặt trời gay gắt, mỗi ngày phải làm tám giờ, một giờ được bốn hào rưỡi. Công việc thật là nặng nhọc vất vả, nhưng ông lại thấy thích thú, vì được làm việc dưới ánh nắng mặt trời và được hít thở không khí trong lành. Càng làm việc sức lực càng gia tăng. Sau ba tuần lễ cắt cỏ bên vệ đường bệnh phổi của ông không cần thuốc uống mà tự nhiên lành hẳn. Thật là một phép lạ diệu kỳ của Thượng Đế.
Chỉ một thời gian ngắn sau, ông lại tìm được một việc khá đặc biệt: làm phu cắt cỏ hai bên vệ đường. Dưới ánh mặt trời gay gắt, mỗi ngày phải làm tám giờ, một giờ được bốn hào rưỡi. Công việc thật là nặng nhọc vất vả, nhưng ông lại thấy thích thú, vì được làm việc dưới ánh nắng mặt trời và được hít thở không khí trong lành. Càng làm việc sức lực càng gia tăng. Sau ba tuần lễ cắt cỏ bên vệ đường bệnh phổi của ông không cần thuốc uống mà tự nhiên lành hẳn. Thật là một phép lạ diệu kỳ của Thượng Đế.
CHƯƠNG 16
BẮT ĐẦU MỘT THỜI KỲ HOẠT ĐỘNG MẠNH (1924)
Mùa hạ đã trôi qua, sức khỏe của Tống Thượng Tiết hoàn toàn hồi phục. Tinh thần phấn chấn, ông bắt đầu hoạt động hăng say tại đại học Ohio. Thời gian đó là một trang sử vàng son trong cuộc đời ông.
Đại học Ohio qui tụ trên 1.000 sinh viên đến từ 13 quốc gia khác nhau trên thế giới. Trước đây có một văn phòng của cơ quan sinh viên quốc tế đặt tại trường nhưng vì không có người điều hành nên mọi hoạt động của cơ quan đều bị ngưng đọng và lụn tàn dần.
Tựu trường được một thời gian, Tống Thượng Tiết được đề cử làm hội trưởng cơ quan sinh viên quốc tế đó. Theo nhận xét của ông thì những hội viên của cơ quan này chỉ là những người làm cho có, không ai có tinh thần trách nhiệm. Muốn cơ quan hoạt động mạnh mẽ trở lại không phải là một chuyện một sớm một chiều. Ông quyết định dùng biện pháp phân công, giao việc, hợp tác lại tất cả mọi hội viên. Tạo lại không khí hứng khởi, vui tươi thích thú cho họ. Mỗi hội viên đều có cơ hội đóng góp tài sức mình để xây dựng hội
Tựu trường được một thời gian, Tống Thượng Tiết được đề cử làm hội trưởng cơ quan sinh viên quốc tế đó. Theo nhận xét của ông thì những hội viên của cơ quan này chỉ là những người làm cho có, không ai có tinh thần trách nhiệm. Muốn cơ quan hoạt động mạnh mẽ trở lại không phải là một chuyện một sớm một chiều. Ông quyết định dùng biện pháp phân công, giao việc, hợp tác lại tất cả mọi hội viên. Tạo lại không khí hứng khởi, vui tươi thích thú cho họ. Mỗi hội viên đều có cơ hội đóng góp tài sức mình để xây dựng hội
Trước hết, ông triệu tập tất cả những hội viên có khả năng âm nhạc, thành lập một ban nhạc và dùng những nhạc khí đặc thù của quốc gia mình để trình diễn. Sau một thời gian tập dượt, hội quyết định tổ chức những đêm hòa nhạc, gây quỹ cho hội. Vé vào cửa thật rẻ. Người Mỹ vốn ưa thích nghe trình diễn nhạc, nên chẳng mấy chốc vé hạng $1 đến $5 đều bán sạch. Tổng kết những đêm ca nhạc tiền thâu vào lên đến một ngàn mỹ kim. Trừ chi phí, số tiền lời sung vào quỹ cho sinh viên quốc tế vay không lấy lãi. Những đêm hòa nhạc của Hội Sinh Viên Quốc Tế thành công mỹ mãn, nên báo chí đua nhau đăng tin, gây ảnh hưởng thật tốt cho Hội.
Tiếp đến, Tống Thượng Tiết mời các nữ sinh viên trổ tài nấu nướng. Các nàng nấu đủ các món quốc hồn quốc túy của quốc gia mình. Thực khách có thể chọn các món mình ưa thích. Qua dịp này nhiều người thuộc những quốc gia khác nhau có thể quen biết, trao đổi kiến thức cũng như phong tục tập quán của nhau. Những sinh hoạt này đáp ứng được nhu cầu tinh thần và tâm lý của giới trẻ, nên Hội Sinh Viên Quốc Tế có đà phát triển mạnh. Ngân quỹ của Hội càng ngày càng dồi dào.
Mặc dù công việc của hội thật bề bộn, nhưng không vì thế mà ông lơ là việc học hành. Sau 9 tháng sách đèn, và qua một kỳ thi cam go, tháng 6 năm 1924, Tống Thượng Tiết tốt nghiệp Cao học với hạng tối ưu. Hội khoa học tặng cho chàng một chìa khóa vàng, đó là một vinh dự lớn, chỉ dành cho những sinh viên ưu tú, lại sinh hoạt chăm chỉ chịu khó. Ông cũng tự học thêm về vật lý, nhưng chuyên ngành là hóa học và cũng đã nghiên cứu và bào chế được một loại nước hoa, nên được Hiệp Hội Khoa Học tặng một huy chương tưởng lục và nhà trường thưởng một số hiện kim là 300 mỹ kim. Chính phủ Trung Hoa nghe tin cũng tặng cho Tống Thượng Tiết 480 mỹ kim. Tất cả sinh viên đều nhìn ông với đôi mắt thán phục, họ thấy ông như đạt được tất cả những danh vọng, những ước mơ của sinh viên. Nhưng riêng ông, vẫn thấy như thiếu vắng một điều gì. Những buổi sáng tinh sương, thức dậy nghiên cứu những chất độc hóa học cùng những chất độc để sản xuất lựu đạn cay. Ông thường phát biểu: “Khi những huyết quản trong cơ thể tôi chưa ngừng lại, thì lòng tôi vẫn không ngớt nuôi tham vọng học hỏi, tìm tòi để hiểu biết thêm”.
Vừa xong cử nhân thì chương trình cao học mời gọi. Đạt được cấp bằng cao học với hạng tối ưu thì mảnh bằng tiến sĩ lại gọi mời. Muốn tiếp tục chương trình tiến sĩ thì phải thông thạo và qua một kỳ thi sinh ngữ thứ nhì. Các chương trình tiến sĩ khác ngoài khoa học thì có thể chọn Pháp ngữ hay Đức ngữ, nhưng riêng ngành khoa học thì bắt buộc phải chọn Đức ngữ. Ông đã từng bỏ nhiều thì giờ học Pháp văn, nhưng Đức văn thì chưa bao giờ học, nên nay phải tự học.
Sau chỉ hai tháng chăm chỉ, vốn liếng Đức ngữ của ông đã có thể nghiên cứu được những tài liệu khoa học. Khi ghi danh dự thi, vị giáo sư không có thì giờ trắc nghiệm trình độ Đức ngữ của ông nên đưa cho một quyển sách khoa học bằng Đức ngử, bảo dịch sang Anh ngữ. Hoàn tất việc dịch, ông nộp cho giáo sư của mình. Đọc xong giáo sư rất hài lòng về trình độ Đức ngữ của ông và không tiếc lời khen ngợi về lối dịch rất chính xác. Giáo sư tưởng ông ít nhất cũng đã phải mất 3 năm để trau dồi Đức ngữ như những sinh viên khác mới có thể đạt được trình độ này. Ông cũng tự thấy thỏa lòng, có cảm nghĩ mình như một người ăn mần thắn, chỉ riêng mình mới biết mình đã ăn bao nhiêu viên.
Khi đã hội đủ điều kiện rồi, ông bắt đầu chăm chú nghiên cứu chương trình tiến sĩ. Suốt ngày ông bận bịu với sách vở và phòng thí nghiệm, nhưng cũng cố gắng dành thì giờ để điều hành Hội Sinh Viên Quốc Tế.
Lúc bấy giờ tại Mỹ, phong trào kỳ thị chủng tộc đang lên cao. Sinh viên da trắng không bao giờ bắt tay sinh viên đen chứ đừng nói đến chuyện cùng nhau thảo luận trò chuyện. Ông rất bất bình với tinh thần hủ bại này, ông muốn làm một cái gì để phá vỡ bức tường ngăn cách chủng tộc ô nhục này. Ông nghĩ ra một kế hoạch để thực hiện ý định mình.
Ông mời tất cả các nữ sinh (của hơn mười ba quốc gia đang theo học đại học Ohio) nấu những món ăn quốc hồn quốc túy của họ, rồi mời tất cả sinh viên trong trường đến dự. Mỗi khẩu phần chỉ tốn 50 xu. Riêng sinh viên da đen thì được miễn phí, vì hoàn cảnh của họ chật vật hơn những sinh viên khác.
Trong phòng ăn, những bàn được sắp xếp theo hình chữ LOVE. Các nữ sinh viên trong Hội Sinh Viên Quốc Tế làm “hầu bàn”. Khi vào tiệc, các sinh viên da đen được sắp xếp ngồi xen kẽ với các sinh viên da trắng. Sau bữa ăn là phần diển thuyết, Tống Thượng Tiết thường trình bày về tình yêu của Chúa Cứu Thế và tinh thần tương thân tương ái rút ra từ Phúc âm. Những bài thuyết giảng của ông lúc nào cũng thấm nhuần tinh thần học mới. Sau này, hồi tưởng lại, ông thường tâm sự, ông đã đi vào “một con đường dường như chính đáng” nhưng sai lạc. Chính ông đã bị mũi tên “thần học xã hội” bắn trúng và nhiễm độc lúc nào không hay biết. Tuy nhiên, những bữa ăn như vậy được kể là thành công vì có ảnh hưởng rất lớn. Sau đó ông kêu gọi thành lập một hội Gia Hữu Chủng Tộc. Hàng tháng tổ chức những bữa cơm tập thể, những món ăn cũng được các nữ sinh của các quốc gia khác nhau cung cấp, nấu nướng. Mục đích của các bữa ăn này là tìm cách xóa tan sự ngăn cách mà da chủng tốc. Ngoài ra Hội cũng mời những giáo sư nổi tiếng như tiến sĩ Stanley Jones đến thuyết giảng và tham dự những bữa ăn “quốc tế” này.
Trong khi dùng bữa, họ bàn với nhau những phương cách cải thiện và đãi ngộ đời sống dân da đen. Báo chí các trường đại học Mỹ đã viết nhiều bài tường thuật và phân tích những buổi thuyết giảng này. Sau đó các buổi sinh hoạt tương tự được tổ chức cùng khắp các đại học ở Mỹ. Ai cũng thấy rõ, Tống Thượng Tiết là cha đẻ của phong trào bài trừ nạn kỳ thị chủng tộc trong các đại học. Trường đại học Ohio nổi tiếng cũng là do phong trào của ông. Báo chí trong nước tiếp tục đăng tải những bài viết về phong trào “xóa bỏ kỳ thị” và ca ngợi Tống Thượng Tiết, khiến ông rất hãnh diện và vui mừng thấy Hội Sinh Viên Quốc Tế này ngày càng lớn mạnh. Ông cũng mời những sinh viên Do Thái tham gia vào Hội. Hội viên của Hội đều ủng hộ và mời Tống Thượng Tiết tiếp tục giữ chức chủ tịch trong nhiều khóa sau đó. Khi tiến sĩ Stanley Jones nhận lời mời, đến thuyết giảng trong những bữa ăn “quốc tế” nói trên cũng đã hết lời ca ngợi Tống Thượng Tiết, khiến cho ông nở hoa. Trong một lần đại hội, ông được bầu làm chủ tịch của Hội Hoà Bình sinh viên mười ba quốc gia. Không những sinh viên mà quần chúng cũng hoan hô nhiệt liệt với những bài ca ngợi đăng trên báo chí. Lòng Tống Thượng Tiết lâng lâng bay bổng, tưởng như mình là một chính khách lỗi lạc nào đó. Sau này khi nhắc đến câu chuyện xưa ấy, vị “lãnh tụ phong trào Hòa Bình” tâm sự rằng: “Bây giờ ôn lại quá khứ, những việc ấy giống như phù vân, sớm tan biến vào hư không. Thật xấu hổ khi ở ngoài với xã hội tôi tổ chức những đại hội này, kêu gọi phong trào nọ, nhưng vừa về đến nhà là cãi cọ, và ẩu đả với chính anh ruột mình. Ôi! Tất cả chỉ là việc làm của một xác chết, xác chết thì có giá trị gì đáng nói!”
CHƯƠNG 17
VỪA GIAO TẾ VỪA NGHIÊN CỨU (1923-1926)
Ngoài công việc của Hội Sinh Viên Quốc Tế, Tống Thượng Tiết còn tham dự những sinh hoạt trong Giáo hội. Mỗi tuần, ông đều được mời đi giảng cho thiếu niên, hay đến chia sẻ, khích lệ cho các Hội Thánh, ít nhất một hay hai lần. Xe đến đưa đón thường xuyên thật là bận rộn. Trong thời gian ba năm học ở Ohio. Ông đã đến các Hội Thánh giảng dạy, chia sẻ hơn một trăm lần. Vào các dịp lễ như Giáng Sinh thì ông lại càng bận rộn hơn nữa. Ông đã mở các cuộc lạc quyên trong trường, lấy tiền mua quà cho các em thiếu nhi sống trong cô nhi viện. Hàng năm có đến hai hay ba trăm em đã nhận được quà từ “Ông già Nô-ên Tống Thượng Tiết”. Ngoài ra, mỗi năm ông còn quyên góp hàng trăm Mỹ kim giúp cho quỹ tiết kiệm của các Hội Thánh.
Một trong những nơi ông thường đến giảng dạy là một Hội Thánh Giám Lý. Họ có ý định mời ông làm Mục sư quản nhiệm. Ông thấy đây là một vinh dự lớn, nên đã vui vẻ nhận lời mời. Nhìn lại quá khứ, Tống Thượng Tiết thú nhận rằng trong những thời điểm đó, mình là một Cơ đốc nhân không có sức sống, nhưng lại ham thích làm những công việc thuộc linh. Ông thấy lòng không một chút bình an mỗi khi đi giảng dạy Lời Chúa. Những bài giảng của ông lúc đó hoàn toàn do tài hùng biện và những vốn liếng trí thức thâu thập được trong học đường. Lắm khi, lý do đi giảng dạy cũng thôi thúc từ cõi lòng muốn khoe khoang vốn liến tri thức của mình, muốn cho mọi người biết đến danh tiếng của mình.
Ngoài những hoạt động về mặt tôn giáo và xã hội, ông còn có những hoạt động trong lãnh vực giao tế. Là một thanh niên nổi tiếng như vậy, nên ông có rất nhiều bè bạn. Những sinh viên nam nữ lúc bấy giờ cho việc kết thân với Tống Thượng Tiết là một đại vinh dự. Ông được rất nhiều người mời mọc về nhà thết đãi như một thượng khách, được mời đi xem phim hay tham dự những cuộc vui khác. Ông đã nếm trải tất cả những thú vui và hưởng thụ tất cả những lạc thú mà một thanh niên của thời đại ưa thích... Nhưng tạ ơn Thượng Đế, ông đã không bị chìm ngập và lôi cuốn vào cuộc sống trụy lạc đầy thú vui thụ hưởng của xã hội Mỹ thời bấy giờ.
Một thanh niên nhiều bè bạn như vậy, ông tất phải cần nhiều tiền để chi tiêu. Nhưng tiền bạc đối với ông lúc này không còn là vấn đề khó khăn nữa, mức thu nhập nay đã rất phong phú. Ông được mời giữ chức phụ tá giáo sư đại học. Hơn nữa, thành tích học vấn ưu hạng đã khiến chính phủ Trung Hoa chú ý và đã xuất công quỹ cấp cho Tống Thượng Tiết một khoản trợ cấp khá cao để chàng tiếp tục theo đuổi việc học hỏi và nghiên cứu. Thời gian này có một cuộc sống vật chất thật đầy đủ, tưng bừng với những cuộc vui triền miên, chiếm nhiều thì giờ... Ông không còn đủ thì giờ cho việc nghiên cứu học hỏi nữa. Dầu vậy ông cũng tìm đủ mọi cách để bù vào những thì giờ đã lãng mất, bằng cách thức dậy thật sớm để vào phòng thí nghiệm nghiên cứu. Thường thì ông làm việc rất khuya, cũng có những khi phải thức thâu đêm, suốt sáng. Ông bị cuốn hút trong cuộc sống bận rộn giao tế bạn bè, đồng thời cũng bị bài vở thôi thúc, không cách nào rút chân ra khỏi cái chiến trường giằng co ấy...
CHƯƠNG 18
ĐẬU TIẾN SĨ (1926)
Lấy xong bằng Cao học, Tống Thượng Tiết tiếp tục nghiên cứu để thi Tiến sĩ. Một năm chín tháng dùi mài kinh sử và cắm cúi trong phòng thí nghiệm, ông hoàn tất chương trình Tiến sĩ với luận án “The Constitution of organic magnesium Compounds and the magnesium of creamer reaction”. Lễ nhận văn bằng Tiến sĩ của Tống Thượng Tiết được cử hành vào ngày 3, tháng 3, năm 1926. Nơi cử hành lễ trang hoàng thật vui mắt. Những giỏ hoa tặng cho sinh viên tốt nghiệp chất cao như núi. Xe cộ đậu kín sân trường. Khách tham dự chen chân không lọt. Người người đều khen tặng Tống Thượng Tiết là một nhà bác học tuổi trẻ, tài cao.
Trong khung cảnh rộn ràng náo nhiệt, mừng mừng, vui vui với những lời khen ngợi chúc tụng, ông cảm thấy một nỗi buồn khó tả xâm chiếm tâm hồn. Nỗi ưu phiền trĩu nặng, choáng ngộp khiến chàng ứ nghẹn đến khó thở. Với dòng thác bạn bè kéo đến chúc mừng, chàng chỉ miễn cưỡng bắt tay đáp lễ.
Tốt nghiệp tiến sĩ, ông tiếp tục ở lại trường giữ chức vụ phụ tá giáo sư. Trước mặt Tiến sĩ Tống, tương lai rộng mở chờ đón. Con người đầy nhiệt huyết, lại bị tham vọng thôi thúc, ông muốn vươn cao hơn nữa. Tống Thượng Tiết như muốn ôm trọn học vấn, túi khôn của loài người về cho mình. Thế nên, ngoài lãnh vực chuyên khoa là hóa học, chàng còn tiến sâu và những lãnh vực mà trước đây ông chưa hể để tâm đến như triết học, sử học, địa lý, xã hội học, kinh tế học, sinh vật học... Bạn bè thường trêu chọc là “ông tiến sĩ đa khoa”. Cái gì cũng tham lam muốn biết! Ông như mặc nhiên chấp nhận, vì trong thâm tâm, chàm muốn trở nên một tiến sĩ “toàn tri”!
Trong lúc đó, vị giáo sư về kỹ nghệ hóa học của Đại học Ohio muốn sưu tập những bài viết, những tài liệu nghiên cứu có liên quan đến kỹ nghệ hóa học nên nhờ Tống Thượng Tiết tiếp tay, giúp đỡ. Ông nắm ngay lấy cơ hội và xem đây như một dịp may hiếm có. Vừa được thù lao cao, lại được học hỏi, nghiên cứu thêm miễn phí. Sau một thời gian làm việc, vị giáo sư này giới thiệu Tống Thượng Tiết với cơ quan Lập Pháp tiểu bang Ohio, nhờ sưu tầm, nghiên cứu những luật pháp tương quan đến các nhà máy hóa học thuộc tiểu bang. Qua công việc này, ông sinh hiểu biết thêm về luật pháp đồng thời kiến thức được nới rộng và kinh nghiệm cũng thêm nhiều. Dày dạn kinh nghiệm và kiến thức sâu rộng, khí thế tinh thần của Tống Thượng Tiết lại càng được nâng cao, càng nhìn đời với đôi mắt khinh mạn. Vũ trụ như quá bé nhỏ cho ông tìm hiểu, chẳng còn gì để khám phá!
Sau nửa năm cùng nghiên cứu sưu tầm, vị giáo sư nhận thấy người phụ tá của mình quả là một nhà bác học tài năng lỗi lạc, xứng đáng được đề cử đi nghiên cứu học hỏi thêm ở nước ngoài. Ông liền vận động tài chánh và phương tiện để đưa Tống Thượng Tiết sang Đức nghiên cứu thêm về hóa học. Đang khi chuẩn bị lên đường thì ông nhận được thư của quê nhà, từ một y khoa đại học nổi tiếng ở Trung Hoa, mời ông về giữa chức giáo sư khoa hóa học hữu cơ. Nhận được thư mời ông cảm thấy thật vinh dự nhưng đồng thời cũng lưỡng lự bàng hoàng, tấn thoái lưỡng na. Sang Đức du học là một cơ hội để học biết thêm, thỏa mãn được tham vọng và nhu cầu cần khám phá tìm tòi, và rất có thể còn lấy thêm được vài ba danh hiệu Tiến sĩ. Lúc ấy trở về Trung Hoa mới thật là đạt đến đỉnh cao danh vọng. Nhưng trong ông lại cũng có lòng yêu nước thôi thúc, quốc gia đang cần nhân tài để phục vụ tổ quốc lẽ nào lại lần lựa hẹn hò?
Nội tâm Tống Thượng Tiết trải qua một cơn tranh chiến mãnh liệt, dằng co giữa đôi đường mời gọi. Để trấn áp lương tâm, ông nghĩ ra một phương cách “nhất cử lưỡng tiện”: Vì lòng yêu quê hương, tổ quốc mà qua Đức quốc để trau dồi thêm kiến thức chuyên môn, vài ba năm sau sẽ trở về để phục vụ đất nước, hợp lý hợp tình làm sao! Tuy nhiên giải pháp này cũng chỉ là một phương cách để trấn áp lương tâm mà thôi.
Một đêm đi thẩn thơ, suy tưởng dưới ánh trăng vằng vặc, ông chợt nhớ về hai câu thơ của thi hào Lý Bạch:
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
(Tạm dịch: Ngước mắt ngắm trăng thanh Đầu cúi nhớ quê nhà).
Lời thơ như lung linh; hình ảnh non sông gấm vóc tuyệt vời của Trung Quốc như hiện về trong trí nhớ Tống Thượng Tiết. Nhưng khi quay gót vào phòng thì hình ảnh những nhà bác học treo trên tường lại thôi thúc lòng ông nhất quyết hướng về Ba linh để thỏa mộng sách đèn.
Trong khi lòng đang có cuộc tranh chiến giữa danh lợi, lợi danh, bỗng thoảng bên tai một giọng nói dịu dàng nhưng đâm thẳng vào tấm lòng Tống Thượng Tiết: “Nếu ngươi được cả thiên hạ mà mất linh hồn thì có ích gì?” Nghe tiếng nói rõ ràng bên tai, ông đưa mắt nhìn quanh, căn phòng vẫn tĩnh mịch, không một bóng người. Ông nhận biết đó là tiếng kêu gọi thiết tha của Cha trên trời.
CHƯƠNG 19
VÀO CHỦNG VIỆN NỮU ƯỚC
I. TIẾN SĨ KHOA HỌC THEO HỌC THẦN ĐẠO.
Sáng hôm sau, một người đàn ông đạo mạo đến thăm Tống Thượng Tiết. Câu đầu tiên ông ta nói liền: “Ông không có phong thái của một nhà bác học, nhưng lại có cung cách của một Mục sư”. Người đàn ông đạo mạo ấy chính là Mục sư Wilker Fowler một người khách không mời mà đến thăm. Câu nói khơi mào câu chuyện có vẻ đường đột ấy khiến Tống Thượng Tiết cảm thấy một điều gì rất quan trọng cho đời mình. Câu nói như vô tình những đã khơi lại bao hình ảnh như xa xôi như gần gũi trong trí nhớ ông. Gần gũi vì mới đêm qua đây, ông vừa nghe được lời cảnh tỉnh của Cha trên trời; xa xôi vì cách đây đến 5 năm, khi rời quê hương, bước chân lên con tàu đi du học. Phải chăng trong tâm niệm ông là khi học hành xong sẽ trở về quê hương làm người rao giảng Phúc âm?
Tống Thượng Tiết kể lại những ý tưởng, những dao động ấy cho vị Mục sư nghe. Nghe xong, vị Mục sư đạo mạo không mời mà đến ấy liền mời ông đến Nữu Ước để học Thần đạo. Ông ta đưa một ngón cái lên trời, tỏ ý muốn nói trường Thần đạo đó là một trường rất nổi tiếng trên thế giới – Chủng viện Union Theological Seminary. Mục sư Wilker Fowler muốn ông trả lời ngay lời đề nghị của mình. Chỉ cần vài phút suy nghĩ, Tống Thượng Tiết ha hả cười nhận lời không do dự. Tất cả những kế hoạch, chương trình sang Đức du học, rồi về nước làm giáo sư ông tức thì dứt khoát quẳng lại phía sau và loại ra khỏi đầu óc của mình.
Sở dĩ Tống Thượng Tiết chấp nhận lời đề nghị của Mục sư W.Fowler quá nhanh như vậy vì trong trí bật ra những ý nghĩ, những toan tính... Thứ nhất, Nữu Ước là một thành phố lớn nhất Mỹ quốc, nơi đó có rất nhiều bảo tàng viện đồ sộ và giá trị văn học cao. Ông muốn đến đó để lấp cái hố tri thức vốn không thể lấp đầy của mình! Hơn nữa tại Nữu Ước lại có một trường nổi tiếng thế giới là đại học Columbia. Đó là nơi mà lòng ngưỡng mộ của Tống Thượng Tiết hướng về. Ông hy vọng đến tại Union Theological Seminary sẽ học được nhiều môn thần học cần thiết, đồng thời cũng có thể nghiên cứu thêm những nền học thuật khác. Thứ đến, chủng viện hứa cấp học bổng rất hậu. Ngoài việc ăn học miễn phí, mỗi năm còn được trợ cấp thêm 500 Mỹ kim. Tại sao không nắm ngay lấy cơ hội hiếm có này?
Tháng 9 năm 1926, Tống Thượng Tiết rời Ohio, để đến Nữu Ước. Sau khi nhập chủng viện, ông mới biết phải cần ba năm mới hoàn tất chương trình. Muốn rút ngắn lại thời gian học, ông gặp ban giám đốc, xin được học tất cả những môn quan trọng trong vòng một năm. Lời đề nghị được ban giám đốc nhà trường chấp thuận. Thế là ông bắt tay vào việc. Như vậy ông phải học nhiều hơn những sinh viên khác cùng trường mỗi tuần 7,8 giờ.
Những người quen biết, nghe tin Tống Thượng Tiết vào chủng viện, đều lấy làm ngạc nhiên. Mọi người như cùng một ý nghĩ và tự hỏi: “Tại sao một con người với bằng tiến sĩ khoa học tối ưu, lại còn vào chủng viện nghiên cứu thần học để làm gì?”. Thắc mắc này đến từ những tín hữu bình thường thì ông cũng không lấy làm lạ, nhưng nói lại phát ra từ miệng những sinh viên thần học, khiến ông thật vô cùng thất vọng. Vì ông quan niệm rằng, đã là sinh viên thần học phải có đời sống thuộc linh cao, đã tận hiến cuộc đời và không màng gì đến những gì của thế tục. Chẳng bao lâu sau, ông tìm ra nguyên nhân và ông thấy tận tường mặt trái của chủng viên. Ông tuyên bố: “tôi đã mù quáng khi đến chủng viện này, thần học chỉ là chiêu bài của trường này, ngoài ra không có một sinh khí thuộc linh nào tại đây”. Tống Thượng Tiết nhận thức được rằng, nơi này có thể giúp ông phát triển kiến thức, nhưng phần tâm linh không thể nào tăng trưởng. Sức sống thuộc linh không thể tìm thấy nơi chủng viện này. Nhận định này của ông không một ác ý, hay cố tình công kích, ông chỉ phát biểu một sự thật: Union Theological Seminary là một chủng viện thuộc Tân phái!
Tuy vậy trong chủng viện cũng có một số sinh viên giữ được lòng tin kính thuần chính. Họ thường họp nhau cầu nguyện tại nhà ông bà Giáo sư Tiến sĩ C.D.Damin. Tống Thượng Tiết liền gia nhập nhóm cầu nguyện này. Ông bà Tiến sĩ Damin vốn là giáo sĩ tại Hán Thành, Đại hàn. Hiện về nước nghỉ hạn tại Nữu Ước, ông bà cũng là giáo sư thần học của một chủng viện thuộc giáo phái Giám Lý tại Nữu Ước, họ thuộc những người theo truyền thống cũ. Vì đồng quan điểm, nên Tống Thượng Tiết đã trở nên gần gũi thân thiết với Tiến sĩ Damin trong chủng viện Union Theological Seminary.
Chủng viện thường mời diễn giả khắp nơi về thuyết giảng. Họ đón nhận mọi quan điểm thần học của các diễn giả. Sinh viên cũng như các giáo sư đều có thái độ với những diễn giả đó như những khán giả xem kịch, hay thì vỗ tay tán thưởng, nghe không vừa ý thì lắc đầu chê bai. Thật ra thì lúc bấy giờ ông cũng đã chịu ảnh hưởng trong hơn ba bốn năm của thần học Phúc âm Xã hội, nên cũng có thái độ giống như mọi người. Nếu không như vậy chắc ông cũng đã bị loại ra khỏi trường rồi. Điều đó được xác nhận sau khi Tống Thượng Tiết thật sự được tái sanh. Sau khi ông được Chúa thăm viếng, ông đã nhắc lại phương pháp giải Kinh mà ông đã học được ở chủng viện Union Theological Seminary như sau: “Trước hết, họ dựa trên nền tảng triết học để giải thích Thánh Kinh, nếu triết học không giải thích được, họ quay sang chứng minh bằng khoa học, nếu khoa học không chứng minh nổi thì họ xem những chuyện trong Thánh Kinh chỉ là những chuyện ngụ ngôn có tính cách luân lý. Nền tảng triết học mà họ thích dùng như một phương tiện để giải thích Thánh Kinh là tâm lý học thực dụng. Nếu có những trường hợp vượt quá tầm luận lý của những phương pháp trên thì họ tuyên bố những phân đoạn Thánh Kinh đó không hợp lý, không đáng tin cậy. Hoặc họ bỏ qua những phần Thánh Kinh đó, chân lý Thánh Kinh đã bị họ bóp méo hay bỏ qua đi rất nhiều”.
Nhiều người lầm tưởng Tống Thượng Tiết đả kích Union Theological Seminary, nhưng ngược lại ông đã ủng hộ chủng viện ấy. Sự ủng hộ của ông không giống những người khác: ông đã cầu nguyện nhiều để Chúa Thánh Linh của Đức Chúa Trời cải tổ Union Theological Seminary, cũng như vậy những trường thần học ở Trung Hoa có cùng quan điểm cũng như cho những chủng viện khác đang ở trong tình trạng thuộc linh bị phá sản. Tống Thượng Tiết rất quan tâm đến tình trạng thuộc linh của Hội Thánh và các Chủng Viện.
Sau này tại Bắc Kinh khi những tân tín hữu tiếp nhận Chúa và được tái sanh, ông thường giới thiệu họ đến sinh hoạt với Hội Thánh của Mục sư Vương Minh Đạo. Riêng những người muốn dâng mình hầu việc Chúa thì ông giới thiệu họ theo học trường thần đạo của Mục sư Dã Ngọc Minh.
II. ĐƯỢC MỘT CÔ GÁI BẮT PHỤC.
Theo học được nửa năm tại Union Theological Seminary, Tống Thượng Tiết nhìn rõ được mặt trái của Chủng viện ông thấy chẳng có một ý nghĩa gì khi theo học Chủng viện này! Những gì ông học được với các giáo sư trong các lớp học không bằng một phần ông học hỏi được khi nghiên cứu riêng trong thư viện. Ông thầm nghĩ tại sao mình lại phải làm nô lệ cho học trình?
Muốn bù đắp lại khoảng trống vô nghĩa này, ông chôn mình trong thư viện, nghiên cứu thêm những học thuyết của nhiều tôn giáo khác. Đặc biệt ông rất chú trọng đến Phật giáo... Nhưng tư tưởng cao siêu, những điều mới lạ, ông khám phá được trong khi nghiên cứu, ông đều ghi chép lại. Trong tình trạng biến thái của tâm hồn và tâm linh, Tống Thượng Tiết đã viết một số sách nghiên cứu. Công trình mà ông thấy đắc ý nhất là tác phẩm dịch từ nguyên tác quyển Đạo đức kinh. Chẳng những ông nghiên cứu về tư tưởng của các tôn giáo, ông cũng còn nghiên cứu về mặt hình thức tổ chức của những tôn giáo này nữa. Ông thường đi lại thăm viếng, đàm đạo với các giáo quyền của các tôn giáo trong thành phố Nữu Ước. Do sự nghiên cứu và tiếp xúc này, Tống Thượng Tiết đã đi đến kết luận: “Tất cả mọi tôn giáo đều là đại lộ dẫn đến La Mã!”
Dầu kết luận như vậy nhưng trong lòng không bình an, ông thấy cuộc đời tất cả chỉ là ảo ảnh. Đời người cuối cùng là bị vây quanh với khổ đau trùng điệp. Mặc dầu cả thế giới đang công nhận khả năng tuyệt đối của khoa học, nhưng ông lại là người phủ nhận điều đó. Ông nói: “Tôi đã sống bao nhiêu năm trong lãnh vực khoa học, nhưng chưa bao giờ nhờ vào khoa học mà tâm hồn tôi thảnh thơi vui thỏa. Khoa học có khả năng cung ứng mọi vật chất cho sự hưởng thụ của con người, nhưng không thể làm giảm gánh nặng đau buồn trong tâm linh. Triết học, tâm lý học và tất cả những nền học thuật khác cũng chẳng thế nào làm cho con người được giải phóng khỏi xiềng xích của tội lỗi”.
Tình trạng tinh thần hoang mang, tâm linh rối bời, Tống ăn không hôi bữa, ngủ không yên giấc. Thân thể mệt mỏi, tứ chi rã rời. Ông trở nên ít nói, trầm tư. Nét mặt như nhuốm một vẻ buồn u uẩn. Để tránh mọi ngộ nhận của những người chung quanh, ông ít khi ra khỏi phòng. Ông muốn sống trong tĩnh lặng để thiền, để niệm Phật, để tu thân và suy gẫm và thực nghiệm lối sống thanh tịnh, vô vi của Lão tử. Tống Thượng Tiết lúc đó như con người vô hồn, niềm tin giao động như con thuyền nhỏ, không người chèo lái, không địa bàn, mất phương hướng, trôi giạt giữa biển rộng mông mênh!
Một hôm có vài người bạn đến mời Tống Thượng Tiết đi dự một buổi thuyết giảng phấn hưng. Hầu hết hội chúng đều nghĩ rằng diễn giả phải là một giáo sư tiến sĩ nổi tiếng nào đó. Nhưng mọi người đều rất ngạc nhiên khi vị diễn giả xuất hiện, vì đó chỉ là một cô gái chưa quá tuổi vị thành niên. Cô gái trang phục toàn màu trắng: Áo trắng, váy trắng, giày trắng... Nếu cô xuất hiện ở Trung Hoa, người ta sẽ nghĩ là cô đang ở trong thời kỳ đại tang của cha mẹ. Cô chỉ mang theo mình một quyển Thánh Kinh bìa da mạ vàng, khoan thai mở ra đọc lớn tiếng, đọc xong cô mời hội chúng yên lặng. Trong cái tĩnh lặng đó Tống Thượng Tiết cúi đầu suy gẫm, và cảm thấy bầu không khí trong hội trường thật là thanh khiết nghiêm trang, khác hẳn những buổi sinh hoạt khác. Giây khắc sau, ông ngẩng đầu lên, một niềm vui thỏa trào dâng, ông đang sống những giây phút thiên đàng tại trần gian.
Tiếng nói của cô thật thanh thoát nhẹ nhàng. Phương pháp giải Kinh thật khúc chiết, chặt chẽ đã nêu rõ sự cứu rỗi trong Phúc âm của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Mỗi một lời nói của cô như khai mở những huyền nhiệm trong thiên quốc. Như một hồi chuông cứu độ ngân vang thanh thoát và đưa cao đạo Thập tự giá của Chúa Cứu Thế. Tống Thượng Tiết xúc động mạnh, hơi thở như ứ nghẹn, ông cảm thấy khao khát Lời Chúa” như con nai cái thèm khát khe nước” và đồng thời cũng như đang được thấm nhuần nước suối trong mát tại đó.
Hình ảnh những người vội vã chạy lên bục giảng ăn năn, xưng tội có ấn tượng sâu sắc và như in hẳn vào tâm khảm của ông, không làm sao phai mờ trong ký ức được. Trong số những người tin nhận Chúa đó có cả những lãnh tụ trong xã hội, những viên chức cao cấp trong chính phủ, cũng có cả những Mục sư nổi tiếng của các giáo phái... Tất cả như đang chìm ngập trong niềm ăn năn sám hối và cũng như được nhận chìm trong ân sủng thiêng liêng. Hình ảnh ấy đã lay động tâm hồn Tống Thượng Tiết với một niềm cảm mến, thán phục cô gái diễn giả. Riêng các sinh viên của Union Theological thì ôm bụng cười kiêu ngạo. Tống Thượng Tiết tham dự liên tục năm buổi giảng phấn hưng đó. Những buổi sinh hoạt giảng dạy đó đầy dẫy quyền năng của Chúa Thánh Linh, lòng ông tràn ngập vui thỏa. Ông dõng dạc tuyên bố: “Tôi thấy cô gái này thật xứng đáng giữ chức vụ viện trưởng hay giáo sư tại các Chủng viện, và việc tốt nhất, tôi nghĩ, là ông viện trưởng của trường tôi đang theo học phải khiêm nhường, hạ mình đến theo học với cô này về Chân lý Phúc âm. Có như vậy mới đủ tư cách và xứng đáng làm viện trưởng. Nói một cách khác nếu không có tâm tình và ân tứ thuộc linh như cô gái diễn giả này, cho dù có đang là một vị viện trưởng đạo mạo nào thì cũng chỉ là hữu danh vô thực, giả dối là vô ích, chẳng khác chi một thư ký công nhật, đi làm để mưu sinh”.
Năm ngày giảng phấn hưng chấm dứt, dáng vẻ thanh khiết trang nghiêm với sức sống tâm linh tràn đầy của cô gái đã khắc sâu vào tâm khảm ông. Mãi đến năm 1933, khi viết một bài làm chứng, Tống Thượng Tiết vẫn còn nhớ như in thái độ cung kính thành khẩn tràn đầy tự tin. Đức tin với từ tâm, tương giao với Chúa của cô luôn luôn nổi bật trong tâm khảm ông. Nhất là những lời giảng tràn đầy quyền năng và sức sống như vẫn còn vang vang trong trí nhớ của ông. Trong bài làm chứng ấy, ông viết dưới hình thức một bức thư dài cho người bạn, ghi lại những cảm nghĩ như vẫn còn tươi mới trong trí óc ông: “Nếu một người truyền bá Phúc âm mà không có sự sống của Chúa Giê-xu thì người ấy không xứng đáng là người chứng cho Chúa. Cuộc trắc nghiệm thuộc linh của Giáo sư Giê-xu là người truyền đạo của Chúa đã được báptem bằng Thánh Linh chưa và đã được gội nhuần một đời sống tâm linh sung mãn chưa? Giáo sư Abôlô trong thời các sứ đồ, khi chưa được báptem bằng Thánh Linh cũng đã đi rao giảng Phúc âm, nhưng ông chỉ giảng bằng tài hùng biện của mình. Ngày nay cũng vậy có nhiều người đã tin nhận Chúa nhưng chưa được báptem bằng Thánh Linh.”
Trước khi viết xong bức thư, Tống Thượng Tiết thấy lương tâm mình bị cáo trách dữ dội, như một mũi giáo đâm thấu suốt tâm can. Ông cảm thấy hổ thẹn, bởi chính ông nghĩ rằng, vào Chủng viện là với mục đích sau này hầu việc Chúa, nhưng ông vẫn chưa được báptem bằng Thánh Linh. Tống Thượng Tiết ngừng bút, vào phòng riêng, trầm tư suy gẫm. Ông bị lương tâm cáo trách như một cơn bão tố, ông bắt đầu khóc nức nở...
CHƯƠNG 20
TÁI SANH – NGÀY 10 THÁNG 2 NĂM 1927
Sự khao khát trong lòng Tống Thượng Tiết được khơi dậy qua hình ảnh và lời giảng của cô diễn giả trẻ tuổi trong kỳ Đại Hội Phấn Hưng năm ngoái. Ông quyết định từ bỏ tất cả mà chỉ chuyên tâm tìm kiếm báptem bằng Thánh Linh, hầu mong nhận được SỰ SỐNG. Nhưng khốn thay, đi đến đó bằng lối nào đây? Trong lúc các bạn cùng lứa phê phán và chỉ trích là cô ta chỉ lợi dụng tình cảm nhất thời mà mê hoặc lòng người. Khi những lời này đến tai ông thì ông nghĩ rằng: nếu tôi có được quyền năng giảng dạy đầy sức sống như vậy và có được những lời cầu nguyện đầy linh lực, nếu có bị mang tiếng là mê hoặc lòng người hay chỉ là khơi động tình cảm thì tôi cũng cam chịu.
Những ngày nghỉ mùa đông đã đến, Tống Thượng Tiết tận dụng những ngày này để nghiên cứu thêm nhiều sách vở tài liệu về những vĩ nhân Tin Lành. Mỗi khi đọc xong một tác phẩm, đều reo lên một lời tán thưởng, và mừng vui: Ôi! Họ là những con người thật có sự sống, họ là những con người tràn đầy sức sống thuộc linh, ông rất đỗi kinh ngạc vì những sức mạng tâm linh thật là kỳ diệu và vĩ đại. Lòng ông dâng lên một niềm khát vọng: Làm sao đạt cho được quyền năng kỳ diệu ấy?
Đêm 30 Tết âm lịch năm 1926, khi đang quỳ gối cầu nguyện, Tống Thượng Tiết nghe Đức Chúa Trời nói với tâm linh ông: “Ta sẽ hủy phá sự khôn ngoan của người không ngoan, tiêu trừ sự thông biết của người thông biết”. Tiếng nói thật êm dịu, ôn tồn, nhưng với ông, sao nghe như một tiếng sét bên tai. Toàn thân ông run rẩy, và gợn lên một niềm hãi sợ lạnh băng. Trong nơi sâu thẳm của suy tưởng, ông nhận biết câu nói này quả là chân lý. Tri thức, tài năng, tất cả những gì của con người chỉ là hư ảo và vô nghĩa. Đời người như quả bong bóng nước trong mưa, bọt bèo trôi giạt trên sống. Sống là chất chồng khổ đau, bi đát; chết là vào cõi hư vô lững lờ... Tinh thần bất an, tâm tư hốt hoảng, những canh của đêm trôi qua không sao chợp mắt được.
