Lời Nói Đầu
Cơ Đốc Giáo là tôn giáo của những
người tin theo Chúa Jêsus Christ, những người này còn được gọi là Cơ Đốc Nhân
(Christians hoặc Chrétiens). Lịch sử Cơ Đốc Giáo được hoài thai từ khởi thủy
của loài người khi Thượng Đế hứa ban một Đấng Cứu Thế (Đức Chúa Jêsus) xuống
trần trong chương trình cứu chuộc của Ngài cho cả nhân loại. Hội thánh đầu tiên được thành lập sau khi
Đức Chúa Jêsus thăng thiêng và Ngài truyền lệnh cho các môn đồ "Hãy đi
khắp thế gian giảng Tin Lành cho mọi người." Từ đó trở đi, Hội thánh càng
ngày càng phát triển ngay cả những lúc bị đàn áp và bắt bớ.
Giáo Hội Công Giáo La-mã thường được
coi như tổ chức đầu tiên của Cơ Đốc Giáo sau các cơ cấu Hội Thánh đầu tiên. Kế đến các giáo hội khác được thành lập tách ra từ Công
Giáo như Chính Thống Giáo, Anh Quốc Giáo, Tin Lành (Protestant). Tin Lành gồm
nhiều hệ phái từ Lutheran đến Báp Tít (Baptist), Cơ Đốc Phục Lâm (Seventh Day
Adventists), Giám lý (Methodist), Ngũ tuần (Pentecostal)... Đặc điểm chung
của Cơ Đốc Giáo là việc công nhận Kinh Thánh như là nền tảng căn bản. Các
giáo phái thêm hay bớt những sách của Kinh Thánh, có thể không được coi như Cơ
Đốc Giáo chánh thống.
Phần lịch sử của Cơ Đốc Giáo ở Việt
Nam sau đây gồm lịch sử Giáo hội Công Giáo La-mã, lịch sử Hội thánh Tin Lành
Việt Nam thuộc Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp (Christian & Missionary
Alliance), lịch sử Giáo Hội Cơ Đốc Phục Lâm An Thất Nhật (Seventh Day
Adventists), lịch sử Hội Thánh Báp Tít Việt Nam và lịch sử Giáo Hội Mennonite.
Nhiều giáo hội khác không được đề cập đến vì chúng tôi không có tài liệu đầy
đủ.
Sau năm 1975, Cơ Đốc Giáo ở Việt Nam
càng phát triển mạnh. Nhiều giáo hội khác đến Việt Nam
cũng như có sự phát triển ở các cộng đồng người Việt Nam hải ngoại.
I. Lịch sử Giáo Hội Công Giáo La Mã
tại Việt Nam
II. Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt
Nam
III. Lịch sử Giáo Hội Cơ Đốc Phục
Lâm An Thất Nhật Việt Nam
IV. Lịch sử Giáo Hội Báp Tít Việt
Nam
V. Lịch sử Giáo Hội Mennonite tại
Việt Nam
Chương 1: Lịch sử Đạo Công Giáo La-mã Tại Việt Nam
Không ai biết rõ đạo Công Giáo (còn được gọi là đạo Gia-tô,
đạo Thiên Chúa) đã đến Việt Nam như thế nào. Theo truyền thuyết thì vào thế kỷ thứ hai, thứ ba...
nhiều người Tây phương đến viếng Việt Nam trong đó có các thương gia, các linh
mục Thiên Chúa Giáo. Những hoạt động của các nhà truyền giáo này không được
ghi chép và không có bằng chứng nào cho biết là đã có người theo đạo lúc ấy mãi
cho đến thế kỷ thứ 16.
Theo lịch sử chánh thức của triều
đình Việt Nam (Khâm Định Việt Sử) thì từ năm Nguyên-hòa nguyên niên đời vua
Trang-tông nhà Lê (1533) có chiếu chỉ cấm đạo Công Giáo ở Việt Nam. Chiếu chỉ
này đã đề cập đến một người Tây phương tên I-Hi-Khu đã rao giảng đạo Thiên Chúa
ở huyện Giao Thủy và Nam Chân tỉnh Nam Sơn (nay là Nam Định).
