Tất cả những sự phục hưng đã được xảy ra trong Hội thánh của Đức Chúa Trời từ mấy thế kỷ qua là công việc của Đức Thánh Linh. Ngài làm việc qua những con người đầu phục hoàn toàn dưới bệ chân của Ngài. Sự đầu phục đó tức là dâng trọn cuộc đời cho Chúa xử dụng, không làm đầy tớ cho bất cứ quyền lực nào hết, tách rời những ham muốn của thế gian, có lòng khao khát để cứu vớt người chưa tin Chúa và cầu xin được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Đức Chúa Trời đã thực hiện kế hoạch cứu rỗi của Ngài và Ngài cũng đã dùng những đầy tớ đầu phục Ngài để tham dự vào chương trình cứu rỗi lớn lao nầy. Vì là đầy tớ, cho nên phải phục dưới sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh và dành tất cả sự vinh quang cho Đức Chúa Trời. Vì là làm công việc của Chúa, cho nên khi làm thì làm cho Chúa, khi giảng là giảng về Ngài và khi làm chứng thì cũng chỉ làm chứng về Ngài mà thôi.
D. L. Moody và Tống Thượng Tiết là những tấm gương sáng cho chúng ta noi theo trong công cuộc hầu việc Chúa. Sự đầu phục ý chỉ Chúa trọn vẹn qua đức tin sẽ mang lại kết quả lớn lao trong công việc nhà Ngài. Mặc dù bất cứ việc gì xảy ra, chúng phải đầu phục trước thánh ý của Chúa.
Tiểu Sử D. L. Moody
1. Thời thơ ấu
D. L. Moody, một tôi tớ trung thành đầy ơn, trải qua nhiều thử thách, đã gặp Chúa và kinh nghiệm được quyền năng của Ngài. Ông sinh năm 1837 và được sinh lại bằng Đức Thánh Linh vào năm 1856 vào lúc ông 19 tuổi. Ông được lớn lên trong một gia đình làm về nghề canh nông, và hầu hết những bạn bè của ông trong thời đó cũng làm về nghề nầy. Moody đã mất cha ông khi ông mới vừa bốn tuổi. Cha ông qua đời một cách đột nhiên và để lại cho mẹ ông những khó khăn trong gia đình, vì lúc đó cha ông đang trong tình trạng bị phá sản và mẹ ông thì cũng đang mang thai. Chủ nợ đã lấy đi tất cả và không để lại một món gì trong gia đình của Moody nửa. Mặc dù vậy, nhưng mẹ ông đã đặt hết lòng tin và Chúa và đã nuôi dưỡng gia đình và anh em ông nên người.
Cuộc sống trong thời thơ ấu của D. L. Moody không có gì khác hơn một đứa trẻ phá phách và nghịch ngợm, nhưng khi bắt đầu trưởng thành thì ông cảm thấy biên giới trong sự hiểu biết của ông quá giới hạn và ông chán nản cuội sống quê nhà. Ông bắt đầu bước vào thế giới thành phố để làm quen với những sự mua bán và kinh doanh.
Ông làm ăn và kinh nghiệm nhiều mặt khác nhau trong kinh doanh, vào năm 1856 thì ông tiếp nhận Chúa và bắt đầu cuộc hành trình với Ngài. Sau bốn năm, vào năm 1860 ông quyết định đóng cửa những công việc kinh doanh của ông và bước vào con đường hầu việc Chúa trọn thời gian.
2. Sự Kêu Gọi
Hầu việc Chúa và rao truyền danh Ngài đối với Moody là một ân huệ mà Ngài ban cho ông. Ông đi đâu thì cũng rao truyền danh Ngài, nhưng lúc còn trẻ ông đã từng bị nhiều người chê bai là ông không biết ăn nói ở giữa công chúng, văn phạm thì dùng sai, chữ nghĩa thì kém cỏi. Nhưng Chúa ban phước cho ông vô cùng. Moody không bao giờ có thể tưởng tượng ra được là Chúa dùng ông trong bất cứ công việc gì khác hơn là giảng dạy trong trường Chúa Nhật mỗi tuần. Nhưng ngày qua ngày Chúa đã dùng ông trong nhiều công việc khác nhau và Ngài đã dạy dỗ ông rất nhiều điều trong sự giảng dạy.