Buổi sáng đầu năm 1927, một cơn gió nhẹ thoảng thổi vào như càng lay động niềm hoang mang trong ông. Từng ngày một lặng lẽ vô tình trôi qua, tâm tư ông càng trĩu nặng thêm với năm tháng. Thân thể rã rời, tâm hồn bất an. Khi không còn một chút năng lực để làm một việc nhỏ nào thì trong tâm tưởng vang lên ông một câu hỏi khó giải: “Tại sao tôi phải sống một cuộc sống khổ đau trong thế tục hư không này?” Càng quằn quại sống với nan đề, lòng ông càng co thắt, hơi thở năng lực như nghẹt ngòi, cuộc đời giàn trải trước mắt ông như một đêm tối đen vô tận! Cuộc tranh chiến của Satan và Đức Thánh Linh cũng đã đến cao điểm ác liệt, đây là giây phút phân thắng bại giữa tội ác và lẽ phải. Thời điểm mà Tống Thượng Tiết sống với nội tâm đau thương ấy là ngày 10 tháng 2 năm 1927. Cuộc ác chiến đó được mô tả qua lời cầu nguyện của ông: “Tối hôm đó tôi cầu nguyện không những cầu nguyện với tất cả lòng thành khẩn, hối hả mà cầu nguyện với cả tấm lòng ăn năn xin Chúa giết chết bản ngã nhơ nhớp. Với nước mắt sám hối, tôi kêu than với Chúa xin huyết Ngài đến phủ che tôi, khiến tôi không còn sống cho con người tôi nữa, không còn mơ ước những xa hoa phù phiếm của cuộc đời hư vinh, xin triệt hạ khỏi con những mưu kế, hoạch định xây dựng lâu đài trần gian. Tôi đã đến với Chúa với tấm lòng trần trụi, không che đậy, không dấu diếm. Tôi xin Chúa xót thương thân thể dơ dáy, tấm lòng gian ác và linh hồn tôi đang chịu khổ đau dưới sự dày vò của ma quỉ”
Qua những lời cầu nguyện bi thống đó, Linh của Đức Chúa Trời bắt đầu vận hành trong đời sống của Tống Thượng Tiết. Bắt đầu từ 10 giờ đêm hôm đó, những màn của tội ác trong vở kịch “cuộc đời Tống Thượng Tiết” đã diễn lại một cách chi tiết, rành mạch đến độ trần trụi không chi dấu diếm. Những tội lỗi không cứ nặng nhẹ, phơi bày không thiếu sót một chi tiết nhỏ nào trước mắt ông, thậm chí những tội mà trước đây ông không ý thức được là tội, thì nay cũng được khơi dậy và cáo trách khiến ông thật đau xót. Và khốn khổ nhất là ông không thể nào từ bỏ được những tội lỗi đó. Tống Thượng Tiết thấy mình quả là một “tội nhân” đáng chết mất trong lửa địa ngục đời đời. Những tội lỗi tuần tự giàn trải ra trước mắt, lòng ông càng đớn đau, như những mũi giáo đâm vào tâm tư. Ông nhắm mắt lại cố tình xua đuổi những ký ức xấu xa ấy, nhưng bất lực! Trong cơn bối rối tột cùng đó, ông bèn nhớ lại quyển Thánh Kinh Tân Ước của mình bị lãng quên dưới đáy rương từ lâu. Ông vội vã lấy ra đọc... đến chương 23 của Phúc âm Lu-ca nói về vì tội ác của con loài người mà Chúa Giê-xu phải chịu đau thương vác thập tự giá đi lên đồi Gôgôtha, ông thấy mình như cũng cùng vác thập hình và cùng bước đi xiêu tó với Chúa Giê-xu trên đường đến Gôgôtha hoang vắng, cô đơn. Ông thấy mình là một tội nhân bị lên án tủ hình trên thập tự giá và chính mình cũng tự quằn lưng vác thập tự, không dám ngẩng mặt nhìn bất cứ một ai, chỉ biết lảo đảo bước theo chân của Chúa. Giây phút cực hình đó quả là quá sức chịu đựng của ông. Cả một gánh nặng trên lưng dường như trì xuống đè trên thân thể Tống Thượng Tiết cho đến chết. Hình ảnh Chúa Giê-xu bị treo cao trên cây thập tự, đầu gục nghiêng sang một bên, hai bàn tay máu tuôn xối xả. Thảm cảnh đó khiến ông đau đớn không nguôi. Ông khiêm tốn quỳ xuống bên cây thập tự, rồi sấp mình nằm dài trên đất, ông bày tỏ tấm lòng ăn năn đến tận cùng sám hối của mình. Ông cầu xin Chúa dùng huyết báu của Ngài rửa sạch mọi điều gian ác trong con người ông.
Tống Thượng Tiết khẩn thiết cầu nguyện như thế cho đến khi nghe tiếng đồng hồ điểm nửa đêm, thì thình lình ông cất tiếng hát ca vang Halêlugia vì gánh nặng tội lỗi như đã được cất đi. Con người ông nhẹ nhõm, bồng bềnh tựa mây trời, ông nhảy múa ca hát ngợi khen Chúa. Bỗng chốc, cuộc diện lại xoay chiều, lại một tiếng nói êm dịu, nhỏ nhẹ bên tai: “Con bé mọn yêu dấu, tội con đã được tha...” Chắc chắn đó là tiếng nói của Con Đức Chúa Trời, Đấng có thẩm quyền tha tội. Tống Thượng Tiết thấy được tận mắt mình, chính Con Người đứng trước mắt ông, mặt Ngài toả hào quang sáng ngời, đầu Ngài đội vương miện, trên đôi tay Ngài còn dấu đinh xuyên qua...” Tội con đã được tha và tên con sẽ đổi là Giăng”. Lòng ông trở nên trống không, thanh sạch như một căn phòng tao nhã, yên tịnh, cửa phòng rộng mở và Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh cùng bước vào lòng ông. Lúc đó đúng một giờ khuya, rồi tự nhiên thấy thân thể mình đớn đau không sao chịu đựng nổi, tất cả mọi khớp xương cũng như lục phủ ngũ tạng đang bị trong thương, ông cất tiếng hỏi Chúa Giê-xu: “Tại sao cơn đau đớn bỗng nhiên từ đâu đến với con lạ lùng như thế này, thưa Chúa?” Ánh sáng của Thánh Linh chiếu rõi vào tâm trí ông, khiến ông ý thức được cách rõ ràng chân lý “cùng chịu đóng đinh và chết với Chúa” là như thế.
Sau này khi thuật lại kinh nghiệm diệu kỳ này ông thường nói: “Đêm hôm đó là sinh nhật thuộc linh, một kỷ niệm không thể nào phai mờ trong suốt cuộc đời tôi, và cùng lúc đó tôi nhận được mạng lệnh của Chúa: “đi rao giảng Phúc âm cho muôn dân cho đến lúc tận thế”. Và Chúa biểu tôi đổi tên là Giăng (Báp-tít) với dụng ý cho biết: Giăng Báp-tít là tiền phong của Chúa Giê-xu trước khi Ngài sanh ra trên thế gian này. Thời đại của chúng ta chẳng bao lâu nữa thì Chúa sẽ tái lâm (trở lại lần thứ hai) nên Chúa cũng muốn có một người tiền phong cho Ngài. Hai sự kiện Chúa đến trần gian lần thứ nhất (Giáng sinh) và Chúa đến lần thứ hai (Tái lâm) có đôi điều giống nhau. Cũng như Giăng là tiên phong cho lần trước, thì lần này tôi là một trong những người được Chúa gọi để làm người tiên phong cho Ngài để rao giảng Nước Trời đang đến gần và Chúa chắc chắn sẽ mau trở lại.
CHƯƠNG 21
VÀO BỆNH VIỆN TÂM THẦN
(THÁNG 2-8 NĂM 1927)
(THÁNG 2-8 NĂM 1927)
I. KHẢI THỊ
Sau đêm sinh nhật tâm linh không thể quên được ấy, niềm khoái lạc tâm hồn chi phối trọn vẹn con người Tống Thượng Tiết. Gặp ai ông cũng thuật lại công việc kỳ diệu Chúa đã làm trên cuộc đời ông, nhất là đối với bạn bè cùng chủng viện cũng như các giáo sư. Ông can đảm thuận lại cho họ mọi chi tiết một cách dạn dĩ vì biết rằng, những con người theo thần học tân phái đó sẽ chế giễu, sẽ khinh bỉ và công kích khi nghe những điều huyền bí ông kể cho họ.
Có một chuyện mà ông rất ngại thuật cho người khác nghe, nguyên là có một người thật hoàn toàn xa lạ, sau này mới biết ông ta là người Thụy Điển, biếu cho ông một quả địa cầu. Tuy nhận nó trên tay, ông chẳng biết hành động của người khách lạ có ý nghĩa gì. Khi ông đang mông lung nghĩ ngợi thì được Chúa Thánh Linh nhắc nhở: “Phải đi khắp thế gian giảng Tin Lành”. Tống Thượng Tiết rất cám ơn người biếu ông món quà mang biểu tượng sâu sắc đó. Ông mang quả địa cầu về phòng riêng, nhìn kỹ khối cầu tròn, bỗng thấy nó từ từ biến dạng thành một hình chữ nhật khá dài. Dài giống như hình một thân thể con người và đang vác trên vai một cây thập tự khá lớn. Trên đầu có mang những dòng chữ giống như chữ Palestine. Trên ngực thì lại có những dòng chữ Trung Hoa. Rồi cả thế giới như hiện ra tỏ tường trên hình người và trên cây thập tự. Những hình dạng người không ra người, ngợm không ra ngợm. Những dã thú quái đản, gớm ghiếc lờ mờ như ẩn như hiện. Đôi mắt của Tống Thượng Tiết bị cận thị nặng nên ông phải ghé mắt thật gần để nhìn cho kỹ. Ông nhận ra những con quái vật đáng gớm ghiếc đó là những vị ông đã từng ngưỡng mộ và kính phục như thần thánh: đó là những Mục sư, những Giám đốc học viện, những bậc đại Giáo sư thần học.
Sau khi được đổi mới tâm linh, Tống Thượng Tiết thấy vũ trụ vạn vật là những vinh quang của Thượng Đế cho chúng ta để ngắm xem sự vinh hiển và ca tụng bản tính thánh thiện của Ngài. Đồng thời vũ trụ vạn vật là lời chứng cho chân lý của Thượng Đế. Từng cảnh cây, từng ngọn cỏ, từng đóa hoa... tất cả như bày tỏ sự diệu kỳ, vĩ đại, thánh khiết, quang vinh và trí tuệ tuyệt vời của Chân Thần duy nhất là Thượng Đế.
Sau này, trong cuộc sống của ông, những khi có những tư tưởng đen tối, những lời nói không đẹp lòng Chúa. Ngay cả những tội mà ngày trước kia ông không nghĩ đó là tội, bây giờ hiện về cáo trách thì ông liền mở Thánh Kinh tìm đọc những chương, những câu nào bàn đến “tội lỗi”. Và sau đó ông đến cầu nguyện xưng tội, ăn năn với Chúa, rồi tìm đọc những chương, câu Thánh Kinh, những lời an ủi, những lời hứa tha thứ và những lời hứa ban phúc lành. Lắm khi những ý tưởng tiếc nuối cuộc đời vinh hoa nẩy sinh trong đầu óc ông thì liền xuất hiện những lời nghiêm khắc, những chương Thánh Kinh luận về “sự mục nát vô nghĩa của trần gian này”. Lời Chúa luôn luôn cảnh tỉnh lòng ông. Thánh Kinh, bây giờ chẳng những là thức ăn nuôi dưỡng đời sống tâm linh mà còn là ngọn đèn cho chân ông, hướng dẫn ông đi vào mọi lối ngay thật. Ngoài những thì giờ đọc Thánh Kinh, tương giao riêng tư với Chúa, ông còn để thì giờ để truyền bá Phúc âm.
Ngày 12 tháng 2, hai ngày sau khi được tái sanh, Tống Thượng Tiết đến tham dự một hội nghị Sinh Viên Quốc Tế. Có được vài phút phát biểu trong hội nghị, ông đã không bỏ lỡ cơ hội làm chứng thể nào Chúa đã thăm viếng và biến đổi cuộc đời và tấm lòng tối đen của ông. Ông cũng gởi lời khuyên nhủ sinh viên, với tất cả tấm lòng chân thành và nước mắt của ông: “Hãy đến gần với Chúa Cứu Thế để hưởng được sự bình an khi được Ngài thứ tha tội lỗi”. Ông cũng thẳng thắn chỉ rõ những tội lỗi, sai lầm của một số Mục sư, Truyền đạo của Đức Chúa Trời. Ông dạn dĩ mời họ cùng quỳ gối cầu nguyện với ông, xin Chúa tha cho những tội “làm việc cho Ngài cách giả dối”, không trung thành khi rao giảng chân lý. Nhưng những người đó đâu có dễ dàng tiếp nhận lời khuyên chân thành của ông. Số người biết hối cải quay trở lại con đường chính đáng rất là hiếm, nhưng Chúa cũng ban thêm năng lực và ông không nản lòng.
Trước đây, báo chí Mỹ thường đăng những bài ca tụng, những thành quả tốt đẹp của Tống Thượng Tiết trong thời gian hoạt động rất thành công trong Hội Sinh Viên Quốc Tế, ông thường sưu tập và cắt những bài báo đó, dán lại thành một tập tài liệu rất đẹp. Có dịp là mang ra khoe khoang với bạn hữu. Nhưng sau khi được Chúa thăm viếng và tái sanh, ông mang những bài báo ca tụng đó đốt hết, đốt luôn cả một số sách giáo khoa của chủng viện Union Theological Seminary. Vốn thích ca hát ngợi khen Chúa bây giờ được tái sanh rồi, ông lại càng muốn ca hát tôn vinh Chúa nhiều hơn nữa. Lúc thì ông ca vang, lúc thì thầm thì hát, lúc thì chảy nước mắt, lúc thì vui sướng tươi cười: tất cả là ca tụng Chúa, tôn vinh Chúa, trò chuyện với Chúa. Vì có những cử chỉ với thái độ tâm linh bốc cháy như vậy, nên đa số những người trong chủng viện đều cho rằng: “Tống Thượng Tiết bị bệnh tâm thần”.
Ngày 17 tháng 2 ông ra phố mua một cây bút và một quyển Thánh Kinh mới. Trên đường về lòng ông tràn ngập hân hoan vui thỏa. Đi được một quãng đường, ông thấy một cậu bé rất khôi ngô, mặt mày sáng rỡ như thiên sứ, ngồi bên vệ đường. Tay cậu cầm một bảng nhỏ có viết chữ REST (nghỉ ngơi). Đi một quãng đường nữa, ông lại thấy một cậu bé khác cũng ngộ nghĩnh dễ thương như vậy và tay cũng cầm một bảng nhỏ có chữ REST, nhưng ông cũng không mấy chú tâm. Nhưng chỉ một quãng đường ngắn nữa thì ông lại thấy lần thứ ba. Lại cũng một cậu bé khác, giống như hai cậu bé kia và tay cũng cầm chữ REST giống hệt như vậy. Ông bắt đầu nghĩ ngợi về sự kiện lạ này. Suy gẫm mãi, nhưng chưa tìm được ý nghĩa thì ông đã về tới nhà trọ.
Trường Union kiến trúc thật là đồ sộ nguy nga, Tống Thượng Tiết nghĩ đến những Giáo sư, những người bạn cùng trường, họ đã ăn cắp tiền của Chúa mà đi làm tôi mọi cho Satan. Ông thấy lòng đau xót, hai dòng nước mắt tuôn dài. Ông đến trường thì cổng đã đóng lại, đó là lệnh của ông Viện trưởng. Chính ông đích thân khuyên Tống Thượng Tiết với những lời nhẹ nhàng nhưng dứt khoát như một mệnh lệnh đinh thép: “Cậu nên đến một nơi thanh vắng nghỉ ngơi một thời gian”. Tống Thượng Tiết nghĩ thầm: đây là một dịp tốt. Nghỉ ngơi một đôi ngày thì càng có nhiều thì giờ suy gẫm Kinh Thánh. Cũng có thể sau đó tinh thần sẽ được thanh thản, nhẹ nhàng để có thể làm nhiều công việc cho Chúa hơn! Ông không một lời từ chối, cúi đầu yên lặng nghe theo. Trước khi đi, ông xin được vào phòng lấy thêm một vài vật dụng cần thiết, nhưng bị từ chối, ông bị cưỡng ép phải đi theo một người khác. Hành trang “đi nghỉ mát” của ông chỉ vỏn vẹn gồm có một quản bút, mực và quyển Thánh Kinh mới vừa mua!
Xe chạy qua một vùng hoang vắng một khoảng thời gian khá dài, đến khuya mới đến được địa điểm “nghỉ ngơi”. Nhà nghỉ có tên gọi là “Bloomingdale Hospital”. Đây là một bệnh viện tâm thần nổi tiếng của Hoa Kỳ dành cho những người bị thần kinh điên loạn.
Bệnh viện gồm bảy toà nhà đồ sộ, trang bị rất đầy đủ và qui mô. Tiến sĩ Tống Thượng Tiết được đưa vào tòa nhà số 4. Sau khi vào bệnh viện tâm thần, ông mới thấy ông viện trưởng đã “chuẩn bị thật chu đáo” từ lâu. Vừa tới nơi ông được “tiếp rước” và đưa đường chỉ lối thật nhanh chóng vào “nghỉ” toà nhà náo, phòng số mấy đã dành sẵn. Nhân viên bệnh viện bắt ông tắm rửa, thay quần áo trắng của bệnh viên và bảo ông phải về giường nằm nghỉ ngơi. Ông cảm thấy thật khôi hài: Họ đã xem tôi như một người điên thật sự rồi!
II. BỆNH VIỆN TÂM THẦN.
Qua hôm sau, các bác sĩ của bệnh viện bắt đầu các cuộc thử nghiệm và trắc nghiệm trên ông. Họ thử máu, hỏi lý lịch: Cuộc đời và dòng họ tổ tiên ông. Họ muốn xác nhận bệnh tâm thần của ông là do hoàn cảnh xã hội hay do di truyền. Ông nói với các bác sĩ rằng: “Thật ra tôi cũng có khả năng để tìm hiểu chính mình có bị bệnh tâm thần hay không, vì chính tôi cũng đã nghiên cứu và hiểu rõ những thuyết di truyền học, quan hệ huyết thống của dòng họ tổ tiên. Tuy tôi không phải là một y sĩ chuyên khoa danh tiếng, nhưng tôi cũng đã từng nghiền ngẫm những tài liệu sách vở ông đã học và đọc. Nếu những lời tôi nói không đủ cho ông tin, thì ông có thể hỏi lại các sinh viên hay các giáo sư ở đại học Ohio”. Bác sĩ muốn xác nhận những ý nghĩ của ông có rối loạn hay không, ông bèn đọc cho Tống Thượng Tiết nghe một mẩu chuyện ngắn và bảo ông viết lại. Ông viết lại xong, trao cho bác sĩ xem, vị bác sĩ đọc lại, thấy chẳng những ông viết rất đúng, không sai một lỗi chính tả nào mà những chi tiết của mẩu chuyện ông cũng nhớ rất đầy đủ. Vị bác sĩ vô cùng kinh ngạc vì trí nhớ lạ lùng của Tống Thượng Tiết. Ông liền tiếp tục trình bày với vị bác sĩ tâm thần: “Trong khi theo học ở trường tôi đã từng dịch sách “Đạo Đức Kinh” của Lão Tử, ngoài ra tôi cũng viết những tài liệu về lịch sử như “Cô nhi viện và Bần Cùng viện của Anh quốc”. Tôi cũng viết chú giải sách tiên tri Giê-rê-mi... Qua những bộ sách tôi dịch và viết, ông có thể khảo sát toàn bộ tư tưởng và sinh hoạt của não bộ thần kinh của tôi.” Sau khi nghe Tống Thượng Tiết trình bày về chính mình, vị bác sĩ trầm ngâm yên lặng. Ông chỉ bảo Tống Thượng Tiết nên nằm nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng. Riêng ông thì trong mình cảm thấy cơ thể mệt mõi rã rời. Đi vào soi gương thấy mặt mình xanh xao, gầy yếu. Ông lại có cớ để cám ơn Chúa vì Ngài cho có dịp nghỉ ngơi tĩnh dưỡng mà không phải tốn kém! Ông thầm hy vọng rằng sau một vài tuần sức khỏe sẽ trở lại. Thân thể sẽ tráng kiện, tinh thần sẽ minh mẫn lại và trở về hầu việc Chúa đắc lực hơn. Lúc đó ông mới nhớ lại ba cậu bé dễ thương với chữ REST trong tay mang ý nghĩa gì riêng tư đối với chính mình. Tất cả đều nhận mạng lệnh từ Đấng Chí Cao. Thật Ngài đã chuẩn bị cho ông được nằm trong bệnh viện để ngơi nghỉ.
Bệnh viện có chế độ chăm sóc và tiếp đãi rất chu đáo và hậu hĩ. Những thức ăn đầy dinh dưỡng, nhưng ông không ham thích chi những vật chất này. Điều khiến cho khổ tâm hơn cả là mọi người trong bệnh viên không đối xử với ông như một học giả có lý trí, suy nghĩ bình thường. Ngược lại họ xem ông như một người bị bệnh điên. Thậm chí họ xem ông như một phạm nhân mang trọng tội đang bị giam giữ. Tất cả những sinh hoạt của ông đều bị kiểm soát, và ông muốn làm điều gì đều phải được bác sĩ cho phép mới được. Những y tá “chăm sóc” ông thật là cẩn mật. Họ có thái độ thật lạnh lùng và nhìn ông với đôi mắt e dè.
Bác sĩ muốn khảo sát xem có những biến thái trầm trọng nào trong tư tưởng của Tống Thượng Tiết, nên họ đã đến phòng của ông trọ tại Union Theological Seminary để lục lọi tất cả những thư từ của những người thân gửi cho ông. Họ lục soát trong rương của ông và đọc tất cả những thư từ này. Tống Thượng Tiết thấy họ làm như vậy không khỏi cười thầm cho những bác sĩ thơ ngầy này: “nếu muốn khảo sát biến chứng tư tưởng của Tống này thì phải tìm đọc những thư từ do chính Tống này viết ra cho bằng hữu thân quyến, chứ sao lại đọc những bức thư từ ngoài gửi vào. Tác giả những bức thư đó đâu có tương quan gì đến biến thái tư tưởng của Tống bỉ nhân này đâu?” Dĩ nhiên, trong thời gian Tống Thượng Tiết ở trong bệnh viện, tất cả những thư từ của những thân nhân gửi cho ông đều bị các bác sĩ kiểm duyệt và chính họ trả lời hộ. Họ đã báo cho thân nhân biết là Tống Thượng Tiết bị bệnh tâm trí nặng nên không thể viết thư hồi âm được. Những sự kiện này đã làm cho Tống Thượng Tiết rất đau đớn. Thân thể, tư tưởng đều mất hết tự do.
Tầng nhà số 4 là dành cho những bệnh nhân trầm trọng. Sức khỏe ông đã tiến triển nhiều, tinh thần phấn chấn nên các bác sĩ đã dời ông qua dãy nhà số 6. Một tuần lễ sau lại dời đến dãy số 2. Theo nhận định của bác sĩ thì bệnh tình của Tống Thượng Tiết chỉ cần nằm bệnh viện 40 ngày là có thể xuất viện. Nhưng ngày tháng cứ trôi qua, hy vọng ra khỏi bệnh viện vẫn bặt tăm. Ông không còn kiên nhẫn được nữa, bắt đầu than phiền và nặng lời với cả các bác sĩ. Các bác sĩ tức giận và giam ông vào dãy nhà số 7, là nơi giam giữ những bệnh nhân nặng và hung dữ, đánh nhau và chửi bới nhau rất thô lỗ. Trong dãy nhà giam này thật là ồn ào, mất trật tự. Tống tiên sinh không một chút thì giờ yên tĩnh để nghỉ ngơi. Ông xin được dời qua dãy nhà số 3, nhưng lời thỉnh cầu của ông không được chấp thuận. Người nằm kế ông là một người điên rất nặng. Ông ta vốn là một người rất giàu có. Hành động của ông rất kinh sợ: Có những lúc ông khóc lóc thảm thiết và la lớn lên rằng: “Ngày trước tôi đã phạm tội thông dâm cùng người cô ruột”. Một lần nọ ông cắn lưỡi, máu chảy ra lênh láng. Các bác sĩ phải vào để cấp cứu, nhưng rồi ông cũng trở lại trạng thái bình thường. Tống Thượng Tiết lân la làm quen và hỏi ông cớ sự làm sao như vậy. Ông này trả lời rằng, ông đang bị lửa địa ngục thiêu đốt, đau đớn không thể chịu đựng được nên phải cắn lưỡi tự tử.
Chiều ngày 23 tháng 6, Tống Thượng Tiết thấy người thanh niên y tá “chăm sóc” và canh phòng ông, đang ngủ gục rất say. Nghĩ rằng đây là dịp may để thoát thân, nên ông đã nhảy từ cửa sổ hành lang và thoát chạy. Trốn ra khỏi bệnh viện, băng mình chạy được vài ba dặm và ẩn mình trong một đám lúa mạch, ông hy vọng sẽ chẳng có ai rượt đuổi và theo dõi mình, nhưng chỉ một lát sau thì ông đã bị một con chó cảnh sát phát giác và bị bắt lại, áp giải trở về bệnh viện!
III. TRƯỚC VÀ SAU KHI XUẤT VIỆN.
Các bệnh nhân ở dãy nhà số 7 luôn ngày đánh đấm nhau, chửi bới tục tằng, múa may, la hét ầm ĩ. Tống Thượng Tiết không có được một giây phút yên tịnh. Lại thêm bên cạnh luôn luôn có cảnh sát viên theo dõi. Ban đêm khi đi ngủ anh ta cũng nằm ngủ bên cạnh. Công việc hàng ngày là bệnh viện bắt ông phải đan rỗ rá, đan xong lại tháo ra đan lại. Suốt ngày phải làm cái công việc vô nghĩa và vô ích ấy, lòng ông thật là đau xót. Nếu một người không ở vào hoàn cảnh đó thì không thể nào thấu hiểu được tâm trạng ấy.
Vào một đêm trăng tàn cuối tháng, lòng ông nặng trĩu buồn đau, những nỗi nhớ quê hương, nhớ gia đình, cha mẹ cùng những người thân yêu. Ông cũng nghĩ ngợi đến quá khứ, hiện tại rồi tương lai... ý nghĩ đau buồn choáng ngập tâm tư. Tống Thượng Tiết có ý định kết thúc đời mình bằng con đường tự sát – thật là một ý nghĩ điên rồ. Trong giây phút tuyệt vọng đó, ông lại nghe được một tiếng nói êm dịu của Chúa: “Con bé mọn của Ta, Con đã được huyết của Ta chuộc về, sao lại còn có ý định từ bỏ cuộc sống mình dễ dàng như vậy?” Và ông đã trả lời với Chúa: “Chúa ôi, Con là một người hèn mọn. Con không còn hy vọng gì để có một ngày thấy lại trăng sao. Con muốn đền ơn cứu chuộc của Chúa mà không biết phải làm sao. Con thấy bây giờ sống không bằng chết, nên con muốn kết thúc cuộc sống mình”. Tiếng nói của Chúa lại tiếp tục khuyên nhủ: “Mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định. Nếu con nhẫn nại sau khi trải qua 193 ngày thì con sẽ hiểu được cách làm thế nào để vác thập tự giá mình mà theo Ta, đi con đường vâng phục Gôgôtha”. Thế rồi những vầng bóng tối trước mặt như dần dần tan biến, vinh quang của Chúa lại rạng ngời chung quanh con người của ông. Một tuần sau, ông khẩn khoản xin được dời qua dãy nhà số 6. Ông trình bày rõ là không phải vì thần kinh rối loạn mà ông đã “trốn trại”, nhưng vì tánh tình thích tự do hoạt động. Lần này lời thỉnh cầu của ông được chấp thuận, và ông được dời qua dãy nhà số 6. Người ý tá “chăm sóc” cho ông dần dần cũng được cảm hóa, không có thái độ lạnh lùng gay gắt với ông nữa. Anh ta chấp thuẩn giúp chuyển thư cho ông ra ngoài. Vui mừng, Tống Thượng Tiết vội vàng viết một bức thư gửi cho tòa Lãnh sự Trung Hoa tại Hoa Kỳ, báo cáo là ông ta vô cớ vì người Mỹ giữ trong bệnh viện tâm thần, mất tất cả quyền tự do ngôn luận và đi lại, xin tòa Lãnh sự can thiệp với chính phủ Mỹ cho trường hợp phi lý của mình.
Ngày 30 tháng 8, một người bạn cố tri của Tống Thượng Tiết, là Giáo sĩ, Tiến sĩ Rolling Walker, mới từ Âu Châu về nước. Walker nghe tin Tống Thượng Tiết bị vào bệnh viện tâm thần liền đến Nữu Ước thăm. Tống Thượng Tiết nhìn lại người bạn cố tri thì không cầm được nước mắt, và đã tuần tự kể hết mọi diễn biến rất chi tiết cho bạn. Giáo sĩ Walker an ủi bạn và lập tức xin gặp viên Y sĩ trưởng Giám đốc Bệnh viện. Vị Giám đốc này tỏ ý rằng, nếu giáo sĩ Rolling Walker chịu ký giấy bảo lãnh thì Tống Thượng Tiết sẽ được xuất viện. Trong lúc đó, vị y sĩ trưởng này đã nhận được lệnh của chính phủ Hoa Kỳ bắt phải điều tra nội vụ của Tống Thượng Tiết. Rất có thể đây là kết quả của sự can thiệp của Đại sứ quán Trung Quốc tại Hoa Kỳ. Tình hình có vẻ nghiêm trọng và nóng bỏng, viên y sĩ trưởng chưa biết phải giải quyết như thế nào thì có người muốn bảo lãnh cho Tống Thượng Tiết! Dịp may, đúng lúc kịp thì, Giáo sĩ Rolling Walker như một ân nhân cất đi cho viên Y sĩ trưởng một gánh nặng trách nhiệm. Tống Thượng Tiết được trả tự do ra khỏi bệnh viện tâm thần. Từ ngày nhập viện cho đến lúc xuất viện là 193 ngày không thừa, không thiếu một ngày. Đúng như Lời Chúa đã báo trước cho ông.
Sau này, hồi tưởng lại, Tống Thượng Tiết rút ra được hai bài học trong thời gian ở trong bệnh viện tâm thần: “Chúa muốn tôi luyện thành một con người biết vâng phục, với tánh tình thuần hậu. Ngày ông biết đầu phục Chúa trọn vẹn. Đó là ngày ông xuất viện, cũng là ngày mà Tống Thượng Tiết nhận được cấp bằng tốt nghiệp thần đạo đích thực từ chính nơi Đức Chúa Trời”. Chúa cũng dạy cho ông một bài học thật khúc chiết về Thánh Kinh. Trong bệnh viện ông đã sử dụng 40 nguyên tắc mà Chúa đã mặc khải cho ông. Trong thời gian này ông đã đọc được 40 lần toàn bộ Kinh Thánh. Lúc ấy ông mới thực sự nhìn nhận Thánh kinh quả là Lời Đức Chúa Trời và do chính Ngài mặc khải, do Chúa Thánh Linh cảm thúc để từng câu của Thánh Kinh được viết ra. Mỗi chương của Thánh Kinh được viết thành như là vì lợi ích thiết thực của đời sống tâm linh của chính ông.
Bước thứ nhất, Chúa cho Tống Thượng Tiết nhìn những bức tranh. Chúa chỉ cho ông những điểm quan trọng của từng lời. Những bài học thâm thúy sâu sắc như những từ ngữ: Tình yêu thương, đức tin, sự xưng công nghĩa v.v... đã dạy cho ông thấu triệt toàn bộ Thánh Kinh. Quả là một bài học vĩ đại mà ông đã học được từ nơi chính Chúa trong thời gian bị giam trong bệnh viện tâm thần. Trong tác phẩm “Lời Chứng Của Tôi”, Tống Thượng Tiết có viết rằng: “Chỉ vài ngày sau khi xuất viện tôi đã ghi chép tất cả những phương pháp đọc Kinh Thánh của Chúa Thánh Linh dạy tôi cách tỉ mỉ. Phần lớn những điều Chúa dạy dỗ tôi, tôi đều chia sẻ lại cho người khác. Nhưng cũng có những điều Chúa bảo tôi phải giấu kín, tôi đã vâng phục Ngài và cất tận đáy lòng những điều phải giữ kín. Ban đầu tôi ghi chép những bài học ấy bằng Anh ngữ, nhưng vì biết có người đã xem lén, nên sau tôi dùng Hán tự để ghi chép”. Sau khi ra khỏi bệnh viện tâm thần, tiến sĩ Walker mời Tống Thượng Tiết đến sinh quán của Tiến sĩ là Cincinati, và lưu lại đó với gia đình Walker một thời gian ngắn. Cùng lúc ấy Viện trưởng Chủng viện Union Theological Seminary sai người mang tất cả hành trang, vật dụng của Tống Thượng Tiết trao trả cho ông. Từ đó ông không còn một liên hệ nào với Chủng viện Union, mà sự thật thì Chủng viện này cũng đã xóa tên Tống Thượng Tiết ra khỏi danh sách nhà trường từ lâu. Chủng viện Union không được chia sẻ một chút vinh dự nào với “Ông Wesley” của Trung Hoa. Về sau một Giáo sư của Chủng viện còn tuyên bố rằng: “Chủng viện Union không có một chút liên hệ nhỏ nào với Tống Thượng Tiết”. Những mặc khải mà Tống Thượng Tiết nhận được từ nơi Chúa trong thời gian lưu tại bệnh viên tâm thần Bloomingdale thật là phong phú và quan trọng. Những điều Chúa đã chỉ trước cho ông, về sau từng hồi từng lúc tất cả đều được trở thành sự thật. Có những điều lúc còn trong bệnh viện ông chưa hiểu rõ được ý nghĩa, mãi về sau, khi những điều đó thực hiện ông mới vỡ lẽ và thấu triệt những điều dạy dỗ kín nhiệm đó. Ông cho biết cũng có những mặc khải ông không dám bày tỏ cùng ai. Vì nói ra những điều đó người đời hiểu lầm và cho là ông đã quá kiêu ngạo và tự tôn. Chính ông cũng sợ người ta tôn mình lên quá cao. Tống Thượng Tiết rất thấu hiểu tâm trạng của Phao-lô khi được Chúa nhắc lên từng trời thứ ba vày bày tỏ cho ông những mặc khải trong tương lai. Đến 14 năm sau Phao-lô mới dám nhắc lại! Tống Thượng Tiết cũng chung một tâm trạng với Phao-lô như thế.
CHƯƠNG 22
HÀNH TRÌNH HỒI HƯƠNG
(NGÀY 9 THÁNG 10 NĂM 1927)
(NGÀY 9 THÁNG 10 NĂM 1927)
Tống Thượng Tiết ở lại Cincinati khoảng một tháng, tấm lòng thanh lặng, đợi chờ tàu để trở về quê hương Trung Quốc. Trong thời gian đó có một Mục sư mời ông về nhà dùng cơm, sau đó xin ông cho nghe một vài bản dương cầm. Trong lúc ông chơi đàn có một cô gái vừa mù vừa điếc lại vừa câm ngồi gần bên, hai tay cô tựa trên cây đàn. Khi Tống Thượng Tiết đàn xong, vị Mục sư mời cô gái tật nguyền ấy chơi đàn. Cô ngồi vào đàn và dạo lại những bản mà cô vừa nghe, đáng không sai một nét và tiếng đàn cô cũng rất điêu luyện. Có một người đến nâng bàn tay của cô lên, cô cảm biết ngay người ấy muốn yêu cầu cô đàn bản nào. Điều này gây cho Tống Thượng Tiết một ấn tượng thật sâu sắc và đó cũng là một bài học rất lớn mà ông đã nhận được sau này. Ông biết chắc đây là bài học Chúa muốn ban cho mình. Nhiều lần ông tâm sự rằng: “Chúa muốn tôi trong những ngày sau rốt này cũng giống như cô gái có ba tật nguyền ấy: Tai không nên nghe, mắt không nên thấy và miệng không nên nói điều gì không xứng đáng". Muốn làm tôi tớ của Đức Chúa Trời thì thứ nhất, đôi mắt phải không nhìn thấy thế giới tài lợi, đôi tai không nghe những lời lăng mạ, sỉ nhục, và miệng không trả lời những câu châm chọc chế giễu của người khác. Nếu làm ngược lại thì không đáng vác thập tự giá mình mà theo Chúa. Chỉ có hai bàn tay là phải luôn luôn làm công việc Chúa muốn tôi làm để hoàn tất ý muốn tốt lành của Ngài. Chúa đã dạy tôi, cuộc sống thật sự của một tôi tớ Ngài là không còn nhìn thấy thế gian và chỉ chăm nhìn vào Ngài mà thôi. Đôi tai không cần phải nghe một thứ tiếng nào khác ngoài tiếng nói của Chúa. Trước những bắt bớ, sỉ nhục không cần phải biện bạch thanh minh, chỉ nên dùng môi miệng để truyền giảng Phúc âm của Chúa mà thôi. Đôi tay dành cho những cử chỉ, hành động để bày tỏ được lòng nhân từ của Ngài. Chúa cũng dạy tôi phải giống như Phao-lô là đóng đinh cùng với Chúa trên thập tự giá. “Hiện nay tôi sống không phải là tôi sống nữa, nhưng Chúa Cứu Thế sống trong tôi”.
Ngày 4 tháng 10, những ngày vào mùa thu, gió lạnh. Tống Thượng Tiết giã từ người bạn tri kỷ trong lúc hoạn nạn, qua Seatle để đáp tàu biển về nước. Tàu nhổ neo ngày 11. Sống, học trên đất Mỹ được 7 năm rưỡi. Bây giờ về nước với chìa khóa vàng, huy chương vàng, văn bằng cử nhân, cao học và tiến sĩ. Nhưng trong thâm tâm ông chỉ nhớ lại giấc mơ muôn người chết đuối trên biển cả, khải tượng diệu kỳ về 5 cái bánh và 2 con cá nuôi được hơn năm ngàn người no nê và khải tượng trong giấc mơ gần đây nhất còn như in trong trí nhớ. Ông thấy mình như nằm trong một cỗ quan tài, đang mặc mũ áo của ngày ra trường với bằng cấp tiến sĩ. Ông tuyên bố với thế gian và với chính mình: “Thế gian đối với tôi như đã chết rồi, tôi đối với thế gian cũng vậy”. Đó là lời kêu gọi thật tỏ tường của Chúa đối với ông, nhưng đồng thời thế gian cũng có lời mời gọi quyến rũ thật mãnh liệt. Nó cũng trưng bày ra những lý cớ rất “thuộc linh”: Bây giờ mình là một tiến sĩ hóa học có thực tài, hứa hẹn về sau trong lãnh vực này sẽ có danh tiếng trên trường quốc tế. Trên nền tảng đó phải chăng là tiếng nói mạnh mẽ của Phúc âm. Nếu theo con đường này, không những về học vấn sẽ thăng tiến và cống hiến nhiều cho quốc gia dân tộc, đồng thời cũng tạo nên một nền tài chánh vững vàng mạnh mẽ cho Hội Thánh. Hơn nữa đối với người cha, suốt đời là một người Truyền đạo nghèo khổ, nay đã về già, cũng có thể hưởng được những ngày bóng xế phúc hạnh từ đứa con công thành danh đạt, và mình cũng trả được cái ơn sinh thành dưỡng dục cho song thân. Như vậy đó khôngn phải mình đã một lúc thực hiện được nhiều việc tốt lành sao? Những tranh chấp tâm linh tế nhị này đeo đuổi Tống Thượng Tiết suốt cuộc hành trình hồi hương. Càng gần đến địa phận Trung Quốc, cuộc tranh chấp lại càng thêm ác liệt. Ông đã dâng tất cả khả năng của mình trên bàn thờ Đức Chúa Trời: “Chẳng lẽ Chúa không dùng khả năng của mình để làm vinh hiển danh Ngài sao? Chúa không có một đường lối nào khác đối với ta sao? Nhưng rồi một lập luận của Thánh Kinh đã đánh đổ những lập luận quanh co của chính tôi... Những ưu điếm ấy này tôi coi là điều thất bại; vì tôi hoàn toàn đặt niềm tin vào Chúa Cứu Thế. Vâng, tất cả những điều ấy đều trở thành vô nghĩa nếu đem so sánh với điều quý báu tuyệt đối này: Biết Chúa Giê-xu là Cứu Chúa tôi. Tôi trút bỏ tất cả, kể như vô giá trị, cốt để được Chúa Cứu Thế...” (Philíp 3:7,8 (BDY)). Tống Thượng Tiết noi gương Phao-lô đã bỏ hết mọi danh lợi thuộc về thế gian. Khi con tàu gần đến lục địa Trung Hoa, ông lấy từ đáy rương chìa khóa vàng, huy chương danh dự... quẳng tất cả xuống biển. Câu chuyện đáng lý phải được mọi người biết này, thì ông đã không ghi lại trong quyển tự truyện của đời mình. Chỉ đề cập đến có một lần trong một trại bồi linh ở Thượng Hải. Ông chỉ giữ lại hai mảnh bằng tiến sĩ với ý định sẽ dâng lên cho song thân hầu cho cha mẹ vui lòng. Năm 1928 trong một bài giảng tại Hội Thánh Phước Châu, Tống Thượng Tiết có nhắc đến hai văn bằng tiến sĩ đó, ông cũng chỉ tặng lại cho mẹ mà thôi. Mục sư W.B Cole cũng xác nhận rằng, ông đã từng nhìn thấy mảnh bằng đó được đóng khung treo trong nhà Tống Thượng Tiết, và khi ông ghé mắt nhìn xem thì Tống Thượng Tiết nói rằng: “Những loại rơm rác này không dùng chi cho tôi được!”
CHƯƠNG 23
VỀ LẠI HƯNG HÓA
I. VỀ ĐẾN NHÀ
Vừa đến Thượng Hải, Tống Thượng Tếit liền lột bỏ âu phục và mặc lại chiếc áo dài vải thô, đáp tàu nhỏ về nhà ngày 8 tháng 11 năm 1927. Về lại cố hương Hưng Hóa sau 7 năm cách biệt, gặp lại những người thân yêu, mừng mừng, tủi tủi bắt tay nhau, ông không dám giáp mặt ngay người cha già mòn mõi nhớ con đi xa, nay có vẻ ốm yếu hao gầy, trên trán cụ in hằn thêm nhiều vết nhăn của tháng năm mong đợi. Cả gia đình đều rất vui sướng đón mừng ông trở về. Cụ Mục sư Tống Học Liên gặp con và mở lời: “Con về lại quê hương là một điều đáng mừng, vậy chúng ta nên lập một buổi cầu nguyện ngợi khen và tạ ơn Chúa”. Cụ nấu hủ tíu Hưng Hóa cho con điểm tâm tiếp: “Bã đã già, ba mong con về đây để làm một giáo sư”. Tống Thượng Tiết trả lời: “Thưa cha, con đã chết rồi, người về đây không phải là con nữa.” Cụ rất đỗi ngạc nhiên: “Chẳng phải là Tống Đại Đầu, con ta, về đây thì là ai? Chẳng nhẽ lại là ma?” Ông thưa lại: “Thưa cha: Chúa muốn con đi làm người Truyền đạo cho Ngài.” “Nếu con muốn làm một Mục sư thì hà tất phải sang Mỹ học làm gì?” Cụ hỏi các con Thượng Hòa, Thượng Bình, Thượng Chính, Thượng Trực nghĩ sao, thì họ đều trả lời: “Người ta đồn rằng, anh đã bị bệnh thần kinh nặng thật không ngoa! Anh là một người đang sống, sao lại bảo rằng mình đã chết rồi? Như vậy chẳng hay ho, may mắn gì, lại còn về nước để đi làm người Truyền đạo, như vậy thì đi du học làm gì cho khổ thân”. Mọi người đều không vui vì thái độ của Tống Thượng Tiết, lặng lẽ bỏ đi nơi khác. Chỉ còn lại một mình với mẹ, bà an ủi Tống Thượng Tiết: “Cha và các anh em con đều mong con về để nở mặt nở mày gia tộc, tổ tiên. Sao con lại nói những lời khiến cả gia đình buồn lòng?” Thượng Tiết ôn tồn đáp lời mẹ: “Chúa muốn con làm người Truyền đạo cho Chúa.” Thấy thái độ cương quyết bà cũng tỏ vẻ buồn lòng, nhưng không muốn nói gì thêm nữa.
Đêm hôm ấy Tống Thượng Tiết thấy lòng mình bồi hồi dao động, tiếng Chúa lại đến nhắc nhở: “Nếu con yêu cha mẹ hơn Ta, thì không đáng làm môn đồ Ta; nếu con quả thật yêu Ta thì nên mang tất cả những gì con có giúp cho cha mẹ, anh em con, còn con thì theo ta”. Tống Thượng Tiết vâng lời Chúa đem số tiền 1.700 Mỹ kim dành dụm được khi đi làm trên đất Mỹ, trao cho cha và nói rằng: “Thưa cha số tiền này con dành dụm để cho các em làm học phí”. Ông cũng mang áo quần, vật dụng cùng sách vở của mình trao hết cho các anh chị em. Riêng mảnh bằng tiến sĩ thì ông biếu cho mẹ. Như vậy Tống Thượng Tiết chỉ còn lại một thân thể, một con người “trần trụi” nhưng đã được mua chuộc bởi huyết của Cứu Chúa Giê-xu. Đó cũng là vật duy nhất bắt buộc phải dành lại để làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời.
Mẩu đối thoại trên đây của gia đình họ Tống trong ngày người con đi du học xa về cũng co nguyên nhân sâu xa của nó. Vốn là những ngày Tống Thượng Tiết bị nhốt trong bệnh viện tâm thần, nhân viên của chủng viện Union khi nhận được thư của gia đình ông thì họ đã tự ý viết thư trả lời và nói vì lý do bị loạn thần kinh rất nặng, ông đưa vào dưỡng trí viện chữa trị nên không thể trả lời thư cho gia đình được. Gia đình bên kia bờ Thái Bình Dương phải tin đó là sự thật. Nên khi Tống Thượng Tiết về nhà, cha mẹ cũng như mọi người trong gia đình cũng bán tính bán nghi. Nhưng sau một vài tuần lễ quan sát sinh hoạt, lối sống của ông thì không thấy có dấu hiệu gì là của một người bị loạn thần kinh cả. Họ chỉ thấy một năng lực mới và một nếp sống tâm linh mới đã nhận được từ Thiên Thượng.
