7 ĐỊNH LUẬT CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO THUỘC LINH

Mục Lục
7 Định Luật Của Người Lãnh Đạo Thuộc Linh
Tác giả: John C. Maxwell
ĐỊNH LUẬT 1
1. Người lãnh đạo thuộc linh cần phải gương mẫu như thế nào?
2. Cách nhận ra một nhà lãnh đạo thuộc linh
3. Bạn có đáng tin cậy không?
ĐỊNH LUẬT 2
4. Bạn phải giao thiệp với tất cả mọi người!
5. Điều gì khiến cho người ta chịu lắng nghe?
6. Hành động nói lớn hơn ngôn từ!
ĐỊNH LUẬT 3
7. Bạn có phải là một cấp lãnh đạo được ân tứ của Chúa Cứu Thế không?
8. Các ân tứ thuộc linh có giúp ích gì không?
9. Có thể dùng phụ nữ làm lãnh đạo không?
ĐỊNH LUẬT 4
10. Phải cẩn thận đối với bản thân
11. Làm mọi việc vì các lý do chính đáng
12. Ưu tiên chủ yếu
ĐỊNH LUẬT 5
13. Tại sao người ta đề kháng uy quyền?
14. Làm thế nào để bạn có được uy quyền?
15. Cách đáp ứng với uy quyền
ĐỊNH LUẬT 6
16. Các cấp lãnh đạo giỏi có một chiến lược
17. Cách phát triển một chiến lược tốt - và lợi dụng nó
18. Một chiến lược để tăng trưởng
ĐỊNH LUẬT 7
19. Yêu thương người khác không phải dễ!
20. Làm thế nào để yêu thương người khác bằng tình yêu thương của Thượng Đế
21. Các dấu hiệu của người lãnh đạo có tình yêu thương
22. Chung quy: Bạn có phải là một người lãnh đạo không?


Lời Tựa
Tôi tập bơi vào năm thứ ba khi tôi theo học tại một học viện quân sự. Huấn luyện viên bắt tôi nhảy vào chỗ sâu trong hồ bơi. Cái khả năng biết thích rõ nhanh với các thử thách trong đời sống của con người mới thật kỳ diệu làm sao! Tôi không sao quên được bài học đó. Ở thời điểm đó, người huấn luyện viên biết rõ về tôi hơn chỗ tôi tưởng rất xa. Ông ta biết rằng với tôi chỉ có hai con đường: “bơi hay chết chìm”. Thuật lãnh đạo cũng giống như vậy: một số người trong chúng ta phải vất vả lắm mới học được.
Như hầu hết mọi người, tôi đã từng phải gánh vác nhiều trọng trách lãnh đạo (trong số đó có một vài trọng trách tôi thực sự muốn quên cho rồi!). Kinh qua các trọng trách đó, tôi thường tự hỏi một người lãnh đạo tốt cần phải hội đủ những đức tính gì. Từ những niềm vui cũng như những nỗi đau lòng trong việc gây dựng một Hội thánh và nhìn Hội thánh đó lớn lên cho đến nay trong trọng trách của một vị mục sư cao niên đang chăn dắt một Hội thánh lớn và một hệ thống học đường gồm nhiều nhân viên cộng tác, tôi vẫn không ngừng thắc mắc trước câu hỏi: cần phải có những tiêu chuẩn nào để trở thành một người lãnh đạo tốt? Cho dù đã từng dạy về thuật lãnh đạo cho các sinh viên tốt nghiệp, tôi vẫn không ngừng tra hỏi về điều này.
Nếu Chúa không giúp đỡ, không ai trong chúng ta có thể trông mong trở thành một người lãnh đạo thuộc linh đúng như khuôn mẫu Chúa đã mô tả. Tôi có cảm tưởng rằng cứ trong ba quyết định tôi thực hiện thì đã có đến hai không diễn ra như ý tôi nghĩ. Tuy nhiên, tôi đã học được một số nguyên tắc quý báu và đã ghi lại chúng trên giấy trắng mực đen. Có lẽ các bạn cũng cần phải làm giống như vậy. Một số nguyên tắc này là tinh túy của thuật lãnh đạo, còn những cái kia các bạn có thể sử dụng hay bỏ đi cũng được. Tôi hằng cầu xin Chúa giúp các bạn nghiên cứu các điều tinh túy mà tôi ghi lại trong quyển sách này theo sự dạy dỗ của Lời Chúa, cũng như qua sự thể nghiệm của bản thân mỗi người. Chắc các bạn cũng sẽ đồng ý những điều này là cần thiết và sẽ giúp hết thảy chúng ta trở nên những người lãnh đạo hoàn hảo hơn.
Trong lần nhuận chánh này, tôi có thêm vào một số chương mà tôi tin chẳng những sẽ mở rộng được tầm nhận thức của chúng ta về thuật lãnh đạo thuộc linh, mà còn củng cố được quyết tâm của chúng ta trở thành những người sống đúng theo thánh ý Chúa.
1991

NGƯỜI LÃNH ĐẠO THUỘC LINH CẦN PHẢI GƯƠNG MẪU NHƯ THẾ NÀO?
Chính cha tôi đã gây ấn tượng đầu tiên cho tôi về vai trò của người lãnh đạo. Ông mạnh mẽ và tin vào kỷ luật. Ông yêu thương mọi người và thường giúp đỡ họ trong những lúc khó khăn. Ông không phải là người học thức cao, nhưng dường như ông thông hiểu con người. Ông tận tuỵ với công việc Chúa và dâng tiền rời rộng để tán trợ công việc đó. Tôi còn nhớ đôi tay của ông. Đôi tay sần sùi qua những giờ lao động năng nhọc mà ông đã trải qua ở các mỏ dầu. Đôi tay của ông không ngừng làm việc và đôi lúc, hồi còn bé, tôi đã có cảm tưởng rằng tính cách của cha tôi nằm ở đôi tay đó. Đôi tay vẫn còn nhắc tôi nhớ đến ông là người như thế nào và ông đã làm những công việc gì. Hiện nay ông đang ở cùng Chúa trong nước trời.
Người thứ hai là vị mục sư trong Hội thánh của tôi. Ông là người nhỏ nhẹ, đầy tình yêu thương và nhân hậu. Dường như lúc nào ông cũng có thì giờ dành cho mọi người. Khi ông giảng, có cảm tưởng ông đang nói với chính bạn như thể chỉ có bạn là thính giả duy nhất trong hội chúng. Ông không ngừng khích lệ tôi và theo dõi sự trưởng thành của tôi trong Chúa. Khi tôi xa nhà theo học đại học, ông viết thư cho tôi. Tôi rất sung sướng đã có dịp được làm việc cùng ông trong ban trị sự Hội thánh và quan sát ông thật sâu sát. Thật là một vinh dự quý báu!
Trong cuộc sống, còn có nhiều người khác cũng đã nêu gương mẫu cho tôi về thuật lãnh đạo, nhưng rồi đến lúc tôi cần có những lời giải đáp cho một số câu hỏi: Thế nào là một người lãnh đạo thuộc linh? Làm thế nào bạn có thể nhận biết một người lãnh đạo khi nhìn thấy người ấy? Theo ý Chúa, thế nào là một người chăn dắt? Thế là tôi đọc Kinh Thánh để tìm câu trả lời và tôi bắt đầu với Kinh Cựu ước.
Những Gương Lãnh Đạo Trong Cựu Ước
Môi-se
Nhân vật đầu tiên trong Cựu ước khiến tôi chú ý chính là Môi-se. Trong sách Xuất-Ê-díp-tô ký đoạn 18, Môi-se đã nhận được những lời khuyên quý báu của nhạc phụ của ông là Giê-trô, thầy tế lễ xứ Ma-đi-an. Giê-trô bảo ông rằng ông sẽ đuối sức nếu cứ làm theo cung cách đó. Bất cứ khi nào bạn chứng kiến một tình huống giống như vậy, trong đó một người cố ôm đồm hết mọi việc, chính lúc đó là lúc đòi hỏi nhu cầu lãnh đạo.
Một trong những điều bất toàn của bản chất con người đó là chúng ta không tự nhìn thấy chính mình như kẻ khác nhìn thấy chúng ta. Chúng ta không muốn thừa nhận rằng có những điều chúng ta không thể làm được. Cũng giống như trong trường hợp của Môi-se, nếu như tình huống đó không thay đổi và các trách nhiệm không được san sẻ cho những người khác thì rồi “Nguyên tắc Peter” sẽ thâm nhập vào rất nhanh thôi. Nguyên tắc này của doanh nghiệp hiện đại xử sự với những con người vươn đến mức độ bất năng của họ! Thảm kịch nằm ở chỗ nhiều người không thể đối mặt với sự kiện này. Kết quả không tránh khỏi là họ trở thành những trở ngại đáng kể cho sự tiến bộ và phát triển tốt đẹp hơn.
Tôi có thể đồng cảm thật dễ dàng với Môi-se. Tôi muốn tự mình làm lấy mọi việc hơn là giao cho người khác làm. Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi làm tốt hơn đâu! Trên thực tế, tôi thường gánh chịu tổn thất đã không để ai khác giúp sức. Xét cho cùng, đây thường là một vấn đề tự kỷ. Tôi không muốn thừa nhận rằng mình không thể xử lý được một tình huống, hoặc tôi muốn chứng tỏ với mọi người rằng tôi thật là người có khả năng!
Việc thường xảy ra cho vị lãnh đạo chủ chốt
là quá ôm đồm những chi tiết mà những
người cộng sự khác có thể thực hiện được .
Việc đầu tiên Môi-se phải làm là phải vạch rõ được phần việc của chính mình . Việc phân công nên luôn luôn bắt đầu từ thượng tầng kiến trúc trở xuống. Công tác phân công cần giản dị, rõ ràng và linh động. Theo sách XuXh 18:19-21 Môi-se có ba trọng trách chính: 1). trình mọi việc của dân sự lên Đức Chúa Trời. 2). dạy dỗ dân sự con đường họ phải đi cùng huấn luyện họ trong công việc họ phải làm. 3). chọn những người lãnh đạo tài năng để giúp ông gánh vác trọng trách lãnh đạo.
Nghe có vẻ giản dị phải không? Mà đúng cung cách phải như vậy đó! Đã quá nhiều phen người lãnh đạo cốt cán quá ôm đồm với các tiểu tiết mà lẽ ra phải để các cộng sự viên khác đảm đang, do đó đã làm giảm bớt hiệu năng của đời sống và các trọng trách của bản thân ông. Lắm khi, như trong trường hợp của Môi-se, bạn thấy khó từ bỏ các công việc hiện bạn đang làm, mãi đến khi có người tin cậy nào đó cảnh giác bạn về mối hiểm hoạ cứ tự mình ôm đồm hết mọi việc vào người...
Đã có một thời điểm trong chức vụ tôi đã đi theo “hội chứng Môi-se”. Tôi đã không uỷ thác bớt công việc cho người khác và thành thật mà nói, tôi đã đuối sức dưới sức nặng của khối lượng công tác. Một ngày kia, một người bạn tin cậy, đồng thời là cộng sự viên của tôi đến bảo tôi rằng: “Này David, khi anh chết rồi thì chúng tôi sẽ làm gì đây?” Quả đúng như vậy. Thật khó lòng mà thừa nhận nhưng quả thực tôi chính là vấn đề. Quá nhiều điều phải trông chờ vào tôi và tôi không thể hiểu được. Chúng tôi đã sửa đổi ngay một vài điều và kết quả là công việc tiến triển không ngừng.
Môi-se cũng cần phải biết rõ ông nên tìm kiếm những phẩm chất nào nơi những người lãnh đạo có thể trợ giúp ông (xem 18:21). Ông cần phải tìm kiếm 1. những người kính sợ Đức Chúa Trời, 2. những người chân thật và 3. những người ghét sự tham lợi bất chính.
Ở đây không hề nhắc đến các phẩm chất có liên quan gì đến trình độ học vấn hay bất cứ kỹ năng hoặc tài cán đặc biệt nào. Những phẩm chất này biểu trưng cho những con người có thể tin cậy và vâng theo được. Chính nếp sống thánh khiết mới là điều quan trọng.
Giô-suê
Sau khi Môi-se qua đời, Chúa phán cùng Giô-suê và truyền cho ông phải dẫn dắt dân sự Ngài đến vùng đất mà Ngài đã dành cho họ. PhuDnl 34:9 chép rằng: Giô-suê đã được Môi-se chọn làm người kế vị mình.
Giô-suê được “đầy dẫy thần khôn ngoan”. Sách Giô-suê đoạn 1 có chép một loạt các phẩm chất mà ông cần đến để lãnh đạo dân sự cho có hiệu quả: 1. vững lòng bền chí (Gios Gs 1:6, 7, 9) 2. ngày đêm suy gẫm Lời Chúa (1:8) và 3. toàn tâm toàn ý vâng theo mạng lệnh Chúa (1:7, 8). Đức Chúa Trời phán rằng nếu đời sống của Giô-suê hội đủ các phẩm chất này, ông sẽ được thịnh vượng và thành công.
Ngày nay có quá nhiều người lãnh đạo Hội thánh đang cậy sức riêng để thực thi công việc và không tuân thủ đúng sự dạy dỗ của Lời Chúa. Chúa đã phán cùng Giô-suê rằng: “Ngươi chớ xây qua bên tả hoặc bên hữu”. Chỉ cần đi trệch một ly khỏi sự dạy dỗ của Lời Đức Chúa Trời là lập tức rước lấy thảm bại trong việc lãnh đạo.
Nhiều năm trước đây một người bạn đồng lao của tôi trong chức vụ đã bắt đầu đi trệch khỏi Lời Chúa ở một lãnh vực. Chúng tôi đã thảo luận về điều đó và còn cầu nguyện với nhau nữa. Trong một thời gian, việc chăn bầy của ông vẫn vững vàng và được tán trợ mạnh mẽ. Ông biện minh cho việc vi phạm Lời Chúa dựa trên cơ sở những điều thoạt trông dường như là ơn phước Chúa đối với chức vụ của ông. Đức Chúa Trời đã nhẫn nại với ông, cho ông nhiều cơ hội để làm hoà lại với Ngài.
Hết việc này đến việc khác, rốt cuộc chẳng bao lâu việc vi phạm Lời Chúa của ông đã phát triển thành một nề nếp rõ rệt. Tôi không chút ngạc nhiên khi hay tin ông đã rời bỏ chức vụ và đã thất bại trong việc lãnh đạo trong một tình huống thử thách. Chúng ta cần phải học bài học mà Đức Chúa Trời đã mặc khải cho Giô-suê. Theo ý Đức Chúa Trời, sự thành công dựa trên nền tảng tuân thủ tuyệt đối Lời của Ngài.
Đa-vít
Đức Chúa Trời chọn Đa-vít làm lãnh tụ vì ông có sức mạnh tâm linh. Khi Sa-mu-ên đến xức dầu cho một người con trai của Y-sai để làm vua dân Y-sơ-ra-ên, ông đã nhìn Ê-li-áp và thầm nghĩ: “Quả hẳn kẻ chịu xức dầu của Đức Giê-hô-va đang ở trước mặt Ngài” (ISa1Sm 16:16). Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đáp rằng: “Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó, vì ta đã bỏ nó. Đức Giê-hô-va chẳng xem điều gì loài người xem, loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giê-hô-va nhìn thấy trong lòng” (16:7).
Điều đó thật đúng biết bao! Khi chọn lựa một kẻ lãnh đạo, chúng ta thường tìm kiếm người nào có sức lôi cuốn. Chúng ta nói đến nào là “cái uy của người lãnh đạo” hoặc là “tư chất kiệt xuất”. Chúng ta thích con người nói năng hùng biện và ăn mặc chải chuốt. Đối với chúng ta việc lãnh đạo thường là một vấn đề ngoại hình, diện mạo. Dù những điều này tự nó chẳng phải tội lỗi gì và chắc chắn cũng là những ưu điểm đáng khao khát, nhưng thường dưới mắt chúng ta, chúng lại trở thành những yếu tố quan trọng nhất trong việc quyết định đâu là một nhà lãnh đạo thuộc linh. Nhưng theo thánh ý Đức Chúa Trời, chất liệu quan trọng nhất nằm ở nội tâm, ở trong lòng, chứ không phải ngoại tại.
Sa-lô-môn
Sau 40 năm làm vua trị vì nước Y-sơ-ra-ên, Đa-vít gần đến ngày mãn phần. Ông triệu con trai mình là Sa-lô-môn đến và truyền dặn người phải đi theo đường lối của Đức Giê-hô-va, tuân giữ các điều răn và mạng lịnh của Ngài. Đức Chúa Trời phán dạy Sa-lô-môn cần phải sống một đời sống thánh khiết bằng cách vâng theo các điều răn của Ngài. Như thế thì Ngài sẽ lập ngôi nước của người được bền vững (xem IISu 2Sb 7:17-20). Lại một lần nữa, tấm gương của người lãnh đạo thuộc linh lại được đặt trước mắt chúng ta.
Các nhà lãnh đạo Cựu ước
cũng có những vấn đề như của các bạn và tôi ...
nhưng điều Đức Chúa Trời đòi hỏi nơi họ ,
Ngài cũng đòi hỏi nơi chúng ta .
Ta có thể nhắc đến nhiều nhân vật khác nữa trong lịch sử nước Y-sơ-ra-ên và những bài học họ đã học được. Ta dễ cho rằng các nhân vật Cựu ước này là những bậc “siêu thánh” không giống như các bạn và tôi. Nhưng Gia Gc 5:17 nhắc nhở chúng ta rằng Ê-li, vị tiên tri lớn của Đức Chúa Trời, cũng chỉ là người “yếu đuối như chúng ta”. Các nhà lãnh đạo thời Cựu ước cũng có những vấn đề giống như các bạn và tôi. Chúng ta bất toàn, họ cũng thế. Những gì Đức Chúa Trời đòi hỏi nơi họ, Ngài cũng đòi hỏi nơi chúng ta. Gương sáng của một nhà lãnh đạo tạo hiệu quả cho lời nói và công việc của ông ta. Điều đó tối quan trọng đối với những kẻ chịu sự chăn dắt của ông ta.
Những Tấm Gương Lãnh Đạo Thời Tân Ước
Hội Thánh thuở Sơ Khai
Trong Tân ước, các quan niệm về thuật lãnh đạo phát sinh từ các tiêu chuẩn do các trưởng lão (hay các giám mục) và các chấp sự lập ra. Trong Cong Cv 6:1-7 chúng ta biết rằng vì sự phát triển của Hội thánh (“số môn đồ ngày càng tăng thêm”) nên một vài vấn đề quản trị cần phải có thêm người lãnh đạo. Khi các sứ đồ triệu tập các tín hữu lại để bàn vấn đề này, họ đã thúc giục các tín hữu lựa ra bảy người trong số mình.
Người lãnh đạo tốt nhất chính là người được dân sự do ông chăn dắt chọn ra. Ông là người của họ. Họ biết ông và đã từng quan sát nếp sống của ông. 6:3 chép cần phải có thời gian quan sát hạnh kiểm của họ rồi hãy chọn họ vào vai trò lãnh đạo. Những từ “có danh tiếng tốt” muốn nói đến những người đã được mọi người thường xuyên giám sát và chứng kiến.
Những người này phải đầy dẫy Đức Thánh Linh, khôn sáng và có đức tin mạnh mẽ. Nói như thế không có nghĩa họ là toàn hảo. Đã muốn nói là họ biểu thị được những phẩm chất này như những thói quen trong cuộc sống. Cần phải có một khoảng thời gian để hột giống của Lời Chúa có thể đơm hoa kết trái. Các nhà lãnh đạo cần phải có sự khôn ngoan và đức tin, và điều đó sẽ có được qua kinh nghiệm và sự trưởng thành. Không có đức tin, sẽ chẳng thể tăng trưởng, chẳng thể nhìn xa trông rộng được. Thiếu sự khôn ngoan, sẽ quyết định nhiều điều lầm lạc. Đặt những người mới trở lại đạo vào vai trò lãnh đạo là thiếu khôn ngoan. Những khả năng lãnh đạo trong tư thế Cơ-đốc nhân của họ chưa có đủ thời gian phát triển và thể hiện rõ nét cho người khác trông thấy được.
Khi còn là một mục sư trẻ tuổi đang lo gây dựng một Hội thánh, tôi biết chúng tôi cần phải có những vị lãnh đạo thuộc linh, nhưng tôi không biết rõ phải xoay sở ra sao. Một người là tín đồ mới được cử vào chức vụ lãnh đạo. Dưới mắt mọi người, ông ta đạt mọi tiêu chuẩn. Ông ta có thế lực, giàu có và học rộng. Xét về mọi mặt, ông ta có vẻ thành công.
Vâng, qua kinh nghiệm cay đắng tôi mới học biết được rằng những nhà lãnh đạo thuộc linh phải qua sự trui rèn của thời gian mới có được, chứ không hề do bẩm sinh! Ông này không ngừng có những vấn đề với những tình huống và con người trong Hội Thánh. Ông không hiểu con người và thiếu cả kinh nghiệm xử sự với họ. Ông không nhìn sự việc theo quan điểm của Đức Chúa Trời, nhưng lại chọn cách nhìn theo sự khôn ngoan của thế gian. Những năm sau đó ông đã trưởng thành nhiều và cả hai chúng tôi thường ôn lại quãng thời gian đó với một thái độ hiểu biết sâu sắc hơn.
Lời Khuyên của Phao-lô đối với Thuật Lãnh Đạo.
Sứ đồ Phao-lô biết rõ tầm quan trọng của việc sống gương mẫu nơi bậc lãnh đạo. Ông nói, “Hễ sự gì anh em đã học, đã nhận, đã nghe ở nơi tôi, và đã thấy trong tôi, hãy làm đi, thì Đức Chúa Trời của sự bình an ở cùng anh em” Phi Pl 4:9). Trong HeDt 13:7, ông viết: “Hãy nhớ những người dẫn dắt mình, đã truyền đạo Đức Chúa Trời cho mình, hãy nghĩ xem sự cuối cùng của đời họ là thể nào, và học đòi đức tin họ”.
Trong Cong Cv 20:1-38 ta thấy một thi dụ kinh điển về lời khuyên của Phao-lô cho các nhà lãnh đạo. Ông mời các trưởng lão của Hội thánh Ê-phê-sô đến gặp ông tại thành Mi-lê. Trong buổi đàm đạo thân mật ấy, ông không ngừng nhắc nhở họ về tấm gương lãnh đạo của bản thân ông. Ông muốn họ theo bước ông, làm việc và sống như cách ông đã làm và sống giữa vòng họ vậy. Đó là bí quyết của sự lãnh đạo tốt - tạo hứng khởi cho người khác noi gương mình.
Tôi được nhắc nhở về sự thật quan trọng này vào một hôm khi tôi ngăn bước một em bé trai tại hành lang toà nhà Trường Chúa Nhật và hỏi: “Khi lớn lên cháu muốn trở thành người như thế nào?”. Không chút ngập ngừng, cậu bé đáp: “Giống hệt như ba cháu vậy!”. Người cha đó thật là có phước! Thật vinh hạnh biết bao khi con bạn cũng trả lời như vậy! Đứa bé đó thật tự hào về cha mình và cháu muốn noi theo gương cha. Một lần nữa, đó chính là ý nghĩa đích thực của thuật lãnh đạo!
Phao-lô căn dặn Ti-mô-thê rằng: “Những điều con đã nghe nơi ta ở trước mặt nhiều người chứng, hãy giao phó cho mấy người trung thành, cũng có tài dạy dỗ kẻ khác” (IITi 2Tm 2:2). Những từ “nơi ta” theo nghĩa đen có nghĩa là “sát bên ta”. Ti-mô-thê đã quan sát được tấm gương của Phao-lô và học được cách lãnh đạo từ những điều Phao-lô đã làm. Đó cũng chính là cách Chúa chúng ta đã sử dụng. Sách Mac Mc 3:14 chép: “Ngài đã lập mười hai người để ở cùng Ngài”. Đấng Christ đã nêu một tấm gương cho các sứ đồ của Ngài noi theo.
Người lãnh đạo thuộc linh cần phải gương mẫu như thế nào? Tất cả các gương mẫu này cùng minh thị một sự thật quan yếu. Cách sống của một nhà lãnh đạo nói lên một cách dõng dạc hùng hồn cho đến nỗi nó nói thay cho ngôn từ của ông rất nhiều. Chính nếp sống thánh khiết đã tạo nên mẫu mực ở người lãnh đạo để những người khác có thể trông cậy nơi sự lãnh đạo của ông. Một nhà lãnh đạo cần phải vâng theo Lời Chúa và noi gương các nhân vật như Môi-se, Giô-suê, Đa-vít, Phao-lô và dĩ nhiên, Chúa Giê-xu Christ. Người lãnh đạo phải cùng bước đi với Đức Chúa Trời - là một con người của sự cầu nguyện và vâng lời Chúa. Ông ta cần phải hiểu rằng cách sống của ông trước mặt mọi người chính là chìa khoá thành công cho sự nghiệp lãnh đạo của mình. Cầu Chúa khiến chúng ta hết thảy đều trở nên những công cụ giống như thánh ý Ngài.
BẢNG XÉT MÌNH CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Bạn có toan tính ôm hết mọi việc vào mình như Môi-se không?
2. Bạn có nêu được tên người nào bạn đã đào tạo để trợ giúp bạn không?
3. Bạn có phân chia công việc giống như cách của Môi-se không? Khác như thế nào?
4. Hiện bạn có vi phạm một nguyên tắc rõ rệt nào của Lời Chúa trong công tác lãnh đạo của bạn không? Vi phạm như thế nào?
5. Tấm gương của bạn trước mắt người khác có dẫn dắt họ biết sống cho Chúa không? Hãy nêu ra ba cung cách khả thể.
6. Người khác có cơ hội ở bên bạn để quan sát tấm gương của bạn, hay là bạn sống xa cách mọi người? Hãy nêu ra sáu cách bạn thường cởi mở chan hoà với mọi người.
7. Bạn có thực sự tin chắc tấm gương của đời sống bạn sẽ được người khác noi theo không? Tại sao?
CÁCH NHẬN RA MỘT NHÀ LÃNH ĐẠO THUỘC LINH
Cách đây vài năm, tôi hoàn toàn mất niềm tin nơi một nhà lãnh đạo Hội thánh. Tôi thật khó tin nổi ông ta lại không phải là một nhà lãnh đạo thuộc linh như tôi vẫn hằng nghĩ. Điều này khiến tôi trở lại với vấn nạn mà tôi đã từng tự hỏi không biết bao nhiêu lần: “Làm thế nào nhận ra được một nhà lãnh đạo thuộc linh? Làm thế nào tôi có thể biết chắc ai đó là một nhà lãnh đạo thuộc linh chứ không phải là ông ta chỉ đóng kịch trước mặt người khác?” Chúng ta cần phải đối mặt với vấn nạn này - đây chính là vấn đề đã làm rối trí tất cả chúng ta khi này hoặc khi khác.
Một ngày kia, tôi được soi sáng rằng những phẩm chất của các bậc trưởng lão (giám mục) và chấp sự chép trong sách ITi1Tm 3:1-16 chính là giải pháp giúp ta nhận ra được chân dung đích thực của các nhà lãnh đạo thuộc linh. Những phẩm chất này không những chỉ dành riêng cho một số ít người được tuyển chọn, mà còn biểu thị rõ chân tướng của một con người thánh thiện như thế nào nữa. Đây là những tiêu chuẩn cho mọi người, nhất là cho các nhà lãnh đạo.
Muốn chọn hay nhận ra một nhà lãnh đạo thuộc linh, ta hãy so sánh nếp sống của ông ta với các tiêu chuẩn chép trong 3:1-16 xem ông ta có thể hiện rõ các nét đặc trưng này như một thói quen trong cuộc sống không. Đã hẳn, nhân vô thập toàn. Con người ai cũng có những lúc yếu đuối và thất bại. Nhưng điều then chốt là xem ông ta có hay không có một cung cách sống - một khuôn mẫu sinh hoạt - phản ánh những phẩm chất này. Một người có thể lừa được bạn ở một thời điểm nào đó, nhưng thật khó có thể lừa những kẻ sống với bạn và quen biết bạn lâu dài.
Khi một người đầy dẫy Đức Thánh Linh và vâng phục Lời Chúa thì những phẩm chất này sẽ được thể hiện nơi đời sống người ấy. Mỗi một đặc tính đều quan trọng và đáng cho chúng ta nghiên cứu kỹ càng. Những ai mong muốn trở nên nhà lãnh đạo thuộc linh đều phải thường xuyên kê cứu bản liệt kê chép trong 3:1-16 (cũng xem Tit Tt 1:1-15) để được hướng dẫn và soi sáng.
Bạn Có Mong Muốn Trở Nên
Nhà Lãnh Đạo Thuộc Linh Không?
3:1 cho chúng ta biết luôn luôn có người mong muốn trở nên những bậc lãnh đạo thuộc linh. Từ ngữ Hi-lạp được dùng để mô tả ý này nguyên nghĩa là một khát vọng nung nấu, một sự vươn tới một mục đích. Đó không phải là một ngẫu hứng nhất thời, nhưng là một kỳ vọng luôn canh cánh bên lòng bạn. Khi Đức Chúa Trời kêu gọi bạn vào chức vụ lãnh đạo, sẽ không hề có sấm chớp trên trời hay chuông rung ầm ỹ đâu, Đức Chúa Trời gieo một niềm khao khát khôn nguôi trong lòng bạn. Chẳng cần phải có ai ngày đêm thúc giục bạn đi vào sự nghiệp lãnh đạo đâu bèn là chính bạn sẽ bắt đầu chứng nghiệm một cảm giác tự thúc giục. Kinh nghiệm cho thấy những ai không có niềm khát vọng khôn nguôi cho sự nghiệp lãnh đạo thường ra sẽ thất bại khi gặp cơn hoạn nạn, hoặc sẽ bỏ cuộc khi mọi việc trở nên khó khăn đấy thôi.
Một thanh niên trong Hội thánh chúng tôi được cử vào chức vụ lãnh đạo đã không thể thúc giục người khác, hay gây được sự hưởng ứng của mọi người đối với sự lãnh đạo của anh ta. Anh đâm ra chán nản và ngã lòng. Anh bắt đầu đặt vấn đề về khả năng lãnh đạo của mình và nghi ngờ không biết có phải Chúa đã thực sự kêu gọi mình vào vai trò đó không. Rốt cuộc, khi thảo luận với nhau về điều đó chúng tôi mới vỡ lẽ ra căn nguyên của vấn đề chính là do lòng anh thiếu niềm khao khát muốn lãnh đạo. Đơn giản là anh không hề muốn công việc đó. Anh không hề muốn trả cái giá của việc lãnh đạo, hoặc muốn đương đầu với những rủi ro bất trắc có thể gặp khi làm công việc lãnh đạo.
Sau đôi lần hỏi ý, anh rời khỏi vai trò lãnh đạo và tuân theo sự dẫn dắt của những người khác. Phước hạnh lại đến với anh và một lần nữa,
Việc lãnh đạo không dành cho mọi người .
Những đòi hỏi thật vĩ đại và áp lực thật nặng nề .
anh lại được nếm trải sự bình an của Chúa trong đời sống. Lãnh đạo không phải là công việc dành cho mọi người. Những đòi hỏi của nó rất lớn. Lắm lúc áp lực căng thẳng cho đến nỗi nếu không thực sự biết là Chúa đã kêu gọi bạn thì bạn sẽ dễ dàng đầu hàng .
Mọi người, trong một thời điểm nào đó, đều có mong muốn trở thành người lãnh đạo. Nhưng để có thể lãnh đạo thực sự, bạn cần phải đặt nền tảng trên một khát vọng nung nấu không ngừng. Bạn phải có niềm khao khát được lãnh đạo hơn là làm bất cứ việc gì khác! Sự kêu gọi của Chúa phải tạo được ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn và bạn không ngừng suy nghĩ về điều đó. Niềm khát vọng phải như thế!
Bạn Đã Là Một Cơ-Đốc Nhân Được Bao Lâu Rồi?
Cần phải có sự trưởng thành và kinh nghiệm mới trở nên một người lãnh đạo thuộc linh được. 3:9 chép rằng các chấp sự cần phải “lấy lương tâm thanh sạch giữ lẽ mầu nhiệm của đức tin”. Người lãnh đạo thuộc linh phải kiên định với lập trường dứt khoát sống theo Phúc Âm của Đấng Christ cùng những giới luật của Lời Đức Chúa Trời không chút do dự. Một người mơ hồ về mối tương quan của mình với Đấng Christ sẽ không thể là người chăn dắt thuộc linh cho người khác được.
Một người trong Hội thánh chúng tôi tranh chấp với một tín hữu mà ông ta đã dẫn dắt đến với Đấng Christ. Ông ta muốn khép người tín hữu này vào kỷ luật, nhưng vấp phải nhiều vấn đề rắc rối. Người tín hữu được ông dẫn dắt đến cùng Chúa bắt đầu tăng trưởng, lớn lên và đã nhanh chóng trưởng thành hơn người lẽ ra phải là kẻ chăn dắt thuộc linh của mình. Rốt cuộc khi tình trạng này lọt vào sự chú ý của tôi, tôi nhận ra rằng người thứ nhất nói ở trên gặp phải nhiều vấn đề chính vì ông thiếu sự vững chãi và quả quyết trong mối tương giao với Đấng Christ. Thật khó trở nên người lãnh đạo thuộc linh cho kẻ khác nếu thâm tâm bạn vẫn còn thiếu niềm tin về sự hiến dâng đời mình cho Chúa của chính bạn.
3:6 chép rằng kẻ muốn giữ chức vụ lãnh đạo chớ nên là người “mới tin đạo, người ấy tự kiêu và sa vào án phạt của ma quỷ chăng”. Một chức vụ lãnh đạo dễ khiến cho lòng người mới trở lại đạo trở nên kiêu hãnh. Nhưng khi đã trưởng thành chúng ta nhìn sự việc một cách khác và với thái độ thích đáng. 3:10 nói thêm: “Những người đó cũng phải chịu thử thách trước đã”. Sự thử thách (trắc nghiệm) nói ở đây là nhằm mục đích đạt được sự chấp nhận. Những người đã chịu sự thử rèn và tỏ ra vẫn trung tín trong những tình huống đó bao giờ cũng là những nhà lãnh đạo xuất sắc nhất.
Theo 3:2, một giám mục cần phải “không chỗ trách được”. Từ gốc Hi-lạp muốn nói đến một lời buộc tội đặc biệt nào đó chống lại ai. Nghĩa là đời sống người lãnh đạo sẽ không bị lời buộc tội đặc biệt nào rằng người ấy đã vi phạm Lời Chúa. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa ông ta là con người toàn hảo! Mà muốn nói rằng tất cả mọi việc đều ổn thoả, không hề có những rắc rối, chẳng hạn như những mối xung đột và những vấn đề thuộc quá khứ chưa được giải quyết dứt khoát. Sau đó, Phao-lô đã nói thêm “Và người đó lại phải được người ngoại làm chứng tốt cho, kẻo bị sỉ nhục và mắc bẫy ma quỷ” (3:7). Các nhà lãnh đạo thuộc linh cần phải có một chứng cớ, một nếp sống nhất quán trước sau như một giữa vòng những người ngoại đạo cũng như những tín hữu.
Một người bạn đồng lao của tôi trong chức vụ đã mất khả năng lãnh đạo vì ông mang nợ đầm đìa. Ông vướng vào những chuyện lôi thôi về tiền bạc đến nỗi uy tín và thanh danh của ông bị huỷ hoại giữa vòng cộng đồng và Hội thánh của ông đã chịu tổn thất nặng nề qua sự việc ấy.
Sự trưởng thành và tạo được thanh danh cần phải mất thời gian. Bạn không thể một sớm một chiều trở nên một nhà lãnh đạo được? Hãy nhẫn nại khi mọi người khác có dịp theo dõi, quan sát bạn lúc bạn lớn lên và phục vụ trong Thân Thể Đấng Christ. Sự lãnh đạo thuộc linh không có chỗ cho người mới trở lại đạo.
Đời Sống Hôn Nhân Ảnh Hưởng
Đến Sự Lãnh Đạo Của Bạn
Con người thật của bạn trong gia đình là bằng chứng cho thấy bạn có xứng hợp với vai trò lãnh đạo hay là không. Người biết rõ chúng ta nhất chính là những kẻ sống với chúng ta hằng ngày. 3:2 minh định rằng người lãnh đạo dứt khoát phải là “chồng của một vợ” (xem thêm câu 12). Có đủ mọi thứ quan điểm luận về nhóm từ này, gồm cả những vấn đề như đa thê, ly dị và tái giá. Theo nguyên ngữ, nhóm từ này nghĩa là: “Một người đàn ông có duy nhất một người đàn bà”. Theo chỗ tôi hiểu thì nhóm từ này có nghĩa là sự chung thuỷ vô điều kiện! Không nên để cho người khác có chút nghi ngờ gì về sự trung thành và tình yêu của bạn đối với người bạn đời của mình!
Vợ tôi là người bạn chí thiết của tôi. Bất kể bà biết rõ con người tôi ra sao, bà vẫn yêu thương tôi và tình yêu của chúng tôi ngày càng thắm thiết qua nhiều năm tháng sống chung trong nghĩa phu phụ. Cả hai chúng tôi đều tạ ơn Chúa về điều đó. Vợ tôi hẳn không nhận thấy rõ bằng tôi rằng đời sống và tình yêu của bà thật quan trọng đối với chức vụ chăn bầy của tôi.
Nếu thiếu sự đồng hành và sự nâng đỡ đằm thắm của bà, hẳn sự lãnh đạo của tôi phải mất mát điều gì đó chẳng sai. Bà luôn luôn có mặt ở đó. Tôi thích trở về mái ấm gia đình. Tôi chưa biết được mọi niềm vui thoả chúng ta sẽ được hưởng trên nước Thiên đàng ra sao, nhưng hẳn tình yêu vợ chồng giữa hai chúng tôi cũng không khác các phước hạnh đó bao nhiêu đâu! Nói thế không có nghĩa chúng tôi không gặp phải những vấn đề như bao nhiêu người khác, chúng tôi gặp quá đi chứ! Nhưng cả hai chúng tôi đều thấu hiểu tầm quan trọng của sự tận tuỵ vì nhau và đồng hành bên nhau trong tương quan với công tác lãnh đạo thuộc linh.
Những tấn thảm kịch trong hôn nhân bao giờ cũng khó mà chấp nhận được, nhất là khi chúng lại xảy ra với các nhà lãnh đạo thuộc linh. Chúng ta ai nấy đều biết rõ những trường hợp điển hình đã từng làm chúng ta đau lòng. Có lẽ chúng ta sẽ tự làm ơn cho mình nếu chúng ta cương quyết đòi hỏi một chứng cớ hùng hồn hơn về sự chung thuỷ phu phụ trong đời sống của những kẻ chúng ta chọn lựa vào vai trò lãnh đạo thay vì chỉ đơn thuần nhắm vào sự kiện họ đã kết hôn hoặc giả họ chưa bao giờ ly dị.
Sự tận tuỵ và tình yêu của người lãnh đạo đối với kẻ phối ngẫu của ông ta bày tỏ được nhiều điều về cung cách ông ta lãnh đạo kẻ khác. Nếu tình yêu mạnh mẽ không hiển lộ qua cuộc sống hôn nhân thì chắc nó cũng sẽ vắng bóng trong các mối quan hệ của người lãnh đạo với những kẻ chung quanh ông. Nếu ông ta hay chỉ trích, chê bai vợ mình, hẳn rồi ông ta cũng sẽ chỉ trích những người cùng làm việc với ông và chịu sự chăn bầy của ông mà thôi. Vâng, đúng vậy, đời sống hôn nhân của bạn quả có ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của bạn!
Con Cái Của Bạn Có Hưởng Ứng
Sự Lãnh Đạo Của Bạn Không?
3:4, 5 cho thấy một người không thể nào thực sự chăm sóc được Hội thánh nếu ông ta không chăm sóc được chính con cái mình. Nhưng điều đó có ý nghĩa gì? Có phải cha mẹ phải gánh trách nhiệm về tội lỗi của con cái mình không? Exe Ed 18:20 nói rõ là không. Cha mẹ có trách nhiệm quản lý con cái mình, nhưng thậm chí dưới sự chăm sóc chu đáo nhất của cha mẹ, cũng vẫn có một số con cái nổi loạn (bạn biết đấy, chúng cũng có một bản chất tội lỗi mà) và làm đau lòng cha mẹ chúng. Tuy nhiên, các đức tính lãnh đạo thường được biểu lộ qua cách một người ứng xử với con cái mình.
ITi1Tm 3:4 dùng từ “quản lý”, nghĩa đen chính là “đứng trước” những người khác. Nó ám chỉ một người lãnh đạo biết động viên và thách thức kẻ khác. Nó cũng đề cập đến việc huấn luyện và dạy dỗ. Nói cách khác, theo đoạn sách này, người lãnh đạo thuộc linh phải có tấm lòng của một người cha, ông ta phải giữ con cái mình biết vâng phục đàng hoàng đâu ra đấy, ông phải có được đức nghiêm chính trong tâm trí và mục đích, ông bình tĩnh, quả quyết và kiên định - sự kiểm soát của ông không giống như một nhà độc tài chỉ biết la hét con cái. Ông quản trị chúng với thái độ đàng hoàng, tự chủ.
Mỗi khi tôi nổi giận về việc làm của con cái, tôi thường bị dày vò trong tâm linh với cảm giác rằng tôi thật không xứng đáng với chức lãnh đạo! Điều này thường chi phối tôi ngay vào thời điểm sửa trị con cái. Quỷ dữ muốn tôi ngừng tay nhưng tôi biết kỷ luật là cần thiết và nó chứng tỏ tình thương của tôi đối với con cái mình.
Người lãnh đạo bất an sẽ tạo bất an cho những người khác . Nếu ông ta run rẩy trước áp lực ,
những người khác cũng rơi vào tình trạng như vậy .
Nhưng những cố gắng kỷ luật con cái cũng có thể cho thấy một số vấn đề. Đôi lúc chúng ta nổi giận chẳng vì lý do gì khác hơn là sự thuận lợi cá nhân. Con cái bạn có thể thuận phục bạn vì sợ hãi chớ không vì tôn trọng hay yêu thương. Tôi cho rằng một mức độ kính sợ nào đó là cần thiết, nhưng đôi khi cũng cần một giới hạn rõ ràng giữa cái sợ thích hợp và không thích hợp.
ChCn 13:24 chép: “Người nào kiêng roi vọt ghét con trai mình, song ai thương con ắt cần lo sửa trị nó”. Nhưng mặt khác, Eph Ep 6:4 lại chép: “Hỡi các người làm cha, chớ chọc cho con cái mình giận dữ, hãy dùng sự sửa phạt khuyên bảo của Chúa mà nuôi nấng chúng nó”. Thật chúng ta phải cần đến sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời biết bao!
Theo chỗ tôi cảm nhận, đời sống gia đình của một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của ông ta căn bản là ở chỗ ông ta cư xử với họ ra sao trong các tình huống khác nhau. Ông ta có áp dụng kỷ luật những khi cần thiết không? Nếu ông ta không, thế có nghĩa là ông thiếu can đảm hoặc thiếu hiểu biết trong việc áp dụng sự răn dạy của Kinh Thánh đối với các tín hữu không bước đi cùng Chúa. Ông có nói chuyện với con cái mình không? Chúng có cảm thấy thoải mái tự nhiên khi nói chuyện với ông không? Điều này rõ ràng có ảnh hưởng đến sự thông công của ông với các tín hữu dưới quyền lãnh đạo của ông. Ông có bày tỏ tình yêu thương đối với con cái, dành thời gian sinh hoạt với chúng, cùng chúng làm việc này, việc nọ hay không? Nếu ông thiếu sót những điều này, rất có thể ông cũng sẽ hành động giống như vậy trong các mối quan hệ với những người khác. Xin nhắc lại, việc chăm sóc gia đình bạn là tối cần thiết để bạn có thể chăm sóc cho các tín hữu khác.
Bạn Cảm Nhận Về Bản Thân Mình Ra Sao?
Hai nét đặc trưng được đề cập tới trong ITi1Tm 3:1-16 có liên quan đến thái độ và cách ứng xử của bạn đối với chính bản thân và chính các khả năng của mình.
1. Một nhà lãnh đạo cần phải tiết độ . Người tiết độ tỉnh táo và bình tĩnh trong việc nhận xét, rõ ràng tách bạch trong nếp suy nghĩ và trù hoạch. Ông là con người vững vàng và không phản ứng thái quá đối với mọi tình huống, không bị áp đảo, bối rối hoặc dao động. Một nhà lãnh đạo bản thân bị dao động hẳn sẽ khiến mọi người khác dao động theo. Nếu ông ta bối rối nao núng dưới áp lực thì mọi người khác cũng sẽ như vậy.
Tôi bắt đầu xem đây như một đặc tính quan trọng của thuật lãnh đạo khi tôi đương đầu với một tình huống khó khăn và hỏi: “Chúng ta sẽ phải làm gì đây?”. Một người cộng tác hỏi, “Chúng ta à? Ông là người lãnh đạo mà!” Bất giác tôi thoắt nhận ra ý nghĩa của sự tiết độ. Khi bản thân đối mặt với tình huống đó, tôi cảm thấy nao núng, dao động và thắc mắc không biết chúng tôi phải xoay sở ra sao đây. Một nhà lãnh đạo phải biết bình tĩnh và suy nghĩ sự việc theo quan điểm của Chúa chứ không phải của con người.
2. Một nhà lãnh đạo cần phải cẩn trọng . Một người cẩn trọng có tinh thần khiêm tốn và sáng suốt trong việc đánh giá các khả năng và tài trí của bản thân mình. Có hai thái cực cần phải tránh khi ta chiêm nghiệm về phẩm chất này. Thái cực thứ nhất đó là khi những Cơ-đốc nhân xem mình chẳng ra gì. Họ nghĩ mình là thứ rơm rác vô giá trị. Họ quên điều mà Đức Chúa Trời nhìn thấy. Ngài biết tội lỗi và sự yếu đuối của chúng ta, nhưng Ngài cũng thấy giá trị và chỗ xứng đáng của chúng ta nữa - chính vì thế nên Ngài đã cứu chuộc chúng ta! Chúng ta có giá trị đối với Chúa, và chúng ta thuộc về Ngài! Ngài muốn chúng ta tôn vinh Ngài trong những thân thể mà Ngài đã chuộc (xem ICo1Cr 6:19, 20). Một nhà lãnh đạo cẩn trọng là người biết rằng ông có giá trị vì những điều Đức Chúa Trời đã làm trong đời sống ông, và vì những điều Ngài còn có thể làm trong những ngày sắp tới nữa.
Thái cực thứ hai là khi các Cơ-đốc nhân xem mình quá cao trọng. Họ không cần biết tới ân sủng của Đức Chúa Trời và bắt đầu khoe khoang về khả năng và tài trí của bản thân. Thật đáng buồn biết bao khi sự kiêu căng và thói xem mình làm trọng chiếm hữu đời sống của một nhà lãnh đạo thuộc linh!
Một ngày kia tôi ngồi trong văn phòng của một nhà lãnh đạo Hội thánh, chiêm ngưỡng nhiều thành quả trong đời sống và chức vụ của ông. Khi tôi hỏi: “Theo ông những thành quả ông đạt được là do đâu?” ông ta bắt đầu thuyết cho tôi nghe những là do trình độ học vấn, tài năng, cách giao tiếp với quần chúng, sự quán xuyến trong công việc, v.v.. Tôi không nghe chút gì về ân sủng và quyền năng của Chúa cả.
Một nhà lãnh đạo tiết độ và cẩn trọng sắp xếp, tổ chức mọi việc đâu vào đấy. Ông hiểu rằng đằng sau những khả năng, tài trí của ông chính là ân sủng của Chúa. Ông bình tĩnh khi gặp khủng hoảng và biết nhìn việc đó theo ý chỉ của Đức Chúa Trời Chí cao.
Bạn Ứng Xử Với Các Tình Huống Ra Sao?
Mọi sự đều thay đổi. Không có gì mãi nguyên như cũ. Ngày nay mọi sự thay đổi còn nhanh chóng hơn bao giờ hết. Sự thay đổi gây áp lực trên chúng ta. Trong ITi1Tm 3:2 Phao-lô nhắc đến một phẩm chất gọi là “khả kính”. Đây là một từ gốc Hi-lạp có nghĩa là “vũ trụ” (cosmos trong Anh ngữ). Từ Anh ngữ “cosmetics” (mỹ phẩm) xuất phát từ chữ đó và có nghĩa là sự xếp đặt, bày biện các thứ trên khuôn mặt!
Vậy một nhà lãnh đạo khả kính đúnglà người khéo sắp xếp chỉnh tề. Tâm trí ông ổn định và ông không hề cảm thấy bị tràn ngập dưới các áp lực và các tình huống của cuộc sống. Ông lớn mạnh, thịnh vượng nhờ chúng. Ông không hề trốn tránh trách nhiệm mà ngược lại sẵn sàng đối mặt với chúng thẳng thừng.
Bàn làm việc của một nhà lãnh đạo thường phản ánh thuật lãnh đạo của ông. (Chà, nhận định này quả có hơi đụng chạm đây!). Theo tôi nếu bàn làm việc của bạn ngổn ngang trăm thứ thì cũng tốt thôi nếu như mọi thứ bạn cần bạn đều biết chúng đang nằm ở đâu. Tuy nhiên, theo tôi tình trạng bừa bộn như thế sẽ là lời kết án bạn đấy! Tôi thấy rằng một bàn làm việc sạch sẽ gọn gàng vào cuối ngày chính là dấu ấn của nghệ thuật lãnh đạo tốt. Đừng trì hoãn công việc - hãy giải quyết ngay hôm nay, nếu được. Như thế bạn sẽ ngủ ngon hơn!
Các Nhà Lãnh Đạo Ứng Xử Với Mọi Người Ra Sao?
Trong ITi1Tm 3:2, 3 đề nghị năm chữ cho thái độ ứng xử của các nhà lãnh đạo đối với mọi người. Năm chữ đó là: hiếu khách, có khả năng dạy dỗ, mềm mại hoà nhã, không hung hăng, không gây gỗ.
Hiếu khách có nghĩa là quý chuộng khách và người lạ - tại nơi làm việc cũng như ở nhà. Hiếu khách là muốn nói tới một người cởi mở với mọi người, ao ước được phục vụ chăm sóc họ cách nào đó. Những nhà lãnh đạo lạnh lùng, xa cách không trở thành những nhà lãnh đạo thuộc linh tốt được. Chúng ta cần phải nồng hậu và thân thiện với tất cả mọi người.
Mới đây tôi được nhắc nhở về điều này khi một người bảo tôi rằng ông ta thực sự thích dạy học, chỉ có lũ học sinh là khiến ông chán ngán!
Có khả năng dạy dỗ là muốn nói đến cung cách chúng ta giao tiếp.
Bạn không thể trở thành một nhà lãnh đạo
thuộc linh nếu bạn không ngừng tranh cãi
với người khác , khư khư bảo vệ
đường lối và quyền hạn của riêng mình .
Từ này chỉ được dùng đến có một lần nữa trong Kinh Thánh ở IITi 2Tm 2:24. Nội dung từ đó cho thấy rất rõ đây là phẩm chất của một người biết bày tỏ Lời của Đức Chúa Trời một cách đầy yêu thương, nhẫn nại, khách quan và không răn đe. Cách tốt nhất để nhận diện được đặc tính này chính là khi những người khác bất đồng với bạn. Nếu như bạn nhẩy bổ đến bên họ, kết án họ hoặc quan điểm của họ một cách đầy ác cảm (dĩ nhiên là dùng những từ ngữ thuộc linh thôi!), thế có nghĩa là bạn không thể hiện được khả năng dạy dỗ. Chính bản thân bạn đã khó có thể dạy dỗ được rồi! Mọi người đều là thầy của chúng ta cả (thậm chí cả khi chúng ta học điều gì ta chớ nên làm!). Bao giờ chúng ta cũng phải nhẫn nại và đầy tình yêu thương.
Mềm mại, hoà nhã là đối cực của nóng nẩy, bẩn gắt. Nó muốn nói đến một con người nhẫn nại, chịu đựng. Một mẫu người sẵn lòng nhường nhịn kẻ khác. Hãy tự hỏi bạn câu này: “Lần chót ta thuận theo ý kiến hay quan điểm của người khác là lúc nào vậy?” Có phải bạn luôn luôn đúng không?
Người hung hăng là kẻ đánh đập người khác vì mất tự chủ. Người này có tính khí giận dữ, thích bạo lực. Không có chỗ cho loại người này trong sự lãnh đạo thuộc linh.
Chúng ta cần phải yêu cầu người lãnh đạo của chúng rời khỏi chức vụ chăn dắt nếu ông ta đã hơn một lần đánh đập vợ mình. Thoạt tiên hẳn ông ta sẽ bào chữa rất gắt khi đối chất với chúng ta (thường là một dấu hiệu phạm tội), nhưng khi biết chúng ta đã nắm rõ các sự kiện, ông ta sẽ phải nhìn nhận rằng mình đã đánh mất quyền lãnh đạo.
Không gây gỗ - làm sao bạn có thể làm người lãnh đạo thuộc linh nếu bạn không ngừng tranh cãi với người khác, không ngừng đòi đi theo ý riêng và bảo vệ quyền hạn riêng tư của bạn. Một số người trong chúng ta thường cư xử như vậy đối với các vấn đề cũng như đối với mọi người. Chúng ta cứ khư khư bám lấy một lập trường mà người khác xem là thứ yếu và chẳng có gì quan trọng. Chúng ta tranh chấp vì những điều vô giá trị ngoại trừ dưới mắt chúng ta. Một người lãnh đạo thuộc linh biết khi nào cần phải nhường nhịn và khi nào cần phải bảo vệ cái đúng.
Tất cả những nét đặc trưng này ảnh hưởng đến các mối quan hệ của chúng ta với mọi người cũng như với khả năng phục vụ trong tư cách một người lãnh đạo thuộc linh. Hẳn cũng có những lúc yếu đuối bạn thiếu sót một trong những phẩm chất ấy, nhưng vấn đề nằm ở chỗ chúng có phải là những nề nếp trong đời sống bạn mà mọi người đều có thể quan sát được không.
Những Thói Quen Xấu Có Thể Hủy Hoại
Sự Nghiệp Lãnh Đạo Của Bạn
Hai thói quen xấu người lãnh đạo cần phải tránh được nêu ra trong ITi1Tm 3:1-16. Hẳn Đức Chúa Trời đã không nêu chúng ra nếu chúng không phải là những vấn đề nghiêm trọng và quan yếu.
Một nhà lãnh đạo thuộc linh không được nghiện rượu . Đoạn Kinh Thánh này muốn nói ông ta không được “kề cận” rượu chè. Có thể đoạn sách muốn nói đến một người say sưa, nhưng theo Kinh Thánh thói say rượu luôn luôn là một tội lỗi. Cũng có thể đoạn sách ám chỉ một kẻ lân la đến bên rượu chè những khi ông ta cảm thấy có nhu cầu mượn rượu để giải quyết các vấn đề hay để tiêu sầu giải muộn. Một người lãnh đạo thuộc linh phải đặt niềm tin nơi Đức Chúa Trời và phải biết đương đầu với các vấn đề của mình, chứ không phải chạy trốn chúng.
Núp dưới chiêu bài tự do của Cơ-đốc giáo nhiều tín đồ ngày nay cứ uống rượu thoải mái. Họ mượn Kinh Thánh để biện minh cho thói mê rượu chè tí tỉnh của mình. Dù sao, rượu cũng đã từng được sử dụng qua những thời kỳ trong Kinh Thánh mà. Nó là thức uống của người Đông phương nữa. Chỗ tế nhị của toàn bộ vấn đề này đó là từ ngữ chỉ “rượu” ở đây có thể được áp dụng với rượu ở các giai đoạn lên men khác nhau. Một số câu Kinh Thánh (chẳng hạn như ChCn 23:29-35) đã lên án việc sử dụng rượu ở một số giai đoạn lên men nào đó.
Không phải lờ đi việc sử dụng rượu như một thứ thuốc (xem ITi1Tm 5:23) hoặc không phải không xét đến các tình huống đặc biệt khi chúng ta phải đối mặt với việc hành xử quyền tự do của Cơ-đốc nhân (xem ICo1Cr 10:27), nhưng ta hãy cứ tự hỏi mình câu hỏi căn bản có quan hệ đặc biệt đến sự lãnh đạo thuộc linh này: “Tại sao bạn lại muốn dự phần vào một điều đáng nghi ngờ, có thể gây thắc mắc?” Là một người tin kính, há bạn không có toàn quyền tránh làm những việc mà kẻ khác có thể làm để công việc phụng sự Chúa của bạn có kết quả hơn hay sao?
Người lãnh đạo thuộc linh cần phải sống “không chỗ trách được”. Có lẽ bạn đủ khả năng sống được một cuộc sống như vậy mà cũng có thể không. Nhưng sự nghiệp lãnh đạo của bạn phải chiếm ưu tiên cao hơn các ham muốn cá nhân. Tại sao lại sa đà, miệt mài (dù chỉ rất thỉnh thoảng) vào một điều có thể gây vấp phạm chứ?
Tôi có hỏi một viên chấp sự mắc thói rượu chè thuộc Hội thánh chúng tôi rằng ông ta sẽ nghĩ sao nếu thỉnh thoảng tôi cũng uống rượu. Ông ta đáp rằng ông sẽ đánh dấu hỏi ngay về tư cách lãnh đạo của một mục sư nơi tôi chứ còn sao nữa. Thật là tiền hậu bất nhất! Ông ta sống theo một tiêu chuẩn nước đôi. Ông muốn làm một người lãnh đạo thuộc linh như mục sư của mình, nhưng những ham muốn cá nhân lại cản trở ông. Ông kết luận rằng với tư cách một chấp sự thì chẳng sao, nhưng đối với mục sư thì không được! Thậm chí ông còn việc dẫn cả Kinh Thánh để bênh vực cho quan điểm của mình, nêu rõ các chấp sự không được uống “nhiều rượu” (ITi1Tm 3:8) với hàm ý ông uống một, hai lần thì có vấn đề gì đâu.
Người chấp sự này là một thiết hữu của tôi, và đến khi gút lại toàn bộ vấn đề, ông đã nhận rõ rằng thói ham mê rượu chè của mình đã là vật cản đối với ông trên tiến trình dẫn đến sự lãnh đạo thuộc linh. Ông quyết tâm bỏ rượu. Kể từ đó tôi nhận thấy có sự khác biệt lớn lao trong cung cách tận hiến của ông đối với Đấng Christ. Có thể đối với bạn đây chỉ là một việc nhỏ, nhưng quả nó có ảnh hưởng rõ rệt đối với chức vụ lãnh đạo của chúng ta chẳng sai.
Thói xấu thứ hai là lòng yêu tiền bạc . Người không nhiễm thói xấu này không có tham vọng làm giàu, của cải vật chất không gây ấn tượng gì với ông. Tiền bạc không ảnh hưởng đến các quyết định của ông. Ông thoả lòng trong lãnh vực này (xem 6:6-10) và hiểu rõ những mối thương tâm cùng những vấn đề lớn lao có thể xảy đến trong đời một kẻ bị thói ham của cải chi phối.
Một người bạn đồng lao của tôi đã đánh mất sự lãnh đạo thuộc linh vì thói ham tiền bạc cùng những thứ tiền bạc mua được. “Vật dụng” đã trở nên quan trọng hơn con người trong đời ông. Bao giờ ông cũng muốn một chiếc xe đẹp hơn, một ngôi nhà bề thế hơn và đồng lương cao hơn. Lắm lúc nói chuyện với ông mà phát ngượng vì câu chuyện của ông chỉ xoay quanh những điều đó. Tôi chẳng chút ngạc nhiên nào khi ông ta rời bỏ chức vụ.
Nhận biết một người lãnh đạo thuộc linh là trách nhiệm của dân sự Chúa. Tín đồ cần phải thận trọng khi lựa chọn các nhà lãnh đạo. Các tiêu chuẩn của Lời Đức Chúa Trời cần phải được tuân thủ nghiêm chỉnh. Bao giờ cũng phải xét đời sống của một con người qua thời gian - chớ bao giờ quyết định theo hứng khởi nhất thời. Hãy tìm kiếm những nề nếp, chứ không phải tìm những giây phút yếu đuối. Trên hết mọi sự, hãy cầu xin sự khôn ngoan và dẫn dắt của Chúa.
BẢNG XÉT MÌNH CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Trong tâm hồn bạn có luôn nung nấu mối khao khát được lãnh đạo không? Hãy mô tả niềm khao khát đó trong một đôi câu.
2. Bạn có phải là một tín đồ mới không?
3. Bạn có chung thuỷ, tận tuỵ với người phối ngẫu của bạn không? Hãy bày tỏ các cảm tưởng của bạn.
4. Con cái bạn có hưởng ứng sự lãnh đạo của bạn không? Tại sao có hoặc tại sao không?
5. Gặp những tình huống khó khăn, bạn có vững vàng không? Hãy nhớ lại vài thí dụ mới đây.
6. Bạn có khiêm tốn trong việc đánh giá tài năng và năng khiếu của bạn không?
7. Bạn có để cho các tình huống trấn áp đè bẹp bạn không?
8. Bạn nhẫn nại với mọi người hay bạn nổi nóng với họ? Liệt kê những người chọc giận bạn và cố tìm hiểu lý do. Bạn có thể thay đổi phương pháp ra sao?
9. Bạn có nhường nhịn kẻ khác hay bạn bắt buộc phải luôn luôn đúng?
10. Bạn có sẵn sàng từ bỏ những điều gây vấp phạm để có thể lãnh đạo không? Liệt kê một số thú tiêu khiển, sự việc v.v...bạn đã từ bỏ hoặc sẵn sàng từ bỏ.

BẠN CÓ ĐÁNG TIN CẬY KHÔNG?
Nhiều năm trước đây, một tạp chí doanh thương kể câu chuyện một nhà quản trị doanh nghiệp tại Luân-đôn mua một chiếc xe Rolls Royce mới. Ông dự định đi nghỉ mát tại Châu Âu, nên đã đặt hãng chế tạo giao chiếc xe mới đến Paris cho ông. Sau khi nhận xe, ông bắt đầu cuộc hành trình, lái xe xuyên qua vùng thôn dã của nước Pháp. Tại một con đường vắng, lạ lùng thay chiếc xe mới của ông bỗng dưng chết máy. Sau khi gọi điện thoại cho công ty xe ở nước Anh, ông được họ căn dặn hãy tìm chỗ trọ (phí tổn do họ trả) rồi họ sẽ phái ngay một thợ máy đến xem xét.
Khi người thợ máy đến, chiếc xe được sửa xong trong vòng có mấy tiếng đồng hồ và nhà quản trị này lại tiếp tục hành trình. Sau khi vòng quanh Châu Âu trong mấy tuần lễ, ông bắt đầu lo lắng về phí tổn sửa xe mà ông nghĩ sẽ không ít tiền. Trở về nước Anh, ông gọi cho công ty xe hỏi về phí tổn bảo trì này, và được họ phúc đáp bằng thư như sau:
“Theo các hồ sơ lưu trữ của công ty chúng tôi, chưa hề có một trục trặc nào xảy ra cho một chiếc xe Rolls Royce. Sẽ không có phí tổn nào cả!”
Thật tuyệt diệu biết bao khi được biết đến các nhà lãnh đạo thuộc linh có cuộc sống và chức vụ “chưa hề có một trục trặc nào xảy ra”.
Kể từ những biến cố Watergate, Việt-nam, những vụ tai tiếng trên truyền hình giữa vòng các nhà lãnh đạo thuộc linh, sự tham nhũng trong giới chính trị, cùng những thảm hoạ và sự lường gạt tài chánh ở Wall Street và ở những định chế ngân hàng hàng đầu trong nước, người dân Mỹ đã đâm ra hoài nghi và do dự trong việc yểm trợ hoặc tuân theo các nhà lãnh đạo của chúng ta. Chúng ta đánh dấu hỏi về tính xác thực và tính khả tín của các nhà chức trách, và cùng với sự nổi dậy của thói sùng bái cá nhân, chúng ta thường nổi loạn và bất tuân mệnh lệnh của những kẻ đang nắm vai trò lãnh đạo.
Có Ai Không Chút Tì Vết Về Mặt Đạo Đức Không?
Khi bàn về sự bại hoại của loài người, Kinh Thánh dạy rằng tất cả chúng ta đều là tội nhân (Thi Tv 51:5; RoRm 3:10, 12, 23) và không ai trong chúng ta được gọi là tốt lành trước mặt Đức Chúa Trời. ChCn 20:9 hỏi: “Ai có thể nói ‘Ta đã luyện sạch lòng mình, ta đã trong sạch tội ta rồi’?”. Rõ ràng là...chẳng một ai hết! TrGv 7:20 nói thêm: “Thật, chẳng có người công bình ở trên đất làm điều thiện mà chẳng hề phạm tội”.
Qua IGi1Ga 1:6-10 chúng ta được cảnh cáo rằng thật chẳng thể nào chối bỏ được sự hiện diện của tội lỗi hoặc sự phạm tội trong đời sống của chúng ta cả. Đó là một thực tế mà mỗi tín đồ trưởng thành đều hiểu là vẫn còn tồn tại cho đến ngày Chúa Giê-xu Christ tái lâm, tức là khi chúng ta nhận lãnh những thân thể vinh hiển. Chỉ khi đó tội lỗi mới được cất khỏi chúng ta vĩnh viễn.
Nhưng Phúc Âm của Chúa Giê-xu Christ đã giải phóng chúng ta khỏi sự đoán phạt và quyền năng của tội lỗi. Vị trí của chúng ta trong Đấng Christ đã xưng chúng ta là công chính trước mặt Đức Chúa Trời, toàn hảo dưới mắt Ngài vì cớ sự chết và sự sống lại của Giê-xu Christ, Chúa chúng ta. Ngài đã trả hết nợ tội của chúng ta - quá khứ, hiện tại và tương lai. Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Đấng Christ (RoRm 8:1) và chúng ta không còn vướng trong hệ lụy, xiềng xích của tội lỗi nữa (6:1-23).
Các nhà lãnh đạo thuộc linh cần biết rằng các tín đồ có thể sống thánh thiện và công chính ngay trong cõi thế gian hiện tại. Chúng ta cũng bị áp lực giống như mọi người khác cả từ bên trong lẫn bên ngoài. Nhưng qua sự tể trị của Đức Thánh Linh (GaGl 5:16) và qua quyền năng tẩy sạch của Lời Đức Chúa Trời (Thi Tv 119:9, 11) chúng ta có thể chiến thắng các sự ham muốn và cám dỗ của tội lỗi.
Chúng Ta Có Thể Sống Thánh Thiện
Trong Thời Buổi Khó Khăn Này Không?
Chúa Giê-xu đã phán: xảy ra trong những ngày đến, sẽ có hiện tượng “tội ác” gia tăng (Mat Mt 24:12). Các tiêu chuẩn đạo đức sẽ sụp đổ và sự yêu mến Chúa của phần nhiều người sẽ nguội dần. Sứ đồ Phao-lô đã viết những lời này trong bức thư chót của ông trước khi chết:
Hãy biết rằng trong ngày sốt, sẽ có những thời kỳ khó khăn. Vì người ta đều tư kỷ, tham tiền, khoe khoang, xấc xược, hay nói xấu, nghịch cha mẹ bội bạc, không tin kính, vô tình, khó hoà thuận, hay phao vu, không tiết độ, dữ tợn, thù người lành, lường thầy phản bạn, hay nóng giận, lên mình kiêu ngạo, ưa thích sự vui chơi hơn là yêu mến Đức Chúa Trời, bề ngoài giữ điều nhân đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhơn đức đó. Những kẻ thể ấy, con hãy lánh xa đi (IITi 2Tm 3:1-5).
Thật là một đoạn văn mô tả thật đúng thời đại của chúng ta - “yêu bản thân", "yêu tiền bạc” và “yêu khoái lạc”.
Theo Đuổi Sự Thuần Khiết Về Mặt Đạo Đức.
Xã hội thế tục của chúng ta hiện đang bị thống trị bởi một tình trạng thiếu vắng các giá trị đạo đức. Chủ thuyết trung dung trong vấn đề đạo đức của chúng ta đã đưa chúng ta đến tình trạng đạo lý đảo điên! Việc tự do muốn gì làm nấy đã sản sinh ra một xã hội yếu đuối và bệnh hoạn ở đó đời sống con người không còn được tôn kính, và những giá trị tính dục đã bị giảm xuống mức chỉ còn là ham muốn thú tính.
Kinh Thánh dạy rằng chúng ta ai nấy đều có ham muốn tính dục, và ở một số người sự ham muốn đó mạnh mẽ hơn những người khác. Những kẻ có sự ham muốn tính dục mạnh mẽ đều được thúc giục nên lập gia đình và không nên tìm kiếm sự thoả mãn tính dục ngoài hôn nhân (ICo1Cr 7:1-9).
Nền văn hoá của chúng ta đầy dẫy sự cám dỗ, kích thích, các sự rù quến, ám chỉ mang tính nhục dục. Các kiểu quảng cáo, tiếp thị của chúng ta đề cao nhục cảm như một động cơ quan trọng để thúc đẩy việc đầu tư tài chánh cũng như khuyến khích thiên hạ mua sắm. Thật chẳng còn biết trốn đâu cho thoát. Lắm lúc ta có cảm tưởng như thể chống lại những gì mà xã hội ngày nay chấp nhận thì thật là luống công thôi. Vì sự yếu đuối và tầm thường của mình, chúng ta có thể đâm ra lưỡng lự khi đối mặt với hành vi tội lỗi, trong khi biết rất rõ rằng mối hiểm hoạ về đạo đức suy đồi đang rình rập trong chính thâm tâm chúng ta.
Nhưng chúng ta đâu có bắt buộc phải thoả hiệp. Chúng ta có thể khước bác hành vi tội lỗi. Có lẽ sự thử rèn mạnh mẽ nhất đối với uy tín và sự chính trực của một nhà lãnh đạo thuộc linh chính là dũng khí biết nói “không” với những gì sai trái và hư hoại.
Phải Chăng Sự Thuần Khiết Về Mặt Đạo Đức
Là Điều Cần Phải Có Đối Với Giới Lãnh Đạo Thuộc Linh?
Đối với những người thế tục, nội những từ “thuần khiết về mặt đạo đức” cũng đã là một chuyện viễn mơ không tưởng của những kẻ mang đậm nét công chính riêng từng phản ánh những giá trị của thời xa xưa hơn là những giá trị đạo đức ngày nay. Ngày nay con người đặt ra những quy luật, chứ không phải Đức Chúa Trời. Chính chúng ta quyết định ai đúng, ai sai. Miễn điều chúng ta làm không hại ai, thì được rồi, có sao đâu? Đó chính là cách người ta thông đạt các giá trị và đạo đức trong các cơ chế giáo dục và xã hội của nền văn hoá chúng ta ngày nay.
Các nhà lãnh đạo thuộc linh trưởng thành (và tất cả quý vị này đều cần phải trưởng thành) đều ý thức rất rõ về sự suy đồi của nhân tâm ngày nay. Họ hiểu rất rõ là thật dễ mà phạm tội chống lại Chúa cùng những tiêu chuẩn của Ngài. Ý thức về sự bất lực thuộc linh của mình trước những sự suy đồi và cám dỗ đã khiến họ nương cậy vào quyền năng của Đức Chúa Trời hơn là nhờ cậy sức riêng của họ.
Ngay cả khi họ có thể phạm tội (và phạm tội nữa), họ cũng không tiếp tục biện bạch, chống chế hay dung thứ những hành vi như thế nơi
Không một nhà lãnh đạo thuộc linh nào
làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời
nếu họ liên hệ vào tình dục vô đạo đức .
chính bản thân họ hay nơi người khác. Họ cảm tạ sự tha thứ, ân sủng và tình yêu thương của Đức Chúa Trời, và tìm cách thể hiện những ân tứ kỳ diệu này cho những kẻ đang bị quấy động và khuynh loát bởi sự cám dỗ và hành vi tội lỗi.
Kinh Thánh Hướng Dẫn về Sự Thuần Khiết.