Đây là một giai đoạn xáo trộn về
chính trị với sự phân tranh lãnh thổ: Nhà Mạc ở miền bắc và Nhà Lê ở miền nam
(1527-1592); đất nước được thống nhất trên danh nghĩa dưới Triều Lê nhưng trên
thực tế đã chia ra làm Đường Ngoài (miền bắc) thuộc chúa Trịnh và Đường Trong (miền
nam) thuộc chúa Nguyễn (1592-1788).
Sử liệu không nói rõ là I-Hi-Khu đã
bị trục xuất ngay lúc đó hay vẫn còn ở lại và tiếp tục chức vụ truyền giáo. Vào
năm 1583, một phái đoàn gồm 8 linh mục dưới sự hướng dẫn của Cha Diego
d'Oropesa đã đến viếng Việt Nam theo lời mời của vua Mạc Mậu Hợp. Phái đoàn đã đi từ Manila đến Quảng Yên
và dùng đường thủy để đến thủ đô Thăng Long (Hà Nội). Dọc đường, tàu
của họ đã bị một trận cuồng phong làm lạc hướng. Linh mục Bartholomeo Ruiz, một
thành viên của phái đoàn trên trở lại Việt Nam năm sau và được quốc vương tiếp
đón nồng hậu. Ông được nhà vua cho phép ở lại để truyền giáo.
Cha Ruiz và một số các linh mục Công
Giáo, đa số là người Tây Ban Nha và Bồ
Đào Nha, đã đến Việt Nam trong thời gian này. Họ đã hoạt động tích cực
và đem những nhân vật cao cấp của chính quyền trong đó có Công chúa Regent
Mai Hoa trở lại đạo. Dầu vậy, ảnh
hưởng của họ không được sâu rộng lắm trong quần chúng Việt Nam. Nguyễn
Hữu Trọng, trong luận án tiến sĩ của ông dưới tựa đề "Nguồn gốc của hàng
giáo phẩm Việt Nam" (Les Origines Du Clergé Vietnamien), đã viết như sau: "Nếu chúng ta xem xét những thành
quả của việc truyền giáo trong giai đoạn tiên khởi này, chúng ta phải nhìn nhận
rằng nó đã thành tựu một cách khiêm nhường. Có vài người chịu phép rửa tội
(báp-têm), chưa đủ để tạo dựng một cộng đồng Cơ Đốc có thể gây dựng một Hội
thánh tương lai".
Mãi cho đến năm 1624,
khi một giáo sĩ người Pháp, một học giả tài ba lỗi lạc là Cha Đắc Lộ
hay Alexandre de Rhodes đến Việt Nam, việc
truyền giáo mới chuyển qua một khúc quanh quan trọng. Ông hoạt động cả
miền bắc lẫn miền nam (Đường Ngoài và Đường Trong) trong 22 năm. Ông
thành thạo ngôn ngữ, lịch sử và địa lý Việt Nam, nhất là đã hoàn tất việc
chuyển đổi chữ viết Việt ngữ bằng cách dùng mẫu tự La-tinh. Với vài thay
đổi và tu chỉnh sau này, Việt ngữ do ông soạn thảo đã thay thế chữ nho để
trở thành quốc ngữ vào cuối thập niên 1910.
Linh mục Đắc Lộ trở về Ba-lê vào năm
1649. Ông thành lập Hội Thừa Sai (Societé des Missions Etrangères) để khuyến
khích các nhà truyền giáo người Pháp đến vùng Viễn Đông. Vì thế, các giáo sĩ
người Pháp càng ngày càng gia tăng và đã trở thành một thành phần nòng cốt của
các giáo sĩ Công Giáo ở Việt Nam. Theo Đào Duy Anh, tác giả của quyển Việt
Nam Văn Hóa Sử Cương, vào năm 1680, khoảng 30 năm sau khi Hội Truyền
Giáo Hải Ngoại được thành lập, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cho rằng có đến
600.000 giáo dân ở miền nam (Đường Trong) và 200.000 ở miền bắc (Đường Ngoài).
Các con số này không được xác nhận và dường như hơi cao hơn trên thực tế, vì
sau hơn một thế kỷ, con số giáo dân trong toàn quốc sau nhiều lần tăng gia và
phát triển đã không vượt quá 320.000 (theo Linh mục Phan Phát Huồn, một sử gia
Công Giáo).