Một tháng sau khi hồi hương, cụ Mục sư Tống Học Liên khuyến khích con đến các Hội Thánh làm chứng các ơn phước và những việc vĩ đại kỳ diệu mà Chúa đã làm trên cuộc đời mình. Ngôi trường ngày xưa Tống Thượng Tiết đã theo học tại Hưng Hóa, nghe tin ông đã hồi hương với cấp bằng tiến sĩ khoa học, thì rất lấy làm vinh dự. Họ chuẩn bị một đại hội thật lớn để chào mừng người cựu học sinh của trường nay đã trở thành một tiến sĩ. Những thầy giáo cũ cũng như tất cả thính giả đều lấy làm ngạc nhiên vì không nghe Tống Thượng Tiết nói chi về khoa học, lòng yêu quê hương tổ quốc; ông cũng không kể chi đến những chuyện xa lạ trên đất nước Hoa Kỳ văn minh, mà họ chỉ nghe ông nói về 5 cái bánh và 2 con cá là bài hóa học lớn nhất trên đời mình. Một thời gian ngắn sau thì ông được mời làm giáo viên trường trung học Hưng Hóa. Tuy biết chắc chắn rằng mình đã được Chúa kêu gọi đặc biệt để làm người Truyền đạo rao giảng Phúc âm cho Chúa. Hiện thời chưa có một lối đi nào rõ ràng, thêm vào đó sự khó khăn chật vật của gia đình về tiền bạc. Phí tổn cho các em trong khi theo học ở đại học là cả một gánh nặng cho hai già, nên Tống ông phải nhận dạy một lúc tại hai trường nam và nữ trung học Hưng Hóa. Tống Thượng Tiết dạy hai môn Hóa Học và Thánh Kinh, mỗi môn 4 giờ. Một tuần ông dạy 3 ngày, 4 ngày còn lại lo hầu việc Chúa. Trong thời gian đó quân phiệt Trương Tác Lâm ở Đông Bắc cũng mời ông làm giám đốc cơ xưởng hóa học chất nổ và hứa trả lương thật hậu hỉ, nhưng ông đã dứt khoát từ chối.
II. LẬP GIA ĐÌNH
Lúc còn thơ ấu thì Tống Thượng Tiết đã được cha mẹ đính hôn với một cô gái họ Du. Theo tập tục của người Trung Hoa, lý ra họ đã thành lập gia đình với nhau khi vừa hết tuổi vị thành niên, nhưng vì việc học hành còn dang dở, hơn nữa ông còn ở nước ngoài xa xôi trăm nghìn dặm nên không thể và cũng không có dịp cưới xin, nay đã thành đạt về nước thì việc cưới hỏi là việc tất nhiên.
Mùa xuân năm 1928 tiến sĩ Tống Thượng Tiết cùng cô dâu Chu Cẩm Huê đã đính ước trăm năm, và hôn lễ được cử hành trong nhà thờ Giám lý Hưng Hóa. Câu chuyện hôn lễ này không được ông nhắc đến trong quyển tự truyện của mình. Và cuộc sống lứa đôi của gia đình ông cũng không hề được nhắc đến. Người viết quyển sách này chỉ biết được một mẩu đối thoại giữa ông với ông bà giáo sĩ giáo hội Giám lý Francis P.Jones và một thanh niên Trung Hoa tại gia đình của hai vị giáo sĩ trên. Giáo sĩ Francis hỏi thanh niên Trung Hoa rằng: “Anh đã lập gia đình chưa?” “Thưa, chưa”. Thanh niên đáp. Tống tiên sinh tiếp lời thanh niên: “Tôi cũng ước mong là chưa lập gia đình”.
Lập gia đình có hơn 15,16 năm nhưng thì giờ sống với gia đình thật là hiếm hoi. Theo như ông thường kể lại, một năm mười hai tháng thì ông đã ra đi hơn mười một, chỉ còn khoảng một tháng dành cho gia đình. Những thói hư tật xấu nho nhỏ của ông người ngoài ai cũng biết, có lẽ vì cô vợ trẻ họ Du. Gia đình trẻ nào mà không có những lần cãi vã nhau, âu đó cũng là chuyện bình thường. Sau khi cưới nhau được mấy năm thì tiểu gia đình này dời về Thượng Hải. Một người kể lại một lần tình cờ đến thăm Tống Thượng Tiết đã nghe vợ nói rằng: “Anh ở nhà lúc nào cũng có thể nổi giận, thôi thì anh nên đi ra ngoài đi cho khỏe!”
III. BẮT TAY VÀO PHỤC VỤ CHÚA
Từ năm 1928, ngoài việc dạy học, Tống Thượng Tiết dồn tất cả thì giờ còn lại vào việc dạy Thánh Kinh và truyền giảng Phúc Âm lộ thiên, vị tiểu Mục sư đã từng nổi danh cả một thời dĩ vãng, nay càng được nhiều người hâm mộ. Cùng lúc ấy, đoàn truyền giáo Bê-tên ở Thượng Hãi cũng đến Tiên Du cách Hưng Hóa 80 dặm để tổ chức một Đại Hội Phấn Hưng. Chúa thăm viếng công việc làm của họ. Ngay lúc ấy, Tống Thượng Tiết cũng đang truyền giảng tại vùng Tiên Du, không hẹn mà gặp. Lửa Thánh Linh thăm viếng các tín hữu của các Hội Thánh ở nơi ấy. Lửa phấn hưng bừng bừng cháy lên. Đây là lần đầu mà ông tiếp xúc với đoàn truyền giáo Bêtên. Đoàn trưởng đoàn truyền giáo này là Mục sư Kế Chí Văn, cùng trọ chung phòng với ông. Ông được mời chủ tọa các buổi thờ phượng của các vị Mục sư, Truyền đạo trong hơn một tuần lễ. Một hôm sau khi chia sẻ Lời Chúa xong kêu gọi các vị tôi tớ Chúa lên cầu nguyện. Có hơn 100 vị nghe lời kêu gọi lên cầu nguyện và chính ông cũng cùng chung lên với những người ấy, hành động đó cho chúng ta hiểu rõ được tấm lòng khiêm nhường của ông.
Trong sự thờ phượng, Tống Thượng Tiết bài xích những người đã là con cái Chúa mà còn vái lạy trước hình ảnh những người đã quá cố. Ông bài bác việc thờ cúng đó trong phạm vi những tín hữu Cơ đốc, vì họ đã được ánh sáng của chân lý Thánh Kinh soi dọi, đã ý thức được thờ phượng thần tượng là tội mà cứ vấp phạm. Nhưng sự việc này lại đến tai đảng bộ Quốc Dân Đảng, họ cho rằng Tống Thượng Tiết là một phần tử phản động, nên ra lệnh truy tầm, nhưng Chúa đã khải thị cho biết trước một đêm nên ông đã rời khỏi Tiên Du mà trở về Hưng Hóa. Vì được chỉ thị của trung ương nên đảng bộ Hưng Hóa làm áp lực với nhà trường buộc phải cách chức giáo sư của Tống Thượng Tiết. Thật ra thì ban giám đốc của trường vốn đã đố kỵ và ganh ghét vì ông rất được lòng quý mến của học sinh, nay vừa được chỉ thị của đảng bộ nên họ lập tức chấp hành ngay.Họ bén xúi dục một số học sinh trong trường chống đối thầy giáo Tống, gây nên một bầu không khí chia rẽ. Một hôm các học sinh này họp nhau lại gây nên một tinh thần căm hờn giả tạo, kéo nhau đến phòng Tống Thượng Tiết gây sự, lấy cớ là thầy đã bôi nhọ danh dự họ giữa dân chúng vì đã tuyên bố rằng: “Các nam sinh thì chỉ thích hóa học, không giống như các nữ sinh vừa thích hóa học vừa thích học Thánh Kinh”. Họ muốn ra tay hành hung ông. Nhưng bỗng đâu trời nổi cơn giông tố ầm vang rền và mưa đá lớn ào ào đổ xuồng, những viên đá lớn rơi cả vào phòng học; đám học sinh hoảng hốt kêu la, chạy tán loạn, lo đi đóng các cửa sổ để tránh mưa đá. Tuy Chúa đã dùng sấm chớp mưa đá lớn để giải cứu Tống Thượng Tiết, nhưng ông cũng hiểu chắc Ngài đã dùng hoàn cảnh và người khác để thôi thúc ông chỉ chuyên tâm lo hầu việc Chúa. Ông đã quyết định theo con đường đầu phục trọn vẹn nên đã đệ đơn xin từ chức giáo học.
Trong lúc đó, một số bạn trẻ đã được Chúa thăm viếng trong kỳ đại hội phấn hưng vừa qua, nên ông đã tìm thêm được một số anh em đồng tâm đồng chí giúp đỡ và tổ chức được một đoàn truyền giáo nho nhỏ đến hoạt động tại làng Bình Hải. Ngày đầu têin đoàn đến làng Bình Hải với ý định chỉ lên núi cùng nhau cầu nguyện mà thôi, nhưng khi về đến địa điểm chọn làm nơi truyền giảng thì đã thấy tín hữu cũng như thân hữu ngồi chật kín cả hội trường. Đoàn đã không bỏ qua dịp tốt, đã truyền giảng một bài, Chúa đã thăm viếng ngay đêm đó. Sau bài giảng, nhiều người khóc lóc ăn năn, xưng tội và cầu nguyện tin nhận Chúa. Mục sư quản nhiệm Hội Thánh địa phương họ Lưu, vợ bị bệnh tim nặng, hôm ấy bị ngất xỉu tại hội trường, tưởng như đã qua đời hẳn rồi, ông than phiền cùng Chúa: “Tại sao Chúa để con đi vào con đường đau thương quá thể thế này?” Tống Thượng Tiết an ủi: “Bà không đến nỗi phải qua đời đâu”. Rồi đến bên giường cầu nguyện cho bà. Mọi người trong đoàn truyền giáo đều an ủi ông, còn ông thì đã nghĩ đến việc lo mai táng cho vợ. Ngày hôm sau, đoàn truyền giáo vẫn lấy đức tin ra ngoài tổ chức buổi truyền giảng lộ thiên. Trong nhật ký của Tống Thượng Tiết có ghi rằng: “Khoảng trống ngoài thiên nhiên là hội trường lý tưởng của chúng tôi và những tảng đá nhô lên cao là những toà giảng thiên nhiên rất đẹp của chúng tôi”. Buổi truyền giảng lộ thiên ấy thu hút số khán thính giả rất đông và Chúa cho kết quả rất đáng khích lệ. Trên đường về, Tống Thượng Tiết nói với mọi người trong đoàn truyền giáo rằng: “Chắc chắn không còn điều gì nguy hiểm cho bà Mục sư nữa”. Quả nhiên, về đến nhà thấy bà đã hồi tĩnh và đang nằm tịnh dưỡng trên giường. Do đó làng Bình Hải trở nên một nơi mang lại thắng lợi đầu tiên cho đoàn truyền giáo nhỏ này.
Sau đó đoàn đi đến hoạt động tại những nơi khác như Đại Cam Sư, Tĩnh Đức và Đông Lệ. Để kết thúc vòng truyền giáo này họ trở về Hưng Hóa. Về đến nhà, Tống Thượng Tiết tổ chức ngay một lớp Thánh Kinh ngắn hạn tám ngày tại Thiên Mã Sơn. Có khoảng 50 thanh niên theo học. Mỗi ngày họ lên núi học Thánh kinh và sau khi được huấn luyện họ trở về Hội Thánh địa phương của mình trong vùng Hưng Hóa và Tiên Du để phục vụ. Giáo hội Giám lý tại Phước Châu nghe và thấy những việc làm của Tống Thượng Tiết thì biết rằng Chúa đã cùng làm việc với ông. Vị chủ nhiệm đặc trách truyền giáo của giáo hội là Mục sư Frank T.Kariche có ý định đi quan sát những công việc của đoàn truyền giáo Tống Thượng Tiết, nên ông Kariche đã mất hai ngày đường bộ và đường sông để đến được nơi đoàn truyền giáo đang hoạt động. Ông mục kích tận mắt lối sống của họ, chẳng những họ ăn uống đơn sơ kham khổ mà lối sống hiệp một, đồng tâm nhất trí hầu việc Chúa của họ thật đáng quí. Năm mươi người trẻ tuổi cộng sự ấy nhất tề tuân theo sự hướng dẫn và lãnh đạo của Tống Thượng Tiết. Như ngày xưa Timôthê và Sila đã thuận phục Phao-lô vậy.
Khi trở về lại Phước Châu Mục sư Karich có ghi lại những ấn tượng về đoàn truyền giáo như sau: “Những chương trình truyền giảng của ông Tống Thượng Tiết là những công trình phố hợp chặt chẽ giữa những bản Thánh Ca và bài thuyết giảng giáo lý. Những bài hát của họ là những đoản ca do chính Tống Thượng Tiết soạn dùng để nhấn mạnh đến chủ đề và nội dung của những bài thuyết giảng. Những đề tài xoay quanh sự hiện hữu của Thượng Đế, Tình yêu thương của Ngài, Giê-xu là Chúa Cứu Thế, tội lỗi, sự ăn năn, niềm tin, cuộc sống của một Cơ Đốc nhân... Phong cách thuyết giảng của Tống Thượng Tiết rất giống với Billy Dunday, không bị gò bó trong phạm vi của bục giảng mà ông thường đi tới đi lui, có khi vượt qua khỏi cả bàn Tiệc Thánh, xuống đứng giữa hội trường nhìn trái nhìn phải, vừa đi vừa giảng rất tự nhiên, nhiều khi chỉ thẳng vào một thính giả như trực tiếp nói riêng với người ấy... Thường thì ông trở về bục giảng, trong tư thế rất trang nghiêm để kết thúc bài thuyết giảng của mình. Kết luận xong là kêu gọi thính giả tiếp nhận Chúa. Số người lên xưng nhận Giê-xu là Chúa Cứu Thế, thường rất đông”
CHƯƠNG 24
HẦU VIỆC CHÚA TẠI QUÊ HƯƠNG
(1928-1929 )
(1928-1929 )
Mùa hè năm 1928, Tống Thượng Tiết khao khát có thì giờ và cơ hội để dưỡng linh, vì ông nghĩ rằng một người truyền đạo của Đức Chúa Trời không thể nào thiếu sự nghỉ ngơi và bồi dưỡng tâm linh. Chúa đã mở đường cho ông và đưa ông đến trại hè Cô-lĩnh thuộc tỉnh Cửu Giang (Cô-lĩnh là một nơi nghỉ mát nổi tiếng của Trung Hoa). Mục đích Tống Thượng Tiết đến trại hè là để được nhận, nên ngoại trừ một lần được mời làm chứng về việc Chúa đã kêu gọi ông đi hầu việc Ngài, thì ông không nói thêm một điều gì khác. Dự trại hè xong, về lại Hưng Hóa, ông thấy Chúa Thánh Linh đã không ngừng thăm viếng công việc Chúa. Người em út của ông cũng được Chúa thăm viếng và rất nóng cháy nên đã tổ chức một đội ngũ hướng đạo sinh Cơ đốc. Chúa hướng dẫn họ đến gần những hí trường của các làng mạc xa xôi hẻo lánh, tại đó tham dự những chiến trận thuộc linh đối kháng với ma quỉ. Chúa đã vùa giúp họ, nên khiến nhiều người đã rời các cuộc vui tại các kịch trường để đến nghe những ca khúc, những bản nhạc tôn vinh, ca ngợi Chúa của đoàn hướng đạo Cơ đốc này. Họ đã dùng những nhạc khí Trung hoa để hòa tấu với những lời làm chứng về Chúa tuy đơn sơ nhưng chân thành tận đáy lòng họ. Họ hát và hướng dẫn quần chúng hát những đoản ca do Tống Thượng Tiết soạn trong khóa học Thánh Kinh trên đỉnh núi Thiên Mã. Lời của những bài đoản ca này được trích ra từ Thánh Kinh. Chẳng bao lâu những bài hát này trở nên thịnh hành trong các làng mạc. Những em bé chăn trâu, những thôn nữ trong làng đều biết hát những bài ca tôn vinh Chúa trong khi làm việc.
Cuối thu năm ấy (1928) Tống Thượng Tiết cùng với một giáo sĩ tây phương và một anh em khác tổ chức một đoàn truyền giáo ba người hoạt động chung quanh vùng. Tuy có ít người, mỗi nơi chỉ lưu lại vài ngày, nhưng được Chúa Thánh linh thăm viếng đặc biệt. Đến nơi nào cũng được nồng hậu tiếp đón và nhất là Chúa cho những kết quả truyền giảng thật là tốt đẹp. Nhưng tiếc thay các Hội Thánh địa phương thiếu nhân lực nên không duy trì được ngọn lửa phấn hưng ấy lâu. Kinh nghiệm qua những chuyến truyền giáo này, ông đưa đến một đề nghị rất thiết thực: “Mong rằng các Thần học viện cũng như các trường Kinh Thánh trong nước không những chỉ đào tạo ra những sinh viên với mảnh bằng tốt nghiệp để đi đến các Giáo hội tìm một công việc làm, mà phải đào tạo thành một người truyền đạo có tầm vóc thuộc linh để phục vụ Chúa”. Theo quan điểm của Tống Thượng Tiết thì các Thần học viện không nên trao văn bằng cho sinh viên tuỳ theo thành tích học vấn của họ, vì như thế có khác chi những trường học của thế gian? Mà chỉ trao văn bằng tốt nghiệp cho những sinh viên có sự sống thật của Chúa Cứu Thế. Tống Thượng Tiết tin chắc rằng tình trạng khủng hoảng thuộc linh của Hội Thánh Trung Quốc không phải vì thiếu những người đi học thần đạo ra làm truyền đạo, mà chỉ thiếu những người truyền đạo thật sự có sức sống thuộc linh để hầu việc Chúa. Người truyền đạo của Đức Chúa Trời bắt buộc phải được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Người truyền đạo của Đức Chúa Trời không đặt nặng vấn đề tri thức hiểu biết của thế gian mà điều quan trọng là có sức sống mới thuộc linh hay không. Người truyền đào có sức sống thì kết quả của việc làm rất rõ ràng như vàng bạc châu báu so với cỏ khô, rơm rác. Những nhận định trên của Tống Thượng Tiết rút ra từ kinh nghiệm qua những chuyến truyền giảng tại các Hội Thánh địa phương. Chỉ có những Hội Thánh có những tôi tớ Chúa thật sự có sự sống thuộc linh mới duy trì được ngọn lửa Thánh Linh sau khi một sứ giả phấn hưng được Chúa sai phái đến.
Tháng Giêng năm 1929 do lời mời của các Hội Thánh miền nam tỉnh Phước Kiến, Tống Thượng Tiết đã đến vùng trung châu để chủ tọa những buổi bồi linh và truyền giảng. Số người đến tham dự mỗi ngày trung bình khoảng 7,8 trăm. Sau đó ông cũng đến truyền giảng ở Hạ Môn, Tuyên Châu. Chúa có thăm viếng đặc biệt, làm nhiều phép lạ, số người tin nhận Chúa ngày càng gia tăng. Ông có cảm tưởng rằng Chúa đã cho phép rời khỏi Giêrusalem (các làng mạc và địa phương Hưng Hóa) để đi đến Samari là tỉnh thuộc Phúc Kiến và sau đó là chu du khắp thiên hạ. Đây là thời điểm “đi khắp thế gian giảng Tin Lành...” nhưng sao Chúa vẫn gọi ông về Hưng Hóa để chờ đợi ý chỉ của Ngài. Về Hưng Hóa ông thành lập một trường Kinh Thánh có 5 thanh niên theo học. Một mặt họ cùng nhau đi truyền giảng ở những vùng lân cận, về “trường” thì học hỏi nghiên cứu thêm Lời Chúa. Giai đoạn đầu, trường sinh hoạt tại đảo Nhật Nam, nơi đây họ gặp được ba chị em thật lòng kính yêu Chúa. Do tình yêu Chúa thúc giục, ba chị em này sau khi học xong trung học đã bỏ quê hương, xa lìa mọi cám dỗ của trần gian, khước từ tất cả những mời gọi của vật chất để đến một nơi như một hoang đảo xa xôi hẻo lánh sống hy sinh kham khổ.
Qua tinh thần phục vụ của họ cũng như những bông trái gặt hái được Tống Thượng Tiết đã rút ra được bốn bài học lớn: Thứ nhất là niềm tin; thứ đến là hy sinh chính mình để làm việc cho Chúa Giê-xu; thứ ba là thật sự có một tình yêu linh hồn đồng bào; và cuối cùng là có một sức chịu đựng mọi gian khổ cách bền bĩ. Họ là những người gieo giống và đã tạo nên một đồng lúa chín vàng tại hải đảo Nam Nhật để rồi Chúa dùng bàn tay của những người thuộc trường Kinh Thánh đến gặt, mang những bó lúa vào kho cho Chúa. Rất nhiều người và gia đình tại hải đảo xa xôi quê mùa này đã đập vỡ các thần tượng bằng đất, và chỉ các tượng bằng gỗ thì làm củi đun bếp!
Địa điểm thứ hai họ đến hoạt động là Phượng Tích, nơi chôn nhau cắt rốn của Tống Thượng Tiết. Lối làm việc của đoàn truyền giáo và những sinh viên thần đạo là: hễ thấy những đôi vợ chồng nông dân cày cấy dưới ruộng sâu, thì ông cũng như môn đệ của ông cũng xuống cấy cày với họ để được gần gũi và cá nhân chứng đạo cho họ trong khi làm việc. Như vậy, đêm đến các nông phu đó sẽ vui vẻ nhận lời đến nhà thờ để nghe truyền giảng.
Sau đó Đoàn Truyền giáo xuống làng Long Huê. Trong vài ngày đầu những người đến nghe có thể đếm được trên đầu ngón tay, nhưng sau đó Chúa cho những phép lạ diệu kỳ xảy ra. Có những người được thiên sứ đến trong giấc mơ chỉ trích những lỗi lầm và họ truyền miệng với nhau nên số người kéo đến nhà thờ ngày càng đông đến đỗi hội trường không còn một chỗ chen chân.
Sau Long Huê, Đoàn Truyền giáo đến hoạt động tại làng Hà Đình, nơi đây việc truyền giảng gặp khó khăn lạ thường. Sau khi họ hiệp ý cầu nguyện tìm biết ý Chúa thì mới thấy rõ nguyân nhân là Hội Thánh nơi đây có một số trữ kim khá lớn, sau những chi tiêu của hội còn dư nhiều tiền thì Mục sư và ban quản trị đem chia cho các tín hữu giống như chia phần thịt cúng vậy. Những tín hữu lâu năm thấy không cần phải nương cậy nơi Chúa nữa, còn số tân tín hữu thì vào hội để được dự phần chia tiền. Lẽ dĩ nhiên sự phân chia khó được phân mình nên gây nhiều chia rẽ trong giáo hội. Sau những công việc làm của các sinh viên thần đạo, tấm lòng cứng cỏi của các tín hữu tại nơi đó như bị gươm thiêng của Thánh Linh xuyên thủng nên họ kêu lên những lời ăn năn hối cải rất bi ai thống thiết, và Chúa đã tha thứ đổ phước xuống trên họ.
Từ Hà Đình đoàn truyền giáo xuống Phong đình, đoàn lưu lại đây khoảng mươi ngày rồi đến Huỳnh Thạch. Lúc ấy vào giữa mùa hè, tại địa phương này đang bị một trận dịch hạch rất lớn, số tín hữu cũ và mới đến nghe truyền giảng rất ít, nên các sinh viên trong đoàn phải ra đứng ngoài đường để mời khách bộ hành qua lại vào nghe truyền giảng Phúc âm. Những người được mời vào, thường là những người vừa mới đi mai táng người thân mới qua đời từ nghĩa trang về, khi họ nghe về Tin Lành, nhận thức được đời người thật phù du ngắn ngủi nên họ rất vui mừng tiếp nhận sự sống đời đời từ nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Những Hội Thánh địa phương vừa nêu trên, phần lớn không mấy chú trọng đến phần tăng trưởng tâm linh bề trong của Cơ đốc nhân và sự phấn hưng của Hội Thánh mà chỉ chú trọng đến những công việc phụ thuộc như bài trừ nạn mù chữ, bình dân giáo dục, những công việc có tính cách xã hội và họ còn phải báo cáo thành tích kết quả về tổng hội trung ương. Nên khi thấy những việc làm có tính cách thuộc linh của những sinh viên thần học của Tống Thượng Tiết họ thường bày tỏ thái độ tiêu cực chống đối. Ông cũng như các anh em cảm thấy thật nản lòng, nhưng họ vẫn được Chúa thúc giục nên vẫn cứ tiếp tục tiến bước đến những nơi khác rao giảng danh Cứu Chúa Giê-xu. Đoàn truyền giáo đến một nơi gọi là Mộ Bố là một vùng đất cát mênh mông, đất thì rộng nhưng dân cư thưa thớt, đi đến nơi nào cũng thấy còn lại những dấu vết của chiến tranh. Cũng vì dân làng trải qua nhiều cuộc chinh chiến tàn khốc, nên những vết thương đau đớn như vẫn chưa nguôi ngoai. Dân làng này tiếp nhận tình yêu của Chúa Cứu Thế Giê-xu dễ dàng hơn những nơi khác. Làng Thuận Xương cũng ở trong tình trạng tương tự, nhà thờ thì bị quân đội chiếm đóng hơn nửa năm qua. Khi đoàn truyền giáo của Tống Thượng Tiết đến với dân làng thì cũng là lúc quân đội mới rút khỏi nhà thờ.
Từ Thuận Xương, Đoàn Truyền giáo băng qua Dương Khẩu, đến một nơi gọi là Diên Bình và họ tổ chức một đại hội tại đây. Các nam nữ sinh viên thần học các nơi nghe tin, liền qui tụ về để nghe những sứ điệp bồi linh và truyền giảng. Danh Chúa rất được vinh hiển qua kỳ đại hội này. Những lời ngợi khen Chúa phát ra tự đáy lòng những thanh niên thực tâm ăn năn hối cải. Nhưng Satan cũng giận hoảng phá quấy rất hung hăng. Những điều kỳ diệu trong đại hội được đồn đãi ra trong dân chúng rất nhanh, bộ chỉ huy Quốc Dân Đảng địa phương nghe được, liền cho người giả dạng thân hữu vào trong đại hội để nghe truyền giảng, trong khi diễn giả đang rao giảng Lời Chúa thì họ cố tình làm ồn ào gây huyên náo để phá hoại. Tống Thượng Tiết biết rất rõ dụng ý gian ác đó, nhưng ông vẫn một lòng nhờ cậy vào Chúa, vẫn một ngày hai lần lên tòa giảng lớn tiếng truyền rao Phúc âm cứu rỗi của Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Có một cô kia vốn là một sinh viên thần đạo, sau khi thật sự ăn năn tin nhận Chúa, cô dùng đủ mọi cách để mời cả gia đình đến nghe truyền giảng Phúc âm. Nhưng đa số người trong gia đình không mấy quan tâm đến sự cứu rỗi nên họ nghe giảng với thái độ mệt mõi, vừa nghe vừa ngủ gà ngủ gật, người mẹ thì đôi mắt đã kém đôi tai lại nghểnh ngãng. Nhưng sau đó, thân sinh của cô cảm thấy rất thích thú khi được nghe giảng luận về sự cứu rỗi, và cả cha mẹ cô đã tiếp nhận Chúa. Cô này rất đỗi sung sướng và khoe với mọi người rằng: “Tống tiến sĩ đến truyền giảng nơi đây là vì thương xót gia đình chúng tôi”.
Tống Thượng Tiết định tổ chức đại hội truyền giảng này khoảng mười ngày, nhưng thình lình ông ngã bệnh nặng. Các bác sĩ đều khuyên ông nên rút ngắn kỳ đại hội lại và về nhà tĩnh dưỡng. Nên sáng tinh mơ hôm đó, khi bình minh chưa ló dạng ông đã dùng một chiếc tàu nhỏ rời khỏi làng Diên Bình. Chỉ vài giờ sau đó bộ chỉ huy Quốc Dân Đảng phái người đến tầm nã Tống Thượng Tiết, dĩ nhiên họ không thể tìm thấy ông nơi ấy, họ chỉ có thể trương lên những biểu ngữ: “Đả đảo Tống Thượng Tiết” để tỏ thái độ phản đối ông mà thôi.
Sau khi bị tầm nả và đả kích ở Diên Bình, Tống Thượng Tiết nhận được một bài học lớn: Không thể đi trước ý định Đức Chúa Trời, ông ý thức một cách rõ ràng rằng nếu chỉ cậy sức mình để đi ra “làm việc Chúa” thì sẽ bị roi vọt của Ngài không sai. Ông cũng biết rằng, lần này là Chúa đuổi mình về Hưng Hóa, nên ông đã cúi đầu vâng phục trở về quê cũ để phục vụ Chúa và chờ đợi tiếng phán của Ngài.
Những ngày hoạt động tại Diên Bình, Tống Thượng Tiết thường lên ngọn núi, mệnh danh là “Núi Cầu Nguyện”. Ông được biết Diên Bình có một vị Mục sư họ Hứa mỗi ngày lên đồi này vì tình trạng hội chúng tại Diên Bình mà khóc lóc khẩn thiết kêu cầu cùng Chúa, Mục sư Hứa đã kiên trì cầu nguyện như thế trong suốt 30 năm. Giáo hội nhờ sự cầu thay đó mà được Chúa thăm viếng và được hưng thịnh. Trên núi cầu nguyện đó có một tảng đá thật lớn, bằng phẳng nhưng nằm trên cao và cheo leo không thể dùng để quỳ gối cầu nguyện được, nhưng về sau Diên Bình bị động đất và tảng đá ấy đã được đặt xuống một mặt bằng phẳng rất thích hợp cho việc hiệp chung cầu nguyện. Sau khi Mục sư Hứa qua đời, nhiều tín hữu lên núi cầu nguyện thì thấy thiên sứ đi lại trên tảng đá đó mà ca hát, ngâm thơ tôn vinh Chúa. Họ nghĩ rằng, lúc còn sinh thời Mục sư Hứa thường nhật lên núi này cầu nguyện nên họ đồng thanh đổi tên núi thành tên “Núi Cầu Nguyện”. Và cũng gọi tảng đá lớn bằng phẳng đó là “Tảng Đá Cầu Nguyện”.
Khi Tống Thượng Tiết lên “Núi Cầu Nguyện” thấy được “Tảng Đá Cầu Nguyện” thì hồi tưởng lại người tôi tớ trung thành của Chúa, ông tâm tình với các bạn cùng lên núi cầu nguyện rằng: “Người chăn chiên hiền lành, vì chiên mình phó sự sống mình. Mong rằng tất cả các tôi tớ của Chúa đều được tràn đầy tình yêu của chính Chúa để nuôi nấng chiên của mình”.
CHƯƠNG 25
SỰ RÀNG BUỘC CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (1931)
Tống Thượng Tiết quan niệm rằng, một người truyền đạo của Đức Chúa Trời phải được huấn luyện tương đối kỹ về giáo lý căn bản Thánh Kinh. Nên ông đã phân chia 100 Hội Thánh ra thành 10 khu huấn luyện, và ông đích đến từng khu một để mở lớp huấn luyện Thánh Kinh. Ngoài ra ông còn khuyến khích dấy mạnh chương trình thờ phượng gia đình lễ bái. Trong năm 1930 ông đã tổ chức lại việc thờ phượng cho hơn 1000 gia đình. Kết quả những lớp huấn luyện do ông chủ trương đã đào tạo được rất nhiều những lãnh tụ của các giáo hội địa phương, mỗi khu trung bình có chừng 40 hay 50 vị. Vì các tôi tớ Chúa của Giáo hội Giám lý thường được điều động hay thuyên chuyển đi nhiều nơi khác để hầu việc Chúa, nên ông cũng tổ chức những lớp huấn luyện cho các tín hữu thanh niên để họ cũng có thể phụ giúp các vị truyền đạo hay Mục sư tại các Hội Thánh địa phương. Cuộc sống đạo đức Cơ đốc nhân của họ cũng là bằng chứng sống động cho Chúa. Đức Thánh Linh thăm viếng đặc biệt hai chương trình huấn luyện này. Các Hội Thánh khác thấy Chúa ban phước như vậy nên cũng đạt thư đến mời Tống Thượng Tiết đến giúp đỡ họ tổ chức những lớp huấn luyện. Cho nên ông đã có dịp đi thăm nhiều nơi ở Mãn Châu, Phước Thanh, Vĩnh Xuân, Đức Hóa và Hải Sơn... để mở các khóa huấn luyện này.
Tống Thượng Tiết đã nhận xét là huấn luyện cho các tín hữu có phần dễ dàng hơn huấn luyện cho các vị Mục sư, Truyền đạo. Lý do chính là các vị ấy chưa có sự sống, chưa thấy được chân lý và tấm lòng chưa được khai minh. Muốn họ ăn năn hối cải như là chuyện đội đá vá trời. Ông ý thức rõ rằng, những nhà truyền đạo mà chưa có sự sống của Chúa thì chẳng những không cứu vớt được ai mà ngược lại còn là những tảng đá vấp chân cho nhiều người khác. Nhưng đồng thời ông cũng rất cảm thông với họ vì thường thường những người đi hầu việc Chúa gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, thù lao của họ thật là ít ỏi, nên phần lớn phải kiếm thêm một nghề tay trái để có thể đủ sống. Một người đã dâng mình hầu việc Chúa mà còn phải vương vấn với các công việc của trần gian chỉ còn rất ít thì giờ tương giao với Chúa, cầu nguyện, học hỏi Lời Chúa làm sao có thể sinh bông trái tốt đẹp cho công việc Chúa. Thù lao của họ đã thấp, lại hoàn toàn phụ thuộc vào sự đóng góp tài chánh của các tín hữu, cho nên thường xảy ra các tệ nạn, thứ nhất là tín hữu sẽ nhìn các tôi tớ Chúa như những chủ nợ, họ sẽ có những thái độ vừa chán ghét vừa lo âu, coi như một gánh nặng cho họ. Về phía các tôi tớ Chúa thì xem tín hữu như những người thi ơn, nên có những vị đã có những hành vi tiêu cực, nịnh bợ, khiến cho một số tín hữu tự cảm thấy mình như kẻ bề trên phải được kính nể. Thậm chí có những người phạm tội, các Mục sư cũng làm lơ không dám bẻ trách sửa trị. Thêm một điều khá quan trọng nữa là nền tài chánh của giáo hội đều ở trong tay những giáo sĩ tây phương cho nên trên thực tế, các ông ấy trở nên những chủ nhân mướn các Mục sư, Truyền đạo làm việc theo ý của họ. Nếu không tuân hành mệnh lệnh của họ thì họ sẽ hoán chuyển đến một công việc khác. Những giáo sĩ tây phương lúc bấy giờ đều thuộc phái tân thần học. Những tôi tớ Chúa (người bản xứ) phục vụ dưới hệ thống đó thì phải thi hành những mệnh lệnh từ cấp trên phán xuống không cần biết đúng hay sai. Nên Tống Thượng Tiết cũng phải trải qua nhiều khó khăn.
Tính đến kỳ lễ kỷ niệm Chúa chịu thương khó năm 1930, Tống Thượng Tiết về nước đã trên hai năm rưỡi, ông đã tự xem mình như những người bình thường khác, nên đã quên đi tất cả những gì mình có, chỉ một lòng tin vào Chúa Giê-xu. Những mũi tên độc bắt đầu bắn vào tư tưởng của ông. Một tiến sĩ hoá học, một giáo sư đại học, đương nhiên lương hàng tháng tối thiểu cũng phải được 5, 6 trăm. Nhưng trên thực tế, ông đã làm những công việc thật vất vả, vai mang nặng hành lý, vượt đèo băng suối, đầu đội trời không mủ, nón, chân không giày, dép. Mồ hôi tuôn đổ qua những chặng đường gian nan vì Tin Lành, công lao ấy tiền công nào bù đắp lại? Hay chỉ những dèm chê của bạn hữu và thân quyến? Thời gian thấm thoát trôi qua, ông bà Tống Thượng Tiết đã có hai con, nhu cầu gia đình ngày càng nhiều, mà tiền kiếm được do công lao vất vả của ông làm ra không đủ để nuôi gia đình, Tống Thượng Tiết thầm nghĩ như thế này chẳng hóa ra Chúa đã bạc đãi mình sao? Trong tâm trạng hoài nghi chán nản đó, thì Lời của Chúa đến với ông như vừa răn trách như vừa an ủi: “Con không thể vâng phục Ta cho đến cuối cùng sao? Con không thể dâng hiến trọn vẹn cho Ta sao? Việc của con Ta đều biết cả, và những thất bại của con ngày hôm nay giúp những thành công cho mai sau. Vả lại con cũng nên thấu hiểu chân lý này: “Chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, là cho những kẻ đã được gọi theo ý muốn Ngài đã định”. Nghe được tiếng của Chúa, ông chỉ biết lặng thinh suy gẫm và không dám có một lời nào. Chẳng bao lâu sau, Tống Thượng Tiết nhận được thư mời đến chủ tọa đại hội tại Nam Xương và Nam Kinh. Ông nghĩ rằng đây là thì thuận tiện, thời vụ đã chín mùi. Chúa đã mở đường để đi truyền giáo phương xa, nhưng khi trình hỏi ý Chúa thì kết quả ngược lại, Chúa bảo phải đợi chờ thêm một thời gian nữa, rồi hãy ra đi, vì giờ của Ta chưa đến. Tống Thượng Tiết vì quá nóng lòng ra đi truyền giảng nên không thể nán lại lâu hơn nữa. Như con ngựa bất kham, tràn đầy sinh lực và chỉ muốn bươn chạy đến trước, ông chuẩn bị hành trang để đi đến tỉnh Giang Tây. Bỗng nhiên toàn thể châu thân ông mọc lên những chiếc mụn nhọt, trông rất kinh tởm, nhưng ông vẫn không tin đây là sự ràng buộc ngăn trở của Chúa. Nghĩ rằng, lộ trình đến tỉnh Giang Tây cũng mất khoảng ba, bốn ngày, trong thời gian đó chắc các mụn nhọt này cũng sẽ lành lặn. Ông không một chút băn khoăn về sự ngăn trở này, chỉ toan tính cho cuộc hành trình sắp đến. Sáng sớm ngày khởi hành, bất thần Tống Thượng Tiết lâm bệnh rất nặng, thượng thổ hạ tả. Bụng đau quặn thắt không thể nào chịu nỗi. Đau đớn và kiệt sức rất nhanh, ông yếu mòn tưởng chừng như không qua khỏi, Tống Thượng Tiết liền đến với Chúa và xưng tội không vâng phục cùng Ngài và khẩn cầu nguyện: “Lạy Cha, xin ý Cha được nên, nếu Cha muốn suốt đời con làm việc giữa chốn nông thôn thì con cũng xin vâng phục Cha”. Lời cầu nguyện vừa dứt thì cơn đau đớn quặn thắt cũng hết ngay. Sau khi khỏi bệnh Tống Thượng Tiết được mời đến Bằng Hải để hướng dẫn một đại hội phục hưng của thanh niên, sinh viên tổ chức. Trong kỳ đại hội này có nhiều người đã được tái sanh. Sau đó ông lại được mời đi chủ tọa trại hè của các lãnh tụ các giáo phái tại khu đảo kế cận đó. Kinh Thánh quả của trại hè bồi linh này là có thêm nhiều nữ truyền đạo và nữ giáo viên tình nguyện đi đến nhiều nơi để truyền giảng Phúc âm.
CHƯƠNG 26
LÊN MIỀN BẮC (1930)
Tống Thượng Tiết đã hoàn toàn đầu phục Chúa Cứu Thế Giê-xu và bằng lòng suốt đời hầu việc Ngài tại quê hương. Nhưng ý chỉ của Chúa không phải là muốn ông chỉ truyền giảng cho gia đình và quanh quẩn nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng muốn rèn luyện ông biết đầu phục Chúa trọn vẹn.
Trước khi Tống Thượng Tiết từ ngoại quốc trở về thì Hưng Hóa là một vùng nhiều thổ phỉ. Cướp của, đốt nhà, giết người là chuyện cơm bữa. Nhưng chỉ ba năm sau khi ông về nước thì nơi đây trở nên một vùng yên tĩnh, dân chúng an cư lạc nghiệp, rất thuận tiện cho ông đi đây đó để truyền giảng Tin Lành. Bỗng nhiên, các nhóm thổ phỉ lại nổi dậy cướp phá dân lành. Đi đến đâu cũng nghe bàn tán xôn xao việc cướp của giết người. Khi nghe tin không lành này thì các giáo sĩ của hội Giám lý đã nhanh chân rời khỏi vùng bất an này. Nhưng công cuộc truyền giáo tuần hoàn của Tống Thượng Tiết không thể nào ngưng hoạt động. Trong ba năm hoạt động trong các làng mạc này thì cũng chỉ có những người đồng đức tin, đồng tâm đồng chí trong Hội Thánh hợp tác với ông. Họ thật sự có tâm tình hiệp một, yêu thương nhau như ruột thịt. Không hiểu vì duyên cớ nào, tự nhiên không hẹn nhau mà họ đã di tản đi nơi khác khiến cho ngay cả những người thân thiết với ông cũng đâm ra nghi ngờ. Có nhiều lời đàm tiếu nhỏ to về ông, khiến cho ông mất hết uy tín không còn đất đứng tại quê hương nữa. Chúa đã khép cánh cửa truyền giáo ở quê hương của Tống Thượng Tiết, nhưng đồng thời Ngài lại mở cửa truyền giáo nơi khác rộng rãi hơn cho ông. Viên giám đốc của giáo phái Giám lý thấy tình trạng hỗn loạn của các làng mạc trong lúc thổ phỉ nổi lên cướp phá thì khó có thể tổ chức truyền bá Phúc âm, họ lại thấy Tống Thượng Tiết cũng đang trong thời rảnh rỗi, nên sai phái ông lên miền bắc để nghiên cứu chương trình hoạt động chống nạn mù chữ. Ông ra đi với nhiệm vụ này, tuy trong thâm tâm không lấy gì làm thích thú. Nhưng lúc nào cũng tin tưởng rằng mục đích Chúa kêu gọi ông hầu việc Ngài không phải chỉ là làm những việc bên lề, nhưng để làm một cuộc phấn hưng cho Hội Thánh của Chúa. Lần này Chúa sai để về miền bắc thì ông cũng lấy lý do gì không thuận phục ý Ngài. Tống Thượng Tiết vừa qua cơn bạo bệnh, thì người nhà lần lượt kẻ trước người sau lây bệnh nguy khốn đó. Người bị bệnh nặng là vợ ông và cậu bé Tống Thiên Trình, cũng còn có tên là Xuất Ai Cập, con mời sinh chưa được ba tháng, đã được Chúa rước về nước Ngài. Ông và bà còn đang buồn về nổi phân ly, thì lại càng buồn thêm. Chúa đã dùng câu chuyện của Môise, sau khi sanh ra cũng được ba tháng cha mẹ phải đem dấu vào bụi lau sậy bên ven sông, để an ủi hai ông bà. Sau đó Chúa phán với Tống Thượng Tiết: “Hỡi con bé mọn của Ta, hãy tỉnh dậy, ngày đã đầy trọn, giờ đã điểm đây là lúc con phải rời khỏi quê hương để đến nơi mà Ta sẽ hướng dẫn con đi”. Nghe tiếng Chúa truyền ông xin hoàn toàn vâng phục Lời Chúa, vác thập tự giá mình buộc lên con đường đến Gôgôtha.
Ba ngày sau khi chôn cất đứa con trai thân yêu. Tống Thượng Tiết giã từ gia đình, chỉ mang theo một gói hành trang thật nhẹ, lên tàu đến Thượng Hải.
Ba ngày sau khi chôn cất đứa con trai thân yêu. Tống Thượng Tiết giã từ gia đình, chỉ mang theo một gói hành trang thật nhẹ, lên tàu đến Thượng Hải.
Rời Hưng Hóa, Tống Thượng Tiết không còn quay lại công việc mà ba năm qua tiên sinh đã thực hiện tại cố hương. Sau này trong hồi ký, Tống Thượng Tiết đã viết: “Từ khi trở lại quê hương, trong ba năm đầu, tôi đã “chạy bá vơ và đánh gió”. Nào là Cơ đốc giáo dục, nào là xóa nạn mù chữ, gia đình hướng về Chúa, đoàn thể thanh niên cải cách nông thôn, phục vụ xã hội. Tôi đã tập trung tinh thần để nghiên cứu những phương pháp tổ chức và phổ biến đến nhiều nơi để thực hiện. Những công tác có đơm hoa thật tươi đẹp, nhưng không kết trái! Và sự thiếu sót trầm trọng nhất là quên đi lẽ đạo cứu chuộc, thế nên tôi ra công gắng sức, làm việc không công, đưa nhiều người vào nhà thờ, nhưng chưa hề dẫn dắt được ai vào nước Chúa.