Sự thuần khiết về mặt đạo đức là phẩm chất của một nhà lãnh đạo thuộc linh giúp cho vị đó không tiếp tục lao theo một hành vi tội lỗi nào đó. Ta hãy kê cứu các sự kiện sau đây trong Kinh Thánh:
1. Sự thuần khiết về mặt đạo đức là một đòi hỏi đối với các nhà lãnh đạo Hội thánh.
Trong các tiêu chuẩn nêu ra trong ITi1Tm 3:2, 12 và trong Tit Tt 1:6 sứ đồ Phao-lô đòi hỏi các nhà lãnh đạo Hội thánh phải là “chồng của một vợ”. Dù ly dị cũng có thể ảnh hưởng đến tiêu chuẩn này, nhưng điều nhấn mạnh hàng đầu ở đây là sự thuần khiết về mặt đạo đức. Người Hy-lạp nói: “người đàn ông chỉ có một người đàn bà”. Sự kiện đơn giản là vô luận sự cám dỗ do người khác đem đến hay dục vọng mạnh mẽ mà người này cảm thấy đối với một người khác, thì một nhà lãnh đạo thánh khiết phải biết nói không đối với việc rời bỏ vợ mình để theo đuổi người khác, phải biết nói không đối với chuyện quan hệ tính dục với bất cứ ai khác ngoài vợ mình.
2. Sự thuần khiết về mặt đạo đức là nền tảng của sự khôn ngoan thật.
Chúng ta ai nấy đều mong muốn các nhà lãnh đạo Hội thánh của mình phải là những con người khôn ngoan, nhưng theo Gia Gc 3:17 thì sự khôn ngoan đến từ Đức Chúa Trời “trước hết là thuần khiết”. Sau khi sự thuần khiết đã đâm rễ vững nền, các đặc tính khác của sự khôn ngoan sẽ được thể hiện nơi đời sống người ấy. ChCn 29:2 chép “Khi người công bình thêm nhiều lên, thì dân sự vui mừng; nhưng khi kẻ ác cai trị, dân sự lại rên siết”. Chúng ta thực sự cần đến các nhà lãnh đạo thuộc linh biểu thị được một nếp sống thánh thiện và thể hiện rõ nét sự thuần khiết về mặt đạo đức.
3. Sự thuần khiết về mặt đạo đức là ý muốn của Đức Chúa Trời.
Một trong những minh thị rõ nét nhất về ý chỉ của Đức Chúa Trời có thể tìm thấy trong ITe1Tx 4:1-8 và điều này bàn về sự thuần khiết đạo đức:
“Vả lại, hỡi anh em, anh em đã học nơi chúng tôi phải ăn ở cách nào cho đẹp ý Đức Chúa Trời, và điều đó anh em đã làm rồi, thì chúng tôi nhơn Đức Chúa Giê-xu xin và cầu anh em phải đi luôn theo đường ấy càng ngày càng tới. Anh em biết rõ chúng tôi đã bởi Đức Chúa Giê-xu mà truyền cho anh em những điều răn nào. Vì ý muốn Đức Chúa Trời, ấy là khiến anh em nên thánh: tức là phải lánh sự ô uế, mỗi người phải biết giữ thân mình cho thánh sạch và tôn trọng, chẳng bao giờ sa vào tình dục luông tuồng như người ngoại đạo, là kẻ không nhìn biết Đức Chúa Trời. Chứ có ai phỉnh phờ anh em mình, hay là làm hại anh em bất kỳ việc gì, vì Chúa là Đấng báo oán những sự đó, như chúng tôi đã nói trước cùng anh em và đã làm chứng. Bởi chưng Đức Chúa Trời chẳng gọi chúng ta đến sự ô uế, bèn là sự nên thánh vậy. Cho nên ai khinh bỏ điều chúng tôi nói, thì không phải khinh bỏ người ta đâu, bèn là khinh bỏ Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban Thánh Linh của Ngài trong anh em”.
Thật là một sự thẩm định minh bạch và mạnh mẽ về ý chỉ của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã gọi chúng ta đến sự nên thánh (IPhi 1Pr 1:14-16). Thân thể chúng ta đã trở nên đền thờ của Đức Thánh Linh (ICo1Cr 6:15-20) và chúng ta không được làm ô uế chúng bằng thói dâm dục. Ham muốn tính dục là một quà tặng của Đức Chúa Trời (7:7) và phải được thoả mãn trong giềng mối hôn nhân (7:1-2). Không một nhà lãnh đạo thuộc linh nào làm theo ý chỉ của Đức Chúa Trời trong đời sống họ nếu họ liên hệ vào tình dục vô đạo đức.
4. Sự thuần khiết về mặt đạo đức là sự tận hiến của một người muốn tôn vinh danh Chúa trong đời sống mình.
6:18-20 đã đưa ra lời cảnh báo mạnh mẽ về sự thuần khiết như sau:
“Hãy tránh sự dâm dục. Mặt dù người ta phạm tội gì, tội ấy còn là ngoài thân thể; nhưng kẻ buông mình vào sự dâm dục, thì phạm đến chính thân thể mình. Anh em há chẳng biết rằng thân thể mình là đền thờ của Đức Thánh Linh đang ngự trong anh em, là Đấng mà anh em đã nhận bởi Đức Chúa Trời, và anh em chẳng phải thuộc về chính mình sao? Vì chưng anh em đã được chuộc bằng giá cao rồi. Vậy hãy lấy thân thể mình làm sáng danh Đức Chúa Trời”.
Sự dâm dục không làm sáng danh Đức Chúa Trời. Đó là một tội lỗi không những xúc phạm đến bản chất tình cảm của con người mà còn xúc phạm đến thân thể nữa. Bệnh phong tình và sự bất lực là những hậu quả của sự dâm dục vô đạo đức. Sự ham muốn mạnh mẽ và đầy hứng khởi chỉ có thể được thúc giục bởi một đời sống tính dục thuần khiết.
5. Sự thuần khiết về mặt đạo đức là kết quả của một người vâng theo Lời Chúa.
Thi Tv 119:9-11 nói rất rõ điều này:
“Người trẻ tuổi phải làm sao cho đường lối mình được trong sạch? Phải cẩn thận theo Lời Chúa. Tôi hết lòng tìm cầu Chúa. Chớ để tôi lạc các điều răn Chúa. Tôi đã giấu Lời Chúa trong lòng tôi, để tôi không phạm cùng Chúa”.
RoRm 6:17-19 cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Lời Chúa trong sự giải phóng người tín đồ thoát khỏi ảnh hưởng và sự kiềm toả của tội lỗi:
“Nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời, vì sau khi anh em làm tôi mọi tội lỗi, thì đã từ lòng vâng phục đạo lý là sự đã ban làm mực thước cho mình. Vậy anh em đã được buông tha khỏi tội lỗi, trở nên tôi mọi của sự công bình rồi. Tôi nói theo cách loài người, vì xác thịt của anh em là yếu đuối. Vậy anh em từng đặt chi thể mình làm tôi sự ô uế gian ác đặng phạm tội ác thể nào, thì bây giờ hãy đặt chi thể mình làm tôi sự công bình đặng làm nên thánh cũng thể ấy”.
GaGl 5:16 căn dặn chúng ta hãy “bước đi theo Thánh Linh” và chớ hề làm trọn những điều ưa muốn của xác thịt. Sự tuân phục từng bước một theo Thánh Linh là một đời sống tuân phục theo những gì Kinh Thánh đã chỉ dạy là đúng hay sai. Chúng ta không tạo ra luật lệ, bèn là chính Chúa.
6. Sự thuần khiết về mặt đạo đức là chìa khoá dẫn đến sự lãnh đạo xuất sắc và hiệu năng.
Trong IITi 2Tm 2:19-22 sứ đồ Phao-lô đã căn dặn người con thiêng liêng của ông là Ti-mô-thê trong sứ mạng chăn dắt Hội thánh và những tiêu chuẩn ông ta nên theo để lựa chọn các nhà lãnh đạo khác, Phao-lô viết:
“Tuy vậy, nền vững bền của Đức Chúa Trời đã đặt vẫn còn nguyên, có mấy lời như ấn đóng rằng: Chúa biết kẻ thuộc về Ngài; lại rằng: Phàm người kêu cầu danh Chúa thì phải tránh sự gian ác. Trong một nhà lớn, không những có bình vàng bình bạc mà thôi, cũng có cái bằng gỗ bằng đất nữa, thứ thì dùng việc sang, thứ thì dùng việc hèn. Vậy, ai giữ mình cho khỏi những điều ô uế đó thì sẽ như cái bình quý trọng, làm của thánh, có ích cho chủ mình và sẵn sàng cho mọi việc lành. Cũng hãy tránh khỏi tình dục trai trẻ, mà tìm những điều công bình, đức tin, yêu thương, hoà thuận với kẻ lấy lòng tinh sạch kêu cầu Chúa”.
Sự Thánh Khiết của Nhà Lãnh Đạo.
Còn có thể sử dụng những từ nào để mô tả sự phục vụ hữu hiệu của một nhà lãnh đạo thuộc linh đẹp đỡ hơn là “một cái bình quan trọng, làm của thánh, có ích cho chủ mình và sẵn sàng cho mọi việc lành”. Mệnh lệnh rõ ràng trong câu 22 “Hãy tránh khỏi tình dục trai trẻ” chỉ rõ sự bất khiết gây trở ngại lớn lao cho hiệu năng phục vụ của người đầy tớ Chúa hơn bất cứ điều gì khác.
Sự thánh khiết trong đời sống một nhà lãnh đạo thuộc linh là phần cốt tuỷ của đức chính trực và uy tín nơi ông. Bản tánh của chúng ta là điều bày tỏ trước mặt Đức Chúa Trời, còn thanh danh của chúng ta chỉ là điều thiên hạ nghĩ về chúng ta đấy thôi. Bản tánh của chúng ta được nhìn thấy rõ nhất trong chốn bí nhiệm khi không một ai khác biết chúng ta nghĩ gì, nói gì hoặc làm gì. Chính lúc ấy chúng ta mới khám phá ra ý nghĩa của sự chính trực bản thân, không phải là thứ chính trực do ý kiến đánh giá của kẻ khác, bèn là đức chính trực có ý thức sâu sắc rằng nó xứng đáng với Chúa.
John là một nhà lãnh đạo đầy tài năng và ân tứ. Ông có khả năng thúc đẩy kẻ khác hành động và nhờ cậy nơi Chúa trong các việc trọng đại. Nhưng John mắc phải một vấn đề. Sự ham mê tình dục đã lôi cuốn ông đến với các sách báo, phim ảnh khiêu dâm, và sau nhiều tháng miệt mài, ông đã đi đến chỗ tình dục vô đạo đức. Ông không chịu giải quyết vấn đề này và cũng không tìm kiếm sự giúp đỡ ở ai hết. Ông cố che chắn, biện bạch và bênh vực cho các hành động của mình. Ông cho rằng những người khác cũng gặp những vấn đề tương tự nên thế nào họ cũng sẽ hiểu thôi. Điều ông không nhận ra được đó là người khác chẳng những hiểu, nhưng họ còn không hiểu tại sao một người lãnh đạo thuộc linh lại không chịu ăn năn.
Sau khi những thiết hữu của John đối mặt với ông, kiên trì thuyết phục ông hãy xưng tội mình và từ bỏ tội lỗi đó, thì John đã đánh mất quyền lãnh đạo. Ngày nay ông đã thất bại và nhục nhã. Ông đã làm chứng rằng vấn đề nằm ở chỗ chúng ta khước từ sự ăn năn và xưng tội mình trước mặt Đức Chúa Trời.
Dù chúng ta ai nấy đều cảm thông với chỗ yếu đuối và bất toàn của John (bởi chính chúng ta cũng bất toàn), nhưng chúng ta không thể chấp nhận hay dung thứ cho tập quán cùng lối sống của ông. May mắn thay, đời sống của ông đã được biến đổi, và hiện nay ông đã chứng tỏ được lòng trung tín đối với Chúa và với gia đình ông. Tuy nhiên, ông sẽ chẳng bao giờ nắm lại được chức vụ lãnh đạo thuộc linh mà đã có lần ông từng trải. Thật là một cái giá quá đắt phải trả cho một thú vui phù phiếm.
Sự Cần Thiết Phải Trung Tín
Người lãnh đạo đáng tin cậy chính là người trung tín chẳng những trên phương diện thánh khiết và chung thuỷ, mà còn trong mọi lãnh vực của đời sống. Phao-lô viết:
“Vậy, ai nấy hãy coi chúng tôi như đầy tớ của Đấng Christ, và kẻ quản trị những sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời. Vả lại, điều người ta trông mong nơi người quản trị là phải trung thành” (ICo1Cr 4:1, 2).
Ti-chi-cơ được sứ đồ Phao-lô gọi là “người anh em rất yêu dấu của chúng ta, là tôi tớ trung thành của Chúa” (Eph Ep 6:21). Trong CoCl 4:7 sứ đồ Phao-lô lại nhắc đến ông này lần nữa, gọi là “anh em rất yêu của chúng tôi, một người tôi tớ trung thành của Chúa và bạn cùng làm việc với tôi”. Ê-pháp-ra được gọi là “bạn đồng sự thiết nghĩa với chúng tôi; người giúp đỡ chúng tôi như một kẻ giúp việc trung thành của Đấng Christ” (1:7). Ô-nê-sim được mô tả là “người anh em trung tín và rất yêu của chúng tôi” (4:9).
Trong ITi1Tm 1:12 Phao-lô đã đề cập đến chính mình khi ông viết: “Ta cảm tạ Đấng ban thêm sức cho ta, là Đức Chúa Giê-xu Christ, chúng ta, về sự Ngài đã xét ta là trung thành, lập ta là kẻ giúp việc”. Một lần nữa, ông nhắc nhở chúng ta hết thảy về nét căn bản của sự sống lại của thân thể chúng ta trong tương lai: “Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng, chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu” (ICo1Cr 15:58).
Trong việc đào tạo và phát triển các nhà lãnh đạo, Phao-lô đã dặn Ti-mô-thê phải “giao phó cho những người trung thành” những điều ông đã thấy và đã học để họ cũng có thể dạy dỗ những kẻ khác nữa (IITi 2Tm 2:2).
Sự trung tín vượt qua mọi thử thách là điều tối cần thiết trong đời sống của những nhà lãnh đạo thuộc linh. Chúng ta cần những con người nam cũng như nữ - đáng tin cậy, những người tỏ ra trung tín trong mọi vấn đề của cuộc sống và đức tin. HeDt 13:7 đã nói rất rõ điều này khi khuyên dạy các tín hữu: “Hãy nhớ những người dẫn dắt mình, đã truyền đạo Đức Chúa Trời cho mình. Hãy nghĩ xem sự cuối cùng của đời họ là thể nào, và học hỏi đức tin họ”.
Các tín đồ phải thận trọng đánh giá cách sống của các nhà lãnh đạo thuộc linh. Họ có thực hành những điều họ rao giảng không? Hành vi của họ có khớp với những lời họ tuyên xưng trước mặt mọi người không? Cầu Chúa ban cho tất cả chúng ta sự khôn ngoan trong bước đường tìm kiếm để gặp được và noi theo các nhà lãnh đạo thuộc linh chân chính, những kẻ chúng ta có thể nương cậy nơi sự chăn dắt của họ giữa cõi đời nghèo đói phần tâm linh mà chúng ta đang sống này.
BẢNG XÉT MÌNH CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Có thể nào đạt đến sự thánh sạch đạo đức không?
2. Chúng ta có những phương cách nào để duy trì được một nếp sống thánh thiện?
3. Theo bạn thì những từ “chồng của một vợ” có ý nghĩa như thế nào? Và tại sao bạn lại nghĩ như vậy?
4. Làm thế nào một nhà lãnh đạo có thể khôn ngoan trong các quyết định ông ta (hay bà ta) thực hiện?
5. Ý chỉ của Chúa đối với các nhà lãnh đạo là thế nào?
6. Lập một danh sách những điều cám dỗ các bạn dễ vi phạm Lời Chúa nhất, rồi ghi những biện pháp bạn định thực hiện để đối phó chúng.
7. Sự trung tín có ý nghĩa đối với bạn như thế nào, và theo bạn những người khác có cảm nghĩ ra sao về điều ấy?
8. Ngoài sự chung thuỷ trong hôn nhân và trong lãnh vực đạo đức, muốn đạt đến sự trung tín cần có thêm những yếu tố nào nữa?
9. Các tín hữu trong Hội thánh của bạn phản ứng ra sao trước những vụ tai tiếng có liên quan đến các nhà truyền giảng Phúc Âm trên hệ thống truyền hình? Có thể rút ra được những bài học gì từ những thảm trạng này?
BẠN PHẢI GIAO THIỆP VỚI TẤT CẢ MỌI NGƯỜI!
Có một “thông báo nội bộ” mà tôi đã gởi đi. Nó rất đơn sơ - chỉ toàn là các sự kiện. Chúng tôi định tổ chức vài ngày nghỉ cho tất cả mọi người ở Palm Springs. Tôi đã cố gắng vạch rõ thật chi tiết về địa điểm, chi phí, thì giờ, v.v.. và Hội thánh sẽ đài thọ một phần chi phí cho tất cả mọi người. Nhưng một lần nữa, tôi học hỏi được rằng những thông báo nội bộ như thế có thể gây bối rối và thậm chí chọc tức thiên hạ nữa. Việc một thông báo nội bộ như thế bị nhiều người hiểu lầm, dẫn tới hậu quả là nhiều cú điện thoại gọi đến và nhiều cuộc đàm thoại riêng làm hao tốn nhiều giờ để giải thích các chi tiết, mà đáng lẽ đã phải rất rõ ràng ngay trong bản thông báo kia rồi.
Truyền Đạt: Một Việc Cần Thiết
Chứ Không Phải Là Một Xa Xỉ Phẩm
Truyền đạt là tên của trò chơi! Nó không phải là một việc để ta có thể chọn làm hay không, cũng không phải là một sáng tạo mà ta có thể thay đổi, cách thực hiện nó rất thiết yếu cho công tác lãnh đạo thành công. Công tác lãnh đạo không thể hiện hữu nếu thiếu vắng truyền thông.
Truyền đạt không phải chỉ là tài nói mà thôi. Nó không phải chỉ đơn giản là nói đúng lời, đúng lúc. Bạn có thể làm tất cả những điều đó mà
Lãnh đạo mà không chú ý đến tầm quan trọng
của việc truyền đạt , là tự làm hại mình
vẫn chưa thể gọi đó là truyền đạt được. Người khác thường đọc “tinh thần” (thái độ) của bạn nhiều hơn là môi miệng bạn. Dường như họ muốn “điều nghiên” cách nói của bạn để khám phá xem tại sao bạn lại nói như thế, hay điều bạn nói đó có tầm quan trọng như thế nào.
Cách người ta đáp lại điều bạn truyền đạt cho họ, thường là chiếc phong vũ biểu để đo mức thành công của bạn trong công tác truyền thông. Nếu bạn biết truyền thông đúng cách, bạn có thể trông mong được thấy các kết quả của nó. Những kết quả này vốn đã phải có sẵn trong tâm trí bạn, trước khi bạn bắt đầu công việc truyền thông. Nó không xảy ra nhờ bạn nói nhiều. Một số nhà lãnh đạo tưởng rằng hễ mình nói nhiều thì người khác sẽ lãnh hội được bức thông điệp mà mình muốn truyền đạt. TrGv 5:7 chép: “Đâu nhiều lời quá, đó cũng có sự hư không nhiều”.
Chúng ta truyền thông với nhau bằng lời nói, hoặc không cần lời nói. Ngay cả một cái liếc mắt hoặc một biểu lộ trên gương mặt cũng đã truyền thông được rất nhiều điều cho người khác rồi. Có lẽ bạn sẽ bảo rằng truyền thông là cả một tiến trình liên tục của đời sống; cuộc sống không thể vận hành được nếu không có truyền thông. Hằng ngày, chúng ta truyền thông với nhau bằng nhiều cách kể cả tốt lẫn xấu. Lãnh đạo mà không chú ý đến tầm quan trọng của việc truyền đạt, cảm thông, là tự làm hại mình.
Tổ chức càng lớn, thì vấn đề truyền thông với mọi người càng phải được lưu tâm. Phần đông người ta chỉ tạo thêm nhiều rắc rối cho tiến trình truyền thông. Nhưng nếu tất cả những người cùng dấn thân tham gia bất luận một công tác hay dự án nào, thì mỗi người đều cần phải nhận được sự truyền thông về những gì họ phải làm, phải hoàn tất thế nào và khi nào phải hoàn thành.
Quán Triệt Các Cấp Bậc Truyền Thông
Để giải quyết vấn đề truyền thông cho một số đông người, các tổ chức đã thiết kế nhiều cấp bậc truyền thông hay trách nhiệm. Nếu là một người khôn ngoan, vị lãnh tụ chính sẽ giao trách nhiệm cho nhiều cấp lãnh đạo (hay quản lý) khác để truyền đạt cho những người trong khu vực trách nhiệm của mình. Có thể nghĩ đến một số cấp bậc cần thiết nào đó để có thể giới hạn số người mà một người phải tiếp xúc với.
Nếu có 40 người cùng dấn thân tham gia một công tác nào đó, và họ muốn giới hạn số người mà một người sẽ tiếp xúc là ba người mà thôi, thì sẽ phải có bao nhiêu cấp bậc truyền thông? (Phải chăng bạn vốn là người thích những câu đố nát óc?). Câu giải đáp: chỉ ba cấp bậc. Một lãnh tụ chỉ truyền đạt cho ba vị khác trên cấp bậc thứ nhất (tổng cộng là 4); ba vị lãnh đạo kia mỗi người sẽ truyền đạt cho ba người (tổng số là 9); chín người này mỗi người sẽ truyền đạt cho ba người (tổng cộng 27), và như thế (bạn hi vọng) tất cả 40 người đều nhận đựơc bức thông điệp của bạn. Một công tác truyền thông như thế sẽ thành công hơn là nếu chỉ một mình vị lãnh tụ cố tự mình tiếp xúc với tất cả 39 người khác.
Khởi sự từ Đầu.
Công tác truyền thông vốn bắt đầu từ chính Thượng Đế. Đức Chúa Cha đã cảm thông với Đức Chúa Con, Đức Chúa Con cảm thông với Đức Thánh Linh, v.v.. ngay trước khi thế gian này và loài người được tạo dựng. Loài người học sự truyền thông từ Thượng Đế vì Ngài đã truyền thông cho loài người trước tiên. Ngài đã làm việc ấy lần đầu tiên bằng việc Ngài đã làm - sáng tạo vũ trụ này. Thi Tv 19:1-3 nói cho chúng ta biết rằng cả vũ trụ này luôn luôn lên tiếng. Nó truyền thông cho chúng ta về tính cách vĩ đại của Thượng Đế.
Thượng Đế cũng trực tiếp phán dạy loài người bằng nhiều cách (xem HeDt 1:1, 2) và truyền thông bằng sự mặc khải trọn vẹn và cuối cùng trong Thân vị Chúa Cứu Thế Giê-xu. Ngày nay, phương pháp chủ yếu mà Thượng Đế truyền thông cho loài người là thông qua Thánh Kinh.
Vì Đấng truyền thông vĩ đại là chính Thượng Đế, nên thật là một việc làm khôn ngoan nếu người lãnh đạo thuộc linh biết dành thì giờ để học hỏi cách Thượng Đế tiếp xúc với loài người. Sau đây là vài thí dụ để bạn có thể bắt đầu:
. Thượng Đế luôn luôn nói thật, Ngài chẳng bao giờ nói dối.
. Thượng Đế truyền phán cách có quyền, vì Ngài chính là Thượng Đế uy quyền.
. Thượng Đế đã dùng nhiều phương pháp để tiếp xúc với loài người.
. Thượng Đế đã phán bảo thật chi tiết với loài người về những gì Ngài muốn họ làm.
. Thượng Đế phán bảo loài người có thể chờ đợi các hậu quả gì.
. Thượng Đế phán dạy bằng tình yêu thương và lòng nhân từ thương xót.
. Thượng Đế phán dạy loài người tại sao Ngài muốn họ làm theo những gì Ngài đã dạy. Tất cả luôn luôn vì lợi ích của họ và sự vinh hiển của Ngài.
Bảng liệt kê này có thể được kéo dài thêm mãi. Chúng ta có thể học hỏi được rất nhiều về phương pháp giao lưu tiếp xúc và truyền thông truyền đạt của Thượng Đế.
Sự thông công trong việc cầu nguyện.
Một vị lãnh đạo thuộc linh sẽ bị thiệt thòi rất nhiều nếu không từng trải được cấp bậc giao lưu tiếp xúc mà chúng tôi gọi là cầu nguyện - sự giao thông giữa con người với Thượng Đế. Về một phương diện, sự giao thông giữa chúng ta với người khác sẽ bị hạn chế, nếu chúng ta không giao thông với Thượng Đế bằng sự cầu nguyện. Trong phần mô tả công tác của Môi-se, cầu nguyện chiếm vị trí ưu tiên một. Trò chuyện với Thượng Đế vốn quan trọng hơn trò chuyện với bất kỳ một ai khác.
Có nhiều khi phương pháp duy nhất để chúng ta có thể truyền thông cho người khác điều mà chúng ta muốn nói, là sau khi đã cầu nguyện. Có một thí dụ lạ lùng về vấn đề này trong sách Nê-hê-mi. Lúc ấy, ông đang trực diện với vai trò lãnh tụ; tình hình tại Giê-ru-sa-lem đang rất cần một con người như thế (xem NeNe 1:2, 3). Điều đầu tiên mà Nê-hê-mi đã làm, là cầu nguyện (xem 1:4-11). Lúc nhà vua hỏi Nê-hê-mi ông muốn cầu xin gì, thì Nê-hê-mi lại cầu nguyện (xem 2:4). Để sự tiếp xúc có hiệu quả, Nê-hê-mi tìm cầu sự trợ giúp của Thượng Đế. Bạn có làm như thế không?
Nhiều cấp bậc truyền thông khác nữa vốn có giữa vợ chồng, cha mẹ với con cái, giữa bạn bè với nhau, tại nơi phố chợ, qua các đài truyền hình truyền thanh, v.v.. Cuộc sống đầy dẫy những cuộc giao lưu tiếp xúc.
Các cấp lãnh đạo không thể lãnh đạo có hiệu quả nếu không có những cuộc giao lưu tiếp xúc thuộc mọi cấp bậc. Bạn không thể cô lập chính mình đối với những người mà bạn lãnh đạo.
Cá Nhân Và Số Đông
Cấp lãnh đạo thường gặp phải vấn đề làm thế nào để tiếp xúc giữa tập thể và cá nhân. Hoặc là người lãnh đạo tiếp xúc với một tập thể, hoặc là tập thể ấy cố tìm cách tiếp xúc với người lãnh đạo. Tập thể có thể là một tiểu ban gồm ba người, hoặc cũng có thể là một đám đông nhiều ngàn người. Muốn tiếp xúc với một tập thể, có hai vấn đề căn bản. Một là dùng uy quyền cá nhân đối với tập thể, và hai là sử dụng quyền uy của tập thể đối với cá nhân. Đây là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong phần lớn các tổ chức (kể cả các Hội thánh).
Bí quyết: Sự quân bình.
Nếu cá nhân quỵ lụy tập thể (dù đó là tiểu ban, ban trị sự hay toàn thể tổ chức) các vấn đề về giao tiếp truyền thông sẽ gia tăng, cũng như các khó khăn khi muốn linh động uyển chuyển, thay đổi, bổ sung ý kiến v.v.. Nhiều Hội thánh tại Hoa-kỳ đang gặp rắc rối vì vấn đề này. Thay
Tập thể không thể lãnh đạo tốt ; cá nhân mới có người
lãnh đạo giỏi ! Nếu các bạn muốn người nào lãnh đạo ,
hãy giao quyền lãnh đạo cho người ấy . Đừng luôn luôn
nhắc nhở người ấy phải lãnh đạo như thế nào !
vì giao quyền lãnh đạo cho vị mục sư, quyền ấy lại thường ở trong tay một ban trị sự hay một uỷ ban. Lối tổ chức cá biệt này thường cản trở sự tăng trưởng. Một tập thể không thể đưa ra các quyết định nhanh chóng khi có cần, và việc truyền đạt phải trải qua nhiều đợt sàng lọc giữa các quan điểm và ý kiến khác nhau.
Hội thánh chúng ta thường bị chi phối bởi các quan niệm về một ban trị sự gồm nhiều người đại diện cho nhiều chức vụ khác nhau của Hội thánh. Với quan niệm này thì việc truyền thông quả là chậm chạp và tẻ nhạt. Ta phải mất rất nhiều thì giờ để thực hiện công việc. Thẩm quyền được chuyển từ người này sang người khác, nên khi cần thiết thì chẳng ai có quyền quyết định cả.
Sau khi những người đó đã bỏ nhiều thì giờ ra để nghiên cứu Kinh điển rồi, thì họ thay đổi cơ cấu tổ chức, và giao quyền lãnh đạo cho một vài cấp lãnh đạo hoặc vài vị trưởng lão nào đó, chứ không phải là cho một bộ phận đông người hơn là ban trị sự. Chẳng bao lâu, việc phát triển xảy ra theo cách mà người ta chưa hề thấy trước đó.
Tuy nhiên, giao quyền lãnh đạo cho một người duy nhất cũng có thể rất nguy hiểm. Nếu người có trách nhiệm quyết định mà “xấu nết” thì cả tổ chức phải gánh hậu quả. ChCn 29:2 chép: “Khi người công bình thêm nhiều lên thì thiên hạ vui mừng, nhưng khi kẻ ác cai trị, dân sự lại rên siết”. Hơn nữa, nếu vị lãnh tụ ấy không chịu cầu hỏi sự khôn ngoan của những người khác, dù là trong tiểu ban hay ban trị sự, thì tổ chức ấy sẽ không thể thành công. 15:22 nhắc nhở chúng ta: “Nhờ có nhiều mưu sĩ, mưu định bèn được thành”.
Mặt khác, nhiều tổ chức dùng danh nghĩa của Hội thánh vốn được những cá nhân sáng lập, và các vị này sau đó lại bổ nhiệm một ban giám đốc, có trách nhiệm khai trình với họ. Việc làm này tự nó vốn không phải là xấu, nhưng lại trở thành rắc rối khi ban giám đốc trở thành công cụ chủ yếu đưa ra quyết định để thực hiện các mục tiêu của tổ chức.
Tập thể không thể lãnh đạo tốt; cá nhân mới có người lãnh đạo giỏi! Nếu các bạn muốn người nào lãnh đạo, hãy giao quyền lãnh đạo cho người ấy. Đừng luôn luôn nhắc nhở người ấy phải lãnh đạo như thế nào! Nếu các bạn không tin rằng người ấy có đầy đủ phẩm cách để hoàn thành công tác, hãy cách chức người ấy để trao cho một người có thể hoàn thành công tác.
Chữ chìa khoá trong mối liên hệ cá nhân với một tập thể là sự quân bình. Cá nhân phải thừa nhận tầm quan trọng của tập thể về các phương diện ý kiến, gợi ý và góp ý. Tuy quyết định là của một cá nhân đưa ra, phải thừa nhận rằng ý kiến của tập thể đứng đàng sau nó vốn cũng có tầm quan trọng và trọng lượng của nó. Vai trò của tập thể phải là ủng hộ.
Tập thể phải thừa nhận vai trò của cá nhân với cương vị lãnh tụ. Người ấy phải được quyền tự do lãnh đạo. Nếu lãnh tụ được tập thể hay tổ chức bầu chọn cũng là một việc làm khôn ngoan. Như thế, vị lãnh tụ ấy sẽ cảm thấy mình có trách nhiệm và phải khai trình mọi sự với tập thể hoặc tổ chức ấy. Vai trò chủ yếu của tập thể là lợi dụng các công tác phục vụ của người lãnh đạo ấy và hậu thuẫn cho người ấy trong mọi quyết định, mục đích và mục tiêu mà người ấy đang thực hiện.
Thẩm quyền của lãnh tụ.
Nhiều năm trước đây, tôi từng thất vọng vì là lãnh tụ mà lại chẳng có quyền hành động. Tôi cộng tác với một tổ chức đã thuê tôi, nhưng lại chỉ giao cho tôi vai trò thực thi các quyết định của họ mà thôi. Tôi cảm thấy mình bị sa bẫy và rất chán nản. Lúc ấy, tôi đã biết rằng hệ thống của họ sai lầm tại điểm ấy. Sự tăng trưởng và phát triển của tổ chức ấy gặp nhiều trở ngại. Ban Giám đốc đã không trực diện với các vấn đề hằng ngày, mà cũng chẳng thấu hiểu những điều cần thiết.
Làm Thế Nào Để Tiếp Xúc Và Cảm Thông
Với Một Tập Thể.
Sau khi trực diện với nỗi thất vọng làm lãnh tụ mà không được tự do lãnh đạo, tôi nhận định có một số nguyên tắc ảnh hưởng đến việc tiếp xúc giữa cá nhân với tập thể.
. Xác định tầm quan trọng của từng cá nhân trong tập thể ấy trong mối liên hệ với điều mà bạn muốn truyền đạt.
. Đừng tỏ thái độ trịch thượng đối với tập thể (trong cách bạn nói, chỗ bạn ngồi, cách ăn mặc của bạn và cách bạn chào họ). Là một thành viên trong ban quản trị một hệ thống phát triển giáo dục, tôi nhận thấy vị chủ tịch hội đồng quản trị thường tự điều chỉnh cách ăn mặc của mình cho giống với các thành viên khác. Ông thường bắt đầu mặc com-lê và thắt cà vạt. Nếu các thành viên khác trong ban quản trị đi làm mà không có áo ngoài, ông cởi áo ngoài của mình ra. Nếu họ mặc áo sơ mi thể thao, ông cởi luôn áo ngoài và cả cà vạt. Ông vốn là một lãnh tụ khôn ngoan. Ông muốn tự hòa mình vào trong tập thể mà ông phải luôn tiếp xúc.
. Duy trì sự tiếp xúc bằng mắt với từng thành viên của tập thể nếu có thể được. Nếu bạn không làm như thế, họ sẽ ngạc nhiên tự hỏi tại sao!
. Học tập sử dụng các đại từ theo số nhiều , “chúng tôi” và “của chúng tôi”, thay vì các đại từ số ít, “tôi”, “của tôi”. Có một vị lãnh đạo từng khiến cho tôi và các thành viên khác trong ban quản trị nơi chúng tôi làm việc phát cáu vì ông ta cứ luôn luôn nói về chính mình. Theo điều ông ta nghĩ, thì chúng tôi hoàn toàn không cần thiết. Rút cục, ông đã phải gặp vấn đề về “Cái Tôi”!
. Đặt câu hỏi với các thành viên khác trong nhóm , chứng tỏ bạn cần sự giúp đỡ và hậu thuẫn của họ. Cách bạn nêu câu hỏi cũng rất quan trọng. Thay vì nói: “Chắc anh đồng ý với những gì tôi vừa nói chứ? Có phải như thế không?” hãy thử câu này: “Anh X này, anh nghĩ thế nào về việc ấy?” Hoặc “Theo ý bạn, thì đây có phải là cách giải quyết khôn ngoan không?” Hay “Theo ý bạn, thì ta có cách nào hay hơn để làm việc ấy không?”.
. Cho các thành viên trong nhóm được tự do phát biểu các sáng kiến và ý kiến khác ta . Bạn không thể thật sự làm việc này nếu bạn trách cứ họ về những gì họ phát biểu, hay nếu vị trí của họ trong tổ chức hoặc mối liên hệ giữa bạn với họ ở cương vị lãnh đạo có nguy cơ bị đe doạ. Có thể nào những người khác bất đồng ý kiến với bạn, nhưng vẫn còn là bạn thân của bạn hay không?
. Tập nhận lỗi của mình trước tập thể và thật lòng xin lỗi khi công việc gặp trở ngại, hay không tiến hành đúng theo điều bạn mong đợi. Có một trong những việc khó khăn nhất mà tôi tự bắt buộc mình phải làm ở cương vị lãnh đạo là nhận mình có lỗi (nhất là khi đó là một lỗi nặng!)
Tôi thường nghĩ rằng thừa nhận mình thất bại là một dấu hiệu của sự yếu kém. Sự việc có thể là như thế, nếu bạn cứ luôn luôn thất bại! Nhưng nhận lỗi giữa lúc mình thành công là bí quyết của người lãnh đạo giỏi. Hãy tập tỏ ra cởi mở và thành thật trước mặt người khác. Họ sẽ yêu mến bạn vì việc ấy (hoặc ít ra cũng ngạc nhiên để hoàn toàn nhất trí với bạn)
. Đừng bao giờ đổ lỗi cho tập thể vì tổ chức gặp thất bại . Hãy nhận phần lỗi về mình (dù sao thì bạn cũng là người lãnh đạo - suy cho cùng thì đó quả thật là lỗi của bạn). Có lần một vị mục sư nọ bảo với tôi rằng vấn đề đích thực trong Hội thánh của ông là các chấp sự của ông. Họ là lý do khiến cho Hội thánh của ông không tăng trưởng. Bao lâu vị ấy còn bảo thủ quan điểm ấy, Hội thánh của ông ta sẽ cứ trì trệ, cứng đọng.
Vấn đề nằm ngay trong trái tim của vị mục sư ấy. Thay vì chấp nhận sự quy trách nhiệm cho sự thất bại của Hội Thánh trong lãnh vực tăng trưởng về mình, ông đã phạm vào “lỗi sơ xuất của Freud” là đỗ lỗi cho người khác (một dấu hiệu chắc chắn cho thấy bạn đang có mặc cảm phạm lỗi về một điều gì đó).
. Trong những nhóm nhỏ , nên gọi mọi người bằng tên tộc của họ trừ phi họ là những người cao tuổi hơn bạn nhiều hay có chức vị cao hơn. Trong các tập thể đông người, cần tế nhị, thận trọng, nhất là khi bạn chưa biết rõ lắm về người kia. Trong giao tiếp không gọi đúng tên người đối diện là điều đặc biệt đáng trách và tai hại.
Ngày nọ, tôi thủ vai cố vấn cho một người bạn lâu năm và rất tin tưởng tôi. Giữa một câu nói hết sức quan trọng, tôi lại gọi ông ta bằng tên của một người khác. Tôi không thể tin được là mình đã làm như thế! Quả thật là tôi chưa bao giờ cảm thấy bối rối như lúc đó! Chính lúc ấy, ông ta cảm thấy là tôi đã chẳng quan tâm gì tới ông ta với tư cách một con người. Mọi người chúng ta đều thích nghe một ai đó gọi tên mình.
. Nên bắt đầu và kết thúc bằng lời cầu nguyện . Phải luôn luôn chứng tỏ mình tin cậy và lệ thuộc liên tục vào Thượng Đế. Một tập thể sẽ đáp lại với một cá nhân thuận lợi hơn nếu cá nhân ấy bắt đầu cuộc đối thoại bằng lời cầu nguyện. Trong lời cầu nguyện mở đầu, nên cầu xin Chúa ban cho mình sự khôn ngoan và hướng dẫn mình. Trong lời cầu nguyện kết thúc, dâng lên lời cảm tạ và ca tụng Chúa, bất chấp kết quả có như thế nào.
Nghệ Thuật Đối Đầu
Một trong nhiều hình thức khó trong giao tiếp, là khi cả một tập thể phải đối đầu với một cá nhân. Điều này thỉnh thoảng vẫn xảy ra trong sinh hoạt của một Hội thánh, khi có những cá nhân phải đối đầu với hai hoặc ba người, một tiểu ban, hay với ban trị sự (xem Mat Mt 8:15-17), hoặc khi có những vấn đề về tổ chức. Sau đây là vài gợi ý hữu ích để giải quyết vấn đề này.
. Trong khi sắp xếp chỗ ngồi , đừng cô lập người ấy đối với toàn nhóm . Tôi chẳng bao giờ cảm thấy thích thú khi bị đặt ngồi một mình ở một đầu bàn, trong khi nhiều người khác ngồi ở đầu bàn phía bên kia. Nhiều khi người ta lạm dụng cách sắp xếp chỗ ngồi để xác lập uy quyền. Điều này thật ra là không cần thiết. Nó gợi ý về một thứ uy quyền bấp bênh, không có gì bảo đảm cả.
. Nếu có thể được , từng thành viên một trong nhóm nên lợi dụng thì giờ để chào hỏi người kia . Việc làm này sẽ tức khắc tạo ra bầu không khí ấm cúng. Người kia sẽ tán thưởng mối quan tâm của từng thành viên một trong nhóm, khi mỗi người đều đích thân chào hỏi mình.
. Đừng lạm dụng uy quyền của tập thể để áp đảo cá nhân . Thật rất khó truyền thông cách hiệu quả nếu cá nhân tin rằng bạn đang cố gắng áp đảo anh ta bằng sự quan trọng và uy quyền của tập thể. Tôi đã từng trải về vấn đề này một lần khi phải ra trước ban trị sự của một tổ chức truyền giáo. Họ liên tục dùng uy quyền tạo áp lực trên tôi, khiến tôi phân vân tự hỏi chẳng hay quan điểm của mình có được họ lắng nghe hay không. Tôi cảm thấy bị đẩy vào thế phòng ngự và gặp rất nhiều khó khăn để có thể tạo được sự thông cảm.
Tôi nhận thức được rằng chính thái độ của tôi đã tạo thành vấn đề, nhưng cũng nhờ kinh nghiệm đó mà học hỏi được để bây giờ sẽ cố gắng áp dụng nó cho chức vụ của mình. Một tập thể chẳng bao giờ nên tìm cách lạm dụng uy quyền để áp đảo hay tạo áp lực trên một cá nhân.
. Xác lập tầm quan trọng của cá nhân . Tập thể phải làm những gì mình có thể làm được để chứng tỏ mình muốn lắng nghe quan điểm của cá nhân. Họ phải chân thành. Tập thể phải sẵn sàng tỏ thái độ tôn trọng, muốn lắng nghe quan điểm của cá nhân.
Phải thận trọng trong vấn đề biểu lộ một tinh thần chê bai chỉ trích các sáng kiến, các quyết định hay ý kiến của một cá nhân trước khi lắng nghe lập trường của người ấy. Dường như tất cả mọi vấn đề đều có đến ba mặt: quan điểm của riêng bạn, quan điểm của người kia, và sự thật đích thực. Một tinh thần chê bai chỉ trích có thể cắt đứt mọi truyền thông.
. Tìm cách giúp đỡ người kia bằng lời nói của bạn . Cần chuẩn bị tinh thần cho việc này ngay trước khi cuộc bàn cãi bắt đầu. Hãy tự đặt cho mình câu hỏi này: “Tôi có thể nói gì để thật sự giúp ích và xây dựng được cho người ấy?”
. Phải sẵn sàng ủng hộ các ý kiến của người kia , cả khi các ý kiến ấy không khớp đúng với những gì bạn nghĩ, trừ khi những gì được nói ra có một điểm nào đó sai lầm về phương diện đạo đức. Một câu nói nhẹ nhàng như: “Tôi đã không nghĩ ra điều ấy” có thể thật sự khích lệ người kia. Hoặc bạn có thể nói đại khái: “Tôi thật muốn nghe lập trường của bạn trong vấn đế này”. Tất cả mọi người đều thích nghe câu: “Đó quả là một ý kiến hay!” Có thể bạn không nhất trí với ý kiến ấy, nhưng ít ra bạn cũng thừa nhận giá trị của nó.
. Đừng tìm cách truyền đạt một ý kiến cho một cá nhân bằng cách nói với một người khác trong nhóm ; Phải luôn luôn nhìn thẳng vào mắt và nói trực tiếp với người ấy.
. Tìm cách khích lệ cá nhân ấy bằng cách tự đặt mình vào địa vị đơn độc mà người ấy đang cảm thấy . Điều khá thường xảy ra, là tập thể không chịu tán thành lập trường của cá nhân đang trực diện với cả tập thể.
. Bắt đầu và kết thúc bằng lời cầu nguyện
Soát Xét Thật Đầy Đủ
Một trong nhiều vấn đề căn bản trong việc truyền thông là thông tin không thoả đáng. Mọi người đều cần nhận được những gì được truyền đạt, nhưng thường thường thì có một điểm nào đó bị thiếu đi. Hãy tự vấn: “Điều mà tôi truyền đạt đó, có nói rõ phải làm gì, làm như thế nào, và khi nào thì phải làm việc ấy, hay không?” Phải ngắn gọn nhưng đầy đủ: Phải nói thật vắn tắt mà chính xác, nhưng phải chắc chắn là bạn đã nói thật đầy đủ rồi.
Thật là khó mong đợi những gì mà bạn không xem xét kỹ. Trong giao tiếp, việc làm khôn ngoan là nên rà soát lại việc giao tiếp của bạn. Tuy nhiên, phải làm việc ấy thật khéo léo. Đừng để cho người khác nghĩ rằng bạn không tin cậy họ!
Một trong những phương pháp quan trọng nhất để giao tiếp với tất cả mọi người, là nói “xin cám ơn”. Một lời tỏ ý tán thưởng, sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều trong lần giao tiếp sau. Bạn phải đích thân nói riêng với người kia, chứ không phải là nói trước mặt nhiều người khác. Bạn cần cho họ biết rằng không phải bạn tỏ bày sự cảm kích chỉ vì muốn cho những người khác nghĩ tốt về bạn. Một thư “cám ơn” ngắn của bạn có thể đi rất xa để tiến đến chỗ xây dựng sự giao tiếp có hiệu quả.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Bạn có tiếp xúc hằng ngày với Chúa bằng sự cầu nguyện không?
2. Có bao nhiêu cấp bậc giao tiếp trong chức vụ của mình, mà bạn đang cần thực hiện?
3. Bạn có tỏ ra cởi mở với mọi người không? Họ có thể bất đồng ý kiến với bạn mà mối liên hệ giữa họ với bạn chẳng bị ảnh hưởng gì cả, không?
4. Bạn có tán thưởng các quan điểm của người khác không? Bạn làm thế nào để chứng tỏ thái độ đó?
5. Bạn có nhìn thẳng vào mắt người ta và nói trực tiếp với họ không?
6. Bạn có xin lỗi trước mặt nhiều người khác không?
7. Bạn có trút hết những thất bại lên tổ chức của mình không?
8. Bạn có cởi mở với các ý kiến mới không? Bạn có thể thay đổi quan điểm của mình không?
9. Bạn có nói “xin cám ơn” người khác không?

ĐIỀU GÌ KHIẾN CHO NGƯỜI TA CHỊU LẮNG NGHE?
Một sáng Chúa nhật nọ, một người đến với tôi sau bài giảng trước hiện diện của nhiều người khác nữa và bắt đầu chỉ ra điều sai lầm trong bài giảng của tôi. Ông ta không giới thiệu mình và tôi cũng chưa hề thấy ông ta trước đó bao giờ. Ông ta chen vào trong lúc tôi đang trò chuyện với một người khác. Ông ta nói khá to tiếng. Ông ta tỏ ra tức tối và chẳng khoan dung đới với các cảm nghĩ của người khác. Ông ta cứ phê phán mà chẳng chịu lắng nghe các sự kiện. Ông ta hiểu lầm những gì tôi nói (hay chính tôi đã hiểu sai những gì mình đã nói). Ông ta nói sai cả văn phạm. Lúc ấy đã đến giờ ăn trưa, tôi thì đã đói bụng, còn gia đình tôi đang chờ tôi ngoài xe hơi. Thiết tưởng chẳng cần phải nói, chúng tôi đã có vấn đề trong việc truyền thông.
Bất chấp bạn có nói gì hay nói lớn tiếng đến đâu, có một số người chẳng bao giờ chịu nghe. Truyền thông không chỉ có một chiều. Một người nói, nhưng người kia phải nghe. Lắng nghe là một nghệ thuật đã bị nhiều người đánh mất. Phần đông người ta chỉ chờ cho người kia ngưng nói để họ có thể nói. Lắm khi chịu nghe chẳng có gì khác hơn là kiên trì chịu đựng! Cho nên chẳng có chi lạ khi có rất ít truyền thông.
Có lần nọ tôi ngồi trên bục giảng cùng với một nhóm người khả kính để nghe một nhà hùng biện thao thao bất tuyệt suốt hai tiếng đồng hồ cho một lượng cử tọa trên hai ngàn người. Sau đó, một người bạn của tôi nhận xét rằng có thể đặt tên cho diễn giả ấy là “chim tắm”, bởi vì ông ta quá nông cạn! Ông ta chẳng nói gì cả, nhưng ông ta nói thật hay! Rõ ràng là mọi người đều chán nản và tức bực. Dường như ông ta rất say mê giọng nói với số từ vựng của mình. Tôi nghĩ “quả là một thảm kịch!”
Tại Sao Người Ta Không Chịu Nghe
Những điều thường gây trở ngại cho việc truyền thông là gì? Tại sao nhiều lúc người ta không chịu nghe? Vấn đề là gì đây?
Bạn nói quá nhiều.
Đây là một vấn đề khá phổ biến. Chúng ta đều đã gặp những người dường như tin rằng hễ họ nói nhiều thì thiên hạ sẽ hiểu được điều họ muốn nói. Nhưng trong sách Truyền đạo, Sa-lô-môn nói: “Ngươi khá ít lời” (TrGv 5:2), “Nhiều lời thì sanh ra sự ngu dại” (5:3) và “Đâu có...nhiều lời quá, đó cũng có sự hư không nhiều” (5:7).
Nếu có người nói quá nhiều, thì có hai vấn để phải đối phó. Một là vấn đề ghi nhớ, người nghe bạn rất dễ quên một số điều bạn nói vì có quá nhiều điều phải nhớ! Hai là người ta rất dễ chán nản với một lượng từ quá lớn nên tinh thần ngủ gục! (Một số người còn thật sự ngủ gục nữa kia!).
Nhiều người sở dĩ không chịu hài lòng với việc chỉ chia sẻ những điểm quan trọng, bởi vì họ thật lòng tin rằng chính các “chi tiết” mới khiến thiên hạ thích thú. Nên nhớ, bạn có thể tưởng rằng tất cả các chi tiết đều lý thú, nhưng điều đó không có nghĩa rằng sự thật quả đúng như thế, hay sự việc quả đúng như thế đối với người mà bạn đang tiếp xúc với. Phải học tập nói vắn tắt, ngắn gọn và đúng vào vấn đề. Phải cố gắng nêu rõ điều bạn muốn nói ngay trong câu đầu tiên của bạn (việc này có thể giúp bạn tiết kiệm được rất nhiều thì giờ, và cứu bạn thoát khỏi nhiều chuyện rắc rối!).
Bạn chưa nói đủ.
Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm là nhận được một loại thông báo nào đó từ một người không nêu ra đầy đủ các sự kiện, hay nêu rõ đủ các chỉ dẫn để chúng ta có thể thực hiện điều mà người ấy nhắn bảo chúng ta. Gặp trường hợp như thế thì thật đáng chán. Nhiều khi bạn chẳng màng tự trách mình nữa, vì không hiểu hoặc không đọc được những gì viết qua các dòng chữ.
Nếu bạn là một người quan tâm đến những gì mình muốn truyền đạt, bạn phải đặt câu hỏi với những người mà mình đang trò chuyện với, để biết chắc là họ đã nhận được đầy đủ thông tin hay chưa, hầu có thể thực hiện điều mà bạn nhắn nhủ họ làm.
Ngôn ngữ của bạn quá hùng biện.
Chúng ta không chống lại người nói hay, hay dùng đúng chữ trong một câu nào đó. Tuy nhiên ai cũng biết rằng người cố ý dùng tài hùng biện hay lối nói kiểu cách để gây ấn tượng trên người khác, thật ra đang đặt thêm một chướng ngại cho việc truyền thông.
Cố Tiến sĩ Bob Jones, có một câu phát biểu đã trở thành kinh điển về vấn đề này: “Bạn nên nói ‘Tôi có thấy...’ hơn là nói ‘Tôi đã thấy...’, nếu bạn thật sự có thấy việc gì đó, hơn là nói ‘Tôi đã thấy...’ khi bạn đã chẳng thấy gì cả” (“It is better to say ‘I seen it’ than ‘I saw it’ if you really saw something, than to say ‘I saw it’ when you didn’t see it at all!”)
Người lãnh đạo cần xây dựng bài giảng của mình theo trình độ hiểu biết của người nghe. Chẳng những người ấy phải lưu ý đến trình độ học vấn của nhóm thính giả, mà còn phải chú ý đến bối cảnh văn hóa của họ nữa.
Khi chúng ta cố ý trổ tài hùng biện, thiên hạ sẽ bắt đầu tin rằng chúng ta kiêu ngạo và chú ý dùng từ vựng để lòe họ, hơn là thật lòng muốn tiếp xúc với họ.
Bạn có những nhận xét làm hại cho người khác.
Một người có thể lợi dụng uy quyền, kiến thức hay ý kiến của mình để chê bai, bài xích một điều gì đó nhắm gây ấn tượng trên một người khác, nhất là nếu đem điều đó ra để đối chiếu với quan điểm của một người khác. Chúng ta thường dùng nhiều “nhãn hiệu” để thực hiện việc
Thiên hạ dùng đủ thứ mánh khoé để giảm bớt
hiệu quả của một lời nói hay việc làm của
một người nào đó . Đây là một lối lý luận
của kẻ kiêu ngạo và dại dột .
này. Ta có thể nói một người nào đó là “bảo thủ” với hi vọng cắt đứt mọi hậu thuẫn của người khác dành cho người ấy. Ta có thể nói một vấn đề nào đó bị quá nhiều người “phản đối” để tránh đề cập. Ta có thể công kích quan điểm của một ai đó bằng cách nói rằng: “Ối chào, các ông trông mong gì nơi một con người như thế!” Ta thường thắc mắc đặt vấn đề về động cơ thúc đẩy người ấy trước mặt nhiều người khác để làm suy giảm tầm quan trọng của những gì người ấy đã nói. Câu nói có thể là như thế này: “Tôi biết ông ấy nói gì, nhưng nếu các ông biết thật ra tại sao ông ta lại nói như thế, các ông mới biết tại sao nói như thế là sai”.
Thiên hạ dùng đủ thứ mánh khoé để giảm bớt hiệu quả của một lời nói hay việc làm của một người nào đó. Đây là một lối lý luận của kẻ kiêu ngạo và dại dột, vì kẻ làm như thế tưởng rằng mình sẽ được người khác coi trọng hơn nếu mình “hạ bệ” người khác. Eph Ep 4:29 chép “Chớ có một lời dữ nào ra từ miệng anh em; nhưng khi đáng nói hãy nói một vài lời lành giúp ơn cho và có ích lợi cho kẻ nghe đến”. Mong ước của chúng ta phải là gây dựng người khác, chứ không phải là báng bổ, hạ bệ họ.
Bạn hay phóng đại.
Thiên hạ hay phóng đại vì nhiều lý do khác nhau. Có khi chúng ta làm như thế để người khác coi trọng mình hơn điều thật sự mình vốn có. Lần khác, chúng ta làm như thế chỉ để thiên hạ chịu nghe ta và tưởng rằng điều ta đang nói là quan trọng. Lắm lúc chúng ta phóng đại để che giấu một điều gì đó sai trái hay lầm lỗi trong đời sống chúng ta. Rất ít người chịu thừa nhận rằng những sự phóng đại như thế thật ra thường chẳng gì khác hơn là nói dối, hay ít ra cũng là việc cố gắng lừa dối thiên hạ bằng cách bóp méo các sự kiện. Hãy thử lưu ý đến một số phương cách chúng ta dùng thực hiện điều này và nhìn nhận rằng tất cả chúng đều là các chướng ngại cho việc truyền thông của chúng ta.
1. Chúng ta làm cho những việc nhỏ xem ra có vẻ to lớn . Có người gọi trường hợp này là “việc bé xé ra to”. Các mối liên hệ giữa nhiều thành viên trong hội thánh thường bị thương tổn chính là vì vấn đề truyền thông này.
Giả sử có một đứa con ở tuổi thiếu niên của bạn, một đêm nọ không thể về nhà vì ô-tô bị trục trặc tại một thị trấn hay thành phố khác. Chẳng mấy chốc, tin đồn loan ra rằng đứa con thiếu niên của bạn không về nhà vì một hành vi vô đạo đức, khiến thanh danh nó bị tiêu tan vì sự phóng đại cẩu thả về điều đã thật sự xảy ra.
Mọi người chúng ta chắc đều được nghe nhiều thí dụ về những câu chuyện như thế và thấy rõ chúng đã bị thổi phồng lên như thế nào bởi những kẻ thích kể chúng lại cho nhiều người khác. Loại ngồi lê đôi mách không chịu cẩn thận tìm hiểu các sự kiện này vốn nguy hiểm và tai hại. Tình yêu thương chẳng vui về các thảm họa hay vấn đề xảy ra cho người khác, cũng chẳng tìm cách phô bày chúng ra trước mặt người khác. Hơn nữa, khi bạn phạm vào lỗi “chuyện bé xé ra to” bạn bị mất tin cậy đối với mọi người, và việc giao tiếp của bạn sẽ bị ảnh hưởng nặng nề.
2. Chúng ta quá tổng quát hoá vấn đề . Đây là một vấn đề thông thường giữa con người trong lãnh vực giao tiếp, và chúng ta phải nhận ra tính chất nghiêm trọng của nó như thế nào. Quá tổng quát hoá là những câu nói về vật hay người thường có từ “tất cả” hay “hết thảy” trong đó. Thí dụ ta nói: “Tất cả mọi người đều biết điều đó về ông ta...” trong khi “tất cả” chúng ta đều biết đó không phải là sự thật. (Hãy nghĩ xem tôi đã cố dùng từ “tất cả” đó để thuyết phục bạn như thế nào?).
Một thí dụ khác: “Tất cả mọi người đều làm như thế”. Nhiều thanh niên đang bị ảnh hưởng của loại lý luận như thế. Sự thật là tất cả mọi người không có làm như thế. Cách dùng từ “tất cả mọi người” này là một sự phóng đại được thiên hạ dùng để khiến những người khác đồng ý với họ về những gì họ đang nói.
Một thí dụ khác nữa: “Bữa nay, mọi việc đều hư hỏng cả”. Có lẽ một phần lớn các sự việc đều gặp trục trặc theo cách nhìn của bạn, nhưng nhiều người khác có thể không nhận thấy như thế. Chúng ta thường cố buộc người khác chấp nhận quan điểm của mình bằng cách quá tổng quát hoá như thế. Cuối cùng, nó sẽ quay lại làm hại chúng ta khi thiên hạ biết tự mình suy nghĩ lấy, sẽ bắt đầu thắc mắc đặt vấn đề với tính cách đáng tin cậy của chúng ta là những người tiếp xúc để truyền thông tin tức cho họ.
3. Chúng ta đưa ra những câu phát biểu về nhân-quả vô căn cứ . Chúng ta luôn luôn dùng những câu phát biểu như thế (ở đây chính tôi lại quá đáng rồi!), hoặc ít nhất dường như chúng ta rất thường dùng những câu như thế. “Chủ thuyết của Calvin dẫn tới chính thống thuyết chết cứng” hay “Thuyết của Arminius mở đường cho tự do chủ nghĩa”. Cả hai câu phát biểu này đều không đúng về phương diện nhân-quả, tuy cả hai đều có thể đúng trong một số trường hợp.
Hoặc chúng ta nói: “Có khói thì có lửa”, câu nói ngắn ngủi này thường được dùng để chứng minh một điểm liên hệ đến hành động của một người. Nếu người ấy có làm một việc gì đó, tức khắc ta hình dung ra là người ấy sắp làm một việc khác nữa. Đây là một lối lý luận nguy hiểm và tạo ra mối liên hệ xấu về mặt giao lưu tiếp xúc.
“Tất cả những người theo phong trào ân tứ (charismatics) đều là những người đa cảm, dễ xúc động”. Ý muốn nói ở đây là nếu bạn theo phong trào ân tứ (về phương diện thần học) thì bạn sẽ trở thành người đa cảm hơn là nếu bạn không theo phong trào ấy. Tuy nhiên, có rất nhiều người chẳng hề theo phong trào ân tứ nhưng vốn là những con người rất dễ xúc động, còn có nhiều người thuộc phong trào ấy, nhưng dường như lại còn vô cảm, thông thái và tri thức hơn trong các nét đặc trưng về nhân cách của họ. Một lần nữa, việc phóng đại thuyết nhân-quả đã bị nhiều người lạm dụng để chứng minh một điểm mà cá nhân họ tin, nhưng không thể được các sự kiện xác lập.
4. Chúng ta chỉ suy nghĩ theo dạng hoặc thế này - hay thế kia . Với những người sử dụng loại lý luận này, thì mọi sự dường như chỉ có thể là đen hoặc trắng mà thôi. Một sự việc chỉ có thể là đúng hoặc sai. Một người sẽ chỉ có thể hoặc là bạn hoặc là kẻ thù của ta. Vấn đề rắc rối là cuộc đời lại không quá đơn giản như thế. Có những “khu vực màu xám” và những vùng “tranh tối tranh sáng”, ở đó, ta không thể chỉ rút ra những kết luận cứng nhắc và vội vàng như thế.
Ta có thể nói: “Bạn chỉ có thể là một người hoặc theo truyền thống Calvin hoặc truyền thống Arminius thôi - thế bạn thuộc nhóm nào?”. Nếu người kia trả lời: “Vâng, tôi nghĩ mình là một người đứng đâu đó giữa hai truyền thống ấy - như một người Calminian chẳng hạn”, thì chúng ta là những người chỉ thích có trắng hoặc đen mà thôi sẽ chỉ trích và lên án câu trả lời này, và có thể còn tố cáo người kia là “kẻ thỏa hiệp” nữa.
Những ai muốn trở thành người lãnh đạo phải hết sức thận trọng đối với loại thái độ giao tiếp này. Bạn sẽ thuyết phục mọi người quanh mình rằng hoặc là họ phải ủng hộ bạn 100% hoặc là họ phải chống lại bạn 100%. Nhưng sự thật có thể là họ chỉ ủng hộ bạn đến 90% mà thôi, còn trong 10% còn lại, họ không đồng ý với bạn. Một lãnh tụ khôn ngoan phải uyển chuyển với vấn đề hơn là sử dụng những câu nói phóng đại mang tính chất hoặc thế này hay thế kia.
5. Chúng ta sử dụng sai các thống kê . Chắc bạn từng nghe câu nói: “Các biểu đồ không nói dối, nhưng có nhiều kẻ nói dối lợi dụng các biểu đồ”. Nhiều người chúng ta trong khu vực lãnh đạo thuộc linh vốn ý thức quá rõ vấn đề này. Các thống kê thường được người ta dùng để chứng minh cho việc các nỗ lực của họ có được Thượng Đế đại dụng hay không. Tuy nhiên, người ta có thể dễ dàng bóp méo các sự kiện một ít mà khỏi phải nói dối.
Một thí dụ đơn giản là việc sử dụng các đồ thị - nó thực hiện theo lối thẳng đứng hay theo chiều ngang?. Bạn dùng những con số nào trong đồ thị để đối chiếu với các bảng thống kê của mình? Thí dụ: Một đồ thị với sự phân chia thập phân (như 10,20,30,...) có thể cho thấy một sự tăng trưởng lớn hơn là sự phân chia bách phân (như 100,200,300,...).
Rồi khi chúng ta dùng các bảng thống kê, chúng ta cũng thường nói về “con số trung bình”. Nhưng “con số trung bình” là gì? Nó có ý nghĩa gì? Vấn đề thường phải đương đầu đó là những gì không rõ ràng trong các thống kê. Điều quan trọng không phải là những gì chúng ta muốn trình bày mà là những gì chúng ta muốn che đi.
Một Hội thánh có thể lý luận rằng 50% của một lớp học Trường Chúa Nhật nào đó đã tham gia công tác truyền giảng. Như thế thì quá tốt và gây được ấn tượng. Nhưng giả sử lớp học đã được chọn đó lại là lớp có sỉ số học viên nhỏ nhất, và còn có 20 lớp khác có số học viên đông hơn. Và giả sử khi Hội thánh đánh giá chung tất cả các lớp thì sẽ có chưa tới 5% tham gia công tác truyền giảng!
Vấn đề ẩn đằng sau cách dùng các bảng thống kê là lý do tại sao các thông tin ấy lại được phố biến. Nó nhằm mục đích tạo ấn tượng hay cung cấp thông tin? Đó là để tự hào về những gì chúng ta đã thực hiện được hay nhằm sử dụng làm động cơ thúc đẩy để chúng ta hoạt động tốt hơn? Một Hội thánh có thể khẳng định rằng đã có 100 người quyết định ăn năn qui đạo trong năm vừa qua, nhưng lại quên không nhắc đến việc chỉ còn hai trong số đó hiện là thành viên của Hội thánh và đang tăng trưởng trong đức tin mà thôi.
Thật là dễ phóng đại một tình hình bằng cách lợi dụng các bảng thống kê, và các cấp lãnh đạo phải thận trọng trong vấn đề này về những gì có liên quan tới cách truyền thông của họ với mọi ngườiï. Nếu các sự kiện đã bị bóp méo, hay hình ảnh đưa ra không phải là một hình ảnh đầy đủ trọn vẹn, thì tín đồ sẽ bắt đầu thắc mắc đặt vấn đề về các động cơ thúc đẩy của bạn.
Bạn lạm dụng các thẩm quyền.
Một rào cản rất phổ biến đối với việc giao tiếp là cậy vào một thẩm quyền nào đó (chứ không phải là Thượng Đế và Kinh điển) để hậu thuẫn cho những gì chúng ta nói hay quyền ăn nói của chúng ta. Khi chúng ta nghiên cứu các lý do tại sao thiên hạ lại tin một điều gì, chúng ta thường phát giác ra ba nguồn gốc có can dự vào đó: Kinh nghiệm trực tiếp, suy luận căn cứ vào một số sự kiện hay chấp nhận thẩm quyền.
Tuy nhiên, khi một thẩm quyền nào đó được dựa vào để chứng minh một vấn đề hay để tăng thêm cơ may cho điều chúng ta nói đó là đáng tin, chúng ta cần đặt ra một số câu hỏi căn bản như: “Thẩm quyền ấy có uy tín trong vấn đề đó hay không?” Hoặc “Thẩm quyền ấy có đáng tin cậy không?” Chúng ta cũng phải hỏi: “Thẩm quyền ấy có được những nguồn gốc đáng tin cậy khác hậu thuẫn hay không?” Chúng ta phải xác định thẩm quyền đã được viện ra đó hậu thuẫn cho vấn đề của mình như thế nào. Ta phải hỏi: “Bối cảnh của nhận xét đó là gì?” và “Thẩm quyền này có bị thành kiến trong lãnh vực ấy không?”
Thật là dễ dựa vào một thẩm quyền nào đó, nhất là khi thẩm quyền ấy đã chết rồi! Chẳng ai muốn đặt vấn đề tin cậy một người nào đó từng sống và đã chết trong một thời đại nào đó trước đây, mà tên tuổi có thể tiêu biểu cho quyền lãnh đạo vững chắc hay sự tận hiến trong quá khứ. Nhưng phải nhớ rằng thiên hạ vốn chỉ là những con người! Chắc chắn rằng các lãnh tụ, các thẩm quyền trong quá khứ cũng từng gặp nhiều vấn đề và thất bại. Chúng ta phải có phán đoán sáng suốt trong việc sử dụng các thẩm quyền.
Một số người trong chúng ta thường lạm dụng việc nêu tên các nhân vật quan trọng. Chúng ta tưởng rằng khi làm như thế thì giá trị của các nhận xét của chúng ta đã được hậu thuẫn. Sự thật có thể là chúng ta khiến thiên hạ ngạc nhiên tự hỏi tại sao chúng ta lại làm như thế. Việc lạm dụng thẩm quyền quá đáng thường trở thành một rào cản nghiêm trọng cho việc giao tiếp.
Bạn tự quyết vấn đề.
Nói đơn giản, điều này có nghĩa là chúng ta khẳng định đúng, sai mà không đưa ra chứng cứ. Các cấp lãnh đạo (nhiều khi vì địa vị của họ) rất thường làm việc này vì họ vốn có quyền.
Có khi chúng ta tự quyết các vấn đề bằng cách lý luận vòng quanh. Một thí dụ cho lối lý luận này là lý luận bênh vực thuyết tiến hóa. Một người có thể hỏi: “Làm thế nào chúng ta biết được các hóa thạch trong một địa tầng cá biệt nào đó được bao nhiêu tuổi?” Câu trả lời có thể là: “Căn cứ vào địa tầng mà chúng nằm trong đó”. Tiếp đó người ấy có thể hỏi bạn: “Nhưng làm thế nào để biết tuổi của địa tầng ấy?” Trả lời: “Căn cứ vào các hóa thạch xuất hiện trong đó”. Rõ ràng đây là một cách “lý luận vòng quanh”.
Vấn đề thường gặp là chúng ta cho rằng chân lý của một lời công bố là đúng vì dường như “mọi người” đều biết, hay ít ra cũng đều chấp nhận (vì một lý do này hoặc lý do khác). Đôi khi chúng ta sử dụng các từ ngữ có tính cách tình cảm trong các câu nói của mình để nhấn mạnh luận điểm của mình, tuy chúng ta chẳng có chứng cứ nào cả về những gì mình nói - những câu như: “Tôi thật hết lòng tin điều này”. Bạn tin điều gì đó cách mạnh mẽ như vậy là việc đáng khen, nhưng bạn vẫn có thể bị sai lầm!. Phải chắc chắn là các sự kiện đều rõ ràng.
Tất cả các trở ngại cho việc truyền thông này là từng trải của những người đã cùng làm việc với nhau ngày này sang ngày khác. Nó sẽ giúp ích cho các mối liên hệ của bạn với tha nhân khi bạn nhận ra được chúng là gì, và học tập để tránh né chúng.
Tại Sao Người Ta Nghe Bạn
Bàn thảo về các vấn đề là một việc, còn giải pháp cho chúng lại là một việc khác hẳn! Có loại đức tính nào khiến tha nhân chịu lắng nghe điều bạn truyền đạt cho họ? Theo kinh nghiệm bản thân, có ít nhất năm đức tính chủ yếu cần thiết cho việc giao tiếp có hiệu quả.
Bạn luôn luôn chân thành.
Bạn phải thành thật và phải luôn luôn nói thật. Nhiều khi nói hết ra tất cả những gì ta biết là không thích hợp và không cần thiết, nhưng chúng ta chẳng bao giờ được nói dối. Có khi ta phải nói: “Tôi xin lỗi, nhưng bây giờ thì tôi chưa có thể tiết lộ với các bạn thông tin này”. Khi có người thiếu thành thật thì sự tương thông tương giao bị cắt đứt.
ChCn 14:25 chép: “Kẻ làm chứng chân thật giải cứu linh hồn người ta; song kẻ nói lời dối gây sự hình phạt”. Câu 5 cùng chương sách ấy nêu rõ: “Người chứng trung thành không hề nói dối, còn kẻ làm chứng gian buông lời dối trá”. 12:19 thêm: “Môi chân thật được bền đỗ đời đời; song lưỡi dối trá chỉ còn một lúc mà thôi”.
Một bà nọ tiết lộ với tôi những khó khăn mà bà và chồng bà đang gặp trong việc giao tiếp với nhau. Mọi sự đã bắt đầu khi bà biết rằng ông ta đã nói dối bà về một việc gì đó. Bà ta không còn tin chồng mình nữa. Lời thú nhận của ông ta với bà là không đầy đủ, cho nên, một lần nữa, bà ta không chịu tin chồng mình. Bà ta không còn muốn nghe ông. Dù trong trường hợp nào đi nữa bà vẫn thấy thật khó nói chuyện với ông. Việc ông ta thiếu thành thật đã đưa ông ta tới chỗ không còn khả năng giao tiếp có hiệu quả.
Sự giao tiếp để tạo cảm thông đặt cơ sở trên
khả năng biết lắng nghe . Nếu thiên hạ không tin
là bạn chịu lắng nghe họ , thì dưới mắt họ
quyền lãnh đạo của bạn đã bị suy giảm .
Bạn tôn trọng những lời tâm sự thầm kín.
Các thông tin được chia sẻ do lòng tin cậy cần phải được giữ kín. Quyền lãnh đạo của bạn sẽ bị suy giảm dưới mắt tha nhân khi bạn phạm lỗi ngồi lê đôi mách. ChCn 11:13 chép: “Kẻ đi thèo lẻo tỏ ra điều kín đáo, còn ai có lòng trung tín giữ kín công việc”. 17:9 thêm: “Kẻ nào lấp giấu tội lỗi tìm cầu điều tình ái, còn ai nhắc lập lại điều gì chia rẽ bậu bạn thiết cốt”.