Hoạt động truyền giáo của Công Giáo vào cuối thế kỷ thứ 17
đến thời đại vua Gia Long năm 1802 thường gặp khó khăn. Sự thăng trầm này
thường bắt đầu và chấm dứt với việc lên ngôi hay băng hà của các vị vua có
thiện cảm hay ác cảm với tôn giáo nầy. Trong nhiều trường hợp, việc này
tùy thuộc vào sự thay đổi quan điểm của các vị vua hoài nghi. Điển hình là
trong đời chúa Trịnh Tráng, các linh mục Bồ Đào Nha được phép theo ông trong
chuyến chinh phục miền nam để giảng đạo. Họ được phép mở các nhà thờ ở Hà Nội
và các thành phố miền bắc khác. Nhưng khi ông biết rằng những đặc ân ông dành
cho các giáo sĩ Bồ ĐàoNha đã không mang lại lợi lộc trong việc trao đổi kinh tế
với nước này, Trịnh Tráng quyết định trục xuất các nhà truyền giáo. Ở miền nam,
Cha Đắc Lộ là giáo sĩ đầu tiên tiếp kiến chúa Công Thương Vương, được người
chấp nhận lễ vật và được phép kiều ngụ trong xứ. Tuy vậy chúa Công Thương Vương
đã ra lệnh hành quyết 3 Thánh tử đạo là An-rê, Inhaxo, và Vinh Sơn cùng nhiều
giáo dân khác (1644-1645).
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ, ba anh em Nhà Tây Sơn
(1788-1802), đã thống nhất sơn hà, dẹp bỏ chế độ cai trị của các Lãnh chúa ở
miền bắc lẫn miền nam và chấm dứt chế độ nhà Lê. Mặc dù các vị vua nhà Tây Sơn không chống đối đạo Công
Giáo, đa số các nhà truyền giáo đã
phải rời bỏ Việt Nam vì chiến tranh. Trong thời gian này, hoạt động của
các nhà thờ Công Giáo không được ghi chép đầy đủ. Học giả Trần Trọng Kim đã
viết trong quyển Việt Nam Sử Lược rằng "trong thời Tây Sơn, vì đất nước
bất yên, triều đình chú tâm vào việc chiến tranh và Công Giáo không bị
cấm".
Chánh sách dễ dãi với Công Giáo này
đã dần dần thay đổi trong những năm cuối. Lúc đầu quân lính Tây Sơn không có
thiện cảm với các tôn giáo, họ không giúp đỡ các chùa, đền hay nhà thờ và Công
Giáo cũng được coi như các đạo khác. Khi Giám mục Bá Đa Lộc thành Adran công
khai ủng hộ Hoàng tử Nguyễn Ánh, đối thủ chánh của nhà Tây Sơn, chính quyền trong nam dưới thời Nguyễn
Lữ, em của Hoàng Đế Quang Trung, bắt đầu bắt bớ Công Giáo: nhà thờ bị tàn phá,
các giáo chức người Việt phải lẩn trốn trong rừng.
Trong 9 năm dưới thời Tây Sơn, số giáo dân giảm đi từ
100.000 xuống còn 60.000 ở miền nam.
Tuy nhiên, nhiều bằng cớ cho biết sự sút giảm này là do ảnh hưởng tàn phá
của chiến tranh đã làm cho dân số giảm xuống hơn là sự đàn áp của chánh
quyền Tây Sơn.
Ở miền bắc và miền trung, Công Giáo được chấp nhận, không bị
nhà Tây Sơn để ý trong lúc đầu cho đến khi Giám mục Labartette ở Thuận Hóa
(Huế) nhận được mật thư của Hoàng tử Nguyễn Ánh sau khi ông đã chinh phục được
miền nam. Vì lý do này mà 31 tín đồ Công Giáo bị giết trong đó có Linh mục
Nguyễn Văn Triệu, nhiều người khác phải lẩn trốn. Phản ứng khắc nghiệt của nhà Tây Sơn không phải là do sự
chống đối ngoại kiều hay đạo Công Giáo mà do sự ủng hộ của Giám mục Bá Đa Lộc
và các hàng giáo phẩm đối với Nguyễn Ánh. Linh
mục Phan Phát Huồn, tác giả của Việt Nam Giáo Sử, là quyển lịch sử đầy đủ nhất
của đạo Công Giáo ở Việt Nam đã đồng ý với quan điểm rằng "nếu Giám mục Bá
Đa Lộc không giúp đỡ Nguyễn Ánh chinh phục đất nước, triều đình Tây Sơn sẽ
không sát hại tín đồ Công Giáo".