Vì khả năng học vấn của ông bị giới hạn vì không có nhiều cơ hội học hành, cho nên ông đã tìm đủ mọi cách để học và tìm hiểu thêm về lời Kinh thánh. Ông tự khám phá ra những phương pháp soạn bài giảng một cách hữu hiệu và đầy ơn, như là ông dùng những phong bì và biên bên ngoài những đề tài của bài giảng và khi ông đi tới đâu và tìm thấy những tin tức hay là những tài liệu có liên quan đến đề tài đó thì ông cắt ra và mang về bỏ vào phong bì, để rồi sau nầy khi ông cần soạn bài giảng thì ông sẽ dùng đến.
Khi nội chiến bùng nổ thì Chúa mở một môi trường mới cho D. L. Moody trong công cuộc truyền bá phúc âm. Ông vào quân đội là được cử làm tuyên uý. Sau đó thì ông được cử làm giám đốc cho Y. M. C. A.
Ông hầu việc Chúa rất được ơn và nhiều người muốn đặt tên cho một cơ sở Y. M. C. A. là D. L. Moody nhưng ông khiêm nhường và từ chối và đặt tên là “Farwell Hall” tức là tên của một người bạn cùng làm việc chung với ông. Khi làm công việc Chúa thì dàng sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời và những sự khích lệ cho đồng lao, phần của ông thì ông không muốn đề cập tới.
Một kinh nghiệm đã được Chúa đưa đến cho D. L. Moody như là một bước tiến thuộc linh cho cá nhân ông khi ông gặp được Harry Moorehouse và ông hiểu được rằng vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, Ngài đã đưa bao nhiêu tiên tri đến thế gian để cảnh tỉnh loài người nhưng loài người không nghe đến. Và sau cùng là Ngài phải hy sinh chính con của Ngài là Đức Chúa Giê-xu đến thế gian để chết thay và chuộc tội lỗi của loài người (Giăng 3:16).
“Moody và Sankey” được kể là hai người như một. Khi lịch sử ghi chép lại những sứ mạng mà Chúa giao cho Moody trong cuộc đời của ông thì không thể nào thiếu được Sankey. Moody thì giảng dạy còn Sankey thì tôn vinh Chúa bằng lời Thánh ca. Moody cho rằng sự thờ phượng không thể nào thiếu tôn vinh bằng hát xướng được, và hầu như Kinh thánh đề cặp đến tôn vinh Chúa bằng ngợi khen nhiều hơn là sự dạy đạo.
3. Đức Thánh Linh Thăm Viếng
Sau một thời gian hầu việc Chúa, Moody bắt đầu cảm thấy tâm linh khô héo. Nhưng ông được Chúa Thánh linh bổ sức lại cho ông khi ông quỳ gối xuống và cầu nguyện với ba người đàn bà đã từng cầu nguyện cho ông trong những buổi thờ phượng.
Trong cuộc sống hầu việc Chúa của Moody, ông đã từng nói “Nếu Chúa đóng cửa một nơi nào thì ông sẽ không mở, và chỉ có khi nào Chúa mở cửa một nơi nào cho ông hầu việc Chúa thì ông mới bước vào” (The D. L. Moody Collection, p.59). Với tinh thần đầu phục ý chỉ của Chúa, Ngài đã mở đường cho Moody để ông trở lại nước Anh Quốc vào năm 1873 vào đã hầu việc Chúa một cách kết quả hầu hết trong vùng Âu châu trong hai năm. Sứ điệp phục hưng của ông đã rao truyền đến những người đã tin Chúa nhưng chưa tìm thấy được sự thỏa mãn thật trong tâm linh.