CHƯƠNG 27
ĐẾN HOA BẮC (1930-1931)
Tống Thượng Tiết không lưu lại Thượng Hải, nhưng đi thẳng đến Hồ Châu, lúc ấy Hồ Châu đang tiến hành phong trào “Gia đình Cơ đốc hóa”, phía đông Trung Hoa. Những cán sự phong trào này là những nhà lãnh đạo nổi tiếng thuộc Cơ đốc giáo Hiệp Tiên Hội của Trung Hoa, hợp tác với những người được sai phái đến từ các tỉnh, có hơn 100 người, Tống Thượng Tiết là một trong những người được phái đến để cộng tác khai triển phong trào này. Vì ông ăn mặc quá đơn sơ, thường thì tiên sinh chỉ mang một chiếc áo dài vải thô, thỉnh thoảng cũng có mặc âu phục, nhưng đã quá cũ và sờn rách, trong khi những người khác thì quần dạ áo bông, nên họ nhìn ông với đôi mắt xem thường, tưởng đó là một kẻ quê mùa đến từ một chốn thâm sơn cùng cốc nào đó. Những ngày đầu của đại hội, xem như ngôn ngữ bất đồng (Đại hội của các đại biểu nói tiếng Anh) nên Tống Thượng Tiết im hơi lặng tiếng, chỉ theo chương trình mà đến dự thính như một người ngoài cuộc. Ông chỉ lắng nghe các đại biểu thảo luận những dự án này, bàn cái kế hoạch nọ. Cho đến một hôm được Thánh Linh thôi thúc ông mới đứng dậy và cầu nguyện, lời cầu nguyện của ông đầy quyền năng. Sau giờ cầu nguyện, một người đàn bà ngoại quốc đã đến làm quen với ông nở một nụ cười thật cởi mở. Bà tự giới thiệu tên là Frank R.Milican giáo sĩ Quản Học Hội, thuộc giáo hội Trưởng lão Hoa Kỳ. Bà thật đã không ngờ một người có dáng vẻ quê mùa như thế này mà lại nói được tiếng Anh quá lưu loát. Những đại diện khác cũng lấy làm thích thú khi thấy một nông dân lam lũ thế kia mà cũng chuyện trò bằng tiếng Anh cách thoải mái. Họ nhìn Tống Thượng Tiết với ánh mắt khác lạ. Bà Milican giới thiệu ông với đại diện của giáo hội Trưởng Lão toàn quốc. Từ đó, những công việc và hoạt động của Tống Thượng Tiết được bà Milican tiếp tay rất nhiều. Qua cuộc đàm đạo, bà được biết ông có cấp bằng tiến sĩ khoa học, tốt nghiệp tại Hoa Kỳ nhưng được Chúa đặc biệt kêu gọi đi làm sứ giả truyền bá Phúc âm. Nên bà Melican đã mời Tống Thượng Tiết gia nhập vào nhóm của bà. Trong sinh hoạt của nhóm, bà đã mời ông chia sẻ lời Chúa và trình bày phương pháp và cho biết những kết quả trong vòng ba năm qua ông đã thực hiện tại Hưng Hóa trong chương trình Cơ đốc giáo dục gia đình. Sau này trong những sinh hoạt khác của nhóm, bà Milican cũng mời Tống Thượng Tiết đi thuyết trình tương tự mỗi nơi.
Trong một kỳ đại hội của giáo hội Trưởng lão, vị chủ tọa vì công tác bất thường nên vắng mặt, bà Milican đã giới thiệu Tống Thượng Tiết với chủ tịch của giáo hội mời ông làm diễn giả cho Đại hội. Cánh cửa truyền giáo tại Hồ Châu như đã mở rộng cho ông. Các giáo phái khác nhau, các trường học, các bệnh viện thay nhau mời ông đến truyền giảng Phúc âm, Hồ Châu là nơi đầu tiên mà Tống Thượng Tiết truyền bá Phúc âm ngoài quê của ông.
Sau khi đại hội bế mạc, Tống Thượng Tiết rời Hồ Châu đến Hàn Châu tổ chức một đêm truyền giảng trong một ngôi giáo đường nho nhỏ, rồi vội vã rời Hàn Châu, nhận lời mời của ông bà Melica, lưu lại gia đình của ông bà một thời gian ngắn. Ông bà Milican giới thiệu ông với Hội Quản Học để mời ông thuyết trình về những kinh nghiệm truyền giáo tại các làng mạc, những phương châm thờ phượng trong gia đình và những thực hiện cho chương trình xóa nạn mù chữ.
Nhưng Tống Thượng Tiết vốn là nhân sự của giáo phái Giám lý phái lên miền bắc nghiên cứu chương trình xóa nạn mù chữ nên không thể lưu lại Thượng Hải lâu ngày và phải giã từ ông bà Melican để trở lại Nam Kinh. Về đến Nam Kinh, ông đến thăm Thần học viện Kim Lăng. Thần học viện này, ngày xưa ông đã nghĩ đến, nhưng chưa có dịp vào học. Tại đây ông gặp lại Chương Văn Tân, người hiệu trưởng cũ tại trường Hưng Hoá, hiện nay ông ấy là giáo sư thần học và cũng kiêm nhiệm chức vụ giáo sư đại học Kim Lăng. Ông bà hiệu trưởng ân cần mời ông lưu lại trường hai ngày để quan sát những phương án và phương pháp dạy của nhà trường. Sau hai ngày thăm viếng ông vượt Trường Giang để đến Phồ Khẩu và đáp xe lửa về hướng bắc đến Thiên Tân.
Lúc ấy đang độ cuối đông nên gió từ miền Tây-bá-lợi-Á mang khí lạnh buốt xương tràn về. Tống Thượng Tiết vốn sinh trưởng tại miền nam, quần áo chuẩn bị cho mùa đông, nhất là mùa đông miền cực bắc lại không mang theo, thật ra thì không có để mang theo, nên ông thật khó có thể chịu đựng được cái rét buốt thấu xương này, cho nên khi đến Sương Lê, một vùng phụ cận của Thiên Tân, lưu lại trong gia đình Mục sư H.E.Duley. Tống Thượng Tiết được tiếp đãi rất nồng hậu, vì giáo sĩ Duley vốn là Mục sư của Giáo hội Giám lý và cũng là bạn đồng song với ông tại đại học Ohio Wesleyan. Hơn nữa mục sư Duley cũng đã từng nghe những vinh dự của ông đã nhận được khi còn theo học tại Hoa Kỳ, một nhân vật mà Mục sư Duley đã ngưỡng mộ từ lâu, nay tình cờ được gặp, đôi bên cũng chưa cần những lời giới thiệu mà như đã là bạn cố tri.
Mục sư Duley khuyên Tống Thượng Tiết chẳng cần phải đi quan sát, nghiên cứu phong trào chống nạn mù chữ nữa, vì đây chỉ là một phong trào có tính cách xã hội, “thuộc thể” mà không động chi đến phần tâm linh. Phong trào này chưa phải là việc cấp bách hàng đầu của giáo hội. Hiện nay giáo hội đang tô phết cho mình một bộ mặt bên ngoài thật tốt đẹp, nhưng đời sống bên trong đang khô cằn, yếu mỏn. Điều chúng ta đang cần là một cuộc phấn hưng toàn diện đầy năng quyền của Chúa Thánh Linh. Chúng ta phải mạnh dạn đứng lên, hô hào một sự thức tỉnh cho tất cả những lãnh tụ của giáo hội, để họ ra khỏi trạng thái mê ngủ để sẵn sàng chờ đợi Người của Đức Chúa Trời tái lâm.
Cái gọi là phong trào cải lương, cải tiến nông thôn, phong trào xóa nạn mù chữ, thật ra chẳng có một kết quả nào đáng khích lệ. Mục sư Duley cùng với Tống Thượng Tiết đến Sơn Hải Quan để quan sát tại chỗ, họ thấy tín đồ vùng ấy chẳng những đã rất ít mà đời sống tâm linh cũng như về học vấn cũng chẳng biết gì. Ông nói với Mục sư Duley “Tôi chỉ cần xem quả để biết cây”. Sau đó ông được giới thiệu Bắc Bình cũng gọi là Bắc Kinh gặp giáo sĩ R.W.Backus, ông này đang lo huấn luyện cho trên 20 sinh viên để ra truyền giáo, nhân dịp này, mục sư Duley mời Tống Thượng Tiết chia sẻ những kinh nghiệm của ông trong ba năm hầu việc Chúa tại Phước Kiến. Lưu lại đó vài ngày, giáo sĩ Bakus giới thiệu ông đến vùng Bảo Định, đúng vào lúc thời điểm mùa rét đang lên cao điểm, tuyết phủ kín một vùng rộng lớn, Tống Thượng Tiết đến Bảo Định vào nửa đêm, ông đến gõ cửa nhà một vị giáo sĩ tây phương để xin qua đêm. Vị giáo sĩ này không thể ngờ được người đến xin ngủ đậu nhà mình là bạn học cùng trường ngày xưa. Thấy Tống Thượng Tiết trong bộ quần áo tồi tàn rách rưới thì ông cho ngủ chung giường với người lao công quét dọn nhà thờ. Khốn nỗi người bạn cùng giường này lại có một đôi chân quá hôi thối, trời thì quá rét, mền thì mỏng, suốt đêm ông không sao chợp mắt được.
Sáng hôm sau vị giáo sĩ tây phương này lần mò hỏi tung tích của Tống Thượng Tiết, bây giờ ông mới biết: “Tôi là Tống Thượng Tiết”. Vị giáo sĩ này rất đỗi ngạc nhiên: “Tống tiến sĩ đây sao?” Giáo sĩ vội vã thay đổi thái độ và tiếp đãi ông như một thượng khách. Ông ta mời Tống Thượng Tiết thuyết giảng cho các học sinh trong vùng này. Dự tính sẽ có chừng khoảng 5,6 trăm học sinh, không ngờ số người đến dự chỉ vào khoảng 5,6 mươi người. Tìm hiểu mới biết rằng trong cuộc nội loạn năm Canh Tuất từ là loạn “Upsring of the Boxes”, những tín hữu ở Bảo Định đã tuần đạo với con số rất lớn. Tống Thượng Tiết đã đến nghĩa trang thăm viếng những ngôi mộ của những người đã khuất.
Từ Bảo Định, Tống Thượng Tiết xuôi về Định Huyện, dọc đường bão tuyết theo gió bấc thổi về, rét buốt, mà ông lại quần áo phong phanh. Sau này kể lại là, thiếu chút nữa thì ông đã bị đông đá trong toa xe lửa. Đến được Định Huyện cũng lại nửa đêm, làm cho càng thấy nỗi nhọc nhằn vất vả của cuộc hành trình. Tại Định Huyện Tống Thượng Tiết được tiếp xúc với Tiến sĩ Án Dương Sơ, một giáo sư nổi tiếng cả thế giới về bình dân giáo dục. Án Dương Sơ, quả là danh bất hư truyền, phương pháp giáo dục của tiến sĩ Án rất mới mẻ. “Nhưng điều khiến tôi kính phục Án tiến sĩ là tinh thần cần mẫn của ông”, Tống Thượng Tiết nói, “nên thành quả tốt đẹp là chuyện dĩ nhiên, trong thâm tâm, tôi vô cùng kính phục Án tiến sĩ”. Đêm hôm ấy, trong giấc ngủ Chúa dạy dỗ tôi: “Những bông hoa tươi thắm kia chỉ là vinh quang tạm bợ, chúng không thể có kết quả được, những bông hoa ấy nở ra, rực rỡ trong nháy mắt, rồi tàn héo ngay! Con phải cẩn thận giữ mình, và phải học bài học về cây vả sum suê lá mà không có một trái nào”. Thức dậy sau khải thị của Chúa qua giấc mơ, sáng sớm ông mới nhận được đâu là “chân” đâu là “giả”. Ông vội giã từ Án tiến sĩ để ra đi và được tiến sĩ đãi ngộ rất nồng hậu. Đáng lý ông phải lưu lại Định Huyện 1 hay 2 tháng để cùng chung lo việc Chúa với Án Dương Sơ, nhưng mới chỉ 1, 2 ngày ông đã phải vội vã giã từ để lên Bắc Kinh theo chỉ thị của Chúa.
Từ Bảo Định, Tống Thượng Tiết xuôi về Định Huyện, dọc đường bão tuyết theo gió bấc thổi về, rét buốt, mà ông lại quần áo phong phanh. Sau này kể lại là, thiếu chút nữa thì ông đã bị đông đá trong toa xe lửa. Đến được Định Huyện cũng lại nửa đêm, làm cho càng thấy nỗi nhọc nhằn vất vả của cuộc hành trình. Tại Định Huyện Tống Thượng Tiết được tiếp xúc với Tiến sĩ Án Dương Sơ, một giáo sư nổi tiếng cả thế giới về bình dân giáo dục. Án Dương Sơ, quả là danh bất hư truyền, phương pháp giáo dục của tiến sĩ Án rất mới mẻ. “Nhưng điều khiến tôi kính phục Án tiến sĩ là tinh thần cần mẫn của ông”, Tống Thượng Tiết nói, “nên thành quả tốt đẹp là chuyện dĩ nhiên, trong thâm tâm, tôi vô cùng kính phục Án tiến sĩ”. Đêm hôm ấy, trong giấc ngủ Chúa dạy dỗ tôi: “Những bông hoa tươi thắm kia chỉ là vinh quang tạm bợ, chúng không thể có kết quả được, những bông hoa ấy nở ra, rực rỡ trong nháy mắt, rồi tàn héo ngay! Con phải cẩn thận giữ mình, và phải học bài học về cây vả sum suê lá mà không có một trái nào”. Thức dậy sau khải thị của Chúa qua giấc mơ, sáng sớm ông mới nhận được đâu là “chân” đâu là “giả”. Ông vội giã từ Án tiến sĩ để ra đi và được tiến sĩ đãi ngộ rất nồng hậu. Đáng lý ông phải lưu lại Định Huyện 1 hay 2 tháng để cùng chung lo việc Chúa với Án Dương Sơ, nhưng mới chỉ 1, 2 ngày ông đã phải vội vã giã từ để lên Bắc Kinh theo chỉ thị của Chúa.
CHƯƠNG 28
TỪ THƯỢNG HẢI ĐẾN NAM XƯƠNG
Mùa xuân năm 1931 Tống Thượng Tiết đến Bắc Kinh thì được một giáo sĩ của giáo hội Trưởng lão mời hợp tác trong thời gian 6 tháng để chuyên phụ trách về huấn luyện những truyền đạo, nhưng Chúa đã ngăn cản và trực tiếp phán với ông: “Việc này không phải là trách nhiệm của con, con phải nhân Danh Ta để làm những việc vĩ đại hơn, con hãy chổi dậy, mang lửa phấn hưng đến cho những Hội Thánh không nóng cũng không lạnh trên toàn đất nước Trung Hoa, kẻo e khi Chúa Cứu Thế Giê-xu tái lâm họ phải bị bỏ lại chăng, con phải mau mau đi rao truyền tin tức Chúa sẽ nhanh chóng trở lại, báo cho họ biết là phải tỉnh thức và sẵn sàng như cô dâu chuẩn bị đón tiếp tân lang.”
Tống Thượng Tiết đã vâng theo Lời Chúa và tế nhị khéo léo nhưng dứt khoát từ chối đề nghị của vị Hội trưởng giáo hội Trưởng lão. Sau đó thì nhận được thư của bà giáo sĩ Milican mời xuống chủ tọa một hội đồng phấn hưng tại trường nam nữ trung học Thanh Tâm tại cửa Nam tỉnh Thượng Hải. Cầu hỏi ý Chúa và thấy rằng đúng là Chúa muốn ông xuống đó để hầu việc Ngài, ông liền đáp xe lửa đến Thượng Hải. Cùng lúc đó, có nhà tôn giáo học người Nhật, tiến sĩ Hạ Xuyên Phong Tú cũng đang diễn thuyết tại đại học Phụ Giá. Những giáo phẩm đến tham dự trên 5,6 chục người. Tống Thượng Tiết cũng đến tham dự. Có thể những lãnh tụ tôn giáo này cũng đã từng nghe tiếng ông nay được gặp ai nấy cũng đều nhận rõ tinh thần hy sinh cũng như nền tảng tri thức của ông thật uyên bác. Họ cũng phong cho ông tước hiệu “Hạ Xuyên Phong Tú” của Trung Hoa. Họ mời ông giảng cho một buổi thờ phượng cầu nguyện. Đề tài chia sẻ của ông hôm ấy là “Năng quyền của huyết Chúa Giê-xu, hiệu lực của thập tự giá và sự cần thiết đầy dẫy Đức Thánh Linh trong sự tái sanh”. Sau khi chia sẻ lời Chúa xong, Tống Thượng Tiết biết ngay những người Tân phái sẽ không chấp nhận lời giảng của ông. Chính ông cũng nhận biết mình còn là con người của thời còn lưu học trên đất Mỹ (hồi bấy giờ ông cũng thuộc những người Tân phái, giảng Phúc âm thì lấp lửng nửa vời), nên đã xin rút lui khỏi hội và không hướng dẫn những buổi cầu nguyện thờ phượng kế tiêp nữa. Ông không đồng ý với Tin Lành Xã Hội của ông Hạ Xuyên Phong Tú. Và cũng bất mãn với chính mình về bài giảng về sự đầy dẫy Đức Thánh Linh. Về sau người ta đọc được trong nhật ký của ông “... Không những người nghe không một chút xúc động, mà chính người giảng cũng không biết mình nói gì, tuy rằng lúc ấy tôi đã hiểu thế nào là Tin Lành xã hội, chỉ là một mớ lý thuyết trống rỗng, không có sức sống, nửa nạc nửa mỡ! Chính tôi đã từng là một nhà Tin Lành xã hội, tôi không thấu triết những lẽ đạo căn bản, lẽ đạo cứu chuộc con người. Trong buổi chủ toạ tại Thánh Tâm học đường, tôi đã giảng giải Thánh Kinh cho học sinh trung học nam nữ và tôi cũng chia sẻ những kinh nghiệm của chính mình khi được Chúa cứu và thăm viếng. Nhiều người được sự cảm động”.
Sau đó Mục sư Than Nhân Khang của Thanh Tâm Đường giới thiệu Tống Thượng Tiết đến giảng cho một Hội Thánh thuộc giáo phái C&MA ở Thủ Châu Đường. Nhưng không thấy thỏa lòng vì nhận thấy lời giảng dạy của mình đã lọt vào tai này và ra khỏi tai kia của những người đang ngồi nghe!
Trong lúc đang hầu việc Chúa tại Thượng Hải, có một người bạn tây phương đã thành khẩn khuyến cáo “Giáo hội Bêtên ở phía tây Thượng Hải là một nơi chủ trương đề cao cảm xúc và tình cảm, ông không nên đặt chân đến đó nữa”. Ông trả lời rằng: “Tôi có gia nhập vào giáo hội đó hay không là một chuyện, nhưng đến đó để thăm họ một lần là một chuyện khác”. Một ngày kia Tống Thượng Tiết đã đến thăm Hội Thánh Bêtên phía tay Thượng Hải. Mục sư cũng như những các chức viên đã mời ông giảng luận cho Hội Thánh. Ông đã dùng đề tài: “Năm cái bánh và hai con cá”. Số người dự thính hôm đó có tới 7,8 trăm người. Ai nấy đều thấy vui thỏa về món ăn tâm linh mà Tống Thượng Tiết đã ban cho họ, nên sau đó họ đồng tâm mời ông hướng dẫn họ học Kinh Thánh, ông đã dùng sách Mác để dạy họ, số học viên ngày càng thêm đông. Ông tự nhủ rằng: “Những sự huyền nhiệm là những điều đáng tôn trọng, nhưng chắc một điều là phải có năng quyền thì mới đạt được sự cứu chuộc. Tôi tự xét lòng mình thì thấy thật bình an, và không một chút hổ thẹn”. Ông đã khước từ lời mời gia nhập giáo hội này, tiên sinh chỉ hứa với họ sang năm 1931 sẽ đến chủ trì trại hè của Hội Thánh. Tuy không gia nhập giáo hội Bêtên, nhưng ông vẫn thường xuyên cầu nguyện cho họ, xin Chúa nếu được cho phép ông cộng tác với họ trong công tác truyền bá Tin Lành ở miền Bắc.
Lên miền Bắc lần này trên danh nghĩa của giáo hội Giám lý để nghiên cứu quan sát tình hình của phong trào bài trừ nạn mù chữ, nên lúc về cũng phải báo cáo những công việc này, nên ông đã tính toán là sẽ trở về Hưng Hóa. Trước khi lên đường trở về, Tống Thượng Tiết đã cố gắng ôn lại tất cả những công việc đã làm và đã viết ra những lời tự phê bình như sau: “Hồ đồ, hồ đồ, những công việc của tôi không một hướng định, chìm nổi, trôi giạt theo những phong trào. Một mặt, tôi thường giảng luận về những huyền nhiệm, nhưng không thể tìm ra được cho mình một lối thoát. Chúa đã nói Ngài đến là để tìm và cứu người đang chết mất. Nhưng đáng thương thay! Biết bao nhiêu người đang lao mình vào những công việc, đang thành lập và thực hiện những phong trào, áp dụng những phương pháp, hoàn tất những kế hoạch, hết thế hệ này tiếp nối thế hệ khác. Nhưng những công việc ấy không đi được vào lòng người, không khiến cho một ai cảm động về tình yêu của Chúa và dĩ nhiên không cứu được một linh hồn nào trở về với Ngài. Há không ai hiểu rằng Chúa Giê-xu đến trần gian với mục đích là cứu rỗi kẻ có tội? ‘Tìm và cứu những linh hồn đang hư vong’ mới là điều quan trọng, và cấp bách cần thực hiện ngay bây giờ. Tái tạo, đổi mới một đời sống tâm linh để có một nền tảng căn bản há không quan trọng hơn là cải thiện mức sống con người trong xã hội sao?” Trong khi Tống Thượng Tiết đang thất vọng vì thất bại của những năm qua, thì Chúa đã đột ngột mở cho ông một con đường khác. Ngài hướng dẫn ông đến Nam Xương, chỉ cho ông phương cách để cứu rỗi con người. Hành trình thuộc linh của ông được hoàn toàn đổi mới.
Mục sư William E.Schubert của giáo hội Giám lý tại Nam Xương gửi cho ông một bức thư mời ông đến gấp Nam Xương để chủ tọa một buổi thờ phượng bồi linh. Lời thư thật là khẩn thiết, nói đến lòng trông mong khao khát của hội chúng, khiến cho ông thật cảm động. Nhưng những người lãnh đạo của Hội Thánh Bêtên biết rằng cuộc hành trình của ông nếu thực hiện sẽ phải trải qua nhiều chặng đường rất hiểm nguy vì nạn thổ phỉ đang nổi dậy cướp của giết người ở khắp nơi, nên họ cũng vì lòng yêu thương, quí mến ông mà khuyên giải không nên đi đến Nam Xương. Thật lòng của ông cũng đang hướng về cố hương, mong một chuyến về thăm quê nhà, sau đó sẽ trở lại với công việc Chúa tại miền Bắc nên cũng không hăng hái đi đến Nam Xương cho lắm. Trong lúc đang chờ đợi tàu để xuôi về nam, thì tiếng của Chúa đã đến để nhắc nhở ông: “Con hãy đến Nam Xương, giờ đã điểm con sẽ đánh thắng một trận tốt lành và to lớn cho Ta”. Nghe được tiếng phán rõ ràng của Chúa, cho dù trong lòng đang hướng về quê hương, mong ước được về thăm nhà một chuyến ông liền vâng lời Chúa, cho dù đường xá có xa xôi hiểm trở, cho dù thổ phỉ có đang rình rập dọc đường, ông cũng chẳng quan tâm. Sáng hôm sau ông xuống tàu, ngược dòng sông Dương Tử đi đến Nam Xương. Tới nơi vào trung tuần tháng hai, năm 1931.
Sáng hôm sau, ông liền bắt tay vào việc giảng dạy cho những học sinh, sinh viên. Ông đã làm chứng về chính cuộc đời của mình, những ân điển lớn lao, cùng với sự thăm viếng đặc biệt của Chúa qua đời sống của ông. Những thính giả trẻ tuổi của Tống Thượng Tiết lấy làm thích thú về chân lý của Thánh Kinh qua sự trình bày sống động của ông. Buổi chiều Hội Thánh tổ chức một buổi giảng phấn hưng. Thật ra thì các tín hữu tại đây rất xa lạ với sự phấn hưng, họ không hiểu và cũng không hình dung được phấn hưng là gì, nhưng họ cũng đã nhẫn nại chờ đợi. Lâu sau mới có khoảng 8,9 chục người lần lượt đến, rồi từ từ đến khá hơn, nhưng tổng số cũng chỉ quá 100 mà thôi. Tống Thượng Tiết chỉ hướng dẫn và dạy họ học Kinh Thánh. Kinh Thánh họ có là Phúc âm Mác mà thôi. Những đêm sau số thính giả tăng lên 300 đến 400 người, mặc dầu trời mưa giá lạnh, họ cũng chịu khó che dù đến dự. Làm việc như vậy, khoảng một tuần, ông hỏi Chúa rằng: “Chúa ôi, hiệu quả Chúa hứa đâu mà con chẳng thấy?” Qua tuần thứ nhì các tín hữu tuyên truyền và khuyến khích các học sinh trường nữ trung học Bão Linh đến tham dự lớp học Kinh Thánh, ban đầu cũng không mấy ai hưởng ứng.
Trong lúc Tống Thượng Tiết thất vọng về công việc tại đây và cầu hỏi Ý Chúa: “Chúa ôi, Chúa gọi con đến đây, chẳng lẽ chỉ để nói cho những con người tại đây qua thính giác của họ? Tại sao Chúa không dùng con để khiến cho những người khác được sự cứu rỗi?”
Các nhà lãnh đạo các Hội Thánh tại Nam Xương có ý mời ông lưu lại đây khoảng một tháng nên họ đã triệu tập tất cả những truyền đạo nam nữ của ba giáo khu trong vùng để mở một đại hội truyền giáo và mới ông đến để giảng phần hưng. Nhưng ý Tống Thượng Tiết lại muốn trở về Phúc Kiến để báo cáo công việc đã làm, nên đã làm cho họ biết rằng: “Giấy phép của tôi đã hết, lý ra tôi đã phải trở về Hưng Hóa nếu quý ông muốn lưu tôi lại đây để hầu việc Chúa thì phải điện về để xin được triển hạn thêm một tháng nữa. Họ liền thực hiện như điều Tống Thượng Tiết yêu cầu và đã được phép.
Nhưng vì ngày đại hội các truyền đạo chưa đến nên ông đi ra vùng phụ cận là Cửu Giang để truyền bá Phúc âm cho đồng bào. Các tín hữu tại Cửu Giang ham nhóm lại thờ phượng nên mới buổi đầu mà số người đến dự đã lên quá 400 người. Lớp học Thánh Kinh cũng được mọi người hoan nghênh và tham dự thật đông và vui. Những lời giảng dạy và làm chứng của ông đã đụng đến tấm lòng của rất nhiều thanh niên, khiến các học sinh nam nữ tại đây, thật quả giống như những “con nai cái thèm khát khe nước”, họ khao khát chân lý và Lời Chúa. Trong khu vực này có trường Đồng Văn, trường là của giáo hội Giám lý có trên 200 học sinh, hầu hết đã tin nhận Chúa trong kỳ đại hội này, sau đó họ tổ chức những đoàn truyền giảng sau giờ học. Họ ra đi với tinh thần phấn chấn vui tươi truyền bá Phúc Âm. Theo dư luận của những tín hữu tại vùng Cửu Giang thì đây thật là một hội đồng phấn hưng chưa từng có.
Khi trở lại Nam Xương, Tống Thượng Tiết cũng không biết là kỳ đại hội các truyền đạo còn đến một tuần nữa mới nhóm lại. Những nhà lãnh đạo nơi đây mời Ông mở một đại hội phấn hưng cho những người trẻ tại đây. Ông yêu cầu họ phải hiệp chung khẩn thiết, đồng tâm cầu nguyện để làm hậu thuẩn cho lòng mong ước phấn hưng. Ông nói: “Nếu các vị giáo sĩ Tây phương của quí vị, cùng những giáo chức trong các trường học không đồng tâm hiệp ý với tôi đi vòng quanh thành phố này, thì nó cũng giống như thành phố Giêricô ngày xưa sẽ không bao giờ sụp đổ xuống. Thật ra thì các vị giáo sĩ Tây phương, cũng như các giáo chức trong trường đã thành lập những nhóm cầu nguyện từ lâu nên Tống Thượng Tiết được sự hậu thuẩn kiên cố này, lòng dũng cảm của ông tăng lên gấp bội phần hơn, ông can đảm tấn công thẳng vào phòng tuyến, đưa cao ngọn cờ Thập tự. Thành trì ma quỷ bị sụp đổ. Chúa đã làm việc lớn lao cả thể trên các Mục sư, Truyền đạo, các bạn trẻ và dân chúng được cứu rất nhiều. Cơn phấn hưng bùng cháy và lan rộng ra khắp vùng xung quanh.
Cơn đại phấn hưng tại Nam Xương đã được chuẩn bị bằng sự cầu nguyện thiết tha từ lâu. Những giáo sĩ Tây phương cũng như những người đồng công Trung Hoa đã cùng nhau dành một tháng của năm 1930 để cầu nguyện cho công cuộc phấn hưng Hội Thánh cứ tiếp tục cầu nguyện không ngừng trong vòng 50 ngày vào đầu năm 1931 thì Tống Thượng Tiết đã được Chúa sai tới Nam Xương.
CHƯƠNG 29
MỘT ĐÊM KHÓ QUÊN TẠI NAM XƯƠNG
NGÀY 5 THÁNG 3 NĂM 1931
NGÀY 5 THÁNG 3 NĂM 1931
Giô-suê đã tiến quân và toàn thắng nơi chiến trận là hoàn toàn nhờ vào sự cầu nguyện, và cây gậy của Môise luôn được đưa cao trên núi. Những hội đồng phấn hưng cũng tương tự như trận chiến ngày xưa, không phải chỉ là tài năng của sứ giả phấn hưng, nhưng là nhờ dân sự Chúa đưa tay lên khẩn thiết cầu nguyện. Tống Thượng Tiết cũng thường nói là người sứ giả phấn hưng chẳng có gì để đáng khoe, tất cả những sự kiện xảy ra trong những cuộc phấn hưng mà chúng ta có thể thấy được là hoàn toàn nhờ vào những đoàn cầu nguyện và cầu thay. Khi biết được Hội Thánh tại Nam Xương có những đoàn đã đồng tâm cầu nguyện, Tống Thượng Tiết tin chắc rằng sẽ có một cơn đại phấn hưng không thể ngờ được sẽ xảy ra tại đây.
Tống Thượng Tiết đã cảm kích nhất là tấm lòng của giáo sĩ Schubert, vị giáo sĩ này thường rất ít ngủ, dành nhiều thì giờ ban đêm để quì gối cầu nguyện thiết tha với Chúa, ông cầu nguyện với những dòng nước mắt khẩn đảo. Có một đêm, trời đã về khuya, Tống Thượng Tiết đã lên giường, bỗng nghe văng vẳng từ trên lầu vọng xuống những tiếng khóc hòa trong lời cầu nguyện thiết tha, đó là những lời cầu thay của giáo sĩ Schubert. Giáo sĩ thường cầu xin với Chúa: “Chúa ôi, ngày nay Chúa không ban cho một cơn phấn hưng tại Nam Xương thì còn đến bao giờ nữa? Chúa ôi! Nếu lần này Ngài không phấn hưng Hội Thánh của Chúa tại Nam Xương thì Ngài đã làm ngược lại niềm tin ban đầu của con, khi con dâng mình vượt trùng dương đến đất nước Trung Hoa này. Nếu vậy, xin Chúa cho phép con trở về nước”. Những lời cầu nguyện của Giáo sĩ Schubert đã cảm động sâu xa tấm lòng Tống Thượng Tiết. Ông liền được thúc giục chờ dậy, mặc áo dài vào và cũng quì gối cầu nguyện: “Lạy Cha, còn con, con đến đây không phải được Cha dùng để đem lại sự phấn hưng cho giáo hội tại Nam Xương sao? Xin Cha, chính Cha làm những việc diệu kỳ, xin cha dùng con và chúng con là những người đang ngưỡng trông lên Cha. Giáo sĩ Schubert và Tống Thượng Tiết đã cầu nguyện như thế suốt đêm.
Sau khi thẩn khiết cầu hỏi Chúa, Ngài đã ban cho một khải thị, Chúa dạy Tống Thượng Tiết phải đả kích tội lỗi, vì tội lỗi là màng chắng đã che khuất lòng người, chiếc màn đen ấy phải được vén lên thì ánh sáng thật của Phúc âm mới có thể chiếu dọi qua được để mang lại sự sống đời đời. Đêm hôm đó đối với Tống Thượng Tiết là kỷ niệm sâu đậm. Sự mặc khải về phương hướng mới đó là một chuyển hướng cho việc làm của ông. Cũng bắt đầu từ cái đêm không thể quên ấy (5 tháng 3, 1931) ông không còn đặt nặng vấn đề huyền bí cho mình nữa, mà những gì của ông có phải là quyền năng đối phó với tội lỗi. Đêm hôm ấy Chúa đã ban cho Tống Thượng Tiết một số sứ điệp để công kích, đả phá tội lỗi như: Đoàn quỷ của Giêsasê, người con trai hoang đàng, những kẻ giả hình... Tất cả những sứ điệp này ông đã dùng nhiều lần ở nhiều nơi, và quyền năng của những sứ điệp này không bao giờ bị giảm sút.
Ngày của đại hội dành cho Mục sư, truyền đạo đã đến. Tống Thượng Tiết được mời chủ tọa và ban phát sứ điệp của Chúa suốt tuần lễ đầu cho đại hội phấn hưng thanh niên. Trong những bài giảng luận, không bao giờ ông quên nhắc đến tội lỗi: Và ông cũng đã mời những người muốn ăn năn tội lỗi đến trước tòa giảng để cầu nguyện. Ông hướng dẫn họ mở miệng cầu nguyện với Chúa, lúc đầu vì còn e ngại, không ai dám mở miệng, nhưng sau đó thì được Chúa Thánh Linh soi sáng dần dần có những tiếng khóc, và những lời cầu xin trong nghẹn ngào và nước mắt. Thậm chí có những hiệu trưởng đã nhận tội lỗi với học sinh, các vị giáo sư ăn năn tội, và xin lỗi nhau, các học sinh ôm nhau mà khóc lóc vì những lỗi lầm đã đối xử tệ với nhau. Tống Thượng Tiết nói rằng: “Khi con người nhận biết tội lỗi của mình thì họ cần đến Cứu Chúa. Rồi sau đó, nếu chúng ta trình bày Đức Chúa Trời đã thương yêu tội nhân đến mức độ nào và đang chờ đợi sự ăn năn hối cải của tội nhân, và khi một tội nhân đã ý thức được như thế thì không ai có thể cấm được những dòng nước mắt trước tình yêu thương diệu kỳ của Thiên Chúa”. Trong đại hội phấn hưng đó, chẳng những Chúa Thánh Linh đã soi sáng và cáo trách tội lỗi của con người và hối thúc họ tìm đến sự cứu rỗi mà cũng còn dạy con người nhìn biết Chúa Cứu Thế là Đấng hướng dẫn con người đi đến chân lý. Trước đó Tống Thượng Tiết chỉ biết công việc của Đức Thánh Linh là âm thầm tác động và đổi thay lòng người, chứ không ngờ là công khai bắt phục lòng người. Tại Nam Xương, ông đã chứng kiến Đức Thánh Linh công khai bắt phục hơn 180 người.
Qua tuần lễ thứ nhì là hội đồng của các Mục sư, Truyền đạo, tất cả những người tham dự đều là lãnh tụ của Hội Thánh. Mỗi người đều là mục tiêu của Tống Thượng Tiết nhắm vào. Ông quyết định dùng chiến thuật “đánh từng bước”, bước thứ nhất là cáo trách tội lỗi, vì nếu một người truyền đạo của Chúa mà chưa thang toán xong với chính mình cái nợ tội lỗi, chưa dốc đổ bằng hết ra những dơ bẩn của chiếc bình đựng thì làm sao có năng lực để công phá thành lũy kiên cố của tấm lòng người khác. Bước thứ hai thì ông đặc biệt chú trọng đến công việc của Đức Thánh Linh. Đừng, đừng bao giờ dập tắt những xúc cảm về Thánh Linh để có thể khiến cho Ngài phải buồn lòng, vì Ngài luôn luôn sẵn sàng, đồng công với những người thuận phục. “Ấy chẳng phải là bởi quyền thế cũng chẳng phải là bởi năng lực, bèn là bởi Thần Ta”. Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
Đã định xong chiến lược, tiếp theo là bố trí trận địa, ông mời tất cả các vị lãnh tụ giáo hội ngồi vào hàng giữa của nơi nhóm họp, ngồi bao quanh họ là những học sinh mà tuần qua đã được Chúa thăm viếng, bắt phục, họ đã thật sự ăn năn hối cải và đã nhận được một đời sống đổi mới. Những đứa con sơ sinh này trong Chúa cũng rất quan tâm đến những bậc lãnh tụ tâm linh của mình. Họ hát ngợi khen Chúa thật hồn nhiên. Hôm đó sứ điệp của Tống Thượng Tiết nhấn mạnh những tội ô ở trong thâm tâm phải được gội rửa thật sạch mới có thể được tràn đầy sức sống của Chúa Cứu Thế. Những sự thăm viếng diệu kỳ của Chúa trong kỳ đại hội này thật không xiết kể. Sau mỗi buổi thờ phượng và nghe sứ điệp phấn hưng, những con cái của các vị Mục sư truyền đạo đồng loạt quỳ xuống tại những ghế ngồi của họ và lớn tiếng cầu nguyện: “Cầu xin Chúa tẩy rửa sạch tội lỗi bố mẹ chúng con, để cho bố mẹ chúng con là những người hầu việc Chúa không tỳ vết, thánh sạch, được đứng tự nhiên trước mặt Chúa và xứng đáng đảm trách chức vụ thiêng liên là hướng dẫn Hội Thánh thờ phượng Thiên Chúa”. Trong hàng ngũ những vị Mục sư, truyền đạo ngoại trừ những vị được sâu nhiệm trong ân sủng của Chúa thì khiêm cung tiếp nhận những lời cầu nguyện của con cái mình, còn hầu hết đều đã để lộ tự ái và sự nóng giận. Họ rất căm giận ông và cho rằng: “Tống Thượng Tiết là người khởi xướng cách mạng gia đình, xúi giục con cái của họ tỏ thái độ bất hiếu, và đến đây cố tình đả đảo và bêu xấu cha mẹ chúng”. Tuy rằng những lời chỉ trích này hoàn toàn không đúng sự thật, nhưng ông cũng nhận khuyết điểm là việc cáo trách tội lỗi cách tiêu cực như thế này không hợp với các lãnh tụ giáo hội lúc bấy giờ.
Trước khi rời Nam Xương, Tống Thượng Tiết hướng dẫn những người đã được Chúa thăm viếng đến làng Giá để truyền bá Phúc Âm, đoàn viên lên đến hơn 200, gồm đủ mọi thành phần: hiệu trưởng, giáo viên, học sinh, cũng như giáo sĩ, Mục sư, Truyền đạo. Rời làng Giá, họ trở về Nam Xương, trên đường về đoàn gặp phải một trận mưa như trút nước và gió rất lớn, đến nỗi làm gãy mất 13 câu dù của họ. Đoàn người tuy gặp trận mưa to gió lớn như vậy, ai nấy đều ướt như chuột lột, nhưng chẳng có một lời than vãn nào, mà ngược lại, hình như trận mưa lớn đó đã gội rửa tất cả tội lỗi của họ một cách cụ thể, nên có những người cất tiếng khóc nhưng hoan hỷ trong ăn năn, có người cất tiếng nguyện cầu trong ngợi khen, có người cất tiếng hát vang, tất cả những âm vang đó như một tấu khúc hoan ca vang cao đến tận các từng mây. Có những thanh niên vô đạo, quá khích lúc nào cũng la lớn tiếng những khẩu hiệu đả kích Cơ đốc giáo nhưng nay họ thấy như ngày phán xét đã hầu gần nên ăn năn tội lỗi, xin Chúa thứ tha những lời phạm thượng vô tín của họ. Những giáo sĩ tây phương thấy cảnh tượng lạ lùng ấy, tưởng rằng đoàn người này lên phát điên nên họ rất sợ hãi và trốn biệt không còn một ai trong đoàn người truyền giáo trở về ấy. Riêng Tống Thượng Tiết nghe rõ tiếng Chúa nói vào tai như tiếng gió Thánh Linh. Hiện tượng này cũng là một điều rất kỳ dị cho chính ông.
Trận mưa lớn của Đức Thánh Linh như gội rửa sạch mọi xấu xa ô uế. Những tấm lòng như những thửa ruộng khô cằn lâu ngày, nay được một cơn mưa thấm nhuần, những linh hồn thống hối đau thương đã được an ủi, sau cùng là những lời ngợi khen Chúa thay cho những lời khẩn cầu thống hối. Niềm vui mừng hòa trong lời ca tụng vang dội trong hội trường tại Nam Xương trong những ngày sau đó. Năng lực thật diệu kỳ, và Tống Thượng Tiết đã ghi lại trong hồi ký như sau: “Thắng lợi tại Nam Xương đã dạy cho tôi một bài học về bí quyết của sự phấn hưng: phải triệt để xưng hết tội lỗi của mình, thứ đến là xin cho được xức dầu bằng Đức Thánh Linh, cuối cùng là phải làm chứng về Chúa và cho Chúa. Ngày trước khi tôi đọc cuộc đời của John Wesley, mỗi lần ông truyền giảng thì đưa được rất nhiều người về với Chúa, tôi vô cùng ngưỡng mộ vị tôi tớ này của Chúa, bây giờ tôi đã tìm hiểu được bí quyết để đạt được kết quả đó rồi!”
CHƯƠNG 30
TỪ NAM TẦN ĐẾN THƯỢNG HẢI VÀ NINH BA (1931)
Ngọn lửa phấn hưng tại Nam Xương đã lan dần đến Cửu Giang. Công việc truyền giảng của Tống Thượng Tiết tại Cửu Giang cũng được đầy dẫy năng quyền của Chúa Thánh Linh khiến cho các Hội Thánh tại Cửu Giang cũng được Chúa thăm viếng và tẩy sạch tội lỗi như tại Nam Xương. Những “con đỏ” trong Hội Thánh tại Nam Tầm mới được tái sanh, đã viết những bài chứng thực quyền Chúa trên đời sống của họ, được đăng tải trên các tạp chí Cơ đốc giáo, khiến cho tiếng đồn về ân tứ của những sứ điệp phấn hưng của Tống Thượng Tiết vang xa khắp nơi. Hội Thánh nào cũng đạt thư hay điện tín đến mời ông đến giảng phấn hưng cho họ.
Nơi Tống Thượng Tiết nhận lời mời đầu tiên là Hô Hồ, vị giáo sĩ tây phương đang truyền giáo nơi đó không tin là Chúa Cứu Thế Giê-xu đã được sanh ra bởi một người nữ còn đồng trinh. Lực cản trở của tín lý sai lầm đó, cũng như không có người cầu thay đã làm công việc Chúa nơi đây rất trì trệ, thành quả của Đại hội phấn hưng cũng rất khiêm nhường. Sau 8 ngày đại hội, chỉ có 51 người viết bài thực chứng quyền năng của Chúa.
Về đến Thượng Hải, Tống Thượng Tiết chủ tọa cho một trại dưỡng linh của toàn thể tín hữu ở tại đó. Chủ đề sứ điệp của Tống Thượng Tiết tại giáo đường Hội Thánh Bêtên là: ‘Sự huyền nhiệm của sách Sáng Thế và sách Khải Thị’. Tiếp theo ông giảng cho một hội đồng bồi linh tại một Hội Thánh khác kéo dài trong 8 ngày. Vì mỗi ngày chỉ có dịp giảng một buổi nên ông không dám bỏ qua cơ hội, và đã khẩn thiết cầu nguyện xin Chúa cho những sứ điệp đặc biệt mạnh mẽ để tấn công tội lỗi, xin lời Chúa đâm thấu vào lòng tất cả những người đến tham dự đại hội, cho ai nấy đều thống hối về tội lỗi của mình. Sau khi ban phát những sứ điệp đó, ông đã kêu gọi những người muốn ăn năn tội lỗi của mình đến trước tòa giảng quỳ gối cầu nguyện xưng tội với Chúa. Mỗi buổi giảng bồi linh, số người đến tham dự hơn cả ngàn, khiến cho ngôi giáo đường rộng lớn không còn một chỗ trống và sau mỗi bài giảng, đáp ứng lời kêu gọi, người lên trước tòa giảng để cầu nguyện ăn năn xưng tội có hàng 300 đến 400 người. Tiếng khóc lóc thống hối ăn năn làm cho rúng động cả ngôi giáo đường. Quả là một bầu không khí của một cộng đồng được Chúa thăm viếng và phấn hưng. Tống Thượng Tiết được thúc giục kêu gọi những thân hữu đưa tay lên để được cầu nguyện tin nhận Chúa, lập tức hàng loạt những bàn tay giơ cao xin cầu nguyện và xưng tội. Tống Thượng Tiết nhận thức rằng, sự cầu nguyện an ủi cho những linh hồn đang đau thương vì tội lỗi của họ là điều không thể thiếu được của một sứ giả phấn hưng.
Tiếp đến là hội truyền giáo của Năm giáo khu Giám lý tại Nam Kinh tổ chức đại hội phấn hưng và mời Tống Thượng Tiết đến giảng Lời Chúa cho đại hội. Sau khi cầu hỏi ý Chúa và được Ngài cho phép ông đáp xe đến Nam Kinh. Đại hội được tổ chức tại một ngôi giáo đường trong khu mua bán quần áo thuộc trung tâm thành phố. Lúc đầu ban tổ chức đại hội chỉ dành cho sự giảng Lời Chúa trong vòng một tiếng đồng hồ, nhưng về sau vì nhu cầu của sự khát khao của thính giả nên giờ giảng dạy tăng lên hai tiếng đồng hồ và mỗi ngày hai buổi. Nhưng rất tiếc là vì Tống Thượng Tiết bị lên cơn đau tim nên những buổi giảng bồi linh phải thu nhỏ lại và dời đến một địa điểm khác với ngôi giáo đường nhỏ hơn. Những người được đượm nhuần ân phước trong kỳ đại hội này là các sinh viên thần học và những truyền đạo. Sau kỳ đại hội này, Tống Thượng Tiết phải về lại Thượng Hải để nghỉ ngơi.