Cuối cùng, Nguyễn Ánh đã thành công trong việc diệt trừ được nhà Tây Sơn, lên
ngôi lấy danh hiệu là Gia Long. Trong
thời gian 18 năm đời vua Gia Long, Công Giáo được yên ổn và phát triển dù rằng
nhà vua không theo đạo. Ông cũng không ban đặc ân nào cho Giáo hội. Ông
thường biểu lộ lòng biết ơn đối với các nhà truyền giáo nhất là Giám mục Bá Đa
Lộc, người đã hết lòng giúp đỡ nhà vua (dù rằng sau này Giám mục Bá Đa Lộc bị
mất chức) cho đến khi ông qua đời. Trong
đời vua Gia Long, Giáo Hội Công Giáo có 320.000 giáo dân, 119 Linh mục Việt Nam,
15 nhà truyền giáo ngoại quốc và 3 Giám mục. Điều đáng chú ý là 80 % các Linh
mục và Giáo chức Việt Nam đều ở miền Bắc.
Sau khi vua Gia Long băng hà, Giáo
hội Công Giáo chỉ được một thời gian yên ổn ngắn ngủi, từ năm 1820-1833, sau đó đã trải qua một thời kỳ đen tối nhất trong
lịch sử dưới thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức (1833-1883). Vua Minh Mạng
đã ra chiếu chỉ cấm đạo Công Giáo trong toàn lãnh thổ vào ngày 6 tháng giêng
năm 1833. Lịnh cấm chỉ này được các vua Thiệu Trị và Tự Đức theo đuổi: các nhà truyền giáo vào lãnh thổ bất hợp
pháp để rao giảng đạo sẽ bị xử tử; các linh mục Việt Nam không bỏ đạo sẽ bị
khắc chữ vào mặt và lưu đày; giáo dân bị cấm không được theo đạo, tuy
nhiên họ không bị ám hại. Rất nhiều giáo sĩ ngoại quốc, nhiều giáo chức Việt
Nam bị giết vì chính quyền địa phương tố cáo họ là những người nằm vùng, chính
quyền trung ương càng tình nghi họ nhiều hơn, lại thêm các nhóm chống đối
(chống Pháp) địa phương cũng nghi kỵ họ. Mãi đến khi hòa ước năm 1862 và
1874 ra đời, Việt Nam bị áp lực phải thâu hồi các lệnh cấm trên. Một sử gia Việt
Nam, ông Phan Thanh Khôi đã viết: "Các vị vua Việt Nam đã chống đối Công
Giáo không phải vì họ có chủ trương thái quá nhưng vì họ muốn bảo vệ sự thuần
nhất của dân tộc về chính trị cũng như về đạo đức. Họ cho rằng người Công Giáo
không thờ cúng ông bà là một đe dọa cho sự thuần nhất của quốc gia".
Có ít nhất 3 lý do khiến các vua
Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức có chánh sách khắt khe với Công Giáo.
1. Nguyên nhân thứ nhất là chính
trị, có lẽ là nguyên nhân quan trọng nhất. Vua Minh Mạng, không phải
là trưởng nam của vua Gia Long (Hoàng tử Cảnh là người kế vị đã mất tại Gia
Định sau chuyến thăm viếng Ba-lê với Giám mục Bá Đa Lộc) và sự chọn ông để nối
nghiệp đã bị một vài triều thần và các nhân vật có thiện cảm với Công Giáo
chống đối. Cho đến ngày nay, nhiều người Công Giáo vẫn cho là sự chọn lựa này
không hợp pháp, và chỉ có con của Hoàng tử Cảnh mới có quyền kế vị vua Gia
Long. Sau khi lên ngôi, vua Minh Mạng tỏ sự bất mãn đối với những người đã chống
đối ông. Vì vậy, việc cấm chỉ đạo Công Giáo đã không làm ai ngạc nhiên.