Cũng trong năm nầy thì lịch sử đã ghi chép lại là ông Sanky là người bạn đồng hành và đồng lao với Moody biên soạn và phát hành một quyển Thánh ca. Lúc đó trong túi của ông Moody chỉ còn vào khoảng một trăm đồng mà thôi. Quyển Thánh ca đã được phát hành và Chúa ban phước đặt biệt, cho đến nổi không đủ số để phân phối. Một nhà xuất bản trong thời đó muốn hợp đồng với ông để in và phân phối số lượng và cũng trả tiền bản quyền cho ông nữa. Sau đó thì số tiền mà ông nhận được từ nơi nhà xuất bản không ít hơn ba mươi lăm ngàn đô la, số tiền nầy nếu tín vào thời nầy thì vào khoảng tám triệu rưởi dollar. Nhưng điều đáng kể ở đây là ông không bỏ một xu nào vào túi của ông hay là túi của Sanky. Ông muốn đưa hết tiền đó vào ủy ban phát triển Tin lành của Anh quốc nhưng họ không chịu nhận vì họ nghĩ là đây là kết quả cá nhân của ông, vì ông đã bỏ tiền riêng của ông ra để làm công việc nầy. Mặt dù con người thì nghĩ như vậy nhưng Moody thì nghĩ là đây là kết quả của Chúa ban cho chứ không phải ông và ông đã đưa số tiền nầy về cho Hoa kỳ để xây dựng lại Hội thánh ở Chicago đã bị đốt cháy và còn đang xây cất dở dang vì thiếu hụt.
L. Moody đã về với Chúa vào ngày 26 tây tháng 12 năm 1899.
D. L. Moody là một người đã dâng trọn cho Đức Chúa Trời, không chút giữ lại, ông là người cầu nguyện theo ý nghĩa sâu rộng nhất. Ông là một người khiêm nhường trước Mặt Chúa và loài người. Trong khi hầu việc Chúa thì ông đã được giải thoát trọn vẹn khỏi ách tham tiền, ông bị nung đốt bởi lửa sốt sắng vớt kẻ trầm luân và ông rõ ràng nhận lãnh quyền lực từ trên cao.
Trong thế gian nầy thì thật là nhiều người có tài và có đức nữa. Họ đã hy sinh rất nhiều cho công việc của Chúa và sự hy sinh cao quý đó đã được lịch sử đã ghi chép lại những gương để cho chúng ta noi theo. Nhưng Đức Chúa Trời chỉ đại dụng những ai dâng trọn cuộc đời cho Chúa không giữ lại chút nào hết. Moody không phải là người trọn vẹn trong cuộc sống, nhưng Ông được kể là người trọn vẹn khi dâng trọn cuội đời cho Chúa và gạt bỏ đi những ý riêng của ông.
4. Đầu Phục Chúa
Cuộc đời hầu việc Chúa của D. L. Moody cũng không khác chi với những tiên tri của Chúa trong lịch sử. Mặc dù làm bất cứ một công việc gì cho Chúa trong môi trường lãnh đạo thì cũng phải có những đặc điểm của Đức Thánh Linh hay là “Trái” của Thánh linh, tức là “lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ” (Galati 5:22). Người lãnh đạo phải biết nương cậy vào sức Chúa như có chép, “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi.” (Philíp 4:13). Khi bước đi trong sự kêu gọi thì người Lãnh đạo phải tránh những điều không đẹp lòng Chúa và tìm kiếm những điều công bình, tin kính, đức tin, yêu thương, nhịn nhục, mềm mại, như có chép….. “Nhưng, hỡi con, là người của Đức Chúa Trời, hãy tránh những sự đó đi, mà tìm điều công bình, tin kính, đức tin, yêu thương, nhịn nhục, mềm mại.” (I Timôthê 6:11).