Lúc đang còn hầu việc Chúa tại Nam Kinh. Tống Thượng Tiết đã được thư của một nữ giáo sĩ thuộc giáo phái Giám lý tại Thường Châu, cô Ella Leverech, mời ông đến giảng Lời Chúa. Lúc mới xem được thư ông đã vội nhận lời, nhưng được bạn bè khuyên ông nên về Hưng Hóa ngơi nghỉ một thời gian là hơn. Cũng lúc ấy, ông nhận được điện tín từ quê nhà mời ông về dạy một khóa huấn luyện. Ông liền hồi âm cho nữ giáo sĩ Leverech nói rõ lý do bệnh hoạn nên không thể đến Thường Châu được. Bệnh tim của ông càng ngày càng trầm trọng khi về đến Thượng Hải. Bác sĩ cho ông hay ít nhất ông phải nghỉ ngơi trong vòng nửa năm. Nhưng trong một đêm kia, Tống Thượng Tiết được Chúa cho biết là ông phải đến Thường Châu để giảng dạy Lời Chúa tại đó. Ngày mà Chúa sai ông ra đi đến ‘đồng lúa’ cận kề, thì đồng thời Chúa cũng chỉ rõ rằng chính kiêu ngạo là cội rễ của căn bệnh đau tim của ông. Bấy giờ, Tống Thượng Tiết xét nghiệm lại tận đáy lòng mình, nhận ra rằng sở dĩ mình đã không nhận lời mời đến Thường Châu vì nơi đây chỉ là một thị trấn nhỏ bé!
CHƯƠNG 31
CỘNG TÁC VỚI GIÁO HỘI BÊTÊN (1931)
Những cơ hội đến thật bất ngờ. Vì thân mẫu mục sư của Mục sư Thạch Mỹ Ngọc – quản nhiệm Hội Thánh Bêtên tại Thường Châu qua đời nên Đoàn Truyền giáo của giáo hội Bêtên đã từ Sơn Đông về để dự tang lễ. Đoàn truyền giáo này không phân biệt nơi phải đến truyền giảng, dầu là thành phố đông đúc hay tỉnh lỵ nhỏ bé ít người. Đoàn đã nhận lời mời của Hội Thánh Thường Châu và đồng thời cũng mời Tống Thượng Tiết gia nhập vào Đoàn. Ông nhận lời của họ đến Thường Châu, để cùng làm việc chung nhưng sau này có gia nhập vào giáo hội Bêtên hay không thì đó là vấn đề khác. Một hôm đang đứng rao truyền Phúc âm thì bệnh tim lại bộc phát, nhưng ông vẫn cố gắng giảng cho xong, qua ngày thứ hai tim ông lại một lần nữa lên cơn đau, nhưng ông cũng không quan tâm lắm, vì ông chỉ cố gắng muốn làm cho Chúa vui lòng, cho nên vẫn lên bục giảng như thường cố quên mình mà hầu việc Ngài. Trước khi giảng ông đã có lời trăng trối: “Có thể đây là lần giảng cuối cùng, nhưng tôi cũng cám ơn Chúa vì còn hơi thở để nói lên lời Ngài”. Và trong khi truyền giảng như lệ thường ông hay chạy lui chạy tới, nhảy lên rồi nhảy xuống bục giảng, và trong lúc hăng say truyền bá Phúc âm ấy thì Chúa đã chữa lành bệnh cho ông.
Sau khi được Chúa chữa lành bệnh, mỗi ngày Tống Thượng Tiết dành hai buổi để giảng phấn hưng cho Hội Thánh và một buổi truyền giảng cho người chưa tin nhận Chúa. Ông cùng với ba vị mục sư khác luân phiên đảm nhận trách nhiệm ban phát sứ điệp của Chúa là các ông Lâm Cảnh Khang, Nhiếp Tử Anh và Lý Đạo Vinh.
Các trường học trong vùng cũng mời họ đến để chủ lễ những buổi thờ phượng buổi sáng. Trong lúc ấy thì Lý Đạo Vinh lâm bệnh nặng, chương trình không có ai đảm trách nên ban tổ chức phải dùng điện thoại đường dài mời Mục sư Kế Chí Văn – đang ở Thượng Hải thăm bà nội lâm trọng bệnh – đến để giúp đỡ trong việc ban phát sứ điệp của Chúa. Mục sư liền đáp xe lửa đi Thường Châu. Mặc dù trời đang mưa tầm tả cũng đến ngay giảng đường, vừa lúc buổi truyền giảng đã bế mạc, thính giả khoảng 700 đến 800 người cũng đã ra về. Hôm đó Tống Thượng Tiết đã dùng đề tài “người con trai hoang đàng hối cải” số người được Chúa bắt phục và ăn năn thật đông. Đặc biệt có một thếiu nữ đã được sự cảm động và ăn năn trong thống hối, cho đến đỗi không thể trờ dậy được. Mặc dù đã quá mệt mỏi sau buổi truyền giảng, Tống Thượng Tiết cũng muốn quỳ xuống bên cô ta để giúp cô cầu nguyện. Đúng lúc Mục sư Kế Chí Văn vào, ông liền mời Kế Mục sư giúp đỡ cho cô ấy. Sau này, Vương Mẫu Học, tên cô gái, thường nhắc lại rằng, cô là bông trái của hai vị Tống và Kế Mục sư. Cô Vương Mẫu Học cũng chính là người sau này giúp cho Tống Thượng Tiết thực hiện xong hồi ký “Lời chứng của tôi”.
Ngày 18 tháng 5 Đoàn Truyền giáo rời Thường Châu đến Thượng Hải. Lúc bấy giờ Tống Thượng Tiết được rất nhiều nơi mời để giảng phấn hưng. Trong lúc đang hoang mang chưa biết phải quyết định đến nơi nào, thì Đoàn Truyền giáo quyết định đến Thanh Đảo. Mục sư Kế Chí Văn gợi ý mời Tống Thượng Tiết cùng đi với đoàn; ông liền chấp thuận vì đã được Chúa cho phép từ trước. Chúa muốn ông đến các hải đảo để hầu việc Chúa và khi nghe đến tên Thanh Đảo, thì ông biết ngay đây là nơi Chúa muốn sai mình đi. Ở Thanh Đảo có nhiều tín hữu thuộc nhóm Linh Ân (Charismatic) họ rất coi trọng những biểu hiện bên ngoài như nói tiếng lạ, hát những ca khúc bộc phát “thiêng liêng”, thấy khải tượng hay là thấy những cơn dị tượng. Nhóm này chủ trương rằng phải có những biểu hiện này mới là bằng chứng xác thực được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Khi nghe vị quản nhiệm triệu tập nhóm lại thì mỗi người như những kịch sĩ đóng vai trò của mình trên sân khấu. Tống Thượng Tiết rất mong muốn giúp họ có sự bình an thật sự đến từ Cứu Chúa và đồng thời cũng thật sự có những ân tứ thiêng liêng đến từ Đức Thánh Linh, nhưng ông chưa tìm ra một giải pháp nào. Khi đoàn truyền giáo lưu động đến một vùng quê hẻo lánh, làng Đại Tân Diệp, Hội Thánh nơi đây do Mục sư Đinh Lập Mỹ quản nhiệm, tâm trí ông đang bối rối, suy nghĩ về những biểu hiện của nhóm Linh Ân. Không thể tập trung tinh thần để giảng nên muốn làm thính giả để nghe Mục sư Kế Chí Văn giảng dạy. Hôm ấy Kế Mục sư đã dùng phân đoạn Kinh Thánh về người đàn bà Samari làm đề tài. Trong khi ngồi nghe Lời Chúa, ông được sự soi sáng từ thiên thượng, ông kể lại rằng: “Sự đầy dẫy Đức Thánh Linh trong những người tin nhận Chúa Cứu Thế trở thành một mạch nước sống trong tâm hồn cho đến đời đời, nhưng có biết bao nhiêu người đang khát nhưng không biết cách nào để có thể uống được mạch nước sống không bao giờ cạn tắt đó. Họ mất công dồn hết sức lực gánh vác những dụng cụ nặng nề đi tìm và kéo nước dưới những giếng xưa cũ sâu thẳm. Nước ấy ngày càng cạn dần, gánh nặng trên vai ngày cũng càng nặng hơn, cho đến bao giờ mới được an nghỉ? Càng mệt nhọc càng khát, càng khát càng phải đi tìm và kéo nước, càng kéo càng múc lại càng khát thêm, rồi gánh vác, rồi mệt mỏi... vòng lẩn quẩn cứ thế quay đi, quay lại... không bao giờ đến nơi ngơi nghỉ được! Ôi! Anh chị em ôi! Tội ác phải được trục xuất ra khỏi tấm lòng thì nước hằng sống mới có thể tràn vào, đừng cất công gánh vác những gánh nặng nề là tội lỗi để đi tìm và múc nước, không phải nước hằng sống. Đức Chúa Trời không dạy cho quý ông bà trở nên thanh sạch trong những dị tượng, nói tiếng lạ hay là tìm vui sướng thỏa mãn trong những biểu hiện ấy. Nhưng Ngài muốn chúng ta là những ống dẫn trống không và tinh sạch, hầu cho nguồn nước sống từ Chúa Thánh Linh có thể tuôn trào đến cho những linh hồn đang khô cạn, khiến cho những tấm lòng khô cằn đó có thể kết những bông trái của Thánh Linh. Vì vậy sự ban cho là nguyên tắc duy nhất đúng để mà nhận được. Dốc đổ lòng mình để trở thành rỗng không, thuận phục trọn vẹn ý chỉ của Đức Chúa Trời, làm chứng về Chúa với tấm lòng đầy yêu thương mới là con đường chính đáng để theo đuổi, tìm kiếm và gìn giữ được sự tràn đầy ân tứ Đức Thánh Linh.
CHƯƠNG 32
TRƯỚC VÀ SAU BUỔI TRUYỀN GIẢNG MÙA HÈ TẠI THƯỢNG HẢI (1931)
I. TỪ SƠN ĐÔNG ĐẾN THƯỢNG HẢI.
Đoàn Truyền Giáo tuần hoàn vừa đến thành phố Tức Mặc tại Sơn Đông thì hay tin nữ truyền đạo phấn hưng Dư Từ Độ đã qua đời, Mục sư Kế Chí Văn cũng được tin bà nội đang hấp hối. Mục sư phải quay lại Thượng Hải, Tống Thượng Tiết tạm thời xử lý công việc Đoàn Truyền Giáo lưu động. Trong dịp này Tống Thượng Tiết thực hành khải tượng mà ông đã nhận được khi đang phục vụ tại Đại Tân: Tống Thượng Tiết bắt đầu bằng cách tổ chức lại những đội ngũ truyền gảing Tin Lành. Sau này khi Đoàn đến truyền giảng tại Tế Nam thì một mình Tống Thượng Tiết đảm trách việc giảng dạy. Ông đã giãi bày tỏ tường chân lý tinh túy về “nguồn nước sống” trong đề tài “Người đàn bà Samari”.
Đoàn Truyền giáo từ Tế Nam đến Thái An, lúc phong trào chống Cơ đốc giáo khởi phát. Các giáo đường bị đập phá, các giáo sĩ tạm thời phải lẩn tránh, các trường thần học của các giáo hội đều bị ngưng hoạt động. Khi Đoàn Truyền Giáo Tin Lành đến những nơi có thể cư trú đó thì ngoài những chiếc giường được đắp bằng đất ra, tất cả những gia dụng khác đều đã bị cướp sạch. Trong hoàn cảnh đó mọi người đều rất nản lòng, và Chúa đã dùng Tống Thượng Tiết đến để nâng đỡ an ủi họ. Đoàn cũng tổ chức được ba lần truyền giảng và đã cứu trên 100 người. Trong số đó có một thanh niên mới 19 tuổi, đời sống của thanh niên như đã phạm đủ cả 10 điều răn, nhưng sau khi nghe Tống Thượng Tiết giảng đề tài “người con trai hoang đàng” thì thanh niên này đã thật sự hối cải ăn năn.
Đoàn rời Thái An đến Dịch Huyện, ông Lâm Cảnh Khang lại ngã bệnh, nhân sự của đoàn chỉ còn ba người hoạt động bình thường. Thính giả tại Dịch Huyện đa số là đàn bà rất ít học, nên Tống Thượng Tiết phải dùng phương pháp trình diễn để mọi người có thể hiểu được dễ dàng. Ông vác lên vai một tảng đá lớn, có vẻ như đi không muốn nổi vì không đủ sức. Ông để tảng đá xuống trên bục giảng, bắt đầu nói về khổ đau của gánh nặng tội lỗi. Sau đó ông hất tảng đá xuống những tấm váng để trên bục giảng, tảng đá va vào ván vang lên một tiếng rầm nặng nề. Ông liền cất tiếng ca hát, khiến cho khán thính giả cảm nhận được niềm vui sướng khi con người được buông tha khỏi gánh nặng tội lỗi. Sau đó Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện cho những người bị bệnh. Lời cầu nguyện của ông rất linh nghiệm, những người hưởng được sự bình an khi tội lỗi được tha thứ có khoảng chừng 80 người. Công việc của Đoàn Truyền Giáo tại tỉnh Sơn Đông thật rất kỳ diệu và hiển nhiên.
Sắp sang năm 1931 nên Đoàn Truyền Giáo phải lo trở về Thượng Hải. Khi trại hè dưỡng linh khai mạc cũng là lúc nội chiến Trung Hoa đến giai đoạn quyết liệt. Trục lộ mọi nơi đều bị phá hoại nên vấn đề giao thông trở nên vô cùng khó khăn, dầu vậy số người đến dự trại vẫn rất đông. Đa số là những tín hữu ở khắp mọi nơi đã được Chúa thăm viếng đặc biệt khi nghe sứ điệp qua Tống Thượng Tiết. Nếu kể những người ở địa phương vùng Thượng Hải thì tổng số lên trên 1.200 người. Chủ đề của đại hội dưỡng linh mùa hè là “Phục Hưng” và đã chia ra những tiểu đề là “Phục hưng trong cầu nguyện”, “Phục hưng trong hát tôn vinh”, “Phục hưng trong đọc Kinh Thánh”, “Phục hưng trong phục vụ”, và “phục hưng trong truyền giảng”. Những sứ điệp của Tống Thượng Tiết đa số xoay quanh chân lý về sự thánh hóa. Một hôm vào khoảng giữa của trại hè, ông đã quá cố gắng trong khi ban phát sứ điệp, nên đã mệt lả và mồ hôi ra đẫm ướt cả chiếc áo dài vải xanh, như vừa lội dưới nước lên vậy. Trước khi chấm dứt, tuy đã kiệt lực, nhưng ông vẫn cố gắng hỏi câu cuối cùng cách thành khẩn và thúc bách: “Thưa các ông bà, anh chị em đã chuẩn bị sẵn sàng chưa? Các anh chị em nghĩ rằng những bàn tay làm việc thiêng liêng của mình đã được rửa sạch chưa? Trong đời sống của anh chị em đã có năng lực của Chúa Thánh Linh chưa? Nếu chưa có, hãy xin Chúa ban cho, hãy cầu nguyện, hãy đứng dậy cầu nguyện đi!” Sự đáp ứng của hội chúng là thường thường tất cả đều đứng dậy. Đồng tâm cầu nguyện vì chính mình và vì mong muốn đồng bào Trung Hoa sớm được quay về với Cứu Thế Giê-xu mà lên tiếng cầu thay. Cảnh tượng của hội chúng đồng thanh cầu nguyện lúc ấy cơ hồ như những bàn tay đưa lên, đưa lên cao có thể với tới cây gậy bằng vàng của vị nguyên soái đại quân. Hội chúng cầu xin điều gì đều được đáp ứng điều ấy. Cảnh huống ấy không những xảy ra hằng ngày mà có thể nói là đã xảy ra thường xuyên trong các buổi thờ phượng bồi linh. Sau khi cầu nguyện tương giao với Chúa, gương mặt của các đại biểu đều ngời sáng như phản chiếu niềm vui thiên thượng khi đã nhận được báptem bằng Thánh Linh.
Trong những lớp học Thánh Kinh, Tống Thượng Tiết dạy về Phúc Âm Mác và sách Công Vụ. Ông tuyên bố rằng: “Phúc âm Giăng là phương thuốc của Thượng Đế để chữa trị căn bệnh tội lỗi, và sách Công Vụ là bài học quý báu nhất về sự đầy dẫy Đức Thánh Linh”. Trại hè dưỡng linh kéo dài trong 10 ngày và ngày cuối cùng dành cho hội chúng làm chứng. Rất nhiều những Mục sư quản nhiệm các Hội Thánh lớn, dạn dĩ đứng trước hội chúng, thừa nhận những tội lỗi của mình như: Không có lòng yêu thương, không có lòng nóng nảy hầu việc Chúa, đồng thời họ cũng nói ra những khải tượng họ nhận được trong kỳ trại này. Họ đã đồng tâm đem đời sống mình dâng lên trước bàn thờ của Chúa. Buổi làm chứng bế mạc cho trại hè kéo dài vài tiếng đồng hồ. Người dự trại có cảm tưởng rằng nếu chưa xưng hết tội lỗi của mình ra thì trại hè chưa kết thúc được. Chính Tống Thượng Tiết mục kích tận mắt những con người được Đức Thánh Linh thôi thúc thú tội lỗi của mình và những người thú tội được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Ngày bế mạc trại hè là một ngày vui mừng, phước hạnh chưa từng thấy và không thể tả cho cùng.
II. TAI BIẾN TRÊN HÀNH TRÌNH VỀ HƯNG HÓA.
Vợ của Tống Thượng Tiết, nữ sĩ Dư Cẩm Huê, là một trong những người theo dự trại hè dưỡng linh. Khi trại bế mạc, Tống Thượng Tiết định cùng với vợ về quê. Trước khi khởi hành, Chúa đã báo cho ông biết là trên đường về sẽ gặp một tai biến lớn, nhưng ông không thể biết đó là tai biến loại hạng nào: Gặp hải tặc? Hay tai nạn đắm tàu? Lâm trọng bệnh giữa đường? Hay tai nạn đột ngột chết người? Những người cùng chung chuyến tàu hôm ấy đa số đều cùng quê Hưng Hóa. Khi nghe Tống Thượng Tiết báo trước cho biết trên đường về sẽ gặp tai biến không lường trước được, không ai chịu tin. Có người chỉ nhếch mép cười, không thèm để ý, cũng có người nói những lời trù ẻo, không may mắn trước khi khởi hành! Nếu biết trước có tai biến sẽ phải xảy ra, tại sao ông cùng đi chung chuyến tàu đó?
Đông Cảng là tên chiếc tàu hàng chở đoàn người đi dự trại hè về Hưng Hóa. Ngày thứ nhất thì gió lặng sóng bằng, nhưng qua ngày thứ hai thì chiếc máy hơn nước trên tàu bỗng nhiên bị nổ tung, chiếc tàu mất thăng bằng nghiêng lệch hết bên này rồi nghiêng sang bên kia, hành khách hầu hết đều bị say sóng rất nặng. Tống Thượng Tiết nghĩ ngay đến việc thành lập nhóm cầu nguyện, mời tất cả tín hữu trên tàu đều tham gia, có người đồng ý, cũng có người hứa tham gia, nhưng thật ra chưa ai dám lên tiếng cầu nguyện. Nước uống trên tàu đã cạn, chiếc máy hơi nước thứ hai cũng nổ nốt, thân tàu bị chấn động mạnh vì sức ép của tiếng nổ, nên bị bể nhiều nơi và nước biển tràn vào lòng tàu. Thủy thủ đoàn bắt đầu ném hàng hóa xuống biển, hy vọng cho tàu nhẹ bớt. Họ cũng chia phiên nhau tát nước trong tàu ra để giữ cho con tàu nổi trên mặt nước, nhưng tất cả chỉ là công dã tràng, mọi người đều thấy rõ là chỉ vài giờ đồng hồ nữa thôi thì con tàu sẽ chìm hẳn. Tiếng khóc than đã vang lên khắp nơi trên tàu. Lúc bấy giờ những người ấy mới họp cùng những tín hữu mà cầu nguyện. Riêng Tống Thượng Tiết, người chỉ trầm tư lặng yên mà chiêm ngưỡng Giê-hô-va Đức Chúa Trời Hằng Hữu. Bỗng nhiên cảnh tượng chìm tàu của Sứ đồ Phao-lô trong khi bị giải qua Ý đại lợi như được quay diễn lại thật rõ ràng. Ông tin chắc rằng cho dầu có xảy ra bất cứ chuyện gì thì cũng không nguy hại được đến tính mạng nên ông thật bình tĩnh và can đảm yên ủi, khích lệ mọi người trong cơn nguy kịch đó. Giống hệt như thái độ và hành động của Phao-lô trên con tàu Alexandria ngày xưa. Trong khi mọi người trên tàu đều ngóng trông vào biển cả mênh mông, chỉ hy vọng có một chiếc tàu nào trông thấy mà đến cứu nguy! Họ trông ngóng như thế từ sáng đến trưa thì bỗng thấy một con tàu thật lớn từ xa tiến đến, mọi người như tìm lại được sự sống của mình. Nhưng rồi họ lại càng thất vọng khi nhìn thấy tên con tàu ấy là Lôsơn Maru, là một chiếc tàu chiến của Nhật. Lúc bấy giờ liên hệ ngoại giao cũng như quân sự giữa Trung Hoa và Nhật Bản không được tốt, nên tình cảm giữa hai dân tộc Trung-Nhật rất tồi tệ. Hành khách trên tàu đều lo nghĩ rằng thật khó để người Nhật ra tay cứu giúp họ. Trong khi đó thì thân tàu từ từ chìm xuống lòng biển, cơn nguy khốn đã đến bước đường cùng, mọi người đã bó tay để chịu chết. Trong cơn cùng khốn đó họ chỉ còn biết đưa những cánh tay vô vọng lên vẫy gọi cầu cứu! Những tín hữu thì cầu nguyện thầm, xin Chúa cảm động lòng những con người của con tàu bên kia. Tống Thượng Tiết đứng ra đảm trách vai trò lãnh đạo, tay cầm một lá cờ màu đỏ vừa vẫy gọi vừa dùng tiếng Anh kêu gọi sự giúp đỡ. Chiếc Lôsơn Maru từ từ tiến lại gần, thủy thủ trên tàu đó ra giá trả cho họ 300 đồng thì họ sẽ giúp đỡ. Như vậy chứng tỏ họ cũng còn đôi chút lương tâm. Họ cho một chiếc xuồng nhỏ qua để vớt những người sắp chết chìm. Chiếc xuồng mỗi lần chỉ chở tối đa được 10 người. Hành khách trên tàu giành nhau đu dây thừng để xuống được chiếc xuồng cứu nạn. Có một nữ hành khách đánh rơi hầu bao nữ trang của mình trị giá 600 đồng, vì quá tiếc của nên đã nhảy theo hầu bao nữ trang của mình mà chết. Có những hành khách tưởng mình có đủ khả năng nên đã nhảy từ trên boong tàu xuống chiếc xuồng con, nhưng vì không chính xác nên cũng đã rơi tỏm vào lòng biển sâu mà chết. Cũng có nhiều người đu dây xuống được nửa chừng nhưng không đủ sức nên đã buông tay rơi xuống biển mà chết. Cảnh huống hỗn loạn đó đã khiến mọi người kinh hoàng và run sợ.
Sau này, người ta tìm được trong di bút của Tống Thượng Tiết, ông đã ghi lại: “Con người sống y như đang nổi trôi trong biển tội lỗi, không ai có thể ỷ lại vào tài sức của mình, chẳng một ai có thể tự lực mà cứu mình thoát chết trong cảnh dập dồi đó. Nếu con người không chịu khước từ những vinh phù hoa của cuộc đời để đi vào con tàu của Nôê đang mời gọi thì làm sao có thể đi đến bến bờ bên kia?”
Khi mọi người còn sống đã lên được trên con tàu của người Nhật, họ nhìn qua con tàu Đông Cảng, hình như có một lực vô hình giữ cho chiếc Đông Cảng không chìm hẳn xuống lòng biển. Sau này chiếc Đông Cảng được kéo về bến, hành khách của chuyến đi ấy đã lấy lại được hành lý của mình. Tống Thượng Tiết cũng ở trong số những người may mắn ấy. Về đến quê Hưng Hóa, Mục sư Tống Học Liên chẳng những vui mừng vì đoàn tụ được với con sau một cơn nguy biến, nhưng cụ còn vui mừng hơn nữa vì nhận thấy đời sống Tống Thượng Tiết đã được thay đổi một cách diệu kỳ và quyền năng của Chúa Thánh Linh đầy dẫy trong sự giảng dạy lời Chúa. Nhưng hai cha con chỉ được gặp nhau quá ngắn ngủi, vì Tống Thượng Tiết đã cam kết với Đoàn Truyền Giáo Phúc âm Bêtên là sẽ cùng với Đoàn lên truyền giáo miền Đông Bắc Trung Hoa.
CHƯƠNG 33
LÊN MIỀN ĐÔNG BẮC VỚI ĐOÀN TRUYỀN GIÁO PHÚC ÂM BÊTÊN MÙA THU 1931
Khi Tống Thượng Tiết về đến Thượng Hải thì những người khác trong Đoàn đã do Mục sư Kế Chí Văn hướng dẫn lên miền Đông Bắc rồi. Tống Thượng Tiết và Lâm Cảnh Khang nối gót theo sau. Trên đường đi Chúa cho Tống Thượng Tiết một khải tượng “một cây thập tự đang chờ trước mặt”. Tống Thượng Tiết đã ghi lại rằng: “Từ khi tôi thoát qua tai nạn đắm tàu thì Đức Thánh Linh, Đấng đã cảm động Phao-lô, cũng đã cảm động tôi, dạy cho tôi bài học “đừng lo lắng chi hết”. Dù sống hay chết thì Chúa Cứu Thế Giê-xu cũng sẽ vinh hiển qua đời sống của tôi. Tôi không thể lo cho tính mạng của mình, cũng không thể xem trọng mạng sống mình nữa. Chỉ mong đi trọn con đường của mình và hoàn thành những trách nhiệm đã nhận lãnh từ nơi Chúa Giê-xu là bày tỏ Phúc âm về ân điển của Thượng Đế.
Hai vị Tống, Lâm đến thành phố Đại Liên vào đúng dịp Đại Hội hai năm một kỳ của giáo phái Lutheran khai diễn ở thành Phượng Hoàng. Những tín hữu đến dự có các đại diện của miền Đông Bắc khoảng trên 200 người và cũng có những đại diện của nhiều giáo phái khác đến dự với tính cách quan sát. Riêng nhóm truyền giáo Phúc âm Bêtên tạm trú trong một ngôi nhà cũ kỹ chờ cơ hội. Quả nhiên ban tổ chức đạt lời mời Tống Thượng Tiết ban phát sứ điệp. Tống Thượng Tiết đầy quyền năng trong khi giảng dạy lời Chúa. Kết quả có 25 vị đại diện các Hội Thánh người Trung Hoa và 2 giáo sĩ tây phương không sao có thể ngăn cản được sự thôi thúc của Chúa Thánh Linh, bất chấp mọi dư luận đã tự ý đi lên trước tòa giảng và quỳ gối xuống cầu nguyện lớn tiếng ăn năn xưng ra tất cả những tội lỗi của mình. Số Giáo sĩ tây phương còn lại thì có ý chống đối hành động đó nên họ đã ra lệnh những người được Chúa thăm viếng không được làm ồn ào. Nhưng Mục sư Kế Chí Văn đã khiển trách những hành động có tính cách phản đối ấy. Qua ngày Đại Hội thứ hai về phía các giáo sĩ tây phương đã đưa ra những lời thách thức và trực tiếp dọa nạt, nếu vẫn tiếp tục mời những diễn giả “vô lễ” ấy thì họ sẽ chấm dứt không trợ cấp tài chánh nữa! Những Mục sư Trung Hoa thuộc giáo phái Lutheran nghe như vậy thì sợ giáo hội của mình sẽ phải ngưng hoạt động vì không có phương diện tài chánh, nên ban tổ chức Đại Hội Đồng Lutheran đã ra lệnh trục xuất những người trong Đoàn Truyền Giáo Phúc âm Bêtên ra khỏi hội đồng.
Qua sự kiện này, Tống Thượng Tiết cảm thấy thật đau lòng. Sau này, trong nhật ký, ông đã ghi: “Những người tín hữu Tin Lành của Trung Quốc ơi, tại sao cứ phải mãi nương tựa vào sự trợ giúp tiền bạc của người ngoại quốc? Cứ làm thân phận một con ký sinh trùng? Thật là đáng thương, chúng ta phải chiêm ngưỡng và tin rằng Chúa là “Cha giàu có”, Ngài có tất cả để giúp chúng ta vững tâm mà tự truyền, tự dưỡng, tự trị và tự lập. Đã đến lúc chúng ta không nên nương nhờ vào người khác nữa”.
Trước khi Đoàn Truyền Giáo Bêtên giã từ Đại Hội Đồng của giáo phái Lutheran, họ đã cùng nhau hát: “Thập giá Chúa, thập giá Chúa, vinh hiển tôi muôn muôn đời, cho đến qua bên kia bờ rồi, ngày đêm an lạc thảnh thơi”. Trưa hôm ấy họ đã vẫy tay chào những cử tọa Đại Hội Đồng và ra đi. Khi Đoàn Truyền Giáo ra ga xe lửa để đến Thẩm Dương, thì thấy tại đó đã có nhiều đại biểu từ Đại Hội đã chực sẵn để tiễn đưa họ. Tuy mới quen nhau, nhưng tình cảm thật là đậm đà thắm thiết, họ không muốn chia tay nhau. Trong số ấy, có những người đã than thở cùng Tống Thượng Tiết rằng: “Hôm qua họ chỉ được đứng ngoài giáo đường, dựa vách để nghe giảng, nhưng trong lòng cảm động muốn ăn năn và tin nhận Chúa”. Quả thật đó là những lời đầy khích lệ cho Tống Thượng Tiết và phái Đoàn đang khi thất vọng.
Trước khi Đoàn Truyền Giáo rời Đại Liên, những đại diện cho Giáo Hội Trưởng lão Thẩm Dương, yêu cầu Đoàn khai mạc Đại Hội ở Thẩm Dương sớm hơn như đã định vài ngày. Thật ra thì cũng đã có một số các vị Mục sư, Truyền đạo đến đây để truyền giáo, lòng của người dân tại đây cũng đã được Chúa Thánh Linh thăm viếng, họ cũng đang khao khát lời Chúa. Khi Đoàn Truyền Giáo đến Thẩm Dương thì họp với những vị Mục sư, Truyền đạo thành lập một ban cầu nguyện phấn hưng. Họ đã cầu nguyện một cách thiết tha, có những ngày họp nhau cầu nguyện đến 8,9 lần. Khẩn đảo xin Chúa mở cánh cửa truyền giáo tại Thẩm Dương. Cũng xin Chúa làm việc trong lòng những người dân tại đây và khiến cho vô số người tiếp nhận Chúa. Tại đây cánh cửa đã mở, Chúa đã nghe tiếng cầu xin khẩn đảo ấy: Có trên 800 người được ân sủng của Chúa. Sau khi tin nhận Chúa, họ đã nối gót nhau đến nơi trọ của Tống Thượng Tiết và của Đoàn để đàm đạo cá nhân. Trong số đó có 70,80 người đặc biệt được Chúa thăm viếng. Họ đã thống hối, cầu nguyện ăn năn những tội lỗi của mình nên họ đã được hồng ân tha thứ, cũng được Chúa đặc biệt kêu gọi để được đào tạo gia nhập vào những đoàn truyền giáo. Ngoài ra Tống Thượng Tiết còn nhận được 279 bức thư làm chứng về kinh nghiệm được tái sanh.
Đoàn Truyền Giáo của Chúa bị sỉ nhục và bị đuổi khỏi Phượng Hoàng, nhưng lại được khích lệ lớn tại Thẩm Dương. Phía sau sự khổ nhục của Thập tự giá là ngày phục sinh hiển vinh. Đó là một nguyên lý không bao giờ sai lệch.
Sáng ngày 18 tháng 9 Đoàn Truyền Giáo rời khỏi Thẩm Dương thì chiều hôm đó đã xảy ra một biến cố lớn. Các sử gia Trung Hoa gọi là “Thẩm Dương sự biến” hay còn gọi là “Cứu nhất bát sự biến” (Biến cố Thẩm Dương hay biến cố 18 tháng 9). Số là quân đội Quan Đông Quân của Nhật Bổn chớp nhoáng tấn công và chiếm Thẩm Dương, dùng Thẩm Dương làm bàn đạp để đánh chiếm toàn vùng Đông Bắc. Biến cố này là chiếc ngòi nổ của 8 năm chiến tranh Trung – Nhật sau này. Khi Đoàn Truyền Giáo đã đến Hắc Long Giang mới hay tai biến vừa xảy ra tại Thẩm Dương. Một mặt họ cám ơn sự dẫn dắt tuyệt diệu của Đức Chúa Trời. Ngài đã để cho Đoàn bị sỉ nhục và bị đuổi khỏi Phượng Hoàng nên mới tổ chức được đại hội phấn hưng tại Thẩm Dương bắt đầu sớm hơn dự định và chấm dứt cũng sớm hơn. Nếu không thì họ đã nằm gọn trong không gian và thời gian của chinh biến. Mặt khác Đoàn cũng cầu nguyện xin Chúa giữ gìn, ban phước cách đặc biệt cho những tín hữu mới, cũ tại Thẩm Dương và giao thách họ trong cánh tay toàn năng của Ngài.
Tại Hắc Long Giang có một Hội Thánh của giáo hội Giám Lý ở trong một tình trạng thật đáng thương. Mục sư quản nhiệm của Hội Thánh đó không được nóng cháy lắm, nên tổng số tín hữu quá ít chỉ đếm đủ trên đầu ngón tay! Khi Đoàn Truyền Giáo đến và truyền giảng đêm đầu thì vị Mục sư “hâm hẩm” đó cũng mời chiếu lệ các thân hữu đến dự, khuyên họ nên tin nhận Chúa, từ bỏ tội lỗi, rượu chè, hút xách... Lời ông vừa mới nói ra khỏi miệng thì bao nhiêu chuyện phiền toái lớn xảy ra. Trưởng lão của Hội Thánh đó vốn là một kẻ nghiện thuốc, còn vị chấp sự là một tay buôn lậu muối. Hai vị này đã nổi giận, lấy cớ rằng quân đội Nhất sắp tấn công, không thuận tiện cho việc nhóm họp đông người và đuổi khéo Đoàn Truyền Giáo nên đi nơi khác. Đây là lần thứ hai Đoàn Truyền Giáo của Chúa bị đuổi. Vì vậy Đoàn đã đến thành phố Harbin sớm hơn dự định hai tuần. Những ngày đầu Đoàn chỉ truyền giảng tại một ngôi giáo đường nhỏ, nhưng sau đó Đoàn đã nhờ vị Mục sư quản nhiệm xin phép với hội Liên Hiệp để được truyền giảng tại giảng đường lớn của họ ở cửa Tây thành phố. Giữa những tín hữu của Hội Liên Hiệp thì đã không có sự liên hiệp, bất đồng ý kiến về nhiều vấn đề; Ngày Chúa Nhật cũng phải chia ra làm hai xuất thờ phượng khác nhau giữa nhóm này với nhóm kia. Nhưng thật là may mắn, họ lại chịu cho phép Đoàn Truyền Giáo hoạt động tự do. Trong sứ điệp của đêm bế mạc, Tống Thượng Tiết với bao nhiêu lời tâm huyết dạy dỗ về tình yêu thương, hiệp một... Nghe xong một số tín hữu tham dự đã bắt tay làm hòa với nhau trong tình thương và cởi mở.
Chắc chúng ta còn nhớ ông bà giáo sĩ C.S.Damin mà chúng ta có nhắc đến ở chương 19. Ông bà được Giáo hội bổ nhiệm đến làm việc tại Harbin. Khi Đoàn Truyền Giáo vừa đến, bà Damin đã sớm nhận ra một trong năm người của đoàn là bạn chí thân của họ, tiến sĩ Tống Thượng Tiết. Sau những ngày truyền giảng và những buổi thờ phượng phấn hưng đã qua, ông bà Damin đề nghị Đoàn Truyền Giáo nên lưu lại Harbinh ít ngày nữa, trước là để nghỉ ngơi dưỡng sức, thứ đến là mời Đoàn thăm Hội Thánh Giám Lý của người Đại Hàn và giảng bồi linh cho họ. Đoàn Truyền Giáo đồng ý nên dọn ra khỏi nhà trọ của hội Y.M.C.A và đến trọ tại tư thất của ông bà Damin. Tống Thượng Tiết và ông Lý Đạo Vinh ở ngoài phòng khách còn ba vị còn lại tạm nghỉ ở thư phòng. Ông bà giào sĩ này có tạm thời mướn tạm một người thợ may đang thất nghiệp để giúp việc Đoàn Truyền Giáo. Ông bà Damin đã chu đáo chăm sóc họ từng bữa ăn cho đến áo quần, giày vớ không thiếu một món cần dùng nào. Nhưng điều khiến cho Tống Thượng Tiết cảm động hơn cả là tâm tình thương mến của bà Damin. Nhân viên của Đoàn Truyền Giáo người nào cũng phải dậy từ lúc bốn giờ sáng để tĩnh nguyện, đọc Kinh Thánh và suốt ngày lo việc truyền giảng. Nhiều khi về đến nhà thì đã quá khuya và người nào cũng mệt nhoài. Lắm lúc chưa ngả lưng lên ghế họ đã ngủ rồi, chẳng buồn cởi giày, vớ. Bà Damin phải đích thân đi cởi giày, vớ cho từng người và nhẹ nhàng đắp chăn ấm lên mình họ. Trước cử chỉ thân thiết đó, Tống Thượng Tiết nhớ lại một lời trong Thánh Kinh: “Này là thân thể Ta vì các con mà phó cho”.
Hội Thánh người Nga cũng mời Đoàn đến thăm và Tống Thượng Tiết cũng giảng bồi linh cho họ. Dân tộc Slau vốn giàu tình cảm nên nghe ông giảng chưa hết bài họ đã cảm động dầm dề nước mắt. Hội Thánh Đại Hàn mời Tống Thượng Tiết giảng bằng Anh ngữ và Giáo sĩ Damin thông dịch qua tiếng Đại Hàn. Về phương diện xúc cảm và nồng nhiệt người Đại Hàn không bằng người Nga nhưng về mặt khát khao Lời Chúa có lẽ không ai bằng họ. Có một chủ nhân của một hãng xưởng lớn, sau khi nghe truyền giảng đã tin nhận Chúa. Ông này xin Tống Thượng Tiết tổ chức cho một buổi truyền giảng lộ thiên cho hơn 1000 công nhân đang làm việc cho ông ta.
Các Hội Thánh tại Harbin vốn cũng có tình trạng chia rẽ, không ai thuận phục ai, nhưng sau khi được nghe những sứ điệp bồi linh do Tống Thượng Tiết thì họ đã thành lập những nhóm cầu nguyện tuần hoàn tại các giáo đường của nhau. Khi Đoàn Truyền Giáo rời Harbin thì họ nhận được rất nhiều thư từ các tín hữu. Nhiều cho đến đỗi phải đựng trong bao đựng bột mì lớn. Họ đã cám ơn Đoàn và cảm tạ ơn Chúa, rất nhiều người hỏi những vấn đề tương quan đến giáo lý, có 75 lá thư làm chứng về quyền năng của Chúa.
Vấn đề tài chánh của Đoàn gặp khó khăn khi sắp rời Harbin. Để giảm bớt chi phí họ đã đồng ý một số ở lại Harbin chờ đợi, còn Tống Thượng Tiết cùng Lý Đạo Vinh đi lên miền Hô Lan và Tuy Hóa.
Tại Hô Lan có một trường thuộc hội YCMA. Có hiệu trưởng, bốn giáo viên cùng một số rất đông học sinh của trường quyết định tin nhận Chúa sau khi nghe Tống Thượng Tiết giảng và kêu gọi. Hai ông Tống và Lý cũng tổ chức truyền giảng tại các Hội Thánh người Nga. Như thường lệ ông cũng dùng đề tài “Năm cái bánh và hai con cá”, nhưng lần này có rất nhiều thân hữu đã chịu sự cảm động sâu xa. Họ đã mạnh dạn tiến lên toà giảng tin nhận Cứu Chúa Giê-xu, sau bài gảing và lời kêu gọi. Có độ 50 người Nga thuộc ba tỉnh của miền Đông Bắc. Có một người bị tà linh ám nên đã đốt Kinh Thánh đến 10 lần, nhưng khi Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện thì liền được chữa lành. Cũng có một người kia cùng một lúc bị hai quỉ dữ nhập, một nhập bên trong và một cai quản bên ngoài. Chúng quấy rối người ấy dữ dội, nhưng khi được Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện thì hai quỷ dữ ấy đã ra khỏi. Lúc đó Tống Thượng Tiết mới nhận ra rằng, mình cũng có ân tứ đặt tay cầu nguyện đuổi quỉ như các sứ đồ ngày xưa.
Giáo Hội Lutheran ở miền Bắc có một bệnh viện, một trường học và một nhà thờ, và một số nhà của các giáo sĩ ở sát nhau, tạo thành một khu riêng của Giáo Hội. Trước kia họ tuyệt giao với nhiều Đoàn Truyền Giáo, nhưng nay họ lại mời hai họ Tống, Lý đến truyền gảing trong “giáo khu” của họ trong vòng 3 ngày. Số người đến tham dự những buổi truyền giảng có chừng 200 người, phần đông là những học sinh trường Tam Dụ. Nhờ kinh nghiệm học được tại Phượng Hoàng, Tống Thượng Tiết giữ phong thái trầm tĩnh hơn. Khi hướng dẫn những bài thánh ca ông không vừa hát vừa vỗ tay, ông cũng không kêu gọi đồng thanh cầu nguyện (mỗi người tự do cầu nguyện lớn tiếng cùng một lúc). Lúc giảng dạy, ông chỉ đứng nguyên một chỗ sau bục giảng, chứ không tự do đi lui đi tới, hay nhảy lên nhảy xuống bục giảng như thường làm. Vì vậy những giáo sĩ ngoại quốc chỉ ngấm ngầm chống đối chứ không có lý do gì để phản đối. Tống Thượng Tiết cũng biết được trong vòng những giáo sĩ này cũng chia bè, lập phái, cũng có sự tranh cạnh giữa những nhân viên ngoại quốc và những cộng sự người Trung Hoa. Có một lần, sau khi giảng dạy, ông đã mời tất cả những vị lãnh tụ cũng như những bác sĩ, y tá, giáo viên, Mục sư, Truyền đạo và các giáo sĩ đến trước bục giảng. Đây là lời mời gọi thật bất thường, nhưng được sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, mọi người đều thuận phục bước lên phía trước. Tống Thượng Tiết lớn tiếng hỏi tội chúng rằng: “Quí vị có thương yêu các bậc lãnh đạo cũng như những người phục vụ cho quí vị không?” Hội chúng đồng thanh đáp: “Yêu!” Ông hỏi tiếp: “Như vậy quí vị cầu nguyện cho họ như thế nào?” Hội chúng đáp rằng: “Chỉ mong họ yêu thương lẫn nhau và cùng nhau hợp tác làm việc”. Tống Thượng Tiết bèn mời tất cả mọi người quỳ gối cầu nguyện. Khi cuộc cầu nguyện đã đến độ nóng cháy, hầu như mọi người đều khóc, nhưng chưa có ai đủ can đảm để xưng nhận tội lỗi của mình ra. Tống Thượng Tiết bèn cất tiếng hỏi những người đồng công người Trung Hoa: “Các bạn có thù ghét ai không?” Có vài người lên tiếng: “Tôi căm ghét những vị giáo sĩ”. Tống Thượng Tiết liền ra lệnh cho những người ấy: “Như vậy thì phải đến nói chuyện với các vị giáo sĩ đó và xin lỗi họ đi”. Họ tuân lệnh của ông và đến xin lỗi những vị giáo sĩ mà họ thù ghét xưa nay. Tống Thượng Tiết quay lại nói với các vị giáo sĩ ấy rằng: “Những người này hận thù các ông, như vậy các ông cũng phải có những tội cần phải xưng ra”. Các giáo sĩ bèn xưng tất cả những tội lỗi của mình trước hội chúng và ngọn lửa phấn hưng bùng cháy. Khi ngọn lửa Thánh Linh đã thiêu đốt tất cả những tội lỗi thì hận thù oán ghét biền thành thương yêu trìu mến. Buổi nhóm họp đã chấm dứt, còn rất nhiều người đến phòng của Tống Thượng Tiết để hiệp chung cầu nguyện. Thời gian của kỳ Đại Hội Phấn Hưng tại Tuy Hóa chỉ có ba ngày kể cả thời gian đi và về, nhưng những tín hữu hãy còn khao khát Lời Chúa, nên đồng ý là chưa chia tay vội. Trên 70 người họp nhau tổ chức một buổi họp mặt đưa tiễn và mời Tống Thượng Tiết chia sẻ lời Chúa lúc 5 giờ 30 sáng. Sau đó họ đưa Đoàn Truyền Giáo ra ga xe lửa để kịp chuyến xe 7 giờ 30. Người tiễn và người đi đều bịn rịn, chưa muốn chia tay. Tống Thượng Tiết từ trong cửa toa xe lửa, với đầu ra nhắn lại cho khách tiễn đưa những câu Thánh Kinh quí báu thay cho những lời giã từ. Những tín hữu tại sân ga đưa tiễn, họ hát những bài Thánh Ca, tiếng hát càng ngày càng lớn, khiến cho những nhân viên an ninh phải đến gần quan sát, tưởng đã xảy ra chuyện không hay.
