Gia Dinh Gieo Giong

Lịch Sử Cơ Đốc Giáo Tại Việt Nam Chương I



LỜI  G I Ớ I   T H I Ệ U
Quyển  sách  41  NĂM   HAU  v i ệ c   c h ú a   v ớ i   h ộ i
T H Á N H  TIN LÀNH VIỆT NAM của Giáo sĩ I. R. Stebbins là
tư liệu lịch sử quan trọng, đây là  hồi ký của một trong những vị giáo sĩ tiên phong đã đem Tin Lành cứu rỗi  của Cứu chúa Jêsus Christ đến với dân tộc Việt nam.
Quyển Hồi  ký  nầy chưa từng  được  xuất  bản bằng tiếng Anh hay tiếng Việt. Đối với tôi, những tư Liệu ghi chép trong đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì do chính gia đình của tác giả trân trọng giữ gìn và riêng tặng cho tôi.
cầm quyển  hồi ký  cũ kỹ  với  những  trang đánh  máy  và những dòng chữ viết tay đã  ố vàng của tác giả,  lòng tôi tràn ngập niềm vui và cảm động. Đây là lời làm chứng chân thành của một vị  giáo sĩ tiên phong,  người đã  hiến dâng trọn cuộc đời  mình, chấp nhận mọi  gian nguy  thử thách,  quyết tâm đi đến những “M iền Xa xôi Hẻo Lánh" để rao truyền Tin Lành Cứu rỗi. Vì thế, qua những trang hồi ký ngắn ngủi đầy âp tình yêu  thương, tràn ngập những nụ  cười  rạng rõ' và  cũng không thiếu những giọt nước mắi đắng cay chua xót, chúng ta cảm nhận được bước đường vô cùng gian nan của các giáo sĩ đầu tiên, cũng như ơn phưc và những điều kỳ diệu mà Đức Chúa Trời đã ban cho Hội thánh của Ngài tại Việt nam.
Giáo  sĩ  I.  R.  Stebbins  đã trân  trọng  ghi  lại  những  năm tháng đầu tiên gây dựng Hội Thánh Tin Lành Việt nam, những khó  khăn,  thách  thức  Hội  thánh  đa  trải  qua  trong  thời  gian gần nửa thế kỷ thi hành chức vụ giữa một dân tộc mà ông rất thông cảm và hết lòng yêu thương.  Bởi quyển năng của Chúa,
từ những bước đi đầu tlên đó, hôm nay chúng ta có được một cộng đồng Cớ-đốc nhân  Việt  Nam luôn có đức tin mạnh mẽ, vì biết rằng cánh cửa địa  ngục sẽ không thắng được Hội Thánh của Đức Chúa Jésus Christ
Nhận thức được giá  tri  của tập hồi ký, cũng như tin rằng gia đình giáo si cũng  sẵn  sàng chia  sẻ những tư liệu quí báu nầy với con dân Chúa người Việt nam ở khắp nơi, nên tôi đã chuyển tập hòi ký này  cho Tòa soạn Báo Đèn Linh, một tập san  của  Hội thánh  Tin  lành  Việt  nam  tại  Akron,  Ohio,  do Mục  sư Đặng  Ngọc Cang  lam  quản nhiệm.
Một  số chương  trong  tâp  Hồi  ký  nầy  đã  được  dịch  ra Tiếng  Việt  và  đang  trên  báo  Đèn  Linh.  Độc  giả  khắp  nơi trên thế giới  đọc các  bài  trích đăng trên báo đã  viết thư,  gọi điện  thoại  yêu  câu  tòa  soạn  Báo Đèn Linh xuất  bản  thành sách.
Hôm nay tôi xin hân hạnh giới thiệu quyển sách 41  NĂM HẦU  VIỆC  CHÚA  VỚI  HỘI  THÁNH  TIN LÀNH  VIỆT NAM của Mục sư  Giáo sĩ I  R  Stebbins đến với quí độc giả.