Sự hạ mình là một cá tánh phải có trước Mặt Chúa và trước mặt đồng lao vì người lãnh đạo không thể để cho sự kêu ngạo in trong trí của mình, vì trong Kinh thánh hay ngoài xã hội sự kêu ngạo luôn luôn dẫn đến sự thất bại hoàn toàn trong cuộc sống của mình. Tác giả của quyển sách “a lion never roar,” Debra Benton cũng đã nói sự kêu ngạo của những nhân vật cao cấp là bước đầu của sự thất bại. Trong sách Châm ngôn, tác giả cũng đã viết “sự kêu ngạo đi trước sự bại hoại theo sau, và tánh tự cao đi trước sự sa ngã” (Châm ngôn 16:18). Theo lịch sử đã ghi chép lại về sự hạ mình của D. L. Moody thì cho thấy ông lúc nào cũng để những người đi sau ông ở trước. Trong thâm tâm của ông thì ông luôn nghĩ rằng “Chúa sẽ dùng những người đến sau ông trong công việc nhà Chúa còn hữu hiệu hơn ông nữa.” D. L. Moody lúc nào cũng đưa ông vào hàng phụ tá và đưa những người bên cạnh ông vào hàng thượng phẩm. Lịch sử ghi chép lại là mỗi khi đến hội đồng thì Moody đặt để những người đồng lao và phụ tá của ông vào những công việc giảng dạy. Giữa công chúng, thì ông lúc nào cũng tránh xuất hiện như một là lãnh tụ hàng đầu và tránh những trường hợp làm cho ông nổi bật. Theo nhật xét của riêng cá nhân tôi thì đây là những hành động của những người lãnh đạo bậc nhất mà Chúa đại dùng trong công việc nhà Ngài, như có chép “Vậy anh em là kẻ chọn lựa của Đức Chúa Trời, là người thánh và rất yêu dấu của Ngài, hãy có lòng thương xót. Hãy mặc lấy sự nhân từ, khiêm nhường, mềm mại, nhịn nhục.” (Cô-lô-se 3:12).
Tiền bạc có một sức thu hút mãnh liệt mà không một thời đại hay là đế quốc nào mà không đặt nền tảng trên nó. Sức mạnh có thể thay đổi qua nhiều thời đại từ quân đội, qua trí thức, đến nghệ thuật, bước qua kỹ thuật và đưa đến kinh tế, nhưng mãnh lực của tiền bạc vẫn mang một cái hình dạng không hề thay đổi, đó là công cụ mà con người dùng để trao đổi với tất cả những quyền lực và sự vui thú trong nhiều thời đại, nhưng sự thu hút đó đã ngừng lại trước cửa lòng của D. L. Moody. Ông có cơ hội để nhận lãnh những số tiền hơn hàng triệu đô la vào thời bấy giờ qua số tiền thu vào của quyển Thánh ca ông đã xuất bản, nhưng ông không nhận và dùng tiền đó để xây dựng nhà của Chúa. Ông chọn làm một đầy tớ của Chúa và chỉ một mình Ngài mà thôi. Kinh thánh chép “Chẳng ai được làm tôi hai chủ, vì sẽ ghét người nầy mà yêu người kia. Các ngươi không thể làm tôi Đức Chúa Trời lại làm tôi Ma-môn mữa.” (Ma-thi-ơ 6:24). Trong khoảng cuối cuộc đời của ông, thì ông thường được mời đi nhiều Hội thánh khắp nơi để chia xẽ Lời của Chúa. Có Hội thánh đã đưa tin là ông không nhận thù lao khi giảng dạy và lợi dụng những lời nầy để bỏ mặc sự sinh tồn của ông, mặc dù trong thời điểm đó là thời điểm ông sống nhờ vào những tiền dâng hiến nhỏ từ những nơi Hội thánh mà ông đến viếng thăm. Mặc dù hoàn cảnh như thế nào ông cũng vẫn lặng lẽ ra đi và không nói tiếng nào.