Nhưng bạn xử sự thế nào trong trường hợp có người xin bạn giữ kín tuyệt đối một điều và không tiết lộ cho bất kỳ một ai khác? Trước hết, đừng hứa hẹn như thế, trừ khi bạn có ý định giữ kín điều đó. Trong một số trường hợp khác, tốt hơn bạn nên nói: “Tôi sẽ cố gắng hết sức để giữ kín việc đó, nhưng tôi phải được nghe trước đã, rồi mới có thể quyết định xem có ai khác cần phải biết việc ấy hay không. Tôi hứa thông báo cho ông biết nếu có một ai đó cần phải biết điều này”. Điều này rất quan trọng trong công tác tư vấn. Điều được tiết lộ cần phải được nói cho phía bên kia biết nếu nó có liên hệ với phía bên đó, và điều cần thiết là phải có việc hòa giải.
Thứ hai, bạn phải quyết định xem điều mà một người sắp tiết lộ với bạn đó có phải là một chuyện ngồi lê đôi mách hay không. Chẳng những bản thân chúng ta không nên ngồi lê đôi mách, mà chúng ta còn không nên tập thói quen nghe một người hay ngồi lê đôi mách nữa. Phải cẩn thận trong những gì bạn chia sẻ với người khác.
Bạn là người cởi mở.
Nếu thiên hạ chịu đáp lại với chúng ta trong việc giao tiếp cá nhân, họ phải thấy chúng ta có thái độ cởi mở, cho phép họ chia sẻ với chúng ta mà khỏi sợ điều chúng ta có thể suy nghĩ, nói hay làm. Nhiều thuộc cấp sẽ không chia sẻ với những người có quyền trên họ, vì tin rằng trong quá trình đó, họ sẽ phải chịu thiệt thòi.
Có một người trong ban nhân viên của chúng tôi tham gia một việc mà đúng ra ông ta phải báo cho tôi biết. Ông ta giữ kín không cho tôi hay một thời gian, cho đến khi có một người khác nói cho tôi biết. Khi tôi hỏi ông ta về việc ấy, ông ta bảo rằng sở dĩ ông ta không muốn nói cho tôi biết vì nghĩ rằng việc ấy sẽ ảnh hưởng đến việc làm của ông ta. Bây giờ thì việc đó có thể trở thành vấn đề của ông ta cũng như là của chính tôi. Nó nhắc nhở tôi về tầm quan trọng của thái độ cởi mở. Tôi phải có thái độ cởi mở đủ với các thành viên trong ban nhân viên, sao cho họ có thể cảm thấy mình được tự do thảo luận các vấn đềà với tôi mà khỏi phải e sợ gì cả.
Sự giao tiếp có hiệu quả được đặt cơ sở trên khả năng chịu lắng nghe. Nếu thiên hạ không tin là bạn chịu nghe họ, quyền lãnh đạo của bạn sẽ bị giảm sút dưới mắt họ. Một phần trên con đường theo đó người ta sẽ thẩm định việc đó, là có bao nhiêu ý kiến và gợi ý của họ cuối cùng sẽ được bạn sử dụng. Khi một cấp lãnh đạo chẳng bao giờ sử dụng bất kỳ một sáng kiến hay gợi ý nào của một ai khác đưa ra, hay nếu ông ta chê trách một người khác, thì mọi người sẽ xem cấp lãnh đạo ấy là khép kín, quá tự tin, và tệ hại nhất là tự-cho-mình-là-trung-tâm-vũ-trụ.
Bạn chấp nhận người khác.
Thiên hạ phải biết là bạn vui vẻ chấp nhận họ trọn vẹn và vô điều kiện. Thái độ thiếu chấp nhận của bạn là hiển nhiên khi bạn có lời tỏ ra xem nhẹ người khác, và khi bạn chê bai điều một ai đó đã nói hoặc làm, nhất là khi bạn chẳng có can dự gì vào tình hình ấy. Chúng ta thường chỉ đưa ý kiến khi chẳng ai cần đến nó, hoặc đó là một điều không cần thiết - một cách làm chẳng khôn ngoan chút nào.
Khi bạn tỏ ra thiên vị, thiên hạ sẽ nhận thấy là bạn không chịu tiếp nhận họ. Thượng Đế vẫn xem mọi người chúng ta như nhau, cho nên chúng ta cũng phải xem người khác giống y như thế.
Nhân một lần làm công tác tư vấn, tôi nhận thấy một người hết sức phân vân không chịu thảo luận các vấn đề của anh ta, tuy đó là mục đích nguyên thủy của anh ta khi đến gặp tôi. Anh ta được trưởng dưỡng trong một gia đình mà cha mẹ anh ta chỉ đánh giá anh ta căn cứ vào những gì anh ta đã làm được. Anh ta trở thành kẻ miễn cưỡng, chỉ bất đắc dĩ mới chịu chia sẻ các vấn đề của mình, vì sợ e mọi người không chịu chấp nhận anh ta khi không làm được những gì họ trông mong nơi anh ta. Thật là một niềm vui lớn khi được nói chuyện với anh ta về tình yêu thương vô điều kiện và sự chấp nhận hoàn toàn của Thượng Đế.
Bạn tỏ tình yêu thương.
Tôi sẽ nói nhiều hơn về vấn đề này trong một chương sau. Xin chỉ nói một điều ở điểm này thôi về tình yêu thương và việc giao tiếp: nếu người khác không tin rằng bạn thật lòng yêu thương hay quan tâm đến họ như con người thì sự giao tiếp thật sẽ chẳng có bao nhiêu. Có thể sẽ nói nhiều, nhưng truyền đạt thì rất ít.
Thánh Phao-lô viết: “Dù tôi nói được các ngôn ngữ của loài người và thiên sứ, nhưng không có tình yêu thì tôi cũng chỉ khua chiêng, gióng trống ồn ào” (ICo1Cr 13:1). Tình yêu thương sẽ làm sâu thêm mức độ cảm thông. Tình yêu thương phong phú hóa cách đáp ứng của người nghe. Tình yêu thương khiến những gì họ nói trở thành dịu dàng, ngọt ngào. Chúng ta phải có tình yêu thương trên hết mọi sự.
Sự lãnh đạo phần lớn không phải là tài năng bạn có với tư cách một cá nhân để tự mình làm được nhiều việc lớn, cũng như không phải là khả năng của bạn thúc đẩy những người khác giúp bạn hoàn tất công việc. Nó được đặt trên cơ sở là sự giao tiếp tốt để tạo được cảm thông giữa cá nhân này với cá nhân khác. Bàn bạc với nhiều cá nhân trước khi đưa ra các quyết định quan trọng chẳng những là điều được khuyên phải làm, mà còn là việc cần thiết để có thể lãnh đạo giỏi. Đừng đẩy việc cho người khác mà trước đó không gặp riêng họ để hỏi ý kiến. Xin bạn đừng ngạc nhiên! Chúng ta đã thấy ChCn 15:22 chép rằng: “Đâu không có nghị luận, đó mưu định phải phế; nhưng nhờ có nhiều mưu sĩ, mưu định bèn được thành”. A-men! Xin chúng ta hãy bước vào sự giao tiếp.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA CẤP LÃNH ĐẠO
(Có một cách cho điểm các câu hỏi này là từ 1-10. Bạn hãy tự chấm điểm lấy, rồi yêu cầu một người bạn hay bạn đồng nghiệp thân tín chấm điểm cho bạn).
1. Bạn có nói quá nhiều, chọc tức thiên hạ không?
2. Bạn có nói vừa đủ để bảo cho người ta biết phải làm gì, làm như thế nào và khi nào thì phải làm việc ấy, hay không?
3. Bạn có cố ý trổ tài hùng biện (ăn nói văn hoa) vì tưởng rằng làm như thế sẽ gây được ấn tượng trên người khác, hay không?
4. Bạn có đưa ra những nhận định nhằm đánh giá thấp để “hạ bệ” một ai đó, hầu làm gia tăng tầm quan trọng của chính bạn, không?
5. Bạn có vướng vào một vấn đề phóng đại nào, cố gắng tô hồng đánh bóng sự việc để thiên hạ sẽ đáp ứng khá hơn, không?
6. Bạn có quan trọng hóa những chuyện nhỏ nhặt không?
7. Bạn có viện đến thẩm quyền của người khác để khiến người ta tin điều bạn đang nói không ?
8. Bạn có khăng khăng cho rằng những gì mình nói là đúng, mà không cần phải chứng minh, không?
9. Bạn có được mọi người biết là bạn luôn luôn nói thật không?
10. Bạn có gặp rắc rối gì với chuyện ngồi lê đôi mách, hay bạn vẫn được mọi người tin cậy vì biết giữ kín những gì thiên hạ tâm sự với mình?
11. Mọi người có cảm thấy thoải mái bàn bạc với bạn mà không sợ bạn sẽ có thể nghĩ gì, nói gì hay làm gì hay không?
12. Thiên hạ có tin rằng bạn sẵn sàng chấp nhận và yêu thương họ vô điều kiện, và họ chẳng phải làm gì cả để đổi lấy việc ấy, không?

HÀNH ĐỘNG NÓI LỚN HƠN NGÔN TỪ!
Nói thì dễ...còn làm thì lại là chuyện khác! Tuy nhiều nhà lãnh đạo không hiểu sự kiện này, cách nói một điều gì đó có khi cũng quan trọng tương đương với điều được nói ra. Cách sống của một người hổ trợ cho những gì người ấy nói như thế nào là một dấu chỉ rõ ràng cho thấy khả năng đích thực của người ấy trong việc lãnh đạo người khác. Thiên hạ vốn chẳng quá dễ dàng để cho ta lừa phỉnh như ta tưởng. Không phải chỉ vì một người có chức có quyền và được gọi là lãnh đạo, thì điều đó có nghĩa là thiên hạ đều sẽ theo ông ta.
Học Tập Lắng Nghe - Con Đường Gian Nan
Tâm tỏ ra rất tự tin trong cách lãnh đạo của mình. Tổ chức Cơ-đốc giáo của ông ta đã tăng trưởng từ chỗ chỉ có hai cộng tác viên, đến nay đã hơn 20 người. Chúa đã ban phước cho tổ chức ấy là điều hiển nhiên, số tiền lạc quyên được cứ tăng và công tác họ làm vẫn tăng trưởng cả về ảnh hưởng lẫn kết quả. Tuy nhiên, gần đây Tâm nhận thấy có sự không hài lòng ngày càng tăng giữa các nhân viên trong văn phòng của ông. Ông vốn không luôn luôn tỏ ra quan tâm nhiều đối với các nhân viên văn phòng, nhưng luôn cống hiến cho họ khải tượng và thách thức họ.
Rắc rối bắt đầu khi thói quen bất cần chú ý đến các cảm nghĩ của người khác ngày càng được chú ý nhiều hơn, vì bây giờ càng có nhiều
Khi thiên hạ tin rằng bạn không toại nguyện
hay hài lòng với chức vụ của mình
nếu không có các kết quả tức thời ,
thì quyền lãnh đạo của bạn sẽ suy yếu .
người hơn cùng tham gia công tác chung với nhau. Các cộng tác viên rất khó giải thích điều này cho Tâm, vì ông vừa là sáng lập viên vừa là người lãnh đạo. Ông đòi hỏi rất nhiều ở những người cùng làm việc với mình, nhưng ít khi tỏ ra là mình tán thưởng họ. Ồ, ông rất rộng rãi vào ngày kỷ niệm hằng năm của ban giám đốc nhân lễ Giáng sinh, khi đó có rất nhiều người được nhận phần thưởng. Nhưng công việc văn phòng cứ lập đi lập lại gây nhàm chán, các nhân viên rất ít được chú ý, tán thưởng hay bảo cho biết là họ đang làm việc rất tốt.
Cuối cùng, người thư ký riêng của Tâm quyết định đối chất với ông. Việc này không phải là dễ dàng vì Tâm vốn hay “hù dọa” những người làm việc cho ông và dưới quyền ông. Cô ta bắt đầu bằng câu nói sau đây: “Tôi có làm việc gì cho ông, khiến ông có thể cám ơn vì có một thư ký như tôi không?” Câu hỏi này khiến Tâm vô cùng kinh ngạc, ông hỏi: “Tại sao cô lại nói như thế?”
Cô thư ký bèn nói với Tâm rằng suốt ba năm cô ta làm việc cho ông, ông đã chẳng hề đích thân tỏ ra tán thưởng những gì cô đã làm cho ông. Cô ta nói rõ rằng mình đang làm việc cho Chúa, và cô sẽ tiếp tục bất chấp riêng phần ông có gì thay đổi, nhưng cô ta cảm thấy là ông cần phải biết chẳng những là cô nghĩ gì, mà là toàn thể các nhân viên khác trong văn phòng đã cảm nghĩ thế nào nữa.
May thay cho Tâm, là ông đã chịu lắng nghe, và bầu không khí trong văn phòng tức khắc thay đổi. Hiện nay, ông lập một bảng liệt kê những gì ông tán thưởng và tìm cách khen ngợi từng người một đang có tiếp xúc với ông. Chỉ là một việc đơn giản...nhưng là một cái nhìn xuyên suốt (in-sight) quan trọng.
Người Truyền Đạt Thủ Vai Người Lắng Nghe
Công tác lãnh đạo đòi hỏi khả năng giao tiếp tốt, mà việc giao tiếp tốt tùy thuộc khả năng biết lắng nghe, cũng như biết tán thưởng, như trong trường hợp của Tâm. Hành động lắng nghe người khác là một phần của việc giao tiếp với họ. Rồi đến lượt nó, thái độ sẵn sàng lắng nghe vốn bắt nguồn từ nhiều việc:
1. Thái độ muốn lắng nghe.
2. Nội dung sắp được truyền đạt.
3. Tài năng của người truyền đạt.
4. Các thái độ của người truyền đạt.
5. Sự tôn trọng và tán thưởng của người nghe đối với người truyền đạt.
Khiến người khác chịu lắng nghe tùy thuộc cách cư xử của người truyền đạt nhiều hơn điều mà phần lớn những người truyền đạt chịu thừa nhận. Một đề tài nào đó có thể là rất hấp dẫn và lý thú cho người nghe, nhưng lại được tiếp thu lạnh nhạt là vì các thái độ, cá tính hay cách cư xử trong quá khứ của người truyền đạt.
Các Vấn Đề Của Cơ-Đốc Nhân Đối Với Quyền Lãnh Đạo
Phần lớn các tổ chức Cơ-đốc giáo nhận thức được rằng cách đối xử với các Cơ-đốc nhân khác với sinh hoạt của ngoài đời. Do mối liên hệ của chúng ta với Chúa Cứu Thế Giê-xu, chúng ta đều là anh chị em với nhau trong Chúa, và chúng ta có trách nhiệm nặng nề đối với nhau vì lý do ấy.
Về một số phương diện, các Cơ-đốc nhân phản ứng khác với người không tin Chúa, tuy có một số nguyên tắc căn bản về giao tiếp vẫn ảnh hưởng đến cả hai nhóm người này. Các Cơ-đốc nhân biết rõ những gì Thánh Kinh dạy về thái độ và nếp sống, sẽ có xu hướng đánh giá các vấn đề ấy cao hơn các tài năng và kỹ năng của người truyền đạt. Với các Cơ-đốc nhân, lẽ dĩ nhiên là hành động nói lớn hơn ngôn từ!
Muốn biết các hành động và thái độ của chúng ta ảnh hưởng đến việc giao tiếp của chúng ta với tha nhân như thế nào, điều quan trọng là phải thấy cách các Cơ-đốc nhân phản ứng lại với cách ăn ở cư xử mà họ thấy nơi một nhà lãnh đạo. Về mặt tiêu cực, nó giúp ích để phân tích điều mà các Cơ-đốc nhân không thích trong cách ăn ở cư xử của một nhà lãnh đạo. Một cách ăn ở cư xử như thế có thể gây tai hại nghiêm trọng cho cách mà quyền lãnh đạo của chúng ta được tri nhận và tiếp nhận.
Hi sinh cái trường tồn cho cái cận tiếp
Các tín đồ thường tin rằng người lãnh đạo muốn có được sự thành công ngay tức khắc mà không chịu chờ đợi nó, theo kế hoạch và cách phân định thời gian của Thượng Đế. Có một điều vô cùng tai hại đã len lỏi xâm nhập các Hội thánh và tổ chức Cơ-đốc giáo là tâm lý “làm giàu mau”. Thời gian trung bình của một vị mục sư hành chức trong một chi hội địa phương gợi ý rằng trừ khi có sự thay đổi, tiến triển hay tăng trưởng nhanh chóng xảy ra, bằng không chúng ta sẽ tiếp tục chuyển đến “những đồng cỏ xanh hơn”. Sứ đồ Phao-lô đã viết mấy dòng này cho vị mục sư trẻ tuổi Ti-mô-thê:
“Hãy chăm chỉ đọc sách, khuyên bảo, dạy dỗ, cho đến chừng ta đến. Đừng bỏ quên ơn ban trong lòng con, là ơn bởi lời tiên tri, nhơn hội trưởng lão đặt tay mà đã ban cho con vậy. Hãy săn sóc chuyên lo những việc đó, hầu cho thiên hạ thấy sự tấn tới của con. Hãy giữ chính mình con và sự dạy dỗ của con, phải bền đỗ trong mọi sự đó, vì làm như vậy thì con và kẻ nghe con sẽ được cứu” (ITi1Tm 4:13-16).
Lời khuyên “cứ chuyên tâm thực hành các nguyên tắc ấy” ngụ ý chú trọng các kết quả lâu dài về sau chứ không phải chỉ quan tâm vào những kết quả không lâu bền. Trong bức thư sau đó gởi cho Ti-mô-thê, ông viết:
“Nhưng con, phải có tiết độ trong mọi sự, hãy chịu cực khổ, làm việc của người giảng Tin Lành, mọi phận sự về chức vụ con phải làm cho đầy đủ. Về phần ta, ta đang bị đổ ra làm lễ quán, kỳ qua đời của ta gần rồi. Ta đã đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, đã giữ được đức tin. Hiện nay mão triều thiên của sự công bình đã để dành cho ta; Chúa là quan án công bình, sẽ ban mão ấy cho ta trong ngày đó, không những cho ta mà thôi, nhưng cũng cho mọi kẻ yêu mến sự hiện đến của Ngài” (IITi 2Tm 4:5-8).
Câu “làm tròn nhiệm vụ của đầy tớ Chúa” của Phao-lô đỏi hỏi một mối quan tâm sâu xa đối với các kết quả lâu dài, chứ không phải là những kết quả ngắn hạn. Phao-lô nói: “Ta đã...chạy xong cuộc đua”. Ông đã hoàn tất điều mà Thượng Đế suy nghĩ cho đời sống và chức vụ của ông khi Ngài cứu rỗi ông.
Khi người khác tin rằng bạn không toại nguyện hay hài lòng với chức vụ của mình nếu không có các kết quả tức thời, thì quyền lãnh đạo của bạn sẽ suy yếu. Các cấp lãnh đạo cần có mặt tại chỗ, trung tín hoàn thành các trách nhiệm của mình, cả khi mọi việc chẳng đem lại kết quả gì sau một thời gian được bắt đầu, hoặc theo như cách họ mong là nó sẽ có kết quả.
Người ta không thể đào tạo được các môn đệ tài ba chỉ trong vòng vài tháng...mà cần phải có nhiều năm. Nguyên nhân khiến chúng ta đòi hỏi các kết quả chóng vánh, là các biến chuyển xảy ra nhanh chóng. Chúng ta tỏ ra không vui đối với những chức vụ và phương pháp không có kết quả theo như cách chúng ta tưởng là phải xảy ra.
Vấn đề là gì ? Vấn đề của người lãnh đạo khiến người ấy hi sinh các kết quả trường tồn, dài hạn để đổi lấy các kết quả tức thì là vấn đề thiếu kiên nhẫn. Điều này có thể tự phản ánh trong cách phục vụ tín đồ hay trong cách ta đánh giá các thống kê của chức vụ.
Thánh Gia-cơ giúp chúng ta hiểu rõ sự cần thiết phải biết kiên trì nhẫn nhục của chúng ta:
“Hỡi anh em, hãy coi sự thử thách trăm bề thoạt đến cho anh em như là điều vui mừng trọn vẹn, vì biết rằng sự thử thách đức tin anh em sanh ra sự nhịn nhục. Nhưng sự nhịn nhục phải làm trọn việc nó, hầu cho chính mình anh em cũng trọn lành toàn vẹn, không thiếu thốn chút nào” (Gia Gc 1:2-4)
Một lần nữa, Gia-cơ khuyên dạy chúng ta kiên trì nhẫn nhục:
“Hỡi anh em, vậy hãy nhịn nhục cho tới kỳ Chúa đến. Hãy xem kẻ làm ruộng: họ bền lòng chờ đợi sản vật quí báu dưới đất cho đến chừng nào đã được mưa đầu mùa và cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy nhịn nhục và bền lòng, vì kỳ Chúa đến gần rồi. Hỡi anh em, chớ oán trách nhau, hầu cho khỏi bị xét đoán; kìa, Đấng xét đoán đứng trước cửa. Hỡi anh em, hãy lấy các đấng tiên tri đã nhơn danh Chúa mà nói, làm mẫu mực về sự chịu khổ và nhịn nhục cho mình. Anh em biết rằng những kẻ nhịn nhục chịu khổ thì chúng ta xưng là có phước. Anh em đã nghe nói về sự nhịn nhục của Gióp, và thấy cái kết cuộc mà Chúa ban cho người, vì Chúa đầy lòng thương xót và nhân từ” (5:7-11).
Các cấp lãnh đạo cần kiên trì nhẫn nhục. Chúng ta thường phải kiên trì chịu đựng những trường hợp chịu khổ nhọc mà chẳng thấy kết quả gì, phải chờ đợi các tín đồ biết chiến đấu để cố gắng đem những điều chúng ta truyền dạy họ ra thực hành. Họ không luôn thấy được những gì bạn thấy, không hiểu được như bạn hiểu. Họ sẽ không luôn luôn làm theo những gì bạn muốn họ làm, hay đạt được những kết quả mà bạn tin là họ đã có thể đạt được rồi.
Nếu bạn muốn các tín đồ noi theo sự lãnh đạo của mình, thì xin đừng hi sinh các mục tiêu, các kết quả trường tồn, dài hạn, cho các mục tiêu, các kết quả tức thì.
Thay sự bận rộn bằng sự tăng trưởng thuộc linh.
Sự sinh hoạt và bận rộn suông không thể đem thay thế cho sự tăng trưởng thuộc linh đích thực. Khi người khác tin rằng chúng ta đang chú trọng vào những gì bề ngoài thay vì bề trong, họ sẽ phân vân trong việc đáp ứng sự lãnh đạo của chúng ta.
Các Cơ-đốc nhân vốn biết rằng “con người bề ngoài (vốn) hư nát” nhưng “con người bề trong (thì) cứ ngày càng đổi mới” (IICo 2Cr 4:16). Và trong tiến trình tuyển chọn, dẫn đến việc Thượng Đế chọn chàng thiếu niên chăn chiên Đa-vít làm vua dân Y-sơ-ra-ên, Sa-mu-ên đã được dạy bảo: “Đức Giê-hô-va chẳng xem điều gì loài người xem, loài người xem bề ngoài, nhưng Đức Giê-hô-va nhìn thấy trong lòng” (ISa1Sm 16:7).
Sự bận rộn có thể đưa tới tình trạng khô cằn thuộc linh. Làm quá nhiều việc không nhất thiết dẫn tới sự tăng trưởng thuộc linh quan trọng. Trong LuLc 10:38-42, chúng ta đọc thấy một phần phân tích thật sáng suốt vấn đề này:
“Khi Đức Chúa Jêsus cùng môn đồ đi đường, đến một làng kia, có người đàn bà, tên là Ma-thê, rước Ngài vào nhà mình. Người có một em gái, tên là Ma-ri, ngồi dưới chân Chúa mà nghe lời Ngài. Vả, Ma-thê mảng lo về việc vặt, đến thưa Đức Chúa Jêsus rằng: Lạy Chúa, em tôi để một mình tôi hầu việc, Chúa há không nghĩ đến sao? Xin biểu nó giúp tôi. Chúa đáp rằng: Hỡi Ma-thê, Ma-thê, ngươi chịu khó và bối rối về nhiều việc, nhưng có một việc cần mà thôi. Ma-ri đã lựa phần tốt, là phần không có ai cất lấy được” (10:38-42).
Về sau, trong GiGa 12:2, người ta lại dọn một bữa ăn khác tại Bê-tha-ni, và Ma-thê lại là người phục vụ. Nhưng lần này, đã không có tị nạnh, nên cũng chẳng có lời trách yêu của Chúa. Vấn đề không do việc phục vụ, mà do thái độ của chúng ta đối với hoạt động ấy khi so sánh với sự tăng trưởng thuộc linh thật. Những người đang tăng trưởng trong Chúa không bao giờ thắc mắc như Ma-thê đã thắc mắc.
Phần lớn những gì chúng ta gọi là “công việc Chúa”, “công việc Hội Thánh” nằm trong phạm vi các hoạt động bề ngoài trông có vẻ bận rộn này. Nhiều tín đố có thể “phục vụ” suốt nhiều năm mà không hề dành riêng thì giờ ở riêng với Chúa để học tập dưới chân Ngài. Việc chúng ta phục vụ Chúa sẽ trở thành lý thú và có kết quả hơn khi bản thân chúng ta đang tăng trưởng trong mối liên hệ giữa chúng ta với Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Vấn đề là gì ? Vấn để ở đây là chưa trưởng thành, tuy nhiều cấp lãnh đạo cảm thấy khó chấp nhận như thế. Tình trạng chưa trưởng thành liên quan đến cách người lãnh đạo đánh giá điều gì là thật sự quan trọng. Đã đành là mọi việc đều cần phải được hoàn tất, nhưng không phải là bất chấp sự tăng trưởng của một người nào đó trong Chúa.
Một bà nọ vốn rất bận rộn làm nhiều việc cho Hội Thánh và cho số tài sản của Hội thánh, cảm thấy mình rất dễ dàng tìm lời biện minh và bào chữa cho việc mình vắng mặt trong những buổi nhóm lại, viện lẽ mình luôn luôn dành thì giờ làm nhiều việc cần phải làm. Khi được hỏi về sự cần thiết phải có sự tăng trưởng cá nhân trong Chúa và bằng cách học hỏi nghiên cứu Lời Ngài, bà đã tìm cách chống chế và tỏ ra bực bội. Bà chẳng hề tham gia các lớp học Thánh Kinh, các lớp học Trường Chúa Nhật hay các buổi nhóm lại của Hội Thánh và chỉ đơn giản trả lời: “Tôi không có thì giờ cho mọi việc đó”.
Tìm cầu lời ca tụng của người khác hơn là lời khen ngợi của Thượng Đế.
ChCn 27:2 chép: “Hãy để cho kẻ khác khen ngợi con, miệng con chẳng nên làm, để cho một người ngoài tán mỹ con, môi con đừng làm”. Thế giới Cơ-đốc giáo của chúng ta đang đầy dẫy những kẻ tự đề cao. Nhiều sách mỏng, sách dày, tạp chí, ...cao rao các tài năng, đức hạnh và công trình của nhiều nhân vật tôn giáo, tất cả đều nhằm gây ảnh hưởng cho người khác đáp ứng và cộng tác. Thật là một việc làm nguy hiểm! Điều này đặc biệt nghiệm đúng khi ấn bản được in trong những quảng cáo ấy lại do chính những người được đề cao đó thảo hoạch!
Nhiều cấp lãnh đạo tỏ ra quá thận trọng trong những gì họ nói hay làm vì không muốn làm mất lòng những người ủng hộ họ hay số người có thế lực có thể tiếp tay đẩy mạnh công tác hoặc chức vụ của họ. Dường như chúng ta đang bị sự tán thưởng của loài người, chứ không phải là sự tán thưởng của Thượng Đế ám ảnh. Chúng ta đang nỗ lực cao để làm cho thiên hạ mến chuộng mình, bất chấp những gì Chúa Giê-xu từng phán dạy:
“Ví bằng người đời ghét các ngươi, thì hãy biết rằng họ đã ghét ta trước các ngươi. Nếu các ngươi thuộc về thế gian, thì người đời sẽ yêu kẻ thuộc về mình, nhưng vì các ngươi không thuộc về thế gian và ta đã lựa chọn các ngươi giữa thế gian, bởi cớ đó người đời ghét các ngươi. Hãy nhớ lời ta đã nói cùng các ngươi: Đầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình. Nếu họ đã bắt bớ ta, ắt cũng bắt bớ các ngươi, bằng họ đã giữ lời ta, ắt cũng giữ lời các ngươi. Nhưng vì danh ta họ sẽ lấy mọi điều đó đãi các ngươi, bởi họ không biết Đấng đã sai ta đến” (GiGa 15:18-21).
Các cấp lãnh đạo tôn giáo đúng là phải chờ đợi sự chỉ trích và đố kỵ của thế gian. Sửa đổi các tín ngưỡng của chúng ta để làm đẹp lòng người đời là cách làm chắc chắn nhất để đánh mất quyền lãnh đạo thuộc linh mà Thượng Đế đang sử dụng và ban quyền năng cho. IITi 2Tm 2:15 chép: “Con hãy cố gắng phục vụ để Thượng Đế hài lòng, như một công nhân gương mẫu ngay thẳng công bố chân lý”.
Chúng ta cần sự tán thưởng của Thượng Đế, chứ không cần sự tán thưởng của loài người. Muốn được Thượng Đế khen ngợi, tán thưởng, chúng ta phải làm việc chăm chỉ, khổ nhọc, truyền giảng Thánh Kinh là Lời Thượng Đế thật chính xác. Thánh Phao-lô cảnh cáo về một thời kỳ hầu đến khi người ta sẽ xem lời khen ngợi tán thưởng của loài người là quan trọng hơn lời khen ngợi tán thưởng của Thượng Đế:
“Ta ở trước mặt Đức Chúa Trời và trước mặt Đức Chúa Jesus Christ là Đấng sẽ đoán xét kẻ sống và kẻ chết, nhơn sự đến của Ngài và nước Ngài mà răn bảo con rằng: hãy giảng đạo, cố khuyên, bất luận gặp thời hay không gặp thời, hãy đem lòng rất nhịn nhục mà bẻ trách, nài khuyên, sửa trị, cứ dạy dỗ chẳng thôi. Vì sẽ có một thời kia, người ta không chịu nghe đạo lành, nhưng vì họ ham nghe những lời êm tai, theo tư dục mà nhóm họp các giáo sư xung quanh mình, bịt tai không nghe lẽ thật, mà xây hướng về chuyện huyễn” (4:1-4)
Phần lớn lời truyền dạy của nền văn hóa này chú trọng vào việc cố gắng làm đẹp lòng người ta, chứ không phải làm đẹp lòng Thượng Đế. Chúng ta tránh né các vấn đề tiêu cực, chỉ nói rất ít về sự ăn năn và các hậu quả. Hội thánh rất ít sửa trị những hành vi tội lỗi mang tánh chất thói quen và lại càng không sẵn sàng đối đầu với kẻ làm sai trái.
Khi vị mục sư của một chi hội thuộc miền Tây Bắc cố thuyết phục các tín đồ của mình tham gia một nỗ lực có phạm vi cả thành phố, lời thông báo của ông chỉ như nước đổ lá khoai. Ông không tài nào hiểu nổi thái độ thờ ơ miễn cưỡng của hội chúng của mình. Dường như vị mục sư đang tìm cách làm rạng danh mình. Ông đã đọc quá nhiều những tin tức cắt ra từ báo chí, và các tín đồ của ông đã quá mệt mỏi về việc ấy rồi . Họ cảm thấy đã bị lợi dụng và lạm dụng, cho nên bây giờ biểu lộ thái độ không tán thành của họ.
Theo như họ nghĩ, thì nỗ lực có phạm vi thành phố này chỉ nhằm một chủ đích - làm thăng tiến thêm công danh của vị mục sư của họ. Ông đã không thành công trong công tác truyền đạt của mình. Cho dù ông cố nói thế nào đi chăng nữa, người khác lại nhìn thấy sự việc khác hẳn. Họ đã quá mệt mỏi với cách ông vẫn thường xuyên tự đề cao và mưu cầu được địa vị cao cũng như được tha nhân khen ngợi ca tụng. Các giải thưởng và thành tích của ông không còn gây được ấn tượng trên những con người mà ông phục vụ hằng tuần.
Chẳng có gì để ngạc nhiên khi được biết chẳng bao lâu sau đó, ông đã phải rời bỏ nhiệm sở ấy. Nếu ông không từ chức, hội chúng chắc cũng yêu cầu ông từ chức vì đó chỉ là một vấn đề thời gian mà thôi.
Vấn đề là gì ? Vấn đề trong đời sống của một nhà lãnh đạo tìm sự tán đồng và ca ngợi của con người thay vì sự chuẩn nhận của Thượng Đế là sự thờ ơ, lãnh đạm - thất bại không nhìn thấy tầm quan trọng của các giá trị và phần thưởng vĩnh cửu thay vì những vinh dự và lời ca ngợi của đời này. IICo 2Cr 4:17-18 chép thật rõ ràng:
“Vì sự hoạn nạn nhẹ và tạm của chúng ta sanh cho chúng ta sự vinh hiển cao trọng đời đời, vô lượng vô biên, bởi chúng ta chẳng chăm sự thấy được, nhưng chăm sự không thấy được; vì những sự thấy được chỉ là tạm thời, mà sự không thấy được là đời đời không cùng vậy”.
Phục vụ vì lợi ích cá nhân.
Quyền lãnh đạo trong sự phục vụ là nhằm mục đích tôn vinh Thượng Đế, chứ không phải vì lợi ích cá nhân. Thánh Phao-lô răn bảo mọi người chúng ta: “Làm mọi việc, anh em phải nhắm mục đích tôn vinh Thượng Đế, dù ăn uống hay bất cứ việc gì khác” (ICo1Cr 10:31), Thi Tv 115:1 chép: “Sự vinh hiển chớ về chúng tôi, chớ về chúng tôi, bèn là đáng về danh Ngài”. Vinh quang của Thượng Đế là động cơ thúc đẩy cao cả nhất trong việc phục vụ của mỗi Cơ-đốc nhân.
Khi các nhà lãnh đạo thuộc linh nài gọi dân Chúa hãy dâng hiến cách rời rộng cho các lãnh vực phục vụ khác nhau và công tác truyền giáo, rồi lại tiêu pha phung phí và được lương cao bổng hậu với nhiều “phụ phí” khổng lồ và lợi ích cá nhân, thì chẳng có gì để lấy làm lạ khi thiên hạ mất lòng tin, giảm trợ cấp hoặc chấm dứt hẳn...mà họ làm như thế là phải lẽ thôi!
Sau một đại hội về truyền thanh tại British Columbia mấy năm trước đây, một doanh nhân ăn mặc đứng đắn đến gần và hỏi tôi: “Trong thời gian ở đây, ông nghỉ tại khách sạn nào?”. Tôi mau mắn trả lời cho ông ta. Rồi ông ta hỏi tôi phải trả bao nhiêu tiền vé máy bay, và có đi hạng nhất không? Tôi nói vì chiều cao của tôi, tôi thích đi hạng nhất; nhưng vì cớ túi tiền, tôi chọn đi xe buýt.
Ông ta rất ngạc nhiên khi biết các chi phí của tôi rất ít, và lấy làm lạ hỏi rằng chẳng hay tôi có nói thật với ông ta hay không. Tôi nhấn mạnh là có, và bảo rằng tôi sẽ rất vui nếu ông ta kiểm chứng lại bất kỳ một điểm nào cũng như mọi thông tin về việc đó. Và ông ta bắt đầu kể lại cho tôi về một công tác phục vụ Chúa khác mà ông ta đã tài trợ cho đến khi ông ta biết được nhiều khoản phung phí trong chức vụ ấy khi tổ chức những buổi họp mặt trong nhiều thành phố khác nhau.
Con người hào hiệp này từng tài trợ nhiều khoản tiền lớn cho các tổ chức phục vụ Cơ-đốc giáo, nhưng đã ngày càng quan tâm nhiều hơn đến cách mà người ta sử dụng tài chánh. Ông ta kể lại với tôi về mức lương của các nhà lãnh đạo chủ chốt của các tổ chức ông ta đang tài trợ và hỏi về mức lương của riêng tôi. Ông ta vô cùng kinh ngạc và được khích lệ.
Sự việc này đã được lặp đi lặp lại nhiều lần trước hiện diện của tôi trong mấy năm vừa qua. Những người thuộc về Chúa cứ ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các lợi ích cá nhân mà nhiều nhà lãnh đạo đang tích lũy trong công tác phục vụ Chúa của họ. Thánh Phao-lô đã viết trong ITi1Tm 6:6-11
“Vả sự tin kính cùng sự thỏa lòng, ấy là một lợi lớn. Vì chúng ta ra đời chẳng hề đem gì theo, chúng ta qua đời cũng chẳng đem gì đi được. Như vậy, miễn là đủ ăn đủ mặc thì phải thỏa lòng, còn như kẻ muốn nên giàu có, ắt sa vào sự cám dỗ, mắc bẫy dò, ngã trong nhiều sự tham muốn vô lý thiệt hại kia, là sự làm đắm người ta vào sự hủy diệt hư mất. Bởi chưng sự tham tiền bạc là cội rễ mọi điều ác, có kẻ vì đeo đuổi nó mà bội đạo, chuốc lấy nhiều điều đau đớn. Nhưng hỡi con, là người của Đức Chúa Trời, hãy tránh những sự đó đi, mà tìm điều công bình, tin kính, đức tin, yêu thương, nhịn nhục, mềm mại”.
Nhiều nhà lãnh đạo đã vì tham tiền mà hủy hoại cả chức vụ lẫn lời làm chứng của họ. Tham vọng muốn trở thành giàu có và nhiều thế lực nhờ giàu có sẽ đưa chúng ta vào nhiều chuyện và lạc xa vai trò lãnh đạo thuộc linh chân chính.
Một nhà lãnh đạo có thể tạo động cơ thúc đẩy để một nhóm Cơ-đốc nhân dâng tiền cho một mục tiêu cần thiết, nhưng nếu nhóm người này nhận thấy vị lãnh đạo ấy sẽ được thu lợi cá nhân rất lớn từ dự án đó, thì lời kêu gọi của ông ta sẽ không kiến hiệu. Hành động nói lớn tiếng hơn ngôn từ. Nếu vị lãnh đạo đó không chịu hi sinh, thì làm thế nào ông ta lại trông mong cho người khác hi sinh?
Vấn đề là gì ? Vấn đề ở đây là thái độ không thành thật - tình trạng thiếu động cơ thúc đẩy thích đáng. Trong thí dụ của Phao-lô ở Phi Pl 4:11-13 cho chúng ta một tấm gương vĩ đại để noi theo:
“Không phải là tôi muốn nói đến sự cần dùng của tôi, vì tôi đã tập hễ gặp cảnh ngộ nào, cũng thỏa lòng ở vậy. Tôi biết chịu nghèo hèn, cũng biết được dư dật. Trong mọi sự và mọi nơi, tôi đã tập cả, dầu no hay đói, dầu dư hay thiếu cũng được. Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi”.
Nếu chúng ta muốn trở thành các lãnh tụ thuộc linh như Thượng Đế muốn chúng ta phải trở thành, thì dưới đây là những cái nhìn xuyên suốt thật kỳ diệu, xin tóm tắt ngắn gọn:
1. Nên thoả lòng với những gì mình có hoặc không có.
2. Tin cậy Thượng Đế sẽ cung cấp các nhu cầu của bạn
3. Phải biết ơn những người giúp đỡ mình.
4. Dành mọi vinh quang cho Thượng Đế
Khi một cấp lãnh đạo mưu tìm lợi ích cá nhân thay vì dành vinh quang cho Thượng Đế, người khác sẽ thôi lắng nghe.
Một thái độ thô lỗ và cay đắng.
Ăn nói cộc cằn và cay đắng với người khác thay vì từ tốn và khả ái, có thể phá hại nghiêm trọng công tác lãnh đạo có hiệu quả. Sự kiện hành động nói lớn tiếng hơn lời nói vốn chẳng có ở đâu lại được nghiệm đúng hơn ở đây! Bạn có thể nói đủ thứ điều đúng, điều phải, nhưng nếu thái độ của bạn là sai, thì người khác sẽ khó có thể đáp ứng và thậm chí là không chịu để tai nghe nữa.
Bình rất có lòng với Chúa và công việc Ngài, nhưng gặp phải một vấn đề là thái độ. Anh vốn là con người của đường phố, lớn lên trong một môi trường xấu, rất ít được cha mẹ hoặc gia đình giúp đỡ. Cha mẹ anh đã ly dị nhau hồi anh hãy còn bé, và khi mẹ anh tái giá, anh gặp người cha dượng chẳng tốt đẹp gì. Cha dượng thường đánh đập anh, nên cuối cùng anh đã bỏ nhà đi bụi.
Sau khi anh ăn năn tin theo Chúa Cứu Thế Giê-xu trong năm cuối đại học, Bình cảm thấy mình được kêu gọi vào chức vụ. Bình là người năng nổ, có nhiệt tâm và rất được khen ngợi giữa vòng các giáo sư và sinh viên trong chủng viện anh ta theo học.
Người ta nhanh chóng dành cho Bình một cơ hội rất tốt là giữ chức Mục sư chính của một Hội thánh đang tăng trưởng trong khu vực thành phố lớn, tương tự như khu vực mà anh ta rất từng trải hồi còn nhỏ. Dường như đây là một sự sắp xếp hết sức “ăn khớp”, và những ngày đầu tiên thi hành chức vụ tại chi hội này của Bình rất được phước. Hội thánh tăng trưởng về nhân số và ảnh hưởng, và Bình là một lãnh tụ nói thẳng, nói thật trong cộng đồng của mình vì rất nhiều lý do.
Nhưng các thái độ ứng xử của Bình lại không tốt. Anh thường khăng khăng bênh vực lập trường của mình, anh thường làm mất lòng những người chung quanh, là những người muốn giúp anh thực hiện nhiều việc lớn cho Chúa. Anh ăn nói xẳng xớm, nên mọi người đều e sợ, chẳng bao giờ dám bất đồng ý kiến với anh. Họ biết anh rất có thể cay cú và hay chê bai chỉ trích.
Bình có vẻ là một nhà truyền đạo có tài, nhưng một số cố gắng của anh đã không được vui vẻ tiếp nhận, vì thái độ mà anh phản ảnh. Anh chứng tỏ là có mặc cảm tự tôn và một tinh thần tự phụ, nhất là khi trực diện với những người chưa tin Chúa. Bạn bè là tín hữu cũng nhận thấy như thế nữa. Chức vụ đầy triển vọng của anh bắt đầu bị xấu đi. Anh đổ lỗi cho người khác, nhưng vấn đề là cách anh ăn nói với mọi người.
Thánh Phao-lô đã khuyên người môn đệ trẻ tuổi của ông là Ti-mô-thê như sau:
“Vả, tôi tớ của Chúa không nên ưa sự tranh cạnh; nhưng phải ở tử tế với mọi người, có tài dạy dỗ, nhịn nhục, dùng cách mềm mại mà sửa dạy những kẻ chống trả, mong rằng Đức Chúa Trời ban cho họ sự ăn năn để nhìn biết lẽ thật, và họ tỉnh ngộ mà gỡ mình khỏi lưới ma quỉ, vì đã bị ma quỉ bắt lấy đặng làm theo ý nó” (IITi 2Tm 2:24-26).
Khi có người chống lại bạn thì lẽ tự nhiên là bạn phải trả lời họ, phản bác cả các lý luận của họ nữa. Nhưng thánh Phao-lô khuyên phải từ khước việc cãi vã! Hòa nhã và nhẫn nhục là cần thiết. Một thái độ ôn tồn tử tế không có ý tranh chấp sẽ giúp ích được rất nhiều khi đương đầu với kẻ chống đối.
Trong HeDt 5:1-2 chúng ta đọc thấy về Thầy tế lễ tối cao lý tưởng:
“Phàm thầy tế lễ thượng phẩm, từ trong loài người chọn ra, thì vì loài người lập lên hầu việc Đức Chúa Trời, để dâng lễ vật và hi sinh vì tội lỗi. Người đã bị vây trong sự yếu đuối, nên có thể thương xót những kẻ ngu dốt sai lầm”.
Thượng Đế muốn các nhà lãnh đạo “đối xử cách nhẹ nhàng với những người không hiểu biết và bị hướng dẫn sai lầm” mà không tỏ ra thô bạo và cay cú. Các cấp lãnh đạo được cảnh giác về chính các khuyết nhược điểm của mình. Thánh Phao-lô cũng đưa ra một luận điểm tương tự trong lời chỉ giáo về việc đối xử với một anh em phạm tội: “Thưa anh em thân yêu, nếu có tín hữu nào bị tội lỗi quyến rũ, anh em là người có Thánh Linh hãy lấy tinh thần dịu dàng khiêm tốn dìu dắt người ấy quay lại đường chính đáng. Anh em phải cẩn thận giữ mình để khỏi bị quyến rũ” (GaGl 6:1).
Dịu dàng (nhu mì) là thái độ trái ngược với báo thù. Tinh thần của người tìm cách giúp đỡ một anh em sa ngã là hết sức quan trọng trong diễn tiến phục hồi.
Vấn đề là gì ? Vấn đề là thiếu nhạy cảm đối với các nhu cầu và cảm xúc của người khác. Các nhà lãnh đạo phải chăm sóc những người mà mình có trách nhiệm. Phải thật lòng muốn lãnh đạo và tạo động cơ thúc đẩy họ. Quần chúng sẽ theo các nhà lãnh đạo thuộc linh ý thức được rõ ràng trách nhiệm của mình là phải khai trình trước Thượng Đế về việc mình phải chăm lo săn sóc người khác.
“Hãy vâng lời kẻ dắt dẫn anh em và chịu phục các người ấy - bởi các người ấy tỉnh thức về linh hồn anh em, dường như phải khai trình - hầu cho các người ấy lấy lòng vui mừng mà làm xong chức vụ mình, không phàn nàn chi, vì ấy chẳng phải ích lợi gì cho anh em” (HeDt 13:7).
Nhưng nếu chúng ta không có lời nói hòa nhã tử tế, việc giao tiếp của chúng ta sẽ bị tiếp đón lạnh nhạt. Điều chúng ta nói có thể là phải là đúng, nhưng cách chúng ta nói có thể làm mất lòng thay vì giúp ích.
Bảng Tóm Tắt
Hành Động Nói Lớn Hơn Ngôn Từ
Các vấn đề sau đây ảnh hưởng sâu đậm đến công tác truyền thông của người lãnh đạo thuộc linh.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA CẤP LÃNH ĐẠO
1. Đâu là các mục tiêu dài hạn của bạn, và bạn làm thế nào để đạt được chúng?
2. Bạn nêu những tấm gương nào cho người khác về thái độ thiếu kiên trì nhẫn nhục của mình?
3. Bạn mô tả sự tăng trưởng thuộc linh chân chính như thế nào?
4. Bạn có thể loại ra khỏi đời sống mình những hoạt động nào để có thể bước đi thành công hơn với Chúa?
5. Muốn tránh bị chỉ trích, bạn có thể thay đổi gì trong cách tự đề cao hay tự quảng cáo trước mặt tha nhân?
6. Bạn từng giành lấy vinh quang đáng lẽ phải thuộc về Thượng Đế trong chức vụ và cách lãnh đạo của mình như thế nào?
7. Bạn có lợi dụng chức vụ khuyến giục người khác quyên trợ để trục lợi cho cá nhân không? Bạn có đường hướng chỉ đạo nào để giữ mình khỏi các động cơ thúc đẩy sai lầm?
8. Tha nhân có thể mô tả cách bạn nói chuyện với họ như thế nào?
9. Bạn có thể thay đổi những gì để có được thái độ hòa nhã tử tế hơn khi giao tiếp với tha nhân?
BẠN CÓ PHẢI LÀ MỘT CẤP LÃNH ĐẠO ĐƯỢC ÂN TỨ CỦA CHÚA CỨU THẾ KHÔNG?
Chúng ta đang cần loại lãnh tụ nào cho Hội Thánh ngày nay? Chúa Giê-xu không còn tại thế nữa, nhưng ở thiên đàng. Ngài đang xây dựng Hội thánh Ngài. Ngài biết Hội Thánh cần được lãnh đạo, nên hoạch định bốn loại lãnh tụ. Họ được đề cập trong Eph Ep 4:11, đó là: các sứ đồ, các nhà tiên tri, các nhà truyền đạo và mục sư - giáo sư. 4:7 gọi các phẩm cách để lãnh đạo đó là ân tứ.
Các Ân Tứ Lãnh Đạo
Có thể nào sau khi đã học tập nghiên cứu các nguyên tắc quản trị và các kỹ thuật lãnh đạo, học hỏi mọi điều cần phải biết, nhưng bạn vẫn chưa đủ điều kiện để làm một lãnh tụ giỏi, hay không? Lẽ dĩ nhiên là rất có thể! Nhưng tại sao? Có nhiều lý do. Một lý do quan trọng có thể liên quan với các ân tứ thuộc linh. Vấn đề là: Bạn có phải là một cấp lãnh đạo có ân tứ của Chúa Cứu Thế hay không? Và: Làm thế nào để bạn biết được mình là một người như thế?
Hãy bắt đầu bằng câu hỏi các cấp lãnh đạo có ân tứ đó được yêu cầu phải làm những gì. Trong 4:12, Thánh Kinh vạch rõ rằng bốn loại lãnh tụ ở đây sở dĩ được phân phối như thế là “để chúng ta phục vụ đắc lực cho Ngài, cùng nhau xây dựng Hội thánh, là thân thể Ngài”. Thật hết sức đơn giản, nhưng nói như thế có nghĩa gì? (Bản Anh văn ở đây có thể dịch ra là “để trang bị các thánh đồ cho công tác phục vụ...”).
Trang bị cho một ai đó có thể lấy thí dụ từ giới ngư dân để minh họa. Lúc các ngư dân vào thời của Thánh Kinh vá lưới, từ ngữ “trang bị” đã được sử dụng. Các lưới được cột chặt vào nhau để cá không thể thoát ra. Từ ngữ này cũng được dùng chỉ hai mảnh vật liệu được nối liền lại với nhau. Trang bị có nghĩa là bạn phải sắp xếp con người lại với nhau để họ có thể thực hiện một công tác quan trọng.
Thư IITi 2Tm 3:16, 17 cho chúng ta biết rằng Kinh thánh có kế hoạch trang bị cho người của Thượng Đế để thực hiện mọi việc lành. Từng tín hữu có thể tiếp tay xây dựng Thân thể Chúa Cứu Thế (gồm nhiều tín hữu khác) khi người ấy đã được trang bị đầy đủ. Người ấy đã được trang bị bằng Kinh thánh.
Công tác mà các tín hữu thực hiện để gây dựng người khác được gọi là “công tác phục vụ”. Thư IPhi 1Pr 4:10, 11 dường như cho thấy việc này ám chỉ cách sử dụng các ân tứ thuộc linh. Mỗi tín hữu ít nhất cũng được một ân tứ thuộc linh. Muốn sử dụng nó thật phải lẽ và có hiệu quả, người ấy cần được trang bị bằng kiến thức về Lời của Thượng Đế. Công tác được giao phó đã được phân phối cho bốn lãnh tụ được ân tứ của Eph Ep 4:11, các vị có trách nhiệm trang bị. Hậu quả là Thân thể của Chúa Cứu Thế sẽ được trang bị cả về số lượng lẫn về chất lượng.
Nhiều cấp lãnh đạo Cơ-đốc giáo sở dĩ bị thất bại trong công tác của họ, bởi vì họ đang làm những điều không phản ảnh đúng loại người mà Thượng Đế đã thiết kế để họ phải trở thành. Nói khác đi, thay vì công tác trong lãnh vực mà họ có các ân tứ, họ lại tìm cách làm những điều mà họ chẳng hề được trang bị để thực hiện.
Nếu bạn hiện đang phục vụ ở cương vị lãnh đạo trong công việc của Hội thánh, bạn thuộc vào loại nào trong số bốn loại lãnh tụ có ân tứ đó? Phải chăng bạn là sứ đồ? Nhà tiên tri? Nhà truyền đạo? Là mục sư - giáo sư? Bạn thích hợp với chức vụ nào?
Phải Chăng Bạn Là Một Sứ Đồ
Phải chăng Chúa Giê-xu chỉ có đúng 12 sứ đồ mà thôi? Vâng. Thế thì, làm thế nào để một người hiện nay có thể trở thành sứ đồ? Dễ thôi! Từ ngữ “sứ đồ” có nghĩa là người được sai phái. Rõ ràng là đã có nhiều người hơn từng được sai phái đi truyền giáo, chứ không phải chỉ có Mười Hai Sứ Đồ đặc biệt đã từng sánh bước với Chúa Giê-xu lúc Ngài còn tại thế.
Xin xem ICo1Cr 15:5-7 chỗ Phao-lô nói rằng Chúa Cứu Thế hiện ra cho mười hai sứ đồ, sau đó là cho “các sứ đồ”. Ngoài 12 vị sứ đồ, còn có tên vài vị sứ đồ khác nữa. Phao-lô (GaGl 1:1), Ê-pháp-ra (Phi Pl 2:25, bản NASB dịch là “sứ giả”), Ba-na-ba (Cong Cv 4:36), Tít (IICo 2Cr 8:33, bản NASB dịch là “sứ giả”); Si-la và Ti-mô-thê (ITe1Tx 1:1; 2:6), Anh-đô-ni và Giu-ni (RoRm 16:7); Gia-cơ, em Chúa (GaGl 1:19).
Một số các sứ đồ được dùng đặc biệt để viết các sách trong Thánh Kinh. Với các vị ấy, Thượng Đế có sự tiếp xúc đặc biệt và trực tiếp. Lời truyền dạy của các vị đã trở thành nền móng của Hội Thánh (Eph Ep 2:20). Các nhân vật này được gọi là “các sứ đồ thánh và tiên tri của Ngài” (3:5). Từ ngữ “thánh” có nghĩa là “riêng biệt” hay “được biệt riêng ra”.
Một vài nhóm sứ đồ và tiên tri đã được biệt riêng ra để viết Kinh điển. Ngày nay, thành phần sứ đồ ấy hoặc 12 sứ đồ cùng đi với Chúa Giê-xu không còn cần thiết nữa. Tên của Mười Hai Sứ Đồ sẽ vĩnh viễn trở thành đặc biệt (Mat Mt 19:28KhKh 21:14). Kinh điển đã hoàn tất.
Các sứ đồ khác đã được đề cập ở phần trên - những người khác đã được “sai phái” vốn không phải là các bạn thân đặc biệt từng sánh bước với Chúa Giê-xu, cũng không phải các vị đã viết Kinh điển. Thế các vị làm gì? Các vị là giáo sĩ vào thời của Thánh Kinh. Cũng như Phao-lô, các vị đã du hành từ nơi này sang nơi khác, thiết lập các Hội thánh và gây dựng tín hữu mới. Các vị ấy chịu trách nhiệm lãnh đạo việc phát triển trong các Hội thánh mới đó. Chính vì lý do ấy mà Phao-lô dạy Ti-mô-thê và Tít bổ nhiệm (hay chọn) các trưởng lão (giám mục) trong từng hội thánh mỗi nơi. Đó là công tác của một sứ đồ (Xem Cong Cv 14:21-28 để có một phần phân tích đầy đủ về những gì các vị sứ đồ hay nhà thiết lập hội thánh này đã làm).
Bạn có thể gọi các vị ấy là sứ đồ ,
người thiết lập Hội thánh , giáo sĩ tiền phong ,
hay thế nào tùy ý , nhưng dù sao chúng ta
vẫn còn cần đến những người như thế .
Ngày nay, chúng ta vẫn còn cần đến các sứ đồ theo ý nghĩa này. Có lẽ từ ngữ ấy đã bị thay đổi để có một danh từ mới, nhưng các vị vẫn còn cần thiết. Với hơn hai tỉ người trên thế giới vẫn chưa được nghe Phúc Âm của Chúa Cứu Thế, chúng ta vẫn còn cần đến những nhà tiên phong thuộc loại này. Bạn có muốn du hành đây đó không? Bạn có thích được niềm vui xây dựng một điều gì đó ngay từ phần nền móng trở lên không? Bạn có thích bắt đầu một việc gì đó, nuôi dưỡng nó, rồi giao nó lại cho người khác, không?
Tôi tìm được niềm vui làm công tác của một sứ đồ hay người thiết lập Hội thánh. Tôi đã phải mất nhiều thời gian hơn thánh Phao-lô, thế nhưng việc ấy cũng dễ hiểu thôi - tôi không phải là thánh Phao-lô! Tôi đã phải dành ra khoảng ba năm rưỡi để thiết lập một Hội thánh tại Columbus, Ohio. Đã có rất nhiều điều vui (cũng như một số chuyện đau đầu). Nhờ Thượng Đế ban phước, nhiều người đã được cứu, các cấp lãnh đạo được phát triển và Hội thánh đang tăng trưởng. Cấp lãnh đạo hiện tại đang hoạt động với công việc ấy giỏi hơn tôi nhiều, nhưng tôi đã có mặt tại đó khi mọi sự chỉ mới bắt đầu. Thật là điều đáng vui mừng! Thật là một đặc ân.
Bạn có thể gọi các vị ấy là sứ đồ, nhà thiết lập Hội thánh, giáo sĩ tiền phong, hay thế nào tùy ý, nhưng dù sao chúng ta vẫn còn cần đến những người như thế! Bạn có quan tâm đến công tác ấy không? Thượng Đế có đặt ước muốn đó trong lòng bạn không? Nó có vương vấn bạn, chiếm lấy phần lớn số thì giờ của bạn, không? Thế điều gì vẫn còn giữ bạn lại?
Phải Chăng Bạn Là Một Nhà Tiên Tri?
Nếu giữa một vài nhóm người nào đó mà bạn đưa ra câu hỏi: “Bạn có phải là một nhà tiên tri không?” thì đó là một câu nói đùa. Nếu bạn tưởng rằng một nhà tiên tri là người tiên báo tương lai, thì chắc chắn là họ không cần thiết cho ngày nay. Thánh Kinh đã dạy đủ cho chúng ta về tương lai và các sự việc sẽ biến chuyển như thế nào rồi. Nhưng ý niệm về nhà tiên tri là một người tiên báo tương lai, là một sản phẩm của thời trung cổ.
Từ ngữ tiên tri có nghĩa là “nói trước (mặt)”. Chẳng những nó ám chỉ người nói một việc trước khi nó xảy ra, mà theo cách dùng phổ biến vào thời của Thánh Kinh, nó còn có thể ám chỉ người lên tiếng trước một đám đông quần chúng. Trong xã hội cổ thời, nhà tiên tri là diễn giả nói trước công chúng. Các nhà tiên tri là những người mà ngày nay chúng ta gọi là nhà truyền đạo. Trong Hội thánh tại An-ti-ốt, có cả các nhà tiên tri lẫn các giáo sư (xem 13:1). Nhà tiên tri là những người truyền giảng, công bố chân lý của Thượng Đế.
Thượng Đế dạy các nhà tiên tri những gì phải nói ra. Trong thông điệp của họ, có một ý nghĩa về tính cách cấp bách và quan trọng. A-rôn là một nhà tiên tri, và dưới quyền điều khiển, hướng dẫn của Thượng Đế, ông chỉ là người phát ngôn của Môi-se mà thôi (xem XuXh 7:1). Có một số nhà tiên tri trong Tân Ước tiên báo tương lai (A-ga-bút, xem Cong Cv 11:28), trong khi nhiều vị khác chỉ chuyển bức thông điệp đem đến sự khích lệ và sức mạnh cho các tín hữu mà thôi (Giu-đa và Si-la, 15:32).
Chủ đích của việc nói tiên tri là nói với người ta để xây dựng, khuyến giục và an ủi (Xem ICo1Cr 14:3). Ân tứ này cũng được dùng để đem niềm tin đến cho người chưa tin Chúa (xem 14:24).
Tôi từng nghe một bà nọ, khi đề cập một diễn giả được mời đến giảng cho Hội thánh chúng tôi, nói: “Ông ấy là một nhà truyền đạo, nhưng không phải là một giáo sư!”. Tôi cũng từng nghe có người nói ngược lại: “Ông ấy là một giáo sư nhưng không phải là nhà truyền đạo”. Có lẽ chúng ta phải xét đến vấn đề các ân tứ trước khi phê bình quá khe khắt các loại hình thuộc linh khác nhau. Nếu nói tiên tri liên quan với nói trước mặt chứ không phải là nói (báo) trước, thì có lẽ nó tương đương với cách nói là truyền đạo ngày nay, chứ không phải với những người báo trước tương lai.
Nếu chức vụ của nhà tiên tri là diễn giả nói trước công chúng, trước những đám quần chúng đông đảo, thì chúng ta rất dễ hình dung ra nhu cầu về các nhà tiên tri cũng như về các mục sư - giáo sư thi hành chức vụ trong một chi hội địa phương. Ta có thể kết luận rằng hễ một Hội thánh càng phát triển (đám quần chúng càng đông đảo) thì càng cần thiết phải có nhà “truyền đạo kiểu mẫu” có thể giao lưu tiếp xúc có hiệu quả với cả đám đông quần chúng đông đảo đó.
Các “giáo sư kiểu mẫu” thích hợp với những nhóm ít người hơn và các lớp học. Cả các nhà truyền đạo lẫn giáo sư đều cần thiết. Theo một ý nghĩa thì người giảng cũng dạy, mà người dạy cũng giảng nữa. Một đàng thì chú trọng vào nội dung (giáo sư), một đàng thì chú trọng vào phần áp dụng (truyền đạo). Người này quan tâm đến vấn đề truyền thụ (giáo sư), người kia thì quan tâm đến phương pháp truyền thụ (truyền đạo).
Theo thiển ý (không phải là giáo lý, chỉ là một chút suy nghĩ thôi!) thì trong Hội thánh của chúng ta và trong cả ban giám đốc mục vụ của chúng ta, có cả hai loại chức vụ này. Chúng ta có những người am hiểu Lời Chúa và họ là các giáo sư giỏi (cả già lẫn trẻ) nhưng lại gặp khó khăn khi làm công tác truyền thông trước một đám quần chúng đông đảo. Điều này ảnh hưởng đến toàn diện sự trình bày của họ.
Chúng ta có những người khác rất thích “giảng” cho một đám đông người, hoặc tại tòa giảng hay ngoài bãi biển, trong một làng đại học với hàng trăm sinh viên. Một số dường như được ân tứ tiếp xúc để truyền thông và tạo động cơ thúc đẩy, trong khi nhiều người khác lại nổi bật hẳn lên trong việc sưu tầm, nghiên cứu và dạy dỗ. Trong Hội thánh, có đất dụng võ cho cả hai loại chức vụ này. Đã đến lúc chúng ta phải nhận thức mình có ân tứ gì. Có rất nhiều lãnh vực, nhiều người và nhiều chức vụ rất khác nhau cần sự giải thích trong Thánh Kinh.
Phải Chăng Bạn Là Một Nhà Truyền Đạo?
Thánh Kinh chỉ gọi một mình Phi-líp là nhà truyền đạo (xem Cong Cv 21:8). Ông vốn là một trong bảy chấp sự đầu tiên đã được chọn trong 6:1-15 để giúp các sứ đồ phân phối lương thực cho các quả phụ đang có nhu cầu. Ông là một người đạo đức và trung tín phục vụ tại Hội thánh Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên, Thượng Đế đã hướng dẫn ông vào chức vụ truyền giảng Phúc Âm tại Sa-ma-ri (xem Công 8) cũng như tại nhiều nơi khác nữa. Cuối cùng ông định cư tại Sê-sa-rê với cả gia đình.
Phi-líp đã làm gì? Ông truyền giảng Chúa Cứu Thế, ông nói cho những người khác biết về Chúa Giê-xu. Ông giảng đạo cho nhiều người trong xứ Sa-ma-ri cũng như cho một hoạn quan người Ê-thi-ô-bi trên đường từ Giê-ru-sa-lem trở về nước, trên chiếc xe ngựa của ông ta. Nhà truyền đạo là người giảng Phúc Âm. Niềm vui lớn nhất của ông là nói cho người khác biết làm thế nào để trở thành một Cơ-đốc nhân, và đưa họ tới chỗ biết rõ Chúa Cứu Thế. Phi-líp cũng làm báp-tem cho những ai đáp lại bức thông điệp của ông. Dù sao thì đây cũng là một phần tối quan trọng của Lời Ủy Thác Quan trọng của Chúa chúng ta (xem Mat Mt 28:19, 20).
Trong ban giám đốc của tôi, có nhiều người mà tôi tin là những nhà truyền đạo. Còn trong số các thành viên của Hội thánh chúng tôi, lại càng có nhiều người hơn nữa. Qua nhiều năm tôi đã nhận xét và thấy có một số điểm về những con người cá biệt này. Họ không thích ngồi tại bàn giấy cả ngày, trừ khi lúc họ đang nói chuyện với một ai đó về Chúa Cứu Thế. Họ thuộc hạng người có khuynh hướng hướng-tới-người-khác. Họ thích được đứng giữa nhiều người vây quanh mình. Họ thích trò chuyện với mọi người bất chấp gặp họ ở đâu. Họ luôn tìm đến với nhiều người, và nhiệt tâm của họ lây lan sang nhiều người khác.
Đại khái, sở trường của các nhà truyền đạo không phải là sưu tầm tra cứu. Họ phải tự ép mình để sưu tầm nghiên cứu. Mọi người đều phải học hỏi nghiên cứu Thánh Kinh, nhưng đối với họ, việc này không xảy ra dễ dàng. Họ yêu mến Lời Chúa và thường xuyên sử dụng nó, nhưng điều lý thú đối với họ không phải là ngồi lại trong một văn phòng để học hỏi nghiên cứu Lời Chúa suốt cả tiếng đồng hồ! Nếu họ ra đi luôn mấy tuần lễ mà chẳng đưa được một ai đến với Chúa Cứu Thế cả, họ sẽ chán nản và buồn phiền. Ước muốn quan trọng nhất của họ là thấy người ta được biết Chúa Cứu Thế. Họ là những tấm gương lớn cho toàn thể chúng ta trong phương pháp chia sẻ đức tin của mình với người khác. Tôi cũng nhận thấy họ đưa được nhiều người đến với Chúa Cứu Thế hơn là những nhân viên khác trong ban giám đốc, nhưng có được các ân tứ khác.
Ta đừng tìm cách khiến cho tất cả mọi người
đều nghĩ y như ta trong vấn đề phục vụ Chúa .
Thay vào đó , ta phải thừa nhận có nhiều điểm
khác nhau để tìm cách gây dựng lẫn cho nhau .
Phần bạn thì thế nào? Bạn có phải là một nhà truyền đạo không? Bạn có thích trò chuyện với người ta về Chúa không? Bạn có cảm thấy thất vọng khi không có được cơ hội để làm như thế không? Bạn có yêu thương người ta không? Bạn có thích thà trò chuyện với một người, còn hơn là làm việc tại một bàn giấy không? Những câu hỏi này và nhiều câu hỏi khác nữa phải được đặt ra cho tất cả những ai tin rằng mình được ân tứ truyền giảng Phúc Âm. Tất cả các Cơ-đốc nhân đều có trách nhiệm làm chứng đạo nhưng không phải mọi người đều được Thượng Đế ban cho ân tứ truyền giảng Phúc Âm. Những người được ân tứ ấy sẽ giúp ích được rất nhiều trong công tác huấn luyện người khác về phương pháp làm chứng đạo.
Điều cũng quan trọng là phải để cho các nhà truyền đạo được tự do thi hành chức vụ của họ. Ngày nọ, có một tín đồ thường trong Hội thánh chúng tôi dường như được ân tứ truyền giảng Phúc Âm, tỏ ra rất thất vọng. Ông ta được một Cơ-đốc nhân khác bảo rằng nếu ông ta không dạy được cho những người mà ông ta đưa đến với Chúa Cứu Thế để họ cũng trở thành các môn đồ của Chúa, là ông ta không vâng lời Chúa. Ông ta kể lại cho tôi về công việc làm và số thì giờ mà ông ta có thể có được. Ông tâm sự với tôi rằng trong mấy tháng vừa qua, ông đã đưa được tám người đến với Chúa Cứu Thế. Ông ta không có thì giờ để huấn luyện họ trở thành môn đệ Chúa, ông không thấy có ước muốn ấy.
Tôi đã đến với người từng bảo ông ta phải huấn luyện cho những người mình đưa đến với Chúa trở thành các môn đệ Ngài, và giải thích rằng những người được ân tứ truyền giảng Phúc Âm như thế phải được dành cho quyền tự do để thực hiện chức vụ ấy, và nhiều người khác có thể tiếp tay trong việc đào tạo số người mới tin Chúa kia trở thành môn đệ Chúa - nghĩa là chính ông ta phải làm công việc ấy! Ông ta đã thấy được vấn đề, là tức khắc bắt đầu giúp người anh em kia của mình để thỏa mãn các nhu cầu của những người mới tin Chúa nọ. Mọi người chúng ta đều cần thiết cho Thân thể Chúa Cứu Thế, nhưng các ân tứ của chúng ta vốn khác nhau. Chúng ta đừng tìm cách khiến cho tất cả mọi người đều nghĩ y như chúng ta trong vấn đề phục vụ Chúa. Thay vào đó, phải thừa nhận có nhiều điểm khác nhau để tìm cách gây dựng lẫn cho nhau.
Phải Chăng Bạn Là Một Mục Sư - Giáo Sư?
Phải chăng mục sư và giáo sư đều như nhau cả, và tất cả quí vị mục sư đều có trách nhiệm làm giáo sư? Có thể có những người là giáo sư nhưng không thể là mục sư hay không? Vì các ân tứ vốn khác nhau cả về thể loại lẫn trong cách thức chúng được sử dụng, chúng ta cần thận trọng để đừng quá độc đoán trong việc sử dụng các ân tứ. Tuy nhiên, Eph Ep 4:11 dạy rằng mục sư với giáo sư vốn như nhau. Trong Hi văn, cấu trúc của câu này đòi hỏi phải có bốn cấp lãnh đạo có ân tứ được đề cập, chứ không phải là năm. Ít nhất là trong văn cảnh này, một vị mục sư cũng chính là một giáo sư, và một giáo sư cũng chính là một mục sư.
Mục sư là một người chăn chiên, có trách nhiệm cung cấp lương thực và bảo vệ chiên mình. Để có thể cung cấp luơng thực, vị ấy phải là một giáo sư về Lời Chúa. Không phải tất cả quí vị mục sư đều có ân tứ thuộc linh để dạy dỗ được đề cập trong RoRm 12:7, nhưng tất cả quí vị mục sư đều có trách nhiệm phải dạy dỗ, không phải tất cả quí vị trưởng lão trong một Hội thánh đều là một mục-sư-giáo-sư (xem ITi1Tm 5:17), nhưng vị nào là mục sư cũng phải là giáo sư.
Mấy năm trước đây, có một thanh niên trong ngành phục vụ của chúng tôi cảm thấy Thượng Đế gọi mình vào chức vị lãnh đạo như một mục-sư-giáo-sư. Tôi khích lệ anh ta hãy bắt đầu chức vụ của mình trong chi hội địa phương, là nơi có nhiều người theo dõi quan sát, và các hoài bão cũng như ân tứ của anh ta sẽ được nhiều người khác xác nhận. Tất cả các lớp học Thánh Kinh mà anh ta tham gia với tư cách giáo sư đều giảm về sỉ số. Mọi người đều tỏ ra độ lượng, nhưng thành thật mà nói, thì anh ta không có khả năng dạy dỗ.
Cuối cùng, anh ta đã đến hỏi tôi về vấn đề này. Chúng tôi đã trò chuyện với nhau và thảo luận về tầm quan trọng của các ân tứ thuộc linh. Chúng tôi ghi nhận rằng điều quan trọng là phải nhận thức được mình không có những ân tứ nào để có thể bắt đầu tập trung chú ý vào các ân tứ mà chúng ta có. Anh ta đã hiểu ra vấn đề! Bây giờ, anh ta đã có được một chức vụ rất tốt, nhưng không phải là mục sư - giáo sư. Tôi vẫn thường tự hỏi chẳng hay anh ta sẽ bị thất vọng, chán nản như thế nào trong đời sống, nếu hồi đó, tôi cố gắng thuyết phục anh ta phải trở thành một mục sư - giáo sư, bất chấp chức vụ của anh ta trong lãnh vực ấy có chứng minh điều gì đi chăng nữa!