Mong rằng cuốn Hồi  ký  nầy  sẽ  giúp độc giả  hiểu được một phần  nào lịch  sử hình  thành  Hội  thánh  Tin  lành  Việt  nam, để  mỗi  người  chúng  ta  thêm  lòng  biết  ơn  các  giáo  sĩ  tiên phong, nhữns người gieo hạt giông Tin lành, và dâng lời tôn vinh  chúc  tụng  Ba  ngôi  Đức  Chúa  Trời,  Đấng  đã  làm  cho Hội  thánh  tăng  trưởng.
Akron,  Oh' 0
Mùa Đông 2004
Mục sư Đặng Ngọc Minh
VỚI HỘI T hánh T in Lành V iệt N am
Chương Một
“Không có khải tượng, dân chúng phóng túng”
Lịch sử hình thành Hội thánh Tin lành Việt nam là  công việc phi thường của Đức Chúa  Trời, nhưng những ai  đã  từng đóng góp nhiều tiền của, thời gian và sự cầu nguyện nhằm tạo nên sức mạnh lớn lao đó vẫn còn biết rất ít về câu chuyện nầy.
NgỢi khen Chúa vì khải tượng mà Đức Chúa Trời đã ban cho Tiến sĩ A.B. Simpson, nhà sáng lập Hội Truyền giáo của chúng tôi. Tại một trong những Hội nghị Truyền giáo vĩ đại ông nói:  “Chúa phán cùng chúng ta một cách chính xác khi nào  Ngài  sẽ  trở  lại,  ông  trích  dẫn  lời  của  Đức  Chúa  Trời: “ Tin lành nầy vê nước Đức Chúa Trời sẽ được giảng ra khắp đất,  đ ể  làm  chứng  cho  muôn  dân.  Bấy  giờ sự cuối  cùng  sẽ đến”. Một ký giả có mặt trong buổi lễ và khi b ế mạc đã hỏi Tiến sĩ Simpson rằng ông có thật sự biết khi nào Chúa sẽ trở lại không. Tiến sĩ Simpson đáp rằng ông biết và lập lại câu Kinh thánh trong sách Ma-thi-ơ 24:14. Người ký giả lại hỏi:
“Chỉ có thế thôi sao?” Tiến sĩ Simpson đáp: “Vâng, chỉ có thế thôi  Trong Hội nghị của Tiến sĩ Simpson, ông thường dùng sứ điệp tiên tri để hỗ trợ cho những lời kêu gọi và thông tin do các giáo sĩ mang về. Lắng nghe lời kêu gọi người tình nguyện đầy lòng trắc ẩn của Tiến  sĩ Simpson,  một nhóm các giáo  sĩ trẻ  tuổi đã  tiếp 41  NA M HẦU Việc  Chúa nhận khải  tượng của  ông làm khải  tượng của mình, rồi  tình nguyện đi Congo, Việt nam, và các khu vực khác nữa.
Tiến sĩ R.A. Jaffray là một trong số những người đã nghe lời  kêu  gọi  đến  Trung  hoa  và  sau  nầy  chính  ông  là  người hướng dẫn một nhóm thanh niên nam nữ mạnh mẽ đi về phía nam đến một vùng đất bao la, đó là Đông dương thuộc Pháp.
Vài  năm  sau,  nơi  đây  đã  có  sáu  Địa  hạt Truyền  giáo  trong một xứ, Địa hạt Bắc kỳ, An nam, Nam kỳ, Cao miên, Lào và Thượng đu. Trong những năm sau, Tiến sĩ Jaffray có một giấc mơ  khủng  khiếp,  ông  thấy  vô  số người  In-đô-nê-si-a  bị  hư mất  và  tuyệt vọng.  Ông  thấy  bàn  tay  mình  vấy  máu  và  sự kinh  hãi  khiến ông tỉnh giấc.  Khải  tượng nầy thôi  thúc ông phải làm một điều gì đó, và  hành động đã  đưa ông vượt qua ngoài biến giới của những nỗ  lực truyền giáo ban đầu. Khải tượnng nầy rất quí báu và cuối cùng ông đã chết nhưmột người tuận đạo,  nhưng ngày  nay có  hàng ngàn linh hồn nhận biết Đức  Chúa  Jêsus  Christ bởi  vì Tiến  sĩ Jaffray  đã  vâng  theo Khải tượng Thiên thượng.