D. L. Moody có một lòng thương xót cho những kẻ chưa được sự cứu rỗi của Chúa Giê-xu. Ông đã từng hứa với chính mình ông là ông không thể nào để hai mươi bốn tiếng đồng hồ trôi qua mà không làm chứng cho một người biết về Chúa. Ông đã từng bước ra giữa mưa gió trong đêm để làm chứng về Chúa. Ông lôi kéo những người chạy trốn ông đến với Chúa và cả gia đình của họ nửa. Có nhiều lúc vì ra truyền danh Chúa mà ông bị người khác phê bình và dọa nạt, nhưng ông không hổ thẹn về Tin lành của Ngài. Như lời Chúa có chép qua Phao-lô “Thật vậy, tôi không hổ-thẹn về Tin-lành đâu, vì là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin, trước là người Giu-đa, sau là người Gờ-réc.” (Rô-ma 1:16). Lòng thương xót đến những tội nhân chưa biết đến sự cứu rỗi của Chúa Giê-xu là sự trọng tâm của người hầu việc Chúa vì đại mạng lệnh của Ngài là “…hãy đi khắp thế gian, giảng Tin lành cho mọi người” (Mác 16:15). Đối với mỗi người hầu việc Chúa thì môi trường đi khắp thế gian lại khác nhau. Có người thì phương tiện đi khắp thế gian là trong một cái vùng có diện tích khoảng mười dặm vuông, và người khác thì có thể chỉ là một khu xóm nhỏ mà thôi. Mặc dù phương tiện di chuyển như thế nào đi chăng nữa thì trách nhiệm của người hầu việc Chúa vẫn không thay đổi và không thể đánh mất đi được lòng khao khác làm chứng về Tin lành của Chúa cho những người chưa biết về Ngài, Kinh thánh có chép “Hãy giảng đạo, cố khuyên bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi.” (II Ti-mô-thê 4:2).
5. Công Việc Đức Thánh Linh
Nhận lãnh báp tem bằng Đức Thánh Linh là nhận lãnh quyền phép của Ngài để làm những công việc quá sức loài người của chúng ta. Kinh thánh có chép “Khi nào Đấng Yên-ủi sẽ đến, là Đấng ta sẽ bởi Cha sai xuống, tức là Thần lẽ thật ra từ Cha, ấy chính Ngài sẽ làm chứng về ta.” (Giăng 15:26). Có nghĩa là khi người hầu việc Chúa rao truyền Tin lành và danh của Chúa Giê-xu, và những lời đó đụng đến tâm hồn của những người nghe, thì đó là công việc của Đức Thánh Linh. Đức Thánh Linh làm chứng về Chúa Giê-xu qua môi miệng của chúng ta, vì khi người truyền đạo làm chứng về Chúa Giê-xu qua môi miệng của chính cá nhân mình mà thôi, thì tấm lòng của người nghe không được mở ra, nhưng nếu Chúa Thánh Linh làm chứng về Chúa Giê-xu qua lời chứng của người truyền đạo thì lòng của người nghe được mở ra. Trong Hội thánh đầu tiên, Phi-e-rơ đã được đầy dẫy Đức Thánh Linh và bài giảng đầu tiên của ông đã được khoảng ba ngàn người thêm vào Hội thánh. Đây là một công việc lớn nhất của Đức Thánh Linh đã được chép lại trong Thánh kinh.
Chúa Giê-xu đã làm những phép lạ về sự chữa lành, kêu người chết sống lại và những dấu lạ khác, nhưng Ngài đã nói “Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, kẻ nào tin ta, cũng sẽ làm việc ta làm; lại cũng làm việc lớn hơn nữa, vì ta đi về cùng Cha.” (Giăng 14:12). Tôi tự đặt câu hỏi là không biết con người hữu hạn nầy có thể làm điều gì trong công việc Chúa mà còn lớn hơn công việc của Ngài nữa? Chúa tiếp theo “Ta lại sẽ nài xin Cha, Ngài sẽ ban cho các ngươi một Đấng Yên-ủi khác, để ở với các ngươi đời đời, tức là Thần lẽ thật, mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài; nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi và sẽ ở trong các ngươi.” (Giăng 14:16-17). Chỉ có Đức Thánh Linh ở trong người hầu việc Chúa thì công việc cứu linh hồn người hư mất mới được thể hiện.