2. Nguyên
nhân thứ nhì là chủ trương của nhà vua muốn theo đạo truyền thống dân tộc như
Khổng giáo, đạo thờ ông bà và như vậy ông chống đối các đạo ngoại lai mà ông
cho là "tà giáo".
3. Lý do thứ ba cũng là lý do chính trị: vì chính sách bành trướng của các đế
quốc thời đó nhất là nước Anh đã đô hộ Ấn độ và Miến điện trước đó mấy chục
năm, và nước Pháp muốn bành trướng sự hiện diện ở Á Châu sau khi bị mất Ấn Độ
vào tay Anh quốc. Các nhà truyền giáo bị coi là gián điệp và tín đồ Công Giáo
bị coi như những người nằm vùng, họ không ngần ngại phản bội đất nước cho sự tự
do tín ngưỡng.
Trong
hòa ước 1862, Hoàng đế Việt Nam bị bắt buộc phải thừa nhận sự đô hộ của nước
Pháp ở miền nam như được nêu lên ở điều thứ nhất: "Nước Nam phải để cho
giáo sĩ nước Pháp và nước I-pha-nho được tự do vào giảng đạo, và để dân gian
được tự do theo đạo".
Sự tự do tín ngưỡng này không được
dành cho dân miền trung và miền bắc. Họ vẫn còn bị cấm bởi chính quyền. Các
nhóm ái quốc điển hình là nhóm Văn Thân đã tuyên bố rằng "Tín đồ Công Giáo
đã bán nước cho thực dân Pháp. Một khi những kẻ nằm vùng này bị loại trừ, người
Pháp sẽ không còn hậu thuẩn nữa ắt sẽ bị tiêu diệt". Nỗ lực của họ không
ngưng cho tới năm 1884 khi hòa ước Patenotre đặt Việt Nam dưới sự bảo hộ của
Pháp, và sự tự do tín ngưỡng cho đạo Công Giáo được bảo đảm dưới hòa ước
Giáp Tuất (1874) được tái xác nhận và thực thi. Giáo hội Công Giáo không bao
giờ mất "sự tự do giảng đạo" và tiếp tục bành trướng trong thời gian
Pháp thuộc. Vào năm 1932, Việt Nam có 13
giáo phận và tất cả đều do các giám mục ngoại quốc đảm nhiệm. Giám mục đầu tiên
của Việt Nam là đức cha Nguyễn Bá Tòng được nhậm thánh chức vào năm 1933. Đây
là một biến cố lịch sử cho hàng giáo phẩm Việt Nam vì trong gần bốn thế kỷ,
những nhà truyền giáo Âu châu không cố gắng đào tạo những người lãnh đạo cũng
như những linh mục trong nước theo tinh thần của các thánh đồ vào thế kỷ thứ
nhất.
Một biến cố khác, 27 năm sau, vào
năm 1960, Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đề cử 3 Tổng Giám mục giáo khu
(archbishoprics) và các hàng giáo phẩm đầu tiên của Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam. Đó là giáo khu Hà Nội với 8 giáo phận (diocese) do Tổng Giám mục Trịnh Như
Khuê, giáo khu Huế với 3 giáo phận (dioceses) do Tổng Giám mục Ngô Đình Thục,
giáo khu Sài-gòn với 5 giáo phận do Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình lảnh đạo. Trong số 16 Giám mục được Đức Giáo Hoàng
bổ nhiệm cho các giáo phận trên, có 14 Giám mục Việt Nam.
Trên
thực tế, Công Giáo là tôn giáo có tổ chức, hệ thống nhất ở Việt Nam ngày nay. Với 1.454.842 giáo dân ở miền nam và 833.468 giáo dân ở
miền bắc, Công Giáo là một cộng đồng
lớn nhất và mạnh mẽ nhất trong xã hội Việt Nam. Ngoài công việc truyền
giảng và huấn luyện các giới lãnh đạo trong nước, Giáo hội Công Giáo với 24 giáo phận (orders) có được một hệ thống
rộng lớn và hữu hiệu chuyên lo về vấn đề giáo dục và xã hội. Điều này đã làm
cho hằng ngàn người trở lại đạo mỗi năm và đã gây ảnh hưởng sâu rộng trong giới
trí thức. (Trích dịch từ luận án tiến sĩ của Mục sư Lê Hoàng
Phu, 1972).