Lịch sử hình thành Hội thánh Tin lành Việt nam là  một câu chuyện đầy dẫy sự gian khổ, ngược đãi, đau đớn, chiến tranh,  tù  tội  và  chết chóc.  Có  thể  nói  một  cách chắc chắn rằng  hơn  một  trăm  ngàn  người Việt  nam  quí  báu  đã  đựỢc cứu, chịu phép Báp-têm  và  trở  thành tín đồ  của Hội thánh.
Số tín đổ  hiện nay vào khoảng 43.000, đương nhiên con số nầỵ không chính xác bởi vì đất nước bị chia cắt thành Miền Nam việt nam Tự do  và  Miền  Bắc Việt  nam  Xã-hội  Chủ nghĩa: Lễ  Kỷ  niệm  Năm Mươi Năm Tin lành đến Việt nam được tổ chức tại Sài gòn năm  1961.  Mục sư Lưu và Mục sư
Âp  cùng  với  tám  Truyền  đạo  khác  cô'  gắng  giúp  đỡ  Hội thánh rộng lớn ở Bắc kỳ  trong khi họ ở lại bên kia vĩ tuyến mười bảy. điều  nầy thúc giục chúng tôi cầu nguyện cho họ VỚI H ội Thánh Tin Lành V iệt N am nhiều  hơn.  Cánh  cửa  Địa  ngục  sẽ  không  thắng  được  Hội thánh của Đức Chúa Jêsus Christ.
Và o ngày  Đình chiến kết thúc Thế chiến Thứ nhâ't, ngày nhóm giáo sĩ đầu tiên đến Việt nam, chỉ có bốn người còn ở lại Địa hạt Truyền giáo. Trong thời gian chiến tranh, chỉ có một nữ giáo sĩ trẻ tuổi được phái đến tăng cường cho Địa hạt Truyền giáo. Mục sư & bà w. c. Cadman, Mục sư & bà E. F. Irwin, những tôi tớ trung tín của Chúa đã không chịu nhượng bộ và về nhà. Những ngựời khác buộc phải ra đi vì có họ tên mang gốc Đức khiến người Pháp nghi ngờ họ làm gián điệp. Công việc bị đình trệ, không được phép giảng dạy nơi công cộng, nhưng họ vẫn vững vàng tiến hành  mục  đích  của  mình  là  đem  sứ  điệp  sự  sống  đến  cho những người Việt nam mà họ đã biết rõ và hết lòng yêu thương.
Những người hỏi đạo đến với họ qua cửa sau và cộng tác Làm chứng tiếp tục. Chính quyền Pháp cho phép tiến hành công tác truyền giáo trong phạm vi Nhượng địa nhỏ bé ở Đà nẵng, nhưng không được vượt ra ngoài ranh giới. Sau bảy năm đầu tiên tập trung gieo trồng, họ đã gặt hái được một số thành quả và các giáo sĩ đã  vươn ra đến tận Hội an cách đó  20 dặm (1 dặm= 1.609 Km). Trước năm 1918chỉ có khoảng ba mươi hay bốn mươi người được cứu.
Nước Pháp rất cảm kích sự trợ giúp củá Hợp chủng quốc Hoa kỳ  trong  thế chiến,  và  điều đỏ  ảnh  hưởng  đến  thái  độ của họ với các giáo sĩ lúc Đình chỉến.  Mục sư & bà Cadman được phép cư ngụ  ở thành phố Hà  nội,  thủ  đô  chính trị  của nước Việt nam thời Pháp thuộc, ở Bắc kỳ.