Rõ ràng việc ghép hai từ ngữ mục sư - giáo sư chung với nhau để mô tả chức vụ của một lãnh tụ có ân tứ, là một việc làm khôn ngoan. Một số quí vị giáo sư vốn không hề muốn phục vụ người ta với tư cách mục sư. Họ không có “tấm lòng của một người chăn chiên”. Một số người có lòng thông cảm và thương người của một vị mục sư, lại không thích dạy dỗ hay nghiên cứu Lời Chúa. Thế quân bình là điều vô cùng quan trọng.
Các mục tiêu của một vị mục sư - giáo sư tập trung vào việc khiến cho các tín hữu tăng trưởng để đạt mức trưởng thành. Một số lãnh tụ bộc lộ việc họ thiếu tấm lòng của một vị mục sư - giáo sư bằng những gì khiến họ quan tâm chú ý. Nếu mục tiêu chủ yếu trong chức vụ của bạn là thiết lập nhiều Hội thánh, thì có lẽ bạn là một vị sứ đồ, nếu mối bận tâm hàng đầu của bạn là đưa nhiều người về với Chúa, thì có lẽ bạn là một nhà truyền đạo; nếu bạn có lòng yêu thương người ta và mong ước truyền giảng, quảng bá Lời Chúa cho những đám quần chúng đông đảo, thì có lẽ bạn là một nhà tiên tri, và nếu bạn thích làm việc với một nhóm người mà bạn gọi là bầy chiên của mình để theo dõi chăm sóc cho họ tăng trưởng để đạt đến trưởng thành và bắt đầu phục vụ, gây dựng lẫn cho nhau, thì có lẽ bạn là một mục sư - giáo sư.
Chức vụ lãnh đạo trong Hội thánh của Thượng Đế đặt cơ sở trên tài năng. Nhưng tài năng đó phải là của Thượng Đế ban cho. Các ân tứ là kết quả của ân sủng. Chúng ta chẳng làm được gì cả để xứng đáng có được hay chiếm đoạt được các ân tứ ấy. Chúa Cứu Thế ban các lãnh tụ có ân tứ đó cho Hội Thánh, và Ngài trang bị họ bằng uy quyền và tài năng của Ngài để phục vụ, quản trị người khác.
Điều quan trọng là bạn phải tự khám phá ra là mình có được một ân tứ nào trong số bốn ân tứ dành cho các cấp lãnh đạo đó. Nó sẽ tức khắc bảo cho bạn biết mình phải phát triển loại chức vụ nào. Nó sẽ hướng dẫn cuộc đời bạn và cất khỏi bạn nhiều chán nản thất vọng do cố gắng trở thành một cái gì đó hay một người nào đó, vốn không phù hợp với người mà đáng lẽ bạn phải trở thành.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Bạn có tin rằng Thượng Đế đã chọn bạn làm một lãnh tụ cho Hội Thánh Ngài không? Hãy viết ra vài lý do cho thấy tại sao bạn lại cảm nghĩ như thế.
2. Bạn có ước muốn của một vị sứ đồ, là thiết lập nhiều Hội Thánh và đào tạo nhiều cấp lãnh đạo để thay thế bạn khi bạn rời khỏi đó không?
3. Bạn có tin rằng Thượng Đế đã kêu gọi bạn để truyền giảng Phúc Âm không?
4. Bạn có phải là một diễn giả thành công trước công chúng không? Bạn có thể truyền giảng như thế nào?
5. Bạn có thích nói về Chúa Cứu Thế cho nhiều người biết hay không? Họ thường trả lời bạn như thế nào?
6. Bạn có thích chia sẻ đức tin của mình với người chưa tin Chúa, hơn là dành càng nhiều thì giờ hơn để gây dựng các tín hữu khác, hay không?
7. Bạn có muốn phục vụ một nhóm tín hữu mà bạn có thể gọi là của riêng mình, hay không?
8. Bạn có khuynh hướng tập trung chú ý vào việc giúp cho các tín hữu đạt đến mức trưởng thành, hơn là chỉ tập trung chú ý đem sự cứu rỗi đến cho những người chưa tin Chúa mà thôi hay không?
9. Bạn có yêu thích truyền dạy Lời Chúa, và học hỏi nghiên cứu để thi hành chức vụ ấy, hay không?
CÁC ÂN TỨ THUỘC LINH CÓ GIÚP ÍCH GÌ KHÔNG?
Trong số rất nhiều ân tứ thuộc linh được liệt kê trong Tân Ước, có hai ân tứ liên quan với chức vụ lãnh đạo. Một là ân tứ mà chúng ta sẽ gọi là chính ân tứ lãnh đạo (xem RoRm 12:8), có khi cũng được dịch ra là “cai trị” hay “quản lý”. Ân tứ kia sẽ được chúng ta gọi là ân tứ quản trị (xem ICo1Cr 12:28).
Từ nhiều năm nay, tôi chú ý thấy những khác biệt lớn trong phong cách lãnh đạo của những người tham gia công tác phục vụ. Tôi đã cố tìm ra các thành phần chung có thể sẽ giúp chúng ta gây dựng các nhà lãnh đạo cho tương lai. Nhưng tôi thường gặp phải ngõ cụt! Tuy nhiên, có một vài yếu tố cơ bản vẫn còn được tôi chú ý. Tôi thường không dám chắc tại sao lại có những việc như thế, nhưng chúng vẫn có mặt ở đấy. Tôi xin giải thích điều tôi muốn nói!
*Một số nhà lãnh đạo là những người làm động cơ thúc đẩy, có một số là những nhà tổ chức.
*Một số làm việc rất giỏi trước mặt mọi người, một số khác lại làm việc rất giỏi tại bàn giấy.
*Một số luôn luôn làm việc “tùy hứng”, một số khác cần một biểu đồ hay phần mô tả công việc phải làm.
*Một số đòi hỏi phải có những mục tiêu cụ thể, một số khác thích giải quyết các vấn đề hiện tại.
*Một số rất ít quan tâm đến các chi phí, một số khác luôn luôn phải có tiền trước mặt mình.
*Một số cậy uy quyền của người khác, một số khác tự tạo lấy uy quyền cho mình.
*Một số tổ chức bằng số người vây quanh mình, một số khác tổ chức tùy theo công việc và nhiệm vụ.
*Một số hay cau có, quạu quọ, một số rất điềm tĩnh, trầm lặng.
*Một số đầy dẫy ý kiến mới, một số khác dành thì giờ để cân nhắc các ý kiến.
*Một số chẳng theo thời biểu nào cả, một số khác rất có kỷ luật.
*Một số bày biện lộn xộn đầy bàn giấy, một số khác thì chẳng chê trách vào đâu được.
*Một số làm cho số người chung quanh vui cười thích thú, một số khác lại khô khan, khắc khổ, khiến người chung quanh bối rối, lúng túng.
*Một số rất thích trò chuyện, một số khác rất ít nói.
Bảng liệt kê có thể cứ được kéo dài ra. Giữa mọi người, có nhiều điều khác nhau kỳ lạ. Thế nhưng, mỗi người đều là một nhà lãnh đạo. Phong cách tuy có khác nhau, nhưng tất cả đều đem lại nhiều kết quả.
Chúng ta có thể học hỏi được gì từ những điều này. Chỗ khác nhau là có thật. Xin chớ quá khe khắt mà phê bình, chỉ trích cách lãnh đạo của người khác. Có lẽ sau khi nghiên cứu các khúc sách mô tả ân tứ lãnh đạo, chúng ta sẽ dễ thông cảm hơn với những phong cách lãnh đạo khác nhau.
Bạn Có Ân Tứ Lãnh Đạo Không?
RoRm 12:8 mô tả “ai lãnh đạo, hãy tận tâm”. Từ ngữ lãnh đạo do hai từ ngữ ghép lại, “đứng” (stand) và “trước” (before). Đứng trước người khác là ý gốc của ân tứ lãnh đạo này. Nó chỉ một người thúc đẩy giục giã những người khác, và nhìn thấy công tác lãnh đạo trước hết là trong mối liên hệ của nó với tha nhân, chứ không phải là với các công tác. Nó được sử dụng tám lần trong Tân Ước, cũng như vài lần trong bộ Cựu Ước Hi văn.
Trong Tân Ước, nó ám chỉ người cha trong gia đình (xem ITi1Tm 3:4, 12), các vị giám mục (xem 3:5), các chấp sự (3:12), các trưởng lão
Thánh Kinh dạy rằng người có ân tứ trợ giúp
là người muốn giúp đỡ tha nhân bằng cách
thỏa mãn các nhu cầu của họ .
(5:17), và các tín hữu thỏa mãn các nhu cầu của những người thiếu đói và làm việc lành (Tit Tt 3:8, 14). Từ ngữ này vốn đã được sử dụng trong văn học Hi Lạp trước thời Chúa Cứu Thế, theo nghĩa là chủ trì hay hướng dẫn các buổi họp. Một ý niệm khác nữa là bảo vệ, che chở. Từ đó, nó còn có nghĩa là phụ tá, giúp đỡ và chăm sóc người khác. Xin chúng ta hãy xét kỹ vài sự kiện liên hệ đến ân tứ này.
Nó xảy ra trong sinh hoạt gia đình.
Phương diện này của chức vụ lãnh đạo là một phẩm cách phải có của các trưởng lão (giám mục) và chấp sự, vốn có cơ sở trên sinh hoạt trong gia đình của họ (ITi1Tm 3:4, 5, 12). Nó ám chỉ cách một người đối xử với con cái mình. Người ấy lãnh đạo chúng bằng cách chuyên tâm giữ chúng tuân thủ kỷ luật. Chuyên tâm ám chỉ thái độ của một người có một chủ đích nghiêm túc, đứng đắn, và biết tự trọng.
Con cái của một người sẽ phản ảnh cách chúng hiểu về địa vị của cha mình. Người cha phải phản ảnh một thái độ nghiêm túc đối với gia đình mình, coi trọng các nhu cầu về kỷ luật, dạy dỗ, và tạo động cơ thúc đẩy phải lẽ, đúng đắn của chúng. Chúng phải trông cậy vào quyền lãnh đạo của người cha.
Một ý nghĩa về tính cách cấp bách.
Chúng ta đã ghi nhận là Phao-lô kết hợp phương diện này của công tác lãnh đạo với việc chuyên tâm (RoRm 12:8). Phần mô tả ân tứ thuộc linh này gồm một câu đơn giản, đưa ra để giúp chúng ta nhận ra loại chức vụ lãnh đạo đã được Đức Thánh Linh ban cho. Mấy chữ “chuyên tâm” hàm ý “hối hả, vội vàng” hay “mau lẹ”. Người có ân tứ này được chú ý về “sự mau lẹ” mà người ấy đáp ứng các nhu cầu hiện hữu. Những người chần chừ lần lữa khi cần đáp ứng các nhu cầu của tha nhân, chứng minh rõ ràng là ân tứ thuộc linh ấy đã không có mặt, hoặc là họ đã không vâng theo những thúc giục từ Linh của Thượng Đế.
Muốn giúp đỡ.
Ân tứ lãnh đạo nẩy sinh từ ước muốn đáp ứng các nhu cầu (Tit Tt 3:8-14). Tương phản với những người xem chức vụ lãnh đạo là quyền ra lệnh cho người khác, Thánh Kinh dạy rằng người có ân tứ này là người muốn giúp đỡ người khác bằng cách đáp ứng các nhu cầu của họ.
Muốn hoàn thành việc này (3:1) ta phải tự dấn thân vào điều mà Tít gọi là “việc thiện”. Điều này phù hợp với lời chỉ giáo thường xuyên của Chúa chúng ta, rằng những ai muốn được địa vị có uy quyền nhất, phải học tập phục vụ tha nhân.
Có điều rất lý thú, là hãy tìm xem Thánh Phao-lô đã tin rằng các việc thiện quan trọng như thế nào. Trong 2:7, Thánh Phao-lô nói: “Chính con hãy làm gương sáng về các việc lành”. Rồi trong 2:14, ông bảo rằng một trong số các chủ đích của sự cứu chuộc, là để có người “sốt sắng làm việc thiện”. 3:1 vạch rõ chúng ta phải “sẵn sàng làm mọi việc thiện”. Và lẽ dĩ nhiên, lời răn bảo trong 3:8, 14 kết hợp “việc thiện” với từ ngữ “lãnh đạo” của chúng ta, và nhấn mạnh rằng các việc thiện ấy sẽ đáp ứng các nhu cầu cấp bách trong đời sống của những người mà người lãnh đạo chịu trách nhiệm.
Chăm sóc người khác.
ITi1Tm 3:5 đặt từ ngữ lãnh đạo (cai trị) song đôi với từ ngữ chăm sóc (tề gia). Lãnh đạo có nghĩa là chăm sóc người khác. Từ ngữ “chăm sóc” hàm ý hướng tâm trí vào đối tượng mình chăm sóc. Nó gợi ý quan tâm do yêu thương và chắc chắn là bảo vệ nữa.
Chính âm thanh của từ ngữ
“quản trị ” (administration )
đủ khiến cho nhiều người run sợ rồi ...
Nhưng đó là việc phải làm !
Câu chuyện về người Sa-ma-ri nhân từ trong LuLc 10:1-42 là một thí dụ rất hay, minh họa cho việc này. Trong hai câu 34,35, cùng một từ ngữ đã được dùng trong ITi1Tm 3:5 cũng được sử dụng và được dịch là “săn sóc”. Sau khi người Sa-ma-ri nhân từ đã chăm sóc cho kẻ bị thương, ông ta đưa người ấy đến quán trọ, và theo câu 35, ông ta đã trao cho chủ quán một số tiền và nói: “Hãy săn sóc nạn nhân”. Rồi ông ta còn hứa trả thêm bất cứ loại phụ phí nào khác nữa.
Thí dụ về việc chăm lo săn sóc cho người khác này bao gồm vấn đề cung cấp vật liệu và tài chính, do đó, gồm luôn các nhu cầu thuộc thể. Rõ ràng là những người có ân tứ lãnh đạo thuộc linh cũng phải lo cho các nhu cầu thuộc linh của những người dưới quyền lãnh đạo của mình nữa.
Một người có trách nhiệm lo lắng chăm sóc gia đình phải cung cấp các nhu cầu, bảo vệ mọi người để luôn luôn không gặp nguy hiểm và duy trì kỷ luật cũng như nắm quyền kiểm soát với tư cách người lãnh đạo gia đình. Một lãnh tụ thuộc linh cũng phải chăm lo săn sóc cho những người mà mình chịu trách nhiệm. Cần phải có một ý thức rõ về thẩm quyền và các mệnh lệnh, nhưng dường như yếu tố khiến mọi người phải đáp lại quyền lãnh đạo của người ấy lại đặt trên những phẩm chất của người ấy trong sinh hoạt gia đình cũng như sự quan tâm trong tình yêu của người ấy với những người chung quanh.
Một lãnh tụ giỏi là người biết che chở bảo vệ cho người thuộc quyền của mình, và quán triệt câu “tình yêu thương che đậy vô số tội lỗi”. Người ấy lo lắng chăm sóc cho các nhu cầu cá nhân của những người mà mình lãnh đạo, luôn luôn tìm cầu điều lợi ích, tốt lành cho họ. Người ấy nổi tiếng về các “việc thiện” của mình do biết tìm cách thỏa mãn các nhu cầu của đời sống người ta.
Nếu tất cả những ai đang có địa vị lãnh đạo phải tìm cách phát triển các nguyên tắc này, thì có một số người vốn chỉ đơn giản được Thượng Đế ban cho ân tứ ấy mà thôi. Các lãnh tụ ấy không lãnh đạo người ta bằng cách huấn luyện, giáo dục hay tài năng tự nhiên, nhưng là nhờ ân phúc Thượng Đế và chức vụ có một không hai của Đức Thánh Linh. Thật đáng vui mừng biết bao khi được làm việc với những người mà chúng ta thấy cuộc đời và tính khí của họ vốn do Đức Thánh Linh cai trị, kiểm soát, cũng như với những người vốn được Đức Thánh Linh ban ân tứ trong chức vụ lãnh đạo.
Các ân tứ để thúc đẩy giục giã.
Những người được ân tứ lãnh đạo thường là người thúc đẩy giục giã người khác. Người ấy làm việc với ước muốn được thấy mọi người tăng trưởng và phát triển. Người ấy lãnh đạo là để đáp ứng các nhu cầu. Khi có một nhu cầu, người ấy sẽ đáp ứng ngay. Người ấy thích đặt các chỉ tiêu cho người khác để tự mình thực hiện chúng cho họ. Người ấy cảm thấy mình hoàn thành công tác khi các mục tiêu ấy được hoàn tất. Người ấy tổ chức công việc trước nhất là qua người khác. Người ấy dành phần lớn thì giờ lãnh đạo của mình để trò chuyện với mọi người, giúp họ thấy rõ các vấn đề của họ và làm thế nào để họ có thể thành công hơn.
Có một thành viên trong ban giám đốc của chúng tôi là người khớp đúng với bức tranh này, đến văn phòng tôi để thảo luận về chức vụ của ông. Cả câu chuyện giữa chúng tôi đều liên quan đến các mục tiêu mà ông ta tự đặt ra cho mình và cho những người khác. Thật là lý thú và hồi hộp. Thượng Đế đã tạo ra ông ta như thế, và ông ta đang thực hiện một công tác phi thường. Ông ta thấy rõ tài năng và giá trị của mình qua các mục tiêu mình đã đặt ra. Bao lâu các mục tiêu của ông ta còn được đặt trên cơ sở là các mục tiêu đúng theo Kinh Thánh và thuộc linh, Thượng Đế sẽ ban phước cho chức vụ lãnh đạo của ông ta.
Bạn Có Ân Tứ Quản Trị Không?
Chính âm thanh của từ ngữ “quản trị” đã đủ khiến cho nhiều người run sợ rồi! Quản trị là một từ ngữ “kinh khủng” nhưng rất cần thiết trong mọi tổ chức. Nó là một công tác bạc bẽo, rất ít được người khác khen ngợi. Nhưng đó là việc phải làm!
Người làm công tác quản trị mà không có ân tứ trong lãnh vực ấy, chẳng bao lâu sẽ gặp rắc rối. Họ chán nản thất vọng vì phải đương đầu với quá nhiều chuyện chi li nhỏ nhặt và than phiền là có quá nhiều việc phải làm. Họ trì hoãn chần chờ. Công việc cứ chất chồng trên họ. Dường như họ chẳng bao giờ có đủ thì giờ để hoàn tất mọi việc. Họ tỏ ra căng thẳng với mọi người, họ bối rối, họ bị ý thức về trách nhiệm đè nặng lên người. Họ muốn bỏ cuộc (và nếu là người khác, chắc đã phải làm như thế rồi!).
Từ ngữ “quản trị” trong ICo1Cr 12:28 được dùng ba lần trong Tân Ước và vài lần trong bộ Cựu Ước Hi văn. Nó có nghĩa là “lái một chiếc tàu”. Nó ám chỉ người hoa tiêu hay người lái tàu. Từ ngữ “hướng dẫn” thường được dùng để mô tả công tác của người này.
Cùng một từ ngữ ấy cũng được dùng trong ChCn 12:5 của bộ Cựu Ước Hi văn để ám chỉ kẻ ác: “Tư tưởng người nghĩa chỉ là công bình, song “mưu luận” kẻ ác đều là giả dối”. Trong cả sách Châm ngôn, từ ngữ này có ý niệm là lời khuyên, nhất là có liên quan với việc hướng dẫn hay điều khiển.
Ngoài Thánh Kinh, từ ngữ ấy được dùng trong các văn phẩm của Plato để ám chỉ một người am hiểu các giờ trong ngày và mùa tiết trong năm, bầu trời, các vì sao, các luồng không khí, vv... Lẽ dĩ nhiên là kiến thức này rất hữu ích để giữ cho một chiếc tàu chạy đúng đường. Ý niệm “Hoa tiêu” hiện đại của chúng ta rất phù hợp với công việc này. Chúng ta học hỏi được nhiều điều về ân tứ quản trị theo cách mà từ ngữ này đã được dùng trong các nguồn vừa kể.
Định đường đi.
Những người có ân tứ quản trị chịu trách nhiệm định đường đi hay hướng dẫn chúng ta. Đời xưa tuy người lái tàu không phải là chủ nhân của chiếc tàu, người ấy có trách nhiệm lèo lái nó. Cũng có thể người ấy không phải là thuyền trưởng (Cong Cv 27:11). Nhiều khi chúng ta lẫn lộn trách nhiệm và bổn phận phải khai trình của người chủ tàu, với người được thuê để lo mọi việc trên chiếc tàu để đưa nó đến đúng nơi cần phải đến.
Nếu chiếc tàu được hiểu là chi hội địa phương (như trường hợp vẫn thường xảy ra trong Hội Thánh nguyên thủy) thì chủ nhân của nó phải là Chúa, còn người lái tàu có thể là người chịu trách nhiệm hướng dẫn chi hội ấy. Người lái tàu phải cho chiếc tàu chạy đúng đường. Người ấy phải giữ để chiếc tàu khỏi chạy sai đường và khỏi gặp nhiều nguy hiểm trên đường đi.
Một người có ân từ này đưa ra những quyết định ảnh hưởng đến hướng đi, theo đó “chiếc tàu” (hay Hội Thánh) phải chạy. Rõ ràng, đó phải là chiều hướng mà Lời Chúa dạy nó phải theo! Do đó, người có ân tứ này phải quan tâm giữ cho Hội Thánh (hay bất luận một nhóm người nào trong đó) đi đúng theo những gì Lời Chúa dạy nó phải làm.
Đưa ra các quyết định.
Tất cả chúng ta đều nghe câu “Không còn đùn trách nhiệm cho ai”. Vấn đề là chuỗi mệnh lệnh phải dừng tại bàn giấy của một người nào đó, và quyết định cuối cùng được đưa ra. Khi sự an toàn của hàng hoá hành khách bị đe dọa thì viên hoa tiêu phải có thể đưa ra những quyết định giúp bảo đảm cho việc chiếc tàu sẽ đến được đúng nơi muốn đến thật an toàn.
Khả năng quyết định là một chức năng quan trọng của ân tứ quản trị. Nhiều khi nó có nghĩa là cắt giảm những phương pháp, đường lối hoạt động, các nhân viên, nguồn tài trợ, vv...để giữ cho “chiếc tàu” tiếp tục chuyến đi thật an toàn. Trong lúc mỗi người chúng ta thỉnh thoảng phải đưa ra những quyết định, dầu vậy không phải tất cả chúng
Những người được ân tứ quản trị ý thức được trách nhiệm phải khai trình về những gì xảy ra , trong khi những người được ân tứ lãnh đạo khiến cho các sự việc xảy ra .
ta đều được Thượng Đế ban cho ân tứ để đưa ra các quyết định có lợi cho nhiều người khác. Trong vấn đề này có rất nhiều điều phải mạo hiểm, và nguy cơ thất bại vẫn luôn luôn ở trước mặt bạn. Nhưng, số người có ân tứ ấy được Thượng Đế ban cho lòng can đảm và tài năng để đưa ra các quyết định đó.
Mục tiêu của các tín hữu là sự trưởng thành (CoCl 1:28). Do đó, những người được ân tứ quản trị cũng phải quan tâm đến các phương pháp và cách nào không thể đưa đi sai lạc mục tiêu ấy. Họ phải tập trung chú ý vào những gì sẽ đưa mọi người tiến đến sự trưởng thành.
Cá tính của người lái tàu.
ChCn 12:5 vạch rõ “mưu luận của kẻ ác là giả dối” (Xin xem lời than vãn của các lái tàu hay hoa tiêu của những chiếc tàu tại Ta-rê-si trong Exe Ed 27:25...). Trái lại, lời khuyên ngay thật và một nếp sống tin kính, đạo đức là những gì được đòi hỏi khiến cho các quyết định của những người lái tàu phù hợp với những gì họ cần phải quyết định. Những cách làm tội lỗi sẽ làm suy giảm tài năng đưa ra các quyết định đúng của bạn trong công tác lãnh đạo thuộc linh.
Một ý thức trách nhiệm.
Những người được ân tứ quản trị có một ý thức rõ rệt về trách nhiệm và bổn phận phải khai trình. Chắc chắn chúng ta sẽ thấy được điều đó nơi một chiếc tàu chở hàng hóa và hành khách. Thật tai hại biết bao khi có người đưa ra những quyết định có ảnh hưởng đến sinh mạng của nhiều người mà lại không ý thức được trách nhiệm của mình đối với những người ấy! Nhưng vấn đề thật sự ở đây liên hệ với trách nhiệm khai trình, ấy là người lái tàu lại không phải là chủ tàu, nhưng là người làm công và phải hoàn toàn chịu trách nhiệm khai trình với ông chủ về việc hàng hóa và hành khách phải được đến nơi an toàn.
Trong các vấn đề thuộc linh, thì chủ nhân là chính Chúa Cứu Thế. Điều này đã được nhấn mạnh rõ ràng trong HeDt 13:17 khi câu ấy chép: “Hãy vâng lời những người dìu dắt anh em và theo đúng lời hướng dẫn của họ, vì họ coi sóc linh hồn anh em và chịu trách nhiệm trước mặt Chúa. Hãy vâng phục họ để họ vui vẻ thi hành nhiệm vụ. Nếu họ phiền muộn, chính anh em cũng chịu thiệt thòi”. Đấng mà chúng ta có trách nhiệm phải tính sổ, phải khai trình, là chính Chúa. RoRm 14:12 chép: “Như thế, mỗi chúng ta đều sẽ khai trình mọi việc trong đời mình cho Thượng Đế”. Các cấp lãnh đạo phải trả lời cho Thượng Đế về các quyết định và lời chỉ dẫn mình đưa ra.
Trong những vùng biển đầy bão tố.
Chẳng có lúc nào ân tứ quản trị lại bức thiết hơn là vào những thời giông bão. Khi mọi sự đều êm trôi thì dường như chẳng có ai chú ý đến sự hiện diện của “người lái tàu”, cũng chẳng thấy việc lèo lái và lãnh đạo của người ấy là cần thiết. Nhưng khi sóng gió của cuộc đời ập đến, đánh mạnh vào bên hông của con tàu chúng ta, và giông bão cứ ngày càng gia tăng cường độ, thì chừng đó, mọi người mới nhận thấy sự cần thiết phải trông vào “người lái tàu” để lãnh đạo mình. Trắc nghiệm đối với ân tứ quản trị là tài năng “vượt qua cơn bão” và lái con tàu quay trở lại với đường đi đúng của nó.
Trên con đường phục vụ Thượng Đế có rất nhiều “cơn bão”. Nhiều Hội Thánh và tổ chức Cơ-đốc giáo thường như sắp bị chìm, hay ít ra thì dường như đang bị dồi dập nghiêng ngã bởi những lượn sóng khó khăn, thử thách. Trong những lúc như thế, các cấp lãnh đạo thuộc linh thật sự có ân tứ quản trị cần thiết vô cùng. Họ đem bình an đến cho tấm lòng của những người đang sống trong cảnh bị bão tố, và có những quyết định sẽ đưa con tàu vượt qua giông bão an toàn.
Những người có ân tứ quản trị ý thức được trách nhiệm của họ đối với sự việc xảy ra, trong khi những người có ân tứ lãnh đạo khiến cho các sự việc xảy ra. Nhà quản trị có thể viết mọi việc ra giấy dễ dàng hơn người được ân tứ lãnh đạo nhiều.
Có một vài loại công tác lãnh đạo lại là việc trò chuyện với mọi người. Nhà quản trị cần có thì giờ ở riêng ra, xa cách với mọi người. Người ấy phải suy nghĩ thật cẩn thận về những quyết định sắp phải đưa ra. Người có ân tứ lãnh đạo đáp ứng tức khắc với một nhu cầu, trong khi nhà quản trị cần thì giờ để suy nghĩ về các chi tiết và tác dụng đối với nhiều người khác. Người lãnh đạo tự hỏi tại sao chúng ta lại không thể làm việc ấy ngay bây giờ, nhà quản trị thì biết lý do tại sao.
Hai ân tứ này họp thành một toàn đội quan trọng! Hai người vẫn hơn một, miễn là họ hiểu rõ các ân tứ của nhau và biết dành cho mỗi người quyền tự do để thi thố các ân tứ ấy. Nhược điểm của nhà quản trị sẽ được ân tứ của người lãnh đạo bổ khuyết, và ngược lại. Họ rất cần cho nhau.
Tôi rất vui mừng vì được từng trải những cuộc tranh chấp giữa công tác lãnh đạo và công tác quản trị với một anh bạn thân trong chức vụ. Anh ấy với tôi đã cùng cộng tác với nhau suốt bảy năm. Giờ đây, anh đã có một ngành phục vụ của riêng mình và đang phát triển tốt. Chúng tôi đã học hỏi được rất nhiều về nhau và về những điểm khác nhau giữa chúng tôi. Thời gian và sự trưởng thành đã chỉ rõ cho chúng tôi thấy rất nhiều điểm tương đồng. Cả hai chúng tôi đều là cấp lãnh đạo. Cả hai chúng tôi đều thích dạy dỗ và truyền giảng.
Anh ấy thúc đẩy, giục giã người ta giỏi hơn tôi, và tôi học hỏi được nhiều điều ở anh. Tôi nghĩ rằng về một vài phương diện, tôi là một nhà quản trị giỏi hơn, và tôi mong là anh ấy đã học hỏi được ở tôi. Chúng tôi vẫn còn là bạn tốt với nhau (nếu bạn có ngạc nhiên!). Cả hai chúng tôi đều phấn đấu trong việc nghiên cứu các ân tứ thuộc linh, và thấy chúng vốn quan trọng như thế nào trong mối liên hệ giữa chúng tôi với nhau.
Có một số người có ân tứ, và một số người khác thì không. Chúng ta thường phải làm công việc của mình, cả khi chúng ta không có ân tứ trong lãnh vực đó. Trong hoàn cảnh ấy, thì chúng ta chỉ thực hiện một vai trò mà thôi. Theo một ý nghĩa thì mọi người chúng ta đều có thể thi hành công tác lãnh đạo, tin cậy Thượng Đế giúp đỡ mình. Nếu chúng ta có ân tứ lãnh đạo, công tác của chúng ta sẽ dễ dàng hơn. Tuy nhiên, mọi người chúng ta đều có thể học hỏi các nguyên tắc của những ân tứ này để nhờ chúng mà được lợi ích, nhờ sức Chúa ban.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Bạn có thích làm việc với người ta hơn là làm những công việc đặc thù (cụ thể) không? Đâu là một vài đầu mối bảo cho bạn biết bạn thích công việc nào?
2. Bạn có muốn đáp ứng ngay các nhu cầu khi vừa nhìn thấy chúng chăng?
3. Bạn có cảm thấy muốn lo lắng chăm sóc cho những người dưới quyền lãnh đạo của mình không?
4. Bạn có cảm thấy mình có trách nhiệm đối với các sự việc xảy ra không? Đối với bao nhiêu sự việc? Bạn có phải làm “mọi việc” không?
5. Lúc bị căng thẳng hay gặp khó khăn, bạn có đưa ra các quyết định thật nhanh chóng không?
6. Bạn có sẵn sàng “mạo hiểm” để có thể tăng trưởng thành người đứng đắn không? Bạn có thể kể ra ba thí dụ mới đây, trong đó bạn đã phải “mạo hiểm”?

CÓ THỂ DÙNG PHỤ NỮ LÀM LÃNH ĐẠO KHÔNG?
Dường như nêu câu hỏi này ra chỉ là một nỗ lực vô ích mà thôi. Sách báo cũng như các chương trình video trong xã hội ngày nay đầy dẫy những sự việc và hình ảnh minh chứng và nêu rõ vai trò lãnh đạo của phụ nữ. Không còn ai cho phép kỳ thị nữa, thế nhưng phụ nữ vẫn còn bị thua kém về lương bổng và các địa vị lãnh đạo then chốt.
Ngày nay, trong các tập đoàn lớn, ngày càng có nhiều phụ nữ giữ các địa vị quan trọng cả về phương diện chính trị lẫn chấp hành, như chưa hề có trước đây. Áp lực là trên nam giới để họ chấp nhận vai trò của các phụ nữ trong công tác lãnh đạo, và thừa nhận họ có quyền đảm nhiệm bất kỳ một vai trò nào mà theo truyền thống, nam giới vẫn nắm giữ.
Các Mối Bận Tâm Liên Tục
Nhưng không phải mọi việc đều tốt đẹp trong phong trào đòi hỏi cho nữ giới được hoàn toàn bình đẳng với nam giới. Dường như có một vài điểm đòi hỏi phải có cách đối xử khác nhau, như việc thai nghén và chức năng thân thể, và nhiều phụ nữ đang yêu cầu được thông cảm và nâng đỡ nhiều hơn nữa trong các mối bận tâm ấy.
Con số phụ nữ quay trở về với vai trò và trách nhiệm nội trợ ngày càng tăng, rõ ràng là đã gây bối rối cho nhiều phụ nữ từng bênh vực và đẩy mạnh quyền bình đẳng trong xã hội. Phụ nữ trong lực lượng lao động đã đòi hỏi sự gia tăng và phát triển của các trung tâm chăm sóc trẻ con và các vấn đề kèm theo đó trong việc trưởng dưỡng những trẻ con như thế, hiện chỉ mới được bắt đầu chú ý và đánh giá mà thôi.
Tỉ lệ li dị vốn cao hơn trong những gia đình mà cả chồng lẫn vợ đều đi làm, đồng thời lại cố tìm cách trưởng dưỡng con cái. Con số các cha mẹ độc thân đang gia tăng, nhưng đa số lại là các phụ nữ đã li dị và đã tham gia lực lượng lao động, nhưng trong một chừng mực nào đó, vẫn phải duy trì sinh hoạt gia đình vì con cái họ. Một số người đã mô tả các sự kiện này là “tai họa” và là “thảm kịch” cho gia đình người Mỹ.
Mối Liên Hệ Với Hội Thánh
Trong các Hội Thánh thuộc nền văn hóa của chúng ta (Hoa Kỳ), người ta đang ngày càng ý thức nhiều hơn vấn đề phụ nữ với các vai trò lãnh đạo. Việc tấn phong cho các phụ nữ vẫn tiếp tục là một vấn đề gây tranh cãi và chia rẽ trong nhiều hệ phái. Hàng trăm chi hội, nhất là trong các khu vực nông thôn, hiện có các phụ nữ làm mục sư.
Trong hai mươi năm qua, con số phụ nữ được đưa vào các ban quản trị mục vụ cứ ngày càng tăng. Các phụ nữ này phục vụ trong các công tác lãnh đạo, từ các chức vụ phục vụ thiếu nhi, đến các hiệu trưởng các trường cao đẳng và đại học Cơ-đốc giáo. Nhiều phụ nữ đã tham gia các mục sư đoàn của các Hội Thánh lớn với cương vị Giám đốc các Hội phụ nữ phục vụ.
Hàng ngàn các Hội Thánh vẫn còn thắc mắc đặt vấn đề đối với việc đưa các phụ nữ vào trong các ban trị sự Hội Thánh, tin rằng làm như thế là vi phạm lời truyền dạy của Thánh Kinh, trong khi hằng ngàn những Hội Thánh khác đã đưa phụ nữ vào trong ban trị sự của họ từ nhiều năm nay rồi. Vấn đề dường như vẫn còn tồn tại.
Trong một vài khu vực, cuộc chiến đấu đã kết thúc và phụ nữ đã được tiếp nhận trên cơ sở là bình đẳng với nam giới trong mọi lãnh vực của sinh hoạt và công tác lãnh đạo Hội Thánh.
Tuy nhiên, sự thật là hằng ngàn Cơ-đốc nhân vẫn còn vật lộn với vấn đề này, và không dám chắc về lời truyền dạy của Thánh Kinh liên hệ đến vấn đề này. Họ cũng chưa chịu thuyết phục về các kết quả thực tiễn của những quyết định như thế sẽ đem đến cho sinh hoạt và cách hành đạo của Hội Thánh.
Đâu Là Vấn Đề Căn Bản?
Vấn đề này của các Cơ-đốc nhân liên quan với cách chúng ta hiểu và lý giải những khúc sách then chốt trong Thánh Kinh đề cập mối liên hệ giữa nam và nữ giới. GaGl 3:28 khẳng định rõ ràng quyền bình đẳng trong mối liên hệ giữa chúng ta với Chúa Cứu Thế Giê-xu “Sự chia rẽ kỳ thị giữa Do Thái và nước ngoài, giữa nô lệ và tự do, giữa nam và nữ đã chấm dứt, vì chúng ta đều hợp nhất trong Chúa Cứu Thế Giê-xu”. Trong thân thể Chúa Giê-xu, không còn có kỳ thị giai cấp và giới tính nữa, ở đó, tất cả chúng ta đều là anh em, chị em với nhau trong Chúa, và bình đẳng với nhau dưới chân thập tự giá.
Những khúc sách quan trọng gây nhầm lẫn và tranh cãi là ICo1Cr 11:1-16; 14:26-39ITi1Tm 2:8-15. Thêm vào những khúc sách này, còn có nhiều vấn đề liên hệ trong RoRm 16:1-2; Eph Ep 5:22-33; CoCl 3:18-25; ITi1Tm 3:1-13; Tit Tt 1:5-9; IPhi 1Pr 3:1-7.
Các vấn đề liên quan với công tác lãnh đạo của phụ nữ trong Hội Thánh thuộc các loại sau đây:
1. Việc một phụ nữ phải thuận phục chồng.
2. Việc hạn chế trong công tác giảng và dạy.
3. Việc đòi hỏi phải giữ im lặng trong những buổi nhóm lại thờ phượng công cộng.
4. Phẩm cách của các trưởng lão, giám mục và chấp sự.
Phụ Nữ Có Phải Thuận Phục Đàn Ông Không?
Nhiều xã hội ở Trung Đông và các nước thuộc thế giới thứ ba sẽ trả lời ngay là “có” cho câu hỏi này. Nhiều lãnh tụ trong Hội Thánh trong quá khứ và hiện tại cũng cảm thấy rằng Thánh Kinh dạy như thế.
Thuận phục chồng họ hay đàn ông nói chung?
ICo1Cr 11:3 thường được viện dẫn như chứng cứ hiển nhiên rằng phụ nữ phải thuận phục đàn ông nói chung: “Nhưng còn điều này tôi muốn nhắc anh em. Người nam là đầu người nữ, Chúa Cứu Thế là đầu người nam, Thượng Đế là đầu Chúa Cứu Thế”.
Cả khúc sách này (11:1-16) bàn về mối liên hệ đặc biệt giữa người nam và người nữ trong buổi nhóm thờ phượng công cộng. Phụ nữ được khuyên bảo phải trùm đầu lại, còn đàn ông thì được dạy là không nên làm như thế. Có một trong những vấn đề được khúc sách này đề cập khá dài là về tóc, và những người học hỏi nghiên cứu cũng như các học giả Thánh Kinh đều tranh luận là chẳng hay khúc sách này đòi hỏi một việc trùm đầu theo nghĩa đen (đội nón hay mũ) hoặc sự kiện đơn giản là tóc của phụ nữ được dùng như khăn trùm đầu là đủ rồi.
Hai câu 14,15 dạy rõ ràng: “Theo lẽ tự nhiên, người nam để tóc dài là tự sỉ nhục. Nhưng người nữ để tóc dài là làm vẻ vang cho mình vì người nữ được tóc dài để che phủ đầu mình”.
Toàn thể cuộc thảo luận được căn cứ vào lời truyền dạy của câu 3 liên hệ với lời khẳng định “người nam là đầu người nữ”. Phải chăng Thánh Phao-lô dạy rằng toàn thể phụ nữ đều ở dưới quyền và phải chịu sự lãnh đạo của toàn thể đàn ông?
Eph Ep 5:22-24 dạy: “Vợ phải tùng phục chồng như tùng phục Chúa. Vì chồng là đầu vợ, như Chúa Cứu Thế là đầu Hội Thánh, Ngài cứu chuộc Hội Thánh, là thân thể Ngài. Cũng như Hội Thánh vâng phục Chúa Cứu Thế, vợ phải vâng phục chồng trong mọi việc”.
Câu “là đầu vợ” cũng giống như câu trong ICo1Cr 11:3, ngoại trừ ở đây, bản dịch Việt văn vạch rõ rằng từ ngữ chỉ “vợ” ám chỉ vợ của chính
Thánh Kinh dạy người vợ phải vâng phục
chồng mình , chứ không phải vâng phục
chồng của một người khác
hay bất kỳ một người đàn ông nào khác .
người đàn ông ấy. Từ ngữ Hi văn (gunaikes) có thể chỉ một phụ nữ nói chung, dù còn độc thân hay đã có chồng, hoặc một người vợ. Văn cảnh phải xác định cách dịch của bản Việt văn là đúng.
Thánh Kinh luôn luôn truyền dạy trước sau như một, mà không hề tự mâu thuẫn. Câu trong ICo1Cr 11:3 đề cập quyền lãnh đạo của người chồng trên chính vợ mình, chứ không phải là của toàn thể đàn ông trên tất cả phụ nữ! Thánh Kinh dạy người vợ phải vâng phục chồng mình, chứ không phải vâng phục chồng của một người khác hay bất kỳ một người đàn ông nào khác.
Trong buổi nhóm thờ phượng công cộng.
Cùng một vấn đề ấy cũng thấy có ở 14:26-39 là khúc sách đề cập cách dùng lời tiên tri và nói tiếng lạ trong các buổi nhóm thờ phượng công cộng trong nhà thờ. Chúng ta đọc thấy mấy câu 34-36 chép như sau:
“Đàn bà phải nín lặng trong đám hội của anh em, họ không có phép nói tại nơi đó, nhưng phải phục tùng cũng như luật pháp dạy. Nhược bằng họ muốn học khôn điều gì, thì mỗi người trong đám họ phải hỏi chồng mình ở nhà; bởi vì đàn bà nói lên trong Hội Thánh là không hiệp lẽ. Có phải là đạo Đức Chúa Trời ra từ nơi anh em, hoặc chỉ đến cùng anh em mà thôi chăng?”
Một lần nữa, văn cảnh vạch rõ chữ “phụ nữ” ám chỉ “các bà vợ” chứ không phải là phụ nữ nói chung. Lời răn bảo này đề cập người vợ phải vâng phục quyền lãnh đạo của chồng mình, và khuyên người ấy đừng lên tiếng trong một buổi họp mặt công cộng, vì làm như thế có phương hại đến vai trò và trách nhiệm của chồng mình với cuơng vị một người lãnh đạo trong gia đình. Việc phải làm là nên hỏi riêng chồng mình lúc còn ở nhà.
Cùng một vấn đề như thế cũng thấy có trong ITi1Tm 2:8-12
“Vậy, ta muốn những người đàn ông đều giơ tay thánh sạch lên trời, mà cầu nguyện khắp mọi nơi, chớ có giận dữ và cãi cọ. Ta cũng muốn rằng những người đàn bà ăn mặc một cách gọn ghẽ, lấy nết na và đức hạnh giồi mình, không dùng những tóc gióc, vàng, châu ngọc và áo quần quí giá, nhưng dùng việc lành, theo lẽ đương nhiên của người đàn bà tin kính Chúa. Đàn bà phải yên lặng mà nghe dạy, lại phải vâng phục mọi đàng. Ta không cho phép đàn bà dạy dỗ, cũng không được cầm quyền trên đàn ông, nhưng phải ở yên lặng”.
Khi Thánh Kinh chép “Phụ nữ...phải yên lặng học hỏi với tinh thần vâng phục” là ám chỉ việc một người vợ phải vâng phục chồng mình. Khi văn bản chép “Phụ nữ không được dạy dỗ hay cầm quyền trên đàn ông” ta phải hiểu “đàn ông” ở đây là chính người chồng của người phụ nữ ấy (như trong bản dịch trên đây).
Hi văn dùng hai từ ngữ để chỉ người đàn ông. Chữ thứ nhất (anthropos) chỉ người đàn ông nói chung. Chư kia (aner) đặc thù (cụ thể) hơn và rất cần thiết cho một văn cảnh, nếu cách lý giải ám chỉ “một người chồng”. Trong tất cả ba trường hợp, ICo1Cr 11:3; 14:34-36; ITi1Tm 2:11-12, từ ngữ Hi văn chỉ “chồng” đều do aner chứ không phải anthropos, mà ra.
Thượng Đế rất quan tâm đến mối liên hệ giữa một phụ nữ với chồng mình, và bức thông điệp ấy thật rõ ràng. Vợ phải vâng phục chồng mình, chứ không phải một người đàn ông nào khác. Sự vâng phục này không liên hệ đến các trách nhiệm nói chung là vâng phục nhà cầm quyền vốn là trách nhiệm chung của cả người nam lẫn người nữ, nó liên hệ với mối liên hệ đặc biệt và có một không hai với chính người chồng của người phụ nữ ấy. Bà ta không nên dành sự vâng phục có một không hai ấy cho bất cứ một người đàn ông nào khác, nhưng chỉ dành cho chồng mình mà thôi.
Hội Thánh không hề bác bỏ, xem thường hay thay đổi mối liên hệ của một người vợ với chồng mình. Có một số tôn giáo và giáo hội trọng nam khinh nữ đã tìm cách thuyết phục các bà vợ phải vâng phục các cấp lãnh đạo giáo hội y như họ vâng phục chính chồng họ vậy. Hậu quả luôn luôn là tai hại và làm tan vỡ đạo vợ chồng cũng như các mối liên hệ gia đình.
Phụ Nữ Có Thể Giảng Dạy Không?
Điều đầu tiên chúng ta cần đề cập là điểm khác nhau rõ ràng giữa “bục giảng” trên toà giảng của nhà thờ, hay tại một giảng đường, và “giá đứng dạy” trong một lớp học Trường Chúa Nhật. Một số các Hội Thánh cho phép phụ nữ dạy dỗ trong các lớp học của Hội Thánh, nhưng tin rằng cho phép một phụ nữ đứng sau tòa giảng của nhà thờ là sai lầm. Loại tư tưởng này chen vào, khiến cho vấn đề thêm rắc rối. Nhưng bục giảng hay giá đứng dạy đều chỉ là những vật dụng vô thưởng vô phạt, có thể được sử dụng và nhìn vào theo cách mà chúng ta cho là thích hợp. Thánh Kinh không có chỗ nào phân biệt việc này cả.
Như chúng ta đã ghi nhận, ICo1Cr 11:1-16 đề cập các phụ nữ “nói tiên tri” trong những buổi nhóm công cộng của Hội Thánh. Có người tin rằng điều này ám chỉ việc nhận được một mặc khải đặc biệt và trực tiếp do sự thúc giục của Thượng Đế vào chính khoảnh khắc ấy, và nó phải được chia sẻ tức khắc. Nhiều người khác hiểu từ ngữ “nói tiên tri” có nghĩa là truyền giảng trước công chúng.
Giới từ “trước” trong từ ngữ Hi văn có thể có nghĩa là “trước khi một việc gì đó xảy ra” hoặc “trước mặt” (đối mặt, đối diện) với một nhóm người hay một đám cử tọa. Quan điểm sau này vốn được sử dụng phổ biến nhất để lý giải bối cảnh của Thánh Kinh vào thời kỳ ấy. Cho dù việc nói trước công chúng là về các biến cố tương lai hay chỉ đơn giản là rao truyền điều Thượng Đế đã phán dạy, cho dù đó là sử ký của quá khứ hay tiên báo các biến cố tương lai, đều chẳng ảnh hưởng gì đến vấn đề của chúng ta ở đây. Sự kiện là phụ nữ đã có tham gia công tác truyền giảng Lời Chúa trong hội chúng đông người của Hội Thánh.
Trong Thánh Kinh, có vài phụ nữ đã được gọi là “nhà tiên tri”. LuLc 2:36 đề cập một nữ tiên tri tên là An-ne. Đê-bô-ra, vị lãnh tụ chính trị đã phán xét dân Y-sơ-ra-ên, được Cac Tl 4:4 gọi là một nữ tiên tri. Nhà truyền đạo Phi-líp có bốn con gái là các nữ tiên tri (Cong Cv 21:9). Sự kiện đơn giản là: nhiều phụ nữ đã từng tham gia công tác truyền giảng Lời Chúa cách công khai.
Vấn đề nẩy sinh khi chúng ta cân nhắc các từ ngữ trong ITi1Tm 2:12 “Phụ nữ không được (phép) dạy dỗ hoặc cầm quyền trên chồng mình nhưng phải yên lặng”.
Như đã nêu rõ trước đây, các từ ngữ ở đây phải dịch ra là “vợ” và “chồng”. Nghĩa của động từ “dạy dỗ” chưa chia được làm sáng tỏ do phần câu song đối với nó, là “cầm quyền”. Vấn đề ở đây là mối liên hệ vợ chồng. Một người vợ chẳng bao giờ nên “phá hoại ngầm” uy quyền của người chồng trên mình. Uy quyền của người chồng là chiếc dù mà Thượng Đế dùng để che cho người vợ, là vinh dự của cuộc đời người vợ.
Nếu được người chồng cho phép và khích lệ, chẳng có lý do gì để một người vợ không thể thực thi các ân tứ dạy dỗ hay truyền giảng, nhưng việc này sẽ luôn luôn có thể nguy hiểm cho lời truyền dạy của Thánh Kinh liên hệ đến hôn nhân. Dạy dỗ Lời Chúa đã trở thành một vấn đề về uy quyền.
Bộ Sách Kỳ Diệu này mặc khải những gì Thượng Đế đã phán dạy. Chúng ta vẫn luôn đọc thấy trong bộ sách ấy câu “Đức Giê-hô-va phán vậy” và “có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng tôi như vầy”. Những câu khẳng định đó vang lên với uy quyền từ chính Thượng Đế.
Thượng Đế đã ban cho vợ tôi ân tứ quan trọng
là dạy dỗ và tài lãnh đạo . Tôi đứng đàng sau
để hậu thuẫn 100% cho bà ấy ,
và như thế là ...tôi cho phép bà ấy ....
Trong một cuộc hội thảo về hôn nhân do tôi hướng dẫn mấy năm trước đây, tôi có phỏng vấn một phụ nữ có các ân tứ lãnh đạo, có tài năng quản trị và dạy dỗ nổi bật. Vì chủ đề của buổi hội thảo cá biệt hôm ấy là vợ phải vâng phục chồng, nên cử tọa nhận thấy trường hợp của bà này là một thí dụ đặc biệt hấp dẫn. Câu hỏi được nêu lên cho bà ta là: “Bà làm thế nào để vừa thực thi quyền lãnh đạo trong Hội Thánh, mà đồng thời cũng vâng phục chồng mình?”
Đến đây, tôi đã chen vào trước khi bà ta trả lời. Do biết có chồng bà đang ngồi ở hàng ghế đầu, tôi bảo với cử tọa: “Tại sao chúng ta lại không hỏi chồng bà, xem ông giải quyết vấn đề này như thế nào?” Tôi vốn biết chồng bà ấy rất rõ. Ông ta không thích nói nhiều. Ông thuộc loại người mạnh mẽ, trầm lặng. Ông thích làm việc bằng đôi tay của mình và quả thật đáng mặt trượng phu, một cựu lực sĩ, cao to, có sức mạnh. Tôi sẽ không dễ dàng quên câu trả lời của ông ta hôm ấy. Ông miễn cưỡng lên máy vi âm, bảo nhỏ với tôi rằng tôi “phải nợ ông ta một điểm về việc này”, rồi bắt đầu trả lời câu hỏi nọ bằng mấy lời sau đây:
“Thượng Đế đã ban cho nhà tôi ân tứ quan trọng là dạy dỗ và tài lãnh đạo. Tôi đứng phía sau để hậu thuẫn 100% cho bà ấy, và như thế là...tôi cho phép bà ấy”. Cử tọa tự nhiên đồng loạt vỗ tay tán thưởng. Đây là một trong những khoảnh khắc hiếm hoi đã lưu giữ lâu dài trong ký ức tôi.
Các bà vợ cần được chồng mình hậu thuẫn, khích lệ và cho phép. Nếu thiếu những điều đó, nhiều vấn đề thường xảy ra trong chức vụ của người vợ. Khi được chồng nâng đỡ, các vấn đề sẽ tan biến và người phụ nữ thực thi quyền lãnh đạo của mình có hiệu quả. Đàn ông sẽ đáp lại quyền lãnh đạo của một phụ nữ khi họ biết rằng chồng của người phụ nữ ấy hậu thuẫn cho vợ mình, và chẳng hề có vấn đề gì trong mối liên hệ vợ chồng giữa họ với nhau.
Phụ Nữ Có Thể Được Tấn Phong Mục Sư Không?
Trong một số các hệ phái, quí vị mục sư được xem như trưởng lão. Trong trường hợp này, lời truyền dạy của Thánh Kinh không cho phép một phụ nữ làm mục sư. Trưởng lão, giám mục phải là những người làm chồng, làm cha. Tuy nhiên, nếu một chi hội địa phương nào đó có các trưởng lão vốn là những nguời chồng, người cha rồi, và không tự động xem mục sư của họ là trưởng lão, thì về phương diện “kỹ thuật” mà nói, một phụ nữ có thể được sử dụng làm mục sư mà không vi phạm lời truyền dạy của Thánh Kinh liên hệ đến các trưởng lão, giám mục. Các trưởng lão của Hội Thánh có thể dùng chức vụ của một phụ nữ như một mục sư, mà vẫn còn giữ được thẩm quyền tối cao để đưa ra các quyết định và các chính sách của Hội Thánh ấy.
Đây không phải là một vấn đề dễ giải quyết, và nó đã trở thành một điều hết sức nghiêm trọng, gây nhiều tranh cãi giữa các Cơ-đốc nhân. Tôi còn nhớ điều khó khăn khoảng 20 năm về trước, khi có một phụ nữ ở trong một ủy ban mục vụ của Hội Thánh. Hội Thánh của chúng tôi đã có một bước tiến mạnh bạo, là đưa một phụ nữ vào một địa vị then chốt trong ủy ban ấy. Bà này không phục vụ với tư cách trưởng lão, nhưng được các trưởng lão dùng để phục vụ và họ khích lệ chức vụ của bà. Mọi việc đều chứng tỏ là mọi người chúng tôi được phước lạ lùng.
Từ đó trở đi, tôi được đặc ân cùng làm việc với nhiều phụ nữ trong công tác lãnh đạo, nhiều ủy ban mục vụ, nơi tôi phục vụ. Các phụ nữ này đã có đời sống và nêu gương tốt về đạo đức tin kính, chứng minh được rằng phụ nữ có thể được dùng vào công tác lãnh đạo các chi hội địa phương khi họ không phục vụ với tư cách trưởng lão, mà chỉ hoạt động dưới quyền các trưởng lão.
Tôi từng thấy nhiều gương tốt trong công tác lãnh đạo, quản trị, cũng như tài năng dạy dỗ của nhiều phụ nữ đạo đức tin kính. Các nỗ lực kìm hãm, muốn ngăn trở phụ nữ trong công tác lãnh đạo là chống lại sự phát triển và có hại cho công việc của Hội Thánh. Sử dụng phụ nữ trong công tác lãnh đạo không nhất thiết là vi phạm lời truyền dạy của Thánh Kinh.
Bao lâu phần lớn các Hội Thánh còn xem quí vị mục sư truyền và dạy đạo của mình là trưởng lão, thì thật là khó cho các phụ nữ được phong chức và phục vụ trong các chức vị ấy. Địa vị đầy uy quyền mà chức vụ truyền và dạy đạo dành cho một người, là vấn đề độc nhất khiến các bà vợ không nên tiếm quyền chồng họ. Đây là một vấn đề khó giải quyết, nhưng không phải là không thể vượt qua. Các phụ nữ đạo đức tin kính sẽ biểu hiện thế quân bình tế nhị giữa việc quyết tâm sử dụng các ân tứ của họ để phục vụ Chúa, với ước muốn tuân thủ các lời răn bảo của Kinh thánh về mối liên hệ giữa một người làm vợ với chồng mình.
Thế Nào Là Một Phụ Nữ Tin Kính Đạo Đức?
Tit Tt 2:3-5 đưa ra cho chúng ta lời chỉ giáo cần thiết về các phụ nữ muốn phục vụ với tư cách các cấp lãnh đạo trong Hội Thánh của Chúa:
“Các bà già cũng vậy, phải có thái độ hiệp với sự thánh, đừng nói xấu, đừng uống rượu quá độ; phải lấy đều khôn ngoan dạy bảo, phải dạy đàn bà trẻ tuổi biết yêu chồng con mình, có nết na, trinh chánh, trông nom việc nhà, lại biết ở lành, vâng phục chồng mình, hầu cho đạo Đức Chúa Trời khỏi bị một lời chê bai nào”.
Từ ngữ “cũng thế” khiến lời dạy về các phụ nữ đạo đức tin kính này phải được đưa ra đối chiếu trực tiếp với lời dạy những người có tuổi (2:2) và các thanh niên (2:6-8). Đây là một phần của điều đã được mô tả là “giáo lý thuần chánh”. Giáo lý thuần chánh là lời truyền dạy “lành mạnh” ảnh hưởng đến nếp sống của người tin vào đó. Có ba điều được nói về các phụ nữ đạo đức tin kính.
1. Một phụ nữ đạo đức tin kính quan tâm đến mối liên hệ giữa mình với Chúa . Người như thế được mô tả là người “có nếp sống khả kính”. Từ ngữ “khả kính” ám chỉ một cái gì thiêng liêng cũng như thích hợp hay đứng đắn. Cách ăn ở cư xử của người ấy phù hợp với Thượng Đế và các định chuẩn của Ngài.
Người phụ nữ như thế có những niềm tin đặt cơ sở trên Lời Thượng Đế, chứ không phải trên các ý kiến riêng của mình. Trong tất cả những gì người ấy truyền dạy, nội dung đều được tập trung vào điều tự nó vốn là thiện hảo hoặc đức hạnh. Câu “dạy đạo lý” trong 2:3 đề cập những điều có tính cách luân lý đạo đức.
Câu 5 vạch rõ lời làm chứng và tiếng tốt rất quan trọng cho người phụ nữ ấy. Người như thế không muốn cho Lời Chúa bị xúc phạm (nói xấu, gièm pha). Đời sống của một phụ nữ như thế luôn luôn làm chứng rằng mình là một người đồng hành với Chúa, và quan tâm để cuộc đời và cách ăn ở cư xử của mình sẽ là những mẫu mực trước mắt người khác.
2. Một phụ nữ đạo đức tin kính biết tự chế trong cách đáp ứng với tha nhân . 2:3-5 mô tả người phụ nữ ấy biết tự chế trong một số lãnh vực:
a. Tự chế lời nói “không ngồi lê đôi mách”
b. Tự chế về mặt xã hội “không ghiền rượu”
c. Tự chế tình cảm “khôn khéo” (bản Anh văn dịch là sensible: nhạy cảm)
d. Tự chế về mặt tình dục “trinh chánh”
e. Tự chế bản thân “hiền hòa” (chỉ làm những gì có ích, có lợi cho tha nhân mà thôi)
Các phụ nữ đạo đức tin kính biết tự chế bản thân. ITi1Tm 3:11 chép rằng các phụ nữ lãnh đạo phải “nghiêm trang, không ngồi lê đôi mách, phải điều độ, trung tín trong mọi việc”. 2:9-10 thêm: “Phụ nữ phải ăn mặc đứng đắn, giản dị và thích hợp. Phụ nữ đã tin Chúa không nên phô trương kiểu tóc, vàng ngọc hay áo quần quí giá nhưng phải trang sức bằng việc lành”.
Ăn mặc “đứng đắn” ám chỉ cách ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ. Khi một phụ nữ ăn mặc giản dị và thích hợp, là người ấy chẳng những chỉ quan tâm đến các ý thích của mình, mà còn thận trọng không khêu gợi dục tính của đàn ông nữa. Người ấy không để cho nết đẹp bên trong của mình bị sự phô trương bề ngoài che lấp đi. Thượng Đế không chống lại các món trang sức, kiểu tóc hay y phục đẹp. Ở đây Ngài cảnh cáo tánh phô trương, việc tin cậy vào bề ngoài mà chẳng quan tâm gì tới bên trong. IPhi 1Pr 3:3-4 chép như thế này:
“Chớ tìm kiếm sự trang sức bề ngoài như gióc tóc, đeo đồ vàng, mặc áo quần lòa loẹt; nhưng hãy tìm kiếm sự trang sức bề trong giấu ở trong lòng, tức là sự tinh sạch chẳng hư nát của tâm thần dịu dàng im lặng, ấy là giá quí trước mặt Đức Chúa Trời”.
Các phụ nữ đạo đức tin kính ăn mặc là để làm đẹp lòng Chúa và chồng mình. Họ không tìm cách quyến rũ hay dụ dỗ các đàn ông khác ngoài chính chồng họ bằng cách ăn mặc của mình. Thế giới của chúng ta vốn thiếu thận trọng trong các vấn đề này. Nhưng các Cơ-đốc nhân thì bước đi theo một nhịp điệu khác hẳn với người thế gian. Chúng ta phải thường xuyên đánh giá tất cả những gì mà thế gian đề xuất và khuyến khích chúng ta mua sắm và ăn mặc, nhất là trong lãnh vực y phục. Khi chọn y phục, chúng ta phải tự vấn: Ăn mặc như thế thì có đẹp lòng Chúa không? Nó có khuyến khích, quyến rũ về mặt tình dục và khiến người khác tin rằng chúng ta đang muốn sống buông thả, “thác loạn” không?
3. Một phụ nữ đạo đức tin kính đảm nhiệm việc nội trợ . Lúc chúng tôi làm giấy tờ thuê nhà, nhân viên phụ trách công tác ấy hỏi nhà tôi: “Và thưa bà Hocking, thế bà công tác ở đâu ạ?” Nhà tôi đáp: “Tôi làm công tác nội trợ”. Viên chức ấy hỏi vặn: “Nhưng, bà có một việc làm thường xuyên không ạ?” Nhà tôi nói: “Đó là việc làm thường xuyên của tôi, một công việc tốt nhất trên đời đấy!”. Sau câu trả lời đó, viên chức nọ quyết định tiếp tục thảo luận với chúng tôi.
Một phụ nữ đạo đức tin kính là một người yêu chồng, yêu con (Tit Tt 2:4). Từ ngữ Hi văn ở đây vốn do gốc philia mà ra, ám chỉ loại tình yêu thương bao gồm cả tình bạn thân thiết. Một phụ nữ đạo đức tin kính là một người bạn thiết của chồng, con mình. Việc người ấy coi trọng nhà riêng được phản ảnh trong câu “biết tề gia nội trợ”.
Người phụ nữ trong ChCn 31:10-31 rất siêng năng, biết kinh doanh nhiều ngành nghề và thông thạo việc hối đoái, nhưng tề gia nội trợ là trách nhiệm và là đặc quyền hàng đầu. Người phụ nữ đạo đức tin kính thành thật kính trọng địa vị và quyền lãnh đạo của chồng mình. Như văn bản chép, người ấy “tùng phục chồng, hầu cho đạo Thượng Đế không bị xúc phạm”.
Các phụ nữ đạo đức tin kính rất cần cho công tác lãnh đạo trong các Hội Thánh của chúng ta - các phụ nữ không vi phạm các định chuẩn của Thánh Kinh là biết vâng phục chồng mình, không muốn tiếm quyền chồng. Các phụ nữ đạo đức tin kính không tìm cách trở thành các trưởng lão của Hội Thánh hay chiếm đoạt các địa vị có uy quyền để chứng minh rằng họ bình đẳng với đàn ông. Họ là các tôi tớ của Chúa, biết sử dụng các ân tứ lãnh đạo, quản trị và dạy dỗ của mình để nêu gương cho người khác và làm đẹp lòng Chúa. Chúng ta cần họ, và cầu xin Chúa tăng thêm số người như thế trong các chi hội địa phương của chúng ta!
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Phụ nữ có phải vâng phục đàn ông không?
2. Theo ý bạn thì tại sao phần lớn các Hội Thánh không thích sử dụng phụ nữ trong các địa vị lãnh đạo then chốt?
3. Bạn có những gương tốt nào để nêu ra về các phụ nữ trong Thánh Kinh từng được sử dụng vào các vai trò lãnh đạo như thế nào?
4. Tại sao phụ nữ không thể làm trưởng lão hoặc giám mục trong Hội Thánh?
5. Bạn có tin rằng phụ nữ có thể làm mục sư cho các chi hội địa phương không? Tại sao?
6. Vấn đề liên hệ với việc phong chức (mục sư) cho phụ nữ là gì?
7. Thế nào là một phụ nữ đạo đức tin kính?
8. Bạn có thể đưa ra một thí dụ về một phụ nữ hiện đang là cấp lãnh đạo, dường như đã hoàn thành các trách nhiệm theo Thánh Kinh dạy, và vẫn giữ được sự vâng phục chồng mình như một phụ nữ đạo đức tin kính không? Bạn thấy nơi người phụ nữ ấy có những đức hạnh nào mà người khác có thể noi theo?
PHẢI CẨN THẬN ĐỐI VỚI BẢN THÂN
Tại sao chúng ta lại làm công việc mình đang làm đây? Dường như Gie Gr 17:9, 10 cho thấy bản thân chúng ta không thể biết được điều đó, rằng chúng ta vốn dối trá và gian ác. Chỉ một mình Thượng Đế mới biết rõ thật ra chúng ta là người như thế nào. Chính vì lý do ấy mà chúng ta cần học tập nghiên cứu bộ sách chỉ dẫn của Ngài (Thánh Kinh). Trong bộ sách ấy, Thượng Đế tiết lộ rất nhiều điều về các động cơ thúc đẩy chúng ta.
Tầm Quan Trọng Của Phần Động Cơ Thúc Đẩy
Sở dĩ thế giới kinh doanh quan tâm đến phần động cơ thúc đẩy bởi vì nó liên quan với lợi lộc tập thể. Các quan điểm về thành công và thất bại hiện nay thường có liên quan với phần động cơ thúc đẩy. Cái gọi là “hạnh phúc ở đời” (các Cơ-đốc nhân gọi là phước hạnh) dường như chỉ dành riêng cho những ai có được phần động cơ thúc đẩy cao.
Kỹ nghệ quảng cáo chú trọng vào phần động cơ thúc đẩy. Các nhà quảng cáo thường xuyên bảo với chúng ta rằng những gì chúng ta mặc không còn hợp thời nữa. Họ nhắc nhở chúng ta rằng các “vật dụng” của chúng ta đều đã lỗi thời cả rồi, và đều rất cần được sửa chữa, tân trang. Chúng ta bị thúc đẩy phải mua một sản phẩm mới - đó là lẽ dĩ nhiên.
Từ lâu, các nhà tâm lý học đã biết rõ tầm quan trọng của phần động cơ thúc đẩy. Các mẫu mực về ăn ở ứng xử, dù tốt hay xấu, đều liên hệ trực tiếp với phần động cơ thúc đẩy người ta. Các quyết định dù lớn dù nhỏ, đều chịu ảnh hưởng của phần động cơ thúc đẩy. Người ta đã dành ra rất nhiều thì giờ dùng phương pháp nội quan và phân tích (tâm lý) để tìm xem tại sao thiên hạ lại phản ứng như cách họ đã làm.
Động cơ thúc đẩy là một đề tài tối quan trọng trong công tác lãnh đạo nữa. Ngày nay, sở dĩ người ta tức khắc thắc mắc đặt vấn đề về sự khôn ngoan của một quyết định của một cấp lãnh đạo, chỉ vì họ đã phải chịu ảnh hưởng của các lãnh tụ có các động cơ thúc đẩy sai lầm trong quá khứ. Ta vẫn nghe những câu như “Ông ta làm như thế chỉ vì bản thân ông ta mà thôi” hay “Tôi sắp phải lãnh đủ điều phải xảy đến cho mình rồi” hoặc “Tất cả bọn họ đều như nhau mà thôi, đừng tin họ”. Khi có một ai đó thành công, thiên hạ sẽ bảo: “Nếu bạn biết rõ anh ta, bạn mới biết tại sao anh ta lại làm như thế!” Chúng ta thắc mắc đặt vấn đề đối với các động cơ thúc đẩy người ta.
Có sáu lãnh vực, trong đó người lãnh đạo thuộc linh phải thận trọng đặc biệt đối với phần động cơ thúc đẩy mình. Trong mỗi lãnh vực có một động cơ thúc đẩy không chính đáng, có thể hủy hoại sự thành công của người lãnh đạo thuộc linh.
Phải Cẩn Thận Đối Với Địa Vị Có Thể Dẫn Tới Kiêu Ngạo
Ước muốn trở thành người đứng đầu về đủ mọi mặt vốn bắt nguồn từ sự kiêu ngạo, là điều mà Thượng Đế thù ghét (xem ChCn 6:17).
Kiêu ngạo xung khắc với tinh thần phục vụ.
Kiêu ngạo chú trọng vào các danh vị thấp hèn và các chức vị phù phiếm chóng qua. Nó muốn được công chúng ghi công và tìm cách phô trương trước mặt tha nhân. Người có động cơ thúc đẩy là địa vị có xu hướng coi trọng uy quyền của mình hơn là việc mình có thể phục vụ người khác.
Địa vị làm mù mắt chúng ta, khiến chúng ta không nhìn thấy các cảm nghĩ của những người chung quanh hoặc dưới quyền ta. Các quyết định sẽ được đưa ra mà không có sự thông cảm và lòng nhân ái. Uy quyền được xem như một tước vị hay một phần mô tả công tác (tất nhiên vốn là một phần của nó) chứ không phải là một trách nhiệm và chỉ một mình Thượng Đế mới có thể giúp bạn chu toàn mà thôi.
Khi nói ra mọi điều trên đây, chúng tôi không hề có ý muốn nói rằng tước vị, chức vị và những phần mô tả công tác đều không quan trọng hay phải bị xem thường. Thượng Đế vốn có cả một chuỗi mệnh lệnh phải ban truyền trong gia đình, Hội Thánh, công việc kinh doanh,vv... Chúng ta được chỉ giáo phải vâng phục mọi loại uy quyền, bất chấp các động cơ thúc đẩy hay tầm cỡ thuộc linh của các nhà cầm
Người lãnh đạo giỏi có tấm lòng của kẻ làm đầy tớ .
Người ấy chẳng tây vị ai cả , nhưng biết học tập
để làm “nô lệ cho mọi người ”.
quyền đó. Điều chúng ta quan tâm là thái độ của vị lãnh tụ, chứ không phải là trách nhiệm của những người dưới quyền lãnh đạo của vị ấy.
Chúa Giê-xu đã minh họa vấn đề này trong các nhận xét của Ngài về các thầy dạy luật và Biệt lập (Mat Mt 23:6-12). Vấn để của họ là háo danh và muốn được địa vị cao. Họ ưa “ngồi ghế danh dự” và “ghế hội trưởng trong các hội đồng”. Họ muốn được mọi người tôn trọng. Họ biết rất ít về thế nào là trở nên một kẻ tôi tớ.
Ba động cơ thúc đẩy căn bản giải thích lòng tham địa vị của một lãnh tụ.
Lòng tham được nắm uy quyền tối cao . Người tham địa vị rất khó có được động cơ thúc đẩy là sẵn sàng phục vụ tha nhân. Trong mọi quyết định và kế hoạch, họ đều muốn chính họ là lời đáp tối hậu. Có một lúc nào đó, các nhà cầm quyền phải đưa ra một quyết định tối hậu, nhưng bất kỳ một cấp lãnh đạo từng trải và có nhiều trách nhiệm nào cũng sẽ nhanh chóng bảo cho bạn biết rằng một uy quyền như thế là một gánh nặng như thế nào đang đè trên cuộc đời bạn.
Các quyết định của bạn có ảnh hưởng đến cuộc đời của nhiều người khác. Người lãnh đạo giỏi có tấm lòng của kẻ làm tôi tớ. Người ấy chẳng tây vị ai cả, nhưng biết học tập để làm “nô lệ cho mọi người” (Mac Mc 10:42-45).
Ước muốn nắm quyền thống trị . Ước muốn kiểm soát và thống trị tha nhân có thể nẩy sinh từ một hình ảnh nghèo nàn và bất an về bản thân. Nếu một người tự cảm thấy bất an hay cảm thấy công việc làm của mình không được an toàn, người ấy sẽ có khuynh hướng thống trị người khác. Người ấy sẽ hài lòng một phần nào đó, khi biết rằng mình đang cầm quyền kiểm soát trên người khác.