Ngày nay sự giảng dạy và làm chứng về Chúa Giê-xu đã được thay thế bằng nhiều ngôn từ hiện đại, phức tạp, lẫn lộn với nhiều triết lý bên ngoài. Sự giáng sinh, chết và sống lại của Chúa không được trình bày bằng những ngôn từ bình dân dễ hiểu, nhưng ngược lại, thì bị pha trộn với những màu xắc khác nhau vì chúng ta thích trình bày sự cứu rỗi của Chúa Giê-xu như là một huyền bí mà nước thiên đàng chỉ dành cho những ai có khả năng hiểu được mà thôi. Trong một bài giảng của D. L. Moody, ông đã có nói như thế nầy “thế giới nầy có thể tiếp tục sinh hoạt nếu không có tôi và quý vị, nhưng thế giới nầy không thể nào tiếp tục sinh hoạt nếu không có Chúa Giê-xu.” (The Moody Collection, p 231). Làm chứng về Chúa Giê-xu là trình bày Chúa Giê-xu, chứ không phải trình bày ý kiến của chúng ta về Ngài, và giảng dạy lẽ thật của Chúa, chứ không phải là giảng dạy triết lý đời nầy. Chúa Giê-xu phán “lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật…” (Giăng 16:13a), thì thế cho nên là người truyền đạo thì phải giảng về Chúa, làm chứng về Chúa, tôn cao danh Chúa và nương cậy nơi Đức Thánh Linh để Ngài đưa chúng ta vào lẽ thật, tức là ra khỏi bóng tối trần gian và ở trong ánh sáng lẽ thật của Ngài.
Cầu xin Chúa cho chúng ta được đầy dẫy Đức Thánh Linh, vì chỉ có đầy dẫy Đức Thánh Linh thì chúng ta mới chắc chắn là đang sống trong ánh sáng và không đi trong sự tối tăm. Tôi có một người bạn sinh viên học chung với tôi. Người bạn nầy thì khi nào mà nghe đến những đề tài dùng rượu, tiền bạc, sinh lý giữa vợ chồng thì bạn nầy chống đối giữ lắm. Người bạn nầy của tôi cũng đã có những cuộc đàm thoại với tôi khá lâu về những vấn đề nầy. Khi nói đến những điều nầy thì người bạn nầy nói rằng, người đi hầu việc Chúa thì phải không nên nghĩ đến những việc nầy và nếu ích đụng chạm đến nhiều thì tốt, có nghĩa là không không nên uống rượu, đừng đụng đến tiền bạc nhiều quá và trong cuộc sống sinh lý thì cũng đừng qua lại nhiều quá, hãy dành nhiều thì giờ nghiên cứu Kinh thánh. Thật ra đây là những lời khuyên rất tốt. Nhưng thành thật mà nói thì mặc dù một người không uống rượu, không đụng đến tiền, không đụng đến sinh lý cũng không có nghĩa là được đầy dẫy Đức Thánh Linh. Chỉ có cầu xin Chúa cho được đầy dẫy Đức Thánh Linh, thì con người của chúng ta mới không bao giờ dùng rượu một cách bừa bãi, không lạm dụng tiền bạc của Chúa ban cho và không dùng sinh lý giữa vợ chồng như là một sự thỏa mãn xác thịt mà thôi.