hôm trước ngày Đình chiến, Tiến sĩ Jaffray cùng với bốn giáo sĩ đến Bắc kỳ, Việt nam. Đó là cô Mary Hartman, các ông Olsen, Jackson, và  Stebbins. Tiến sĩ Jaffray đã thấy trước sự cần thiết phải chuẩn bị cho các giáoSĨ mới nầy một sự khởi  đầu tốt đẹp. Khi ông biết Jackson và Stebbins  chưa  được  phong chức,  ông  nói  với  họ:  “Các  ông sắp đến một xứ do  người  Pháp cai  trị, cho nên các ông cần phải đến đó với tư cách là  nttững người đã được phong chức mục sư,  được trang bị  đầy đủ  và  sẵn sàng công tác. Hai ông có  bằng lòng không?” ông hỏi.  Đương nhiên họ hết sức vui lòng. Vì họ hãy còn ở Long châu (Wuchow), miền Hoa Nam, nên có mặt đủ các giáo sĩ đã được phong chức để biệt riêng hai thanh niên nầy làm Mục sư  Tin lành. Đó là cách làm việc của Tiến sĩ Jaffray khi cần đáp ứng nhu cầu, đồng thời, ông tỏ lòng tin tưởng Ban Hải ngoại  và Ban Giám đốc sẽ chọn những thanh niên nầy. Trong thời đại nền  giáo dục  tiến  bộ  rất nhiều,  phần lớn dân bản xứ ở các Địa hạt Truyền giáo trên thê giới không còn mù chữ nữa, nên điều có lợi cho tất cả các giáo sĩ, đương nhiên là nam giới,  có thể được phong chức trước khi ra đi. Đây không phải là trường
hợp gây  uy  tín cho các  giáo  sĩ của chúng ta,  nhưng là  lòng mong muốn, khi  đến nơi  họ sẵn sàng cử hành mọi giáo nghi khi được yêu cầu. Sau chuyến viếng thăm ngắn ngủi Ông bà Cadman ở Hà nội, Tiến sĩ JafTray cùng với bốn giáo sĩ mới đi tàu thủy hướng về phía nam, đến Đà nẵng. Tiến sĩ Jaffray thường bị đau nặng khi đi tàu biển, đặc biệt khi có bão lớn. Đó là  một chiếc tàu rất nhỏ, nên Tiến sĩ Jaffray bị say sóng dữ dội, nôn mửa liên tục, cùng với bệnh yếu tim, đó là một cái giá về thể chất mà
Tiến sĩ Jafĩray phải trả, nhưng ông không bao giờ chịu thua. Lúc đó Tiến sĩ Jaffray triệu tập Hội đồng Địa hạt Truyền giáo  thường  lệ.  Các  giáo  sĩ lớn tuổi không giấu được niềm vui khi thấy số giáo sĩ trong địa hạt tăng lên gấp đôi. Không bao lâu, giáo sĩ D. I. Jeffrey đến, số giáo sĩ trong Địa hạt lúc đó  được  mười  người.  Các giáo sĩ mới  thích thú tiếp xúc  lần đầu  tiên  với  người Việt  nam.  Họ  bối  rối  khi  được  biết  cần phải học nói tiếng Việt và cả tiếng Pháp nữa. Các giáo sĩ nầy hết lòng tin cậy nơi Tiến sĩ Jafĩray, nhưng họ chưa hiểu hết về những điều  trĩu  nặng  trong  lòng ông.  Ngay  trong  Hội  đồng Địa hạt Truyền giáo, họ bị thử thách một lần nữa khi ông treo kín trên tường những tâm bản đồ xứ Đông dương thuộc Pháp.
Chưa có một giáo sĩ nào ở Việt nam được về phép để kể cho những người thân trong gia đình biết về Địa hạt Truyền giáo rộng lớn  tại  Việt nam,  vì  vậy, ngay cả  các -giáo  sĩ mới  nầy cũng chỉ biết hay hiểu rất ít. Trước hết, Tiến sĩ Jaffray cảm tạ  ơn Chúa vì giáo sĩ đã vào được thành phô Hà nội, Bắc kỳ. Kế, đến, ông khen ngợi Mục sư và bà Cadman đã hết sức cố gắng dịch các sách Tin lành Ma-thi-ơ và Mác ra tiếng Việt.
Hiển nhiên là Tiến sĩ Jaffray hiểu rõ  những tăm bản đồ mà ông đang giải 'thích cặn kẽ cho chín giáo sĩ ngồi trước mặt ông. Ông nói: “Cảm tạ ơn Chúa về những gì Chúa đã cho làm được, và hiện nay chúng ta đã có thêm bôn người, chẳng bao lâu sẽ có thêm một giáo sĩ nữa, các ông thử nghĩ xem, chúng ta phải có k ế hoạch gì cho năm tới?” Olsen và Stebbins chăm chú và náo nức, tự hỏi họ có thể được gởi đến nơi nào để bắt đầu chức vụ truyền giáo.