Cảm thúc này nẩy sinh từ tánh kiêu ngạo, chứ không phải tinh thần khiêm hạ. Nó không nhận thức được tầm quan trọng của mỗi một cá nhân. Nó khước từ, không chịu chấp nhận các ý kiến khác nhau. Nhiều khi một lãnh tụ muốn nắm quyền thống trị vì sợ các kết quả của sự thất bại. Ông ta cố giấu kín các sai lầm, khuyết điểm của chính mình trước tha nhân bằng cách đàn áp, kiểm soát, thống trị họ.
Ước muốn được khâm phục . Một số người muốn trở thành cấp lãnh đạo chỉ vì tưởng rằng người có địa vị cao sẽ được mọi người quan tâm chú ý. Cấp lãnh đạo có động cơ thúc đẩy là địa vị cảm thấy “những chiếc ghế cao nhất” và “sự đãi ngộ hậu hĩ nhất” thuộc về người có địa vị cao. Ước muốn được tha nhân tôn trọng phản ảnh tinh thần tự tôn tự đại.
Được kính trọng là kết quả của một nếp sống đạo đức tin kính, của con người có cá tính thủy chung như nhất, chứ không phải là của địa vị cao. Nếu nếp sống của bạn không đẹp lòng Chúa, người ta có thể tỏ ra kính trọng bạn ở mặt ngoài, nhưng bên trong thì oán ghét quyền lãnh đạo của bạn.
Tôi từng biết một người muốn được địa vị cao. Điều đó bộc lộ trong cách trò chuyện, đi đứng, ăn mặc của ông ta. Những người làm việc cho ông bảo rằng ông ta rất ngạo mạn và tự cao. Chỉ cần vào văn phòng của ông ta là thấy ngay điều đó. Ông ta treo trong văn phòng của mình đủ thứ phần thưởng, huy chương, thành tích và bằng khen, giấy khen. Dường như chúng là những “lá bùa hộ mệnh” cho ông ta vậy. Tôi cảm thấy tiếc rẻ cho ông ta. Ông ta là một kẻ cô độc, vô phúc và rất bất an.
Đâu là giải pháp cho vấn đề lãnh đạo mà mọi người chúng ta đều bị cám dỗ này? Khiêm hạ; hãy tự đánh giá mình dưới ánh sáng của sự tán thưởng và khen ngợi của Thượng Đế; hãy làm tôi tớ cho mọi người. Đó là giải pháp duy nhất. Hãy lánh xa mọi hư danh giả tạo và nông cạn phù phiếm, chúng ta càng ít bám vào những điều đó bao nhiêu, sẽ càng tự chứng minh được là mình quan trọng bấy nhiêu. Hãy dứt khoát với những điều kém giá trị. Hãy cố chiếm cho kỳ được bằng cấp của kẻ làm tôi tớ. Đó là địa vị đáng vui mừng nhất!
Hãy Cẩn Thận Đối Với Động Cơ Thúc Đẩy Là Tiền Bạc
Động cơ thúc đẩy của thế gian thường là đồng tiền. Như chúng ta đã thấy (ở chương 6), các cấp lãnh đạo Cơ-đốc giáo cũng cần hết sức thận trọng đối với bản thân trong lãnh vực tiền bạc. Tiền bạc tự nó không phải là tội nhưng tham tiền mới là tội lỗi (ITi1Tm 6:10). Không phải vì bạn nghèo mà bạn trở thành người thuộc linh. Nhưng tiền bạc chỉ là một công cụ, chứ không phải là một ông chủ để có thể cai trị kiểm soát bạn (Mat Mt 6:24). Tham tiền hay ham làm giàu có thể là nguyên nhân tạo ra rất nhiều vấn đề (ITi1Tm 6:9, 10).
Một người bạn của tôi phải rời chức vụ vì một món nợ không trả nổi. Anh ta vì thiếu thận trọng nên đã phải trả giá là chức vụ lãnh đạo của mình. Một anh bạn khác bỏ chức vụ vì đối với anh ta tiền bạc quan trọng hơn chức vụ. Anh ta thích được giàu có và các thú vui mà tiền bạc có thể đem đến. Anh ta cũng bị mất chức vụ lãnh đạo.
Tại sao tiền bạc lại gây ra nhiều vấn đề như thế? Tại sao các cấp lãnh đạo lại khước từ phước hạnh Chúa ban cho chức vụ của họ chỉ vì mấy miếng bạc? Tiền bạc ảnh hưởng đến việc thực thi quyền lãnh đạo thuộc linh như thế nào? Xin bạn hãy tự đặt cho mình ba câu hỏi sau đây.
Có phải tôi làm lãnh đạo là vì được trả lương?
Khi lý do khiến bạn làm việc bạn đang làm là vì bạn được trả lương, hay vì đó là một đòi hỏi có ảnh hưởng đến lương bổng của bạn, thì công tác lãnh đạo của bạn đã bị suy yếu rồi. Có một số quí vị mục sư thẩm định ý chỉ của Thượng Đế trong việc hướng dẫn họ đến với một Hội Thánh căn cứ vào mức lương mà họ sẽ được trả. Tốt nhất là nên quyết định việc ấy mà chẳng biết mức lương sẽ là bao nhiêu. Nếu nó nhiều hơn số bạn hiện được hưởng, rất có thể bạn thích chỗ làm đó là vì một lý do sai lầm đấy; nếu nó kém hơn số bạn đang được hưởng, rất có thể bạn sẽ từ chối nó vì một lý do sai lầm đấy!
Mấy năm trước đây, tôi đến dự một cuộc họp mà trong túi chẳng có bao nhiêu tiền. Thật vậy, tôi không dám chắc mình có thể trở về nhà nếu không đổ thêm xăng cho chiếc ô-tô của mình. Trên đường đi, tôi bắt đầu nghĩ đến số thù lao mà tôi có thể được hưởng, dù chẳng hề có ai hứa gì với tôi cả. Tôi nghĩ không biết mình sẽ nhận được bao nhiêu, và tôi sẽ có phản ứng như thế nào khi nhận được nó. Tôi tự hỏi chẳng hay mình có nên yêu cầu nhận nó bằng tiền mặt để có thể trả tiền xăng trên đường trở về nhà hay không.
Tôi quyết định im lặng về số thù lao ấy, vẫn đứng nhìn quanh sau buổi họp, chờ xem có gì bảo đảm cho việc ấy không. Đã chẳng có ai cho tôi đồng nào cả. Khi tôi lên xe để lái về nhà, lòng cảm thấy cay đắng mỗi lúc một gia tăng. Tôi sớm nhận thức được rằng động lực thúc đẩy tôi nói chuyện trong dịp tiện đó là hoàn toàn sai lầm. Tôi đã làm như thế là vì mình có thể được trả tiền. Hay lắm, lần này thì Chúa đã cho tôi mắc câu. Tôi đã chẳng bao giờ được hưởng thù lao! (Dầu vậy, một việc lạ lùng đã xảy ra, xe tôi không hết xăng cho đến lúc về đến nhà).
Các Hội Thánh và tổ chức Cơ-đốc giáo cần cẩn thận thu xếp vấn đề tài chánh cho những khách được mời đến phục vụ mình, cũng như đó là việc chắc chắn phải làm đối với các vị lãnh đạo phục vụ mình hằng ngày. Không nên để cho các cấp lãnh đạo phải bối rối hay bị ngăn trở trong công tác của họ vì thiếu trợ cấp tài chánh. Nhưng mặt khác, quí vị lãnh đạo cũng không nên làm những gì mình đang làm chỉ vì số tiền mình có thể nhận được. Chúng ta phải làm mọi việc dường như làm cho Chúa. Chỉ một mình Ngài mới có thể kiểm soát các động cơ thúc đẩy chúng ta.
Tôi có lãnh đạo chỉ vì cần tiền không?
Một số người chẳng hề cảm thấy được thúc đẩy làm việc gì cả, trừ phi họ cần tiền. Dường như càng ngày ta càng gặp nhiều khó khăn hơn khi muốn cho người khác đáp ứng mà khỏi phải trả tiền cho họ. Trong rất nhiều trường hợp, chúng ta phải trả tiền cho người ta vì những gì họ làm. Mặt khác, có nhiều trường hợp, việc trả công lại không phải là chính đáng. Nó có thể cướp đi tinh thần tự nguyện phục vụ của cá nhân ấy. Nếu bạn làm một việc gì đó chỉ vì bạn cần tiền, nhưng lại không được trả công như ý bạn mong muốn, bạn sẽ nhận thấy mình có tinh thần oán ghét hoặc chính mình bị xúc phạm.
Tôi có lãnh đạo vì muốn làm giàu không?
Ngày nay, có nhiều cấp lãnh đạo sở dĩ làm việc họ đang làm là vì muốn có thêm nhiều tiền. Tiền bạc là động cơ thúc đẩy số một. Phao-lô đã cảnh cáo chúng ta về vấn đề này trong ITi1Tm 6:9, 10. Thật là khó có thể kính trọng một người ở cương vị lãnh đạo thuộc linh, lại càng khó có thể đáp ứng lại với họ hơn, khi bạn biết rằng động cơ thúc đẩy người ấy là sự giàu có.
Thế thì câu trả lời cho vấn đề tiền bạc là gì? Một cấp lãnh đạo phải làm thế nào để tránh được phần động cơ thúc đẩy sai lầm? Câu trả lời chỉ có một tiếng mà thôi: HÀI LÒNG. Phao-lô đã viết về đức tính này trong Phi Pl 4:11-13 và nói ra điều ông đã học hỏi được. Thượng Đế đã hứa cung cấp mọi nhu cầu cho chúng ta.Chúng ta phải tin cậy Ngài. Trong ITi1Tm 6:7, Phao-lô bảo với chúng ta rằng khi được sinh ra đời, chúng ta đã chẳng mang theo gì cả, cho nên khi từ bỏ nó, chúng ta cũng sẽ chẳng mang gì theo được. Hài lòng với đời sống tin kính đạo đức là một món lợi lớn. Hài lòng có cơ sở là lòng tin cậy vào một Thượng Đế thành tín, đã hứa là sẽ cung cấp mọi nhu cầu cho bạn Phi Pl 4:19).
Phải Cẩn Thận Về Vấn Đề Muốn Nổi Tiếng
Háo danh nằm ngay trong lòng người lãnh đạo tìm ấn tượng trước các công trình của mình. Người lãnh đạo có bịnh này rất thích đọc “các mẫu tin cắt ra từ báo chí” nói về chính mình. Ông ta quan tâm đến những phần giới thiệu và tóm tắt viết thật hay với những bảng liệt kê thật dài ghi lại các vinh dự dành cho mình. Ông ta căn cứ vào số người biết rõ mình để đánh giá sự thành công của mình.
Ngày nọ, một số các cấp lãnh đạo Do Thái giáo sai nhiều thầy tế lễ và người Lê-vi từ Giê-ru-sa-lem đến gặp Giăng Báp-tít trong hoang mạc. Họ muốn biết ông tự cho rằng mình là ai, Giăng đã bảo họ: “Tôi
Người lãnh đạo rất cô đơn , và nhiều khi nhu cầu
muốn được khích lệ rất quan trọng đến nỗi
một người nắm quyền lãnh đạo chỉ để được
người khác khích lệ mình mà thôi . Phải coi chừng !
là tiếng gọi nơi hoang dã” (GiGa 1:23). Ông bảo rằng chức vụ của ông là dọn đường cho Chúa. Ông cảm thấy mình không xứng đáng cởi dép cho Ngài nữa. Trong 3:30, khi đề cập Chúa Giê-xu, ông đã nhận xét: “Chúa phải vượt lên cao, tôi phải hạ xuống thấp”.
Phao-lô viết trong GaGl 6:14 “Còn như tôi, tôi hẳn chẳng khoe mình, trừ ra khoe về thập tự giá của Đức Chúa Jesus Christ chúng ta, bởi thập tự giá ấy, thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh, và tôi đối với thế gian cũng vậy”.
Một số người sở dĩ muốn nổi tiếng vì muốn người khác biết mình “quan trọng” như thế nào. Một số khác muốn như thế vì muốn mình cũng giống như một người nào khác. Có người cảm thấy danh tiếng khiến mình trở thành quan trọng. ChCn 22:2 chép: “Kẻ giàu và người nghèo đều gặp nhau. Đức Giê-hô-va đã dựng nên cả hai”. Hoài bảo duy nhất của chúng ta phải là sự vinh hiển của chính Thượng Đế. Trong ICo1Cr 1:29, Thánh Phao-lô nói “không một người nào còn dám khoe khoang điều gì trước mặt Chúa” và trong câu 31 cùng chương ấy “Ai khoe khoang, hãy khoe khoang những việc Chúa làm cho mình”.
Người có đời sống bị thói háo danh cai trị cần phải biết tự-chối-mình. Nói tự chối mình ở đây, chúng tôi không có ý muốn đề cập khắc khổ chủ nghĩa hay thói khiêm hạ giả mạo, nhưng là nói về ước muốn dành mọi vinh hiển cho Thượng Đế. Chính vì không muốn cho ai chú ý đến mình cả, mà Chúa Giê-xu đã được mọi người nhận biết. Đó là việc gạt qua một bên tham vọng ích kỷ, tự đặt mình vâng phục Chúa của tất cả mọi người, là Đấng duy nhất đáng được ca ngợi tán tụng! Thực thi việc tự-chối-mình là dấn thân ca tụng và cảm tạ Thượng Đế trong mọi sự, mọi vinh hiển thuộc về Ngài.
Phải Cẩn Thận Về Các Nhu Cầu Cá Nhân
Vấn đề về động lực thúc đẩy thứ tư mà người lãnh đạo phải trực diện là trong lãnh vực nhu cầu cá nhân. Các cấp lãnh đạo phải đặt các nhu cầu của tha nhân làm động cơ hàng đầu thúc đẩy mình. Mọi người đều có các nhu cầu kể ra sau đây. Nguy hiểm xảy ra khi người lãnh đạo thực thi quyền ấy chỉ nhằm thỏa mãn chúng mà thôi.
Chúng ta cần được khích lệ.
Mọi người đều cần được tha nhân khích lệ. Nhưng người lãnh đạo rất cô đơn, và nhiều khi nhu cầu muốn được khích lệ rất quan trọng đến nỗi một người thực thi chức vụ lãnh đạo chỉ là để được người khác khích lệ mình mà thôi. Phải coi chừng! Chúa vốn biết các nhu cầu của bạn trước khi bạn cầu xin Ngài. Chúng ta phải gánh các gánh nặng của người khác (GaGl 6:2) và phải học tập để tự mang lấy gánh nặng của riêng mình (6:5)
Than thân trách phận có thể xâm nhập người lãnh đạo gặp nỗi cô đơn vì cương vị lãnh đạo quá sức chịu đựng của mình. Hậu quả có thể là lười biếng, lãnh đạm và dửng dưng. Lắm khi chúng ta cần một “cú đá đít” hơn là thiện cảm của người khác!
Giải pháp duy nhất là tin cậy Thượng Đế sẽ đáp ứng các nhu cầu của bạn. Chúa vốn là “Thượng Đế của mọi an ủi”, và Ngài vốn biết rõ mọi sự hơn bất kỳ ai khác. Hãy trao các gánh nặng của bạn cho Ngài và bỏ mặc chúng tại đó! Hãy giao mọi lo âu phiền muộn của bạn cho Ngài, Ngài sẽ chăm sóc bạn (IPhi 1Pr 5:7).
Chúng ta cần sự thương yêu trìu mến thuộc thể.
Mọi người đều thích được “vuốt ve” - không phải chỉ là sự hậu thuẫn về mặt tình cảm mà thôi, nhưng là những biểu lộ sự thương yêu trìu mến thuộc thể nữa. Một cái bắt tay nồng hậu, một cánh tay quàng qua vai, hai người ôm choàng lấy nhau, một cái vỗ nhẹ vào lưng, tuy đơn giản nhưng là những phương pháp hết sức hữu hiệu để nói rằng: “Tôi yêu bạn” hay “Tôi hoan nghênh bạn”.
Nhưng thật là nguy hiểm nếu ta thực thi chức vụ lãnh đạo chỉ vì cần được yêu thương trìu mến về phương diện thuộc thể mà thôi. Dường như các cấp lãnh đạo rất dễ bị tấn công trong lãnh vực này. Có một việc xảy ra dường như là một nghịch lý: những người lãnh đạo mạnh mẽ dường như vượt trên nhu cầu này; dầu vậy, tất cả những người lãnh đạo đều biết mình vốn cô đơn như thế nào, và thật mong muốn một cử chỉ bộc lộ sự yêu thương trìu mến ra sao.
Truyền đạo chương 3 nhắc nhở chúng ta rằng mọi việc đều có “thời” của nó. Vấn đề bộc lộ sự yêu thương trìu mến thuộc thể thường là một vấn đề có thời, có lúc của nó. Sau đây là vài gợi ý với các cấp lãnh đạo:
1. Đừng bộc lộ cử chỉ thương yêu trìu mến thuộc thể do nhu cầu tình dục, ngoại trừ với người bạn đời của bạn. Khi gặp hoàn cảnh bị kích thích hay lôi cuốn của người khác phái, bộc lộ cử chỉ thương yêu trìu mến là rất nguy hiểm.
Một người bạn của tôi làm việc trong văn phòng của mình, thực hiện công tác tư vấn với một phụ nữ khá hấp dẫn. Bà ta có vấn đề về hôn nhân và gần như bị suy sụp về phương diện tình cảm. Bà ta khóc lóc và ôm chầm lấy anh bạn tôi, mong được an ủi. Trong lúc ấy, cả hai cảm thấy bị cuốn hút vào nhau thật mạnh mẽ. Thế rồi việc này dẫn đến việc khác, và sau mấy tuần lễ tư vấn và tiếp xúc nhau liên tiếp, họ đã đi quá xa. Cuộc đời của cả hai người đều bị tổn hại.
Một thời gian khá lâu sau khi ăn năn và được phục hồi, bạn tôi đã đánh giá tình trạng và nhận ra rằng lúc ấy anh ta đang có nhu cầu về tình dục. Hai vợ chồng anh ta đã không lo nghĩ đến nhau theo như Thánh Kinh dạy. Các tham dục đã thắng hơn anh ta.
2. Đừng bộc lộ cử chỉ thương yêu trìu mến thuộc thể với các thành viên khác phái khi bạn chỉ có một mình hoặc cách ly với người khác. Đây chỉ là vấn đề lương tri thôi, nhưng lời chứng của nhiều cấp lãnh đạo hậu thuẫn cho sự khôn ngoan là phải luôn luôn nhắc lại điều này. Chúa Giê-xu từng dạy rằng: “Tâm linh thật muốn, nhưng thể xác yếu đuối” (Mat Mt 26:41). Đừng tin cậy vào khả năng có thể kiểm soát được các tham muốn của mình! Hãy tin cậy Thượng Đế, và làm tất cả những gì bạn có thể làm được để phòng ngừa rắc rối trước khi nó xảy ra.
Lời đáp cho vấn đề các nhu cầu cá nhân trong lòng người lãnh đạo, là hãy tin cậy Chúa. Chẳng có gì thay thế được nó! “Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi, tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì” (Thi Tv 23:1). Ngài đã hứa đáp ứng các nhu cầu của chúng ta. Hãy tin cậy là Ngài sẽ làm việc đó!
Phải Cẩn Thận Khi Cảm Thấy Bị Bắt Buộc
Nhiệm vụ có thể là điều tốt, nhưng nó cũng có thể dẫn tới những động cơ thúc đẩy không thích đáng. Có một số người lãnh đạo bị bó buộc làm công tác lãnh đạo; họ cảm thấy không vui và mệt mỏi với trách nhiệm lãnh đạo, họ bị thiếu niềm vui và lòng nhiệt thành.
Một cấp lãnh đạo như thế làm việc mình đang làm vì nghĩ rằng nếu mình không làm, người khác sẽ không còn yêu thích mình nhiều nữa. Ông ta cảm thấy bị bắt buộc phải làm hầu được người khác đáp ứng lại với mình. Mặt khác, có khi người lãnh đạo cảm thấy nếu mình không làm điều người khác trông mong nơi mình, họ sẽ cho rằng mình chịu thất bại. Nỗi sợ thất bại vẫn dồn nhiều nhà lãnh đạo vào chân tường!
Một vấn đề khác nữa là mặc cảm phạm lỗi. Một số cấp lãnh đạo cảm thấy mình có lỗi nếu không làm điều người ta trông mong mình làm. Do đó, vì bị ép buộc, họ phải làm việc gian khổ hơn trước. Mặc cảm phạm lỗi đang dồn ép họ.
Sự bó buộc phải làm công tác lãnh đạo mà nhiều người cảm thấy đó, nẩy sinh từ một hình ảnh xấu về bản thân hay do tự cảm thấy mình bất tài. Thường thường thì người lãnh đạo này đã không biết học tập để tự chấp nhận bản thân dưới ánh sáng của tình yêu thương và sự tha thứ của Thượng Đế. Người lãnh đạo không chịu an nghỉ trong Chúa. Người ấy dồn ép chính mình vào chỗ phải thực hiện công việc.
Câu trả lời duy nhất cho vấn đề về động cơ thúc đẩy này là niềm vui trong Đức Thánh Linh . Sở dĩ bạn làm công tác lãnh đạo là vị bạn cảm thấy phấn khởi trước cơ hội có thể làm việc ấy. Niềm vui sẽ bay qua cửa sổ khi chúng ta không chịu an nghỉ trong tình yêu thương của Thượng Đế và thoả vui vì những người chung quanh chúng ta. Sẽ có rất ít niềm vui khi chúng ta tự áp đặt cho mình nhiều định chuẩn, trong khi chẳng có ai khác áp đặt cả. Thưa bạn là người lãnh đạo, Thượng Đế rất yêu thương bạn! Ngài có thể đổ đầy niềm vui cho lòng bạn khi bạn thực thi chức vụ lãnh đạo của mình. Sở dĩ bạn có giá trị là vì có Thượng Đế - vấn đề vốn đơn giản như thế đấy!
Phải Cảnh Giác “Hội Chứng Thành Công”
Một số cấp lãnh đạo chỉ làm việc hoàn toàn nhằm thỏa mãn các mục tiêu của họ. Lực lượng thúc đẩy chủ yếu trong cuộc đời họ là các mục đích, mục tiêu đó. Các chỉ tiêu vốn tốt, nhưng chúng trở thành không phải lẽ khi chúng bị hội chứng “hơn” chi phối. Chúng ta muốn thành tựu “hơn năm qua”. Người lãnh đạo như thế phải làm thế nào để năm sau phải trội hơn năm trước, nếu không, ông ta cảm thấy mình bị thất bại.
Ước vọng thành tựu có thể tốt và có ích, nhưng nó cũng có thể đưa chúng ta đi sai lệch và ngăn trở chúng ta hoàn thành ý chỉ Thượng Đế. Một số cấp lãnh đạo vốn chịu áp lực của những người “chỉ chú trọng thành công”. Họ có các đồ thị và biểu đồ để chứng minh luận điểm của mình (và thường là giá trị, thành tích của họ). Đằng sau đó là vấn đề so sánh, đối chiếu. Một số cấp lãnh đạo dành trọn số thì giờ rảnh rỗi của họ để tự so sánh mình với các cấp lãnh đạo khác, cố tìm cách tự chứng minh cho chính họ thấy rằng mình giỏi hơn hay thành công hơn người khác. Các con số thủ một vai trò quan trọng trong đời sống các cấp lãnh đạo lấy thành tích làm động cơ thúc đẩy mình. Các con số bị biến thành bảng trắc nghiệm của sự “thành công”. Nếu trong tuần này có nhiều người tham gia hơn tuần trước, tháng này có nhiều người tham gia hơn tháng trước, năm này có nhiều người tham gia hơn năm trước, là họ đã thành công.
Đâu là lời đáp cho vấn đề này? Bình an, yên nghỉ trong quyền năng tể trị của Thượng Đế. Tự đánh giá mình bằng cách so sánh với người khác không phải là câu trả lời. Lãnh đạm hay dửng dưng cũng thế. Câu trả lời là hãy an nghỉ trong Chúa. Câu “được lắm, tốt lắm” của Ngài được phán ra trên cơ sở là lòng trung tín. Ngài phán xét chúng ta căn cứ vào những gì chúng ta đã làm cho Ngài, chứ không phải bằng cách so sánh với các ân tứ, tài năng hay thành tích của người khác.
Tóm Tắt
Để tóm tắt, xin chúng ta duyệt lại các vấn đề mà những người lãnh đạo có thể gặp phải và các giải pháp mà Thánh Kinh đưa ra.
Địa vị.
Vấn đề địa vị, điều có thể dẫn tới thái độ kiêu ngạo, được giải quyết bằng tinh thần khiêm hạ. Câu trả lời của Chúa Giê-xu cho người muốn có địa vị đã được minh họa trong Mac Mc 10:1-52. Hai Thánh Gia-cơ và Giăng thưa với Chúa: “Xin Thầy cho hai anh em chúng con được ngồi bên phải và bên trái ngai của Thầy trên Nước Trời” (c. 37). Chúa Giê-xu đáp:
”...nhưng chí như ngồi bên hữu và bên tả ta thì không phải tự ta cho được: ấy là thuộc về người nào mà đều đó đã dành cho...Các ngươi biết những người được tôn làm đầu cai trị các dân ngoại, thì bắt dân phải phục mình, còn các quan lớn thì lấy quyền thế trị dân. Song trong các ngươi không như vậy; trái lại, hễ ai muốn làm lớn trong các ngươi, thì sẽ làm đầy tớ, còn ai trong các ngươi muốn làm đầu, thì sẽ làm tôi mọi mọi người, vì Con người đã đến không phải để người ta hầu việc mình, song để mình hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc cho nhiều người”.
Tham tiền.
Đối với vấn đề tham tiền, Thánh Phao-lô dạy giải pháp là hài lòng như Phi Pl 4:11-13, 19 có chép:
“Không phải là tôi muốn nói đến sự cần dùng của tôi; vì tôi đã tập hễ gặp cảnh ngộ nào cũng thỏa lòng ở vậy. Tôi biết chịu nghèo hèn, cũng biết được dư dật. Trong mọi sự và mọi nơi, tôi đã tập cả, dầu no hay đói, dầu dư hay thiếu cũng được. Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi...Đức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Jesus Christ”.
Danh tiếng.
Giải pháp cho vấn đề háo danh là học tập tự-chối-mình . Chúng ta ghi nhận câu nói của Thánh Phao-lô trong ICo1Cr 1:29, 31 “để chẳng ai khoe mình trước mặt Đức Chúa Trời...hầu cho, như có lời chép rằng: Ai khoe mình, hãy khoe mình trong Chúa”. Còn Giăng Báp-tít thì nói về Chúa Giê-xu: “Chúa phải vượt lên cao, tôi phải hạ xuống thấp” (GiGa 3:30).
Nhu cầu cá nhân.
Mối bận tâm đến các nhu cầu cá nhân có thể được giải quyết bằng cách tin cậy vào Thượng Đế. Thánh Phi-e-rơ dạy “Hãy trao mọi lo âu cho Chúa, vì Ngài luôn luôn chăm sóc anh em” (IPhi 1Pr 5:7). Đa-vít nói: “Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi, tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì” (Thi Tv 23:1).
Bị bó buộc.
Người lãnh đạo phục vụ chỉ vì cảm thấy mình bị bắt buộc phải phục vụ bị mất đi niềm vui và lòng nhiệt thành. Thánh Phao-lô dạy trong RoRm 14:17 “Điều thiết yếu trong Nước của Thượng Đế...là sự công chính, bình an và vui vẻ trong Thánh Linh”.
Đạt các chỉ tiêu.
Cuối cùng, người lãnh đạo có động cơ thúc đẩy đạt nhiều thành tích tìm cách đánh giá mình bằng cách so sánh với người khác. Người như thế cần sự an nghỉ trong Chúa, để có được tấm lòng bình an, EsIs 26:3 chép: “Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ người trong sự bình yên trọn vẹn, vì người nhờ cậy Ngài”.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Có bao giờ bạn muốn có địa vị cao để tự cảm thấy mình quan trọng không? Hãy mô tả tình hình ấy.
2. Trên thang điểm từ 1-10, hãy tự cho điểm mình về tại sao bạn lại làm lãnh đạo.
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
3. Bạn có muốn làm giàu không?
4. Bạn có tránh né để cho người khác khen ngợi mình, nhưng dành nó cho Thượng Đế không?
5. Bạn có những nhu cầu cá nhân nào mà bạn không tin là Thượng Đế có thể đáp ứng không? Xin liệt kê ra.
6. Bạn có cảm thấy rằng công việc bạn đang làm là vì bị bắt buộc chứ không phải vì vui vẻ mà làm không? Bạn có thể làm gì trong vấn đề này?
7. Bạn có dành nhiều thì giờ để tự so sánh mình với người khác không? Bạn tự so sánh mình với ai? Tại sao?
8 Bạn có làm những gì bạn làm chỉ vì cảm thấy mình có lỗi nếu không làm không? Xin nêu vài thí dụ.
9. Các con số có ảnh hưởng đến công tác lãnh đạo của bạn không? Bạn có dễ dàng chán nản thất vọng khi thấy các con số kém đi không? Còn những con số lớn có khiến bạn tự hào không?

LÀM MỌI VIỆC VÌ CÁC LÝ DO CHÍNH ĐÁNG
Tại sao một số các cấp lãnh đạo lại bị các động cơ sai lầm thúc đẩy như đã được thảo luận trong chương trước? Lẽ dĩ nhiên, đó luôn luôn là tội lỗi! Nhưng còn có những vấn đề gì khác có thể khiến cho người lãnh đạo bị thiếu động cơ thúc đẩy hay không? Làm thế nào để một người lãnh đạo biết chắc là mình đang làm mọi việc là vì các lý do chính đáng?
Trong những năm đầu tiên của chức vụ lãnh đạo của mình, tôi đã không thấu hiểu rõ ràng những điều này như bây giờ. Dường như phải lấy chính các từng trải đó để chứng minh cho bạn thấy những điều đó có thể ảnh hưởng đến chức vụ lãnh đạo của bạn như thế nào. Tôi vốn luôn luôn muốn vâng theo ý chỉ của Thượng Đế và sống để làm vinh danh Ngài, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn phạm sai lầm. Tôi không hề muốn như thế, nhưng sự việc chỉ tự nhiên xảy ra mà thôi.
Bảy vấn đề sau đây đã ảnh hưởng quan trọng đến chức vụ lãnh đạo của tôi vào lúc này hay lúc khác. Tôi xin lỗi vì tỏ ra quá “riêng tây” như thế, nhưng tôi không biết cách nào khác để chia sẻ với bạn điều tôi tin là quan trọng mà tất cả những người lãnh đạo đều cần hiểu rõ.
Những Yếu Tố Nào Dẫn Tới Các Động Cơ Sai Lầm?
Khi các kết quả không thể thấy trước.
Các cấp lãnh đạo thuờng thắc mắc đặt vấn đề đối với chức vụ lãnh đạo của họ khi họ không thực hiện được tức khắc các kết quả cho mọi người nhìn thấy được. Nhưng trước khi bạn hoàn toàn thất vọng để viết đơn xin từ chức (thường là vào những buổi sáng thứ hai!) thì tốt nhất là xin bạn hãy nhớ mấy điểm sau đây:
Trước hết, có lẽ tâm trí và lòng bạn đang có cả một loạt các kết quả. Có lẽ bạn đang tin vào những con số và các biểu đồ nhiều hơn là từng cá nhân của những người đã được gây dựng và được khích lệ do chức vụ lãnh đạo của bạn. Thượng Đế từng dạy Ê-sai hãy đi, truyền cho dân Ngài bức thông điệp của Ngài, dù Ngài cũng bảo với ông rằng họ sẽ chẳng chịu đáp ứng đâu (Ês 6). Phần đông chúng ta chắc đều bỏ cuộc ngay lúc ấy! Nhưng trách nhiệm của Ê-sai là phải trung tín với Thượng Đế, không để ý đến kết quả.
Thứ hai, vấn đề có thể là do chính bạn thiếu đức tin và khải tượng, và chính vì thế mà bạn thấy quá ít kết quả. Xin đừng đổ lỗi cho người khác. Chính bạn là cấp lãnh đạo kia mà! Trong hoàn cảnh đó, bạn tin là Thượng Đế có thể làm gì? Nếu bạn không có đức tin, bạn sẽ không thể làm đẹp lòng Chúa (xem HeDt 11:6). Thượng Đế coi trọng đức tin của chúng ta. Ngài có quyền tể trị trong mọi việc Ngài làm, nhưng tôi đã khám phá được rằng Ngài đặt quyền tể trị của Ngài khớp đúng với đức tin tôi đặt vào Ngài để niềm vui của tôi sẽ được trọn vẹn!
Thứ ba, có lẽ bạn chưa siêng năng đủ trong công việc. Một số người trong chúng ta dường như không thích làm việc. Có lẽ bạn đã lười biếng hoặc dửng dưng, và chính vì thế mà bạn chỉ thấy có ít kết quả. Bạn cần giải hòa với Thượng Đế và bắt tay vào việc! Thượng Đế không hề ban thưởng cho kẻ lười biếng hay lãnh đạm.
Một thành viên trong ban trị sự của chi hội chúng tôi sẵn sàng bỏ cuộc vì chức vụ của ông ta thiếu kết quả. Tôi đã cố gắng bày tỏ thiện cảm và khích lệ ông ta, nhưng dường như việc làm đó chẳng giúp ích gì được. Rồi một trong các cô thư ký bảo với tôi rằng ông ta vốn lười biếng và công việc của ông ta cứ chất chồng lên. Ông ta không chịu lắng nghe cho thật đầy đủ những người được mời đến để tiếp xúc với ông, cũng không trả lời điện thoại khi có người gọi đến. Ông để nhiều giờ ngồi lì tại bàn giấy chỉ để suy nghĩ (một việc nhiều khi rất cần thiết, nhưng có thể là quá thừa thải).
Sau khi sắp xếp các sự kiện lại với nhau, tôi gọi ông ta đến văn phòng của mình, và lần này thì cuộc đàm thoại không phải là để tỏ thiện cảm hay khích lệ, nhưng là hoặc ông ta bắt tay vào việc, hoặc đi tìm một việc làm khác. Tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy ông ta lập tức thay đổi thái độ, cũng như các kết quả của chức vụ ông ta.
Không chịu nổi lời phê bình.
Một số người lãnh đạo không chịu nổi lời phê bình chỉ trích của người khác. Một số người nổi khùng, còn một số thì khóc. Một số tỏ ra cay cú, còn một số trả thù bằng cách lợi dụng chức vụ lãnh đạo của mình để làm hại hay ngăn chặn những người phê bình chỉ trích ấy.
Phương pháp duy nhất mà tôi biết để tránh lời phê bình chỉ trích là chẳng nói, chẳng làm và chẳng có thái độ gì cả (tôi đã cho in câu này trên một tấm bảng treo trong văn phòng tôi). Nhưng nói như thế vẫn không có nghĩa là tôi thích bị chê bai chỉ trích. Ai lại có thể thích điều ấy cho được? Vấn đề của tôi cũng giống y như vấn đề của bạn - phải học tập phương pháp để giải quyết việc bị phê bình chỉ trích, mà trong trường hợp của tôi, thì đó là một vấn đề vẫn xảy ra hằng tuần.
Một là, phải nhận thức việc rất có thể là bạn xứng đáng bị phê bình chỉ trích như thế. Tôi biết chịu chấp nhận như thế rất khó, nhưng nhiều khi các cấp lãnh đạo xứng đáng phải bị phê bình chỉ trích như thế. Biết đâu điều thiên hạ nói đó chính là sự thật! Bạn có thể trực diện với nó không? Bạn có thể học hỏi được gì từ việc ấy chăng?
Hai là, có lẽ chính bạn là người tạo ra loại môi trường đó. Nếu bạn là một người hay phê bình chỉ trích, bạn có thể trông đợi là đến lượt mình, bạn sẽ bị phê bình chỉ trích càng nhiều hơn. Càng cao tuổi, tôi càng ý thức nhiều hơn những hậu quả tai hại của lời phê bình chỉ trích không đúng theo Thánh Kinh và nhằm mục đích phá hoại. Tôi không muốn nghe chúng, nhưng có một cái gì đó của bản tính tội lỗi xưa cũ của tôi khiến tôi muốn phê bình chỉ trích và nghe lời phê bình chỉ trích người khác. Lạy Chúa, xin giải thoát cho chúng con!
Tôi cố tránh nghe những gì người hay phê bình chỉ trích nói. Tôi không muốn đến gần họ. Nếu tôi không thể nói tốt về một người nào đó, thì tôi còn nói mà làm chi? Tôi vốn biết lắm khi phê bình cũng là đúng đấy, nhưng phần lớn những gì tôi được nghe người ta bảo là “phê bình xây dựng” đều đáng ngờ. Hãy cẩn thận về những gì bạn có thể nói về người khác. Nên học tập khen họ và tìm các đức tính tích cực trong đời sống của họ.
Khi có người kể lại một nhận xét có ý phê bình chỉ trích một người khác cho bạn, hãy học tập trả lời bằng một câu tích cực liên quan đến người kia. Nên tìm một điều gì đó đáng khen trong đời sống của người kia và khiến người khác chú ý đến điểm đó. Làm như thế, chức vụ lãnh đạo sẽ tăng trưởng.
Ba là, phải nhớ rằng lời phê bình chỉ trích vốn có xu hướng khiến chúng ta trở thành những người lãnh đạo vững mạnh hơn, chứ không phải là yếu đuối hơn. Khi bạn bị phê bình chỉ trích và biết rằng nó không đúng, hãy học tập chấp nhận nó và dù sao cũng nên tỏ ra biết ơn nó, vì biết rằng Thượng Đế sẽ sử dụng từng trải đó để khiến bạn vững mạnh hơn. Nó sẽ giúp bạn phản ảnh càng nhiều hơn tình yêu thương của Thượng Đế đối với tha nhân. Nhiều khi chúng ta học hỏi được điều không nên làm nhờ nghe những gì người khác nói về chúng ta. Chắc bạn cũng biết một việc như thế vốn cũng có một giá trị nào đó đấy chứ!
Chẳng hề có người lãnh đạo có thể trông mong mình khỏi bị phê bình chỉ trích. Chính sự kiện bạn là cấp lãnh đạo đã mở cửa cho người khác phê bình chỉ trích bạn. Bạn đang đứng ở hàng đầu, rất dễ bị bôi bẩn và rất dễ bị chê trách. Khi có ai phê bình chỉ trích mình, bạn chỉ nên trả lời thật đơn giản: “Xin cám ơn”. Lắm lúc bạn có thể nói: “Xin cám ơn bạn đã cho tôi biết điều đó, tôi tin chắc rằng Chúa chúng ta có một lý do đằng sau sự kiện bạn vừa kể cho tôi nghe”. Còn một cách trả lời tích cực khác nữa là “Cám ơn bạn vì đã lo lắng cho tôi đến mức chỉ ra chỗ thiếu sót của tôi (chịu khó phê bình tôi)”, hoặc bạn cũng có thể nói: “Xin cầu nguyện cho tôi để tôi biết học tập làm những gì Thượng Đế muốn tôi phải làm”.
Thiếu cộng tác.
Nếu bạn không cẩn thận coi chừng, điều này có thể khiến bạn nản lòng đấy! Bạn bắt đầu thắc mắc đặt vấn đề đối với chức vụ lãnh đạo của mình, bởi vì người khác không chịu cộng tác. Nhưng trước khi nghi ngờ các động cơ thúc đẩy mình, hãy tự đặt cho mình hai câu hỏi sau đây. Câu thứ nhất là “mọi người có biết họ phải làm gì không?” Nếu họ không biết, tại sao bạn lại có thể trông mong họ cộng tác? Thật ra đó không phải là lỗi của họ. Do thiếu giao tiếp để tạo cảm thông hoặc thiếu thông tin về việc phải làm, có thể tạo ra tình trạng này.
Có nhiều cấp bậc và nhiều loại tình bạn .
Bạn không nên tiếp nhận mọi điều
bạn có cần từ chỉ một người mà thôi .
Vào một mùa thu nọ, chúng tôi thảo một kế hoạch chứng đạo lớn. Nhưng chúng tôi khởi sự quá muộn và không thông báo đầy đủ cho các tín đồ. Cho nên đã chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi có rất ít người tham gia chuyến phiêu lưu quan trọng này!
Câu hỏi thứ hai là: “Trong công tác này, bạn có phải là người đi đầu hay không?” Nếu bạn bảo người ta làm một việc mà chính bạn không chịu làm, thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi chỉ có rất ít người cộng tác.
Một điều quan trọng khác để trông cậy vào khi có ít người cộng tác, là sự kiện chính bạn với Thượng Đế đã tạo thành một đa số rồi. Nhiều khi các cấp lãnh đạo phải đứng một mình. Một số người đang chờ đợi cộng tác với bạn để trước nhất, được thấy loại lòng can đảm mà bạn có ở cương vị lãnh đạo.
Nỗi cô đơn của người lãnh đạo.
Có rất ít người (ngoại trừ các cấp lãnh đạo) hiểu rõ việc trở thành người lãnh đạo sẽ như thế nào. Họ không biết hoàn cảnh của bạn như thế nào, nên cũng không biết phải giúp bạn như thế nào. Người bạn thân mà bạn đang cần đó rất khó tìm ra. Lẽ dĩ nhiên là Chúa đang ở với bạn, cho nên chẳng bao giờ bạn thật sự bị cô đơn cả (Mat Mt 28:20; HeDt 13:5). Sau đây là vài gợi ý tôi thấy rất hữu ích để giải quyết vấn đề cô đơn.
Hãy lưu ý đến những gì mà nhiều người bạn khác có thể giúp cho bạn . Bạn không nên tiếp nhận mọi điều bạn có cần chỉ từ một người mà thôi. Có một số người chỉ là bạn xã giao, rất thích hợp để cùng ăn bữa cơm chiều với bạn, hay có thể cùng giải trí một ít với bạn.
Một số bạn khác chỉ thân nhau đến mức có thể cùng nhau quây quần quanh lò sưởi hay một tách cà-phê. Một số bạn khác nữa thân nhau khi gặp khó khăn, khủng hoảng, họ chẳng khác chi người nhà. Khi gặp bức bách, bạn có thể nhờ đến họ. Có rất ít người có địa vị lãnh đạo lại có thể là bạn tri kỷ, và trong những điều kiện thích hiệp bạn có thể kết thân với họ.
Có một điều cần lưu ý về tình bạn thân thiết với những người khác, cũng là cấp lãnh đạo như mình. Phải chắc chắn là giữa các bạn không có cạnh tranh, và bạn không luôn luôn tự đưa mình ra để so sánh với một người lãnh đạo khác hay với chức vụ của người ấy.
Bức rào lớn cần phải vượt qua, là tìm cách làm mọi việc với chỉ một người hoặc một đôi vợ chồng khác. Chuyện đời thường không êm xuôi khi làm như thế. Hãy học tập kết bạn với nhiều người, và đừng trông mong quá nhiều về những gì bạn có thể nhận được nơi họ. Nếu bạn kết bạn với một người khi cùng đi tranh giải điền kinh với nhau, thì đừng đinh ninh rằng những người bạn đời của các bạn cũng sẽ là bạn thân của nhau. Nhà tôi có thể thích cùng đi mua sắm với một quí bà cá biệt nào đó, nhưng điều đó không có nghĩa rằng chồng của quí bà ấy cũng là bạn thân của tôi.
Nên nhớ phải có thời gian để trở thành bạn thân với nhau . Theo nhận xét của tôi, thì tình bạn thân thiết phải có thời gian để phát triển. Nên kiên nhẫn và đừng cố thân thiết nhau ngay tức khắc. Phải có thời gian để xây dựng lòng tin cậy giữa bạn với người bạn của bạn. Phần lớn “bạn bè” của chúng ta thật ra chỉ là những “chỗ quen biết” hoặc chỉ là bạn xã giao tùy cơ hội mà thôi. Số bạn bè thuộc loại này có thể là rất đông đảo. Hãy cùng vui vẻ kết bạn với nhau như thế!
Trong đời sống còn có những tình bạn thân thiết hơn, được xây dựng trên mối tương giao nghiêm túc hay khi gặp khủng hoảng sâu xa bức thiết. Giữa những người bạn này có một điều gì đó rất “đặc biệt” để cùng giúp đỡ nhau khi cần thiết. Số bạn “tri kỷ” này thì ít hơn nhiều.
Số bạn tri kỷ ta có thể “tâm sự” mọi việc mà không sợ bị khước từ hay chê trách, thường rất ít người. Có người suốt đời chỉ có một bạn tri kỷ duy nhất, ngoài người bạn đời của mình mà thôi. Có lẽ phần đông chúng ta đều không có hơn từ năm đến mười bạn tri kỷ trong đời mình.
Khi tôi cảm thấy thật cô đơn bất luận vì lý do gì, tôi phải nhớ trước nhất là Chúa đang ở với tôi, và tôi tâm sự với Ngài. Thứ hai, tôi quay sang các bạn tri kỷ mà tôi có thể trò chuyện thật thoải mái, tự do. Về phương diện này, thì nhà tôi là người bạn “tri kỷ” nhất. Thêm vào với nhà tôi, thì các bạn tri kỷ nhất của tôi là những người cùng làm việc với tôi trong Hội Thánh của chúng tôi.
Nên tìm nhiều bạn tốt . Trước khi để cho sự tủi thân hay chán nản thất vọng bắt lấy mình vào một lúc bạn cảm thấy cô đơn, hãy tự vấn xem bạn có đang tìm cách trở thành bạn thân với một người nào đó hay không. Làm một người bạn thân quan trọng hơn có một người bạn thân. Thật vậy, khi bạn tìm cách làm bạn của nhiều người khác, thì dường như Thượng Đế sẽ thưởng cho bạn những bạn thân sẽ giúp đỡ bạn.
Sau khi đã nói mọi điều này rồi, tôi vẫn còn phải nhắc nhở toàn thể những ai đang và sẽ là cấp lãnh đạo rằng sự cô đơn là cái giá phải trả để trở thành người lãnh đạo thuộc linh. Cấp bậc của bạn càng cao trong bất kỳ một tổ chức nào, thì bạn sẽ càng cảm thấy cô đơn hơn. Hãy học tập chấp nhận nó và tin cậy Thượng Đế đáp ứng nhu cầu của bạn.
Một gánh nặng công tác chất chồng quá mức.
Lắm khi gánh nặng công tác của chúng ta dường như quá nặng nề, khó mang nổi. Nguy cơ ở đây là khi bạn bắt đầu tìm liệu pháp thiếu khôn ngoan hoặc dựa trên các quyết định vội vã để giải quyết vấn đề này. Thình lình vào ngày hôm sau hoặc tuần lễ sau có lẽ sẽ khác đi. Có lẽ bạn sẽ cảm thấy khác hẳn đi đối với gánh nặng công việc sau vài ngày.
Nhưng sự thể sẽ ra sao nếu bạn không làm như thế? Giả sử bạn cứ liên tục bị tràn ngập, và công việc cứ chất chồng không ngưng nghỉ? Bạn sẽ làm gì?
Trước hết, bạn phải xét đến vài lý do khiến bạn gặp cảnh công việc chồng chất nặng nề như thế. Sau đây là một số trường hợp có thể đã xảy ra:
1. Phải chăng bạn thiếu khả năng (rõ khổ!) đáp ứng các đòi hỏi của công tác?
2. Chẳng ai có đủ khả năng đáp ứng các đòi hỏi của công tác này cả (thế này thì đỡ hơn).
3. Đã không có những phần mô tả rõ ràng đâu là công việc của ban trị sự, đâu là công việc của các tín đồ thường. Luôn luôn có việc dẫm chân lên nhau, có sự chểnh mảng, bỏ mặc công việc, khiến công việc cứ chất chồng lại trên bàn giấy của bạn.
4. Bạn không thể tin cậy để người khác làm công việc bạn đang làm.
5. Bạn làm quá nhiều việc mà chẳng ai bảo bạn làm cả.
6. Bạn làm việc lộn xộn, chẳng chú ý việc gì phải làm trước, việc gì có thể để lại sau.
7. Bạn quá mệt mỏi về phương diện thể xác hoặc kiệt quệ về mặt tình cảm.
8. Bạn thích để người khác tưởng rằng bạn rất bận rộn và làm việc quá sức mình.
9. Bạn nóng vội và luôn luôn bị căng thẳng - bạn phải làm việc.
10. Bạn nghĩ rằng tổ chức tùy thuộc rất nhiều vào bạn, đến nỗi nếu bạn không vùi đầu vào công việc, thì mọi sự sẽ hỏng bét cả!
Chừng đó vấn đề đã là khá nhiều rồi! Thế thì đâu là các giải pháp? Sau đây là hai gợi ý thực tiễn:
1. Hãy lập một bảng liệt kê . Điều đầu tiên mà một số người lãnh đạo làm mỗi buổi sáng là lập một bảng liệt kê những việc họ muốn thực hiện ngày hôm ấy, và họ kiểm điểm lại khi đã làm xong. Nhiều người khác lập bảng liệt kê “những việc phải làm” từ đêm trước, để họ có thể ngủ ngon hơn! Xin đừng chần chừ, trì hoãn! Nếu bạn có thể làm việc ấy hôm nay, hãy làm đi. Đừng để lại ngày mai điều bạn có thể thật sự làm hôm nay. Phấn đấu để mỗi ngày, bàn giấy của bạn đều gọn gàng sạch sẽ (mọi công việc đều đã hoàn tất).
2. Tự hỏi xem bạn có cần một phụ tá không ? Có lẽ bạn thật sự cần một người giúp đỡ để giảm bớt gánh nặng công việc cứ chất chồng của mình. Có thể đó là một thư ký hay một cấp lãnh đạo khác có thể đảm nhận một vài trách nhiệm của bạn. Hãy xác định xem việc gì mà bạn đang làm, có thể được giao cho người khác. Hãy thẩm định xem những việc gì do chính bạn thực hiện thì sẽ tốt hơn, cũng như những việc gì mà chính bạn phải đích thân làm mới được. Một vài loại công việc cần giao cho những người khác có lẽ sẽ “tốt hơn”.
Có lẽ nên chọn một thư ký chấp hành sẽ tốt hơn là một cấp lãnh đạo khác giống bạn. Một thư ký giỏi sẽ đảm nhiệm tốt hơn những công việc thông thường. Những sự gián đoạn sẽ được kiểm soát và nhiều việc người lãnh đạo đang làm có thể giao cho một thư ký giỏi đảm trách. Một thư ký có thể đáp ứng nhiều nhu cầu của nhiều cấp lãnh đạo, do đó, chẳng những chỉ có thể giúp đỡ bạn, mà còn có thể giúp ích cho nhiều người khác nữa.
Nhưng phải cẩn thận đối với vấn đề thuê một phụ tá. Điều đó gợi ý rằng bạn không thể chu toàn công việc của mình, mà cần được giúp đỡ. Nó cũng khiến bạn trở thành chướng ngại vật “hạn chế tăng trưởng”. Người phụ tá sẽ bị sự hướng dẫn và tán thành (hay không tán thành) của bạn giới hạn. Bạn nên xem người giúp bạn như một “người cộng tác” hơn là một “phụ tá”. Các bạn là bạn đồng công dù rằng bạn có thể là người có những quyết định tối hậu trong những vấn đề quan trọng.
Nếu bản thân bạn đang tìm cách quản lý quá nhiều lãnh vực trong chức vụ, thì tốt hơn nên ủy thác một số lãnh vực của chức vụ cho một người lãnh đạo khác. Có lẽ người lãnh đạo mới mà bạn ủy thác đó sẽ làm mọi việc khác hơn bạn, thậm chí còn giỏi hơn bạn nữa. Hãy giao trọn trách nhiệm cho người ấy trong một lãnh vực nào đó của chức vụ, và để cho người ấy tự điều hành lấy. Hãy để cho chính người ấy tự tạo lấy thành công hay thất bại. Người ấy sẽ tăng trưởng nhanh hơn và hổ trợ bạn nhiều hơn.
Bất hoà và chia rẽ.
Bất hoà và chia rẽ là một gánh nặng quá sức đối với bất kỳ người lãnh đạo nào. Trung thành và yêu thương là hai thành tố quan trọng nhất giữa những người cùng làm việc chung với nhau. Chia rẽ có thể ảnh hưởng quan trọng đến các động cơ thúc đẩy người lãnh đạo. Với ước muốn giải quyết các vấn đề, các cấp lãnh đạo có thể hành động quá vội vàng hay thiếu các thông tin và sự kiện thích hợp.
Ngày nọ, một bạn đồng công nói với tôi về điều mà ông ta cho rằng một nhân viên khác đã tỏ ra bất trung. Nhân viên kia đã làm một việc mà tôi không làm, cho nên có vẻ như một người bất trung. Người cho tôi biết việc đó vốn không biết là tôi đã bảo người nhân viên kia nếu là tôi thì sẽ làm việc ấy như thế nào, nhưng người ấy có thể làm thế nào tuỳ ý. Tôi hoàn toàn tin vậy ông ta. Ông ta không phải là người bất trung, nhưng chỉ đơn giản làm công việc ấy theo một cách khác mà thôi - và kết quả đã chứng minh rằng nó còn kiến hiệu hơn cách mà tôi vẫn thường đối phó với tình hình ấy.
Khi thật sự có bất trung và chia rẽ xảy ra (chứ không phải ta chỉ nghe nói hay do các ý kiến của một người nào khác mà thôi), bạn phải giải quyết vấn đề ấy như thế nào? Những điều sau đây đã giúp ích cho tôi trong những hoàn cảnh và những lúc gặp căng thẳng:
1. Nhận diện vấn đề. Phải chắc chắn là bạn đã nắm vững được các sự kiện rõ ràng.
2. Cần học tập để trực diện với nó và đối phó với nó. Nó sẽ không tự nhiên mà qua đi đâu.
3. Nhận rõ nguồn gốc thật sự của vấn đề (xem Gia Gc 3:14-16; 4:1).
4. Bày tỏ tình yêu thương với tất cả mọi người có liên hệ và tìm cầu lợi ích tối đa cho họ.
5. Phải sẵn sàng lắng nghe các quan điểm của mọi phía.
6. Chú trọng vào việc cầu nguyện, tin cậy Chúa và giải quyết mọi sự thật ổn thoả với Ngài trước nhất.
7. Phải khoan dung và tha thứ, tìm cách phục hồi các mối liên hệ thay vì gây thêm chia rẽ.
8. Tạ ơn Thượng Đế về vấn đề xảy ra. Chính Ngài đã cho phép, cho nên phải biết lợi dụng nó mà học tập.
9. Quyết định xem tình hình có đòi hỏi phải cất chức một thành viên nào đó trong ban giám đốc hay không. Nếu sự bất trung cứ tiếp tục sau khi đã có sự đối chất, thì phải có việc cách chức, nếu không, nhiều vấn đề nghiêm trọng khác sẽ phát triển.
Lẽ dĩ nhiên là mỗi tình hình đều khác nhau. Các cấp lãnh đạo cần được sự khôn ngoan của Thượng Đế. Nếu tôi cứ phải thường xuyên nhúng tay vào vấn đề vẫn thường xảy ra nhất, thì đó là sự thất bại của
Đừng luôn luôn tìm thiện cảm của người khác .
Nếu bạn không giải quyết nổi các vấn đề ấy ,
thì tại sao bạn lại trông mong những
người lãnh đạo theo cách của bạn
giải quyết được các vấn đề của họ .
các cấp lãnh đạo do không giải quyết thật nhanh chóng các vấn đề nảy sinh. Chúng ta cứ mong là chúng sẽ tự nhiên qua đi. Kinh nghiệm của tôi dạy tôi khác hẳn. Phải đối phó và giải quyết chúng bằng tình yêu thương, càng sớm càng tốt.
Trọng lượng của các vấn đề cá nhân.
Các cấp lãnh đạo không được miễn trừ đối với các vấn đề riêng tây. Những việc như kém sức khoẻ, gặp khó khăn về tài chính, bất hoà trong sinh hoạt vợ chồng, và các mối liên hệ xấu với gia đình hay người khác, tất cả đều có thể ảnh hưởng đến các động cơ thúc đẩy và sự bình an trong tâm trí của bạn. Áp lực của những việc đó có thể trở thành quan trọng đối với bạn tới mức bắt đầu ảnh hưởng đến chức vụ lãnh đạo của bạn, khiến những người cùng làm việc với bạn chú ý. Làm thế nào để giải quyết chúng?
Hãy bắt đầu bằng cách tạ ơn Thượng Đế về các vấn đề bạn gặp (xem Phi Pl 4:6, 7), và cầu xin Ngài ban cho bạn sự khôn ngoan và giúp đỡ bạn bằng cách cầu nguyện và nghiên cứu Lời Chúa. Đừng luôn luôn tìm thiện cảm của người khác. Nếu bạn không giải quyết nổi các vấn đề ấy, thì tại sao bạn lại trông mong những người theo cách lãnh đạo của bạn giải quyết được các vấn đề của họ?
Cũng đừng đề cập công khai các vấn đề riêng tây của bạn. Nếu có người hỏi bạn về mối bận tâm của bạn do tình yêu thương, thì bạn có thể phải trả lời. Nhưng đừng rêu rao các rắc rối cá nhân của bạn trước mặt người khác. Nó sẽ gây trở ngại cho cách đáp ứng của họ với bạn với tư cách một cấp lãnh đạo. Nó sẽ khiến họ không muốn được bạn trợ giúp khi họ có cần.
Hãy học tập nguyên tắc là các vấn đề riêng tây của bạn là do ý định của Thượng Đế, để giúp bạn biết thông cảm để cùng chia xẻ tình thương và thiện cảm với người khác. Các vấn đề nhằm mục đích giúp bạn học hỏi về bí quyết của sức mạnh của Thượng Đế (xem IICo 2Cr 12:7-10). Nếu bạn chẳng gặp vấn đề gì cả, thì bạn chưa phải là một con người.
HeDt 5:1, 2 đề cập các thầy tế lễ được tuyển chọn từ giữa loài người để có thể đối phó tử tế với người dốt nát, sai lầm, vì chính họ cũng bị các khuyết điểm bao vây. Nếu bạn không là con người, thì người khác sẽ chẳng đến để nhờ bạn giúp đỡ đâu. Họ phải hiểu rõ rằng bạn vốn nhờ từng trải mà biết rõ những gì họ đang từng trải. Việc sống chan hoà với mọi người là tối quan trọng cho vai trò lãnh đạo thuộc linh.
Các Cấp Lãnh Đạo Thuộc Linh Phải Có
Những Động Cơ Thúc Đẩy Nào?
Chúng ta cần làm mọi việc vì các lý do chính đáng, và phải có các động cơ thúc đẩy phải lẽ và đúng theo Thánh Kinh. Các vấn đề sẽ luôn luôn hiện diện, và chúng ta phải trực diện với chúng. Chúng ta không thể lẩn tránh vấn đề. Vì vấn đề cũng là một phần của chức vụ lãnh đạo. Nhưng chúng ta phải thực hiện mọi việc từ các động cơ chính đáng. Thượng Đế sẽ ban phước cho việc làm ấy. Khi tấm lòng của chúng ta ngay thẳng, thì chức vụ lãnh đạo của chúng ta sẽ tăng trưởng.
Hãy đặt sự vinh hiển của Thượng Đế làm ưu tiên hàng đầu của bạn.
Mọi sự đều bắt đầu với sự vinh hiển của Thượng Đế. ICo1Cr 10:31 dạy phải làm mọi việc nhằm tôn vinh Thượng Đế. Bất luận bạn làm gì với tư cách lãnh đạo, hãy tự vấn bằng câu hỏi này: “Điều này có làm vinh danh Thượng Đế không?” Tôn vinh Thượng Đế là tôn trọng và ca tụng Ngài. Nó có nghĩa là dành mọi vinh dự cho Ngài.
Tìm cách cứu người bị hư vong.
Cho dù trách nhiệm hàng đầu của người lãnh đạo thuộc linh là gì, người ấy phải luôn luôn tìm cách đưa những người bị hư vong về với Chúa Cứu Thế. Người ấy phải làm mọi sự cho mọi người để nhờ một phương tiện nào đó, cứu được một vài người (Xem 9:12-22). Người ấy biết rằng Lời Uỷ Thác Trọng Đại là công việc của mình. Người ấy không thể đem việc mình vâng lời Chúa Cứu Thế trên cơ sở công tác của mình với những người đã được cứu để biện minh. Công tác ấy cũng gồm luôn ước muốn đưa càng được nhiều người đến với Chúa Cứu Thế càng hay.
Các cấp lãnh đạo có tài sẽ tìm cách duy trì thế quân bình trong công tác lãnh đạo của mình, giữa chức vụ với các tín hữu và công tác truyền bá Phúc Âm cho người chưa tin Chúa. Thường thường, các cấp lãnh đạo cần hỏi về công việc mình đang làm: “Có gì trong việc tôi làm góp phần vào việc cứu rỗi những người đang bị hư vong?” Hãy xác định đâu là những công việc nhằm mục đích truyền bá Phúc Âm. Nếu chẳng có công tác nào cả, thì chức vụ lãnh đạo thuộc linh trong tổ chức ấy hãy còn thiếu sót.
Phần lớn các nỗ lực truyền bá Phúc Âm trong các tổ chức Cơ-đốc giáo đều nhằm mục đích mời gọi người chưa tin Chúa đến nhóm lại trong các buổi họp mặt mà các tín hữu thường đến. Nếu bạn muốn thâm nhập cộng đồng của mình vì Chúa Cứu Thế, hãy nỗ lực thiết lập những kế hoạch hấp dẫn người chưa tin Chúa. Hãy thử một “Trạm Y tế Tình Thương” trong cộng đồng, có các nhân viên Cơ-đốc nhân điều hành và nhân cơ hội đó mà truyền bá Phúc Âm.
Hãy đặt một điểm ăn điểm tâm cho đàn ông (miễn phí) trong một khu vực nào đó gần nhà thờ (như một quán ăn địa phương), với một ban nhân viên niềm nỡ, yêu mến Chúa, và biết cách giao tiếp để tạo thông cảm với những người chưa tin Chúa. Hãy tổ chức cho các thanh thiếu niên của bạn tự nguyện rửa xe cho những người trong cộng đồng và phân phát cho họ các ấn phẩm và lời làm chứng thích hợp. Hãy lập vài trung tâm hội thảo đặc biêt về hôn nhân và gia đình có thể thu hút người chưa tin Chúa và đặc biệt nhằm mục đích đến với họ.
Trên hết mọi sự, hãy học tập để đến những nơi nào có người ta,thay vì trông mong họ đến với bạn. Hãy đến với họ tại nơi họ đang sinh sống. Hãy nói tiếng nói của họ. Hãy phục vụ họ như làm công tác tư vấn hay những trung tâm chăm sóc ban ngày. Nên thường xuyên đánh giá số công tác bạn thực hiện với số những cuộc tiếp xúc của bạn với những người chưa tin Chúa. Bạn càng được nhiều cơ hội tiếp xúc bao nhiêu, thì càng có nhiều cơ hội đưa được người ta đến với Chúa Cứu Thế bấy nhiêu.
Có một việc làm rất khôn ngoan, là mở một chương trình huấn luyện cho các tín hữu về phương pháp chứng đạo để chia xẻ đức tin của mình với nhiều người khác. Chương trình này phải được duy trì như một phần thường xuyên của chức vụ của bạn, và như thế sẽ lưu ý được mọi người về trách nhiệm ưu tiên của công tác truyền bá Phúc Âm trong động cơ thúc đẩy ẩn phía sau chức vụ lãnh đạo của bạn.
Tìm cách giúp cho các tín hữu đạt đến sự trưởng thành.
Phao-lô bảo rằng ông đã lao khổ trong nhiệm vụ đưa các tín hữu đến sự trưởng thành (xem CoCl 1:28, 29). Các cấp lãnh đạo thuộc linh phải trang bị các tín hữu cho cộng tác phục vụ Chúa (xem Eph Ep 4:11, 12). Nhiều khi chúng ta lợi dụng người khác để xây dựng công việc riêng của chúng ta, chứ không phải là lợi dụng công tác của chúng ta để gây dựng các tín đồ. Đứng về phương diện động cơ thúc đẩy mà nói, thì chỗ khác nhau là hết sức lớn lao! Phải luôn luôn chú trọng vào sự trưởng thành và tăng trưởng thuộc linh. Phải chắc chắn điều mà bạn đang đóng góp vào đó. Phải tìm cách gây dựng thay vì phá đổ.
Ngày nọ, trong một cuộc họp ban giám đốc, chúng tôi đang đánh giá một dự án. Dường như đó là một ý hay và mọi người đều chăm chú vào, cho đến khi có một người trong số các anh em hỏi rằng dự án đó sẽ làm gì để khích lệ sự tăng trưởng thuộc linh của các tín đồ. Im lặng. Rõ ràng không phải là một dự án nhằm truyền bá Phúc Âm, và dường như nó chẳng có bao nhiêu giá trị để phát triển sự trưởng thành giữa vòng các tín đồ của chúng tôi. Thế thì, tại sao chúng tôi lại làm việc ấy? Đó chỉ là một ý kiến hay, thế thôi. Thế là chúng tôi bàn sang chuyện khác.
Xin có một lời về sự trưởng thành. Phải chắc chắn rằng sự tăng trưởng mà các bạn đang bàn luận là sự tăng trưởng thuộc linh. Chúng ta phải tăng trưởng trong ân phúc và sự hiểu biết Chúa Cứu Thế Giê-xu (IIPhi 2Pr 3:18)
Phục vụ bằng tình yêu thương của Chúa Cứu Thế.
Có hai cách để nhìn vào động cơ thúc đẩy này. Một là tình yêu của chúng ta đối với Chúa Cứu Thế, và những gì Ngài đã làm cho chúng ta. Cách kia là tình yêu thương Ngài đối với chúng ta, như đã được phô bày qua những gì Ngài đã làm tại Thập tự giá. IICo 2Cr 5:14 dường như theo quan điểm sau này. Chúa Cứu Thế đã chịu chết vì chúng ta, và như thế là đã chứng tỏ tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta. Tình yêu Ngài dành cho chúng ta tại Thập tự giá đã thúc đẩy, giục giã chúng ta. Ngài kích thích chúng ta để có hành động thích đáng bằng tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta. Đó là cách thức mà sự việc phải xảy ra. Chúng ta làm việc hữu hiệu hơn trong những tình trạng mà tình yêu thương chiếm ưu thế.
Khi tình yêu thương của Ngài thúc đẩy và cai trị kiểm soát chúng ta, chúng ta cũng sẽ yêu thương người khác (xem IGi1Ga 4:7 và tt). Phần đông những những người làm việc cho các tổ chức Cơ-đốc giáo trông mong có mức độ yêu thương cao hơn trong những công việc của đời. Đó chỉ là lẽ tự nhiên thôi. Các nhân sự Cơ-đốc rất thất vọng khi bầu không khí rất giống điều họ đã biết ở ngoài đời. Sự việc không nhất thiết phải như thế. Các Cơ-đốc nhân vốn có Đức Thánh Linh ngự trong lòng mình, phải có khả năng yêu thương nhau bằng tình yêu thương của Thượng Đế. Tình yêu thương là một yếu tố thúc đẩy phi thường. Điều sẽ đề cập đến nhiều hơn trong chương sau.
Một phần thưởng trên thiên đàng.
Có người cảm thấy rằng một phần thưởng trên thiên đàng không phải là một động cơ xứng đáng để thúc đẩy việc phục vụ. Nhưng sứ đồ Phao-lô đã dạy trong ICo1Cr 9:24-27 rằng ý nghĩ về chiếc mão miện không hề hư nát trong tương lai, là yếu tố thúc đẩy cách sống của ông. Chúa Giê-xu nhắc nhở chúng ta hãy cất giấu của cải trên trời chứ không phải là ở dưới đất (xem Mat Mt 6:19-21). ICo1Cr 5:10 vạch rõ chúng ta đều sẽ phải ứng hầu trước toà án của Chúa Cứu Thế. Có người tín hữu nào mà lại không được gịuc giã khi nghĩ rằng mình được nghe Chúa Giê-xu phán: “Tốt lắm, con rất ngay thật trung thành... Hãy đến đây chung vui với ta?” (Mat Mt 25:21)
Chúng ta đã thấy điều quan trọng là người lãnh đạo thuộc linh làm mọi việc đều có lý do chính đáng. Nó ảnh hưởng đến cách đáp ứng của người ta cũng như đến sự tôn trọng của họ. Một số vấn đề cụ thể nào đó có thể bủa vây nhà lãnh đạo khiến nhiều lúc ông ta cũng rơi vào một động cơ thúc đẩy không xứng đáng. Tất cả chúng ta đều có lần thất bại. Cần nhắc nhở cho tất cả các cấp lãnh đạo thuộc linh về việc họ cần thiết phải nương cậy vào Chúa. Xin Thượng Đế giúp mọi người chúng ta biết làm mọi việc theo ý Ngài!
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Có bao giờ bạn soát xét xem tại sao mình lại đạt được quá ít kết quả như thế hay không? Hãy liệt kê vài lý do có thể có.
2. Bạn có thể chịu đựng bị người khác phê bình chỉ trích mà không chán nản ngã lòng không? Hãy nghĩ về vài trường hợp bạn bị chỉ trích gần đây. Bạn đã đối phó như thế nào?
3. Bạn có biết tại sao các tín đồ không cộng tác không? hãy liệt kê vài lý do có thể có.
4. Bạn làm gì để đáp ứng nhu cầu khi gặp cô đơn trong đời sống mình?
5. Bạn có hiểu rõ tầm quan trọng của các bạn thân không? bạn có bao nhiêu bạn tri kỷ? Hãy kể tên họ ra. Họ có biết bạn là tri âm tri kỷ của họ không?
6. Tại sao bạn lại phải chịu một gánh công tác quá nặng nề?
7. Một thư ký có giúp bạn tốt hơn một cấp lãnh đạo giống như bạn không?
8. Bạn có những bước tiến nào để đối phó với sự mất đoàn kết và bất trung?
9. Bạn có thường đề cập các vấn đề riêng tây trong đời sống của bạn không? Với ai?
10. Có những động cơ nào thúc đẩy bạn là đúng theo Thánh Kinh và thuộc linh?
ƯU TIÊN CHỦ YẾU
Như chúng ta đã thấy, động đơ thúc đẩy là điều hệ trọng đối với các cấp lãnh đạo. Chúng ta biết là cần phải có các động cơ thúc đẩy để sống tin kính trong mọi phương diện.
Động Cơ Thúc Đẩy Cao Nhất
ICo1Cr 10:31 dạy chúng ta “làm mọi việc anh em phải nhắm mục đích tôn vinh Chúa”. Ưu tiên chủ yếu của mỗi người lãnh đạo là tôn vinh Thượng Đế trong tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta.
Thi Tv 29:1-2 chép: “Hỡi các con của Đức Chúa Trời, hãy tôn vinh Đức Giê-hô-va vinh hiển và quyền năng. Hãy tôn vinh Đức Giê-hô-va vinh hiển xứng đáng cho danh Ngài; hãy mặc trang sức thánh mà thờ lại Đức Giê-hô-va”. 96:7-9 nhắc lại lời răn bảo đó, còn 115:1 dạy thêm: “Hỡi Đức Giê-hô-va nhơn vì sự nhơn từ và sự chơn thật Ngài, sự vinh hiển chớ về chúng tôi, chớ về chúng tôi, bèn là đáng về danh Ngài”.
Sự vinh hiển thuộc về Chúa. Đặc tính của Thượng Đế xứng đáng được như thế. Cõi thọ tạo của Ngài cũng đòi hỏi chúng ta tôn vinh Ngài, như Thánh Kinh vạch rõ trong KhKh 4:9-11
“Mỗi khi các sinh vật tôn vinh, tung hô và cảm tạ Đấng ngồi trên ngai, là Đấng hằng sống đời đời, thì hai mươi bốn trưởng lão quỳ xuống trước mặt Ngài, thờ lạy Ngài, vứt mũ miện trước ngai và ca ngợi: Lạy Chúa là Thượng Đế của chúng con, Chúa đáng nhận vinh quang, vinh dự và uy quyền. Vì Chúa đã sáng tạo vạn vật. Do ý muốn Chúa, muôn vật được dựng nên và tồn tại”.
Thi Tv 19:1 “Bầu trời phản ánh vinh quang, không gian phô diễn tài năng Chúa Trời”. Khi loài người quan sát những điều kỳ diệu của công trình sáng tạo mà không tôn trọng và tôn vinh Thượng Đế, thì họ “không còn lý do chữa tội” (RoRm 1:20-23). Những điều “không thấy được” của Thượng Đế được nhìn thấy rõ bởi những gì Ngài đã tạo dựng.