Sáng hôm ấy có những người Nhật và người Nga đến ga xe lửa để đón những nhân vật quan trọng của chính phủ họ. Thấy quang cảnh này đều lấy làm lạ không hiểu ông Tống này là ai mà khiến cho nhiều người thương yêu và ngưỡng mộ đến như vậy?
Tống Thượng Tiết và Lý Đạo Vinh cấp tốc trở về Harbin. Phối hợp với ba vị kia tổ chức một buổi bồi linh ngắn gọn, rồi rời khỏi đây sớm vì còn rất nhiều nơi khác đang chờ đón họ. Đoàn Truyền Giáo dự định là sẽ trở lại Thượng Hải trước Lễ Giáng Sinh. Nên cả Đoàn cùng đi đến nhiều nơi thì chắc chắn là không đủ thì giờ. Buộc lòng họ phải chia ra để đi cho kịp. Tống Thượng Tiết đến Trường Xuân, bốn vị kia đến những nơi khác như Triều Dương Trấn... và họ hẹn gặp nhau tại Doanh Khẩu. Lúc ấy trong Đoàn đã bắt đầu có những ý kiến mâu thuẩn. Dù chưa đến nỗi trầm trọng đến rạn nứt, nhưng những nọc độc của chia rẽ đã bắt đầu ngấm ngầm. Tại Trường Xuân, Phong Thái khi ban phát sứ điệp của Chúa Tống Thượng Tiết rất trầm tĩnh, ông cũng không kêu gọi hội chúng đồng loạt đứng lên cầu nguyện vì vị Mục sư sở tại đã xin Tống Thượng Tiết đừng khơi động tình cảm của “quần chúng”. Nhưng Chúa Thánh Linh đã làm việc trong Đại Hội. Mỗi lần Tống Thượng Tiết giảng xong đều có những người tự động đi lên phía trước cầu nguyện xưng tội. Một trong những người lên đó chính là vị Mục sư sở tại!
Khi Tống Thượng Tiết đến Chiết Lâm thì nơi này đã bị quân đội Nhật chiếm đóng. Những tín hữu người Đại Hàn, một số đã bị bắt giữ, đa số còn lại đã đào thoát đến chốn khác gây cho Giáo Hội một tình cảnh hoang mang, kinh hoàng. Triết Lâm vốn có hai Hội Thánh của Giáo Hội Trưởng lão, mà một thì vui mừng đón tiếp Tống Thượng Tiết còn một thì chống đối kịch liệt! Mục sư quản nhiệm của Hội Thánh hoan nghênh Tống Thượng Tiết là diễn giả của sự phấn hưng. Hội Thánh do ông này chăn giữ rất hưng thịnh, có khoảng trên 300 tín hữu. Họ đồng tâm với Tống Thượng Tiết cầu nguyện cùng cầu thay cho đồng bào chưa biết Chúa đang sống quanh vùng. Họ cũng cầu xin Chúa “bắt phục” lấy số đồng bào chưa tin này. Tại đây Tống Thượng Tiết học được hai chữ “bắt phục”. Ông cũng học thêm được một điều là nếu muốn bắt phục thì phải trả một giá là cầu thay. Do sự cầu thay của Hội Chúng, Chúa thật đã bắt phục rất nhiều tội nhân trong vùng, kể cả một số tín hữu lâu năm trong Hội Thánh.
Đây là một vài trường hợp đã được Chúa “bắt phục”:
- Tại Hội Thánh Trưởng lão chống đối có một vị Mục sư kịch liệt đả phá Tống Thượng Tiết. Ông này đã không những không cho tín hữu của Hội Thánh ông đi nghe Tống Thượng Tiết truyền giảng, mà chính ông cũng từ chối không chụp hình chung với Tống Thượng Tiết. Vào buổi giảng phục hưng cuối cùng, ông ta đã đến nghe và đã được Chúa Thánh Linh bắt phục. Ông ta đã đứng lên trước hội chúng và thú nhận ông đã không dành thì giờ đọc Kinh Thánh và tĩnh nguyện với Chúa hơn 6 năm nay.
- Một vị bác sĩ họ Lâm, từ khi tin nhận Chúa cho đến nay chưa bao giờ quỳ gối cầu nguyện, một hôm trong phòng giải phẫu bỗng nhiên cánh tay ông trở nên trơ cứng, không sao cử động được. Ông liền quỳ gối cầu nguyện xin Chúa chữa lành, Chúa quả đã nghe lời cầu nguyện và chữa cho ông được khỏi bệnh “cứng tay”.
- Một tên anh chị, trước kia là một võ sĩ quyền anh, anh ta đã nhúng tay vào vụ giết một giáo sĩ vào năm Canh Tí. Sau khi thi hành tội ác ấy cánh tay của anh bị sưng lên, đau đớn và từ đó đến nay không khỏi được. Hôm đi nghe truyền giảng, sau bài giảng Tống Thượng Tiết đã hỏi hội chúng: “Chúa Giê-xu ngày ấy có thể cứu tên cướp bị đóng đinh bên cạnh Chúa, thì ngày hôm nay có thể cứu quí vị chăng?” Tên anh chị này đã mạnh dạn đưa tay lên xưng nhận niềm tin: “Có thể!” Cánh tay của anh ta liền được chữa lành. Thấy phép lạ kỳ diệu như vậy, nhiều người đã tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu và qui vinh hiển về cho Ngài.
Những ngày truyền giảng ở Chiết Lâm có rất nhiều người tin nhận Chúa và xin chịu Thánh lễ Báptêm. Thông thường thì những tân tín hữu phải qua một giai đoạn “khảo sát đức tin”, nghĩa là phải có một thời gian để hiểu biết thêm về một số giáo lý căn bản. Nhưng tại đây Tống Thượng Tiết cảm thấy thật là cấp bách, hơn nữa ông cũng được thôi thúc bởi lời Chúa dạy: “Ai tin và nhận phép báptem là chắc chắn được cứu”. Và lời của quan thái giám Êthiôpi nói với Philíp: “Có gì ngăn trở tôi chịu phép báptem không?” (Công Vụ 8:36b). Những câu Kinh Thánh khác cũng minh chứng rằng hễ với một lòng chân thật thì có thể nhận Thánh lễ báptem. Tống Thượng Tiết bèn thương lượng với Mục sư sở tại Tề Hướng Vinh. Rất may là Mục sư Tề cũng đồng quan điểm với ông, nên Tống Thượng Tiết được phép thực hiện lễ Thanh tẩy Báptem cho hơn 200 tân tín hữu chưa qua “kỳ khảo sát đức tin”. Đây là lần đầu tiên Tống Thượng Tiết đã làm Thánh lễ báptem cho người khác nên đáng được ghi nhớ.
Trong những ngày ấy Tống Thượng Tiết chẳng những đã học được bài học “bắt phục” của Chúa Thánh Linh mà cũng học thêm được rằng phải nắm chắc lấy lời hứa của Chúa cho đến lúc lời cầu nguyện được nhậm.
Thời tiết lúc ấy đang vào mùa đông, lại ở miền đông bắc. Rét buốc thật là khắc nghiệt, Tống Thượng Tiết cầu nguyện xin Chúa cho một chiếc áo da chống rét trước khi tuyết rời. Chúa đã nhậm lời, không bao lâu sau đó Ngài đã dùng một nữ tín hữu mang đến biếu cho Tống Thượng Tiết một chiếc áo bào bằng da thú thật tốt.
Rời Chiết Lâm, Tống Thượng Tiết theo đường Triều Dương để đến Doanh Khẩu. Khi ngang qua thị trấn Triều Dương, ông đã tận dụng thời gian để thực hiện một buổi truyền giảng. Những tín hữu tại đó nài xin cho được nhiều buổi truyền giảng hơn, nhưng ông chỉ có thể trả lời: “Nếu Chúa cho phép thì sau khi ở Doanh Khẩu về tôi sẽ trở lại thị trấn này!”
Về đến Doanh Khẩu, Tống Thượng Tiết gặp lại những đoàn viên khác. Họ lại phân công, chia cho ông phần việc huấn luyện cho 80 học viên của Thánh Kinh học đường. Bài đầu tiên Tống Thượng Tiết dạy về sự tái sanh, nhiều học viên đã khóc lóc xưng tội và nhận được ơn tái sanh.
Ông hiệu trưởng cảm thấy thật vui thỏa và nói rằng: “Các học viên đều đã nhận được ơn cứu rỗi”. Nhưng Tống Thượng Tiết lại lý luận rằng: “Vì ngài hiệu trưởng đã hiểu lầm về lẽ đạo được xưng công bình bởi đức tin và nghĩ rằng trong lòng tin là đủ, không cần phải hối cải và sửa đổi”. Các sinh viên thấy giáo sư và hiệu trưởng mình tranh luận về thần đạo, không một ai dám đóng góp ý kiến. Có nhiều người trong vòng họ đã để thì giờ cầu nguyện, đến nửa đêm thì Chúa bày tỏ cho họ qua một khải thị. Sáng hôm sau họ vội vàng đến gặp Tống Thượng Tiết và nói cho ông biết về nội dung của khải thị mà họ nhận được. Một lần nữa Tống Thượng Tiết học thêm một bài về bí quyết chiến trận trong Chúa Thánh Linh. Những cuộc truyền giảng phải được đặt trên nền tảng của sự cầu nguyện trong tâm linh. Nếu từ cõi tâm linh không kinh nghiệm được sự chiến thắng thì việc làm của truyền giảng không mang lại lợi ích thiết thực nào. Những công việc tại Doanh Khẩu tuy chỉ trong những phạm vi nhỏ hẹp, nhưng đi thẳng vào chiều sâu tâm linh nên giữ được kết quả lâu bền.
Về đến Triều Dương, Chúa lại khải thị cho Tống Thượng Tiết một sứ điệp mới: “Mở quan tài ra”. Đó là một trong những sứ điệp nổi tiếng mà Chúa đã cho ông. Đại ý là nếu chỉ nghe giảng lời Chúa với thái độ “lỗ tai này lọt qua lỗ tai kia” thì thật là vô ích. Khi nghe sứ điệp của Chúa là mở toang cả chiếc quan tài của thâm tâm mình ra. Phải lôi ra hết những ý tưởng chết tận đáy lòng mình. Nhiều vị Mục sư mới mở quan tài ra là nhận tội cách công khai. Tống Thượng Tiết đã đặt tay cầu nguyện cho họ và Chúa Thánh Linh liền tràn đầy vào lòng đã dốc đổ ra hết những tội lỗi xấu xa, và trở nên thanh sạch. Ngài cũng ban cho họ những ân tứ thiêng liêng như ân tứ chữa bệnh, ân tứ đuổi quỉ. Họ là những nhân chứng đắc lực và tốt đẹp khi trở về những công trường thuộc linh của địa phương họ.
Các việc kỳ diệu Chúa làm tại Triều Dương đã kết thúc cho vòng truyền giáo Đông Bắc Trung Hoa. Những việc xảy ra ở Triều Dương là những việc do một năng lực phi thường. Đó là tột đỉnh quyền năng của vòng truyền giáo Đông Bắc.
Lúc ấy những quân nhân trong quân đội tin nhận Chúa rất nhiều, nên họ đã dùng xe nhà binh để đưa Tống Thượng Tiết đến một nơi gọi là Đại Thạch Kiều, tuy chỉ lưu lại nơi đây một thời gian ngắn, nhưng được Chúa cho một khải thị thật rõ ràng. “Lần trước con lên miền bắc là lãnh nhiệm vụ của giáo hội để nghiên cứu về Cơ đốc giáo dục, nhưng con đã không thi hành nhiệm mạng đó, đáng lý ra con phải hoàn lại cho giáo hội 70 đồng tiền lộ phí. Bấy giờ chính con phải mở quan tài của mình ra, nhiên hậu mời có thể kêu gọi người khác mở quan tài của họ. Tống Thượng Tiết bèn tuân phục làm theo, ăn năn tội cùng Chúa, và ông liền nhận được sức lực mới và lòng được sự bình an. Chân lý “Vác thập tự giá mình sau đó sẽ nhận được sự vinh hiển” là câu kết luận cho vòng truyền giáo miền Đông Bắc. Trong vòng truyền giáo này, Đoàn đã đem về hơn 3.000 người cầu nguyện tiếp nhận Chúa, đây là những kết quả đời đời chứ không phải chỉ là những bông hoa xinh đẹp sớm nở tối tàn.
Tống Thượng Tiết rời Triều Dương băng qua Chiết Lâm Lưu Ninh và Doanh Khẩu. Ông được tận mắt nhìn thấy những đứa con sinh ra bằng Chúa Thánh Linh thì lòng tràn ngập sự vui mừng và an ủi. Khi Tống Thượng Tiết đến vùng Đông Bắc, lịch sử Trung Quốc đi đến một khúc quanh quan trọng và cũng là lúc đột kiến của thế lực quốc tế. Trong các tác phẩm của Tống Thượng Tiết, người ta chỉ có thể tìm thấy chỉ đôi ba dòng nói về biến cố lịch sử Thế chiến II năm 1918 mà thôi. Từ đó chúng ta có thể suy ra, người đầy tớ trung kiên của Chúa chỉ lấy việc của Nước Trời làm quan trọng, còn những việc trên đời này như những biến cố về chính trị và quân sự thì Tống Thượng Tiết hoàn toàn giao thác cho Đấng Chủ Tể của muôn loài vạn vật, Đấng cai trị vạn xứ vạn dân.
Tống Thượng Tiết rời Triều Dương băng qua Chiết Lâm Lưu Ninh và Doanh Khẩu. Ông được tận mắt nhìn thấy những đứa con sinh ra bằng Chúa Thánh Linh thì lòng tràn ngập sự vui mừng và an ủi. Khi Tống Thượng Tiết đến vùng Đông Bắc, lịch sử Trung Quốc đi đến một khúc quanh quan trọng và cũng là lúc đột kiến của thế lực quốc tế. Trong các tác phẩm của Tống Thượng Tiết, người ta chỉ có thể tìm thấy chỉ đôi ba dòng nói về biến cố lịch sử Thế chiến II năm 1918 mà thôi. Từ đó chúng ta có thể suy ra, người đầy tớ trung kiên của Chúa chỉ lấy việc của Nước Trời làm quan trọng, còn những việc trên đời này như những biến cố về chính trị và quân sự thì Tống Thượng Tiết hoàn toàn giao thác cho Đấng Chủ Tể của muôn loài vạn vật, Đấng cai trị vạn xứ vạn dân.
CHƯƠNG 34
CÔNG VIỆC TÀI SƠN ĐÔNG VÀ THƯỢNG HẢI
(CUỐI 1931 VÀ ĐẦU 1932)
(CUỐI 1931 VÀ ĐẦU 1932)
I. SƠN ĐÔNG
Khi công tác tại Đông Bắc kết thúc, những đoàn viên của đoàn truyền giáo Bêtên đều vội vã trở về Thượng Hải. Sau khi nghỉ ngơi một thời gian ngắn thì họ nhận lời mời của Hội Thánh Báp-tít đến Hoàng Huyện thuộc Sơn Đông. Nơi đây là giáo khu chính của giáo hội Báp-tít, có Thần học viện, bệnh viện, trường nam và nữ trung học... Những buổi sinh hoạt thờ phượng rất đông đúc và sinh động, chỉ nội học sinh đã trên 5, 6 trăm người. Điều đáng tiếc là những thành phần học sinh, sinh viên thường quá coi trọng kiến thức và tự cao là mình thuộc vào hàng ngũ trí thức, nên lòng họ cứng cỏi và đầy hồ nghi, đố kỵ. Tống Thượng Tiết khẩn đảo cầu nguyện và ngưỡng trông chính Đức Thánh Linh hành động. Chúa đã trả lời cho sự cầu nguyện của ông và ban cho một cơn phấn hưng thật lớn. Cùng lúc ấy tác phẩm của Tống Thượng Tiết viết riêng về chương 12 của sách Phúc âm Mác vừa xuất bản, cuốn sách này được giới thiệu trong giờ thờ phượng và truyền giảng nên sau đó đã được bán sách trong chốc lát. Những giáo sĩ tây phương tại địa phương đó cũng đồng tâm chí với ông và họ cũng là những người đầy dẫy Chúa Thánh Linh nên đã nhận toàn bộ trách nhiệm nuôi dưỡng dạy dỗ và chăm sóc những con đỏ mới sinh trong Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Chiến dịch tại Hoàng Huyện kéo dài 2 ngày, cũng có nghĩa là chiến dịch truyền giáo tại Bình Huyện phải hoản lại 2 ngày. Nhưng sự đợi chờ của các tín hữu tại Bình Huyện không phải là vô ích, họ đã tận dụng thời gian hai ngày chờ đợi Tống Thượng Tiết để hết lòng cầu nguyện cho chiến dịch phấn hưng sắp tới. Chúa Thánh Linh thật sự đã làm việc để mở cửa cho công việc Chúa. Rất nhiều tín hữu trong những buổi cầu nguyện ban đêm đã thống hối ăn năn những lỗi lầm, chuẩn bị tấm lòng trống không. Do đó mới ngày đầu khai mạc đại hội phấn hưng, Chúa Thánh Linh đã giáng cho một cơn mưa thật dồi dào. Mục sư Paul Yen (đang phục vụ Chúa tại Bình Độ) khuyến khích Tống Thượng Tiết xức dầu cầu nguyện cho người bịnh, nhưng ông nhất định khước từ. Mục sư Paul Yen đã trách ông và lý luận rằng: “Thánh Kinh chẳng đã nói đến và cũng đã minh chứng cách cụ thể việc chữa bịnh, tại sao ông không tin?” Mục sư Paul Yen đã dùng mọi biện pháp ép nài cho đến khi ông xức dầu cầu nguyện cho bệnh nhân. Để chiều lòng Mục sư, ông đã quỳ xuống trước mặt Chúa, xức dầu trên trán cho từng bệnh nhân và cầu nguyện: “Nhân danh Chúa Giê-xu chữa lành cho ngươi”. Không dám mở mắt ra, ông chỉ hỏi: “Có người nào được lành bệnh chưa?” Mục sư Paul Yen lên tiếng: “Có!” Trong số những người được Chúa chữa lành có một bà tên là La Trúc Phong bị bệnh tê liệt cả thân mình đã hơn 17,18 năm. Tức thì, bà này vui mừng không xiết kể và đến nơi nào cũng làm chứng về quyền năng của Chúa. Ba năm sau, chồng của bà (vốn là một giáo sư) cũng bỏ cả việc dạy học. Cả hai ông bà rất biết ơn Chúa đi ra nơi này nơi kia để ca ngợi Chúa. Ngọn lửa phấn hưng đã nhóm lên ở Bình Độ chuyển sang thành phố Tế Nam, là nơi quen thuộc của Tống Thượng Tiết, cảnh trí đã đổi thay khác hơn ngày xưa rất nhiều. Sau giờ thờ phượng, đầu tiên nhiều người đã được báptem bằng Thánh Linh, hoặc nói tiếng lạ hay ca hát những bài hát thiêng liêng tự phát... Nhiều người đã vội kết luận rằng ông cũng thuộc nhóm Linh Ân (Charismatic). Thật ra Tống Thượng Tiết không đặt nặng vấn đề này. Chúa đã dạy cho ông hiểu rằng, những hình thức đó chỉ là những biểu hiện bên ngoài mà thôi.
Ba ngày ngắn ngủi tại Tế Nam là một dịp tiện quý báu. Tống Thượng Tiết ngụ tại gia đình của bác sĩ Tawnting Steer ông đã gặp được rất nhiều sinh viên của đại học Tề Lỗ và cũng đã hướng dẫn được khoảng 50 người tin nhận Chúa Cứu Thế.
Đại hội tại Tế Nam kết thúc, Đoàn Truyền Giáo định trở lại Thượng Hải nhưng đường xe lửa bị gián đoạn cho nên đoàn phải dùng đường thủy mà trở về. Đó cũng là dịp may để Tống Thượng Tiết có cơ hội trở lại Thanh đảo làm công tác bồi linh lần thứ nhì. Nơi đây ông thận trọng hơn về đường lối giảng dạy của mình để hội chúng đừng hiểu lầm mình cũng chủ trương như nhóm Charismatic ông cũng đã cảnh cáo hội chúng đừng quá coi trọng những biểu hiện bên ngoài những phải đi con đường yêu thương.
II. THƯỢNG HẢI
Buổi nhóm họp thờ phượng đầu tiên tại Thượng Hải nhằm vào ngày Tết Nguyên Đán 1932. Địa điểm thờ phượng là Thánh đường Cảnh Lâm. Hôm ấy Tống Thượng Tiết đã dùng đề tài “Đừng ham mê thế tục để có thể trở thành như vợ Lót”. Ngày thứ nhất của đại hội số người đến tham dự đã rất đông đảo. Theo dự định thì đại hội tại đây chỉ kéo dài trong vòng 3 ngày, nhưng vì nhu cầu thiết thực nên đã kéo dài thêm ba ngày, rồi sau đó lại phải gia hạn thêm 4 ngày nữa. Ngày cuối cùng người đến tham dự đông không ngờ được. Nhiều tín hữu cũng đến để được nghe truyền giảng khiến không còn một chỗ chen chân.
Sau kỳ Đại hội ấy, các Hội Thánh tại Thượng Hải đều được sự thăm viếng của Chúa Thánh Linh.
Trong một cơ quan nọ tại Thượng Hải có một cán bộ vốn là một tín hữu nhưng có đời sống đạo đức giả và đã nhiều lần thâm thủng công quỹ. Sau khi nghe sứ điệp của Chúa qua Tống Thượng Tiết, trong lòng thấy bất an. Chúa Thánh Linh đã bắt phục ông ta thú nhận tất cả mọi tội lỗi, và ông ta cũng đã viết ra tất cả những lỗi lầm đã phạm và tuyên đọc công khai trước hội chúng. Sau đó ông được Chúa dùng để xuống Sơn Đông làm sứ giả phấn hưng cho Ngài.
Cũng có một người đàn bà sau khi nghe Phúc âm và tin nhận Chúa Giê-xu. Bà bị chồng bắt bớ, đánh đập rất tàn nhẫn. Mỗi khi bị chồng đánh đập bà đều quỳ xuống mà cầu nguyện: “Chúa ôi! Xin Chúa cứu chồng con vì chồng con không biết!” Người chồng nghe vợ cầu xin như vậy thì cảm động đã tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu và không còn đánh đập vợ nữa. Bà ấy vốn là một giáo viên, nhưng vì ngày trước đi học không nhận được chứng chỉ nên bây giờ không thể ghi danh để tiếp tục hành nghề. Nhiều người khuyên bà nên làm một văn bằng giả để có thể tiếp tục nghề dạy học những bà đã tin Chúa. Bà dứt khoát từ chối việc làm thiếu ngay thẳng đó. Bà quyết định bỏ ý định tiếp tục đi dạy học để dâng mình hầu việc Chúa xuống các làng mạc, truyền giảng Phúc âm cho những người chưa biết Chúa. Bà đã được Ngài trọng dụng.
Tại Thượng Hải cũng có một nữ sinh vốn là tín hữu thuộc Hội Thánh Anglican Episcopal. Cô đã tốt nghiệp trường Saint Mary, lại kết hôn với một thanh niên giàu có nhưng chưa tin nhận Chúa. Cô này đã bắt ép vị hôn phu phải theo nghi lễ giáo hội là làm lễ hôn phối trong thánh đường. Anh ta cũng chiều ý, nhưng sau khi đã thành gia thất, người chồng đã quyết liệt chống đối, không cho phép vợ đến giáo đường để thờ phượng Chúa, nếu không ông ta sẽ cưới vợ bé. Vì quá sợ cảnh chồng chung nên cô không còn dám bước chân đến ngưỡng cửa giáo đường. Vốn là một thương gia làm ăn buôn bán tận vùng Mông Cổ, công việc rất thịnh vượng nên ông chồng này đã lén lút cưới nhiều người vợ bé. Người chị em con cái của Chúa này, quá khổ đau khi biết tin về chồng mình như vậy, nên đã dùng nha phiến để giải sầu. Cô lại sinh được một cháu gái rất kháu khỉnh và thông mình, đứa bé này là nguồn an ủi cho cô, nhưng khi lên chính thì bỗng bị bệnh mà qua đời. Đã buồn lại buồn thêm, người đàn bà bất hạnh ấy đã trở lại tìm đến Chúa. Bà đã nhờ Tống Thượng Tiết cầu nguyện cho bà, và chính bà cũng đã thống hối cầu nguyện ăn năn trước mặt Chúa.
Thời gian ấy là lúc Tống Thượng Tiết đang phụ trách chức vụ chủ bút cho tạp chí “Thánh Khiết Chỉ Nam”, xuất bản một năm 10 kỳ, có một vài vị phụ tá biên tập cho ông. Sau kỳ Đại Hội phấn hưng Cảnh Lâm chấm dứt và trước khi cuộc chiến ngày 8 tháng 12 bùng nổ, ban biên tập đã vội vàng chuẩn bị bài vở cho một năm sau. Do đó tờ báo xuất bản không bị ảnh hưởng trong những chương trình truyền giáo tại Hoa Nam, và đã xuất bản định kỳ. Chính Tống Thượng Tiết trong nửa năm hoạt động tại Hoa Nam cũng không cần phải để tâm nhiều cho tạp chí nữa.
Thành phố Thượng Hải đã trở thành chiến địa. Nhưng nhà lãnh đạo của Hội Thánh Bêtên thấy tình hình quá căng thẳng thì đã quyết định di chuyển tất cả những cơ sở của Giáo hội như trường học, cô nhi viện, bệnh viện đến Tô Giới. Tống Thượng Tiết cũng như những bác sĩ thuộc bệnh viện Bêtên đã tổ chức những công cuộc truyền giáo và chữa bệnh cho nhân dân đang tỵ nạn chiến tranh.
Trước tình hình căng thẳng như vậy thì những lớp học Thánh Kinh ngắn hạn dự định tổ chức vào tháng 2, bắt buộc phải đình hoãn lại. Nhiều người còn khuyên Tống Thượng Tiết nên tản cư khỏi Thượng Hải. Nhưng chính lúc ấy có 8 vị đại biểu không quản ngại đường xá xa xôi, đã từ Đông Bắc đến để hợp tác với Tống Thượng Tiết hầu việc Chúa. Vì nghĩ đến họ nên chẳng những đã không bỏ Thượng Hải ra đi, mà ông còn ở lại với họ tại phía nam thành phố, cùng nhau lo giữ gìn những cơ sở và công việc Chúa. Họ khai giảng lớp Thánh Kinh đúng vào ngày 8 tháng 12 là ngày Thượng Hải bị tấn công. Ông cùng 8 vị đại biểu ấy hằng ngày dùng lời cầu nguyện làm hậu thuẩn cho cuộc sống. Họ sống với nhau những ngày thật gần gũi, thân mật trong sự tương giao của Chúa Thánh Linh. Có những tin tức cho họ biết là không quân Nhật sẽ oanh tạc phía nam thành phố trong 3 ngày tới, nhưng đến hôm ấy thì mây đen ùn ùn kéo đến phủ kín cả bầu trời, cho nên không quân Nhật không thể thực hiện phi vụ phía nam thành phố như lời đồn đoán. Tuy nhiên những cuộc giao tranh trên đất liền thì ngày càng khốc liệt, tiếng súng nhỏ nổ lên khắp chốn, tiếng đại bác vang rền liên hồi rung chuyển cả thành phố. Dân cư ai nấy đều kinh hoàng vì tiếng súng nổ và đạn rít ngang đầu. Duy chỉ có nhóm người của Tống Thượng Tiết sau khi đã quỳ gối cầu nguyện thì nghe rõ tiếng Chúa phán dạy: Đừng kinh hoảng về chuyện đang xảy ra vì bắt buộc phải có như vậy. Dưới bầu không khí đầy đe dọa, trong 32 ngày họ đã học thuộc được 32 chương Kinh Thánh. Đó quả là môn “Thần học thực nghiệm trong hoạn nạn”, và cũng là một môn học đáng để đi vào kỷ niệm quý báu!
CHƯƠNG 35
HÀNH TRÌNH XUỐNG HOA NAM (1932)
Hiệp định ngưng bắn được ký ngày 2 tháng 3 năm 1932 tại Thượng Hải. Cuộc chiến tranh cục bộ coi như kết thúc, Đoàn Truyền Giáo tuần hoàn Bêtên, cũng trong ngày ấy, xuống tàu qua Hồng Kông. Khi tàu cặp bến thành phố Cao Lun, cơ quan y tế Hồng Kông coi thành phố Thượng Hải như đang ở trong tình trạng bị dịch đầu mùa nên ra lệnh cho chiếc tàu của họ đi vào trạm kiểm soát để cách ly khỏi dân chúng và kiểm soát lại tình trạng bệnh tật. Các tín hữu thuộc giáo phái Tangeri ra bến đón nhưng chờ mãi không thấy tàu cặp bến, họ thất vọng đi về. Ngày hôm sau họ mướn một chiếc thuyền nhỏ chèo đến tận trạm kiểm soát bịnh dịch để thăm và hát những bài thánh ca chào mừng Đoàn Truyền Giáo, nhưng họ không được đến gần để nói chuyện. Qua ngày thứ ba, nhằm vào ngày Chúa Nhật 6 tháng 3, năm người của Đoàn, trong đó có Tống Thượng Tiết được phép lên bờ. Họ liền đến nhà thờ để tổ chức truyền giảng, số thân hữu hôm ấy lên đến cả ngàn người, trong khi nhà thờ chỉ có 500 chỗ ngồi. Thật là một buổi truyền giảng chưa bao giờ có. Tống Thượng Tiết người Hưng Hóa nên nói tiếng Quan Thoại, dân Hồng Kông ít người nghe hiểu. Vùng đất này là thuộc địa lâu đời của Anh, nên Anh ngữ rất thông dụng ở đây, vì vậy ông đã giảng bằng tiếng Anh và Lý Đạo Vinh đã phiên dịch ra tiếng Quảng Đông.
Người giảng người dịch thật nhịp nhàng ăn ý, không một chút ngập ngừng. Bài giảng vì song ngữ nên kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ. Từ đó mỗi ngày Đoàn Truyền Giáo giảng ba bài theo lối song ngữ như vậy liên tục trong sáu ngày. Cũng có người trong đoàn bị đau ốm, bị tắc tiếng, nhưng Chúa gìn giữ nên cuộc truyền giáo không bị ngưng trệ. Thính giả gồm đủ mọi thành phần xã hội giàu nghèo, quyền quí, đê hèn, trẻ già, có những người ăn mặc thật sang trọng, cũng có những kẻ rách rưới, nhiều người trí thức cùng lắm kẻ dốt nát không biết đọc biết viết! Có những người đến từ hải đào Trường Châu, phải vượt hàng chục dặm đường biển bằng thuyền máy. Nhiều tín hữu thuộc nhiều giáo phái khác nhau, họ chưa bao giờ đến một nhà thờ của giáo phái khác để chung thờ phượng. Đây là dịp họ gặp gỡ nhau và tất cả như đều nhận được linh ân. Trong số họ đã có nhiều người được kêu gọi và có kết quả thật nhiều cho Chúa sau này. Phần lớn những người đến tham dự truyền giảng, truy xét lại đời sống tâm linh, quá trình tái sanh và trưởng thành đức tin đều thấy rằng những sứ điệp của Tống Thượng Tiết đã giúp đỡ họ rất nhiều. Trong chiến dịch truyền giảng này cũng có chừng 50 bệnh nhân đã mạnh dạn đến trước tòa giảng xin được đặt tay cầu nguyện. Đoàn Truyền Giáo mở một buổi thờ phượng đặc biệt cho họ. Tống Thượng Tiết đã dùng Lời Chúa giảng dạy cho họ, giảng xong xin họ xưng hết tội lỗi và xin Ngài chữa bệnh. Sau cùng ông và Kế Chí Văn đặt tay cầu nguyện cho từng người một. Trong buổi thờ phượng đặt biệt hôm ấy đã có nhiều người đứng dậy làm chứng là họ đã được tha tội, linh hồn được cứu và bệnh tật được chữa lành. Trong số đó cũng có những giáo sĩ người ngoại quốc. Công việc Chúa làm tại Hồng Kông và Cao Lun không phải chỉ qua một mình Tống Thượng Tiết mà với nhiều người khác. Về sau người ta đọc được trong hồi ký của ông như sau: “Vì nhiều cộng sự viên của Đoàn bị ốm đau nên phần lớn công việc tôi (Tống Thượng Tiết) phải đảm trách. Kinh nghiệm đã cho tôi biết là trong một cộng đồng Hội Thánh thế nào cũng có những phần tử giả hình. Trong hàng ngũ những người lãnh đạo thế nào cũng không hoàn toàn đồng tâm nhất trí và yêu thương nhau. Đoàn Truyền Giáo của chúng tôi cũng vậy. Trong thâm tâm của mỗi người đều có cái tôi xưa cũ luôn luôn muốn phản kháng, nổi loạn. Cái tôi của mỗi người chưa chết hẳn thì cũng khó hợp tác với nhau.
Ngày 12 tháng 3, Đoàn Truyền Giáo đến Quảng Châu, trước tiên họ tổ chức truyền giảng tại Hội Thánh “Thánh Khiết” thuộc vùng Sông Nam. Như danh xưng của hội, đa số tín hữu của họ đặt nặng vấn đề thánh sạch và họ tự coi mình là thánh khiết. Do đó những người khác rất e ngại không ai dám gần gũi với họ, nên hai buổi truyền giảng đầu số người đến dự thật thưa thớt. Tống Thượng Tiết vốn là người coi trọng sự thánh khiết nhưng thấy tình trạng Hội Thánh này như vậy nên đã có lời phê bình rằng: “Nếu sự thánh khiết khiến con người kiêu căng thì thật là vô ích”. Đoàn Truyền Giáo vội vàng tổ chức cấp tốc những buổi cầu nguyện đặc biệt cho tình trạng của Hội Thánh. Qua ngày thứ ba thì số người đến tham dự tăng lên gấp bội. Lời giảng của ông hôm ấy cũng đầy quyền năng, nhiều tín đồ Trung Quốc cũng như ngoại quốc đứng lên cầu nguyện ăn năn tội lỗi.
Ban ngày Đoàn Truyền Giáo hoạt động tại Sông Nam, ban đêm Đoàn đã vượt sông qua bên kia là Quảng Châu để truyền giảng tại Hội Thánh Giám Lý. Tín hữu của Hội Thánh Thánh Khiết cũng gởi người theo Đoàn để phụ giúp trong ban hát. Chúa Thánh linh đã làm việc mạnh mẽ nên số người tin nhận Chúa lên đến 2,3 trăm. Những tấm lòng nóng cháy đã thôi thúc họ ngày hôm sau qua tham dự cùng với Đoàn cũng như giúp đỡ Đoàn trong buổi truyền giảng tại Sông Nam. Trong số họ có những người về sau này trở thành những nhà truyền giáo trung kiên cho Chúa Cứu Thế.
Có một gia đình kia, người mẹ đã tin nhận Chúa nhưng người con trai là một kẻ vô thần. Anh ta đã đi Hoa Kỳ du học đến ba lần. Mỗi khi nghe mẹ cầu nguyện, anh ta đem lòng căm thù đến nỗi muốn giết mẹ đi mới hả lòng. Một hôm anh ta được bạn mời đến tham dự một buổi truyền giảng của Tống Thượng Tiết. Anh ta nhận lời với thái độ kiêu căng: “ừ thì đi, đến xem ông Tống múa may, nhảy lên nhảy xuống trên sân khấu cũng vui”. Sau khi nghe giảng anh ta đã được Đức Thánh Linh bắt phục. Anh đã quỳ gối tại chỗ khóc lóc xưng nhận tội lỗi của mình, và cũng đến với mẹ, giọng nói cảm động run run, tạ tội cùng mẹ và xin bà tha thứ. Người mẹ vô cùng sung sướng hát lên những lời ca tụng Chúa vì Ngài đã nhậm lời cầu nguyện khẩn đảo đầy nước mắt của bà.
Từ Quảng Châu, Đoàn Truyền Giáo ngược dòng Châu Giang đến thành phố Ngô Châu thuộc tỉnh Quảng Tây. Tại đây có hai Hội Thánh thuộc giáo phái Báp-tít và Phúc âm Liên Hiệp, cộng chung có trên 7,8 trăm tín hữu. Về phương diện hình thức thì Hội Thánh Báp-tít có cơ cấu tổ chức chặt chẽ hơn và có phần phát triển mạnh hơn, còn Hội Thánh Phúc âm Liên Hiệp thì có truyền thống chủ trương tín ngưỡng thuần chất. Tổ chức này có Thánh Kinh học viện. Trong viện có sinh viên Thạch Tân Ngã, chàng ta đã tham dự trại dưỡng linh mùa hè năm 1931, nên đã biết nhiều về Tống Thượng Tiết nên chàng ca ngợi cũng như Đoàn Truyền Giáo do ông chủ trương với bạn bè cùng trường. Qua buổi truyền giảng đầu tiên vào ngày 27 tháng 3 thì các sinh viên đã rất thất vọng và Thạch Tân Ngã đã trở nên mục tiêu chế nhạo của họ. Nhưng đến ngày hôm sau thì tình hình đã xoay chuyển ngược hẳn lại. Lời giảng của Tống Thượng Tiết đầy thần quyền và Đức Thánh Linh đã làm việc một cách diệu kỳ, từ giáo sư cho đến học viên đều chịu sự cảm động. Người đầu tiên đi lên trước bục giảng là ông viện trưởng, rồi lần lượt các giáo sư cũng như sinh viên và các tín hữu. Tất cả đều quỳ xuống cầu nguyện khóc lóc xưng hết những tội lỗi của mình. Sau đó, viện tổ chức những buổi thờ phượng bồi linh liên tục trong 10 ngày. Qua những ngày bồi linh này, số sinh viên được tái sanh nhận được báptem bằng Thánh Linh hoặc nhận lãnh được ân tứ Đức Thánh Linh rất đông. Ngọn lửa phấn hưng đã bùng cháy tại thành phố Ngô Châu. Rất đông tín hữu trong thành phố đã cầu nguyện thâu đêm. Một chị em trong nhóm cầu nguyện đã được Chúa Thánh Linh bắt phục nên sau buổi cầu nguyện đã mang ra một chiếc lắc vàng bà ta đã đánh cắp cách đó đã 23 năm! Bà đem bán chiếc lắc vàng được 300 đồng. Bà đã dâng hết cho quỹ truyền giáo, vì không thể biết khổ chủ của chiếc lắc là ai.
Một đêm kia, trong giấc ngủ, Tống Thượng Tiết cảm tác một lời ca: “Khi tôi lìa xa Chúa, không làm được việc chi, bị quăng ra ngoài, bị lửa thiêu cháy, khi lìa xa Chúa không làm được việc chi...” và cứ ngâm nga hát cho đến sáng. Thức giấc xong xúc cảm, Tống Thượng Tiết khóc lóc dầm dề với Chúa. Đức Thánh Linh mở trí cho ông hiểu ra ý nghĩa của Chữ “Ngô” trong tên thành phố Ngô Châu mà ông đang ở. Ngô là ngã, là cái tôi; Châu là khúc gỗ. Cái ngã phải được đóng đinh trên cây gỗ, ngày nào cũng đối phó với cái ngã của mình, nếu cái ngã xưa cũ trong ta chết đi một cách trọn vẹn thì mới có thể hướng dẫn chúng ta đi vào con đường yêu thương. Lìa khỏi Chúa thì chẳng thể làm được việc gì. Nếu không bởi tình yêu thương mà làm thì những công việc ấy cũng chỉ là hình thức suông vô giá trị.
Tại thành phố Quý Huyện có hai ông bà giáo sĩ Tây phương đã cố gắng thành lập một hội là “Tin yêu”, cũng bởi tình yêu thương mà tổ chức một viện để nuôi dưỡng các em bé gái bị mù. Niềm tin của ông bà thật vững vàng, biết quên mình để yêu người, bỏ tất cả ham muốn vật chất để một lòng theo Chúa. Có thể gọi họ là những người “hiền lành và trung tín”. Thành viên của hội “Tin Yêu” không đông lắm, nếu kể các em bé bị mù thì hội có khoảng chừng 100 hội viên. Những em bé mù này, những người chịu ơn của Cơ đốc giáo. Tin Chúa nhưng rất ít em thực tâm tin. Những buổi truyền giảng của Đoàn Truyền Giáo, có rất nhiều thân hữu tin nhận Chúa Cứu Thế còn các em bé mù này thì lòng chúng vẫn nguội lạnh dửng dưng với những lời của Phúc âm. Chúng tựa như chai đá không có cảm xúc hay những người chai đá. Tống Thượng Tiết biết rõ là tình yêu của con người không thể lay động tâm hồn và khiến cho thỏa lòng, ông chỉ biết cầu xin Chúa Thánh Linh soi dẫn mở mắt tâm linh thì chúng mới có thể cảm thông được tình yêu cao vời diệu kỳ của Chúa. Trong buổi truyền giảng sau cùng, ông đã nhấn mạnh và ca ngợi tình yêu của Chúa Cứu Thế và hướng dẫn các em bé mù này hát bài “Cha trên trời là Đấng chăm sóc”. Lời của bài đoản ca này đã khiến cho tâm hồn băng giá của các em tan vỡ trong tình yêu của Chúa. Rất nhiêu em trong ngày hôm ấy đã thật sự tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa của mình.
Những vùng lân cận của Ngô Châu Nam Ninh, cũng đã đạt thư mời Đoàn Truyền Giáo đến thăm viếng họ. Sau khi chọn lựa bằng cách bốc thăm, Tống Thượng Tiết, Lý Đạo Vinh cùng với Nhiếp Tử Anh được cử sang thành phố Khuất Lâm. Tiếng đồn rằng đây là nơi có những Hội Thánh rất nổi tiếng của giáo phái Phúc âm Liên Hiệp, nhưng Tống Thượng Tiết lại gặp trở ngại rất nhiều với địa phương này. Các tín hữu đến dự không đúng giờ, trình độ giáo dục của họ lại rất thấp kém. Các buổi sinh hoạt thờ phượng sáng cũng như chiều chỉ có độ 7,8 chục người và buổi truyền giảng lộ thiên ban đêm đông lắm cũng chỉ lên đến vài ba trăm là nhiều! Hơn nửa giữa những cộng sự viên tổ chức truyền giảng rất nhiều bất đồng ý kiến với nhau. Người thông dịch cũng không đồng công hợp tác... vì vậy Thánh Linh không tự do tác động. Những thân hữu đến nghe truyền giảng không ai được cảm động.
Rời Khuất Lâm, Đoàn Truyền Giáo đến Quảng Tây. Nơi đây Hội Thánh Báp-tít mời Đoàn tổ chức truyền giảng 3 ngày. Con số thân hữu thuộc thành phần học sinh đã lên đến hơn ba ngàn. Tưởng rằng đây là một vụ gặt lớn, nhưng không ngờ Hội Thánh này chỉ mời một mình Mục sư Kế Chí Văn chứ không phải mời cả Đoàn Truyền Giáo. Do đó chỉ một mình Kế Mục sư ở lại Quảng Tây còn cả Đoàn lại trở về Hồng Kông vào ngày 26 tháng 4. Ở đây Đoàn tổ chức sinh hoạt truyền giảng tại Hội Thánh Benhuri trong thời gian 4 ngày, và ngày sau cùng dùng để làm báptem cho tân tín hữu. Thánh lễ báptem đúng vào ngày 1 tháng 5, và Tống Thượng Tiết được mời để làm lễ. Ông từ chối nói rằng: “Chính tôi chưa nhận báptem làm sao có thể ban báptem cho người khác?” Để hoàn chỉnh việc này: Mục sư Lý Thuận, quản nhiệm Hội Thánh, trước hết làm lễ báptem cho Tống Thượng Tiết và sau đó Tống Thượng Tiết ban báptem cho những tân tín hữu. Số người nhận báptem hôm ấy là 21 nữ và 12 nam. Bắt đầu từ ngày 2 tháng 5, Đoàn Truyền Giáo hướng dẫn học Kinh Thánh buổi sáng, tại Hội Thánh Giám Lý, buổi chiều tại Hội Thánh Hiệp Nhất và chuẩn bị một Đại Hội Liên Hiệp cho cả Hồng Kông. Tuy vị quản nhiệm của Hội Thánh Hiệp Nhất ra điều kiện là không được cầu nguyện lớn tiếng và nhiều điều kiện khe khắt khác, nhưng cuối cùng Chúa đã ban cho kết quả thật là tốt đẹp. Ngày cuối, Tống Thượng Tiết đặt tay cầu nguyện cho 244 người mất bình an trong phần tâm linh.