6. Đầy dẫy Đức Thánh Linh
Nếu nói đến D. L. Moody thì cũng có thể nói đến những người ra truyền danh Chúa được ơn trước Mặt Ngài. Ông Moody là một người truyền bá danh Chúa trong cộng đồng tây phương và những vị tiền bối đã truyền bá phúc âm của Chúa trong cộng đồng đông phương thì cũng có Phao-lô và Phi-e-rơ đã được Thánh kinh ghi chép lại. Nếu tôi nhìn vào thế kỷ 19 thì Chúa đã đại dùng D. L. Moody để làm công việc của Ngài, nhưng nếu tôi nhìn gần hơn với thế hệ nầy của tôi, thì tôi thấy thế kỷ 20 nầy thì có Mục sư Billy Graham, Mục sư Tom Stebbins, Mục sư Tống Thượng Tiết, Mục sư Phạm Văn Năm, Mục sư Đoàn Văn Miêng, Mục sư Nguyễn Anh Tài, Mục sư Nguyễn Bá Quang cũng là những đầy tớ được Chúa dùng trong những công việc lớn của Ngài. Có thể là lịch sử không ghi chép lại nhiều về những người nầy như D. L. Moody, nhưng đây là những người mà tôi không đọc lại lịch sử của họ, nhưng tôi chứng kiến, nghe và thấy công việc Chúa đã được thể hiện qua họ qua những chứng nhân còn đang sống với tôi hiện nay. Có thể những vị nầy không có được những từng trải của Moody trong khía cạnh khước từ hàng triệu đô la như D. L. Moody, nhưng tôi biết chắc rằng đây cũng là những người đã được đầy dẫy Đức Thánh Linh như D. L. Moody. Họ cũng phải từ bỏ tất cả những phương tiện làm giàu cho cá nhân của họ và chỉ tìm kiếm những phương tiện làm giàu cho vương quốc của Đức Chúa Trời mà thôi. Chúa đã dùng Moody để thay đổi nhiều cuộc sống vào thế kỷ 19, nhưng đối với tôi thì Chúa đã dùng những vị thầy của tôi để thay đổi con người tôi trong thế kỷ 21 nầy.
Nếu trong thế kỷ 19, Chúa đã đại dụng D. L. Moody như thế nào, thì Ngài cũng sẽ ban đặc ân và đại dụng những đầy tớ hầu việc Chúa của thế kỷ ngày nay trong những môi trường hầu việc Chúa khác nhau nếu những đầy tớ đó dâng trọn đời sống cho Đức Chúa Trời, không chút giữ lại, cầu nguyện theo ý nghĩa sâu rộng nhất, là một người khiêm nhường trước Mặt Chúa và loài người, được giải thoát trọn vẹn khỏi ách tham tiền, bị nung đốt bởi lửa sốt sắng vớt kẻ trầm luân và nhận lãnh quyền lực từ trên cao. Đức Thánh Linh cũng đã viếng thăm Mục sư Tống Thượng Tiết như Ngài đã viếng thăm D. L. Moody.
“Đêm 30 Tết âm lịch năm 1926, khi đang quỳ gối cầu nguyện, Tống Thượng Tiết nghe Đức Chúa Trời nói với tâm linh ông: “Ta sẽ hủy phá sự khôn ngoan của người khôn ngoan, tiêu trừ sự thông biết của người thông biết”. Tiếng nói thật êm dịu, ôn tồn, nhưng với ông, sao nghe như một tiếng sét bên tai. Toàn thân ông run rẩy, và gợi lên mộ niềm hãi sợ lạnh băng. Trong nơi sâu thẳm của suy tưởng, ông nhận biết câu nói này quả là chân lý. Trí thức, tài năng, tất cả những gì của con người chỉ là hư ảo và vô nghĩa. Đời người như quả bong bóng nước trong mưa, bọt bèo trôi giạt trên sông. Sống là chất chồng khổ đau, bi đát; chết là vào cõi hư vô lững lờ…. Tinh thần bất an, tâm tư hốt hoảng, những canh của đêm trôi qua không sao chợp mắt được…..Cuộc tranh chiến của Sa-tan và Đức Thánh Linh cũng đã đến cao điểm ác liệt, đây là giây phút phân thắng bại giữa tội ác và lẽ phải. Thời điểm mà Tống Thượng