Trong công trình sáng tạo của Thượng Đế, chúng ta nhận thấy vinh quang, quyền năng của bản tính đời đời của Ngài. Nếu chúng ta không đề cao và tôn vinh Thượng Đế và dâng lên Ngài sự cảm tạ, nhưng lại chuyển sự vinh hiển của Thượng Đế không hư hoại thành một phát minh của đôi tay thì thật đáng nhận cơn thịnh nộ và sự phán xét của Ngài. Chúng ta sẽ không còn lý do để tự bào chữa nữa.
Chúng Ta Có Thể Tôn Vinh Thượng Đế Như Thế Nào?
Nhưng thật ra, chúng ta có thể tôn vinh Thượng Đế như thế nào? Nếu đó là ưu tiên chủ yếu của các cấp lãnh đạo thuộc linh thì nó phải được thực hiện thế nào?
Thượng Đế được tôn vinh vì chúng ta được cứu rỗi.
Chẳng cần làm gì cả nhưng chỉ tin Phúc Âm mà thôi, là chúng ta đã tôn vinh Thượng Đế rồi! Tại sao thế? Chỉ vì một điều: nó đề cao ân sủng của Thượng Đế điều đã khiến cho mọi việc đó có thể có được. Phao-lô tiết lộ sự kiện quan trọng này về sự cứu rỗi của chúng ta:
“Trước khi sáng tạo trời đất, Thượng Đế đã chọn chúng ta trong Chúa Cứu Thế để thánh hoá chúng ta đến mức toàn hảo trước mặt Ngài. Do tình yêu thương, Thượng Đế đã hoạch định chương trình cho Chúa Cứu Thế Giê-xu xuống đời nhận chúng ta làm con cái Ngài, theo hảo tâm, thiện ý của Ngài. Chúng ta nên ca ngợi Thượng Đế về ân phúc Ngài ban cho chúng ta, vì chúng ta thuộc về Con yêu dấu của Ngài”. (Eph Ep 1:4-6).
Ân sủng Thượng Đế sở dĩ được tôn vinh khi chúng ta được cứu, bởi vì Ngài cứu chúng ta trên cơ sở là chính quyền chọn lựa tể trị của Ngài,
Thượng Đế muốn sử dụng chúng ta nhiều hơn
là chúng ta muốn mình được sử dụng .
chứ không phải do giá trị cá nhân hay công đức với tư cách là con người của chúng ta. 2:8-9 cho thấy chúng ta được cứu là bởi ân sủng của Thượng Đế, chứ không phải là do công đức của chính chúng ta.
Sự cứu rỗi của chúng ta cũng tôn vinh Thượng Đế vì chúng ta sở dĩ được cứu là bởi quyền năng Ngài, chứ không phải là nhờ chính tài năng của chúng ta. Phao-lô viết: “Chúng tôi đựng bảo vật này trong bình đất - là thân thể chúng tôi. Vậy quyền năng vô hạn ấy đến từ Thượng Đế chứ không do chúng tôi” (IICo 2Cr 4:7).
“Bảo vật” là “ánh sáng...giúp chúng tôi hiểu được vinh quang Thượng Đế sáng rực trên gương mặt Chúa Cứu Thế” (c.6). Nó được đựng trong các bình bằng đất tự chúng vốn chẳng có giá trị bao nhiêu, nhưng sở dĩ có giá trị là nhờ có bảo vật ở bên trong. Câu Kinh Thánh cho thấy phía sau mọi điều đó, là quyền năng của Thượng Đế. Thượng Đế được tôn vinh và tôn trọng, vì chỉ có quyền năng Ngài mới cứu được chúng ta, chứ không phải là chính tài năng của chúng ta. Chúng ta không làm gì cả để được trả công hay để xứng đáng được Thượng Đế cứu mình.
Thượng Đế cũng được tôn vinh do chúng ta được cứu, bởi vì việc ấy đề cao Con Ngài, là Chúa và là Cứu Chúa Giê-xu của chúng ta. Phi Pl 2:9-11 đã dạy rất rõ vấn đề này:
“Chính vì thế Thượng Đế đưa Ngài lên đến tội đỉnh. Ban cho Ngài danh vị cao cả tuyệt đối. Để dù ai ở trên trời, dưới đất. Hay dưới vực thẳm không gian. Mỗi khi nghe Danh Chúa Giê-xu. Tất cả đều quỳ gối tung hô. Tuyên xưng Ngài là Chúa tể vũ trụ. Và tôn vinh Thượng Đế là Cha”.
Thượng Đế được tôn vinh khi “mọi đầu gối” đều quỳ xuống và “mọi lưỡi” đều “tôn xưng”. Khi Chúa Cứu Thế được thừa nhận là Vua các vua và Chúa các chúa, thì Đức Chúa Cha được tôn trọng và tôn vinh. Chúa Giê-xu phán: “Con đã làm rạng rỡ vinh quang Cha trên đất hoàn tất mọi việc Cha uỷ thác” (GiGa 17:4). Chúa Giê-xu đã tôn vinh Cha Ngài, và Cha Ngài được tôn vinh khi Chúa Giê-xu được đề cao.
Chúng ta tôn vinh Chúa bằng sự thanh sạch đạo đức
ICo1Cr 6:18-20 chép thật mạnh mẽ:
“Hãy tránh gian dâm! Tội nào cũng còn ở ngoài thân thể; nhưng gian dâm là phạm ngay vào thân thể mình. Anh em không biết thân thể anh em là đền thờ Thánh Linh, và Ngài đang sống trong anh em sao? Thượng Đế đã ban Thánh Linh cho anh em nên anh em không con thuộc về chính mình nữa. Anh em đã được Thượng Đế chuộc với giá rất cao nên hãy dùng thân thể tôn vinh Ngài”.
Khi các cấp lãnh đạo tránh xa tội lỗi do tính dục, họ tôn vinh Thượng Đế trong thân thể mình. Thân thể chúng ta là công cụ để sử dụng cho việc lành, chứ không phải để làm ác. Phao-lô đã truyền cho Ti-mô-thê lời chỉ giáo quan trọng này:
“Nhưng nền tảng Thượng Đế đã đặt vẫn vững như bàn thạch. Trên nền tảng ấy ghi những lời: “Chúa biết người thuộc về Ngài” và: “Người kêu cầu Danh Chúa phải tránh điều gian ác”. Trong một ngôi nhà sang trọng, ngoài dụng cụ bằng vàng, bằng bạc cũng có dụng cụ bằng đất, bằng gỗ. Thứ dùng vào việc sang, thứ dùng vào việc hèn. Vậy người nào luyện mình cho tinh khiết sẽ như dụng cụ quý được dành cho Chúa, sẵn sàng làm việc lành. Con phải tránh dục vọng tuổi trẻ. Hãy hợp tác với người có lòng trong sạch, tin kính Chúa để theo đòi sự công chính, đức tin, yêu thương và bình an”. (ITi1Tm 2:19-22)
Tính cách hữu dụng và “năng suất” của đời sống một người lãnh đạo thuộc linh có liên quan với sự thanh sạch đạo đức. Thượng Đế muốn sử dụng chúng ta nhiều hơn là chúng ta muốn mình được sử dụng. Việc chúng ta sẵn sàng để Chúa sử dụng mình, phải được kết hợp với việc dấn thân xa lánh tội về tình dục. Nếu chúng ta không chịu làm như thế, Thượng Đế sẽ hạn hẹp tính cách hữu dụng của chúng ta.
Chúng ta tôn vinh Thượng Đế bằng lời ca tụng và cầu nguyện.
Chúa Giê-xu phán trong GiGa 14:13 “Các con nhân danh ta cầu xin bất cứ điều gì, ta sẽ làm cho để Cha được tôn vinh”. Trong 15:7-8, Chúa Giê-xu dạy chúng ta: “Nếu các con tiếp tục ở trong ta và lời ta ở trong các con, các con muốn xin gì được nấy. Các con kết nhiều quả, tỏ ra xứng đáng làm môn đệ ta, là các con đem vinh quang về cho Cha ta”.
Thi Tv 50:23 chép: “Kẻ nào dâng sự cảm tạ làm của lễ, tôn vinh ta”. Trong LuLc 17:11-19 qua câu chuyện chữa lành cho mười người cùi, Chúa Giê-xu dạy chúng ta về tầm quan trọng của việc tôn vinh và ca ngợi Thượng Đế. Tuy tất cả đều được chữa lành, chỉ có một người quay lại tôn vinh và tạ ơn Thượng Đế mà thôi. Ông ta là một người Sa-ma-ri. Chúa Giê-xu hỏi: “Ta chữa lành mười người tất cả, còn chín người kia đâu? Chỉ có người nước ngoài này trở lại tạ ân Thượng Đế sao?” (cc.17,18).
Thượng Đế được tôn vinh khi chúng ta ca tụng và tạ ơn Ngài vì chính Ngài, và vì tất cả những gì Ngài đã làm. Lời ca tụng phải luôn luôn có trên môi miệng tín hữu, huống chi trên môi miệng các cấp lãnh đạo thuộc linh của chúng ta, chúng còn phải có nhiều hơn biết bao!
Nếu ưu tiên chủ yếu là tôn vinh Thượng Đế, thì làm sao điều này có thể thành tựu được trong đời sống người lãnh đạo nếu người ấy chỉ dành quá ít thì giờ cho sự cầu nguyện và ca ngợi? Nguyện Chúa giúp chúng ta thấu hiểu những gì tôn vinh Ngài.
Thượng Đế được tôn vinh bằng các việc lành
Chúa Giê-xu phán:
“Các con là muối của nhân loại; nếu các con đánh mất phẩm chất của mình, làm sao lấy lại được? Các con sẽ trở thành vô dụng, bị vất bỏ và chà đạp như muối hết mặn. Các con là ánh sáng của thế giới, như một thành phố sáng rực trên đỉnh núi cho mọi người nhìn thấy trong đêm tối. Không ai thắp đèn rồi đậy kín, nhưng đem đặt trên giá đèn để soi sáng mọi người trong nhà. Cũng thế, các con phải soi sáng cho mọi người, để họ thấy việc làm tốt đẹp của các con và ca ngợi Cha các con trên trời”.
Các việc làm tốt đẹp của chúng ta tôn vinh Cha chúng ta trên trời. Chúng ta là “muối” và “ánh sáng” của thế gian này. Đời sống của chúng ta phải là những tấm gương sáng cho người khác nhìn thấy - đó là chủ đích của Thượng Đế. Ngài được tôn vinh khi chúng ta vì Ngài mà chiếu sáng!
Chúng ta tôn vinh Thượng Đế khi vì Ngài mà chịu khổ.
IPhi 1Pr 4:12-16 cho thấy chúng ta có thể tôn vinh Thượng Đế như thế nào khi chịu đựng những khó khăn hiện tại:
“Anh em thân yêu, gặp hoạn nạn thử thách, anh em đừng hoang mang, bỡ ngỡ như gặp phải một việc khác thường. Trái lại, hãy vui mừng, vì nhờ thử thách anh em được chia xẻ sự đau khổ với Chúa Cứu Thế, để rồi đến khi Ngài trở lại, anh em sẽ vui mừng tột bực, đồng hưởng vinh quang với Ngài. Khi bị chửi rủa nhục mạ vì Danh Chúa Cứu Thế, anh em được phúc lành bởi Thánh Linh vinh quang của Thượng Đế đang ngự trên anh em,. Đấng chịu khổ như kẻ giết người, trộm cắp, gây rối, hay quấy phá việc người khác. Nhưng nếu chịu khổ vìlàm môn đệ Chúa thì chẳng có gì phải hổ thẹn. Hãy tạ ân Thượng Đế vì mình được mang Danh Chúa”.
Lẽ dĩ nhiên, những người chịu chết vì chính nghĩa của Chúa Cứu Thế, đã tôn vinh Thượng Đế. Lúc Chúa Giê-xu tiên báo cái chết của Phi-e-rơ, Giăng đã viết: “Chúa ngụ ý cho biết ông phải chết cách nào để làm rạng danh Thượng Đế” (GiGa 21:19).
Do đó, cả trong sự sống lẫn sự chết, Thượng Đế đều được tôn vinh. Khi chúng ta vì Ngài chứ không phải vì chính các lỗi lầm sai trái của chúng ta mà chịu khổ - là chúng ta làm rạng danh Thượng Đế. Có thể chúng ta không biết tại sao mình lại phải chịu khổ, nhưng có một lý do để chúng ta luôn luôn giữ cho tấm lòng được vững bền và tâm trí được trong sáng, ấy là Thượng Đế muốn được rạng danh trong tất cả những gì chúng ta suy nghĩ, nói và làm. Khi chúng ta chịu khổ một cách bất công và vì đức tin của mình đặt vào Chúa Cứu Thế Giê-xu, thì Thượng Đế được tôn vinh.
Sử dụng các ân tứ thuộc linh trong chức vụ.
IPhi 1Pr 4:10-11 nhấn mạnh cách sử dụng và “quản lý” các ân tứ thuộc linh, và nhắc nhở chúng ta rằng chính việc ấy cũng quy vinh về cho Thượng Đế:
“Thượng Đế đã ban cho mỗi người chúng ta một khả năng riêng, hãy dùng để giúp đỡ nhau, như người quản nhiệm biết sử dụng ân phúc muôn màu muôn vẻ của Thượng Đế. Nếu anh em truyền bá Phúc Âm, hãy giảng đúng lời Thượng Đế. Nếu anh em phục vụ Hội thánh, hãy sử dụng tất cả năng lực Thượng Đế ban cho mình. Trong bất cứ việc gì, hãy làm sao cho Thượng Đế được tôn vinh qua Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng đáng được vinh quang, quyền năng đời đời vô cùng. Thành tâm sở nguyện!”
Dù đó là ân tứ nói năng hay phục vụ, Thượng Đế sẽ được tôn vinh nếu chúng ta sử dụng nó vì lợi ích cho Ngài. Khi nói chúng ta phải chắc chắn là mình đang truyền bá Lời Chúa, chứ không phải chính các ý tưởng hay ý kiến riêng của chúng ta. Thượng Đế được tôn vinh bởi chính Lời Ngài. Khi phục vụ, chúng ta phải làm việc ấy bằng sức lực của Chúa. Khi việc ấy xảy ra thì Thượng Đế được tôn vinh.
Phao-lô viết chức vụ phục vụ lẫn nhau của chúng ta, việc chúng ta làm lẫn cho nhau trong Thân thể Chúa Cứu Thế Giê-xu, có thể tôn vinh Thượng Đế như thế nào.
“Cầu xin Thượng Đế kiên nhẫn và an ủi ban cho anh em tinh thần hợp nhất theo gương Chúa Cứu Thế Giê-xu, để anh em một lòng một miệng ca ngợi Thượng Đế là Cha Đấng Cứu Thế Giê-xu Chúa chúng ta” (RoRm 15:5, 6).
Sự đoàn kết hợp nhất của chúng ta với tư cách tín hữu tôn vinh Chúa khi chúng ta tìm cách phục vụ lẫn nhau, lợi dụng các ân tứ và tài năng của mình để gây dựng người khác, và như thế là tôn vinh Cứu Chúa kỳ diệu của chúng ta vậy.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Công việc được bạn dành ưu tiên chủ yếu là gì?
2. Tại sao chúng ta phải tôn vinh Thượng Đế?
3. Việc chúng ta được cứu rỗi tôn vinh Thượng Đế như thế nào?
4. Đời sống trong sạch, đạo đức tôn vinh Thượng Đế như thế nào?
5. Cầu nguyện và ca tụng Chúa có phải là một phần trong thời dụng biểu hằng ngày của bạn không? Nếu không bạn có thể làm gì để tăng cường phần dấn thân của bạn vào những việc ấy?
6. Bạn đã từng trải những khó khăn nào trong đó bạn thấy cách thức Thượng Đế được tôn vinh? Hãy giải thích việc đã xảy ra.
7. Các ân tứ thuộc linh tôn vinh Thượng Đế như thế nào?
TẠI SAO NGƯỜI TA ĐỀ KHÁNG UY QUYỀN?
Đề kháng uy quyền là điều tự nhiên! Nhưng biết như thế không luôn luôn đưa ra được những câu trả lời thực tiễn cho các vấn đề thực tế của các cấp lãnh đạo thuộc linh. Các mối liên hệ giữa con người với nhau trong bất kỳ một tổ chức Cơ-đốc giáo nào, cũng đều chịu ảnh hưởng lớn lao của các ý niệm về uy quyền mà số người ấy đang nắm giữ.
Một mục sư bạn bảo với tôi về ước muốn “làm ngay lại” một Hội thánh vốn có một lịch sử thiếu chủ tọa. Ông ta nói, vấn đề là tình trạng thiếu uy quyền. Các tín đồ không đáp lại với uy quyền của quý vị mục sư tiền nhiệm. Ông ta sẽ thay đổi mọi việc đó. Ông ta chỉ giữ được chức vụ có sáu tháng mà thôi.
Đôi khi lý do con người đề kháng được tìm thấy ngay trong đời sống của người lãnh đạo. Nhiều lúc khác, việc người lãnh đạo là ai chẳng quan hệ gì, vấn đề đề kháng được hình thành ngay trong con người.
Một thí dụ về đề kháng uy quyền xảy ra trong một Hội thánh mà tôi quen biết. Ngôi nhà thờ đã được thiết lập từ 25 năm trước nay phải bị bán đi. Suốt 25 năm ấy, Hội thánh đã có một số mục sư, nhưng đã chẳng có ai có thực quyền cả.
Một người từng đầu tư một số tiền lớn cho công việc ngay từ lúc bắt đầu, đã trở thành một thứ “bố già” thuộc linh. Ông ta có các giấy tờ hợp pháp của ngôi nhà thờ giữ ở nhà mình, và có các chìa khoá của ngôi nhà. Những gì ông ta nói trong những buổi họp của Hội thánh ấy đều được xem là đúng - chẳng hề có ai đặt câu hỏi gì. Khi Hội thánh bắt đầu sa sút, chẳng có ai nhận ra vấn đề là do chính người ấy. Họ đổ lỗi đó cho các mục sư. Cuối cùng, Hội thánh sa sút đến chỗ chỉ còn một ông ấy. Mọi người đều rời bỏ Hội thánh. Thật đáng buồn.
Vấn đề về uy quyền này rất quan trọng, nhưng lại có rất ít người muốn giải quyết nó, hay thông báo cho nhiều tổ chức Cơ-đốc giáo biết để đối phó với nó.
Uy Quyền Là Gì?
Từ điểm Webster’s liệt kê các nghĩa sau đây của từ ngữ uy quyền:
1. Quyền hợp pháp hay phải lẽ; một thứ quyền để truyền lệnh hay hành động; quyền xét xử.
2. Một người, ban trị sự hay uỷ ban có quyền trong một lãnh vực nào đó.
3. Chính phủ; những người thực thi quyền lực hay mệnh lệnh.
4. Người được nêu tên hay viện dẫn để hậu thuẫn cho các ý kiến hành động,biện pháp, v.v. do đó là
a. lời chứng, người chứng
b. một tiền lệ, một quyết định trước đó của một toà án
c. một quyển sách hay tác giả của nó
d. lời biện minh; lời bảo đảm.
5. Quyền lực do ý kiến hoặc cách đánh giá; ảnh hưởng của một nhân vật, một cấp bậc cao hơn về phương diện tâm lý hay tinh thần, hay điều gì giống như thế.
Khi xét kỹ các định nghĩa này, dường như chúng nhằm mô tả điều mà mọi người đều nói về uy quyền. Vấn đề của tất cả các định nghĩa trên đây đều liên quan với nguồn gốc hay nền móng của mọi uy quyền. Thế thì uy quyền tối hậu là gì? Nếu cái gọi là “uy quyền” còn phải trình các ủy nhiệm thơ của mình cho một cá nhân, tập thể hay tổ chức, đặc chế khác, thì nó không thể là uy quyền tối hậu. Nếu “quyền” để có được uy quyền của chúng ta là điều được cấp cho, ban cho chúng ta, thì chúng ta không phải là uy quyền tối hậu.
Các Vấn Đề Trong Xã Hội Tạo Ra
Việc Đề Kháng Uy quyền
Ngày nay, thiên hạ thắc mắc đặt vấn đề đối với uy quyền (và các nhà cầm quyền) gay gắt hơn bao giờ hết. Có người bảo rằng xã hội chúng ta đang gặp “khủng hoảng uy quyền”. Uy quyền đang bị suy giảm, cũng như việc thực thi quyền hành trong mọi lãnh vực của xã hội, kể cả các trường học, Hội thánh, công cuộc kinh doanh và chính quyền (ở mọi cấp bậc). Có rất ít người tôn trọng uy quyền, và các quyền của cá nhân được đề cao nhằm loại trừ phần uy quyền đã khiến cho các quyền ấy có thể có được ngay từ đầu.
Đã có gì trục trặc? Tại sao người ta lại không đáp lại với uy quyền? Tại sao phần đông người ta lại thắc mắc đặt vấn đề đối với quyền cai trị và lãnh đạo của các nhà cầm quyền? Tại sao các cấp lãnh đạo lại phải trải qua một giai đoạn khó khăn như thế để đối phó với những người đang ở dưới quyền lãnh đạo của họ? Sau đây là một vài lý do mà người ta đưa ra:
Con cái vô kỷ luật.
Khi đã không còn một mẫu mực kỷ luật thống nhất từ phía những người làm cha làm mẹ đối với con cái họ nữa, thì một tinh thần nổi loạn phát triển. ChCn 29:15 dạy: “Roi vọt và sự quở trách ban cho sự khôn ngoan; còn trẻ phóng túng làm mất cỡ cho mẹ mình”. 29:17 thêm: “Hãy sửa phạt con ngươi, thì nó sẽ ban sự an tịnh cho ngươi, và làm cho linh hồn ngươi được khoái lạc”. 22:6 vạch rõ cho chúng ta thấy tầm quan trọng của trách nhiệm làm cha mẹ, khi nêu rõ: “Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; dầu khi nó trở về già, cũng sẽ không hề lìa khỏi đó”.
ChCn 19:18 chỉ ra sự cần thiết phải răn dạy sớm: “Hãy sửa phạt con ngươi trong lúc còn sự trông cậy; nhưng chớ toan lòng giết nó”. Các bậc làm cha làm mẹ viện lẽ họ quá yêu thương con để có thể sửa phạt chúng, chỉ chứng minh được điều trái lại mà thôi. 13:24 làm sáng tỏ vấn đề này: “Người nào kiêng roi vọt ghét con trai mình; song ai thương con ắt cần lo sửa trị nó”.
Lý do khiến trẻ con cần sửa phạt (kỷ luật) được chép trong 22:5 “Sự ngu dại vốn buộc vào lòng con trẻ; song roi vọt sẽ làm cho sự ấy lìa xa nó”. Có một vấn đề là nhiều người làm cha mẹ không phân biệt được kỷ luật (răn dạy) với uy quyền. Biểu đồ sau đây sẽ giúp chúng ta thấy được chỗ khác nhau, và việc sửa phạt trẻ con có liên hệ như thế nào với lòng kính trọng và cách đáp lại của chúng với uy quyền.
Một đứa trẻ lớn lên dưới chế độ “trừng phạt” sẽ tỏ ra chống đối uy quyền nhiều hơn là đứa trẻ được kỷ luật phải lẽ. Việc thiếu kỷ luật cũng được chứng minh là làm hại cho các thái độ của đứa trẻ trong đời sống sau này. Nếu cha mẹ cho con mình tất cả mọi sự, nó sẽ muốn hoặc đòi hỏi đủ thứ, rất có thể là trong đời sống sau này của đứa trẻ ấy, nó sẽ chống lại với uy quyền.

Ngày nọ, có một người đến văn phòng của tôi để nói về một người làm công cho ông ta, vốn là một Cơ-đốc nhân nhưng không chịu vâng phục uy quyền của ông ta. Ông chủ này muốn làm điều thật phải lẽ. Tôi
Nếu không có các lý tưởng đạo đức tuyệt đối ,
sẽ không thể nào tránh được sự sụp đổ trong
uy quyền và việc thiên hạ đáp ứng lại với nó
được cơ hội trò chuyện với chàng thanh niên nổi loạn kia và phát giác ra rằng cậu ta xem ông chủ như cha mình vậy. Cha cậu ta chẳng bao giờ kỷ luật cậu ta, còn thuở ấu thời, cậu ta luôn tìm sự đáp ứng của cha mẹ bằng cách nổi giận hoặc hờn dỗi.
Chàng thanh niên này có những thái độ thù ghét chủ mình và rất tức giận bởi không thể làm theo ý mình như hồi còn ở nhà trong thời gian mình được trưởng dưỡng. Tôi khuyên cậu ta, hoặc phải biết vâng phục uy quyền, hoặc sẽ phải mất việc. May thay cậu ta đã đáp ứng rất tốt.
Nhiều vấn đề trong công tác lãnh đạo có thể truy nguyên từ cách răn dạy không đúng cách ở nhà của những người giờ đây phải làm việc chung với nhiều người khác. Giải pháp đích thực cho vấn đề này là quay trở về với các nền móng trong gia đình. Hãy dạy dỗ và kỷ luật đúng theo Lời Thượng Đế.
Các vấn đề trực tiếp trong khi làm việc chỉ có thể được giải quyết bằng việc chính đương sự phải nhận ra vấn đề và sẵn sàng vâng phục uy quyền. Điểm này phải cần đến quyền năng và sự kiểm soát của Đức Thánh Linh. Một người muốn chiến thắng cách kỷ luật không thích hiệp nhiều năm trong gia đình là việc khó, nhưng không phải là không thể thực hiện được. Một kiểu mẫu về vâng phục Thượng Đế và uy quyền có thể thắng hơn kiểu mẫu đề kháng và nổi loạn.
Xã hội thất bại trong việc truyền dạy các lý tưởng đạo đức tuyệt đối.
Chẳng có gì là khó hiểu trong việc vấn đề này ảnh hưởng đến vấn đề uy quyền như thế nào. Một tiêu chuẩn luân lý đạo đức tương đối sẽ dẫn tới một triết lý nhân bản, ở đó “cái ta” là uy quyền và là cái xác định thế nào là đúng hay sai về mặt luân lý đạo đức.
Xã hội ngày nay bảo rằng: “Hễ bạn thấy điều gì là tốt, thì hãy làm đi”, đã kết luận rằng người có trách nhiệm xác định bất kỳ một lời nói hay hành vi nào là đạo đức chẳng ai khác hơn là chính bạn! Chúng ta thường được bảo cho biết rằng nếu tất cả mọi người đều nhất trí về một điều gì đó, thì điều đó trở thành đúng. Hay nếu ít nhất, mọi người đều đầu phiếu cho nó, thì nó là đúng!
Nếu không có các lý tưởng đạo đức tuyệt đối, thì điều không thể trách được sẽ là sự sụp đổ của uy quyền, và người ta sẽ không đáp ứng lại với uy quyền nữa. Ta có thể tìm được một thí dụ cho việc này trong RoRm 10:3 Phao-lô nói: “Họ không biết đường lối Thượng Đế vạch sẵn cho con người đến bậc công chính, lại cố gắng lập công đức theo luật pháp chứ không theo đường lối Ngài”.
Trong bầu không khí trí thức của các trường cao đẳng và đại học ngày nay, mỗi câu khẳng định hay định đề có thể bị thắc mắc đặt thành vấn đề. Chẳng có gì còn được gọi là đúng, sai, phải, trái nữa. Câu trả lời hôm nay là: “Cái đó còn tuỳ!”. Luân lý đạo đức rất uyển chuyển, tùy thuộc vào hoàn cảnh hoặc tình hình trong đó mọi sự việc xảy ra.
Tâm trạng của phần đông người ta ngày nay là không muốn có ai bảo mình nên làm gì, hay một việc gì đó là điều phải làm. Điều này gợi ý về một “việc phải làm” hay một đòi hỏi đạo đức nào đó, và đòi hỏi phải có một uy quyền đạo đức đàng sau nó! Người ta thường bảo: “Ai nói như thế?” hay “Thế ông ta cho rằng mình là ai?” Hoặc “Điều gì khiến ông ta cho rằng mình có uy quyền ở đây?” Bầu không khí nổi loạn và đề kháng này đang phát triển mạnh, mà nhiều người gọi là “khoảng chân không đạo đức”.
Thất bại trong việc truyền dạy các nguyên tắc về uy quyền.
Một số điểm đáng trách có thể quy cho các tổ chức giáo dục đã không dạy đúng các nguyên tắc về lãnh đạo và uy quyền. Uy quyền, quyền lãnh đạo và quản lý là các chủ đề rất được nhiều người quan tâm chú ý, nhưng cách thức mà các chủ đề ấy được truyền dạy trong phần lớn các trường học khiến nhiều người nghi ngờ và thắc mắc đặt vấn đề đối với việc khẳng định vai trò dành cho quyền lãnh đạo.
Ngày nay, ngồi tại một địa vị có uy quyền liên đới nhiều với sự chỉ trích và công kích. Khi phân tích tại sao sự việc lại quả đúng là như thế, nhiều người đã chỉ vào các giáo trình truyền dạy phương pháp quản lý. Các quyền cá nhân đã được đề cao đến mức các nhà cầm quyền luôn luôn xuất hiện như “những kẻ xấu”.
Những vụ công kích người có uy quyền thường xảy ra trong các trường cao đẳng và các lớp đại học. Mọi người dường như “có quyền muốn nói gì thì nói”. Người ta lường gạt lừa dối nhau, chẳng buồn tuân thủ luật pháp chi cả. Nếu bạn có thể tống khứ nó đi, thì dường như làm như thế là phải, là đúng. Cho nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi hiện nay đang có khủng hoảng về uy quyền!
Các cấp lãnh đạo thất bại trong việc nêu gương tốt.
Những chuyện tai tiếng trong đời sống các nhà cầm quyền dường như có xu hướng làm suy giảm việc người ta đáp ứng lại với uy quyền. Nếu cuộc đời một người lãnh đạo không phản ảnh đúng điều ông ta nói, thì rất khó được tín nhiệm và tin cậy trong vấn đề thực thi quyền hành của người ấy. Đây chắc chắn là một lời chỉ trích có giá trị và một số những điều trách cứ phải đổ lên vai các nhà cầm quyền.
ChCn 29:2 chép: “Người liêm chính cai trị, dân sự hân hoan; kẻ ác nắm quyền, dân chúng lầm than”. Tân ước nhấn mạnh trên các phẩm cách của những người có địa vị lãnh đạo - họ phải nêu gương tốt. Lẽ dĩ nhiên cách ăn ở cư xử đạo đức như thế khẳng định là phải có các lý tưởng đạo đức tuyệt đối để chúng ta căn cứ vào đó mà thẩm định, và các lý tưởng tuyệt đối đó có uy quyền đạo đức.
Đề cập các giáo sư giả và các cấp lãnh đạo vô đạo, Thánh Kinh chép:
“Như vậy, Chúa biết giải cứu người tin kính khỏi cơn cám dỗ; còn kẻ vô đạo đến ngày phán xét sẽ bị Ngài hình phạt. Ngài đặc biệt nghiêm khắc với những kẻ sống buông thả theo dục vọng xấu xa, những kẻ kiêu căng, liều lĩnh, dám khinh mạn cả các bậc tà linh cường bạo” (IIPhi 2Pr 2:9-10).
Trong câu 8 sách của mình, Giu-đe thêm: “Thế mà những kẻ lầm lạc kia cứ sống mãi cuộc đời gian ác, làm nhơ nhuốc thân thể, khinh bỉ mọi uy quyền và chế giễu cả các bậc tà linh cường bạo”. Đặc điểm của các giáo sư giả này là khinh dể và khước từ uy quyền.
Khuynh hướng tự nhiên muốn nổi loạn.
Một số người không thích thừa nhận sự thật này, nhưng ta tìm thấy nó nhiều lần trong Thánh Kinh. Con người vốn tội lỗi, và các hành động của người bị bản tính tội lỗi và vị kỷ cai trị. Bản tính ấy vốn có ngay từ khi chúng ta được sanh ra đời. Trong Thi Tv 51:5, Đa-vít nói: “Con sinh ra giữa đời gian ác, được hoài thai trong cảnh tội ô”. Eph Ep 2:1-3 tả vẽ như khắc hoạ vấn đề này:
“Trước kia tâm linh anh em đã chết vì tội lỗi gian ác. Anh em theo nếp sống xấu xa của người đời, vâng phục Sa-tan, bạo chúa của đế quốc không gian, hiện đang hoạt động trong lòng người chống nghịch Thượng Đế. Tất cả chúng ta một thời đã sống sa đoạ như thế, chiều chuộng ham muốn xác thịt và ý tưởng gian ác của mình. Vì bản tính tội lỗi đó, chúng ta đáng bị Thượng Đế hình phạt như bao nhiêu người khác”.
IGi1Ga 1:8 chép: “Nếu chúng ta chối tội là chúng ta tự lừa dối và không chịu nhìn nhận sự thật”. Sự việc dường như hết sức rõ ràng là vấn đề này vốn không phải chỉ là của các bậc làm cha mẹ, các nhà cầm quyền, các định chế, các tiêu chuẩn luân lý đạo đức trong xã hội bên ngoài con người mà thôi. Vấn đề ấy vốn nằm ngay trong lòng chúng ta! Bản tính của chúng ta vốn là phản loạn. Chúng ta sẵn sàng hướng tới “cái ta” và tội lỗi, chứ không phải là vâng phục uy quyền đạo đức.
Chúng ta không muốn ai bảo chúng ta nên làm gì - điều đó trái với bản tính chúng ta! Phao-lô mô tả nan đề của con người:
“Dù biết Thượng Đế nhưng họ chẳng tôn vinh hay tri ân Ngài. Họ suy tư trong vòng lẩn quẩn, tâm hồn bị sa lầy trong bóng tối. họ tự nhận là khôn ngoan nhưng hoá ra mê muội. Thay vì thờ phượng Thượng Đế vinh quang hằng sống, họ tôn thờ thần tượng con người phù du, đến cả hình tượng chim, thú hay loài bò sát” (RoRm 1:21-23).
1:30 thêm rằng, theo bản tính người ta hay “phao vu, ghét Thượng Đế, xấc láo, kiêu căng, khoác lác, ưa tìm cách làm ác mới mẻ, nghịch cha mẹ”. Khi mô tả những ngày sau rốt, Phao-lô cho chúng ta biết rằng loài người sẽ “khoe khoang, hợm hĩnh, phỉ báng, nghịch cha mẹ” (IITi 2Tm 3:1-5). Vâng, vấn đề là ở trong lòng người ta. Theo bản tính và hành động, chúng ta vốn là tội nhân.
Trong ITe1Tx 4:1-8 Phao-lô mô tả các nguyên tắc và lời dạy của Thượng Đế về thói quen sống vô đạo. Trong câu 8, ông đưa vào một câu thật hấp dẫn về việc khước từ : “Vậy ai không tuân lệnh này, không phải bác bỏ lời người ta, nhưng khước từ Thượng Đế, Đấng ban Thánh Linh Ngài cho anh em”. Điểm muốn nói ở đây, là trước hết, sự phản loạn và khước từ của chúng ta được hướng vào chính Thượng Đế.
Các tổ chức Cơ-đốc giáo có thể gặp
chia rẽ , bất trung và phản chống uy quyền
quan trọng nếu bản tính tội lỗi của
những người làm việc trong đó không được
Đức Thánh Linh cai trị kiểm soát .
Tạ ơn Thượng Đế, vì đã có một giải pháp cho sự phản loạn trong lòng của mọi người chúng ta! Tội lỗi chúng ta đã được huyết báu của Chúa Giê-xu trả giá để mua rồi, và chúng ta có thể được cứu rỗi nhờ công lao của Ngài trên thập tự giá và sự sống lại của Ngài. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có đức tin vào những gì Thượng Đế đã làm cho chúng ta, chứ không phải vào những gì chúng ta có thể làm cho Ngài. Chúng ta phải tin vào Chúa Cứu Thế Giê-xu để được cứu.
Khi được “tái sinh” chúng ta nhận một bản tính mới từ Thượng Đế, khiến chúng ta biết hướng về Ngài. Bản tính mới này luôn luôn xung đột với bản tính cũ của chúng ta (vốn chưa được cất đi cho đến khi Chúa Cứu Thế tái lâm). Việc hiểu rõ và đáp ứng lại với uy quyền giữa các tín hữu phải lớn hơn là giữa những người không tin Chúa.
Lẽ dĩ nhiên là các tín hữu có thể để cho bản tính cũ của họ nắm thế áp đảo để trở thành điều mà Thánh Kinh gọi là “xác thịt”. Các tổ chức Cơ-đốc giáo có thể gặp chia rẽ, bất trung và đề kháng uy quyền nếu bản tính tội lỗi của những người làm việc trong đó không được Đức Thánh Linh kiểm soát. Bí quyết để có một tổ chức kiến hiệu, trong đó có sự đáp ứng và tôn trọng uy quyền, là một đời sống đầy dẫy Đức Thánh Linh. Một phần của trái của Thánh Linh, là đức “tự chế”. Khi chúng ta được Đức Thánh Linh cai trị kiểm soát, chúng ta sẽ không thoả mãn các tham muốn của xác thịt (kể cả việc nổi loạn và không vâng phục uy quyền) theo GaGl 5:16.
Các Vấn Đề Về Tổ Chức
Gây Ra Việc Đề Kháng Uy Quyền
Thêm vào vấn đề căn bản của bản tính tội lỗi cũ và các thất bại của những bậc cha mẹ, xã hội, trường học, v.v.. có một số vấn đề thực tiễn trong mỗi tổ chức, có thể dẫn tới các vấn đề về uy quyền. Nhận ra chúng sớm và làm một điều gì đó để đối phó với chúng, có thể cứu người lãnh đạo khỏi nhiều trường hợp đau lòng.
Không xác định trách nhiệm.
Khi các tín đồ không biết họ phải làm gì, họ sẽ chán nản thất vọng và đề kháng uy quyền. Khi các lằn ranh về trách nhiệm không được rõ ràng trong công việc được giao, các tín đồ sẽ có xu hướng dẫm lên chân người khác! Có sự trùng lấp, tạo ra các thái độ như: “Đó không phải là công việc của tôi”, hay “chẳng ai bảo tôi làm việc ấy cả” hoặc “đó là vấn đề của bạn, không phải của tôi”.
Việc phân nhiệm cần bắt đầu từ cấp trên. Trước khi được biết vị lãnh tụ chóp bu làm gì, chúng ta không thể trù hoạch các công việc cho cấp dưới ông ta.
Xác định trách nhiệm không cần thiết phải dài dòng hay quá chi tiết. Nó phải đề cập những điều cơ bản này: điều trông mong phải làm là gì, phải chịu trách nhiệm với ai, có trách nhiệm với ai, đâu là các quyền hạn, v.v...
Không được lãnh đạo theo dõi sát.
Đây là một lời than phiền phổ biến. Khi một người có một yêu cầu với cấp lãnh đạo nhưng yêu cầu đó lại không được biết đến, hay bỏ qua, các thái độ chống đối sẽ phát triển ngay tức khắc. Các cấp lãnh đạo phải học tập theo dõi thật sát các vấn đề có ảnh hưởng đến tín đồ của mình.
Một trong các thành viên trong ban giám đốc của chúng tôi có ý chống đối, và điều đó bắt đầu bộc lộ. Khi đối phó với vấn đề, tôi học biết được vấn đề chính là tôi. Ông ta đã trình các kế hoạch cho tôi, nhưng tôi đã không chịu hành động ngay, cũng không cho biết tôi muốn giải quyết việc ấy như thế nào. Ông ta bối rối là phải. Ông ta phải luôn vâng phục, nhưng phản ứng của ông ta là điều có thể hiểu được.
Chẳng có giải thích.
Khi các quyết định có ảnh hưởng đến đa số những người làm việc cho bạn mà không kèm theo lời giải thích, thì các thái độ chống đối bắt đầu phát triển. Các cấp lãnh đạo phải học tập chia xẻ với mọi người tại sao mình phải làm như đang làm. Không phải tất cả mọi người đều sẽ nhất trí, nhưng mọi người đều vui vẻ vì ý kiến của họ đã được lắng nghe, và cấp lãnh đạo sẵn lòng giải thích. Khi những người làm việc cho bạn là những người sau cùng được nghe về các quyết định đã được đưa ra, họ sẽ cảm thấy mình bị bỏ qua, và người lãnh đạo đã không đánh giá họ cao lắm.
Vấn đề dường như hết sức đơn giản - đổi qua đổi lại một vài chức vụ, sắp xếp lại người làm, thế nhưng tất cả đều không được giải thích. Bạn thử đoán xem - Tôi đã có vấn đề đấy! Tôi đã phải khó khăn lắm để giải thích thật chi tiết với tất cả mọi người có liên quan với việc chuyển đổi này! Đó là lỗi của tôi, chứ không phải của họ. Dù vấn đề có vẻ nhỏ nhặt đối với tôi, nhưng không phải là hoàn toàn không có hậu quả đối với họ.
Tỏ ra thiên vị.
Việc này thường xảy ra luôn. Chỉ cần bắt đầu trả lương cho một thành viên trong ban giám đốc cao hơn một người khác cùng cấp bậc, thế là bạn sẽ thấy ngay việc chống lại uy quyền. Hãy giao cho một thành viên trong ban giám đốc một văn phòng tốt hơn một người khác cũng có cùng một cấp bậc trách nhiệm, bạn sẽ gặp vấn đề ngay, trừ phi mọi người đều tán đồng, yêu thương và sẵn sàng. Lẽ dĩ nhiên là khi các văn phòngï đều khác nhau, và bạn phải có những quyết định không làm vui lòng tất cả mọi người, nhưng bạn biết dành thì giờ để bàn bạc qua, chắc chắn bạn sẽ được giúp ích!
Tỏ ra thiên vị có thể được nhìn thấy do số thì giờ người lãnh đạo dành cho một người cá biệt nào đó trong ban giám đốc nhất là khi đó không phải là công việc chung. Con người vốn rất nhạy cảm, và người lãnh đạo phải thông cảm với cách cảm nghĩ của người khác. Các cấp lãnh đạo phải tỏ ra yêu thương và quan tâm đến tất cả mọi người, không thiên vị.
Đòi hỏi làm việc phụ trội mà không yêu cầu.
Khi một cấp lãnh đạo chỉ đơn giản bảo với một người làm công điều ông ta muốn người ấy làm nhưng công việc ấy vốn không phải là công việc thường xuyên của người ấy, thì một thái độ đề kháng có thể dễ dàng phát triển. Người làm công kia bắt đầu cảm thấy cấp lãnh đạo ấy không thật sự quan tâm hay hiểu rõ các cảm nghĩ của mình. Lẽ tự nhiên là những người làm công phải sẵn sàng tuân theo các đòi hỏi của ông chủ (Thánh Kinh dạy như thế), nhưng các cấp lãnh đạo thuộc linh sẽ tạo dễ dàng hơn cho mình nếu biết thôi đòi hỏi và bắt đầu thỉnh cầu.
Nếu một người lãnh đạo cần một người làm ở lại và làm thêm giờ phụ trội, thì phải thỉnh cầu, chứ không phải đòi hỏi. Một câu hỏi như: “Anh có thể giúp tôi làm cho xong việc này bằng cách làm thêm giờ hôm nay không?” sẽ tốt hơn câu: “Anh sẽ phải ở lại để làm thêm giờ hôm nay, hầu hoàn tất dự án này” rất nhiều. Khi một cấp lãnh đạo cần một người làm một việc không phải là phần việc của người ấy, thì nói: “Xin anh giúp tôi việc này; tôi biết đó không phải là công việc của anh, nhưng tôi thật sự cần được anh giúp” sẽ tốt hơn là bảo: “Anh phải làm việc này cho xong càng sớm càng tốt”.
Người lãnh đạo làm như thế, tức là đang xây dựng cho tương lai. Người khác sẽ đáp ứng nhanh chóng hơn khi bạn có nhu cầu, khi biết là bạn đang thỉnh cầu, chứ không phải là đòi hỏi họ. Có lẽ bạn có quyền đòi hỏi đấy; nhưng nếu bạn chịu suy nghĩ điều này, thì năng suất có thể sẽ cao hơn khi có bầu không khí thương yêu và ân cần.
Một điều cuối cùng về vấn đề này: Phải chắc chắn là bạn đã tỏ lòng thành thật cám ơn cho nỗ lực phụ trội đó. Lòng tri ân dẫn tới việc được đáp ứng sốt sắng hơn. Một trong những dạng thức đền bù cho người làm việc thường hay bị quên lãng là câu: “Cám ơn anh nhiều lắm”. Nó có giá trị hơn tiền bạc rất nhiều!
Các vấn đề về tổ chức có thể tạo ra việc chống đối uy quyền. Xin đừng để chúng cứ tiếp tục. Nên học tập đối phó với chúng thật nhanh chóng. Mọi người đáp ứng lại với các cấp lãnh đạo biết quan tâm đến họ và các cảm nghĩ của họ.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Có người nào đó chống lại uy quyền của bạn không? Họ là ai? Bạn có biết tại sao không?
2. Bạn đối phó với người chống đối uy quyền của bạn như thế nào?
3. Bạn có nêu gương tốt trước mặt tha nhân, khiến người khác sốt sắng đáp ứng lại với uy quyền của bạn không? Tại sao?
4. Bạn có mô tả thật đầy đủ công việc mà chính bạn phải làm hay không? Còn cho các bạn đồng công của bạn? Chúng có được viết ra giấy không?
5. Bạn có luôn luôn đáp ứng tức khắc các yêu cầu của người khác không?
6. Bạn có dành thì giờ giải thích các quyết định của bạn, khi chúng có ảnh hưởng đến người khác không?
7. Có bao giờ bạn tỏ ra thiên vị không? Hãy kể ra một thí dụ gần đây.
8. Bạn có thói quen đòi hỏi chứ không phải là thỉnh cầu không? Đâu là chỗ khác nhau?
LÀM THẾ NÀO ĐỂ BẠN CÓ ĐƯỢC UY QUYỀN?
Uy quyền rất thiết yếu cho việc điều hành hữu hiệu bất kỳ một tổ chức nào. Nó vẫn hiện hữu, cho dù có được thừa nhận hay không. Nó thường nằm trong một góc, mà không được những người có tước vị và chức vụ chú ý. Làm thế nào để một người có được uy quyền? Nó từ đâu đến?
Nền Móng Của Uy Quyền
Nền tảng của mọi uy quyền là Thượng Đế. Nếu không có Thượng Đế, cũng không có nền tảng đạo đức cho uy quyền. Nếu không có Thượng Đế, người ta không thể thiết lập tính cách đứng đắn, phải lẽ đạo đức. Nếu không có Thượng Đế mọi sự đều tương đối và tuỳ thời chóng qua. Nếu không có Thượng Đế, cũng chẳng có các tuyệt đối.
Thượng Đế là nguồn gốc của uy quyền.
Trước khi có bất cứ vật gì, Thượng Đế đã có rồi. Thánh Kinh đã không dài dòng chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế, mà chỉ khẳng định sự kiện ấy thôi. Đấng đã tạo nên chúng ta có quyền bảo chúng ta phải làm gì. Mọi uy quyền trên thế gian này đều có trách nhiệm phải tính sổ, phải khai trình cách hành quyền ấy với chính Thượng Đế. Nhiều vấn đề về quản lý có thể được làm sáng tỏ, nếu nguyên tắc này được thừa nhận và áp dụng.
Thánh Kinh dạy rằng Thượng Đế là vua của tất cả, và Vương quốc Ngài bao trùm mọi sự và mọi người (xem DaDn 4:3, 34; 6:26; 7:14). Vua Đa-vít bảo rằng Thượng Đế là đầu của tất cả, và Ngài cai trị tất cả (xem ISu1Sb 29:11, 12). Mọi sự đều do Ngài mà có.
RoRm 9:21 dạy rằng Ngài là người thợ gốm còn chúng ta là đất sét; Ngài có quyền nắn ra chúng ta theo hình thức nào tuỳ ý Ngài. Thi Tv 24:1-10 nhắc nhở chúng ta rằng đất và mọi sự ở trong đó đều thuộc về Đức Giê-hô-va. RoRm 11:36 dạy rằng mọi sự đều do Ngài mà có, đều được Ngài điều hành và nhằm vào mục tiêu tối hậu là chính Ngài. Thi Tv 103:19 dạy rằng Thượng Đế cầm quyền tể trị trên tất cả.
Các cấp bậc uy quyền được Lời Chúa mặc khải.
Thượng Đế cũng xác định các cấp bậc của uy quyền đang hiện hữu trong xã hội. Đức Chúa Cha đã ban đặc quyền cho Con Ngài, là Chúa Cứu Thế Giê-xu (xem GiGa 17:2). Uy quyền của Chúa Cứu Thế ảnh hưởng đến nhiều lãnh vực của đời sống chúng ta. Trong hôn nhân, Chúa Cứu Thế là đầu của tất cả những người chồng, còn người chồng là đầu của vợ mình. Trong Hội thánh Chúa Cứu Thế là Đầu. Trong việc kinh doanh, các chủ nhân được nhắc nhở về Ông Chủ của họ trên thiên đàng (xem Eph Ep 6:9).
Uy quyền của Thượng Đế đã được diễn tả rõ ràng trong các trang viết của Thánh Kinh, khiến bộ sách ấy trở thành quyển sách chỉ dẫn số một về uy quyền. Thánh Kinh vang lên đầy uy quyền với những câu khẳng định như: “Đức Giê-hô-va phán vậy” và “Có Lời của Đức Giê-hô-va phán cùng tôi như vầy” Thánh Kinh đòi hỏi chúng ta phải tuân thủ và vâng phục những gì sách ấy dạy. Lý do vì đó là Lời của Thượng Đế. Thượng Đế là nguồn gốc tối hậu của mọi uy quyền.
Một trong những vấn đề chủ yếu trong việc xác lập nguyên tắc về uy quyền trong đời sống một người, là mối liên hệ của người ấy với Thượng Đế. Nếu người ầy không chịu thừa nhận Thượng Đế là thấy rằng mình chẳng cần chi phải vâng phục các cấp bậc uy quyền mà Thượng Đề đã thiết lập trong Lời Ngài.
Vâng phục uy quyền.
Thượng Đế đã thiết lập uy quyền trong hôn nhân, gia đình, chính quyền,
Nếu bản thân bạn không thể vâng phục
uy quyền , thì không thể trông mong
tha nhân vâng phục bạn
việc kinh doanh và Hội thánh. Mỗi tín hữu được khuyến giục phải vâng phục các nhà cầm quyền mà Thượng Đế đã thiết lập.
Một trong những chiếc chìa khoá để có được uy quyền là học tập vâng phục. Điều hầu như đã trở thành một định lý, ấy là mức độ uy quyền trong đời sống một người có thể trực tiếp truy nguyên từ mức độ người ấy vâng phục các uy quyền mà Thượng Đế đã đặt trên đời sống người ấy. Nếu bản thân bạn không thể vâng phục uy quyền, thì không thể trông mong tha nhân vâng phục bạn. Thượng Đế hứa đề cao người biết học tập vâng phục (xem Gia Gc 4:10).
Phần lớn vấn đề đáp ứng lại với uy quyền nằm trong các ý niệm sai lầm của người ta về uy quyền. Các ý niệm này thường cai trị, kiểm soát việc người ta đáp ứng lại, tuy người ấy không hề ý thức việc ấy.
Các Ý Niệm Sai Lầm Về Uy Quyền
Một vài vấn đề mà mọi người phải gặp khi công tác tốt với tha nhân và dưới quyền lãnh đạo của người khác, là do có các ý niệm sai lầm về uy quyền mà họ đã quen rồi. Sau đây là vài ý niệm sai lầm như thế.
Uy quyền từ cảm thức nội tâm.
Chúng ta thường nói về các nhân vật “có uy quyền” - tức là những người dường như vốn có uy quyền bẩm sinh. Họ cảm thấy như thế, và người chung quanh họ cũng cảm thấy như thế. Uy quyền này có thể nảy sinh từ cách một người nói năng, ăn mặc hoặc liên hệ với những người khác.
Nhưng đây chỉ là uy quyền tưởng tượng mà thôi, chưa phải là uy quyền có thật. Nó do bản thân người ấy bảo những người chung quanh người ấy tưởng tượng ra. Có khi nó vốn là hậu quả của một ý thức tự hào hoặc tự tin. Nó cũng có thể bắt nguồn từ sự bất an, khiến một người bày tỏ các thái độ và hành vi có tính cách thị uy. Nhiều khi cách nói dài, nói to tiếng của chúng ta cho thấy sự bất an hay tự cao, tự hào của mình.
Uy quyền do quyền làm chủ
Ý niệm sai lầm này cho rằng việc thực thi uy quyền có thể được một cá nhân theo đuổi nó học tập hay tích luỹ mà có. Những người tin như thế sẽ dành nhiều thì giờ đọc sách và nghiên cứu các nguyên tắc quản lý và cầm quyền, tin rằng số kiến thức này sẽ đem đến cho họ quyền lực hay khả năng hành quyền trên tha nhân.
Nhiều khi ý niệm sai lầm này được đặt trên cơ sở là những gì mà một người đã mua hay được thừa kế. Người ấy có một ý thức rất thật rằng kẻ sở hữu là người có quyền. Tuy nhiên, nếu chỉ sở hữu suông, thì không thể bảo đảm cho uy quyền hữu hiệu - nhất là trong lãnh vực lãnh đạo thuộc linh. Bạn có thế lực do tiền bạc đem đến, nhưng điều đó không có nghĩa là bạn có quyền lãnh đạo hay quyền thuộc linh.
Uy quyền trên cơ sở ý muốn của đa số.
Niềm tin phổ biến này tiêu biểu cho đường lối “dân chủ” để làm mọi việc. Rắc rối là ở chỗ đầu phiếu cho một ai đó vào một địa vị có uy quyền tự nó, không đem uy quyền đến. Nếu có 100 người đầu phiếu bầu một lãnh tụ mà 51 người đầu phiếu thuận và 49 người đầu phiếu chống, thì người ấy được chọn. Thí dụ cá biệt này cho thấy sự nguy hiểm của phương pháp thiết lập uy quyền này.
Để bù trừ cho vấn đề này, nhiều tổ chức tôn giáo đòi đa số là hai phần ba khi tuyển chọn các cấp lãnh đạo. Điều này cũng không bảo đảm được cho một lãnh tụ thuộc linh đã được chọn hoặc uy quyền thuộc linh sẽ được thực thi.
Phương pháp này thường đặt cơ sở trên danh tiếng hay người được nhiều người biết rõ và có ít vấn đề nhất. Muốn sử dụng cách làm này, nhiều yếu tố khác phải được xét đến trước - đó là chỉ để thảo luận thật vắn tắt mà thôi. Rất có thể rằng đa số cũng sai lầm. Khi người ta không được đầy dẫy Thánh Linh, hay không sống một cuộc đời đạo đức tin kính, hoặc không đặt các ý kiến của mình trên cơ sở là các định chuẩn của Thánh Kinh, thì rất khó cho họ có được những quyết định đúng.
Uy quyền căn cứ trên sự thừa nhận.
Quan điểm này hàm chứa một chân lý hết sức quan trọng: Khi chẳng có ai đáp lại uy quyền của một cá nhân nào đó, thì sẽ có việc nghi ngờ đặt vấn đề về tài năng quản lý hay cai trị của người ấy. Nhưng việc không có người đáp ứng, không bảo đảm được rằng một người nào đó không phải là lãnh tụ.
Một người vợ phải phục quyền chồng, bất chấp người chồng có thực thi quyền ấy phải lẽ hay không. Điều này cũng nghiệm đúng với trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ, người làm công đối với chủ, v.v.. Vấn đề có thể là do thái độ của những người ở dưới uy quyền ấy. Thành tích phục tùng trong quá khứ của họ cũng có thể ảnh hưởng đến cách đáp ứng lại với uy quyền của họ.
Nhiều cấp lãnh đạo trông mong những người dưới quyền họ bảo đảm cho địa vị và uy quyền của họ. Loại lãnh đạo này rất không an tâm và cứ tiếp tục như thế cho đến khi phát giác được cơ sở thật sự của uy quyền. Người ấy sẽ có khuynh hướng thoả hiệp và khoan dung những tình hình đáng lẽ không nên có chỉ vì không muốn xúc phạm đến những người dưới quyền mình, số người mà cách đáp ứng của họ bảo đảm cho uy quyền của ông ta.
Uy quyền căn cứ trên chức vụ hay tước vị.
Điều này đang chiếm thế vượt trội trong xã hội ngày nay, khiến người ta ngạc nhiên tự hỏi đến bao giờ thì nó mới bị bài trừ và chôn vùi. Nó khiến cho người ta mưu tìm một chút tước vị hay chức vụ nào đó để tự
Một chức vụ cao và phần trang hoàng
hoa mỹ cho nó thường được thiên hạ
cho là “quyền hành ”. Đây là điều dại dột
và không phải là uy quyền đích thực !
hào, do đó, tự cảm thấy mình quan trọng và có uy quyền. Nhưng tất cả các tước vị cao trong thế gian cũng không thể đem đến cho bạn thứ uy quyền mà Thượng Đế mô tả trong Lời của Ngài.
Trong thế giới kinh doanh ngày nay, “thăng quan tiến chức” là một yếu tố chủ chốt làm động cơ thúc đẩy người ta, nhất là khi được lương cao bổng hậu, và thêm vào đó là những món lợi lớn. Lắm khi chúng ta để cho những “chiếc nạng” đó chống đỡ mình và tin rằng mình có một mức độ quyền hành nào đó. Nhưng uy quyền đích thực vốn có cơ sở là những nguyên tắc khác hẳn.
Thỉnh thoảng có được nhiều tước vị tiêu biểu cho công tác mà một người đang thực hiện là quan trọng nhưng khi chúng bị lợi dụng để tạo cho người ta một ý thức về uy quyền, thì đó chỉ là một việc phí thì giờ mà thôi. Uy quyền đích thực không đến chỉ vì ban tặng cho ai đó một tước vị suông. Nó cũng không đến bằng loại văn phòng ông ấy có hay các vật dụng chung quanh ông ta. Tầm cỡ của một văn phòng hay sự trang trí tỉ mỉ của nó thường được người ta cho là “quyền hành”. Đây là điều dại dột và không phải là uy quyền đích thực!
Thật không phải là một ý dở nếu các ủy viên ban chấp hành nên chuyển đổi văn phòng để dạy nguyên tắc này. Cũng là ý hay khi một ủy viên chấp hành giao văn phòngï của mình cho một người có ít quyền hạn hơn để nhận một văn phòng nhỏ hơn. Nếu càng có nhiều ủy viên chấp hành chịu làm như thế, sẽ càng có ít vấn đề hơn trong các mối liên hệ giữa mọi người với nhau, và có nhiều sự hiểu biết hơn về thế nào là uy quyền đích thực. Có lẽ những người thiết kế các văn phòng (đặc biệt trong các tổ chức Cơ-đốc) phải làm cho chúng hoàn toàn giống nhau về kích thước và trang trí nội thất!
Nền Tảng Thật Sự Của Uy Quyền Thuộc Linh
Các uy quyền thuộc linh có cơ sở là các yếu tố mà chính Thượng Đế mặc khải trong Lời thành văn của Ngài. Tài năng để bạn có được ảnh hưởng lớn trên đời sống nhiều người khác vốn lệ thuộc các yếu tố này. Ảnh hưởng mà Thượng Đế muốn bạn có và thực thi đối với người khác vốn được xây dựng trên những gì của chính bạn, với tư cách một con người.
Danh tiếng của bạn là điều mà người khác nghĩ về bạn; bản tính của bạn là điều mà Thượng Đế biết về bạn. Càng có thể nói được nhiều hơn về các yếu tố này, chắc chắn bảng liệt kê này sẽ càng được thêm nhiều các yếu tố đó hơn. Mong rằng vài nguyên tắc sau đây sẽ hướng dẫn mọi người chúng ta vào sự hiểu biết đúng về uy quyền.
Vâng phục chính Thượng Đế.
Gia Gc 4:7 chép: “Hãy phục tùng Thượng Đế”. Câu 10 dạy: “Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên”. Con đường đi lên là con đường đi xuống! Khiêm hạ và phục tùng là nền tảng đích thực của uy quyền thuộc linh. Lượng uy quyền thuộc linh trong đời sống tỷ lệ thuận với thái độ khiêm hạ và phục tùng Thượng Đế và Lời Ngài của chúng ta.
Trên đường đi, cần phải có rất nhiều trắc nghiệm để thấy chúng ta phục tùng Thượng Đế như thế nào. Lắm lúc chúng ta sẽ gặp cám dỗ thoả hiệp hay vi phạm Lời Chúa vì một thú vui trong chốc lát hay một lợi lộc nào đó. Những lúc như thế là những chiếc chìa khoá của uy quyền thuộc linh mà chúng ta sẽ có được. Nếu chúng ta không thuận phục Thượng Đế, sẽ có rất nhiều khả năng những người dưới quyền chúng ta sẽ chẳng vâng phục chúng ta!
Một nếp sống đạo đức tin kính.
HeDt 13:7 chép: “Anh em hãy nhớ đến những người dìu dắt và truyền dạy Lời Chúa cho mình. Hãy nghĩ đến kết quả tốt đẹp của đời sống họ và học tập lòng tin Chúa của họ”. Cần lưu ý rằng cách những người theo các cấp lãnh đạo đáp ứng lại với những gì các cấp lãnh đạo nói, là căn cứ vào cách ăn ở của các cấp lãnh đạo ấy. Ýù niệm “Hãy thực hành điều bạn giảng” luôn luôn được Kinh điển nhấn mạnh. Các cấp lãnh đạo không được tin cậy và tôn trọng căn cứ vào nếp sống tin kính đạo đức sẽ có rất ít uy quyền thuộc linh trên đời sống người khác.
Phao-lô viết trong ITe1Tx 1:5 “Vì chúng tôi công bố Phúc Âm cho anh em, không phải với lời nói suông nhưng với quyền năng Thánh Linh và niềm tin quyết. Ngay nếp sống chúng tôi cũng giúp anh em hiểu rõ Phúc Âm”. Ông nói thêm:
“Lời chúng tôi truyền giảng không có gì sai quấy, xấu xa hay lười dối. Nhưng được Thượng Đế tín nhiệm uỷ thác, chúng tôi công bố Phúc Âm, không phải để thoả mãn thị hiếu quần chúng, nhưng để làm hài lòng Thượng Đế, Đấng dò xét lòng người. Anh em đã biết, chúng tôi chẳng bao giờ tâng bốc, cũng không dùng lời đường mật để che đậy lòng tham, Thượng Đế chứng giám cho lòng chúng tôi. Chúng tôi cũng không cầu mong anh em hay mọi người khen ngợi” (2:3-6).
Tình yêu thương của bạn dành cho các tín đồ.
Thiên hạ đáp ứng tốt hơn với uy quyền có tình yêu thương. Con cái đáp ứng uy quyền của cha mẹ khi chúng được trả lại bằng mối quan tâm do tình yêu thương. Sửa phạt mà không có tình thương có thể tạo ra sự nổi loạn chứ không phải là sự vâng phục. Trong 2:3-12 Phao-lô đề cập uy quyền và ảnh hưởng của ông giữa các tín hữu ở đấy. Để nêu rõ nét tương phản giữa nếp sống của ông với các động cơ thúc đẩy sai lầm của nhiều người khác, ông nói:
“Dù chúng tôi xứng đáng được vinh dự ấy, vì là sứ đồ của Chúa Cứu Thế. Nhưng chúng tôi đã sống giữa anh em cách dịu dàng như người mẹ âu yếm săn sóc con cái. Chúng tôi yêu mến anh em, sẵn lòng chia xẻ với anh em, không những Phúc Âm của Thượng Đế, nhưng luôn cả tâm hồn chúng tôi; vì anh em là người thân yêu của chúng tôi. Anh em cũng biết, chúng tôi đối xử với mỗi người trong anh em như cha với con”.( 2:7, 8, 11)
Mối quan tâm do tình yêu thương của bạn đối với tha nhân sẽ làm gia tăng uy quyền và ảnh hưởng của bạn trong đời sống của họ.
Tấm lòng của một người đầy tớ.
Chúa Giê-xu đề cập loại uy quyền mà các vua và các nhà cầm quyền người ngoại quốc sử dụng. Trong Mac Mc 10:42 Ngài đề cập đến thế nào họ “bắt dân phải phục mình”. Nhưng loại uy quyền thuộc linh của Ngài thì khác:
“Nhưng giữa các con không ai làm điều đó. Trái lại ai muốn làm lớn phải làm tôi tớ người khác. Ai muốn lãnh đạo, phải làm nô lệ mọi người. Các con nên theo gương ta, vì ta đến trần gian không phải để cho người phục vụ, nhưng để phục vụ người, và hy sinh tính mạng cứu chuộc nhiều người”.
Ước muốn và ý chí phục vụ tha nhân của chúng ta là chìa khoá của uy quyền thuộc linh của chúng ta. Các cấp lãnh đạo thuộc linh nên tìm cách khiến cho những người làm việc dưới quyền mình phục vụ càng hữu hiệu hơn. Phải phục vụ họ về mọi phương diện có thể làm được. Phải cố gắng biến các điều kiện và hoàn cảnh ảnh hưởng đến công tác của họ được lý thú càng nhiều càng tốt. Phải tạo cơ hội và thách thức họ tăng trưởng và phát triển công tác của mình mà không tìm cách triệt tiêu sự tăng trưởng ấy vì các lý do vị kỷ.
Các Phương Cách Để Có Được Uy Quyền
Uy quyền thuộc linh là loại uy quyền quan trọng nhất. Điều này không có nghĩa rằng các loại uy quyền khác là không quan trọng hay không có thật. Trong sinh hoạt vợ chồng, chồng là người cầm quyền. Đó là uy quyền có thật, nhưng không nhất thiết là uy quyền thuộc linh. Vợ phải đáp ứng lại với uy quyền của chồng mình, cả khi chồng không vâng lời Chúa (xem IPhi 1Pr 3:1-6). Tuy nhiên sự đáp ứng của người vợ và phước hạnh của người chồng sẽ càng tốt đẹp hơn nhiều khi uy quyền của người chồng cũng là uy quyền thuộc linh, có cơ sở là các nguyên tắc mà chúng tôi vừa nêu ở phần trên.
Thế thì, một người có thể có được uy quyền như thế nào? Các tư tưởng sau đây đều rất thực tế và nảy sinh trong lãnh vực của từng trải cá nhân. Chúng được thêm vào với những gì đã được đề cập liên hệ với uy quyền thuộc linh. Khi chúng ta được đặt vào những địa vị có uy quyền trong bất luận lãnh vực nào trong những lãnh vực đã kể trên hay về một phương diện nào trong số đó, chúng ta cần tìm cách để có được uy quyền thuộc linh trong mọi việc chúng ta làm và nói.
Bằng cách đưa ra các quyết định.
Khi bạn quyết định lấy vợ, thì bạn tự động trở thành người có uy quyền trong đời sống vợ chồng. Đây là một địa vị mà Thượng Đế đã thiết lập trước rồi. Khi bạn quyết định có con cái, bạn tự động có uy quyền của người làm cha. Khi bạn quyết định đệ đơn xin một việc làm và bạn được thu nhận, thì có một mức độ uy quyền nào đó kèm theo công việc mà bạn đã nhận được.
Bằng cách được người khác uỷ quyền.
Khi ông chủ của bạn giao quyền cho bạn, uy quyền ấy đến với bạn nhờ sự uỷ nhiệm. Sở dĩ bạn có quyền là vì uy quyền của người chủ. Cách bạn sử dụng nó sẽ xác định mức độ quyền hạn của bạn trong đời sống nhiều người khác, tuy nhiên, sở dĩ bạn có được một quyền hạn nào đó, là vì nó đã được uỷ thác cho bạn.
Bằng việc thiết lập một chức vụ.
Khi một người phát triển một công việc gì đó ngay từ đầu, thì nó là con đẻ của người ấy. Sở dĩ người ấy có uy quyền, vì đã cho nó ra đời. Người ấy phải có các quyết định để chuyển quyền ấy cho người khác. Đây là vấn đề “giành phần” trước. Người ấy có quyền ưu tiên đòi hỏi nơi chức vụ đó vì người ấy đã bắt đầu nó.
Khi muốn có việc chuyển quyền trong một tổ chức hay một chức vụ cá biệt nào đó mà không có sự đồng ý của người đã sáng lập nó, thì điều không thể tránh được là sẽ có nhiều vấn đề nảy sinh. Thà bắt đầu một tổ chức phục vụ mới, còn hơn thay đổi tổ chức phục vụ cũ mà không có sự tán thành của người đã bắt đầu nó.
Chân lý này áp dụng cho một tập thể cũng như cho từng cá nhân. Khi một tập thế thiết lập một tổ chức phục vụ hoàn toàn mới, rồi một nhóm khác đến, tìm cách thay đổi mọi việc, lập tức sẽ có xung đột, và có nhiều vấn đề sâu sắc về uy quyền. Các tổ chức có thể thay đổi khi có việc chuyển quyền thích hợp. Nếu không, phải thiết lập một tổ chức phục vụ mới.
Nhờ tài trợ.
Đây có thể là một vấn đề nguy hiểm về uy quyền. Tiền bạc không thể mua được quyền lực, cho dù chúng ta có muốn hay không. Một người lãnh đạo khôn ngoan sẽ làm đủ cách có thể để giữ cho những người tài trợ không lợi dụng điều này để chuyên quyền.
Nếu bạn dùng tiền của mình để mua một vật gì đó thì việc mua bán đó bảo đảm cho bạn một mức độ uy quyền trên đồ vậy ấy. Vấn đề ở đây liên hệ với nguyên tắc về tư sản. Nếu bạn mua một miếng đất thì nó thuộc về bạn, sau đó, bạn có quyền quyết định cho tương lai của nó.
Trong tổ chức phục vụ Cơ-đốc, các tín hữu phải cẩn thận trong vấn đề tài trợ cho công việc Chúa mà không đòi hỏi mình phải có quyền khi món tiền ấy của mình được sử dụng. Những đóng góp cho công tác từ thiện không thể có những ràng buộc nào cả.
Một tặng phẩm không phải là một đặc quyền để nắm giữ. Một tặng phẩm đặt căn bản trên tình yêu thương, chứ không phải là ước muốn cai trị kiểm soát một người khác, hay một tổ chức.
Nhờ từng trải cá nhân.
Nếu bạn có nhiều từng trải trong một lãnh vực phục vụ nào đó, bạn sẽ trông mong được tham khảo ý kiến về kinh nghiệm và chuyên môn. Bạn trở thành người có quyền vì biết rõ về những gì mình nói.
Điều này biến thành vấn đề khi từng trải của bạn trở thành tiếng nói sau cùng. Khi bạn không cởi mở đối với các ý kiến mới, kinh nghiệm trong quá khứ của bạn có thể chọc tức thiên hạ thay vì giúp ích cho họ. Những câu như: “Làm như thế không được đâu; chúng tôi đã thử điều đó trước đây rồi!” có thể gây nguy hại trầm trọng cho uy quyền của bạn trước mặt nhiều người khác.
Từng trải có thể tăng thêm uy quyền cho bạn khi bạn biết ứng dụng chúng vào các tình hình mới, khiến chúng trở thành các sáng kiến khôn ngoan và hữu ích. Kinh nghiệm quá khứ của bạn càng giúp ích được cho người ta trong hiện tại nhiều bao nhiêu, thì uy quyền của bạn sẽ càng lớn hơn bấy nhiêu.
Nên nhớ, uy quyền lớn nhất là uy quyền thuộc linh. Phải chắc chắn rằng loại uy quyền mà bạn đang chú trọng vào, là loại uy quyền tạo được nhiều kết quả thuộc linh và làm rạng danh Thượng Đế.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Bạn có thiết lập các mối liên hệ phải lẽ với Thượng Đế, như nguồn gốc tối hậu của uy quyền không? Hãy mô tả bạn thấy việc ấy xảy ra như thế nào?
2. Tùng phục uy quyền của Thượng Đế có phải là một vấn đề trong đời sống của bạn không?
3. Xem lại đoạn “Các ý niệm sai lầm về uy quyền”. Bạn có nhận thấy có vấn đề nào trong số đó cũng là một vấn đề trong đời sống của bạn không? Có những vấn đề nào mà bạn cần phải chú ý ngay tức khắc?