Rời Hồng Kông Đoàn đến Quảng Châu hoạt động một tuần lễ sau đó chuyển qua Xao Thẩu thuộc vùng Tiều Châu. Nơi đây Đoàn hội ngộ với Mục sư Kế Chí Văn. Vì không đủ kinh phí nên Hội Thánh Xoa Thầu chỉ có thể mời Đoàn làm việc một tuần lễ thôi. Đoàn đã phân công cho Tống Thượng Tiết phụ trách về phấn hưng và Mục sư Kế Chí Văn lo về truyền giảng. Trong nhà thờ có một hộp lớn dùng để đựng tiền dâng hiến, nhưng chẳng bao giờ dùng đến. Các chấp sự trong Hội Thánh chỉ phân phát những túi tiền dâng hiến nhỏ, họ mong rằng tích tiểu thành đại, hy vọng có đủ chi phí cho Đoàn Truyền Giáo đi đường.
Trong buổi giảng phấn hưng đầu tiên mới bước lên bục giảng, Tống Thượng Tiết đã lên án gắt gao tội ác của con người. Nhiều thính giả không chịu được những cáo trách của Đức Thánh Linh trong lương tâm đã khóc lóc khi nghe Tống Thượng Tiết kêu gọi. Hầu như mọi người đều hưởng ứng, thú nhận hết những tội lỗi của mình và hết lòng cầu nguyện với Chúa. Lòng họ tan chảy như đê vỡ bờ và họ triệt để xưng ra tất cả những nỗi khổ đau tận đáy lòng với Chúa. Có một vị bác sĩ từ xa hơn 150 dặm đến nghe giảng phấn hưng, mới nghe ông ta thấy không thích hợp nên không muốn đến dự nữa. Nhưng không đến thì lòng lại xao xuyến bất an. Cuối cùng miễn cưỡng ông đến nghe tiếp. Sau vài ngày thì ông được Đức Thánh Linh đụng đến cõi lòng. Lúc Tống Thượng Tiết kêu gọi hội chúng xưng tội và hối cải, vị bác sĩ này gần như không còn tự chủ được nữa mà phải bước lên trước bục giảng và quỳ xuống cầu nguyện. Lời chưa ra khỏi miệng, ông đã khóc nức nở và tỏ bày cho Chúa nghe từng tội lỗi của mình. Về sau này bác sĩ đã làm chứng lại rằng: “Khi tôi hướng về bục giảng, thì Satan ngăn cản tôi bằng tiếng nói thách thức, ‘ông là bác sĩ, uy tín và có tiếng tăm, làm sao có thể tự hạ mình nhận tội trước công chúng như vậy được?” nhưng tôi đã quỳ xuống mà khóc lóc trước mặt Chúa. Satan vẫn tiếp tục tấn công và cám dỗ ‘ông là bác sĩ, hành động như vậy xấu hổ lắm!’ Torng lúc đó lòng tôi như tan vỡ nên không cần biết đến hư vinh, danh giá của người đời. Khi đã trút bỏ tất cả những gánh nặng tội lỗi cho Chúa thì tôi cảm thấy lòng mình tràn ngập bình an và vui sướng”. Có rất nhiều người tâm trạng giống hệt như vị bác sĩ này, làm chứng lại cuộc đời họ trước kia bị tội lỗi dằn vặt, khổ đau, buồn tủi, nhưng khi được hồng ân tha thứ của Chúa thì hưởng được phước hạnh. Khi một người được hồng ân tha thứ thì tình yêu Chúa tràn ngập lòng. Cho dù dầu cảm tùng hương quý báu đắt giá đến đâu, người được tha thứ cũng sẵn lòng trút đổ ra xức trên mình Chúa. Lúc đầu thì Hội Thánh này rất e ngại không đủ tiền chi phí cho Đoàn Truyền Giáo và những buổi truyền giảng, nhưng về sau kiểm lại sổ dâng hiến trong thời gian chiến dịch chẳng những đầy đủ mà còn dư nhiều, để lại cho quỹ Hội Thánh.
Các Mục sư và Truyền đạo của thành phố Phước Châu cũng họp nhau để tổ chức một chiến dịch truyền giảng tại trường huấn nghệ nghề mộc trong thành phố. Họ hy vọng rằng sẽ mời những đoàn viên của Đoàn Truyền Giáo luân phiên đến giảng dạy trong chiến dịch này tại các Hội Thánh địa phương. Trong lúc đó thì ở vùng Hưng Hóa và thành phố Tiên Du cũng đạt thư mời Đoàn Truyền Giáo đến thăm viếng họ. Tống Thượng Tiết lấy cớ là “không có tiên tri nào được trọng đãi trong quê hương mình”, nên đã xin Mục sư Kế Chí Văn đến những nơi đó còn mình thì ở lại Phước Châu để tham dự những sinh hoạt tại trường huấn nghệ mộc.
Những ngày đầu, buổi sáng thì sinh hoạt với Hội Thánh ở Thiên An Đường thuộc vùng núi Thường Điền, buổi chiều hướng dẫn học Kinh Thánh, ban đêm thờ phượng phấn hưng. Lúc đó các trường của Giáo Hội đang qua kỳ khảo hạch bán niên, các vị giáo sư không khuyến khích học sinh của mình đến tham dự nên những buổi ấy rất vắng vẻ, chiến dịch không mấy kết quả.
Qua tuần thứ nhì, chiến dịch truyền giảng được tổ chức tại “Hội Thánh của Chúa Cứu Tếh”. Địa điểm thích hợp rất tốt. Trong một buổi truyền giảng, Tống Thượng Tiết đã mang ra một chiếc quan tài nhỏ, ông tự làm lấy, để giảng về đề tài “mở nắp quan tài”. Trong chiếc quan tài ấy ông rút ra từng tờ giấy viết trên đó những tội phạm của con người. Khán thính giả thấy chiếc quan tài thì liên tưởng đến sự chết và tờ giấy viết trên đó. Không ai là không bị rúng động sợ hãi. Số người đi đến phía trước để xưng nhận tội lỗi của mình càng ngày càng đông, con số lên đến hàng trăm người. Sau những buổi truyền giảng, những người đó đều xin được đặt tay cầu nguyện. Lớp người này tiếp gót lớp người kia mà đến, tất cả họ đều thấy được những cảnh huống thật xúc động khi đã được Chúa Thánh Linh bắt phục.
Kế đó Đoàn Truyền Giáo đến Hội Thánh Thiên An Đường và ngụ tại nhà giáo sư Tạ Thiệu Anh. Buổi thờ phượng đầu tiên vừa khai mạc thì từng lớp lớp người kéo đến tràn ngập cả ngôi giáo đường. Bầu không khí thuộc linh tràn đầy trong lòng mọi người. Ai nấy thấy như dâng lên một tình yêu thiên thượng vô biên. Có một nữ sinh lớp 11 trường Huê Nam nghe giáo sư của mình giới thiệu một tiến sĩ khoa học đang giảng Phúc âm tại Hội Thánh Thiên An Đường, cô liền rủ một số bạn bè đến nghe thử. Vì ngày hôm sau có những môn thi trong lớp, nên cô đến nhà thờ những cũng mang theo sách vở để học bài thi. Trong buổi thờ phượng hôm ấy, sau khi hát thánh ca, cầu nguyện, nữ sinh này thấy một ông thầy đồ trong chiếc áo vải thô dày màu xám, trong tay ôm một quyển Thánh Kinh thật lớn, đi lên chưa đến bục giảng thì đã cất giọng khàn khàn lớn tiếng đọc mấy câu Kinh Thánh. Cô tưởng ông ta là một sinh viên của Trường Thần Học Hiệp Hòa lên đọc chương trình của buổi truyền giảng thì cô tiếp tục chú ý vào bài vở thi ngày mai. Nhưng không ngờ ông ta cứ tiếp tục giảng Phúc âm, trong cái giọng nói khàn khàn nhưng như có lực thu hút từ trên cao. Ông nói đến những trọng điểm bài giảng và lúc đó nữ sinh này đã để ý, cô không cầm được nước mắt. Thính giả chung quanh cũng đã có những tiếng khóc thút thít trong sám hối ăn năn. Cô không thể ngờ được ông đồ nho mặc áo vải thô ấy chính là Tiến sĩ. Chính con người này đã phá vỡ cái thành trì kiên cố trong lòng cô. Sau này chính cô cùng một số giáo sư và bạn hữu đã lên Thượng Hải dự trại hè bồi linh Bêtên. Chính cái bục giảng của ngôi giáo đường Bêtên đã trở thành chiếc bàn thờ cho cô dâng chính đời sống mình để phục vụ Chúa. Về sau cô là người đã cộng tác đắc lực với tiến sĩ Tống Thượng Tiết. Cô chính là nữ sĩ Trịnh Toại Lâm, người viết lại quyển “hồi ký của Tống Thượng Tiết”.
Buổi thờ phượng của tuần lễ cuối tại Hội Thánh Thượng Hữu Đường là buổi bế mạc của chiến dịch truyền giảng tại Phước Châu. Số tín hữu của Hội Thánh cũng như các nơi khác đến tham dự rất đông. Những người yêu mến Chúa đã biếu cho Tống Thượng Tiết rất nhiều quà tặng. Ma quỉ đã giận dữ và đã dùng nhiều thủ đoạn để hạ uy tín của ông. Trong thành phố thấy dán đầy những biểu ngữ đả kích, nói rằng ông đã dùng những lời ma thuật để mê hoặc lòng người, khiến các học sinh, sinh viên trốn học đi nghe thuyết giảng. Những lời này đã làm cho phụ huynh học sinh cảm thấy bất an. Có nhiều người đã viết thư đe dọa ông, khuyến cáo ông phải rời khỏi ngay, nếu không họ sẽ bắt và nhốt vào tù. Tống Thượng Tiết không muốn làm náo loạn các hội chúng và thính giả đến nghe nên đã lặng lẽ ra đi mà không một lời từ biệt.
Phước Châu là cao điểm của chiến dịch truyền giảng tại Hoa Nam và có ảnh hưởng sâu đậm trong giới trẻ và học sinh. Những thính giả trẻ tuổi này đến tham dự từ sáng sớm cho đến 10 giờ trưa. Khi bế mạc họ vẫn ngồi trong giáo đường chờ buổi thuyết giảng 3 giờ chiều. Họ sợ ra đi ăn trưa, khi trở lại sẽ không có chỗ ngồi! Chiến dịch truyền giảng kéo dài đến 27 ngày mà hầu như ngày nào cũng có mưa, cộng vào đó là những lời ngăm đe của nhà trường. Nhưng tất cả những trở ngại đó không làm giảm sút tấm lòng ham muốn nghe chân lý của họ. Sau mỗi buổi truyền giảng, những người trẻ này ra về từng đoàn từng đội vừa đi vừa hát những bài ca ngợi Chúa. Về nhà họ học bài lúc nửa đêm về sáng để ngày hôm sau lại tiếp tục đến giáo đường nghe thuyết giảng Phúc âm. Những người trở về với Chúa Giê-xu để nhận sự cứu rỗi có trên 1.000 người. Họ đã cùng nhau tổ chức thành nhiều đội ngũ đi đến nhiều nơi khác nhau để truyền giảng Phúc âm. Trong số đó, rất nhiều người trước kia là “tín đồ” của Duy Vật Biện Chứng Pháp và đã từng công khai bài chống Cơ đốc giáo. Bây giờ họ trở nên những tôi tớ trung kiên của Chúa Cứu Thế. Sau chiến dịch chừng 10 ngày, có khoảng 130 người rủ nhau đến Thượng Hải để dự trại hè bồi linh Bêtên năm 1932.
Chiến dịch truyền giảng vùng Phước Châu này còn có ba điều đặc biệt đáng ghi nhớ:
• Khi chiến dịch bắt đầu thì đã vào mùa hạ, thời tiết Hoa Nam nóng bức mà Tống Thượng Tiết vẫn chỉ mặc chiếc dài vải thô màu nâu xám trông thật trái mùa. Một nữ tín hữu thấy thế đã may biết ông một lúc tám cái áo dài hàng the. thấy dán đầy những biểu ngữ đả kích, nói rằng ông đã dùng những lời ma thuật để mê hoặc lòng người, khiến các học sinh, sinh viên trốn học đi nghe thuyết giảng. Những lời này đã làm cho phụ huynh học sinh cảm thấy bất an. Có nhiều người đã viết thư đe dọa ông, khuyến cáo ông phải rời khỏi ngay, nếu không họ sẽ bắt và nhốt vào tù. Tống Thượng Tiết không muốn làm náo loạn các hội chúng và thính giả đến nghe nên đã lặng lẽ ra đi mà không một lời từ biệt.
Phước Châu là cao điểm của chiến dịch truyền giảng tại Hoa Nam và có ảnh hưởng sâu đậm trong giới trẻ và học sinh. Những thính giả trẻ tuổi này đến tham dự từ sáng sớm cho đến 10 giờ trưa. Khi bế mạc họ vẫn ngồi trong giáo đường chờ buổi thuyết giảng 3 giờ chiều. Họ sợ ra đi ăn trưa, khi trở lại sẽ không có chỗ ngồi! Chiến dịch truyền giảng kéo dài đến 27 ngày mà hầu như ngày nào cũng có mưa, cộng vào đó là những lời ngăm đe của nhà trường. Nhưng tất cả những trở ngại đó không làm giảm sút tấm lòng ham muốn nghe chân lý của họ. Sau mỗi buổi truyền giảng, những người trẻ này ra về từng đoàn từng đội vừa đi vừa hát những bài ca ngợi Chúa. Về nhà họ học bài lúc nửa đêm về sáng để ngày hôm sau lại tiếp tục đến giáo đường nghe thuyết giảng Phúc âm. Những người trở về với Chúa Giê-xu để nhận sự cứu rỗi có trên 1.000 người. Họ đã cùng nhau tổ chức thành nhiều đội ngũ đi đến nhiều nơi khác nhau để truyền giảng Phúc âm. Trong số đó, rất nhiều người trước kia là “tín đồ” của Duy Vật Biện Chứng Pháp và đã từng công khai bài chống Cơ đốc giáo. Bây giờ họ trở nên những tôi tớ trung kiên của Chúa Cứu Thế. Sau chiến dịch chừng 10 ngày, có khoảng 130 người rủ nhau đến Thượng Hải để dự trại hè bồi linh Bêtên năm 1932.
Chiến dịch truyền giảng vùng Phước Châu này còn có ba điều đặc biệt đáng ghi nhớ:
• Khi chiến dịch bắt đầu thì đã vào mùa hạ, thời tiết Hoa Nam nóng bức mà Tống Thượng Tiết vẫn chỉ mặc chiếc dài vải thô màu nâu xám trông thật trái mùa. Một nữ tín hữu thấy thế đã may biếu ông một lúc tám cái áo dài hàng the. Hôm sau ông đứng trên bục giảng với chiếc áo mới trông ông như một thiên sứ mặc áo trắng tinh chói lòa đứng giảng Phúc âm.
• Lâm Cảnh Khang thông dịch viên cho Tống Thượng Tiết vốn là người Phước Châu. Trong thời gian chiến dịch, con gái út ông Khang lâm trọng bệnh và qua đời. Lo xong công việc mai táng cho con là ông Khang đến ngay địa điểm của chiến dịch để làm nhiệm vụ thông dịch của mình.
• Khi chiến dịch tại Hoa Nam vừa chấm dứt, Tống Thượng Tiết nhận thấy rằng sứ điệp cần phải bồi đắm thêm tình yêu thương. Muốn nuôi dưỡng cho tình yêu lớn lên thì phải trừ diệt đi lòng tham dục của con người. Muốn diệt được lòng tham dục cũng cần có thời gian, tối thiểu để cho tội nhân đối diện với sự cáo trách và khải thị của Đức Thánh Linh hầu dẫn đến ăn năn và hối cải. Đây cũng chính là thời gian có cần cho người chăm sóc vun bón và nuôi dưỡng cho có hiệu quả, để đâm rễ và tăng trưởng vững mạnh. Đoàn truyền giảng tuần hoàn Bêtên không có kế hoạch như thế, nên Tống Thượng Tiết có ý định chia tay với Đoàn để hoạt động tự do hơn. Ngay lúc đó những nhà lãnh đạo của Đoàn lại muốn mời ông chính thức gia nhập Đoàn, ông thấy khó mà khước từ lòng ưu ái đó. Hơn nữa nhà lãnh tụ của Đoàn cũng từng đề nghị là tất cả những quà tặng phải được xem như tài sản chung của Đoàn. Tống Thượng Tiết cũng muốn những việc này cho rõ ràng. Ông nghĩ nếu ông không chịu gia nhập Đoàn thì sẽ có sự hiểu lầm, người ta sẽ nghĩ rằng không dám công khai cho biết những quà tặng cho tất cả các đoàn viên rõ. Hơn nữa ông vốn coi những điều thuộc về vật chất chỉ là những gì quá nhỏ mọn, so với việc lớn là cứu vớt linh hồn đồng bào, ông chỉ cầu mong cho mọi người hiệp một với nhau để cho Phúc âm được phát triển. Vì vậy lúc đó ông đã chính thức gia nhập Đoàn Truyền Giáo lưu hành Bêtên.
Về sau hồi tưởng lại, ông nhận thấy rằng Bêtên là một đoàn không thể hiểu được. Tống Thượng Tiết cũng nhận ra nguyên nhân sâu xa đưa đến việc gia nhập Đoàn Truyền Giáo của ông là vì ông còn nghĩ đến con người xác thịt này, sợ thiếu thốn không tiền chi dụng trong khi đi hầu việc Chúa!
CHƯƠNG 36
CÔNG VIỆC TẠI THƯỢNG HẢI
(THÁNG 7 ĐẾN THÁNG 9 NĂM 1932)
(THÁNG 7 ĐẾN THÁNG 9 NĂM 1932)
Trại hè bồi linh Bêtên năm 1932 họp tại Thượng Hải, khi mạc ngày 4 tháng 7 và kéo dài trong 10 ngày. Những trại viên phần lớn đến từ vùng Huê Nam như Phước Châu, Xoa Thu, Hồng Kông... còn những nơi khác vì ảnh hưởng của chiến tranh, ít người có thể đến tham dự được. Dầy vậy tổng số cũng lên đến trên 1.500 người. Tuy vào hè khí trời oi bức, người ta vẫn chen chúc trong nhà thờ của giáo hội Bêtên, nghe lời Chúa một cách thích thú say mê. Chương trình bồi linh của trại đã kết thúc, những nhiều người còn khao khát mong muốn được học hỏi thêm để gây dựng cho đời sống thuộc linh. Tống Thượng Tiết phối hợp với Mục sư Kế Chí Văn mở một lớp Thánh Kinh ngắn hạn 3 tuần để dạy cho 120 học viên. Qua khóa này họ đã học được 16 sách của Kinh Thánh.
Sau đó, tống Thượng Tiết tham gia Đoàn Truyền Giáo lưu hành và đã tổ chức một vòng truyền giáo có tính cách toàn quốc. Đoàn đã đến 13 tỉnh, trải qua hơn 54.828 dặm đường, truyền giảng 1.199 lần, số người nghe lên đến 440 ngàn, số người quyết định tin nhận Chúa khoảng 18.000 người. Những con đỏ của Chúa Cứu Thế này đều tổ chức thành những đội ngũ truyềng giảng, một mặt củng cố niềm tin của mình, mặt khác họ làm chứng cho người chưa biết Chúa.
Sau đó, tống Thượng Tiết tham gia Đoàn Truyền Giáo lưu hành và đã tổ chức một vòng truyền giáo có tính cách toàn quốc. Đoàn đã đến 13 tỉnh, trải qua hơn 54.828 dặm đường, truyền giảng 1.199 lần, số người nghe lên đến 440 ngàn, số người quyết định tin nhận Chúa khoảng 18.000 người. Những con đỏ của Chúa Cứu Thế này đều tổ chức thành những đội ngũ truyềng giảng, một mặt củng cố niềm tin của mình, mặt khác họ làm chứng cho người chưa biết Chúa.
Trong kỳ trại hè trên, đặc biệt có một vị khách đến từ một làng quê, dáng người thấp nhỏ, trạc ngoài 60, đầu tóc đã bạc phơ. Khi buổi truyền giảng vừa bế mạc thì cụ già này đã trở thành mục tiêu chú ý của nhiều người. Họ nhìn cụ ngạc nhiên rồi thì thầm to nhỏ cùng nhau. Ấy chính là thân sinh của Tống Thượng Tiết, cụ Mục sư Tống Học Liên. Do lời mời của Hội Thánh Bêtên cụ từ Hưng Hóa đưa con dâu và cháu trai, cháu gái đến Thượng Hải, nhập chung vào trong đám đông tín hữu dự trại để nghe Tống Thượng Tiết – bấy giờ đã rất nổi tiếng.
Trại hè Thượng Hải và lớp Thánh Kinh đoàn kỳ vừa kết thúc, Tống Thượng Tiết cùng Lý Đạo Vinh và Nhiếp Tử Anh lại đến Xoa theo lời mời của Hội Thánh Báp-tít để giảng cho trại hè bồi linh Mục sư, Truyền đạo, từ hạ tuần tháng 8 đến thượng tuần tháng 9, tổ chức tại một đảo đối diện với thành phố Xoa Thu. Rất nhiều tín hữu từ bên này thành phố đã đáp tàu sớm để sang bên kia đảo tham dự thờ phượng. Chiều về họp lại tại thành phố Phổ Ích. Tối họ lại kéo nhau đến Hội Thánh Bêtên để tiếp tục thờ phượng và nghe giảng. Mỗi ngày họ phải được dự ba lần mới thấy thỏa lòng. Trong những sứ điệp của Tống Thượng Tiết, luôn luôn công kích tội lỗi. Ông khẳng định rằng tội lỗi là nguyên nhân đau khổ của con người. Chính tội lỗi khiến cho Hội Thánh hoang vắng và chết dần. Các tín đồ phải đầy ơn Chúa và Hội Thánh phải được phấn hưng. Muốn được vậy thì trước tiên phải thanh toán tội lỗi và nài xin Chúa Thánh Linh hành động mạnh mẽ. Mỗi người phải tự cáo trách về tội lỗi của mình, ăn năn và nhờ công lao của Chúa Cứu Thế để được tha tội và được tái sanh.
Có một vị bác sĩ y khoa đã tin nhận Chúa, ông ăn năn tội lỗi của mình. Trước hết, ông thú tội với bệnh viện lúc trước ông đến thực tập khi mới ra trường. Ông đã ăn cắp nhiều thuốc men và dụng cụ y khoa. Tiếp theo ông cũng lần lượt xin lỗi tất cả những người ông đã từng gian dối với họ. Nhưng có một lỗi lầm rất lớn mà ông không muốn nhận và xưng ra, nên ông đã tranh chiến thật cam go với Đức Thánh Linh. Số là ông có hận thù với một bạn đồng nghiệp rất nặng nề, không thể dung tha nhau. Đức Thánh Linh đã phán với ông rằng: “Con phải nhận lỗi và xin sự tha thứ của người này!” Ông đã trả lời, là ông sẵn sàng xin lỗi bất cứ ai nhưng với người này thì không thể được. Sau đó không thể chống trả nổi với Chúa Thánh Linh nên ông đã đến nhà “kẻ thù” ấy để tạ tội. Đến cổng nhà “kẻ thù” thì ông cảm thấy quá xấu hổ và quay trở về, khóc lóc với Chúa rằng: “Chúa ôi, tội của con thật khó mà thú nhận!” Khi ông cầu nguyện với Chúa thì thấy lòng càng nặng nề và khổ sở hơn, nên qua hôm sau ông quyết định trở lại nhà “kẻ thù”. Trên đường đi gặp “hắn”, ông cố gắng đến gần, mỉm cười chào, nhưng không ngờ y đã cười khẩy một cái rồi khinh bỉ quay mặt đi nơi khác. Thật là đau đớn, về đến nhà, càng nghĩ lại càng giận mình. Ông đã tự nhủ, không bao giờ, không bao giờ nữa! Nhưng Chúa Thánh linh không chịu buông tha. Lòng ông nặng nề như bị một tảng đá chận trên ngực, đớn đau khổ sở vô cùng: cuộc tranh chấp thật là cam go. Cuối cùng ông đã đầu phục Chúa, bằng lòng đóng đinh sĩ diện trên thập tự giá. Ông sửa soạn một lần nữa đến nhà “kẻ thù” để làm một nhân chứng tốt cho Chúa. Đối diện với “kẻ thù”, ông đã khóc lóc nhận tất cả lỗi lầm của mình và chân thành xin bạn thứ tha cho. Người bạn đồng nghiệp vô cùng kinh ngạc, một con người cứng cỏi, có địa vị như ông sao lại chịu hạ mình đến thế để nhận và xin mình thứ lỗi, nên đã hỏi cho ra ngọn ngành. Khi biết rằng bạn mình đã bị Chúa Thánh Linh cáo trách, hai bên xưng nhận lỗi lầm, tha thứ cho nhau, và họ đã lãnh được tràn đầy ơn phước của Chúa... Hai người đã trở nên bạn rất thiết nhau.
Cũng có một bà tín đồ đến trước tòa giảng xin được đặt tay cầu nguyện, Tống Thượng Tiết nhìn chăm chăm, chỉ vào mặt bà và nói rằng: “cách đây 10 năm bà đã phạm một trọng tội, nhưng cho đến nay vẫn chưa chịu xưng nó ra, chưa ăn năn hối cải!” Bà này thoạt nghe thì khóc òa lên xưng tội và được tha thứ... Được đầy dẫy Thánh Linh nên Tống Thượng Tiết đã thấy được tỏ tường lòng người đối diện.
Đây là lần thứ nhì Tống Thượng Tiết đến Xoa Thu. Vòng truyền giáo trước đây đã để lại những thành quả tốt đẹp, nên đã mở được một cánh cửa rộng lớn cho công việc Chúa. Số người đến tham dự đông gấp đôi lần trước. Có nhiều người đau ốm, bệnh tật cũng cố gắng đến tham dự và được chữa lành. Quyền phép của Chúa đã tỏ bày cách mạnh mẽ càng ngày càng thêm.
CHƯƠNG 37
HÀNH TRÌNH ĐI HOA BẮC (1932-1933)
I. VÙNG BẮC KINH VÀ THIÊN TÂN.
Khi Đoàn Truyền Giáo về đến Thượng Hải, một lần nữa họ hướng về phía bắc. Lần này Tống Thượng Tiết theo ngõ Hán Khẩu đi lên, những đoàn viên khac thì theo lối Thiên Tân. Họ hẹn gặp nhau tại Bắc Kinh vào cuối tháng 10 năm 1932. Khi qua Hán Khẩu, ông chỉ giảng tại đây một bài vì Hội Thánh này không đủ chi phí để mời Đoàn lưu lại lâu hơn. Họ chỉ mời nhân dịp ông đi ngang qua. Chính ông cũng thấy đây là dịp tốt cho chính mình để hầu việc Chúa nên đã nhận lời.
Đến Bắc Kinh, Đoàn Truyền Giáo ngụ tại Hội Thánh Trưởng lão. Đây là lần đầu tiên Tống Thượng Tiết đặt chân đến thủ đô văn hóa này. Trường đại học Bắc Kinh cũng là cơ sở văn hóa lâu đời nhất của Trung Hoa. Ngày trước đại học Bắc Kinh cũng đã đạt thư mời Tống Thượng Tiết đến làm giáo sư ngành sinh hóa. Nhưng đó là chuyện xa xưa!
Các nhà lãnh đạo của Hội Thánh Trưởng lão tưởng rằng số người đến tham dự sẽ không đông lắm, nhưng chỉ mới ngày khai mạc mà số người đến đã quá đông. Bảy giờ sáng, trời chưa sáng hẳn, Hội Thánh họp lại cầu nguyện. Thời tiết mùa đông giá buốt, nhưng đã có Lời Chúa làm ngọn đèn cho bước chân, và sưởi ấm lòng người nên không ai thấy mệt nhọc và vất vả. Mười giờ sáng Tống Thượng Tiết đảm nhận việc hướng dẫn học Kinh Thánh và giải Kinh, số người tham dự lớp này thường từ 10 người đã đột nhiên tăng vọt lên con số 200. Buổi chiều Mục sư Kế Chí Văn đảm trách việc giảng dạy và buổi tối Tống Thượng Tiết truyền giảng Phúc âm. Số thân hữu đến dự vô cùng đông đúc, những ai đến trễ là không còn chỗ trong giáo đường phải đứng bên ngoài. Tống Thượng Tiết truyền giảng thật mạnh mẽ, người ta có cảm tưởng như Giăng Báp-tít đang kêu gọi đồng bào ăn năn trong đồng vắng. Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm như một người lính xung trận với tinh thần chiến đấu.
Một trong những đêm của chuyến truyền giáo này, ông cục trưởng công an Bắc Kinh cũng đã đến nghe Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm, ông rất thỏa lòng. Đêm sau ông mời cả gia đình cùng đến nghe, Chúa Thánh Linh đã bắt phục cả gia đình này, họ đều tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu. Chính ông cục trưởng đã đứng dậy cầu nguyện ăn năn và thừa nhận ông vốn là một kẻ gian ác cướp của giết người, ngôi nhà mà gia đ2inh ông đang ở cũng là chiếm đoạt của người khác bằng những thủ đoạn phi pháp. Chính nhờ qua sự xưng tội ăn năn ấy những lãnh tụ của giáo hội cũng được phấn hưng, bằng lòng xóa bỏ tất cả những điều kiện hạn chế sự hoạt động của Đoàn Truyền Giáo. Được tự do hơn Đoàn đã tổ chức những đội ngũ để ra đi truyền bá Phúc âm. Mỗi đội có biểu hiện riêng bằng lá cờ của đội mình. Đoàn Truyền Giáo muốn Tống Thượng Tiết qua hoạt động tại thành phố Thuận Đức, nhưng ông chưa muốn buông những công việc đang phát triển tại Bắc Kinh. Không thể quyết định dứt khoát, Đoàn phải dùng phương pháp bốc thăm để chỉ định nhân sự đi hoạt động những nơi chốn khác nhau. Kết quả là Tống Thượng Tiết ở lại Bắc Kinh.
Công việc của tuần thứ nhất vẫn bình thường, nhưng qua tuần thứ nhì Đoàn phải dời địa điểm đến một thánh đường khác để huấn luyện và đồng thời hướng dẫn cho gần 800 tín hữu, đa số thuộc ngành giáo dục, thành lập thành 50 toán truyền giảng Phúc âm. Tống Thượng Tiết nghĩ rằng vì có những toán truyền giảng Phúc âm dài hạn này nên ông không muốn rời Bắc Kinh vội, ông dọn vào tạm cư ngụ trong trụ sở hội Cứu Thế Quân. Một mặt ông tổ chức truyền giảng kêu gọi người ta ăn năn, một mặt huấn luyện những “tân bình” mới được kêu gọi vào đội ngũ. Hội trường của Cứu Thế Quân không được rộng rãi cho lắm và số thính giả đến quá đông nên phải chen lấn nhau để có chỗ ngồi. Những người đến dự thật sự khao khát được nghe Phúc âm nên không hề than phiền khi phải ngồi chen lấn nhau để có chỗ ngồi. Những người đến dự thật sự khao khát được nghe Phúc âm nên không hề than phiền khi phải chen lấn nhau để có chỗ ngồi. Tại hội trường con số người tin nhận Chúa lên đến 2,3 trăm, còn những người đến riêng với Tống Thượng Tiết để xin cầu nguyện không dưới con số ngàn. Có những người vừa thấy Tống Thượng Tiết đã run rẩy quì xuống, khóc nức nở cầu nguyện ăn năn tội với Chúa. Sau khi cầu nguyện nét mặt của họ lộ vẻ an bình và vui sướng của một tấm lòng đã được thứ tha.
Những Hội Thánh phụ cận Bắc Kinh đua nhau mời Tống Thượng Tiết đến truyền giảng tại địa phương của họ. Đoàn Truyền Giáo phải giải quyết tổ chức những buổi truyền giảng “liên hiệp” và tổ chức tại nhà thờ của Hội Thánh Công Lý là nơi có thể chứa được nhiều thính giả nhất. Có mật tin cho Tống Thượng Tiết hay rằng, có một giáo sư trung học cùng các học trò của ông ta muốn hành hung Tống Thượng Tiết. Họ xin ông hãy lưu tâm cẩn thận và tốt hơn hết là không nên công khai đứng lên giảng ở Hội Thánh Công Lý. Những học sinh trung học thuộc Hội Thánh Công Lý cũng nghe tin ấy, họ muốn tổ chức một đội ngũ làm vệ sĩ cho Tống Thượng Tiết. Giữa những hoang mang trầm trọng Tống Thượng Tiết nhã nhặn tuyên bố một cách nhã nhặn: “Tôi đứng giảng Phúc âm tại đây, ai muốn hành hung tôi thì xin cứ mời đến!” Kết cuộc không có ai công khai hành động, người muốn hành hung Tống Thượng Tiết thì cũng âm thầm lẩn vào trong đám đông thính giả để nghe ông giảng. Chính ông giáo sư đó được Chúa Thánh Linh bắt phục, đã đứng dậy tự thú nhận âm mưu của mình trước hội chúng và xin cầu nguyện tuyên xưng đức tin. Ngọn lửa phấn hưng chỉ chờ cơn gió ấy để bùng cháy lên trong thành phố cổ kính này. Những tiếng hát ngợi khen vang dội khắp nơi. Hơn 100 đội ngũ ra đi gieo giống Phúc âm với cờ xí bay rợp đường phố. Mục sư James Lanes của giáo phái Trưởng lão Hoa Kỳ tại Bắc Kinh có viết cho giáo phái Bêtên mô tả cơn phấn hưng tại Bắc Kinh như sau: “Đoàn Truyền Giáo của quí hội đã làm bùng cháy một cơn phấn hưng vĩ đại tại đây, không thể dùng ngôn từ để mô tả cho chính xác được. Chúa đã nhậm lời cầu nguyện và đã làm quá những gì chúng tôi mong ước. Nhiều người đã thống hối ăn năn, tin nhận Chúa, say mê học hỏi Lời Chúa, tìm cầu sự tăng trưởng tâm linh và hăng hái ra đi làm chứng Phúc âm của Chúa Cứu Thế. Tôi chưa từng thấy đoàn thanh niên nào hăng hái hầu việc Chúa như đoàn người trẻ này. Những tín hữu của giáo phái Trưởng lão chúng tôi thường có đời sống tin kính truyền thống nề nếp, bây giờ thấy cả một hội chúng đông đảo đồng thanh cầu nguyện, ngợi khen, chúng tôi thấy quả thật là cả một hiện tượng kỳ diệu chưa từng nghe và thấy. Từ đó chúng tôi rút được bài học quý già này: Sự cầu nguyện khẩn đảo để được Chúa Giê-xu chiếm hữu tấm lòng và hoàn toàn thuận ý chỉ của Ngài là điều kiện tiên quyết để nhận được ân phúc. Một vị giáo sĩ tây phương đã viết thư cho tôi (James Lanes): “Tôi đã được ánh sáng rọi chiếu cho tôi nên tôi muốn được viết lời chứng của tôi: Tôi đến Trung Quốc với nhiệm vụ là đem người Trung Hoa đến với Chúa Cứu Thế, nhưng không ngờ chính người Trung Hoa đã hướng dẫn tôi đi vào trong sự trọn lành của Đấng Cứu Thế!”
Tống Thượng Tiết làm việc tại Bắc Kinh liên tục trong vòng 32 ngày. Chúa đã ban ân phúc rất lớn là có trên 2.000 người tin nhận Chúa và được tái sanh. Công việc Chúa tốt đẹp thì ma quỷ cũng giận dữ muốn phá rối. Chúng đã thôi thúc một vị trưởng lão giả hình trong Hội Thánh, cũng chính việc này mà chiếc mặt nạ giả hình của ông ta đã rớt xuống. Vị trưởng lão ấy thấy Chúa ban phước trên những sứ điệp của Tống Thượng Tiết nên đem lòng ganh ghét. Ông ta định vào ngày chót sẽ xúi giục trên 200 em học sinh đến phá rối buổi truyền gảing. Có một lão bà trong Hội Thánh biết được âm mưu này nên đã báo Tống Thượng Tiết hay và khuyên ông nên rời khỏi Bắc Kinh sớm hơn một ngày. Tống Thượng Tiết nghe tin liều quỳ gối xuống cầu nguyện xin ý Chúa. Tiếng Chúa phán rằng: “Đừng sợ, con phải giảng cho hết những giáo lý cần phải gảing”. Như thường lệ, Tống Thượng Tiết giảng Lời Chúa rất mạnh mẽ, và đêm hôm ấy ông đã dùng câu chuyện Phao-lô và Sila bị xiềng trong ngục những vẫn hát ca ngợi Chúa và Chúa đã bẻ gãy mọi xiềng xích cho họ. Trong khi sứ điệp đang được ban phát qua Tống Thượng Tiết, những thanh niên được lệnh phá rối đã đứng sẵn trước cửa và bao vây quanh giảng đường, chận đứng tất cả các lối ra, những kẻ đồng mưu còn lại đã lẻn vào cửa trước xông lên tòa giảng định hành hung Tống Thượng Tiết. Thật không ngờ hôm đó có vị tư lệnh quân đội biệt khu Bắc Kinh đến dự buổi truyền giảng. Tháp tùng ông có đồng đội viên của đội tầm nã. Thấy cảnh tượng rối loạn, vị tư lệnh này đã ra lệnh bắt tất cả những kẻ gây náo loạn, bắt luôn cả vị trưởng lão chủ xướng việc này. Vị trưởng lão này không ai khác hơn chính là một trong những ủy viên của Hội Cứu Nạn, chính ông ta đã từng thâm thủng trên 50.000 đồng công quỹ. Ông ta đã nghe Tống Thượng Tiết giảng và cáo trách tội lỗi. Không những đã cứng lòng không chịu “mở nắp quan tài” xưng nhận tội lỗi của mình mà lại còn đem lòng đố kỵ ganh ghét, xem Tống Thượng Tiết như kẻ thù không đội trời chung. Kỳ thực Tống Thượng Tiết đâu có biết gì về tội lỗi kín giấu của vị trưởng lão ấy. Trong những sứ điệp của Tống Thượng Tiết, ông thường chỉ trích những tội như tham lam, cướp giật... Vị trưởng lão này vì có tật thì giật mình, đem lòng căm giận và muốn làm hại Tống Thượng Tiết. Trước khi vị trưởng lão ấy bị bắt, chung quanh Tống Thượng Tiết luôn luôn có hàng 5,6 trăm người nên ông ta không thể nào ra tay hành động được. Chúa không cho phép bất cứ một ai có thể rờ đến một sợi tóc của tôi tớ Ngài. Người ác muốn hại người công bình, nhưng cuối cùng chính nọ bị sa vào bẫy rập. Vị trưởng lão nói trên chỉ là một ví dụ điển hình trong muôn một.
Bắc Kinh lúc bấy giờ cũng là trung tâm của nhóm Tân Thần Học vì vậy tại thủ đô không thiếu những “Tân Thần Học Viện”. Những sinh viên của những viện này cũng đến dự nghe Tống Thượng Tiết truyền giảng. Sau khi được nghe chân lý, thì một số trong đám họ đã tin Thượng Đế là Chân Thần sống và họ tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa của mình. Kế đó có 10 sinh viên đến gặp riêng Tống Thượng Tiết và tâm sự rằng, chính vì việc này mà Viện Trưởng viện Thần học đã đã đích thân đến gặp Tống Thượng Tiết để chất vấn. Tống Thượng Tiết chẳng lộ vẻ gì khiếp sợ, nhưng ngược lại đã mạnh mẽ chỉ trích những kẻ không trung thành với lời Chúa: “Các sinh viên của quí viện đã mất đức tin như vậy chắc chắn nội dung giảng dạy của quí viện có điều gì sai trái”. Có rất nhiều thanh niên có cảm tình với Tống Thượng Tiết và muốn đi con đường của ông đã đi. Có những nữ sinh có ơn Chúa của trường trung học của giáo phái Trưởng lão đã ghi danh theo học Trường Thần đạo Bêtên. Có những tiên tri giả vì ganh tức nên đã lên án Tống Thượng Tiết là Christ giả. Lời dèm chê hiếm độc nhưng Tống Thượng Tiết vẫn không nao núng và tuyên bố rằng: “Tôi chỉ nhìn xem Chúa và bước đi cách dạn dĩ, tôi không nhìn xem một ai ngoài Chúa”.
Có một nữ sinh viên thuộc Đại học Bắc Kinh, nhân ngày nghỉ chia tay với bạn bè, một người đã tặng cô một quyển Thánh Kinh. Cô này đã xét toang và tuyên bố: “Tôi không cần Kinh Thánh, cũng chẳng cần Chúa”. Qua năm sau cô bị bệnh lao nặng, đến dưỡng bệnh tại núi Tây Sơn, người bạn cũ lại đến biếu cho cô một quyển Thánh Kinh khác. Lần này cô ta không dám xé nữa. Khi nghe tin Tống Thượng Tiết đang có cuộc truyền giảng ở Bắc Kinh, cô nhờ người nhà đưa cô đến đó để nghe. Cô đã được Chúa thăm viếng, Lời Chúa đã khiến cô cảm động, cô cầu nguyện xưng tội và xin ông cầu nguyện cho. Chúa đã nhậm lời chữa lành bệnh cho cô.
Chiến dịch truyền giáo tại Bắc Kinh đã hoàn tất, một vị giáo sĩ của Giáo hội Trưởng lão của Hoa Kỳ, Mục sư Stanley Smith đã có một câu kết luận: “Tiến sĩ Tống Thượng Tiết đã để lại Bắc Kinh một ảnh hưởng lớn lao”.
Các nhà lãnh tụ của các giáo phái tại Bắc Kinh tìm cách lưu Tống thượng Tiết nán lại thủ đô lâu hơn nữa, nhưng ông lấy đối tượng người Trung Hoa trong nội địa cũng như ở hải ngoại làm mục tiêu. Ông đã từ chối lời mời ở lại, trong lúc đó Mục sư Kế Chí Văn muốn ông đến tỉnh Sơn Tây. Giáo phái Liên hiệp tại Thiên Tân cũng phái đại diện là Trương Chu Mẫn đến Bắc Kinh mời Tống Thượn gTiết đến ban phát Lời Chúa. Sau khi cầu nguyện, Tống Thượng Tiết nhận lời đi Thiên Tân.
Hội Thánh tại Thiên Tân chưa bao giờ được phấn hưng và cũng chưa bao giờ thấy những người được Chúa thăm viếng sau khi nghe Lời Chúa tự động đi lên phía trước quỳ gối cầu nguyện, ăn năn xưng tội với Chúa. Đa số tín hữu nơi đây giữ thái độ lạnh lùng, kiêu căng nên kết quả trong những ngày đầu không đáng kể. Sau 10 ngày giảng dạy tại Hội Thánh Wesleyan, Tống Thượng Tiết vội vàng cầu vấn Chúa. Sau buổi sứ điệp phục hưng, có những tín hữu không dám công khai cầu nguyện giữa hội chúng đã đến gặp riêng Tống Thượng Tiết tại nơi ông tá túc là trụ sở hội YMCA. Họ cầu nguyện ăn năn xưng tội cá biệt với Tống Thượng Tiết. Những mệnh phụ vợ các vị quan lớn, những sinh viên v.v... đã trở nên như những đứa trẻ sơ sinh. Họ trở nên những người rất khiêm tốn và kính yêu Chúa.
Có một phu nhân của một vị tướng lãnh, sau khi nghe truyền giảng muốn đầu phục Chúa, nhưng không dám nhận mình là vợ bé, cũng không muốn bỏ người chồng già nghiện ngập của mình, bà nhiều lần dập tắt sự thôi thúc của Chúa Thánh Linh, về sau đã bị bệnh thần kinh nặng, trường hợp của bà này là một gương cho những ai đã được Chúa Thánh Linh thăm viếng mà cố tình ngoan cố không chịu tuân phục Ngài.
Tại Thiên Tân có một nữ hiệu trưởng trường trung học, được tiếng là người học rộng. Bà cũng nhận lời đến nghe Tống Thượng Tiết giảng Phúc âm với mục đích là xem thử ông ta giảng như thế nào, tại sao nhiều người nghe thích thú?... Khi nghe Tống Thượng Tiết giảng, Chúa Thánh Linhlàm việc trong lòng bà. Tất cả những tội ác che đậy xưa nay hiện rõ ra trong tư tưởng bà, nhưng bà còn vì e ngại cho địa vị tiếng tăm của mình nên không dám xưng ra giữa hội chúng. Khi về nhà bà trở thành câm, về sau bà phải xin mời Tống Thượng Tiết đến để cầu nguyện. Bà ăn năn xin Chúa tha thứ tội lỗi, Chúa đã nhậm lời và chữa lành. Bà được nói lại và được Chúa biến đổi trở thành người yêu mến Chúa và yêu Giáo hội. Bà rất có ơn phục vụ trong việc dâng hiến.
Cũng tại Thiên Tân có một người đàn bà có chồng là một kỹ sư du học từ Hoa Kỳ về. Bà có căm thù một người bạn, bà đã giữ yên lặng với người này hơn 13 năm. Khi nghe Tống Thượng Tiết giảng về sự tha thứ, bà cũng có xin ông cầu nguyện cho mình. Dầu vậy, lòng bà vẫn chưa thấy vui thỏa. Tống Thượng Tiết khuyên bà nên về làm hòa, xin lỗi người ấy. Phương pháp đơn giản và dễ thực hiện nhất là viết cho bà ta một bức thư. Bà nghe lời, về nhà cặm cụi viết thư xin lỗi, viết được nửa trang thì ngưng vì nghĩ rằng làm như thế này thì mất mặt quá. Nhưng sau bà cũng miễn cưỡng viết cho xong. Mãi mấy ngày sau bà nhờ người giúp việc mang thư đi. Sau bà giật lại, ý nghĩ cũ lại hiện về làm như thế này thì mất mặt quá! Chưa xin lỗi thì chưa có sự bình an. Cuối cùng bà lấy hết can đảm và lòng nhịn nhục nhờ người mang thư đó đi. Sau khi đọc thư ấy, người của 13 năm hận thù đã trở lại thân thiết như xưa. Thung lũng nước mắt giờ đây trở thành một nguồn suối hoan lạc cho cả đôi bên nhờ sự rao giảng Phúc âm do Tống Thượng Tiết.