Tiết sống với nội tâm đau thương ấy là ngày 10 tháng 2 năm 1927. Cuộc ác chiến đó được mô tả qua lời cầu nguyện của ông: “Tối hôm đó tôi cầu nguyện, không những cầu nguyện với tất cả lòng thành khẩn, hối hả mà cầu nguyện với cả tấm lòng ăn năn xin Chúa giết chết bản ngã nhơ nhớp. Với nước mắt sám hối, tôi kêu than với Chúa xin huyết Ngài đến phủ che tôi, khiến tôi không còn sống cho con người tôi nữa, không còn mơ ước những xa hoa phù phiếm của cuộc đời hư vinh, xin triệt hạ khỏi con những mưu kế, hoạch định xây dựng lâu đài trần gian….vào nửa đêm, thì ông cất tiếng hát ca vang Ha-lê-lu-gia, ông thấy mình nhẹ nhõm… Bỗng chốc, cuộc diện xoay chiều, lại một tiếng nói êm dịu, nhỏ nhẹ bên tai: “Con bé mọn yêu dấu, tội con đã được tha”… Ông thấy được tận mắt mình, chính Con Người đứng trước mắt ông, mặt Ngài tỏa hào quang sáng ngời, đầu Ngài đội vương miện, trên đôi tay Ngài còn dấu đinh xuyên qua”… Lòng ông trở nên trống không, thanh sạch như một căn phòng tao nhã, yên tịnh, cửa phòng rộng mở và Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Linh cùng bước vào lòng ông.” (trích trong quyển cuộc đời Tống Thượng Tiết, chương 60).
Sau khi được đầy dẫy Đức Thánh Linh, Mục sư Tống Thượng Tiết đã được Đức Chúa Trời đại dụng. Ông đã làm chấn động cả nước Trung Hoa, chấn động giáo hội ở miền Trung và khắp miền Đông Nam Châu Á và cả thế giới nơi nào có có người Trung Hoa.
Lịch sử đã cho thấy sự đầy dẫy Đức Thánh Linh là bước đầu để Chúa đại dụng đầy tớ của Ngài. Kinh thánh chép “Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất.” (Công-vụ 1:8). Như vậy sự đầy dẫy Đức Thánh Linh là bước đầu tiên để bước vào công việc truyền bá danh Ngài vì những gì chúng ta nói về Chúa Giê-xu là từ Đức Thánh Linh khởi động. Đó cũng là sự thúc đẩy mãnh liệt của Đức Thánh Linh cho cố Mục sư Phạm Văn Năm khi ông còn trong thời thơ ấu.
Trong quyển Dâng Trọn Cuộc Đời của Bà Mục sư Phạm Văn Năm ghi chép lại có viết một đoạn ngắn như sau: “Khi tôi tuyên xưng đức tin cách công khai giữa Hội thánh cũng là lúc tôi được sự thúc giục bởi Đức Thánh Linh bắt đầu làm chứng đạo cho những người cùng lứa tuổi, đôi khi cũng nói cho người lớn nữa…” (Trích trong quyển Hồi Ký 55 Năm Phục Vụ Chúa, chương 20). Từ sự đầy dẫy Đức Thánh Linh đó đã mang đến sự đam mê cho công cuộc truyền giáo, và cố Mục sư Phạm Văn Năm đã được Chúa đại dụng trong công cuộc truyền bá danh Ngài đến những vùng Cao nguyên, biết bao nhiêu phép lạ đã được xảy ra, hàng ngàn người được cứu và cũng đã mang lại sự phục hưng nhiều Hội thánh trên vùng đó.
Ngày nay thì Đức Thánh Linh còn làm việc nữa hay không? Tại sao trong vòng mười năm nay không có những cuộc phục hưng nào được gọi là đáng kể? Không lẽ Ngài không còn nhìn đến Hội thánh của Ngài hiện tại hay sao? Tôi chỉ biết cầu xin Chúa cho sự phục hưng của Ngài đến với Hội thánh Việt nam của chúng ta mà thôi. Tôi cầu xin Chúa một ngày nào dấy lên những D. L. Moody và Tống Thượng Tiết của ngày nay để Chúa dùng như là công cụ phục hưng Hội thánh Việt nam của Chúa tại Hoa kỳ và ở tại Việt nam.
Nguyễn Thanh Vũ