4. Trên thang điểm từ 1 đến 10, bạn cho điểm việc bạn thuận phục Thượng Đế như thế nào?
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Phản loạn
5. Trên thang điểm từ 1 đến 10 bạn cho điểm nếp sống đạo đức tin kính của mình như thế nào?
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Nếp sống theo đời
6. Bạn có thật sự yêu thương những người mà mình lãnh đạo không? Họ có thể nói như thế nào?
7. Bạn sẵn sàng làm tôi tớ cho người khác đến mức độ nào?
8. Xem lại đoạn “Các phương pháp để có được uy quyền” nếu bạn đang có địa vị có quyền, bạn đã đạt được địa vị ấy như thế nào?
9. Bạn có dành vinh quang cho Thượng Đế khi có nhiều kết quả thuộc linh không?

CÁCH ĐÁP ỨNG VỚI UY QUYỀN
Có thể nêu ra rất nhiều lý do cho thấy tại sao đáp ứng lại với uy quyền của một người lãnh đạo là một việc rất khó khăn. Liệt kê các khó khăn ấy là việc đặc biệt dễ dàng khi chúng ta không thích trực diện với trách nhiệm phải đầu phục và đáp ứng lại với uy quyền. Chẳng hạn như, khi một người lãnh đạo:
1. Cố tìm cách đàn áp và hù doạ bạn.
2. Muốn mình phải luôn luôn đúng.
3. Muốn lợi dụng và lạm dụng bạn tuỳ ý ông ta.
4. Chẳng quan tâm gì đến những gì xảy ra cho bạn.
5. Tin rằng các chức vụ tưởng tượng, lương cao bổng hậu, và các tước vị nghe ra rất quan trọng đem đến cho người ta uy quyền và sự kính trọng.
6. Chẳng bao giờ tỏ ý tán thành những gì bạn đã làm.
7. Không biết tên của bạn
8. Cướp công của người khác.
9. Tây vị và kỳ thị.
10. Nói dối với bạn và lường gạt người khác.
Bảng liệt kê có thể được kéo dài thêm. Nhiều cấp lãnh đạo không đáng được những người làm việc dưới quyền hay làm việc cho họ sẵn lòng thuận phục. Nhưng đó có phải là một lý do hay lời biện minh cho việc bạn đáp ứng kém đối với uy quyền của họ không?
An đã trải qua một giai đoạn khó khăn trong công việc. Chủ anh luôn luôn đe doạ anh, và dường như An cũng không thể làm vui lòng chủ trong các dự án mà anh được giao cho làm. Anh ấp ủ một tinh thần cay cú đối với chủ và bắt đầu chê bai chỉ trích ông ta. Bằng những biện pháp nhỏ, có khi lớn nữa, anh bộc lộ thái độ nổi loạn của mình. Ngày đáng sợ đã đến. Hôm ấy là chiều thứ sáu, ngày điển hình để những ông chủ cho một người làm thôi việc.
An rất ngạc nhiên, không phải vì mình bị đuổi, mà vì chủ anh đối chất anh về cái gọi là sự thuận phục Cơ-đốc của anh, và nhắc nhở anh về lời truyền dạy của Thánh Kinh là phải tùng phục uy quyền. Ông chủ bảo nếu anh không chịu thay đổi thái độ, anh sẽ cứ tiếp tục gặp rắc rối bất luận anh đi làm ở đâu.
An rất ngạc nhiên vì anh không hề nghĩ rằng ông chủ của mình lại có chút liên hệ gì với Cơ-đốc giáo hay bất cứ một kiến thức nào về lời truyền dạy của Thánh Kinh. May cho An, là anh đã nhận được một số lời khuyên của một bạn thân là Cơ-đốc nhân, và bắt đầu nhìn thấy vấn đề phải thuận phục uy quyền, vì nó đang ảnh hưởng đến đời sống và các thái độ của anh.
Thánh Kinh Dạy Gì Về Sự Thuận Phục?
Uy quyền vốn đến từ Thượng Đế. Ngài không luôn khen ngợi các hành động của người cầm quyền, nhưng Ngài tôn trọng địa vị cầm quyền và đòi hỏi các tín hữu cũng phải làm giống như thế. Vấn đề được đưa ra khá mạnh mẽ trong RoRm 13:1-7
“Mọi người phải vâng phục chính quyền vì chẳng có chính quyền nào không do Thượng Đế thiết lập. Vậy ai chống chính quyền là chống lại mệnh lệnh Thượng Đế và sẽ bị hình phạt. Nhà cầm quyền không khiến cho người lương thiện kinh hãi, nhưng người gian ác phải lo sợ. Muốn khỏi sợ hãi nhà cầm quyền, anh em cứ làm điều ngay thẳng, và họ sẽ khen ngợi anh em. Họ là những người Thượng Đế sai phái để giúp anh em làm điều thiện; nhưng nếu anh em làm điều ác, hãy lo sợ, vì không thể trốn tránh hình phạt. Thượng Đế dùng họ để phạt kẻ làm ác. Vậy phải vâng phục chính quyền, chẳng những để khỏi bị hình phạt nhưng cũng vì lương tâm. Do đó, anh em nộp thuế, vì nhà cầm quyền phục dịch Thượng Đế khi họ thi hành nhiệm vụ. Phải trả hết mọi thứ nợ: trả thuế cho nhân viên thuế vụ, nộp quan thuế cho nhân viên quan thuế, kính sợ người đáng kính sợ, tôn trọng người đáng tôn trọng”.
Thánh Kinh dạy rõ ràng: “Mọi người phải vâng phục chính quyền”. Phao-lô còn viết: “Hãy nhắc nhở các tín hữu phải vâng phục nhà cầm quyền, tuân lệnh họ và sẵn sàng làm mọi viện thiện. Đừng nói xấu, tranh chấp, nhưng phải hiền hoà, nhã nhặn với mọi người” (Tit Tt 3:1, 2). Và IPhi 1Pr 2:13-17 cũng hàm chứa cùng một bức thông điệp ấy:
“Vì danh Chúa, anh em hãy vâng phục mọi luật lệ Nhà nước, dù là luật của Quốc hội, Chủ tịch Nhà nước, hay luật của các nhà chức trách địa phương vì họ được uỷ nhiệm để trừng phạt kẻ làm ác và tôn trọng người làm lành. Thượng Đế muốn anh em sống cuộc đời lương thiện để làm câm miệng những kẻ dại dột thường lên án Phúc Âm mà không biết quyền năng Phúc Âm có thể đem lại cho họ bao nhiêu hạnh phúc. Anh em đã thoát khỏi vòng kiềm toả của luật Mai-sen; như thế không có nghĩa là anh em được tự do làm điều quấy. Hãy sống như người tự do để luôn luôn làm theo ý muốn Thượng Đế”.
Một lần nữa, chúng ta phải “vâng phục” chính quyền, cả vì đó là những người được địa vị cầm quyền do nhà vua ban xuống cho những người thực hiện các chủ đích của mình, cũng như theo luật pháp và thể
Vâng phục sẽ được Thượng Đế ban thưởng ....
Tuy chẳng có ai khác thấy được thái độ
sẵn lòng vâng phục uy quyền (các nhà cầm quyền )
của bạn , nhưng Thượng Đế thấy .
chế mà các nhà cầm quyền đã được thiết lập. Nộp thế, tôn trọng các cấp lãnh đạo vâng phục nhà cầm quyền - bức thông điệp thật rõ ràng.
Ngoại lệ duy nhất là khi người cầm quyền vi phạm uy quyền của Thượng Đế. Theo Cong Cv 5:29 Phi-e-rơ và các sứ đồ khác đã chống lại và nhận chịu mọi hậu quả khi bị người cầm quyền cấm đoán bảo các vị bất tuân lời chỉ giáo rõ ràng của Thượng Đế. Các vị nói: “Chúng tôi phải vâng lời Thượng Đế hơn vâng lời loài người”.
Phục tùng là một nguyên tắc chỉ đạo mọi lãnh vực của đời sống chúng ta. Trong hôn nhân, vợ chồng phải thuận phục lẫn nhau, vợ phải phục tùng chồng, và chồng phải phục tùng vợ (Eph Ep 5:21-23; CoCl 3:18). trong gia đình, con cái được truyền dạy phải vâng phục cha mẹ, và làm như thế là phải, và đẹp lòng Chúa (Eph Ep 6:1-2; CoCl 3:20). Các tín hữu được dạy phải vâng phục các cấp lãnh đạo trong Hội thánh (HeDt 13:17), cũng như ngoài xã hội.
Thuận phục là thừa nhận rằng các nhà cầm quyền đều do Thượng Đế sắp xếp và vâng lời cũng là vì lý do ấy, cả khi bạn cho rằng các nhà cầm quyền có sai lầm. Nếu các nhà cầm quyền không vi phạm uy quyền của Thượng Đế, chúng ta phải vâng phục họ cả khi chúng ta không nhất trí với họ. Vâng phục và đáp ứng với nhà cầm quyền (uy quyền) vốn không phải là khuynh hướng tự nhiên của chúng ta. Chúng ta vẫn tưởng rằng mình đúng hoặc có một cách làm mọi việc tốt hơn. Chúng ta thắc mắc đặt vấn đề, thách thức, chê bai chỉ trích, chống trả và nổi loạn. Bản tính của chúng ta là muốn làm như thế. Chúng ta cần được Đức Thánh Linh cai trị kiểm soát.
Tại Sao Chúng Ta Lại Vâng Phục Nhà Cầm Quyền.
Chỉ một lý do là vì Chúa truyền dặn như thế. Nếu chúng ta yêu mến Ngài, thì phải giữ các điều răn (lệnh truyền) của Ngài (xem GiGa 14:15). Các lý do tiếp sau đây cũng đều xuất phát từ việc vâng theo lệnh truyền của Chúa. Nếu chúng ta không hiểu “tại sao”, chúng ta vẫn phải vâng lời Thượng Đế, tin cậy Ngài trọn vẹn về các lý do và kết quả.
Điều đó đẹp lòng Chúa.
Vâng lời cha mẹ là lệnh Thượng Đế truyền cho những người làm con - vì ‘điều đó đẹp lòng Chúa” (CoCl 3:20). Vợ được dạy phải thuận phục chồng, vì “theo đúng bổn phận của người tin Chúa” (3:18). Thuận phục là cách ăn ở cư xử đạo đức tin kính, phản ảnh quyền kiểm soát của Chúa trên đời sống chúng ta và do đó mà Ngài được tôn trọng.
Điều đó là đúng.
Eph Ep 6:1 dạy con cái phải vâng lời cha mẹ vì “đó là điều phải”. Thượng Đế xác định điều gì là phải, là đúng. Chúng ta chẳng cần gì phải bàn bạc hay tranh luận. Chúng ta phải làm điều phải, bất chấp chúng ta nghĩ gì, cảm thức hoặc ước muốn điều gì.
RoRm 13:5-7 dạy chúng ta rằng một trong các lý do khiến chúng ta phải vâng phục nhà cầm quyền, là vì “lương tâm”. Chính vì thế mà chúng ta nộp thuế để ủng hộ các nhà cầm quyền. Vì Thượng Đế đã truyền dạy chúng ta phải làm như thế, và vì đó là điều phải làm, cho nên chúng ta phải vâng lời để có được một lương tâm trong sạch - và điều này gồm luôn việc phải nộp các sắc thuế của chúng ta!
Vâng phục sẽ được sống lâu và hạnh phúc.
Eph Ep 6:3 dạy những người làm con rằng sự vâng lời của họ được kèm theo một lời hứa: “Nhờ đó con mới được phúc và sống lâu trên đất”.
Điều đó giúp chúng ta khỏi phải gặt hái các hậu quả nghiêm trọng.
RoRm 13:4-5 vạch rõ rằng nếu chúng ta làm ác và chống lại nhà cầm quyền, thì Thượng Đế ban cho nhà cầm quyền các quyền hình phạt, vì “Thượng Đế dùng họ để phạt kẻ làm ác”. Do đó, chúng ta được chỉ giáo phải vâng phục nhà cầm quyền “để khỏi bị hình phạt”.
Điều đó bảo vệ cho lời chứng của Đạo.
Tit Tt 2:5 dạy “vợ phải...tùng phục chồng, hầu cho Đạo Thượng Đế không bị xúc phạm”. Thánh Kinh dạy rõ ràng rằng người vợ phải vâng phục chồng. Nếu không làm như thế, thì cách ăn ở của người vợ khiến cho Đạo (Lời) Chúa bị mất tín nhiệm và bị chê bai. Trong 2:9 cũng dạy kẻ tôi tớ phải “vâng phục chủ trong mọi việc”, và lý do đưa ra là ‘để làm cho tôn quý Đạo Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa chúng ta trong mọi đường”.
Phục tùng là ý chỉ của Thượng Đế.
Phi-e-rơ làm sáng tỏ điểm này trong IPhi 1Pr 2:5 “Anh em cũng đã trở thành những hòn đá sống, được Thượng Đế dùng xây nhà Ngài. Hơn nữa, anh em còn làm thầy tế lễ thánh, nên hãy nhớ Chúa Cứu Thế Giê-xu, dâng lên Thượng Đế những lễ vật đẹp lòng Ngài”. Thiên hạ vẫn hay bới lông tìm vết để chê bai nếp sống của người tín hữu. Nếu họ thù ghét Chúa Giê-xu, thì bạn cũng phải biết là họ cũng sẽ thù ghét chúng ta nữa (GiGa 15:18-21). Khi chúng ta phục tùng nhà cầm quyền, họ sẽ phải im lặng; họ chẳng có gì để chê bai hay công kích chúng ta.
Về phần các tôi tớ, Eph Ep 6:5 dạy: “tôi tớ phải vâng lời chủ...hết lòng làm theo ý muốn Thượng Đế”. Ý chỉ Thượng Đế là muốn chúng ta phải đầu phục, mà đầu phục với thái độ tận tuỵ và sự ao ước từ bên trong, chứ không phải chỉ là việc tuân thủ mặt ngoài mà thôi.
Vâng phục giúp đem người khác đến với Chúa
IPhi 1Pr 3:1-6 cho chúng ta một sự dạy dỗ tuyệt hảo liên quan đến việc thuận phục của vợ đối với người chồng không vâng theo Lời Chúa. Bà có thể đem chồng về với Chúa không bằng lời nói nhưng bằng sự thuận phục của mình. Thượng Đế gọi đó là “phẩm chất không phai tàn của tâm hồn dịu dàng, bình lặng, đó là thứ trang sức quí giá đối với Thượng Đế” (câu 4). Sự thuận phục “trang sức” hay “làm đẹp” con người và làm cho hấp dẫn.
Điều đó khiến ta được phúc lành của Thượng Đế.
“Các bạn thanh niên hãy vâng phục quyền lãnh đạo của những bậc phụ lão. Tất cả các bạn hãy phục vụ nhau với tinh thần khiêm nhường, vì Thượng Đế ban phúc lành cho người khiêm nhường nhưng chống nghịch kẻ kiêu căng” (5:5).
Đây là thái độ khiêm nhường để tùng phục người khác, nhưng Thượng Đế sẽ đề cao bạn. Thượng Đế sẽ ban “phúc lành” đặc biệt cho những người biết khiêm tốn hạ mình.
Đầu phục sẽ được Chúa ban thưởng.
Sứ đồ Phao-lô viết:
“Tôi tớ phải vâng lời chủ, thành thật kính sợ vâng phục chủ như vâng phục Chúa Cứu Thế. Không phải chỉ lo làm vừa lòng chủ khi có mặt, nhưng luôn cố gắng phục vụ chủ như phục vụ Chúa Cứu Thế, hết lòng làm theo ý muốn Thượng Đế. Phải tận tâm phục vụ như tôi tớ của Chúa, chứ không phải của người ta. Nên nhớ Chúa sẽ tưởng thưởng mọi người tuỳ theo việc tốt lành họ làm, vô luận tớ hay chủ” (Eph Ep 6:5-8)
Thượng Đế sẽ ban thưởng cho người biết tùng phục - “Chúa sẽ tưởng thưởng” người ấy. Tuy chẳng có ai khác nhìn thấy bạn vâng phục nhà cầm quyền, Thượng Đế vẫn nhìn thấy. CoCl 3:22-25 cho thấy cùng cái nhìn xuyên suốt đó.
“Tôi tớ phải luôn luôn vâng phục chủ. Không phải chỉ lo làm đẹp lòng chủ khi có mặt, nhưng phục vụ với tấm lòng chân thành và tôn kính Chúa. Làm việc gì cũng nên tận tâm như làm cho Chúa chứ không phải cho người. Đừng quên Chúa sẽ tưởng thưởng anh em phần cơ nghiệp xứng đáng. Vì Chúa Cứu Thế mới thật là Chủ của anh em. Nếu anh em không tận tâm, Chúa sẽ báo trả, Ngài không hề thiên vị”
“Đừng quên Chúa sẽ tưởng thưởng anh em”. Sẽ có ngày chúng ta được nghe Chúa phán: “Tốt lắm con rất ngay thật trung thành”. Đề cập ngày tái lâm của Ngài, Chúa chúng ta hứa: “Này ta sẽ sớm đến, đem theo phần thưởng...” (KhKh 22:12).
Vâng Phục Nhà Cầm Quyền Như Thế Nào
Có hai từ ngữ mô tả việc đó: vâng lời và làm. Như chúng ta đã thấy, trong CoCl 3:22, tôi tớ (nô lệ, người làm công) được dạy phải vâng lời chủ. Điều này bao hàm “mọi sự”. Chẳng có gì được chừa lại cả. Chúng ta được dạy: “Làm việc gì cũng nên tận tâm như làm cho Chúa chứ không phải cho người”. Các thái độ của chúng ta đều rất quan trọng.
Về mặt tiêu cực, chúng ta được cảnh cáo không nên làm việc để làm đẹp lòng người ta, làm việc bởi vì chúng ta bị trông chừng và theo dõi. Tiếng tốt của chúng ta là điều người khác nghĩ về chúng ta; bản tính của chúng ta là điều mà Thượng Đế biết chúng ta vốn có. Bản tính của chúng ta được nhận biết rõ ràng hơn trong bóng tối, khi chẳng có ai chung quanh hay sẽ chẳng bao giờ có ai biết cả. Đó chính là con người thật của chúng ta.
Về mặt tích cực, chúng ta phải làm việc với “lòng chân thật”. Từ chân thật trong Hi-văn có nghĩa là “đơn” tương phản với từ ngữ “đôi”. Nó có nghĩa là chúng ta không nên có một ẩn ý nào khác; chúng ta không nên đạo đức giả. Chúng ta chỉ có một chủ đích và ước muốn duy nhất, là tôn vinh Thượng Đế bằng cách tùng phục trong việc chúng ta làm và đối với người có quyền trên chúng ta. Tận tâm vì chúng ta tận hiến cho Chúa. Chúng ta đang phục vụ Chúa, chứ không phải chỉ phục vụ những người cầm quyền trên chúng ta mà thôi.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Tại sao một số người chống lại uy quyền?
2. Hãy liệt kê vài lý do khiến một số người có địa vị có uy quyền không xứng đáng cho những người làm việc cho họ hoặc dưới quyền họ phải đầu phục.
3. Bạn có thể nêu ra các lý do nào để chúng ta phải vâng phục nhà cầm quyền?
4. Tại sao vâng phục nhà cầm quyền là ý chỉ của Thượng Đế?
5. Một người có thể “làm cho tôn quí đạo Đức Chúa Trời” như thế nào?
6. Hãy liệt kê các phương pháp theo đó bản thân bạn có thể chứng minh rằng mình vâng phục nhà cầm quyền.
7. Hãy mô tả các thái độ của bạn trong việc nộp thuế, và cách bạn có thể làm để càng được đẹp lòng Chúa hơn.
8. Khi vâng phục nhà cầm quyền, thì đâu là một số những điều nên tránh?
9. Khi nào thì chống lại uy quyền của loài người là đúng?

CÁC CẤP LÃNH ĐẠO GIỎI CÓ MỘT CHIẾN LƯỢC
Đừng nhằm vào một mục tiêu nào cả, thì bạn sẽ luôn luôn gặp được nó! Thỉnh thoảng mọi người chúng ta đều được nghe câu này, nhưng rủi thay, chân lý của nó chỉ ảnh hưởng rất ít người! Bạn có biết mình đang đi đâu không? Các cấp lãnh đạo phải có một chiến lược. Họ phải biết phải làm sao để mọi việc sẽ hoàn thành.
Một chiến lược tốt gồm có:
1. Mục tiêu (objectives ) - các chủ đích căn bản của tổ chức.
2. Các chỉ tiêu (goals ) - các phương pháp đặc thù (cụ thể) theo đó các chủ đích của tổ chức sẽ được kiểm tra và thực hiện.
3. Các ưu tiên (priorities ) - các yếu tố quyết định khi nào và tại sao mọi việc phải được thực hiện.
4. Đặt kế hoạch (planning ) - tiến trình sử dụng để thực hiện các chỉ tiêu (bao gồm nhân sự, các nguồn tài nguyên, các trở ngại và việc đánh giá).
5. Các đường hướng chỉ đạo (Guidelines ) - cấu trúc luân lý và đạo đức trong đó tổ chức tìm cách hoàn tất các chỉ tiêu của mình.
Tổ chức phải có một triết lý của sự phục vụ gồm năm yếu tố. Mỗi người lãnh đạo trong tổ chức ấy phải được thường xuyên nhắc nhở năm điểm đó. Thật là dễ tẻ tách và đi lệch khỏi các mục tiêu và chỉ tiêu đặc thù. Người lãnh đạo có trách nhiệm giữ cho mọi việc đi đúng đường.
Tại Sao Chúng Ta Cần Một Chiến Lược?
Nhiều tổ chức và cấp lãnh đạo làm việc mà không có một chiến lược tốt. Họ chỉ có trong trí một mục tiêu mà thôi, đó là giữ cho tổ chức cứ tiến bước từng ngày. Họ chỉ đối phó với các vấn đề và nhu cầu hiện tại. Họ áp dụng phương pháp được mệnh danh là “Phương pháp chữa cháy”; cháy đâu dập đó, đau đâu xoa đó. Một tổ chức không biết mình đi đâu và tại sao là một tổ chức không lành mạnh.
Hãy xét một vài lý do cho thấy tại sao bạn cần có một chiến lược tốt. Có lẽ chúng sẽ giúp phát hiện vài nguyên nhân cơ bản gây chán nản thất vọng hoang mang và thiếu nhiệt tâm cũng như sự tăng trưởng trong tổ chức của bạn.
Để biết Tại Sao.
Một tổ chức có thể cung cấp việc làm cho con người và hoạch định nhiều việc cụ thể cho con người làm. Nhưng nếu thiếu mất chiến lược, thì lý do làm việc của một người bị giảm sút. Điều này đặc biệt nghiệm đúng trong các tổ chức Cơ-đốc giáo. Trong lòng của từng tín hữu đi làm việc cho một tổ chức Cơ-đốc giáo đều có một thứ lý tưởng chủ nghĩa (idealism) nào đó. Người ấy muốn mình được tham gia vào một việc gì đó thật sự vĩ đại, một điều gì đó sẽ có giá trị mãi mãi. Người ấy thích cảm thấy rằng công việc mình làm đây là làm cho Chúa.
Mà quả là đúng như thế. Sẽ có một lúc nào đó, một nhân sự Cơ-đốc bắt đầu hỏi tại sao lại phải làm một việc gì đó, chừng đó chiến lược sẽ vô cùng quan trọng. Cần phải có một lời giải thích. Nhân sự cần được thúc đẩy bởi các mục tiêu cao siêu của tổ chức. Nếu không, tại sao lại không đi tìm một việc làm khác trong một tổ chức ngoài đời (dù sao thì lương bổng có thể cũng khá hơn)?
Một trong các thư ký của chúng tôi tỏ vẻ chán nản. Ngày nọ, chúng tôi nói chuyện với nhau về công việc của cô. Cô ta không thấy được việc cô đang làm có liên hệ như thế nào với các mục tiêu và chỉ tiêu của
Chuỗi mệnh lệnh phải được mô tả sao cho
cá nhân người công nhân không còn nghi ngờ
gì về cách thức mọi việc cần phải được thực hiện
và họ phải đến với ai để biết công việc
mình làm có được tán thành hay không
Hội thánh. Khi cô được nhắc nhở về những điều đó, mắt cô đã đẫm lệ. Cô nhận thấy được tầm quan trọng của công việc mình làm một lần nữa. Cô tỏ ra biết ơn vì mình đang góp phần vào đó. Chẳng cần phải có tiền bạc để thúc đẩy, giục giã cô. Tôi đã học được một bài học quan trọng.
Để duy trì sự thích thú.
Nếu trong một tổ chức mà không có các mục tiêu và chỉ tiêu, thì thật là dễ đánh mất sự thích thú. Người ta sẽ càng cảm thấy khó khăn hơn khi phải đến văn phòng hằng ngày. Công việc chẳng còn tạo phấn khởi nữa. Nó trở nên buồn tẻ và nhàm chán. Bạn bắt đầu cảm thấy lãnh đạm, dửng dưng với các nhu cầu và trách nhiệm bức bách. Khi việc này xảy ra, người lãnh đạo phải nhìn thẳng vào phần chiến lược. Có một chiến lược hay không? Nó nói gì? Nó có được cập nhật hoá hay không?
Có một người trong số các thành viên ban giám đốc của chúng tôi bị mất hứng thú trong một lãnh vực cá biệt của chức vụ. Mọi người chung quanh ông ta đều thấy rõ ràng như thế. Ông ta vốn biết rõ chiến lược toàn diện của tổ chức, nhưng đã không áp dụng nó vào lãnh vực phục vụ của ông ta. Trong những tháng gần đây, số người nhóm lại bị suy giảm. Khi được nhắc lại về tầm quan trọng của một chiến lược trong từng lãnh vực của sự phục vụ, lập tức ông tìm lại được sự hứng thú. Ông viết ra giấy một chiến lược cho công việc phục vụ của mình, trở nên hăng hái và có được niềm vui mới trong việc phục vụ Chúa.
Để biết phải làm gì.
Ngày nọ, một mục sư ở một thành phố lân cận đến thăm tôi. Ông ta vừa mới từ một chủng viện ra. Ông nhận chức vụ mục sư cho một Hội thánh nhỏ đã phấn đấu qua một số năm. Ông bắt đầu hỏi tôi vài câu căn bản về những gì các vị mục sư phải làm. Ông bảo rằng ông ngồi trong văn phòng của mình ngày này qua ngày khác mà chẳng thấy có gì xảy ra cả. Chẳng có ai đến thăm ông. Cũng chẳng có ai gọi điện thoại cho ông. Ông rất bực bội và chẳng có việc gì làm cả.
Thật lòng mà nói, tôi thấy rất khó đặt mình vào chỗ của thanh niên này. Nhưng tôi nhận thấy rằng ông ta rất nghiêm túc, và ông ta đã chẳng có chiến lược gì cả. Khi tôi kể cho ông ta nghe chiến lược của chúng tôi và nêu ra cho ông ta một số ý kiến, ông ta bị chinh phục ngay. Ông ta đã không biết là lại có rất nhiều việc phải làm như thế!
Có một lời than phiền phổ biến trong các tổ chức Cơ-đốc giáo (mà giới lãnh đạo thường không chú ý) ấy là các tín đồ chẳng biết họ phải làm gì. Họ có thì giờ và sẵn sàng phục vụ. Nhưng họ không biết chiến lược toàn diện, hay phải ứng dụng nó như thế nào vào lãnh vực phục vụ của họ.
Để biết phải làm Như Thế Nào
Chiến lược bao hàm việc đặt kế hoạch. Đặt kế hoạch là lời đáp cho câu hỏi “thế nào” của một tổ chức. Các chiến lược cho nhân viên, các nguồn tài nguyên v.v.. cho chúng ta biết phải làm thế nào để đạt được các chỉ tiêu mà chúng ta cần hoàn thành. Các tổ chức không có chiến lược khiến tín đồ rất khó có thể làm việc để giúp họ hoàn thành mọi sự.
Trong một tổ chức lớn dường như những con đường mà bạn phải trải qua để hoàn tất một việc gì đó, là vô tận. Theo nhận xét của tôi, thì một người có thể làm việc cho một tổ chức qua một thời gian dài mà vẫn không biết phải làm thế nào để hoàn tất mọi việc hữu hiệu nhất. Một chiến lược sẽ rất hữu ích. Trong chiến lược ấy, tiến trình để thực hiện một việc gì đó phải được phác họa thật rõ ràng. Chuỗi mệnh lệnh phải được giải thích để mỗi cá nhân nhân sự không còn chút thắc mắc về công việc phải thực hiện như thế nào và họ phải chịu trách nhiệm với ai.
Sau khi đã nói mọi sự rồi, kinh nghiệm nhắc nhở tôi rằng tiến trình theo đó mọi việc phải được thực hiện cần được thường xuyên nâng cấp và trình cho mọi người tham gia tổ chức. Việc thay đổi ban giám đốc có thể ảnh hưởng đến tiến trình. Các trang thiết bị có thể hư hỏng. Các nguồn cung ứng có thể bị cạn kiệt. Cần phải thay đổi thời biểu. Tất cả mọi điều đó đòi hỏi phải được thông báo cho các nhân sự. Các thông báo nhắc nhở cách thức mọi việc có thể và phải được thực hiện phải được thường xuyên gởi đến cho mọi người.
Để đánh giá công tác của chúng ta.
Đây có thể là lý do cho thấy tại sao nhiều cấp lãnh đạo không có một chiến lược. Chúng ta không muốn được đánh giá bằng bất kỳ một hình thức kiểm tra nào cả. Chỉ ra các khuyết nhược điểm và thất bại trong tổ chức là điều quá đơn giản. Nhưng công việc đánh giá phải được tiến hành. Nhiệm vụ của một người lãnh đạo là phải thường xuyên đánh giá, cắt giảm bớt các lãnh vực không sinh lợi và thêm nguồn cung ứng, nhân lực cho các lãnh vực hứa hẹn có tăng trưởng.
Có lần tôi hỏi một mục sư bạn: “Công việc trong Hội thánh của bạn ra sao?” ông ta nói: “Tôi chẳng có ý kiến gì cả”. Ông ta đã thành thật, nhưng sau một lúc thảo luận, tôi biết được là ông ta chẳng có chiến lược gì. Ông ta không biết đâu là các mục tiêu của mình do đó cũng chẳng có chỉ tiêu hay kế hoạch nào cả. Cho nên chẳng có gì lạ khi ông ta không biết mọi việc trong Hội thánh của mình đang tiến triển như thế nào!
Nguy cơ lớn nhất trong việc đánh giá, là khi bạn đem công việc của bạn ra để so sánh với công tác của một ai đó. Chúng ta chẳng cần phải làm như thế. Bạn đặt chiến lược cho Hội thánh của bạn, và hãy bám chặt vào đó! Đừng bận tâm đối với những gì người khác trong một tổ chức khác đang làm! Vấn đề là bạn có đang thực hiện các chỉ tiêu mà bạn đã đặt ra cho công việc phục vụ của mình hay không? Nếu có, hãy ca tụng Chúa! Đó mới là điều đáng kể! Thượng Đế không hề đánh giá bạn căn cứ vào những gì mà một người khác đã làm.
Để rèn luyện tài lãnh đạo thuộc linh.
Chúng ta có thể rêu rao là mình đang dấn thân cho nhiều chủ đích cao xa và cao thượng bằng đầu môi chót lưỡi, mà không có một chiến lược được xác định rõ ràng, không thật sự dấn thân cho các chủ đích ấy. Một chiến lược nói lên một thái độ nghiêm túc nào đó đối với công tác lãnh đạo thuộc linh của chúng ta. Chúng ta phải biết mình đang đi đâu và làm thế nào để đi được đến đó.
Thay đổi nhiệm sở trong công tác phục vụ là điều phổ biến. Nhiều vị mục sư được thuyên chuyển nhanh chóng từ một Hội thánh này đến một Hội thánh khác, mà Hội thánh nào cũng bị thiêt hại do tiến trình này. Họ được cho là các cấp lãnh đạo thuộc linh, thế nhưng họ đang đi đâu vậy? Một chiến lược được xác định rõ ràng sẽ chận đứng việc cứ luôn luôn thay đổi nhiệm sở mục sư. Cần phải có thì giờ để phát triển một chiến lược. Phước cho tổ chức Cơ-đốc giáo nào có một chiến lược đòi hỏi một công tác lãnh đạo dài hạn.
Một mục sư bạn của tôi nhận thấy rằng việc ông ta cứ chuyển từ một Hội thánh này sang một Hội thành khác liên quan trực tiếp với việc thiếu các chỉ tiêu và mục tiêu trong công tác phục vụ của ông. Ngay lúc ông ta viết chúng xuống trên giấy, ông có được một khải tượng về một nhiệm sở mục sư dài hạn, và ông đã dừng lại một nhiệm sở với sự thành công.
Để đưa chúng ta qua những lúc khủng hoảng.
Một chiến lược sẽ giúp bạn kiên trì nhẫn nại khi mọi việc thay đổi tệ hại. Lúc bị xuống dốc, chiến lược của bạn có thể nâng đỡ bạn. Trong diễn tiến công tác không sao tránh khỏi những thất bại tạm thời nhưng chiến lược của bạn sẽ giúp bạn đặt chúng vào đúng viễn cảnh.
Ngày nọ, một vị mục sư ở một thành phố lân cận gọi điện thoại báo cho tôi biết là ông sắp rời khỏi công tác phục vụ tại Hội thánh ấy. Hội thánh đó đã có một thời gian sa sút, và ông ta muốn rời khỏi đó trước khi mọi việc đã trở thành quá muộn, bất chấp sự thể sẽ ra thế nào. Tôi khích lệ ông ta hãy ở lại. (Tiếng “Tôi bỏ cuộc” cần phải bị loại khỏi ngữ vựng của người lãnh đạo thuộc linh!) Ông ta đã không nghe theo lời khuyên của tôi (sự việc vẫn xảy ra nhiều lần như thế), nhưng đã phải sống để hối tiếc việc ấy. Giờ đây ông ta cảm thấy là mình đã phạm sai lầm. Thế vấn đề của ông ta là gì? Ông ta chẳng có chiến lược gì cả, chẳng có chỉ tiêu cũng chẳng có mục tiêu.
Việc này vốn rất thường xảy ra, chắc bạn nghĩ các cấp lãnh đạo sẽ đáp ứng và viết ra cái chiến lược ấy! Tuy nhiên, bản tính con người vốn vẫn là như thế; nhiều cấp lãnh đạo vẫn tiếp tục bỏ qua sự kiện cơ bản nhất này của công tác lãnh đạo - bạn phải biết mình đang đi đâu, nếu muốn cho các tín đồ đi theo mình!
Bao Nhiêu Phần Của Cuộc Đời Bạn Đang Chịu Ảnh Hưởng Của Chiến Lược?
Một khi bạn đã biết một chiến lược là gì và tại sao nó lại quan trọng như thế, thì mọi lãnh vực trong đời sống của bạn đều bao gồm vào trong chiến lược của bạn. Thật ra, có ba lãnh vực cơ bản chịu ảnh hưởng của chiến lược của bạn: sinh hoạt cá nhân của bạn, sinh hoạt gia đình của bạn và sinh hoạt của tổ chức của bạn.
Phải thiết lập các mục tiêu cá nhân và phát triển các chỉ tiêu của bạn. Chỉ nhìn thoáng qua các chỉ tiêu cá nhân ấy cũng đủ thấy khá nhiều điều khiến cho một người lãnh đạo có thể cảm thấy chán nản thất vọng. Người ấy có thể dễ dàng cảm thấy chán nản thất vọng trong đời sống của chính mình, vì không thể thực hiện bất kỳ một mục tiêu hay chỉ tiêu nào cho bản thân mình cả.
Thí dụ một người lãnh đạo có thể có một mục tiêu cá nhân là giữ cho mình một thể trạng tuyệt hảo. Có thể ông ta đã đặt cho mình một chỉ tiêu là tập thể dục hai lần mỗi tuần. Nếu lịch làm việc của ông ta không cho phép chỉ tiêu cá nhân đó được thực hiện, ông ta sẽ chán nản thất vọng, và trong một vài trường hợp, phẩm chất của công tác ông ta có thể bị suy giảm.
Với người tín hữu, thì các chỉ tiêu gia đình là ưu tiên. Dành ít thì giờ mỗi tuần để sinh hoạt riêng với người bạn đời và con cái là điều tất yếu phải có. Thật là đáng chán và tai hại khi không thể thực hiện được các chỉ tiêu đó. Các cấp lãnh đạo cần chú ý hơn đến các chỉ tiêu cá nhân và gia đình là phải lẽ. Họ có thể phát giát ra nhiều gốc rễ của sự chán nản thất vọng hiện đang ảnh hưởng đến công tác của họ.
Các chỉ tiêu thường phản ảnh niềm tin
và đức tin của chúng ta vào một Thượng Đế
đang nắm quyền tể trị. Chúng ta có tin cậy
để Ngài thực hiện công việc của Ngài
trong chúng ta không ?
Các chỉ tiêu của tổ chức phải được thiết lập bên trong cấu trúc của các ưu tiên, nhất là khi nó liên quan tới các chỉ tiêu cá nhân và gia đình. Công tác của một người không thể là quan trọng hơn gia đình của người ấy. Nhưng thực hiện được một thế cân bằng giữa tất cả các lãnh vực ấy - cá nhân, gia đình, và tổ chức - thì không phải luôn luôn dễ dàng.
Trong những năm đầu sau khi chúng tôi kết hôn, vợ chồng chúng tôi đã cố gắng xác lập tầm quan trọng của mối liên hệ giữa chúng tôi bằng cách dành ít nhất một buổi tối để sống riêng với nhau. Chúng tôi trung tín giữ đêm hò hẹn đó của chúng tôi. Về sau chúng tôi đổi thành một ngày sống riêng với nhau (lúc con cái đều đến trường học). Mỗi tuần, chúng tôi trông cho đến ngày duy nhất để sống chung với nhau đó. Nó đã giúp chúng tôi xác lập ưu tiên dành cho một chỉ tiêu gia đình của chúng tôi - kết bạn tốt nhất với nhau bằng cách sống riêng biệt với nhau ít nhất một ngày mỗi tuần. Việc này có thể đo được, cho nên nó là một chỉ tiêu. Mục tiêu là kết bạn tốt nhất với nhau. Thỉnh thoảng vẫn phải có những lần điều chỉnh, nhưng chúng rất ít và cách khoảng nhau khá xa.
Lý do tại sao đối với tôi chỉ tiêu này là quan trọng, là do những gì tôi biết trong Thánh Kinh, dạy về hôn nhân, và nhu cầu cá nhân của tôi về tình bạn và tình yêu. Nó cũng quan trọng vì nó ảnh hưởng đến công việc làm của tôi. Tôi làm việc tốt hơn và hữu hiệu hơn khi đã có thì giờ sống riêng biệt với nhà tôi. Khi mọi sự giữa chúng tôi đều tốt đẹp, công việc tôi làm trở thành lý thú hơn.
Tại Sao Đặt Chỉ Tiêu Là Quan Trọng?
Bạn không thể xác định sự thành công của cuộc đời mình, nếu không đặt ra các chỉ tiêu. Theo thiển ý, thì mọi người đều có các chỉ tiêu. Có thể là họ không viết chúng ra giấy hoặc không thể thông báo chúng cho người khác, nhưng họ vẫn có các chỉ tiêu ấy. Nếu bạn có thể thâm nhập được các cảm nghĩ nội tâm của một người và phát giác được chỉ tiêu của người ấy, bạn sẽ có thể nói được rất nhiều điều về người ấy và các cơ may có thể sinh lợi của người ấy.
Các chỉ tiêu phi thực.
Nhiều khi các chỉ tiêu chúng ta đặt ra vốn phi thực (unrealistic). Chúng đã không đánh giá cẩn thận tiềm năng của các tín đồ và các nguồn tài nguyên. Thí dụ, một Hội thánh trong một cộng đồng gồm 10.000 người, nằm biệt lập với tất cả các cộng đồng khác ít nhất là 160 cây số, lại đặt chỉ tiêu là sẽ có 20.000 thành viên cho Hội thánh mình, là một chỉ tiêu phi thực, không tài nào thực hiện nổi! Nếu đặt một chỉ tiêu như thế cho một khu vực thuộc các thành phố lớn, thì không phải là phi thực.
Các chỉ tiêu không cụ thể.
Mặt khác, nhiều chỉ tiêu của chúntg ta có thể không đạt được, là vì chúng không cụ thể. Một chỉ tiêu nhằm đem Phúc Âm đến cho càng đông người càng hay thật ra không phải là một chỉ tiêu, mà chỉ là một chủ đích hay mục tiêu tốt mà thôi. Một chỉ tiêu cụ thể nằm trong mục tiêu đó, có thể là đem Phúc Âm đến cho từng nhà trong số 10.000 hộ trong cộng đồng của bạn, trong một thời gian là ba tháng.
Có người chẳng thích các chỉ tiêu chút nào cả. Còn về quyền tể trị của Thượng Đế thì thế nào? Vâng quả đúng là Thượng Đế đang cầm quyền tể trị, và Ngài đang điều hành mọi sự trong vũ trụ này. Tuy nhiên, Ngài làm việc ấy qua trung gian những người thuộc về Ngài. Ngài sắp xếp mọi phương tiện cũng như phần cứu cánh. Chúng ta phải chịu trách nhiệm với Ngài. Các chỉ tiêu thường phản ảnh niềm tin và đức tin của chúng ta vào một Thượng Đế đang nắm quyền tể trị. Chúng ta có tin cậy để Ngài thực hiện công việc của Ngài trong chúng ta không?
Luôn đặt những con số trước mắt.
Cái gọi là “trò chơi với các con số” thường là lý do để phấn đấu đạt chỉ tiêu. Phải có số người nhóm lại tuần sau cao hơn tuần trước là một chỉ tiêu, nhưng điều đó có thể là không xứng đáng với các tín hữu dấn thân vào các nguyên tắc theo Thánh Kinh.
Các chỉ tiêu của chúng ta nhiều khi vốn có cơ sở là một động cơ thúc đẩy xác thịt, muốn so sánh với người khác. Đấng duy nhất mà chúng ta có trách nhiệm phải khai trình, tính sổ, là Thượng Đế. Thi đua, giải thưởng, tranh tài và phần thưởng thường được dùng để kích thích người ta hoàn thành một số chỉ tiêu nào đó. Chẳng cần chi phải tranh luận về giá trị của những phương pháp như thế trong các tổ chức Cơ-đốc giáo, ít nhất chúng ta cũng có thể nhấn mạnh vào phần động cơ thúc đẩy ẩn bên dưới các phương pháp ấy. Nếu các phương pháp đó không vi phạm Lời Chúa, và nếu phần động cơ thúc đẩy là xứng đáng và đúng theo Thánh Kinh, thì công dụng của các phương pháp ấy khả dĩ chấp nhận được. Có thể là bạn chẳng cần chi phải lợi dụng bất cứ một phương pháp nào trong số đó, nhưng với một số người, thì điều đó có thể được cho phép.
Nên học biết chân lý này: Phát triển một số chỉ tiêu trên cơ sở muốn so sánh với người khác là không khôn ngoan. Đừng cố làm một việc gì lớn hơn chỉ để chứng tỏ mình lớn hơn một ai đó. Hãy là người đúng như Thượng Đế muốn bạn phải là như thế. Bạn có trách nhiệm với Ngài trong việc sử dụng các tài năng, khả năng của bạn, chứ không phải vì một người khác đã sử dụng các tài năng và khả năng của họ như thế nào.
Một số cấp lãnh đạo cố tránh việc dùng đến các con số, cuối cùng đã chẳng làm gì cả. Họ không có mục tiêu cụ thể, do đó chẳng có cách gì để đánh giá công tác của mình. Họ chẳng bao giờ cố gắng tự cải tiến hay cải thiện tổ chức của họ. Họ ngồi nhìn tình hình lụn bại trước khi chịu làm một việc gì đó để cứu vãn nó. Một thái độ lạnh lùng và lười biếng như thế không phải là đặc điểm của một người lãnh đạo thuộc linh. Công việc luôn luôn có chỗ cần cải tiến. Chúa cần chúng ta lợi dụng các sở trường, các tài năng tinh vi nhất của chúng ta để phục vụ Ngài!
Theo từng trải của tôi, thì các con số rất quan trọng cho việc đánh giá đứng đắn. Hãy thử xét về một lớp học Trường Chúa nhật cứ tiếp tục suy giảm học viên qua một thời gian. Cần phải thực hiện một cuộc đánh giá. Nó chẳng bao giờ được thực hiện nếu con số sa sút đã chỉ rõ mọi việc rồi. Lý do của sự sa sút là một đề tài khác cần được đánh giá và khảo xét thật kỹ tất cả các sự kiện. Các cấp lãnh đạo không quan tâm đến những gì xảy ra và chẳng làm gì cả để thay đổi tình hình, chỉ cho thấy họ là những người lãnh đạo không xứng đáng mà thôi.
Những người lãnh đạo giỏi phải có một chiến lược. Đây là điều thiết yếu, chứ không phải là một việc mà chúng ta có thể chọn làm hay không tuỳ ý. Theo một ý nghĩa, thì mọi người chúng ta đều có một chiến lược dù nó có được viết ra giấy hay không, dù hay, hay dở. Chiến lược của một số người có thể là dở. Họ chỉ đơn giản chẳng làm gì cả mà chỉ cố duy trì nguyên trạng - là việc chẳng bao giờ có thể làm được.
Chương tiếp theo đây khảo xét cách phát triển và sử dụng chiến lược của bạn. Nếu bạn đang phục vụ với tư cách một nhà lãnh đạo thuộc linh, tại sao bạn lại không dừng đọc quyển sách này lại một chút, để bắt đầu viết ra giấy chiến lược của bạn? Đừng quên đặt các chỉ tiêu cho sinh hoạt cá nhân và sinh hoạt gia đình của bạn, cũng như cho sinh hoạt của tổ chức của bạn nữa.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Các mục tiêu của bạn là gì? Hãy liệt kê ba mục tiêu quan trọng nhất.
2. Hãy viết ra giấy câu định nghĩa về một mục tiêu và một chỉ tiêu của chính bạn.
3. Bạn có một triết lý về công tác phục vụ hay không? Nó có bao hàm năm điều đã được đề cập ở phần bắt đầu của chương sách này không?
4. Bạn có một chiến lược cho chính đời sống của mình không? Cho sinh hoạt của gia đình bạn? Cho sinh hoạt của tổ chức của bạn? Hãy mô tả các chiến lược đó trong một hoặc hai phân đoạn.
5. Bạn có khả năng đặt ra các chỉ tiêu khả dĩ thực hiện được (khả thi) hay không? Những chỉ tiêu đặc thù (cụ thể)? Hãy nêu tên vài chỉ tiêu của bạn cho năm này, tháng này, tuần này.
6. Việc tranh đua hay đối đầu có khiến bạn đặt ra nhiều chỉ tiêu hơn, và cố gắng gian khổ hơn để đạt được chúng không? Bạn có thể suy ghĩ về một thí dụ gần đây không?

CÁCH PHÁT TRIỂN MỘT CHIẾN LƯỢC TỐT - VÀ LỢI DỤNG NÓ
Lẽ dĩ nhiên, chủ đích cơ bản của một chiến lược tốt là tôn vinh Thượng Đế trong mọi việc chúng ta làm (xem ICo1Cr 10:31). Người lãnh đạo cũng phải dấn thân, tận tuỵ làm mọi sự, và tạo ảnh hưởng trên con số tối đa các tín đồ trong phạm vi mình có thể làm được cho chính nghĩa của Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Một chiến lược tốt lưu xuất từ một đời sống nhằm tôn vinh Thượng Đế. Nếu chủ đích đời sống của người lãnh đạo là có được một Hội thánh lớn nhất thế giới, hay trở thành diễn giả danh tiếng lẫy lừng nhất mọi thời đại, v.v.. thì chiến lược của người đó sẽ phản ảnh các động cơ thúc đẩy vị kỷ ấy, chứ không phải là tôn vinh Thượng Đế.
Một Người Lãnh Đạo Thuộc Linh Phải Có Những Mục Tiêu Gì?
Một chiến lược tốt gồm có các mục tiêu, chỉ tiêu, ưu tiên, kế hoạch và đường hướng chỉ đạo. Mỗi người lãnh đạo đều có cách thiết kế chiến lược của mình khác nhau. Tuy nhiên, thường thường thì người lãnh đạo thuộc linh vốn có các mục tiêu giống như mục tiêu của những người lãnh đạo thuộc linh khác. Mục tiêu là các chủ đích cơ bản của tổ chức.
Hội thánh chúng tôi có ba mục tiêu cơ bản, chi phối những gì chúng tôi làm và dạy: truyền bá Phúc Âm, gây dựng và mở rộng. Các câu định nghĩa cho từng mục tiêu trong số đó vì vậy hết sức quan trọng. Không phải mọi người đều nhất trí với các câu định nghĩa chúng tôi đang dùng, nhưng điều đó thật ra không có gì quan trọng cho phần thảo luận của chúng tôi. Điều quan trọng là khi bạn viết ra các mục tiêu của mình, bạn phải chắc chắn là mình đã đưa ra những câu định nghĩa rõ ràng để các tín đồ biết chính xác chủ đích của tổ chức của bạn là gì. Nó nói với bạn rất nhiều về tổ chức ấy.
Trong trường hợp của chúng tôi, truyền giảng Phúc Âm là việc quảng bá Phúc Âm cho những người chưa tin Chúa dẫn tới kết quả là họ ăn năn tin Chúa Cứu Thế Giê-xu, chịu phép báp-tem trong nước, và trở thành thành viên trong bộ phận tín hữu địa phương.
Trong một vài chiến lược của các chi hội địa phương, mục tiêu của việc truyền bá Phúc Âm được phát họa là việc truyền giảng Phúc Âm cho thế giới những người chưa tin Chúa. Như thế là tốt. Nhưng theo ý chúng tôi, thì nó chưa đi xa đủ, cho nên có ảnh hưởng đến phần còn lại của chiến lược. Các chỉ tiêu của tổ chức là các đường hướng đặc thù, theo đó các mục tiêu sẽ được đo lường và hoàn tất. Bạn làm thế nào phát họa được những chỉ tiêu cụ thể khả dĩ đo lường được trong lãnh vực báp-tem hay thành viên của Hội thánh, nếu chúng không phải là một phần của mục tiêu của mình? Sự tăng trưởng của Hội thánh sẽ chịu ảnh hưởng sâu xa của điểm này.
Một cuộc đàm thoại với một vị mục sư trong khu vực của chúng tôi đã thuyết phục tôi về tầm quan trọng của việc báp-tem và thành viên Hội thánh như một phần của mục tiêu cơ bản trong việc truyền giảng Phúc Âm. (Trong Cong Cv 2:41 lý do ấy vốn đã rất thuyết phục rồi!) Ông và Hội thánh đã hoàn toàn dấn thân để truyền giảng Phúc Âm cho người chưa tin Chúa và có nhiều người ăn năn tin Chúa Cứu Thế. Thật ra, nếu tất cả những người được họ đưa về với Chúa đều trở thành thành viên có trách nhiệm của Hội thánh, thì Hội thánh ấy phải là Hội thánh lớn nhất trên duyên hải miền Tây!
Nhưng, như việc đã xảy ra, đây chỉ là một Hội thánh có tầm vóc khiêm tốn, chẳng có tăng trưởng về số lượng qua nhiều năm. Sau khi trò chuyện với ông ta, tôi đã nhận ra vấn đề. Họ đã chẳng quan tâm đến việc báp-tem và các thành viên chính thức của Hội thánh trong quan điểm truyền giảng Phúc Âm của họ. Chiến lược họ đã có vốn tốt về một phương diện, nhưng lại rất thiếu sót về nhiều phương diện khác.
Cho dù các mục tiêu của bạn là gì, phải chắc chắn là chúng nêu rõ các chủ đích cơ bản của tổ chức của bạn với đầy đủ chi tiết, sao cho mọi người biết rõ để phát họa các chỉ tiêu có thể đo lường và hoàn tất được. Các cấp lãnh đạo thuộc linh muốn làm mọi việc để quy vinh cho Thượng Đế cũng phải chắc chắn rằng các mục tiêu đều có cơ sở là Lời Thượng Đế (Trưng dẫn những câu Kinh Thánh để mọi người cùng học tập nghiên cứu).
Cách Thiết Kế Những Chỉ Tiêu Cụ Thể Cho Chức Vụ Của Bạn
Chỉ tiêu là những phương pháp đặc thù theo đó các chủ đích của tổ chức của bạn sẽ được kiểm tra và hoàn thành. Theo phần đông các cấp lãnh đạo mà tôi được cơ hội tiếp chuyện thì việc viết ra các mục tiêu cụ thể vẫn là vấn đề. Có rất ít người làm việc này. Các chỉ tiêu phải thường xuyên được viết ra giấy. Chúng có thể thay đổi. Các mục tiêu thì vẫn giữ nguyên.
Để phát họa các chỉ tiêu đặc thù cho chức vụ của bạn, cần ghi khắc vào tâm trí vài điểm căn bản sau đây:
Viết ra giấy các chỉ tiêu cá nhân, gia đình và của tổ chức.
Các chỉ tiêu cá nhân của bạn có thể gồm luôn việc giải trí và tập thể dục vì lý do sức khoẻ, đọc hoặc viết sách, du lịch nhiều nơi trên thế giới, tham dự nhiều cuộc hội thảo và hội nghị đặc biệt v.v.. Những chỉ tiêu cá nhân này sẽ ảnh hưởng đến các chỉ tiêu của tổ chức của bạn, nhưng chúng vốn không giống hệt nhau. Các chỉ tiêu cá nhân liên quan với sự tăng trưởng của chính người lãnh đạo. Các chỉ tiêu của tổ chức liên quan đến sự tăng trưởng của tổ chức. Người lãnh đạo cần tăng trưởng bất chấp tổ chức mà người ấy phục vụ.
Các chỉ tiêu gia đình, như nghỉ lễ nghỉ hè, các môn thể thao, trò chơi giải trí, nhà cửa, xe cộ, vốn đầu tư, đảm bảo tài chính, v.v..., thường chịu ảnh hưởng của các chỉ tiêu của tổ chức. Vấn đề các ưu tiên thường xác định phần nào được ưu tiên trên phần nào. Gia đình của người lãnh đạo quan trọng hơn, nhưng cách nhấn mạnh hay xác định tầm quan trọng đó vốn không phải là một vấn đề dễ giải quyết.
Một khi bạn đã có trên mặt giấy các chỉ tiêu mình đặt ra cho từng lãnh vực một, bạn sẽ đánh giá khả năng hoàn tất được các chỉ tiêu ấy dễ dàng hơn. Bạn có thể nhìn thấy ngay đâu là những điểm trùng lấp và xung đột.
Nêu ra cả các chỉ tiêu cận tiếp lẫn dài hạn.
Các chỉ tiêu dài hạn dạy ta phải kiên nhẫn. Chúng giúp bạn bám chặt lấy nhiệm vụ giữa những thất bại tạm thời. Chúng khuyến khích một chức vụ lâu dài hơn trong cùng một công việc tại cùng một chỗ. Chúng tạo hướng cho các chỉ tiêu cận tiếp. Phải phát họa các chỉ tiêu cận tiếp với nỗ lực hoàn tất các chỉ tiêu dài hạn. Các chỉ tiêu dài hạn có thể đặt cơ sở trên bất cứ khoảng thời gian nào trong phạm vi một đời người.
Theo từng trải của tôi, thì các chỉ tiêu dài hơn 10 năm đều thường bị thay đổi. Cho nên đối với tôi, một chỉ tiêu dài hạn, là chỉ tiêu bao trùm một giai đoạn là 10 năm. Sau 10 năm đó, hãy viết ra các chỉ tiêu cho 10 năm kế tiếp, và cứ như thế.
Các chỉ tiêu dài 10 năm cũng phải bao gồm vài chỉ tiêu năm năm nữa. Điều này cho bạn một điểm để đánh giá trong việc thực hiện các chỉ tiêu 10 năm. Đánh giá năm năm đầu tiên trên cơ sở chẳng hay từng trải đó sẽ tạo được các mục tiêu 10 năm không. Nếu không, thì phải thay đổi việc bạn đang làm!
Các chỉ tiêu gần có thể căn cứ vào ngày, tuần lễ, tháng, hoặc năm. Có lẽ cần phải dùng tất cả những điều vừa kể. Mỗi ngày, tôi đều có một vài chỉ tiêu cụ thể. Tôi thích viết chúng ra giấy. Có mấy chỉ tiêu gần cho tuần lễ sau mà tôi phải thực hiện. Trong tổ chức phục vụ của
Thà thực hiện các chỉ tiêu của bạn ,
còn hơn bị lôi cuốn bởi độ lớn của chúng
mà chẳng bao giờ hoàn thành .
chúng tôi, các cấp lãnh đạo phải đánh giá những gì chúng tôi đang làm mỗi ba tháng. Chúng tôi có một buổi họp gọi là buổi thảo kế hoạch hằng quý. Chúng tôi họp cả ngày tại một nơi riêng biệt. Các ý kiến sẽ được chia xẻ thật thoải mái, và các chỉ tiêu được xác định, thay đổi hoặc bỏ đi.
Các Hội thánh phải thiết lập các chỉ tiêu cụ thể cho tổ chức phục vụ của mình ít nhất là mỗi năm. Thì giờ thuận tiện nhất cho việc làm này là vào đầu mùa hè. Hãy đặt kế hoạch cho Hội thánh dường như nó bắt đầu vào tháng 9 dương lịch.
Trong tổ chức phục vụ của mỗi Hội thánh, dường như có bốn mô hình căn bản để bạn có thể dùng làm cơ sở cho việc đặt kế hoạch: thứ nhất kéo dài từ Ngày Lao Động (thứ hai đầu tiên của tháng 9 dl) cho đến lễ Giáng sinh; thứ hai là từ Đầu Năm Mới cho đến tuần lễ Phục sinh; thứ ba từ sau tuần lễ Phục sinh đến ngày bãi trường; và thứ tư là mua hè - cơ bản là tháng Bảy và tháng Tám. Cần học tập đặt kế hoạch và viết ra giấy các chỉ tiêu cụ thể cho bốn giai đoạn đó.
Cố đừng để cho việc bạn đang làm trùng lấp lên một mô hình khác. Đến mùa hè mỗi năm bạn phải đánh giá lại các chỉ tiêu của mình. Bạn có hoàn thành chúng không? Bạn còn có thể làm gì khác hơn hay tốt hơn thế nữa?
Đặt các giới hạn cuối cùng để hoàn thành các chỉ tiêu của bạn.
Có một ý nghĩ sai lầm, là chúng ta có thể làm một việc cá biệt nào đó vào một dịp khác. Thế là chẳng có giới hạn cuối cùng, chẳng có giới hạn thời gian chi cả. Hậu quả là vấn đề thường bị bỏ qua cho đến khi có ai đó đòi hỏi nó phải được thực hiện trong một thời hạn nào đó. Hãy đặt các giới hạn cuối cùng cho các chỉ tiêu của bạn. Khi nào là thích hợp nhất để một dự án phải được hoàn tất? Phần đông các cấp lãnh đạo nhận thấy họ đạt năng suất cao nhất khi có các giới hạn cuối cùng.
Chúng tôi phát hành một bản tin tức Hội thánh. Chúng tôi biết là phải đặt một giới hạn cuối cùng để nộp các bài viết cho bảng tin tức ấy. Nếu bài viết không được nộp đúng thời hạn, thì phải chờ đến lần sau. Chẳng hề có ngoại lệ! Đó là một phương pháp để bắt buộc mọi người phải tự đặt các chỉ tiêu và kế hoạch trước!
Ngay sau khi thời hạn cuối cùng để hoàn thành các chỉ tiêu của bạn đã mãn, phải lập tức đánh giá các chỉ tiêu của bạn. Bạn có cần thiết lập các chỉ tiêu khác căn cứ trên những gì bạn vừa làm không? Bạn có hoàn thành các chỉ tiêu của mình đúng hạn không? Bạn có cần đặt một giới hạn cuối cùng khác nữa không?
Tạo các chỉ tiêu thiết thực
Các chỉ tiêu phải tương đối khả thi so với thời gian các nguồn tài nguyên và nhân lực sẵn có. Phải cẩn thận về điều này. Hoàn tất chỉ tiêu tốt hơn là có ấn tượng tốt về tầm cỡ của chúng mà chẳng bao giờ hoàn thành!
Tín đồ sẽ chán nản thất vọng nếu họ chẳng bao giờ thực hiện được các chỉ tiêu mà người lãnh đạo thuộc linh của họ đã thảo hoạch. Một khi nhiều chỉ tiêu đã được hoàn thành, thì đức tin và khải tượng của họ có thể được mở rộng thêm một chút. Hãy đặt những chỉ tiêu sẽ khích lệ được các tín đồ, và thật thiết thực để họ có thể hoàn thành chúng!
Nếu bình thường phải mất hai năm để xây một ngôi nhà theo tầm cỡ bạn muốn, thì đừng đặt một chỉ tiêu là sáu tháng mà thôi! Phải sử dụng cái đầu của bạn! Phải đặt các chỉ tiêu thiết thực.
Có một chỉ tiêu chúng tôi đã đặt ra cho Hội thánh chúng tôi vào một mùa hè nọ là đi thăm 17.000 nhà trong cộng đồng tiếp giáp với cộng đồng chúng tôi, giới thiệu chính mình và giới thiệu công tác của chúng tôi với tư cách một Hội thánh và Chúa Cứu Thế Giê-xu của chúng ta. Chúng tôi đặt một giới hạn cuối cùng cho chỉ tiêu này. Nó phải được hoàn tất trong tám tuần lễ bằng cách để cho các tín đồ ra đi một đêm trong tuần để thăm viếng khoảng một tiếng đồng hồ. Có hơn 200 người tham gia. Chỉ tiêu này khả thi vì chúng tôi đã dành thì giời để ước lượng con số các nhà, số thì giờ chúng tôi dùng để làm việc ấy, và số nhân sự có sẵn để thực thi công việc này. Đây là một chỉ tiêu khả thi cho chúng tôi.
Gắn liền các chỉ tiêu với các mục tiêu.
Mỗi một chỉ tiêu phải có liên quan trực tiếp với một trong số các mục tiêu căn bản của tổ chức. Đặt một chỉ tiêu chỉ vì để có một chỉ tiêu, thì không phải là một chiến lược tốt. Tín đồ sẽ mỏi mệt vì nó. Một chỉ tiêu phải hết sức đơn giản, để sau khi đọc nó, người ta sẽ tức khắc biết ngay nó liên quan với mục tiêu nào. Nếu mục tiêu không phải là chủ đích của chỉ tiêu thì chỉ tiêu sẽ đi lệch khỏi sự thành công của tổ chức. Nó sẽ hút kiệt nhân lực, tiền bạc và thì giờ. Tổ chức không thể chịu nổi nhiều chỉ tiêu phụ trội nằm ngoài các mục tiêu như thế. Chúng là những chướng ngại vật hạn chế sức tăng trưởng, cho dù chúng có được nhìn nhận là như thế hay không.
Nếu mục tiêu của một tổ chức nào đó là truyền bá Phúc Âm, nhưng một trong các chỉ tiêu là đưa người sang xứ Y-sơ-ra-ên để nghiên cứu khảo cổ học thì tổ chức ấy sẽ bị suy yếu vì chỉ tiêu đó. Chỉ tiêu ấy đã không hoàn thành mục tiêu. Các cấp lãnh đạo phải biết tránh các chỉ tiêu đưa mọi người đi lạc khỏi các mục tiêu chính của tổ chức.
Thông báo trước các chỉ tiêu.
Các chỉ tiêu phải được thông báo thật sớm trước giai đoạn được hoạch định phải hoàn thành chúng. Nhiều người đã phạm sai lầm trong lãnh vực này. Có rất ít các cấp lãnh đạo đặt ra các chỉ tiêu rồi thông báo chúng cho số người phải tham gia để hoàn thành chúng chỉ vào tuần lễ trước khi dự án hay nhiệm vụ ấy bắt đầu! Như thế thời gian sẽ không đủ. Mọi người cần được chuẩn bị tinh thần về những gì người ta trông mong ở họ.
Trong Hội thánh của chúng tôi, chúng tôi có kinh nghiệm là các chỉ tiêu liên quan đến toàn thể Hội thánh cần phải được hoạch định và thông báo ít nhất là sáu tháng trước. Hai tháng trước khi một sự án hay công tác hoặc chức vụ nào đó được bắt đầu, là thời gian quan trọng nhất cho việc truyền thông, thông báo. Mọi thành phần tham gia vào đó đều phải có thì giờ để chuẩn bị cho dự án. Phải có đủ thời gian để “quảng cáo” cho dự án - một tuần để thông báo trước công chúng, một tuần khác để gởi thư, một tuần khác nữa cho người ta ký tên, một tuần nữa để in một tập sách nhỏ, v.v.. Các chỉ tiêu phải được thông báo liên tục. Đừng bất ngờ khiến cho các tín đồ của bạn phải ngạc nhiên rồi than phiền khi cách đáp ứng không được tốt và chỉ tiêu không đạt được!
Bạn Quyết Định Các Ưu Tiên Như Thế Nào?
Trong một chiến lược thành công, các cấp lãnh đạo phải thiết lập các quyền ưu tiên. Quyền ưu tiên là các yếu tố xác định khi nào và tại sao mọi việc phải được thi hành. Khi bạn có một số nhiều các chỉ tiêu, bạn cần phải quyết định các chỉ tiêu nào là quan trọng nhất để bạn phải làm hôm nay, và theo thứ tự nào.
Đừng làm quá nhiều!
Lắm khi một cấp lãnh đạo muốn thực hiện quá nhiều chỉ tiêu. Đó là một lý do khác nữa khiến chúng ta phải sắp xếp ưu tiên. Có một số cấp lãnh đạo quá ôm đồm có khuynh hướng đặt ra quá nhiều chỉ tiêu cho chính họ và cho những người làm khác. Họ tự buộc mình và người khác làm việc quá sức, cho đến khi có ai đó bị ngã quỵ! Người ta không thể xây thành La-mã chỉ trong một ngày, và bạn sẽ hạnh phúc hơn nhiều nếu đừng cố làm như thế!
Có một phương pháp đơn giản để xác lập các ưu tiên giữa toàn thể các chỉ tiêu người ta muốn hoàn thành, là đặt ra một hệ thống giá trị cho các chỉ tiêu. Phải xếp một loại gọi là “quan trọng nhất” rồi tới “khá quan trọng”, rồi “không quan trọng lắm” và cuối cùng, dĩ nhiên là “chẳng có gì quan trọng cả”!
Các ưu tiên và thời gian
Khi giải quyết các quyền ưu tiên, bạn cũng phải xác lập thời gian dành để làm việc đó. Đây là chỗ mà nhiều cấp lãnh đạo bị thất bại. Có một số người thích đánh vần ưu tiên thành ra là t-h-ờ-i g-i-a-n! Nếu tôi bảo với nhà tôi rằng tôi dành cho bà ưu tiên trong đời sống của tôi, nhưng chẳng dành ra chút thì giờ nào để sống riêng ra với bà ta cả, chắc bà sẽ bắt đầu ngạc nhiên về lời rêu rao đó của tôi!
Điều đầu tiên chúng ta phải đặt ra là một giới hạn cuối cùng phải hoàn tất một chỉ tiêu nào đó. Tiếp theo bạn phải ước lượng số thời gian
Phải học tập làm những việc "phải làm " trước .
Thái độ tâm lý và cách đáp ứng của bạn
sẽ thoải mái hơn nhiều khi trực diện
với các quyền ưu tiên khác .
cần thiết để hoàn thành chỉ tiêu này bằng giới hạn cuối cùng mong muốn. Rồi bạn còn phải hoạch định từng khoảng thời gian ngắn trong lịch làm việc hằng tuần của bạn cho phù hợp với các đòi hỏi của chỉ tiêu ấy. Nếu nó chẳng có gì quan trọng cho bạn (một vấn đề của ưu tiên), rất có thể là bạn sẽ chẳng cần phải dành thì giờ cho nó!
Xin thử minh hoạ vấn đề các ưu tiên bằng cách vẽ ra công việc của một cấp lãnh đạo tại bàn giấy trong văn phòng của ông ta. Cô thư ký của ông gọi điện thoại cho ông và báo cho ông tin này: “Vợ ông đang gọi điện thoại cho ông”. Một số cấp lãnh đạo sẽ tức khắc chụp lấy máy điện thoại, nhất là khi người vợ không nổi tiếng là người hay lạm dụng đặc quyền, vì đó là một ưu tiên của họ kia mà!
Giả sử cô thư ký gọi ông và nói: “Bà nhà gọi và bảo ông hãy đến chỗ hiệu giặt ủi để lấy bộ quần áo của ông”. Chắc bạn phải tức khắc đánh giá tầm quan trọng của cú điện thoại đó, và số thì giờ cần thiết để làm theo lời dặn dò trong đó. Nếu bạn chẳng cần chi đến bộ y phục ấy trong vòng mấy ngày nữa, thì dường như thật là lố bịch nếu bạn tức khắc đứng ngay lên, để đến chỗ hiệu giặt ủi vì bộ đồ ấy.
Lắm khi chúng ta phải hành động cấp bách, và những việc như thế có cách để chứng minh ưu tiên của chúng. Giả sử cô thư ký gọi và bảo: “Xin ông rời khỏi văn phòng ngay. Ngôi nhà đang cháy!” Chắc bạn chẳng phải chờ đợi lâu để đáp ứng ngay! Mọi người chúng ta cần học bài học về thời gian. Các ưu tiên sẽ xác định khi nào bạn phải làm việc nào, và bạn phải làm nó trong bao lâu.
Điểm khác nhau giữa việc “phải làm” và việc “có thể làm”.
Muốn điều hành các quyền ưu tiên thật phải lẽ người lãnh đạo phải biện biệt chỗ khác nhau giữa điều người ấy phải làm ngay hôm nay, với điều tuy cũng cực kỳ quan trọng, nhưng vẫn có thể chờ đến ngày mai. Phải học tập để biết làm những việc “phải làm” trước. Thái độ tâm lý và sự đáp ứng của bạn sẽ thoải mái hơn nhiều khi trực diện với các ưu tiên khác.
Một vài việc ưu tiên phải được ấn định vào những thì giờ nhất định nào đó trong tuần. Có một số việc phải làm vào cùng một lúc trong tuần lễ. Nếu một trong những ưu tiên của bạn là dành một ngày để sinh hoạt riêng với “bà xã”, thì hãy đưa ngày ấy vào trong thời dụng biểu của bạn! Khi bạn muốn làm một việc khác hơn vào ngày ấy, bạn phải đặt câu hỏi: “Nó có ưu tiên cao hơn 'bà xã' của tôi không?”
Các ưu tiên và sự dấn thân.
Các ưu tiên vốn được xây dựng chủ yếu trên sự dấn thân của bạn. Sở dĩ bạn tin một điều gì đó là quan trọng, là do bạn đã dấn thân để làm việc gì hoặc trở thành người như thế nào. Người lãnh đạo thuộc linh phải bắt đầu bằng việc tự dấn thân cho Chúa. Điều này được hiểu rõ nhất vào lúc chúng ta dành thì giờ để cầu nguyện và nghiên cứu Lời Chúa. Nếu bạn bảo rằng quả đúng là việc đó được ưu tiên, hãy dành một thì giờ mỗi ngày cho nó, và giữ đúng giờ hẹn đó của bạn.
Một người lãnh đạo thuộc linh cũng phải dấn thân cho vợ và gia đình. Một lần nữa, nên đưa các thì giờ đó vào thời dụng biểu của bạn, và giữ lời hứa của mình. Một người lãnh đạo cũng phải dành thì giờ lo lắng chăm sóc cho các chi thể (thành viên) trong Thân thể Chúa Cứu Thế. Vậy bạn dành thì giờ nào cho việc đó mỗi tuần? Chúng ta cũng phải dành thì giờ cho người thế gian chung quanh ta. Một lần nữa, bạn dành thì giờ nào cho công việc ấy?
Phần chúng ta dấn thân lo công việc Chúa cũng phải đưa vào thời dụng biểu. Nếu bạn là một cấp lãnh đạo thuộc linh làm việc trọn thì giờ cho Chúa như một người làm công ăn lương, thì số thì giờ bạn đã rõ ràng là đã được sắp xếp cả rồi. Nhưng nếu bạn không phải là người làm việc trọn vẹn thì giờ, bạn phải quyết định xem mình sẽ dành bao nhiêu thời gian cho công việc Chúa. Thì giờ thường nói cho chúng ta biết đâu là những công việc được ưu tiên trong đời sống chúng ta.