Dường như mọi người đều thấy rõ rằng lúc đó không thể xét đến  việc  tiến  thêm  nữa  vào  vùng  đất  mới.  Trong  cuộc thảo luận, hai cặp vợ chồng giáo sĩ lớn tuổi khẳng định rằng các giáo sĩ mới phải được bố trí ở những nơi đã có các giáo sĩ  lớn tuổi. Họ nhận thấy các giáo sĩ mới cần được giúp đỡ trong việc học ngôn ngữ và chẳng bao lâu có thể hỗ trợ cho hai địa điểm  truyền  giáo chính.  Đương  nhiên,  các  giáo  sĩ mới  cần phải được huấn luyện, và họ cũng chẳng nghĩ gì đến việc sẽ đi  đến một vùng đất mới,  tách  rời  sự trỢ  giúp cần  thiết của các giáo sĩ lớn tuổi hơn.
Tiến sĩ Jaff'ray  lắng nghe mọi  ý  kiến  thảo  luận với  tinh thần cảm thông, rồi đứng lên, bắt đầu phác họa chương trình mà ông nghĩ cần phải thực hiện. Ông nhân mạnh: “Chúng ta phải tiến tới, phải chiếm giữ hai địa điểm  mới, một ở thành phố Hải phòng, Bắc kỳ, và một ở Sài gòn, Nam kỳ. Như vậy số địa  điểm  chiến  lược  được  chiếm  giữ  tăng  lên  gấp  đôi”.
Ban đầu có sự phản đối mạnh m ẽ, nhưng chẳng bao lâu mọi người bị thuyết phục rằng không được để mất thời gian, rằng phải tiến lên ngay tức khắc. Thật vậy, đây là giờ phút trọng đại đối với R. M  Jackson vì ông sẽ đi Hải phòng, Bắc kỳ và chẳng bao lâu ông Jeffreỹ  sẽ đến cộng tác. Olsen và Stẹbbins xúc động dữ dội bởi quyết định lớn lao và quan trọng nầy. Cô Hartman tiếp tục ở lại Đà nẵng cùng với cô Marion Foster vẫn còn đang học tiếng.
Các  giáo sĩ mới nhận thức được tay của Đức Chúa Trời đặt trên họ và cảm ơn Chứa vì có được một nhà lãnh đạo như Tiến  sĩ  R.  A.  Jaffray,  một  người  thấy  khải  tượng,  là  người hành động cần thiết cho Địa hạt Truyền giáo, chứ không phải là  một  người  có  ảo  tưỏng. Vào  lúc  b ế mạc  Hội  đồng,  ông Jackson đi ngay đến nhiệm sở mới thì một cơn bão lớn quét vào bờ biển phía nam. Quyền lực của sự tối tăm không cho phép chuyến đi suôn sẻ. Ông Irwin có thể thuê một chiếc xe Ford kiểu T để đi đoạn đường đầu tiên đến Qui nhơn, cách xa 200 dặm. K ế hoạch là  khởi hành vào sáng sớm hôm sau.
Đ êm   đó  ông  òlsen   bị  đau  bụng  dữ  dội,  sau  đó  đến  lượt Stebbins.  Đau quá, họ  gọi Tiến  sĩ Jaffray,  và  trong khi đang xức  dầu  cho  họ,  bất  ngờ  có  một  con  chuột  khổng  lồ  chạy ngang qua phòng, dừng lại cắn mạnh vào chân Tiến sĩ Jaffray làm cho chảy máu.  Có  vẻ  như quyền lực ma quỷ  đang hiện diện trong phòng,  nhưng khi  tất cả  kêu cầu danh Chúa,  nài xin khẩn  thiết,  thì  đã  chiến  thắng.  Sáng  hôm  sáu,  Olsen  và Stebbins thấy khỏe hơn và đồng ý khởi hành.
Mọi người đều cảm nhận có một cuộc chiến đang diễn ra trên trời. Cuối cùng họ lên đường.

Related link

Latest Features

Weather

April - 2025
SMTWTFS
  12345
6789101112
13141516171819
20212223242526
27282930   
       

Facebook comments