Thời hạn 10 ngày của chiến dịch tại Thiên Tân đã hết, nhưng vì lòng ngưỡng mộ của các em học sinh nên ban lãnh đạo của Giáo phái Giám Lý thỉnh cầu Tống Thượng Tiết đến thánh đường của họ ở cửa ải phía nam thành phố để truyền giảng. Ban đầu vị mục sư sở tại không đồng ý, nhưng vì áp lực mạnh mẽ của đám đông học sinh nên ông bất đắc dĩ phải đến để thương lượng mời Tống Thượng Tiết. Sau chiến dịch truyền giảng 8 ngày, tất cả những thành trì chống đối đều sụp đổ. Trước kia có những người đã nghe Phúc âm nhưng còn do dự, bây giờ tất cả đều quyết định tin nhận Chúa Cứu Thế. Rất nhiều học sinh vốn là con em của những quan lại cũ, sau này họ trở thành những phần tử trung kiên của Giáo hội. Ngày cuối cùng của chiến dịch tại cửa ải phía nam, trong khi Tống Thượng Tiết đang thuyết giảng thì có một người điên xông tới, tay cầm một thanh đại đao định hành hung ông nhưng Chúa cho nhiều người trông thấy và cản ngăn kịp thời. Khi ông rời Thiên Tân có mấy trăm tín hữu ra sân ga tiễn đưa, có một chị em tín hữu mua cho ông một vé xe hạng nhất, Tống Thượng Tiết nói rằng: “Tôi chưa bao giờ di chuyển trên toa xe sang trọng như vậy!”
Đến Bắc Kinh Tống Thượng Tiết đến ngay thành phố Trịnh Châu thuộc tỉnh Hà Nam, nhà nguyện thành phố Trịnh Châu quá nhỏ hẹp, nên phải căng lều làm nơi nhóm lại thờ phượng và truyền giảng. Khi thì gió bụi mịt mùng, khi thì mưa gió lạnh buốt thấu xương, những thính giả đến tham dự đa số thuộc giới lao động và những cô nhi. So với giới thính giả ở Thiên Tân thì cách biệt nhau một trời một vực. Tống Thượng Tiết nghĩ đến việc đưa những người sống trong thành phố thỉnh thoảng đến những vùng thôn dã để thấy rằng mình phục vụ không phải vì thế tục. Vì vậy ông đã huấn luyện những người lính chiến tinh nhuệ trong thành phố, sẵn sàng đến khắp bốn phương thôn xóm để truyền bá Phúc âm. Dân cư sống trong những thôn làng thường họ rất đơn sơ, chân chất và cởi mở hơn những kẻ sống trong những thành phố. Sau mỗi lần nghe truyền giảng, được mời gọi họ liền đứng dậy cầu nguyện công khai xưng ra những tội lỗi của mình. Có hai vị Truyền đạo được Chúa thăm viếng nên sau đó đã phục vụ Chúa cách đắc lực. Trong chiến dịch truyền giảng đó cũng có một nhân viên bưu điện ăn năn hối cải, cũng có hai phụ nữ dâng mình đi vào Trường Thần Học.
Đoàn truyền giáo trở về Thượng Hải thì Tống Thượng Tiết gặp lại được mẹ. Bà cụ kể cho ông nghe tình hình của những nhân viên khác trong Đoàn như Mục sư Kế Chí Văn đang hoạt động ở Sơn tây và gặp rất nhiều khó khăn. Có vài vị trong ban lãnh đạo của Đoàn có ý trách Tống Thượng Tiết chỉ thích hoạt động tại nơi đô hội thành phố đông đúc, còn để những cộng sự viên khác thì hoạt động tại những vùng nông thôn hẻo lánh. Đối với những lời phê phán này, Tống Thượng Tiết đã giải thích: “Điều quan trọng đối với tôi ở thành phố không phải là sự hưởng thụ mà là tại đó là nơi tập trung dân cư đông đúc. Hơn nữa gánh nặng thập tự giá của hai nơi cũng có phần khác biệt; trong các làng mạc thôn quê tuy có khó khăn về cuộc sống vật chất nhưng tại những nơi đô hội thì lại khó khăn về cuộc sống tinh thần. Có ai phủ nhận điều này: Những nơi phồn hoa là vực thẳm của tội lỗi. Lòng người ở những chốn ấy chẳng những kiêu căng mà còn cứng cỏi. Có muôn vàn phương cách để họ khước từ Tin Mừng của Chúa. Những hạt giống mọc lên trong vùng đất đô thị phải được nuôi dưỡng bằng mồ hôi và nước mắt. Làm công việc Chúa tại các thành phố không phải là một hưởng thụ. Nếu tôi thích những cái phúc của trần tục này, thì phần thưởng của tôi ở trên trời sẽ không có chi hết. Đem so sánh thì đâu là phần tốt hơn, mong rằng Tống Thượng Tiết này không phải là người ngu dại ấy!”
Trong những ngày chờ đợi anh em đồng công trở về thì Tống Thượng Tiết tổ chức những buổi truyền giảng tại trường nữ trung học Huệ Trung (một trường thuộc Giáo phái Sa-bát). Cả thầy lẫn trò thuận đạo khoảng 5,6 chục người, tuy rằng giữ lễ ngày thứ bảy nhưng họ cũng đã đi vào trong ơn của Chúa. Họ xem nhẹ những hình thức của Giáo phái mà làm bạn thân thiết với Tống Thượng Tếit. Khi các bạn đồng công đã từ các nơi về lại Thượng Hải, Tống Thượng Tiết hứa với họ là từ rày sẽ không chia tay nhau nữa. Nhưng rồi về sau, ý kiến của các đoàn viên ngày càng khác biệt, thậm chí họ chỉ có vẻ hòa thuận liên kết với nhau bên ngoài. Trong lúc ấy thì mối giao hảo giữa Nhật và Trung Quốc đã đến hồi căng thẳng. Những nhà lãnh đạo Bêtên chủ trương dời trường y tá và Thần Học Viện ra Hồng Kông và dời cô nhi viện đến thành phố Đại Danh Thủ.
Tống Thượng Tiết trong khi chờ đợi Đoàn Truyền Giáo chuẩn bị cho vòng hoạt động tới, thì ông soạn những bài báo cho tờ Thánh Khiết Chỉ Nam của năm 1933. Một chị em, lúc trước vốn là một y tá nhưng về sau dâng mình hầu việc Chúa, viết lại được hơn 30 bài văn, chính vì công việc này mà có những lời ra tiếng vào không hay.
II. CÁC TỈNH SƠN ĐÔNG, SƠN TÂY, HÀ TÂY, HÀ BẮC, HÀ NAM.
Đầu năm 1933 Đoàn Truyền Giáo xuất phát một chiến dịch mới tại Sơn Đông. Vì cả 5 người trong Đoàn cùng đồng hành. Công việc đã chia ra để cùng làm nên Tống Thượng Tiết nhận nhiệm vụ ít hơn những vòng truyền giáo khác. Ông vốn là một người thích làm việc nhiều, vòng truyền giáo nào cũng muốn dùng cạn nguồn năng lực và tài lực của mình mới thỏa lòng. Bây giờ cơ hội phục vụ và làm việc bớt đi ông thấy áy náy khó chịu. Khi đến thành phố Tế Nam, công trường chính của Tống Thượng Tiết là Đại học Tề Lỗ. Lúc bấy giờ tại đó có một vị trưởng ty tài chánh họ Âu, vốn là người đã tin nhận Chúa. Ông Âu có một con gái đang theo học tại Đại Học Tề Lỗ và đã được nghe Tống Thượng Tiết truyền giảng Phúc âm và cũng đã tin nhận Chúa. Nghe tin này ông Âu vô cùng sung sướng, thêm lòng yêu mến Chúa và hăng hái làm chứng về Chúa cho những chính khách và giới giáo dục.
Sau Tế Nam cùng một lúc có hai nơi cùng đạt thư mời Đoàn Truyền Giáo đến hoạt động. Để tiến hành công việc tốt đẹp, Đoàn lại phải dùng đến giải pháp “chia để hành động”. Tống Thượng Tiết nhận trách nhiệm đến thành phố Tế Ninh còn Mục sư Kế Chí Văn đến Duy Huyện. Thành phố Tế Ninh là nơi Mục sư Kế Chí Văn đã từng hoạt động nhưng lúc đó dùng thánh đường giáo hội Trưởng Lão làm địa điểm chính. Bây giờ địa điểm là nhà thờ Giáo phái Báp-tít. Ngọn lửa Đức Thánh Linh vừa bộc phát thì các vị trưởng lão, chấp sự trong Hội Thánh đã được bừng cháy, và liền được trông thấy vinh quang của Đức Chúa Trời: Một trưởng cai ngục đã tin nhận Chúa sau khi nghe truyền giảng, ông ta liền mời Tống Thượng Tiết vào nhà lao truyền giảng Lời Chúa cho hơn 100 tù nhân.
Khi công việc của hai vị Tống, kế đã xong thì họ hẹn gặp nhau tại Huỳnh Huyện. Những vị giáo sĩ tây phương tại huyện này vốn có thành kiến với Mục sư Kế Chí Văn nên Tống Thượng Tiết phải đi cùng với Mục sư Kế Chí Văn. Mấy ngày đầu Tống Thượng Tiết nhận làm người tiền phong mở đường làm quen với các vị giáo sĩ. Sau đó mới giới thiệu Mục sư Kế Chí Văn với họ và để Mục sư lại hoạt động nơi đó còn riêng Tống Thượng Tiết thì đến “khai hoang” thành phố Đăng Châu. Nơi đây tín hữu rất ít oi, lại chẳng khao khát Lời Chúa. Hơn nữa các giáo sĩ ngoại quốc và các Mục sư bản xứ không đồng tâm tình nên công việc Chúa càng khó khăn hơn. Nhưng Tống Thượng Tiết là người rất kiên trì, càng cố gắng truyền giảng chân lý. Sau mấy hôm không có kết quả, ông liền đổi truyền giảng thành những buổi nhóm cầu nguyện. Trong khi đang cầu nguyện thì Chúa đã ban Lửa Thánh Linh giáng xuống khiến cho lòng bằng đá cũng phải tan chảy. Những hiểu lầm giữa các Giáo sĩ và Mục sư bản xứ đã được đánh tan, mọi người đều ca ngợi Thượng Đế.
Sau đó Đoàn đến một địa điểm nghỉ mát rất danh tiếng là Yên Đài. Tại đây Tống Thượng Tiết phụ trách hai buổi thờ phượng và giảng dạy sáng chiều. Mục sư Kế Chí Văn lo buổi thờ phượng cho các con em của các giáo sĩ ngoại quốc đang hầu việc Chúa tại Trung Hoa.
Tống Thượng Tiết chia sẻ kinh nghiệm của mình nhận được tại Yên Đài như sau: “Ngày ấy tôi đã kinh nghiệm về sự chết thêm một bước nữa với Chúa để được ngọn lửa Chúa Thánh Linh thiêu cháy mình trọn vẹn. Không còn bị một sự việc nhỏ nhen nào làm vướng bận. Chúa Thánh Linh của sự vui mừng tràn ngập trong tôi, giữ gìn tôi khiến tôi được bình an lạ thường giống như một đứa bé vừa no sữa, ngủ an bình trong lòng mẹ”.
Rời Tế Ninh Đoàn Truyền Giáo đến Cao Mật, là một vùng hoang dã. Đoàn căng lều lên ở và những ý định đồng công cùng nhau hoạt động tại địa điểm này, nhưng Mục sư Kế Chí Văn lại được các Hội Thánh tại Giao Châu mời, nên Đoàn lại phải chia tay nhau. Hội Thánh tại Cao Mật rất chú trọng đến ân tứ nói tiếng lạ, nhưng sau khi nghe những sứ điệp phục hưng thì những người có ân tứ tiếng lạ cũng cầu nguyện ăn năn xưng tội lỗi của mình với Chúa. Từ đó suy ra rằng, tiếng lạ không phải một ấn chứng cho người có ân tứ, nhưng một con người thánh khiết mới là điều quan trọng trước mặt Chúa.
Công việc của Mục sư Kế Chí Văn ở Giao Châu cũng được Chúa ban ơn rất nhiều. Lúc ấy Mục sư Giáo sư Đinh Lập Mỹ rời Trường Thần học Bêtên để nhận một trách nhiệm khác. Ban giám học của Trường Bêtên có ý định mời Mục sư Kế Chí Văn về thay thế. Tống Thượng Tiết nhận định rằng nếu ý của Chúa muốn chỉ những nhân viên của Đoàn Truyền Giáo đi giữ những nhiệm vụ khác nhau thì chắc chắn sẽ có nhiều biến cố khác sẽ xảy ra khiến cho họ khó còn có dịp hợp tác với nhau trong Đoàn Truyền Giáo. Chiến dịch tại Sơn Đông tạm thời kết thúc.
Về công việc của Đoàn Truyền Giáo Bêtên tại tỉnh Sơn Đông, tiến sĩ Horc Appit đã viết một bài tường thuật như sau: “Với những người thổ phỉ hung tàn, thú vui của họ là giết người. Quan lại thì tham ô hủ bại; quân đội thì kiêu binh, vô kỷ luật; học sinh thì vô lễ, không nghe lời thầy giáo của mình... Từ thương gia cho đến kẻ hành khất, từ những học giả cho đến các anh phu xe; bất luận nam hay nữ, già hay trẻ... tất cả như đều được Chúa thăm viếng khi nghe truyền giảng Phúc âm. Họ dạn dĩ đứng dậy cầu nguyện xưng tội ăn năn. Cảnh tượng này thật chưa hề xảy ra tại tỉnh Sơn Đông”.
Tháng 3 năm 1933, Đoàn Truyền Giáo từ Sơn Đông đến thành phố Khai Phong thuộc tỉnh Hà Nam. Họ tổ chức truyền giảng trong giảng đường của một trường nam trung học thuộc hệ phái Báp-tít. Những ngày đầu, học sinh không mấy quan tâm, họ chiếu theo lệ thường đi đến trường trung học không mấy ai đến dự truyền giảng. Nhưng sau khi một vị giáo sư của trường đã tiếp nhận Chúa, ông mới hướng dẫn học sinh của mình chừng 5,6 chục em đến nghe truyền giảng. Các em đã tiếp nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu rất đông. Vì Mục sư Kế Chí Văn có công việc phải về Thượng Hải gấp nên những đoàn viên còn lại của Đoàn đến thành phố Kỹ Huyện.
Trước khi đến đây thì tin tức cho biết là sẽ có khoảng 300 học sinh đến nghe Phúc âm, nhưng trên thực tế những người đến dự toàn là các bà lão, đàn ông chỉ có vài người... Trước tình hình này, Tống Thượng Tiết phải xoay qua phương pháp biểu thị bằng hình ảnh. Tuy ông đã diễn lui diễn tới nhiều lần nhưng khán thính giả của ông cũng chẳng hiểu gì, ông bảo họ nhận tội, họ nhận tội liên tiếp! Tống Thượng Tiết không biết làm sao hơn là đặt tay cầu nguyện cho họ. Sau khi đã đặt tay cầu nguyện, lòng họ như mở ra, thông suốt và biết chắc rằng mình đã được tha thứ và không cần phải lặp lại nhiều lần nữa Tống Thượng Tiết học thêm được một chân lý: “Ỷ vào sức riêng của mình thường làm những việc luống công, nhưng khi biết nhờ cậy vào Chúa Thánh Linh mà làm thì Ngài sẽ thực hiện gấp bộ những điều chúng ta mong ước. Đây thật là một bằng chứng cụ thể công việc của Chúa Thánh Linh”.
Hoạt động ở Kỹ Huyện được 4 ngày, Đoàn trở lại thành phố Khai Phong, tổ chức truyền giảng tại một giảng đường thuộc hệ phái Giám Lý. Số thính giả đến dự khoảng 7,8 trăm người. Tại đây những lãnh tụ Hội Thánh người Hoa cũng như các giáo sĩ ngoại quốc đã phối hợp với nhau làm việc rất chặt chẽ. Trong số đó có Mục sư James Taylor, (con trai của ông Husson Taylor) hết lòng giúp đỡ cho Đoàn Truyền Giáo. Tống Thượng Tiết cũng mời những vị ấy hướng dẫn những buổi cầu nguyện. Ngày cuối cùng Chúa Thánh Linh đã thăm viếng họ trong một buổi cầu nguyện. Các giáo sĩ cũng như các vị Mục sư trong hàng ngũ lãnh đạo đã tan vỡ lòng mình và tiếp nối nhau cầu nguyện xưng tội cùng nhau và ăn năn với Chúa. Như một cuộc chạy đua tiếp sức, hết người này đến người khác liên tục hơn 4 tiếng đồng hồ cũng chưa chấm dứt lửa thiêng liêng. Quang cảnh này làm người ta hồi tưởng quanh cảnh trên núi Cạtmên, Chúa Thánh Linh thôi thúc lòng người bật những tiếng cầu nguyện thiết tha, thống hối khiến lửa từ trời giáng xuống toàn thiêu của lễ và cũng thiêu hủy luôn những củi, đá, bụi đất...
Thính giả của buổi truyền giảng sau đó mong Tống Thượng Tiết đừng nói đến huyết của Chúa Giê-xu đổ ra trên cây thập tự nữ, nhưng ông không để ý đến đề nghị của họ. Ông vẫn tiếp tục đưa cao thanh gươm hai lưỡi của Đức Thánh Linh, luôn giảng về những lẽ đạo căn bản về sự được chuộc tội bởi huyết của Chúa, sự tái sanh... Kết quả rất tốt đẹp là hơn 200 thính giả tin nhận Chúa, cũng có những vị Mục sư đầu phục Chúa trọn vẹn và thừa nhận rằng chính mình chưa được tái sanh, và hứa nguyện rằng từ đây họ chỉ biết giảng những lẽ đạo về sự sống đời đời.
Kế đó Đoàn Truyền Giáo đến Thạch Gia Trang, Mục sư Kế Chí Văn cũng từ Thượng Hải đến để gặp Đoàn. Họ tổ chức một chiến dịch tại Hội Thánh Assembly of God, hệ phái này rất coi trọng vấn đề nói tiếng lạ. Đa số những người nói tiếng lạ tại đây là những kẻ giả hình, mà đã giả hình thì cần phải ăn năn dốc đổ lòng mình để nhận tội, hối cãi và hòa thuận lại với Thượng Đế. Tống Thượng Tiết khẳng định với họ rằng: “Điều mà tội nhân cần không phải là ân tứ nói tiếng lạ, cũng không phải là những ân tứ khác mà là hồng ân của Chúa Cứu Thế. Một tội nhân không đối phó với tội lỗi thì không được ân cứu rỗi. Nếu đến với Chúa chỉ với mục đích xin một ân tứ nào đó là một điều vô cùng nguy hiểm. Thường vì mục đích sai lệch này mà mắc mưu kế của ma quỷ”. Những người đến tham dự Đại hội có một số Giáo sĩ Tây phương, vài chục vị ở vùng phụ cận Thạch Gia Trang, các chiến sĩ trong đoàn Cứu Thế Quân. Những người đến tham dự đều được nâng đỡ rất nhiều, họ đã nhận được Chúa Thánh Linh và ra về với lòng nóng cháy gia tăng và niềm tin vào Lời Chúa.
Một cô y tá có lòng yêu mến Chúa đã mời Đoàn Truyền Giáo đến hoạt động tại Thái Nguyên. Hội Thánh ở tại đây có trường học, bệnh viện nhưng tiếc thay tín lý của họ không được thuần chính. Những buổi thờ phượng của Đoàn được tổ chức tại Hội Thánh Cơ đốc giáo người Hoa. Tống Thượng Tiết đang cư ngụ tại nhà một tín hữu có niềm tin và tín lý thuần túy, nhưng vì ông đang bị ho nên được đưa đến tá túc tại nhà một bác sĩ theo tân phái. Ở đó không được chăm sóc chu đáo lắm nên bệnh ho càng trầm trọng và dữ dội hơn. Sức khỏe của ông bị giảm sút rất nhiều. Lúc bây giờ sức khỏe của ông có thể tượng trưng cho tình trạng thuộc linh của hệ phái nơi ấy. Kết quả của những ngày chiến dịch chỉ mang lại được một vài người y tá tin nhận Chúa, còn những vị lãnh đạo hệ phái tại đây không mấy thích thú. Hội Thánh Hữu Ái tại Huyện Bình Định cũng thuộc tân phái. Vị Mục sư tiền nhiệm tại đây sau khi bị các giáo sĩ Tây phương cách chức vì trái đạo. Ông ta đã nổi tánh xác thịt, vẽ nhiều tranh ảnh và tạc nhiều tượng, bán cho tín hữu để thờ trong nhà, và thậm chí xúi tín hữu vứt bỏ Kinh Thánh, phỉ báng chân lý! Tuy chưa bớt cơn ho, nhưng Tống Thượng Tiết không màng đến chính bản thân mình nữa. Ông để hết tâm trí vào việc truyền giáo. Vị hiệu trưởng của trường tiểu học của Hội Thánh với thái độ kiêu kỳ đã chống đối mãnh liệt Đoàn Truyền Giáo nhưng vị Mục sư quản nhiệm Hội Thánh và Giáo sĩ ngoại quốc là những người đầy ơn Chúa. Vị Mục sư tiền nhiệm đã bị cách chức đó cũng có đến nghe. Tống Thượng Tiết dùng sứ điệp những bộ xương khô và những bộ xương già để chỉ trích tội lỗi. Nghe Tống Thượng Tiết như chỉ trích chính mình, ông đã đứng lên giữa hội chúng để thừa nhận những tội lỗi tham lam của chính mình và cũng công nhận rằng sở dĩ ông làm Mục sư chẳng qua cũng vì miếng cơm manh áo. Hàng lãnh đạo được Chúa thăm viếng và phục hưng thì tương lai của Hội Thánh Chúa tại Bình Định có hy vọng sáng lạng hơn.
Hội Thánh Bình Giao được các vị Mục sư cũng như giáo sĩ của Nội Địa Hội là China Inland Mission gây dựng và chăm sóc nhiều năm nên không bị ảnh hưởng của Tân Thần học, và những hệ phái vô tín khác. Bình Giao tiếp sát với quê hương của Mục sư Tịch Thắng Ma (Pastor Conqueror of Demons Chief), cho nên những Hội Thánh phụ cận là thành quả của nỗ lực của Mục sư Tịch Thắng ma. Cũng từ lòng yêu thương của Mục sư Tịch Thắng Ma đã để lại cho tín hữu nơi đây một tấm lòng chất phát và trung thành, cho nên về sau cho dù bị chiến tranh tàn phá, nhiều cơn bắt bớ xả ra nhưng đức tin của họ vẫn vững vàng. Khi Đoàn Truyền Giáo đến nơi đây để mở chiến dịch thì các giáo sĩ Tây phương của China Inland Mission (C.I.M) đã đi khắp các vùng phụ cận để phát chương trình và truyền đạo đơn. Với tấm lòng nhiệt thành và khiêm tốn, nhưng tiếc thay trường học ở nơi đây thiếu thốn và giáo dục lạc hậu, không có nhân tài đứng lên lãnh đạo công việc giáo dục tại địa phương cho nên công việc của hội không có được kết quả mong muốn.
Huyện Hồng Động là trung tâm hành chánh dịch vụ CIM tại tỉnh Sơn Tây. Trong vùng có tất cả 38 giáo khu của các huyện, các cấp lãnh đạo đã hẹn với Đoàn Truyền Giáo lưu động đến nơi đây để dự đại hội các giáo khu tổ chức hai năm một lần. Khi Đoàn Truyền Giáo và Tống Thượng Tiết đến nơi thì đại biểu của 38 giáo khu đã có mặt đầy đủ. Có 33 giáo sĩ Tây phương nhưng về phía người Hoa chỉ có 5 đại diện. Những đại diện của các giáo khu Huyện Hồng Động định mở tiệc khoản đãi Đoàn Truyền Giáo nhưng đã bị khước từ. Tống Thượng Tiết nói rằng chúng ta đến đây không vì sự ăn uống và đãi đằng. Thật vậy, cả con người và tấm lòng của Tống Thượng Tiết đã bị cuốn hút vào công việc truyền giáo. Những vấn đề tiệc tùng, xã giao thì không còn thì giờ đâu để ông nghĩ đến. Nội Địa Hội của khu vực này có trường trung học Phổ Nhuận và một trường Kinh Thánh nên số thính giả đến dự rất đông. Ban tổ chức định mỗi ngày thờ phượng hai buổi, thì giờ còn lại dành cho đại hội thường niên. Nhưng Đoàn Truyền Giáo lại chủ trương 3 ngày đầu hoàn toàn biệt riêng để cầu nguyện và ba ngày tiếp theo hoàn toàn dành cho thảo luận công việc của Nội Địa Hội. Tống Thượng Tiết khuyên nhủ rằng nếu đại hội không chú trọng đến đời sống tâm linh, không cầu vấn sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh thì thể nào thực hiện được những việc lớn cho Ngài? Trước hết phải được sự thăm viếng, nóng cháy của Đức Thánh Linh, sau đó mới nhận được quyền năng của Ngài để bùng cháy lên và sáng lòe ra... Ý kiến ấy được tiếp nhận và Tống Thượng Tiết là người đảm trách việc giảng dạy. Ông đề nghị ông sẽ giảng bằng tiếng Anh để tiện cho các Giáo sĩ Tây phương, và ông Lâm Cảnh Khang sẽ là người thông dịch qua tiếng Trung Hoa. Lâm Cảnh Khang cũng là người đồng diễn những ví dụ của Tống Thượng Tiết. Có những lúc Tống Thượng Tiết dùng dây thừng trói Lâm Cảnh Khang để tượng trưng cho sự trói buộc của tội lỗi, khiến cho khán thính giả càng dễ hiểu ý nghĩa của sứ điệp. Có một hôm Tống Thượng Tiết giảng về đề tài sự phục hưng của Samari, lấy ví dụ về sự thất bại của Philíp để so sánh với sự thất bại của các nhà truyền giáo ngoại quốc. Công việc của Philíp cũng đã được báo cáo về Giêrusalem rất suông sẻ, hay ho. Công việc của các giáo sĩ ở hải ngoại cũng vậy, được báo cáo về bổn hội được đăng tải trên các tạp chí. Những bản báo cáo xem ra toàn những thắng lợi vẻ vang. Thật ra công việc của các nhà truyền giáo đang thiếu một điều gì thật quan trọng, đó là quyền năng của Chúa Thánh Linh. Một lần kia Tống Thượng Tiết đã dùng lời nói về cuộc đời nguy hiểm của chính Phao-lô đã răn dạy Timôthê mà so sánh với sóng biển, cơn sóng dữ đó như muốn nhận chìm con thuyền nhỏ giáo hội. Đặc biệt, một hôm sau bài truyền giảng, tín đồ người Hoa và cả người ngoại quốc chen chúc nhau đứng trước bục giảng để cầu nguyện ăn năn xưng tội, đồng thời cũng cầu xin năng lực và ân tứ Đức Thánh Linh. Hiện tượng này không lấy gì làm hiếm hoi hay mới mẻ đối với các Giáo sĩ Tây phương. Nhưng chính tự họ làm thì đây là lần đầu tiên. Ngọn lửa phục hưng đã được đốt cháy, lại càng bùng lên mạnh mẽ vô cùng tại nơi đây...
Sau một tuần lễ truyền giảng tại Huyện Hồng Động, Đoàn Truyền Giáo đáp xẻ lửa trở về Thượng Hải. Nhưng những con đường đất ở ven Sông Hồng bị ngập lụt sau cơn mưa giông mùa hạ. Đường bị sình lầy, phải chờ nắng lên, cho khô ráo xe hơi mới có thể chạy được. Những cộng sự viên đang hoạt động tại phía nam tỉnh Sơn Tây, dù đã quá mỏi mệt nhưng không thể về được, Tống Thượng Tiết chờ đợi quá lâu nên đã nóng giận, lớn tiếng với người trưởng trạm xe đò công cộng. Nhưng rồi cũng chỉ có thể nằm lại bên lề đường mà ngủ.
Cuối cùng Đoàn Truyền Giảng cũng về được đến Thượng Hải. Họ vội vã tổ chức đại hội Phúc hưng tại Hội Thánh Bêtên. Những nhà lãnh đạo Hội Thánh đã dùng danh tiếng Tống Thượng Tiết để thu hút kêu gọi thính giả đến nghe. Tống Thượng Tiết sẽ giảng về sách Đaniên và sách Công Vụ. Ban tổ chức đại hội cũng mời hai diễn giả không thuộc Đoàn Truyền Giáo là Mục sư Trần Xùng Quế và Giáo sĩ Tiến sĩ French Oliver. Xuất truyền giảng buổi sáng do Tống Thượng Tiết và tiến sĩ Oliver thay phiên nhau ban bố sứ điệp, về vấn đề tín đồ Cơ đốc giáo có phải trải qua cơn đại nạn hay không. Quan điểm của Tống Thượng Tiết và của tiến sĩ Oliver hoàn toàn trái ngược nhau. Việc này khiến cho Tống Thượng Tiết không vui và cũng khiến cho các nhà lãnh đạo Hội Thánh Bêtên rất khó xử. Vì vậy trong ba tuần lễ dạy Kinh Thánh Tống Thượng Tiết chỉ dạy xong sách Công Vụ mà thôi. Như vậy việc làm trong thượng bán niên 1933 xem như kết thúc. Tống Thượng Tiết đã ghi lại bài học trong 5,6 tháng hoạt động này rằng: “Trong đoạn đường này Chúa đã hướng dẫn tôi lên núi Cạtmên, Ngài đã dạy cho tôi nhìn thấy đâu là thật đâu là giả, những gì là do tánh xác thịt con người làm ra, những gì do Chúa Thánh Linh hướng dẫn. Đừng nghe những nhóm tiên tri đã được nuôi béo bằng cao lương mỹ tửu của nhà vua, cũng đừng nghe theo những tiếng reo hò làm rúng động đất trời... Nhưng phải yên lặng với niềm tin và với sự hiểu biết tĩnh ngộ, phải cầu xin lửa từ trời giáng xuống. Toàn bộ con người phải được lửa Đức Thánh Linh thiêu hủy, khiến cho cái tôi phải hoàn toàn được toàn thiêu. Như vậy mới hy vọng nghe được Lời ấn chứng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Chỉ có sức nóng của lửa Thánh Linh mới có thể khiến cho thành kiến của con người bị thiêu rụi, làm cho lòng người hiệp một và hiểu được những sự dung hòa chân thật”.
Sau này khi viết về giai đoạn của trại hè Thượng Hải, ông kết thúc rằng: “Chiến dịch ở bắc phương kèo dài 5 tháng, chưa bao giờ tôi làm việc ở một chỗ lâu dài như thế này. Thường thường, mỗi ba tháng hoạt động thì có một thời gian ngắn nghỉ ngơi vì sức khỏe của tôi không thể chịu đựng lâu hơn. Nhưng lần này kéo dài thêm hai tháng, thời tiết lại quá lạnh, chân tay tê nhức. Thời khóa biểu vẫn như lệ thường, mỗi ngày ba xuất. Lúc hoạt động ở bắc phương, tôi không quen thức ăn trên ấy nên sức khỏe đã giảm sút đi rất nhiều. Một lần nọ lúc hoạt động tại Sơn Tây, tôi yếu lắm nên không còn đứng vững lâu để giảng. Tôi phải tựa mình vào bục giảng, hai chân thay phiên nhau chống đỡ cho thân hình khỏi ngã. Đôi chân tôi nhức nhối và lưng tôi cũng bắt đầu đau đớn, khó mà cố gắng để đứng cho vững. Tôi cũng đã thử ngồi để giảng, nhưng ngồi thì lưng lại càng đau đớn hơn, thật là đến lúc sơn cùng thủy tận! Tôi không muốn chăm về xác thịt, nên chỉ muốn liều mình rao truyền Tin Lành của thập tự giá. Nhưng than ôi! Cũng có lắm kẻ chống đối công kích tôi thậm tệ!”
CHƯƠNG 38
THỜI KỲ CUỐI CÙNG HỢP TÁC VỚI BÊTÊN (1933-1934)
I. TẠI HOA BẮC
Một buổi họp của Đoàn Truyền Giáo lưu động được triệu tập tại trụ sở trung ương hệ phái Bêtên để điều chỉnh tổ chức và công việc trong những chiến dịch. Trong những nơi Đoàn đến truyền giảng có nhiều thiếu nữ trẻ đến nghe và thích sinh hoạt, nhưng trong Đoàn lại có những thanh niên trẻ chưa có gia đình. Sợ rằng sẽ có ảnh hưởng không tốt đến công việc chung, nên hội đồng quyết định để lên Thượng Hải hai người họ Lý và Nhiếp trẻ tuổi còn ba người kia thì đi sinh hoạt lưu động với Đoàn. Về sau Lý Đạo Vinh sang Hoa Kỳ học nhạc tại chủng viện Moody còn Nhiếp Tử Anh về làm việc cho Hội Thánh Bêtên nên Đoàn Truyền Giáo lưu hành chỉ còn lại ba người là Kế, Tống và Lâm. Trước khi tổ chức chiến dịch lần thứ hai tại vùng Hoa Bắc, lợi dụng thời gian chưa lên đường, Đoàn tổ chức một buổi truyền giảng hướng ngoại ngắn hạn tại Xoa Châu, trước khi trở lại Thượng Hải.
Trong buổi họp ấy cũng có những điều chỉnh khác: Thứ nhất, về tạp chí Thánh Khiết Chỉ Nam, những bài giảng của Tống Thượng Tiết tối đa chỉ đăng hia bài trong một số. Thứ nhì, những chiến dịch truyền giảng hay giảng phấn hưng sau này phải được tổ chức một ngày 4 buổi để cho hai người chia đều công việc.
Đối với những điều chỉnh này thì Tống Thượng Tiết có ý kiến: “Những ấn phẩm về tôn giáo không phải là môi trường để chúng ta thi thố tài năng. Lúc trước trong tạp chí Thánh Khiết Chỉ Nam có đăng nhiều bài viết của chúng ta mục đích không phải để khoe trương tài năng. Tuy vậy, bây giờ đã hạn chế lại số bài viết như vậy thì phải trau dồi thêm về phẩm hơn là chú trọng đến lượng. Những ngày đầu, chúng ta hiệp một nhau trong công việc nên rất thoải mái, dễ chịu. Nhưng bây giờ sắp xếp theo lối này, vô tình chúng ta đã tạo nên cơ hội để tranh giành ảnh hưởng, gân nên chia rẽ nội bộ. Công việc của Đoàn không còn dễ dàng như xưa, nhất là khi chúng ta nhận lãnh ân tứ tương tự thì lại càng khó mà có thể làm việc chung nhau nữa. Như trường hợp Chúa đã cho phép Banaba và Phao-lô phân rẽ nhau, như vậy ngày tôi phải rời khỏi Bêtên không còn xa nữa”.
Bàn thảo xong, ba người trong Đoàn đến tỉnh Trương Gia Khẩu thuộc tỉnh Sát Hai Nhỉ. Ba ngày đầu Đoàn dùng Hội Thánh Hiệp Đồng là địa điểm chính để truyền giảng, ngày thứ tư tại trụ sở Cứu Thế Quân, sau đó đoàn đến Hội Thánh Mỹ Phổ. Tại đây đức tin của Giáo hội có phần lệch lạc, tuy ở vùng biên giới hẻo lánh nhưng phe tân phái đã thừa cơ xâm nậhp. Có một Giáo sĩ Tây phương một mình đơn chiếc nơi đây, nhưng biết quên mình để yêu thương người lân cận. Ông ta đã lấy kinh nghiệm bản thân sống bằng đức tin mà chia sẻ cùng Tống Thượng Tiết , khiến ông được khích lệ vô cùng.
Một hôm Tống Thượng Tiết đang cầu nguyện chữa bịnh, một bà lão đã bị cụp xưong sống, nhận thấy bà có đức tin nên ông đã lớn tiếng bảo bà đứng dậy. Bà ta liền đứng dậy. Nhưng giáo sĩ ngoại quốc kia thấy thế tưởng rằng bà ta chỉ được sự kích thích tạm thời mà đứng dậy đó thôi, nên đã đến đỡ bà, cũng vì vậy mà bà này không thể đi tới nữa, phải ngồi xuống lại. Tống Thượng Tiết liền lãnh hội một bài học rằng những kẻ tin thì không nên mang ách chung với kẻ chẳng tin, để khỏi bị cản trở công việc và làm cho công khó bị hư hoại.
Cũng có một người kia, làm chứng cho Tống Thượng Tiết nghe từng trải về ân cứu rỗi của Chúa cho mình, khiến cho ông khâm phục. Nhưng không ngờ người này đã dùng tôn giáo và khẩu tài để lừa bịp nhiều nơi. Những điều mà ông ta làm chứng là không đúng sự thật mà hoàn toàn do ông ta bịa đặt ra. Qua chiến dích tại Trương Gia Khẩu, Tống Thượng Tiết đã lãnh hội được thêm một bài học: đừng nhẹ dạ nghe mà hợp tác với người khác và cũng đừng dễ dàng bị thuyết phục bởi những lời lừa dối, cũng không đồng công cộng tác với kẻ chẳng tin hay đạo đức giả.
Đoàn tiếp tục cuộc hành trình đến thành phố Qui Hóa ở tỉnh Tuy Viễn, hơn 150 nhà lãnh đạo của Nội Địa Hội (China Inland Mission) đều đến tham dự. Ở vùng Tây Bắc nơi mà thổ phỉ đang hoành hành dữ dội, một cuộc hội họp một ngày 4 xuất là một điều khó kiếm. Vả lại những người trong Đoàn cũng không đồng tâm khiến cho tinh thần của Tống Thượng Tiết bị tổn thương rất nhiều. Điều này cũng ảnh hưởng đến công việc Chúa và vô tình tạo nên những khoảng trống sơ hở khiến cho ma quỷ có thể xen vào. Một việc hiểu lầm đã xảy ra: có một nữ tín đồ tìm đâu được địa chỉ của thân sinh Tống Thượng Tiết. Bà gởi trực tiếp tặng cho cụ một số tiền 300 đồng. Những người trong Đoàn biết được việc này tưởng đâu là do yêu cầu của Tống Thượng Tiết, nên họ rất bất mãn. Vì theo điều lệ của đoàn thì tất cả tiền người ta dâng hiến hay biếu tặng đều sung vào quỹ của Đoàn. Tống Thượng Tiết không ngờ những mũi tên bắn ngầm nên đã yêu cầu mở một cuộc điều tra công khai. Kết quả cho thấy Tống Thượng Tiết không hề cho bà tín đồ đó địa chỉ của thân sinh mình. Sự hiểu lầm này coi như đã được giải tỏa. Tống Thượng Tiết tiếp tục tìm hiểu thêm mới biết rằng lúc ấy Hội Thánh Hưng Hóa muốn cho Mục sư Tống Học Liên hư trí, nhưng cụ vẫn tình nguyện hầu việc Chúa không lương. Chúa đã đặc biệt cảm động lòng bà tín đồ đó gởi tiền giúp cụ.
Tại Qui Hóa có một nhà máy do cơ quan Gia đình Chúa Cứu Thế thiết lập nhà máy thân nhận những tín đồ thất nghiệp để họ có cơ hội vừa làm việc, vừa đi truyền gảing. Khi Tống Thượng Tiết đến thăm xưởng đó thì thấy rất nhiều thiếu sót. Ý nguyện ban đầu là giúp cho những người có tâm trí hầu việc Chúa có cơ hội hầu việc Chúa, nhưng rồi từ từ đã biến thành một nơi để mưu sinh kiếm sống. Tống Thượng Tiết đã thẳng thắn khuyên nhủ họ: “Nếu quý vị chú trọng đến tiền bạc, chắc chắn sau này sẽ thất bại!” Quả nhiên về sau cơ xưởng này đã bị đóng cửa.
Các Hội Thánh ở thành phố Bao Đầu đã liên kết nhau để mời Đoàn Truyền Giáo đến hoạt động. Ba nhà truyền giáo ở nhờ trong trụ sở của Nội Địa Hội. Thính giả của những buổi truyền giảng có khoảng chừng 1,2 trăm người, trong số đó có một bà quý phái, sang trọng. Bà nghe rất chăm chú với thái độ khiêm nhường và trung tín. Sau hỏi ra mới biết là bà ta đang gặp nhiều điều khốn khổ, nên muốn đến cùng Hội Thánh để tìm nguồn an ủi.
Cũng có một vị nữ tín đồ khác đã làm quen với một người bạn trai mới nhập vào Hội Thánh và hai người đã thành hôn với nhau. Về sau mới biết sở dĩ anh chàng này gia nhập chỉ là để lấy vợ. Toại nguyện rồi chàng ta bỏ cả vợ lẫn cả những buổi thờ phượng. Sau chàng ta lại làm quen và cưới thêm một người vợ thứ nữa. Người chị em này quá buồn cho tình cảnh bất trung gian trá. Bà đã tìm quên trong khói thuốc, men rượu, và những canh bạc thâu đêm... Nhưng sầu chưa khuây giải thì tai họa đã tới, con gái bà lại bỏ nhà ra đi. Bà ta không còn tìm đâu ra lẽ sống nên đã toan tính kết thúc cuộc đời. Đang dự một buổi thờ phượng, Bà được nghe tiếng Chúa: “Tuy ngươi đã quên ta nhưng Ta chẳng quên ngươi đâu!” Bà ta tỉnh ngộ, quyết tâm quay trở về nhà Cha. Bà tìm được niềm an ủi từ trên cao.
Dân chúng thành phố Xátlachi có thủ tục là bỏ rơi những đứa con gái đầu lòng ở vệ đường. Hội Nội Địa tại đây đã thành lập một cô nhi viện để chuyên đi nhặt những hài nhi này về nuôi dưỡng. Những cô gái này ở trong viện, lớn lên được học một nghề như may vá để nuôi thân. Rất tiếc những tín hữu Cơ đốc nơi này đã để đa số những cô gái ấy lập gia đình với những người chưa tin Chúa. Khi Đoàn Truyền Giáo Bêtên đến thăm, cô nhi viện còn lại khoảng vài chục cô, đa số chưa nếm được ân cứu rỗi của Chúa. Tín hữu toàn vùng đến dự thờ phượng có khoảng 5,6 trăm người. Tín hữu đa số có niềm tin vững vàng, và cũng có những cô bé cô nhi nhận được sự cứu rỗi. Nhưng họ vốn là những người đã quen sống trong sự cấp dưỡng của viện, quen ỷ lại, không có lòng tin và không hoàn toàn nương cậy vào Chúa.
Một hôm ba vị Kế, Tống và Lâm cỡi lạc đà đến viếng mộ những giáo sĩ ngoại quốc đã bị ngộ nạn vào năm Canh Tý. Đoàn Truyền Giáo đi ngang qua Bắc Kinh về đến thành phố Bảo Định, đúng vào dịp trại hè dưỡng linh lần thứ nhì. Mỗi ngày trại nhóm thờ phượng 4 xuất, thính giả rất đông xin được đặt tay cầu nguyện. Hai ông Mục sư Kế Chí Văn và Tống Thượng Tiết phải quy định giờ giấc để luân phiên chăm sóc. Cũng nhờ đó mà nhiều người được phục hưng và họ cũng đã mạnh dạn đứng lên làm chứng trước công chúng. Một vị nữ giáo sĩ Tây phương đã viết rằng: “Đây là một việc chưa bao giờ xảy ra tại Bảo Định, ai ai cũng mong mỏi được nghe những người trong Đoàn Truyền Giáo giảng. Lòng họ như luôn sẵn sàng được Đức Thánh Linh thăm viếng đốt cháy”.
Sau đó Đoàn đến Phủ Chương Đức lần thứ nhì. Lần trước chỉ có chừng 200 thính giả đến tham dự những buổi truyền giảng. Lần này con số lên 1.000 người. Tống Thượng Tiết thấy những người đến dự nghe đa số là phụ nữ và trẻ em nên đã đề nghị rút từ 4 xuất một ngày xuống còn 3, Tống Thượng Tiết giảng hai bài và Mục sư Kế Chí Văn giảng một bài. Thoạt đầu Mục sư Kế Chí Văn không đồng ý, nhưng sau thấy hợp lý. Quả nhiên, truyền giảng như vậy có kết quả hơn nhiều. Đúng như lời Tống Thượng Tiết tuyên bố: “Lời Chúa truyền ra không cốt ở nhiều hay ít, chỉ cần nhắm đúng mục tiêu để Chúa đi thẳng vào lòng người. Một lời đầy ơn cũng đủ làm cho lòng người được tỉnh thức. Vị Mục sư sở tại đã được phấn hưng ở kỳ Đại hội trước nay đã có một tiến bộ rất lớn. Ông đã phát huy khả năng và giúp cho công tác ngắn hạn này có một kết quả rất sâu đậm và bền lâu.