Ưu tiên được nghỉ ngơi.
Còn một việc cuối cùng nữa, trước khi chúng ta giã từ đề tài các quyền ưu tiên. Nhiều cấp lãnh đạo không đánh giá cẩn thận tầm quan trọng của số thì giờ dành để bảo vệ sức khoẻ của con người ta. Điều này gồm có giờ ăn uống, nghỉ ngơi, tập thể dục và thư dãn. Các cấp lãnh đạo cảm thấy mình bị áp lực của công việc và phải làm gương tốt cho người khác. Họ không muốn bị tha nhân tố cáo là lười biếng hay không muốn làm việc. Họ thường cảm thấy bối rối khi đề cập số thì giờ rảnh rỗi, hay dành thì giờ hằng tuần để tập thể dục hay giải trí.
Nhưng tất nhiên cũng có một số người lạm dụng việc này, dành quá nhiều thì giờ cho nó, và như thế là bỏ bê nhiều việc quan trọng hơn. Tuy nhiên, các sự kiện cho thấy rằng vấn đề thật sự giữa các loại lãnh đạo năng nổ nhất, là việc không đưa vào thời dụng biểu thì giờ nghỉ ngơi, thư dãn và giải trí của mình.
Thật là dễ chứng minh chỗ sai lầm của loại tư tưởng bắt buộc ta cứ phải làm việc luôn để hoàn thành các chỉ tiêu mà không có thì giờ nào rỗi rảnh khỏi làm việc cả. Đứng về mặt con người mà nói, thì tuổi thọ sẽ bị giảm nhiều khi chúng ta không biết nghỉ ngơi, ăn uống và tập thể dục thật phải lẽ. Các cấp lãnh đạo rất thường bị nhồi máu cơ tim (thường là lúc hãy còn trẻ).
Các cấp lãnh đạo có khuynh hướng hoặc trách nhiệm phải ngồi tại bàn giấy suốt ngày. Họ không di chuyển như việc đáng lẽ phải làm. Họ ngồi ô-tô khi đáng phải đi bộ và đứng trong thang máy khi đáng phải đi lên các cầu thang. Chúng ta học tập hưởng thụ các tiện nghi xa xỉ của cuộc đời mà quyên mất tình trạng thể chất của mình.
Nhiều tổ chức Cơ-đốc giáo sẽ làm đúng khi kiểm tra các cấp lãnh đạo của mình trong lãnh vực cá biệt này. Cho dù có làm việc với tốc độ chậm, thì điều ta có thể hoàn thành trong 30 năm vẫn nhiều hơn là chỉ trong 10 năm! Ngay lúc này đây, sức khoẻ phải được bạn dành quyền ưu tiên. Sự thành công của các cấp lãnh đạo trong công tác họ đang làm chịu ảnh hưởng của cách ăn uống, nghỉ ngơi và vui chơi giải trí của họ.
Bốn Kế Hoạch Tốt Thiết Yếu
Các chiến lược tốt dựa trên việc lập kế hoạch cẩn thận. Lập kế hoạch là tiến trình theo đó chúng ta tìm cách hoàn thành các chỉ tiêu của mình. Việc lập kế hoạch đòi hỏi thì giờ cũng như khả năng thấy xa, thấy trước. Chúng ta phải luôn luôn dự đoán cũng như suy nghĩ trước. Điều chúng ta hoạch định có thể là không có thật ngoài chính tâm trí của chúng ta, nhưng nó là một phần tối quan trọng của chiến lược. Nhiều khi các kế hoạch của bạn đã không thành hiện thực. Khi việc ấy xảy ra, chớ nên ngã lòng, mà thay vào đó phải cho đấy là cơ hội để chúng ta thấy Thượng Đế biến mọi sự làm vinh danh Ngài, mặc dù các kế hoạch không hoàn thành của bạn.
ChCn 15:22 “Đâu không có nghị luận, đó mưu định phải phế; nhưng nhờ có nhiều mưu sĩ, mưu định bèn được thành”. Phải có thì giờ để thảo kế hoạch. Có nhiều chi tiết phải xét kỹ, nhiều vấn đề phải giải quyết. Bàn bạc với nhiều người khác về những gì là quan trọng để các kế hoạch của bạn được thành công. Nếu bạn có năm phút để hoàn thành một chỉ tiêu, hãy dành ra hai phút trong số đó để lập kế hoạch.
Có một số các nhà lãnh đạo tưởng rằng đặt kế hoạch là chống lại lòng tin cậy Thượng Đế. Loại tư tưởng này tương tự như việc một nhà truyền đạo tin rằng mình chẳng cần gì phải học hỏi nghiên cứu, bởi vì mình muốn được Đức Thánh Linh hướng dẫn trong khi truyền giảng! Rõ ràng là Thượng Đế có thể hướng dẫn và chỉ dạy cho chúng ta trong khi chúng ta lập kế hoạch! Chúng ta phải nhờ vào sự hướng dẫn của Ngài tại điểm này cũng như trong sự phục vụ thật sự mà vì đó, chúng ta đang lập kế hoạch!
Có bốn thành tố thiết yếu để có được một kế hoạch tốt.
Nhân sự.
Mô tả ai là người tham gia, ai chịu trách nhiệm và ai thi hành công việc, là điều tối quan trọng trong một kế hoạch tốt. Tên của trò chơi ở đây là
Không hoạch định trước các trở ngại
hầu như là bảo đảm rằng chúng sẽ xảy ra !
Một kế hoạch tốt phải dự đoán các vấn đề .
việc truyền thông giao tiếp. Người lãnh đạo bắt đầu tiến trình này trong tâm trí mình, rồi xét xem nên đưa các nhân viên nào vào trong chuỗi mệnh lệnh và trách nhiệm. Nên đưa họ trước tiên vào kế hoạch mà bạn đang soạn thảo.
Tiếp theo, hãy bắt đầu tiếp xúc với những người khác sẽ chịu ảnh hưởng của kế hoạch và đưa các ý kiến và gợi ý của họ vào. Xác định nhân viên nào sẽ chịu trách nhiệm lãnh vực nào của kế hoạch. Giao công việc với thời hạn cuối cùng. Phải chắc chắn rằng nhân viên tham gia kế hoạch biết mình phải khai trình với ai khi công tác của họ đã hoàn tất.
Trong giai đoạn đầu của công việc phục vụ, tôi vẫn tưởng rằng chỉ cần một số tối thiểu các nhân viên tham dự việc lập kế hoạch. Hãy còn rất nhiều thì giờ trước khi công tác phải hoàn tất. Nhưng kinh nghiệm đã chứng minh cho tôi thấy rằng càng có nhiều người tham gia tiến trình thảo kế hoạch, thì mức độ thành công sẽ càng cao hơn. Hãy chia họ ra thành nhiều cấp bậc và quyết định khi nào thì đưa thêm nhiều người khác nữa vào, nhưng phải tìm cách đưa được càng nhiều người càng tốt, vào đúng lúc phải đưa họ vào. Làm việc này thường đòi hỏi phải có sự khôn ngoan của Sa-lô-môn!
Các nguồn tài nguyên.
Nguồn tài nguyên quan trọng nhất chúng ta có là công tác của Đức Thánh Linh trong đời sống các tín đồ. Đây không phải là số nhân viên đặt kế hoạch, nhưng là số người sẽ thực hiện dự án - những người thật sự thi hành công tác. Vật dụng thì có thể thay thế hay loại bỏ, nhưng con người thì không. Thượng Đế hành động qua con người!
Thêm vào số nhân lực, khi lập kế hoạch bạn phải ước lượng những vật liệu nào là cần thiết để thực hiện dự án hay chỉ tiêu. Phải chăng đó là một tập sách nhỏ hay một bức thư? Phải chăng đó là một chữ ký hay một trang thiết bị tốt? Phải chăng đó là bàn ghế hay một phòng cho thuê? Những câu hỏi đó và nhiều câu hỏi nữa giống như thế cần phải được đặt ra tiếp theo.
Rồi còn có vấn đề tài chính. Có rất ít dự án có thể hoàn tất mà không cần phải chi tiền. Một kế hoạch tốt chú ý rất nhiều đến chi phí. Các cấp lãnh đạo không đánh giá các vấn đề này sẽ bị mất sức ủng hộ của những người chung quanh. Trong phần nhiều trường hợp, thật dễ xác định một dự án sẽ phải hao tốn bao nhiêu. Vấn đề nảy sinh khi quyết định cách phải lạc quyên số tiền cần thiết. Tiền bạc từ đâu đến là một vấn đề tối quan trọng trong việc lập kế hoạch tốt.
Các trở ngại.
Không hoạch định trước các trở ngại hầu như là bảo đảm rằng chúng sẽ xảy ra! Một kế hoạch tốt phải dự đoán các vấn đề có thể nẩy sinh. Cũng phải thảo luận cách thắng vượt các trở ngại, cho dù chúng thuộc phương diện tài chính, hay chỉ là ý kiến của người khác. Khắc phục trở ngại không phải là điều ai cũng thích làm, nhưng nó rất cần thiết và dường như là một phẩm cách của việc lãnh đạo.
Cố tiến sĩ Bob Jones có nói một câu như sau: “Bảng trắc nghiệm cho bản tính của bạn là điều có thể dùng để ngăn bạn lại”. Thật chí lý biết bao! Nhiều người đã bỏ cuộc quá dễ dàng. Có những trở ngại, vấn đề, khó khăn dường như quá lớn để có thể thắng vượt được thế là dự án bị bỏ đi. Nhưng, xin chờ một phút! Đó có phải là một chỉ tiêu đáng phải bỏ công không? Nó có đáp ứng một nhu cầu đích thực không? Nó có làm vinh danh Thượng Đế không? Nó có được đặt trên cơ sở là uy quyền của Thánh Kinh không? Đó có phải là ý chỉ Thượng Đế không? Các trở ngại vốn có mặt để thử nghiệm đức tin của chúng ta, cũng như thỉnh thoảng đó là một tấm bảng chỉ cho thấy một cánh cửa đã bị đóng lại.
Khi có người nói: “Điều đó không thể làm được”, thì những người có đức tin cảm thấy bị xúc phạm từ bên trong. Họ cảm thấy Thượng Đế bị nghi ngờ. Chúa Giê-xu phán: “sự đó loài người không thể làm được, nhưng Đức Chúa Trời thì chẳng thế!” (Mac Mc 10:27). Khi đối đầu với các trở ngại, tốt nhất nên nhìn vào những cách chọn lựa khác bạn có:
1. Cánh cửa đã bị đóng rồi; đừng theo đuổi chỉ tiêu của bạn xa hơn nữa.
2. Chúng ta đã bỏ qua một điều gì đó, mà trở ngại chúng ta đang gặp đây nhắc chúng ta phải chú ý.
3. Đức tin chúng ta cần được thử nghiệm.
4. Trở ngại sẽ làm tăng thêm sự hiến thân và dấn thân của chúng ta.
5. Chẳng còn cách nào khác nữa để làm việc đó.
6. Chúng ta được nhắc nhở rằng chúng ta đều bị giới hạn; điều này khiến chúng ta nhờ cậy Thượng Đế càng nhiều hơn.
Đừng sợ các trở ngại. Chúng có thể biến thành các hạnh phúc lớn lao được ngụy trang đấy! Phải học tập có kế hoạch trước để đối phó với chúng và chuẩn bị sẵn sàng để đương đầu với chúng.
Đánh giá.
Không đánh giá các chỉ tiêu cả trước lẫn sau khi chúng được hoàn thành, là một sai lầm nghiêm trọng. Chẳng hề có một kế hoạch nào thật sự có hiệu quả, mà lại không coi trọng việc đánh giá. Thì giờ tốt nhất để đánh giá là ngay sau khi một chỉ tiêu đã hoàn thành hay bị thất bại. Hãy đặt nhiều câu hỏi với chữ “Tại sao” trong đó. Thí dụ:
1. Tại sao có quá ít thanh niên nhóm lại nhân cơ hội này?
2. Tạo sao chúng ta không thông báo được cho những người trưởng thành của mình?
3. Tại sao chi phí lại vượt xa ngân quỹ mà chúng ta đã ấn định?
4. Tại sao các tín đồ cảm thấy chúng ta đã không nghĩ đến các nhu cầu và cảm nghĩ của họ trong vấn đề này?
5. Tại sao phần trang thiết bị âm thanh không kiến hiệu?
Viết phần đánh giá của bạn ra giấy và giữ nó lại ở một nơi nào đó, để bạn có thể thường quay lại với nó để tìm sự giúp đỡ và lời khuyên. Nếu có một số sáng kiến cá biệt nào đó bị thất bại thảm hại, hãy viết ra các lý do tại sao và giữ chúng lại trong một tập hồ sơ để sẽ dùng đến về sau. Dù sao, bạn cũng không muốn phạm cùng một sai lầm như thế đến hai lần.
Trong cả phần thảo luận liên hệ đến việc lập kế hoạch này, nên nhớ là nó cũng phải cần có thì giờ. Bạn có mục thì giờ ghi trong thời dụng biểu của mình cho việc thiết kế không? Nếu không thì tại sao lại không? Phải chăng vì chẳng có một chỉ tiêu cụ thể nào chỉ đạo cuộc đời bạn cả? Thật ra thì các cấp lãnh đạo chẳng còn phải chọn lựa gì nữa cả - họ phải có kế hoạch, nếu không thì tốt hơn nên có kế hoạch cho thất bại.
Thì giờ tốt nhất để lập kế hoạch của người lãnh đạo là thì giờ ở riêng ra một mình. Đừng bắt đầu thảo kế hoạch với những người khác trước khi bạn đã có thì giờ để thảo hoạch và suy nghĩ về đề án hoặc các chỉ tiêu liên hệ. Bạn phải chuẩn bị sẵn sàng về phương diện tinh thần khi dành thì giờ để cùng lập kế hoạch với những người khác.
Tại Sao Chúng Ta Cần Có Đường Hướng Chỉ Đạo?
Nếu không có các đường hướng chỉ đạo, các kế hoạch chúng ta thường sẽ thất bại, hay có giỏi lắm thì cũng bị mất đi tiếng vang của uy quyền và tính cách cấp bách của nó. Các đường hướng chỉ đạo phải được thiết lập thế nào để chúng bao trùm mọi tình hình khác nhau và nhiều loại chỉ tiêu khác nhau. Chúng phải được củng cố và đem ra áp dụng. Nếu bạn không thể củng cố các đường hướng chỉ đạo của mình, có lẽ bạn đã có một loạt đường hướng chỉ đạo sai lầm hoặc chính bạn có thể thiếu tài lãnh đạo.
Đề tài về các đường hướng lãnh đạo có liên hệ rất nhiều với chương trước bàn về uy quyền. Bối cảnh của nó là đạo đức. Nếu không có một định chuẩn đạo đức thì hầu như không thể thiết lập được các đường hướng chỉ đạo. Người lãnh đạo thuộc linh đặt cơ sở cho các đường hướng lãnh đạo của mình trên nền đạo đức của Kinh Thánh.
Các đường hướng chỉ đạo là cấu trúc luân lý đạo đức trong đó tổ chức sẽ tìm cách hoàn thành các chỉ tiêu của mình. Nếu không có chúng, tổ chức bị mất đi viễn cảnh của các mục tiêu nguyên thuỷ của mình, và sử dụng các phương pháp gây ra sự suy tàn cuối cùng của tổ chức ấy. Các đường hướng chỉ đạo giữ chúng ta đi đúng đường và trung thành với các dấn thân nguyên thuỷ của chúng ta.
Sau đây là vài đường hướng chỉ đạo minh họa chúng là gì và chúng ảnh hưởng thế nào đến tổ chức Cơ-đốc giáo.
Ta sẽ chẳng làm bất cứ việc gì vi phạm một nguyên tắc của Lời Thượng Đế . Trong các buổi họp nhân viên của chúng tôi, bất cứ sự thảo luận nào tạo ra vấn đề vi phạm Lời Thượng Đế lập tức bị chấm dứt ngay. Chúng tôi không thể thực hiện nó được.
Tầm quan trọng đặt trên con người thay vì trên công việc phải hoàn tất . Một trong các mục tiêu của Hội thánh chúng tôi là gây dựng, bao gồm việc xây dựng cho các tín đồ đạt mức trưởng thành trong Chúa Cứu Thế. Gây dựng cho một người quan trọng hơn là dùng người ấy để xây dựng công tác.
Mọi tổ chức phục vụ và hoạt động đều phải được đánh giá căn cứ vào các mục tiêu của chúng tôi . Đây chỉ đơn giản là điều để nhắc nhở cho mọi người chúng tôi bám sát vào các mục tiêu đã đề ra. Điều tương đối dễ làm, là phát triển các chỉ tiêu chẳng liên quan gì với các mục tiêu của chúng tôi cả.
Các phương pháp huấn luyện sẽ được tập trung vào việc đào tạo một số ít người trở thành môn đệ (Chúa ) để đến với nhiều người , mà việc này phải do các tín hữu trưởng thành thực hiện . Kinh nghiệm của chúng tôi đã chứng minh cho tầm quan trọng của đường hướng chỉ đạo này. Sử dụng những người chưa trưởng thành trong các vai trò lãnh đạo gây trở ngại cho việc hoàn thành các mục tiêu của chúng tôi. Cố gắng thúc đẩy cả một khối quần chúng đông đảo thì gần như không thành công bằng chỉ thúc đẩy một vài người để họ đến với một số đông người.
Mọi địa vị lãnh đạo và phục vụ đều đặt trên cơ sở là một nếp sống tin kính đạo đức . Thiết tưởng chúng tôi đã bàn khá đầy đủ về vấn đề này rồi. Người ta đã khám phá ra rằng nhiều chiến lược sở dĩ bị sụp đổ, thường chính là tại điểm này!
Nhiều người khác trong tổ chức các tín hữu này sẽ xác nhận các ân tứ , khả năng hay tài năng của một người , trước khi người ấy được đặt vào địa vị lãnh đạo . Chúng ta đều thường nghĩ về mình tốt hơn con người đích thực của chúng ta. Chúng ta cần sự đánh giá của nhiều người khác trước khi đặt người vào công tác lãnh đạo.
Bảng liệt kê các đường hướng chỉ đạo có thể được kéo dài. Nó chỉ đơn giản nêu ra phần cấu trúc luân lý đạo đức trong đó chúng ta tìm cách hoàn thành các chỉ tiêu của mình. Các đường hướng chỉ đạo là tối quan trọng cho vấn đề dấn thân thuộc linh.
Một lần nữa, xin nhắc lại là một chiến lược tốt gồm có năm yếu tố.
. Các mục tiêu (objectives ). Các mục đích căn bản của tổ chức .
. Các chỉ tiêu (goals ). Các phương cách đặc thù qua đó các mục đích của tổ chức được đo lường và hoàn tất .
. Các ưu tiên (priorities ). Những yếu tố quyết định thời điểm và tại sao các sự việc phải thực hiện .
. Đặt kế hoạch (planning ). Diễn tiến dùng để đạt được những chỉ tiêu (bao gồm nhân lực , tài nguyên , trở ngại và lượng giá ).
. Các đường hướng chỉ đạo (guidelines ). Khuôn mẫu đạo đức , luân lý qua đó tổ chức sẽ tìm kiếm để hoàn tất các chỉ tiêu .
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Các mục tiêu của tổ chức của bạn là gì? Bạn có một định nghĩa rõ ràng cho từng chỉ tiêu một trong số đó hay không?
2. Bạn thường viết ra giấy các chỉ tiêu cho chính cuộc đời bạn đến mức nào? Còn cho sinh hoạt của gia đình bạn? của tổ chức của bạn?
3. Bạn có các chỉ tiêu cận tiếp (gần) cũng như các chỉ tiêu dài hạn không?
4. Bạn có dành quyền ưu tiên cho các chỉ tiêu của mình không?
5. Việc thiết kế của bạn có bao gồm cả “bốn thành tố thiết yếu” trong công tác lập kế hoạch không?
6. Bạn có các đường hướng chỉ đạo để thiết lập các mục tiêu của mình không? Chúng có được viết ra giấy không?

MỘT CHIẾN LƯỢC ĐỂ TĂNG TRƯỞNG
Một chiến lược là điều rất quan trọng cho bất kỳ một tổ chức nào. Các cấp lãnh đạo biết rõ các lý do tại sao nó lại là cần thiết và việc gì sẽ xảy ra khi một chiến lược rõ ràng không được triển khai. Một số tổ chức đặt chiến lược của họ trên nền móng là lòng trung thành đối với các chủ đích và mục tiêu của họ. Nếu việc này là điều nên làm và phải lẽ nó không nhất thiết bao hàm sự tăng trưởng. Nhiều tổ chức chỉ đơn giản duy trì nguyên trạng và hài lòng với điều đó. Chẳng có kế hoạch hay dự án gì cho sự tăng trưởng tương lai cả.
Các Hội thánh và hội truyền giáo vốn có truyền thống là chậm chạp trong việc đưa sự tăng trưởng vào như là một thành phần của chiến lược. Với một số tín hữu thì việc ấy nghe ra có vẻ xác thịt, và là những phương pháp mua bán, tiếp thị của “Đại lộ Madison”. Chúng ta thường xem “câu chuyện bàn về sự tăng trưởng” là xác thịt và chưa trưởng thành.
Nói Tăng Trưởng Là Chúng Tôi Ngụ Ý Nói Gì?
Một chiến lược tăng trưởng phải đánh giá ý nghĩa của sự tăng trưởng và quyết định những loại tăng trưởng nào phải được đưa vào phần thảo kế hoạch và bổ sung cho chiến lược đó. Sự tăng trưởng gợi ý tăng gia và sinh sản; điều này thường bao hàm những con số.
Yếu tố căn bản của sự tăng trưởng của Hội thánh là quyền tể trị của Thượng Đế. ICo1Cr 3:6-8 nêu ra vấn đề này:
“Tôi đã trồng, A-bô-lô đã tưới, nhưng Thượng Đế làm cho lớn lên. Người trồng, kẻ tưới đều không quan trọng, vì chính Thượng Đế làm cho cây lớn lên. Người trồng kẻ tưới đều như nhau, mỗi người được thưởng tuỳ theo công khó mình”.
Tăng trưởng số lượng.
Thượng Đế tạo ra sự tăng trưởng. Việc đánh giá và phân tích việc Thượng Đế làm hay có thể làm đưa chúng ta vào vấn đề “các con số”. Trong một số chiến lược, một sự gia tăng số người nhóm lại cao hơn năm trước trong các buổi nhóm thờ phượng của Hội Thánh là tất cả ý nghĩa của sự tăng trưởng.
Các bản tường trình và thống kê về số người nhóm lại tăng lên từ tuần này sang tuần khác vốn không thấy có trong phần ký thuật của Tân ước về sinh hoạt và sự tăng trưởng của Hội thánh. Nhưng các con số vẫn có ở đó, và một chiến lược tốt đặt cơ sở trên lời truyền dạy của Thánh Kinh sẽ xem sự tăng trưởng về số lượng là một phần của chiến lược ấy.
Cong Cv 2:41 đề cập sự tăng trưởng khi Hội thánh khai sinh, và tường trình rằng: “Nhiều người tiếp nhận lời Chúa và chịu báp-tem. Trong ngày đó có độ 3.000 người tin Chúa”. Câu 47 tiếp tục: “Họ luôn ca ngợi Thượng Đế và được mọi người quý mến. Mỗi ngày Chúa cứ tăng thêm số người được cứu”.
5:14 dùng từ ngữ “tăng thêm” một lần nữa “Số nam nữ tín hữu cứ tăng thêm mãi”. 11:24 dùng đến lần thứ tư và cuối cùng từ ngữ “tăng thêm” và được dịch ra là “dìu dắt” (bản Anh văn là brought: đem đến, đưa vào) “Ba-na-ba là người đạo đức, đầy Thánh Linh và đức tin. Ông dìu dắt nhiều người đến với Chúa”. Rõ ràng là các con số rất quan trọng trong công tác phục vụ Chúa.
Bổ sung cho từ ngữ “thêm vào”, chúng ta đọc thấy trong 6:1 “Lúc ấy, số tín hữu càng gia tăng nhanh chóng”. 9:31 chép: “Hội thánh khắp xứ Giu-đê, Ga-li-lê và Sa-ma-ri được hưởng một thời
Bằng chứng đã rõ ràng - các con số
rất quan trọng để đánh giá
sự tăng trưởng và để triển khai
một chiến lược tăng trưởng .
kỳ bình an, và ngày càng vững mạnh. Hội thánh càng tiến bộ trong niềm kính sợ Chúa và sự khích lệ của Thánh Linh nên số tín hữu ngày càng gia tăng”.
Trong 16:5 bản tường trình này cũng được đưa ra liên hệ với Phao-lô và Si-la khi các vị quay trở lại với các Hội thánh của chuyến du hành truyền giáo đầu tiên của Phao-lô nơi ông với Ba-na-ba từng bắt đầu công tác gian khổ: “Vậy đức tin của các Hội thánh càng vững mạnh và mỗi này số tín hữu càng gia tăng”.
Trong khi câu này có thể đề cập một sự gia tăng hằng ngày về số lượng của các Hội thánh dường như điều càng hữu lý hơn, căn cứ vào 15:41 thì câu “tăng về số lượng hằng ngày” (bản Anh văn) này đề cập sự tăng trưởng của các Hội thánh đã được thành lập.
Các con số được tường trình trong Tân ước.
Bằng chứng đã rõ ràng - các con số rất quan trọng để đánh giá sự tăng trưởng và để triển khai một chiến lược tăng trưởng. Trong khi số người nhóm lại trung bình đã không được tường trình, thì con số những người mới ăn năn qui đạo thêm vào hội thánh lại được cho biết. Nếu cách thẩm định của chúng ta về phần ký thuật này của Tân ước là đúng, thì những điều sau đây vốn là một phần của sự tăng trưởng, và của phần ký thuật về số lượng của việc ấy.
1. Số người quyết định trở thành Cơ-đốc nhân
2. Số người chịu phép báp-tem để công khai công bố đức tin
3. Số thành viên của Hội thánh tăng lên
Trong một chiến lược về tăng trưởng, cả ba yếu tố này đều phải trở thành một phần tối quan trọng trong công tác thảo kế hoạch và tường trình. Nếu các biểu đồ về số người thật sự nhóm lại thường là chiếc phong vũ biểu chỉ sự tăng trưởng của một chi hội địa phương, chúng vốn không phải là tâm điểm của các mối bận tâm của phần ký thuật trong Thánh Kinh. Việc nhóm lại có thể chịu ảnh hưởng của các phương tiện và chỗ đậu xe. Số người nhóm lại cũng là một cách đánh giá khó thực hiện. Với nhiều suất lễ và nhiều công tác phục vụ, nhiều người được tìm đến và tham gia qua nhiều con đường có thể hoặc không thể được phản ảnh bằng số người nhóm lại trong các buổi thờ phượng của Hội Thánh được ghi trong các bản tường trình về thành tích.
Tăng Trưởng Thuộc Linh Là Gì?
Sự tăng trưởng thuộc linh rất khó đo lường. IIPhi 2Pr 3:18 khuyến giục các tín hữu hãy tăng trưởng trong ân phúc và học biết nhiều hơn về Chúa Cứu Thế Giê-xu chúng ta, nhưng làm thế nào để chúng ta thẩm định được sự tăng trưởng đó?
Các yếu tố của sự tăng trưởng thuộc linh.
Một trong những khúc sách rõ ràng nhất về tăng trưởng thuộc linh là CoCl 1:9-12
Vì cớ ấy, từ ngày được tin anh em, chúng tôi luôn luôn cầu thay cho anh em, xin Thượng Đế cho anh em trí khôn ngoan và tâm linh sáng suốt để thấu triệt ý chỉ Ngài, cho anh em sống xứng đáng với Chúa, hoàn toàn đẹp lòng Ngài, làm việc tốt lành cho mọi người và ngày càng hiểu biết Thượng Đế. Cũng xin Chúa cho anh em ngày càng mạnh mẽ nhờ năng lực quang vinh của Ngài để nhẫn nại chịu đựng mọi gian khổ, lòng đầy hân hoan, và luôn luôn cảm tạ Cha thiên thượng. Chúa Cha đã làm cho anh em xứng đáng chung hưởng cơ nghiệp với các thánh đồ trên Nước sáng láng.
Trong khúc sách này, những mệnh đề sau đây đề cập sự tăng trưởng thuộc linh:
. thấu triệt ý chỉ Ngài
. sống xứng đáng với Chúa
. hoàn toàn đẹp lòng Ngài
. làm việc tốt lành cho mọi người
. càng hiểu biết Thượng Đế
. càng mạnh mẽ nhờ năng lực quang vinh của Ngài
. nhẫn nại chịu đựng
. lòng đầy hân hoan và luôn luôn cảm tạ
IPhi 1Pr 2:2-3 viết về vấn đề ấy như thế này: “Anh em đã nếm biết lòng nhân từ của Chúa, vậy hãy khát khao Lời Chúa như trẻ em khát sữa, nhờ đó anh em ngày càng tăng trưởng trong sự cứu rỗi”. Đây không phải là lời chỉ giáo những người mới ăn năn quy đạo, nhưng là cho toàn thể các tín hữu muốn tăng trưởng thuộc linh. Chúng ta đều phải khát khao Lời Chúa “như trẻ em” khát sữa mẹ vậy. Câu này đề cập một ước muốn thiết tha, chứ không phải chỉ là một mối quan tâm thỉnh thoảng mới có mà thôi.
Các ân tứ và sự tăng trưởng thuộc linh cho Thân thể Chúa.
Eph Ep 4:11-16 là một trong những khúc sách hay nhất về sự tăng trưởng thuộc linh của Hội thánh. Nó bắt đầu bằng bảng liệt kê các cấp lãnh đạo có ân tứ, và kết thúc với mối liên hệ hỗ tương giữa toàn thể các thành viên với nhau:
Ngài cho người này làm sứ đồ, người kia làm tiên tri, người khác làm truyền đạo, mục sư hay giáo sư... Ngài phận phối công tác như thế để chúng ta phục vụ đắc lực cho Ngài, cùng nhau xây dựng Hội thánh, là Thân thể Ngài. Nhờ đó, chúng ta được hợp nhất, cùng chung một niềm tin về sự cứu rỗi và về Con Thượng Đế - Cứu Chúa chúng ta - và mỗi người đều đạt đến bậc trưởng thành trong Chúa, có Chúa Cứu Thế đầy dẫy trong tâm hồn. Nhờ đó, chúng ta không còn khờ dại như trẻ con, trí óc không còn nông nổi, dễ đổi thay theo các giáo lý mới lạ của kẻ lừa dối khéo dùng thủ đoạn xảo trá sai lầm. Nhưng chúng ta luôn luôn sống theo chân lý và truyền bá chân lý trong tình yêu thương, để ngày càng tăng trưởng đến mức giống Chúa Cứu Thế về mọi phương diện. Chúa Cứu Thế là Đầu: Hội thánh là thân thể. Dưới quyền lãnh đạo của Chúa, mọi bộ phận trong thân thể kết hợp và nâng đỡ nhau. Mỗi bộ phận đều làm trọn chức năng riêng và cả thân thể lớn mạnh trong tình yêu thương.
Một trong những điểm đáng chú ý về sự tăng trưởng trong khúc sách này là câu ám chỉ sự tăng trưởng của Thân thể, chứ không phải chỉ đơn giản là của cá nhân. Lẽ dĩ nhiên, sự tăng trưởng thuộc linh của từng cá nhân là thiết yếu, nhưng khúc sách này chú trọng vào sự tăng trưởng thuộc linh của cả Hội thánh, khi các thành viên biết sử dụng các ân tứ thuộc linh của họ để khích lệ và gây dựng lẫn cho nhau.
Các tín hữu biết sử dụng các ân tứ thuộc linh của mình và đã được trang bị lời truyền dạy của Thánh Kinh, sẽ gây dựng lẫn cho nhau, và như thế là sự tăng trưởng thuộc linh sẽ xảy ra.
Tiến trình này gồm ba điểm:
1. Thống nhất về giáo lý - “hợp nhất cùng chung một niềm tin về sự cứu rỗi và về Con Thượng Đế”.
2. Bản thân phải trung thực - “truyền bá chân lý trong tình yêu thương”.
3. Hoà hợp tập thể - “mọi bộ phận...kết hợp và nâng đỡ nhau”.
Kết quả của ba điều này là xây dựng hay tăng trưởng thuộc linh.
Lời Chúa và công tác phục vụ.
Các cấp lãnh đạo có ân tứ (sứ đồ, nhà tiên tri, nhà truyền đạo và mục sư / giáo sư) làm công tác trang bị cho các tín hữu. Phao-lô tiết lộ tiến trình trang bị được thực hiện bằng việc giảng và dạy Lời Chúa.
Cả Thánh Kinh đều đựơc Thượng Đế cảm ứng, có ích cho việc dạy dỗ, khiển trách, sửa trị, đào luyện con người theo sự công chính. Nhờ đó, người của Thượng Đế được thành thục, có khả năng làm mọi việc lành (IITi 2Tm 3:16, 17).
Kinh Thánh sẽ trang bị cho chúng ta để có khả năng “làm mọi việc lành”. Đó là công việc của các cấp lãnh đạo có ân tứ. Các tín hữu đã được trang bị như thế sẽ lao vào “công tác phục vụ”. Các Hội thánh thường bị ngăn trở trong Tiến trình tăng trưởng là do sự kiện các cấp lãnh đạo được ân tứ lại là những người làm công tác phục vụ, còn đa số hội chúng thì ngồi trên các hàng ghế của nhà thờ để chờ đợi, theo dõi!
Công tác phục vụ được đề cập trong IPhi 1Pr 4:10-11 và chỉ việc thực thi các ân tứ thuộc linh.
Thượng Đế đã ban cho mỗi người chúng ta một khả năng riêng, hãy dùng để giúp đỡ nhau, như người quản nhiệm biết sử dụng ân phúc muôn màu muôn vẻ của Thượng Đế. Nếu anh em truyền bá Phúc Âm, hãy giảng đúng lời Thượng Đế. Nếu anh em phục vụ Hội thánh, hãy sử dụng tất cả năng lực Thượng Đế ban cho mình. Trong bất cứ việc gì, hãy làm sao cho Thượng Đế được tôn vinh qua Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng đáng được vinh quang, quyền năng đời đời vô cùng. Thành tâm sở nguyện!
Lãnh vực trong đó mọi sự tăng trưởng thuộc linh xảy ra là tình yêu thương. ICo1Cr 8:1 nhắc nhở chúng ta rằng sự hiểu biết chỉ sản sinh ra sự kiệu ngạo mà thôi; còn tình yêu thương thì xây dựng.
Một chiến lược của sự tăng trưởng phải bao gồm nhiều hơn là những gia tăng về số lượng người quyết định (tin Chúa) phép báp-tem và số các thành viên. Nó phải gồm luôn việc thảo kế hoạch và chuẩn bị cho sự tăng trưởng thuộc linh của Hội thánh nữa. Chiến lược phải chú trọng vào các ưu tiên theo Thánh Kinh. Phải cẩn thận để khỏi làm lẫn lộn các vai trò và trách nhiệm giữa các cấp lãnh đạo có ân tứ, với các thành viên của Hội thánh .
Chiến Lược Và Lời Uỷ Thác Trọng Đại
Chẳng một chiến lược tăng trưởng nào có thể được đầy đủ nếu không đưa vào đó nhiệm vụ mà Chúa Cứu Thế Giê-xu đã uỷ thác cho Hội thánh. Nếu thiếu nó, chiến lược của chúng ta là thiển cận. Điều vẫn được gọi là “Lời uỷ thác Trọng đại” là những khúc sách sau đây:
Mat Mt 28:19-20 Vậy, các con hãy đi dìu dắt tất cả các dân tộc làm môn đệ ta, làm báp-tem cho họ nhân danh Cha, Con, và Thánh Linh, và dạy họ vâng giữ mọi mệnh lệnh ta! Chắc chắn ta ở với các con luôn luôn, từ nay cho đến ngày tận thế!
Mac Mc 16:15-16 Chúa bảo các môn đệ: Hãy đi khắp thế giới, công bố Phúc Âm cho cả nhân loại. Ai tin và chịu báp-tem sẽ được cứu, còn ai không tin sẽ bị kết tội.
LuLc 24:47-49 và Phúc Âm cứu rỗi phải được công bố cho tất cả các dân tộc, bắt đầu từ thành Giê-ru-sa-lem. Ai ăn năn trở về với ta sẽ được tha tội. Các con đã chứng kiến các việc đó. Ta sẽ sai Thánh Linh đến với các con như Cha ta đã hứa. Vậy các con cứ chờ đợi trong thành phố này, cho đến khi đầy dẫy quyền năng thiên thượng.
GiGa 20:21 Chúa Giê-xu tiếp: Chào mừng các con! Cha đã sai ta cách nào, ta cũng sai các con cách ấy.
Cong Cv 1:8 Nhưng khi Thánh Linh giáng trên các con, các con sẽ nhận được quyền năng làm chứng cho ta tại Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri và khắp thế giới.
Nhiệm vụ và quyền năng.
Nếu chúng ta hiểu đúng những lời chỉ giáo của Chúa Cứu Thế, thì chúng vốn được ban truyền trước nhất cho các sứ đồ đã được Ngài sai đi khắp thế giới với sứ điệp của Ngài. Các vị ấy, cùng với nhiều người khác là những người đã chứng kiến tận mắt mọi sự việc. Theo một nghĩa thứ hai, chúng ta cũng là những chứng nhân cho Ngài, là những người tin vào sứ điệp của Thánh Kinh và đã có từng trải cá nhân về sự cứu rỗi kỳ diệu và sự sinh ra thuộc linh đã được hứa ban cho nhờ chúng ta tin cậy vào sự chết của Chúa Cứu Thế vì tội lỗi chúng ta, và vào sự sống lại từ kẻ chết của Ngài!
Lời Uỷ Thác Trọng Đại trở thành nhiệm vụ của tất cả các Hội thánh. Mọi chiến lược về tăng trưởng thuộc linh đều phải quan tâm sâu xa đến điều đó. Nó gồm những điều sau đây:
1. Uy quyền - “Cha đã sai ta cách nào, ta cũng sai các con cách ấy”.
2. Tài năng - “được mặc lấy quyền năng từ trên cao” và “Khi Thánh Linh giáng trên các con, các con sẽ nhận được quyền năng”.
3. Mục đích - “dìu dắt tất cả các dân tộc làm môn đệ ta”.
4. Hành động - “đi khắp thế gian”.
5. Phương pháp tiếp cận - “truyền giảng Phúc Âm” và “các con...sẽ làm chứng cho ta”.
6. Khu vực - “tất cả các dân tộc”, “khắp thế giới” và “phần xa nhất của địa cầu”.
7. Lời bảo đảm - “Chắc chắn ta ở với các con luôn luôn, từ nay cho đến ngày tận thế!”.
Thượng Đế là Đấng cứu rỗi và tạo ra sự tăng trưởng. Ngài dùng người tín hữu nào sẵn lòng ra đi. Nhiệm vụ không tập trung vào việc “đến”, mà vào việc “đi”. Môi trường là cả thế giới, và các cơ hội vốn phi thường. Chính Thượng Đế là Đấng “mở” và “đóng” các cánh cửa của cơ hội (ICo1Cr 16:9; CoCl 4:3).
Thâm nhập các nền văn hoá.
Chiến lược tăng trưởng của chúng ta nhằm đến với nhiều nền văn hoá, quốc gia và thành phố trên thế gian này đòi hỏi phải có các nhân sự được đào tạo huấn luyện, sẵn sàng phục vụ trong các nhóm dân tộc đa văn hoá và đa ngôn ngữ. Chiến lược của chúng ta chẳng bỏ sót một ai - chúng ta phải “dìu dắt tất cả các dân tộc làm môn đệ Chúa”.
Việc này chắc chắn phải bao gồm nhiều người nói nhiều ngôn ngữ khác nhau khắp thế giới, phần lớn vẫn chưa biết một câu Kinh Thánh nào bằng tiếng nói của họ. Chúng ta phải dấn thân nhiều vào việc tuyển chọn và huấn luyện các nhân sự để họ đến với các nhóm người đa văn hoá và đa ngôn ngữ, làm việc với các đoàn thể và các tổ chức, vốn tài giỏi hơn chúng ta trong việc hiểu rõ các nhu cầu của cái thế giới luôn luôn biến chuyển này của chúng ta.
Phao-lô đưa ra lời thách thức:
Vì tất cả những người kêu cầu Danh Chúa đều được cứu rỗi. Nhưng nếu họ chưa tin Chúa thì kêu cầu Ngài sao được? Nếu chưa nghe nói về Ngài, làm sao biết mà tin? Nếu không có người truyền giảng thì nghe cách nào? Nếu không được sai phái thì ai đi truyền giảng? Nên Thánh Kinh ghi nhận: Bàn chân người đi truyền giảng Phúc Âm thật xinh đẹp biết bao!” (RoRm 10:13-15)
Chúng ta cần nhiều hơn “những bàn chân xinh đẹp” trong chiến lược tăng trưởng của mình và trong hoài bảo đến với tất cả mọi người trong thế giới của chúng ta vì Chúa Cứu Thế Giê-xu!
Các yếu tố của chiến lược của chúng ta.
Tuyển chọn và ủng hộ các nhân sự . Việc tuyển chọn, sai phái và trợ cấp cho các nhân sự là những yếu tố thiết yếu để hoàn thành Lời Uỷ Thác Trọng Đại. Cơ hội thì rất nhiều, mà nhân sự thì ít.
Chiến lược tăng thêm con số các cán bộ của chúng ta sẽ là gì? Chúa Giê-xu đã cho câu trả lời:
Thấy nhân dân đông đảo, Chúa động lòng thương xót vì họ yêu đuối khốn khổ, tản lạc bơ vơ chẳng khác đàn chiên không có người chăn. Chúa bảo các môn đệ: Mùa gặt thật trúng, song thợ gặt còn ít. Các con hãy cầu xin Chủ mùa gặt đưa thêm nhiều thợ gặt vào đồng lúa của Ngài! (Mat Mt 9:36-38)
Chiến lược của chúng ta phải gồm cả việc cầu nguyện! Nói nhiều về nhu cầu nhân sự đôi lúc cũng rất ích lợi, nhưng lắm lúc cũng có thể ngăn trở chúng ta trong công tác mà chúng ta phải làm - Hãy cầu nguyện xin Chúa sai thêm nhiều nhân sự ra đi.
Cầu nguyện, nhân sự, v.v.. đều hết sức quan trọng, nhưng ủng hộ, tài trợ cho các nhân sự cũng thế. Một chiến lược tăng trưởng phải lẽ cũng phải tự mình quan tâm đến yếu tố sinh tử này. Công tác sẽ được tài trợ như thế nào? Phải cần có bao nhiêu tiền?
ICo1Cr 9:14 chép rằng Chúa dạy phải hậu thuẫn cho những người đem Phúc Âm đến cho người khác trong các nỗ lực của họ. Người làm công phải được trả công xứng đáng. Trách nhiệm của các Hội thánh là phải ủng hộ các cán bộ đã ra đi, đem thông điệp Phúc Âm đến cho người thế gian và tìm cách thành lập nhiều Hội thánh tại tất cả các quốc gia, các nền văn hoá, và thành phố. Với giá cả cứ tăng khắp nơi trên thế giới, trách nhiệm đè trên các Hội thánh phái người ra đi rất lớn lao. Chúng ta cần có một khải tượng lớn hơn và một sự dấn thân lớn hơn để đến với thế giới hư vong của chúng ta vì Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Các môn đệ tăng trưởng . Một chiến lược tăng trưởng thành công sẽ hướng vào kết quả là tạo thêm nhiều môn đệ Chúa trong một thế giới đang rất cần được nghe Phúc Âm của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Nó phải bao gồm các loại tăng trưởng sau đây:
1. Tăng trưởng về số lượng bằng cách truyền bá Phúc Âm mà kết quả là có nhiều người quyết định tin Chúa Cứu Thế, chịu phép báp-tem và trở thành các thành viên có trách nhiệm trong Hội thánh.
2. Tăng trưởng thuộc linh nhờ các cấp lãnh đạo có ân tứ trang bị cho Hội thánh bằng việc giảng dạy Thánh Kinh, đào tạo nhiều thành viên biết lợi dụng các ân tứ của họ để gây dựng lẫn nhau trong bầu không khí đầy tình yêu thương của Thượng Đế.
3. Tăng trưởng mở rộng bằng cách sai phái và hậu thuẫn cho các nhân sự đi vào các khu vực đa văn hoá và đa ngôn ngữ khắp thế giới để lập Hội thánh cho Chúa trong tất cả các nhóm sắc tộc.
Lập nhiều Hội thánh mới
Sự tăng trưởng mở rộng cũng xảy ra ngay trong chính nền văn hoá của chúng ta nữa. Việc lập nhiều Hội thánh trong tất cả các cộng đồng vẫn còn là một chỉ tiêu của Hội thánh của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Rất có thể một cộng đồng nào đó ngay trong đất nước chúng ta đangbị một nền văn hoá khác, một ngôn ngữ khác thống trị, hoặc cộng đồng ấy có những người có cùng một bối cảnh văn hoá và nếp sống giống như chúng ta. Nhưng chỉ tiêu vẫn không thay đổi - lập Hội thánh Chúa, đào tạo môn đệ cho Chúa từ tất cả các dân tộc!
Bản thân tôi đã được đặc ân tham gia thành lập một Hội thánh. Ngay từ đầu, đã có nghi ngờ, thắc mắc, nhầm lẫn, lo âu và tranh chấp. Nhưng Thượng Đế vốn thành tín. Khi người ta đến với Chúa, chịu phép báp-tem và trở thành các thành viên có trách nhiệm trong Hội thánh, thì Hội thánh tăng trưởng. Từ Hội thánh ấy, nhiều Hội thánh khác lại ra đời, và nhiều giáo sĩ đã được sai phái đi khắp thế giới.
Sau niềm vui lập một Hội thánh và theo dõi các cấp lãnh đạo phát triển và tăng trưởng, tôi còn được một niềm vui nữa là tham gia trong việc phát triển, tăng trưởng và lập nhiều Hội thánh khác nữa. Tôi trở thành mục sư của Hội thánh mà tôi đã từ đó lớn lên. Trên hơn 14 năm phục vụ, chúng tôi được thấy Hội thánh tăng trưởng qua công tác truyền giảng Phúc Âm, đào tạo các môn đệ cho Chúa, và trang bị cho các thành viên.
Hội thánh mẹ bắt đầu lập nhiều chi hội khác, và chúng tôi vui mừng được thấy nhiều nhân sự từ giã Hội thánh ấy để bắt đầu đi lập nhiều Hội thánh khác nữa tại nhiều nơi trên thế giới. Chẳng những chỉ có các Hội thánh được thiết lập trong các cộng đồng khác có cùng bối cảnh văn hoá với chúng tôi, mà chúng tôi còn được thấy nhiều Hội thánh được thiết lập với sự phục vụ được thực hiện bằng nhiều ngôn ngữ khác.
Việc thiết lập Hội thánh ở khắp nơi trên thế giới tiếp tục là chiến lược hàng đầu. Sau nhiều năm phục vụ trong một Hội thánh cứ ngày càng tăng trưởng tại Orange County, California, chúng tôi được thấy việc thành lập một Hội thánh đa văn hoá và đa ngôn ngữ, cũng như việc thiết lập một Hội thánh khác nữa bên trong nền văn hoá của chính chúng tôi, nhưng cách xa các cộng đồng tiếp giáp với chúng tôi nhiều dặm đường.
Chúng tôi có các nhân sự đi khắp nơi trên thế giới để lập Hội thánh Chúa trên các lục địa khác và các nơi xa xôi mà phần đông chúng ta chẳng hề biết tới. Nhưng niềm vui chính là ở đấy và đó là một đặc quyền lớn lao. Chiến lược tăng trưởng của chúng tôi tiếp tục ảnh hưởng đến sự phục vụ của chúng tôi và giữ đôi mắt chúng tôi luôn đặt trên ước nguyện của Cứu Chúa mong chúng tôi “dìu dắt tất cả các dân tộc làm môn đệ” Ngài.
Một trong những nhu cầu lớn nhất trong đời sống các cấp lãnh đạo thuộc linh trong các Hội thánh của Chúa,là khai triển một chiến lược tăng trưởng khiến chúng ta nhìn ra khắp thế giới. Khi chúng ta chỉ thấy các vấn đề và những gì chúng ta phải phấn đấu cho riêng mình mà không nhìn xa hơn các biên giới để thấy “những đám quần chúng đông vô số”, thì chẳng những chúng ta bị hụt mất cơ hội quan trọng mà Chúa chúng ta đã uỷ thác mà còn thấy rằng sự thiếu khải tượng và dấn thân đó sẽ bắt đầu ảnh hưởng đến các tình hình địa phương của chúng ta nữa.
Các tín đồ cần nhìn thế giới như cách Chúa đang nhìn thấy nó. Ngài đã động lòng thương xót khi thấy hoàn cảnh của người ta - như chiên không có người chăn, bơ vơ lạc lõng cần được tìm về cho Chúa. trong LuLc 15:1-32, có ba ẩn dụ (con chiên lạc, đồng bạc mất và con trai phóng đãng) cho thấy tấm lòng của Chúa chúng ta. 19:10 cho chúng ta biết rằng Con Người đến trần gian để tìm và cứu những người lầm lạc.
Nguyện Thượng Đế đặt vào lòng chúng ta những gì vốn đang ở trong lòng Ngài! Nguyện Chúa mở mắt các cấp lãnh đạo của chi hội địa phương của chúng ta và khiến họ nhìn thấy nhiều nền văn hoá, ngôn ngữ và nhiều nhóm sắc tộc khác, đang cần đến Phúc Âm và việc thiết lập nhiều Hội thánh.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Bạn tin gì về sự tăng trưởng số lượng?
2. Cần phải giữ luôn các bảng thống kê nào trong chiến lược cho tăng trưởng Hội thánh?
3. Bạn tin gì vào sự tăng trưởng thuộc linh? Bạn đo lường nó như thế nào? Làm thế nào để bạn biết được khi việc ấy xảy ra?
4. Bạn thấy những điểm thiết yếu nào khiến chúng ta cần khai triển một chiến lược tăng trưởng cho chi hội địa phương?
5. Làm thế nào để chúng ta có thêm nhiều nhân sự cho các dân các nước trên thế giới?
6. Bạn tin gì về Lời Uỷ Thác Trọng Đại? Chúng ta có thể làm gì để đưa nó vào trong chiến lược tăng trưởng của mình?
7. Tại sao nhiều chi hội địa phương thiếu một khải tượng cho thế giới?
8. Các cấp lãnh đạo thuộc linh có thể làm gì để khích lệ một chiến lược tăng trưởng trong chi hội địa phương? Bạn đang có kế hoạch làm gì?
YÊU THƯƠNG NGƯỜI KHÁC KHÔNG PHẢI LÀ DỄ?
Dấu hiệu của người làm môn đệ Chúa là yêu thương nhau (GiGa 13:34, 35). Ta không thể nào đề cập công tác lãnh đạo thuộc linh mà chẳng nói gì đến vấn đề yêu thương con người. Các sách về quản trị ngoài đời có thể loại nó ra khỏi phần bàn cãi, nhưng các Cơ-đốc nhân thì không thể làm như thế.
Yêu thương người ta không phải là đơn giản như mới thoạt nghe! Các cấp lãnh đạo vốn biết rõ điều đó, nhưng họ thường không biết lý do tại sao. Một số người chúng ta rất dễ dàng bỏ cuộc trong nỗ lực muốn bộc lộ tình yêu thương. Một trong các thành viên của ban giám đốc chúng tôi có một nhóm môn đệ họp mặt nhau thật sớm vào buổi sáng trước khi mọi người đi làm việc. Ngày nọ, có một người trong nhóm đã không đến để học Thánh Kinh. Các thành viên khác quyết định đến nhà anh ta, đánh thức anh ta dậy, và học Thánh Kinh ngay tại đó! Họ không muốn anh ta vắng mặt và họ yêu thương anh ta đủ để làm một việc gì đó nhân cơ hội ấy. Tôi không nghĩ là anh ta sẽ vắng mặt vào một lần họp mặt nào nữa sau đó.
Các Cấp Lãnh Đạo Có Thể “Ở Với”
Những Người Được Họ Lãnh Đạo Không?
Ở ngoài đời, thỉnh thoảng các cấp lãnh đạo sống tách rời với số người làm việc dưới quyền họ. Các cấp lãnh đạo được nhiều đặc quyền và tiện nghi khác, khiến họ sống phân biệt với các công nhân. Tình bạn tri kỷ không được nuôi dưỡng giữa cấp lãnh đạo với các công nhân. Chúng được xem là nguy hiểm. Các cấp lãnh đạo sống tách rời với giới công nhân. Tất cả những điều đó cho thấy người ta đã không thấu triệt tầm quan trọng của tình yêu thương giữa người lãnh đạo với người làm công.
Có một số gánh nặng và trách nhiệm mà chỉ có người lãnh đạo mới có thể đảm đương. Ông ta không thể tiết lộ một số sự việc với các công nhân, tuy rất có thể là ông ta rất muốn làm như thế. Nhưng đứng riêng ra, hoàn toàn xa cách với những người dưới quyền mình, là một sai lầm lớn. Tự cô lập đối với những người cùng làm việc với mình là một nguyên tắc nguy hiểm.
Có một lúc nào đó , người lãnh đạo
phải chứng tỏ với số người làm việc
với mình rằng họ quan trọng
hơn các nhiệm vụ cần phải làm .
Theo Mac Mc 3:14 khi Chúa Giê-xu gọi các môn đệ Ngài, là để “họ ở với Ngài”. Việc kết hợp chặt chẽ giữa người lãnh đạo với những người ở dưới quyền lãnh đạo ấy là tối quan trọng để công tác lãnh đạo thuộc linh đạt thành công. Phải có ý thức hợp nhất, tương giao, tình bạn và trên hết tất cả, là tình yêu thương. Những người ở dưới quyền lãnh đạo thuộc linh phải biết rằng người lãnh đạo yêu thương họ và làm việc cho họ.
Nhưng phải trực diện với vấn đề này, yêu thương một số người nào đó vốn không phải là chuyện dễ dàng! Lẽ dĩ nhiên là Thượng Đế biết rõ vấn đề này trong đời sống chúng ta, và đã cung cấp những nguồn tài nguyên để chúng ta nhờ đó có được tình yêu thương với mọi người, bất chấp họ có “khó thương” đến đâu đi nữa. Yêu thương người ta không có nghĩa là không thành thật hay lừa dối. Lãnh vực của tình yêu thương của Thượng Đế rất thực tế và mở rộng cho tất cả mọi người cùng khảo sát. Nó là việc kết hợp nhiều điều nhỏ nhặt mà chúng ta làm cho người khác.
Khi tình yêu thương của Thượng Đế được kiểm soát, thì bạn chẳng cần chi phải giả mạo nó hay “lập một mặt trận giả”. Bạn có thể rất thật tình, thành thật và “phơi bày tất cả ruột gan” của mình trước mặt người khác. Bạn có thể thoải mái vui vẻ liên hệ với mọi người mà không cần lo chẳng hay người khác nghĩ thế nào về mình.
Với các cấp lãnh đạo thì đây là một vấn đề đặc biệt, vì họ vốn biết rõ những gì người khác nghĩ và nói về mình. Họ luôn luôn đứng trước mặt mọi người, cho họ nhìn thấy và đánh giá. Đời sống họ bị phơi ra trước mọi người nhiều hơn phần đông những người khác. Họ phải làm việc với mọi loại nhân cách, và không được hưởng sự xa hoa của những người không phải là lãnh đạo, những người vốn dễ dàng từ bỏ một mối liên hệ vì họ chẳng có trách nhiệm gì.
Các Vấn Đề Của Cấp Lãnh Đạo
Trong Việc Yêu Thương Người Ta
Trước khi chúng ta có một cái nhìn theo chiều sâu vào tình yêu thương của Thượng Đế, mà các cấp lãnh đạo cần phải hiểu rõ và ứng dụng vào các mối liên hệ của họ với mọi người, chúng ta cần nhận diện các vấn đề phổ biến mà các cấp lãnh đạo thường gặp khi tỏ lòng yêu thương người khác. Các cấp lãnh đạo phải dễ dàng nhận diện được ngay các vấn đề ấy, và tất cả các cấp lãnh đạo có triển vọng đều phải học tập để nhận ra chúng và biết cách phải đối phó với chúng.
Một số cấp lãnh đạo vốn quá bận rộn.
Về bản tính thì một người lãnh đạo hay điều hành vốn hướng về một mục tiêu, nhiều hơn là phần đông người khác. Người lãnh đạo tìm cách hoàn tất mọi công việc hay một công trình nào đó, càng được nhiều bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Thường thường thì điều này khiến cho người lãnh đạo có vẻ và có thể trở thành vô cảm đối với mọi người. Người lãnh đạo thường cảm thấy bị áp lực của vô số trách nhiệm đè nặng trên mình và chỉ đơn giản là chẳng còn thì giờ dành cho những người cùng làm việc với mình nữa. Điều này thường trở thành một vấn đề về các ưu tiên.
Với người lãnh đạo, nhiệm vụ phải thực hiện dường như là quan trọng hơn bất kỳ một nhu cầu hay vấn đề cá nhân nào. Theo một ý nghĩa thì điều này là đúng. Nhưng điều cũng hết sức nguy hiểm khi ta bỏ qua hay chẳng quan tâm gì đến người khác. Chúa Giê-xu dành riêng thì giờ để gặp gỡ nhiều người khác, từng cá nhân cũng như cả đám đông quần chúng. Các cấp lãnh đạo phải thu xếp các ưu tiên của mình, sao cho thì giờ dành cho người khác không bị xem là thì giờ phung phí hay thì giờ không quan trọng.
Rất có thể là ta dành quá nhiều thì giờ cho người khác, do đó, gây trở ngại cho sự thành công của công tác lãnh đạo của chúng ta và cho nhu cầu của nhiều người khác đang bị lệ thuộc vào việc người lãnh đạo chu toàn các trách nhiệm của mình. Nhưng có một lúc nào đó, người lãnh đạo phải chứng tỏ với số người làm việc dưới quyền mình rằng, đối với ông ta, thì họ là quan trọng hơn các nhiệm vụ hay dự án cần phải làm. Nếu không làm được như thế, người lãnh đạo sẽ khám phá ra rằng chính sự lãnh đạo mà ông ta cần để hoàøn thành các nhiệm vụ kia đã bị giảm sút, và sẽ không còn nữa khi ông ta cần đến nó. Tình yêu thương và sự trung thành vốn có liên hệ hết sức chặt chẽ với nhau. Tình yêu thương giữa người lãnh đạo và những người được ông ta lãnh đạo càng được chứng tỏ rõ ràng bao nhiêu, thì các mối dây liên hệ và lòng trung thành sẽ càng vững chắc bấy nhiêu.
Tự đòi hỏi quá nhiều điều
Vấn đề tệ hại nhất mà người lãnh đạo hay gặp là chính ông ta. Người lãnh đạo vốn cầu toàn hơn con người trung bình. Ông ta trông mong cho mọi việc phải được làm đúng và với một tầng lớp nào đó sẽ nói tốt cho tổ chức hay công việc mà ông ta đang làm. Ông ta hấp tấp và lao vào những lãnh vực mà người khác có thể tự lo liệu lấy. Bỏ qua thì khó hơn là rước lấy nhiều việc hơn. Ông ta làm việc rất thành công và thường rất vui vì việc đó.
Vấn đề nảy sinh rất ít khi được người lãnh đạo nhận thấy vào lúc nó xảy ra. Những đòi hỏi và áp lực mà ông ta tự đặt lấy trên cuộc đời mình và thời dụng biểu của mình, khiến hầu như ông ta chẳng còn có thì giờ nào để yêu thương người khác nữa. Ông ta biện minh cho việc đó bằng cách lý luận rằng người khác sẽ tán thành những giờ làm việc lao khổ mà ông ta đã dấn thân vào, và sẽ sẵn sàng thấy rõ các động cơ đã thật sự thúc đẩy ông ta là tốt và có lợi lâu dài cho tất cả những người có liên hệ.
Tuy nhiên con người cần tình yêu thương và cần biết là người lãnh đạo yêu thương họ. Và thành thật mà nói thì việc này đòi hỏi thì giờ! Một nhân sự có thể cần đến tình thương và sự khích lệ của người lãnh đạo nhưng vì người lãnh đạo luôn luôn bị áp lực và đòi hỏi mà chính ông ta tự áp đặt trên mình, cho nên người kia cảm thấy mình có lỗi nếu phải chiếm đoạt số thì giờ rất có giá trị của ông ta.
Người lãnh đạo phải có nhiều thì giờ thư dãn hơn và dành nó cho người khác nữa. Theo một ý nghĩa người ấy phải có kỷ luật hơn trong cách sử dụng thì giờ. Các cấp lãnh đạo phải học tập dành thì giờ để bộc lộ tình yêu thương đối với người khác, cũng như phải chắc chắn là mình đã hoạch định số thì giờ dành cho những công việc khác.
Các cấp lãnh đạo cũng phải học tập để có thì giờ thư dãn nhiều hơn và giải toả bớt các áp lực. Có thể họ sẽ sống thọ hơn! Hãy xét lại thời dụng biểu và các trách nhiệm của bạn. Có những việc gì bạn đang làm, mà nhiều người khác vẫn có thể làm được không? Nếu bị bắt buộc, thì ngay lúc này đây, bạn có thể loại ra những công việc nào? Điều gì tạo cho bạn nhiều áp lực và thất vọng nhất? Điều bạn đang làm và vẫn tiếp tục làm quan trọng đến mức độ nào? Những câu hỏi này và nhiều câu hỏi khác nữa cần phải được người lãnh đạo tiếp tục đặt ra.
Vấn đề mất kiên nhẫn.
Các cấp lãnh đạo thường tỏ ra mất kiên nhẫn với những người cùng làm việc với mình vì nhiều lý do khác nhau. Bất chấp các lý do ấy, nóng vội vốn không thuộc về nếp sống của người lãnh đạo thuộc linh. Nó trái ngược hẳn với một đời sống đầy dẫy Thánh Linh. Những người chung quanh một người lãnh đạo như thế thấy rằng ông (hoặc bà) ta thiếu tình thương và chẳng quan tâm lo lắng cho họ.
Thiếu kiên nhẫn được phản ảnh qua cách nói hoặc nhìn của chúng ta. Có những cực đoan của những người hay nói lớn hơn, nhanh hơn vì họ sốt ruột, hoặc cứ nhìn (hay đập đập) vào chiếc đồng hồ của họ khi có người trò chuyện với mình. Nhiều biểu hiện sốt ruột tế nhị hơn được nhìn thấy khi người lãnh đạo không giao trách nhiệm cho người khác, hay làm một việc gì đó mà đáng lẽ người dưới quyền ông ta phải làm, nhưng lại chưa làm.
Phải cẩn thận đừng tỏ ra quá nhạy cảm .
Trong một số trường hợp , làn da của chúng ta
phải chai như da con hà mã vậy .
Nhiều khi điều có vẻ như sốt ruột đối với một số người, lại là sự khôn ngoan và tài lãnh đạo của một số người khác. Khi có người cứ ngồi lì tại văn phòng của bạn và tiếp tục phung phí thì giờ bằng cách tán gẫu những điều vô nghĩa của một kẻ ăn không ngồi rồi, biểu lộ một nếp sống lười biếng và vô kỷ luật, thì không phải là bạn tỏ thái độ mất kiên nhẫn khi cắt đứt những thói xấu ấy đi, và bắt buộc người đó phải trở lại với công việc. Đó là một phần của tài lãnh đạo đấy! Các cấp lãnh đạo thỉnh thoảng cần có sự khôn ngoan để biết phân biệt sự mất kiên nhẫn của chính họ, với tài năng và kỷ luật lãnh đạo.
Mất kiên nhẫn thường nảy sinh do tốc độ mà những người khác làm công việc của họ. Điều quan trọng là các cấp lãnh đạo không nên đòi hỏi người ta nhiều hơn là các khả năng của họ. Nhiều khi một người lãnh đạo trông mong người dưới quyền mình phải làm việc theo một tốc độ hay trình độ mà chỉ chính người lãnh đạo ấy mới có thể làm nổi. Lẽ dĩ nhiên điều này phản ảnh việc thiếu tình yêu thương của người lãnh đạo.
Lắm khi đó có thể là một vấn đề về kỷ luật: Có người vốn lười biếng, trì hoãn. Nếu là một người lãnh đạo có tình yêu thương, ông ta sẽ chú trọng vào các khả năng và tài năng của những người dưới quyền mình, và tìm cách thách thức mà không ép buộc người kia. Người lãnh đạo sẽ dành đủ thì giờ cho người kia hoàn thành nhiệm vụ được giao mà không tạo áp lực như áp lực ông ta tự áp đặt cho mình, nhưng những người khác thì không thể chịu đựng nổi. Một người lãnh đạo có tình thương sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để bảo vệ cho những người dưới quyền mình khỏi thất bại. Ông ta sẽ tỏ ra kiên nhẫn với họ, và vui vẻ khi theo dõi và thấy họ tăng trưởng và thắng vượt được điều có lẽ vốn là một nhược điểm trong quá khứ.
Bất an về địa vị của mình.
Nhiều cấp lãnh đạo cảm thấy bị đe dọa. Nhiều khi họ bị những người xuất sắc đầy hứa hẹn trong tổ chức, có vẻ có nhiều tài năng và khả năng mà người lãnh đạo đó không có, đe doạ. Có khi sự bất an của họ là do sự thiếu tán thưởng và chấp nhận. Nếu người ta thỉnh thoảng không đáp ứng tích cực với người lãnh đạo ấy, ông ta sẽ có khuynh hướng nghi ngờ và đặt vấn đề về sự thành công của mình, mà hậu quả là cảm thấy mình bị đe doạ.
Các cấp lãnh đạo đang gặp nhiều vấn đề về bất an trong công việc làm. Đây là một vấn đề đặc biệt của quý vị mục sư lãnh đạo. Trong lịch sử của nó, một Hội thánh trung bình không thể giữ được một vị mục sư suốt nhiều nhiệm kỳ. Quý vị mục sư cứ thuyên chuyển luôn, và thường thay đổi nhiệm sở để có thể lại bắt đầu một cách mới mẻ, hay trốn chạy khỏi một vấn đề trước đó. Thiếu thành công trong một Hội thánh có thể cũng ngăn trở sự thành công của vị ấy trong một Hội thánh khác.
Cho dù các nguyên nhân ẩn phía sau sự bất an mà một cấp lãnh đạo có thể cảm thấy là gì, hậu quả của nó thường là sự thiếu tình yêu thương đối với người khác. Những người cảm thấy bất an vì nhân cách, khả năng hay chức việc của mình thường có khuynh hướng muốn che giấu nó đối với công chúng và nấp mình phía sau các công trình, thành tích của quá khứ. Liên hệ thân thiết với một người khác trong tổ chức có thể như là một điều nguy hiểm. Người lãnh đạo có thể sợ điều mà người kia có thể làm vào một ngày nào đó liên hệ với điều mà mình từng tiết lộ với người ấy với tư cách bạn thân. Lẽ dĩ nhiên là tình yêu thương của Thượng Đế thì khác hơn nhiều! Nhưng các cấp lãnh đạo vốn ý thức được rằng các định chuẩn về tình thương và các nhược điểm của con người có thể cũng thường xen vào đường lối yêu thương của Thượng Đế. Các hậu quả có thể là đầy đe doạ đối với người lãnh đạo.
Một trong những triệu chứng rõ ràng nhất của một người lãnh đạo bất an là thái độ hay chê bai người khác, nhất là những người đại diện cho quyền lãnh đạo thuộc linh. Một tinh thần phê bình chỉ trích nảy sinh từ một người lãnh đạo như thế, và những nhận xét có tính cách xúc phạm làm giảm uy tín người khác vốn phổ biến. Người lãnh đạo ấy cố tìm cách phê bình chỉ trích để củng cố địa vị và uy quyền của chính mình trước mắt nhiều người khác. Điều này thường có tác dụng ngược!
Quá nhạy cảm về những gì người khác nghĩ.
Thật là dễ bỏ qua một đáp ứng bằng tình yêu thương đối với một người dựa trên những điều mà những người khác có thể nghĩ. Một số quý vị mục sư cảm thấy tỏ một lời khích lệ với một tín đồ chứ không phải là với toàn thể tín đồ, là một sai lầm. Nó có thể đưa những người khác đến chỗ nghĩ rằng ông mục sư không thật sự quan tâm đến họ, hoặc có thiện cảm với một tín đồ nào đó hơn là với những người khác.
Tuy nhiên, vấn đề thật sự không phải là những gì người khác nghĩ, mà là Thượng Đế muốn chúng ta làm gì? Có thật là cần phải có một lời khích lệ không? Có một ý thức tập thể nơi bạn chỉ bày tỏ tình yêu thương trong các buổi họp công cộng và bỏ qua những thì giờ riêng tư khi bạn phải chứng tỏ ý thức cá nhân, là một sai lầm lớn. Hậu quả của một hành động như thế là vị mục sư có vẻ đạo đức giả - chỉ yêu thương nơi công cộng mà chẳng thương yêu trong chỗ riêng tư! Các tín đồ phải biết rằng một vị mục sư vốn đầy lòng yêu thương dịu dàng khi ông ta không đứng trên toà giảng cũng như lúc ông ta đang truyền giảng. Mối liên hệ của vị mục sư với các cá nhân trong cả tuần lễ, là điều giúp ích cho chức vụ trên toà giảng của ông ta vào Chúa nhật.
Các cấp lãnh đạo thuộc linh phải thận trọng trong việc đánh giá các hành động của mình căn cứ vào những gì người khác nghĩ hoặc nói. Đấng mà chúng ta có trách nhiệm phải khai trình là chính Thượng Đế. Khi chúng ta đã hoà thuận với Ngài, thì điều người khác nghĩ chẳng có nghĩa là gì cả! Khoảnh khắc chia xẻ tình yêu thương của Chúa Cứu Thế với một người khác sẽ trở thành sức mạnh cho chức vụ của chúng ta. Sẽ luôn luôn có người phê bình chỉ trích bạn! Phải cẩn thận đừng tỏ ra quá nhạy cảm. Trong một số trường hợp, làn da của chúng ta phải chai như da con hà mã vậy.
Nỗi sợ các mối liên hệ thiết thân.
Một số các cấp lãnh đạo tin rằng các mối liên hệ thân thiết và chức vụ lãnh đạo là hai điều kỵ nhau. Thật là bất hạnh. Nó sẽ dẫn tới một chức vụ lãnh đạo chẳng có tình yêu thương mà suy cho cùng, thì đó không phải là chức vụ lãnh đạo thuộc linh.
Các cấp lãnh đạo thường tự xây chung quanh mình một số vách tường bảo vệ, không cho phép nhiều cá nhân khác đến gần mình. Họ sợ rằng các mối liên hệ thân thiết với người khác sẽ phơi bày ra cho mọi người thấy con người thật của họ. Các lỗi lầm và nhược điểm của họ sẽ trở thành rõ rệt cho người khác, và một số người lãnh đạo cảm thấy khi việc này xảy ra, họ sẽ bị mất một số uy tín hay sự kính nể nào đó đối với tha nhân. Bạn chẳng bao giờ biết được người kia có thể làm gì với những gì anh ta biết.
Cũng có một khuynh hướng tin rằng người ta sẽ không còn thích bạn nhiều nữa, một khi họ biết rõ các lỗi lầm của bạn. Nhưng ChCn 17:17 nhắc nhở chúng ta rằng: “Tình thân hữu keo sơn mãi mãi. Nghĩa anh em quý lúc khổ nguy”. Câu 9 cùng chương ấy chép: “Che đậy lỗi lầm được người yêu mến. Nhắc lại sơ hở làm tình bằng hữu tiêu tan”. Tất cả những người lãnh đạo đều cần đến tình bạn thân thiết ấy, tức là cần một ai đó biết mình là người như thế nào mà vẫn yêu thương và che chở cho mình.
Bạn thân cũng là người quở trách người lãnh đạo. 27:6 chép: “Bạn gây thương tích hơn là địch thù hôn hít”. Một bạn tri kỷ sẽ giúp người lãnh đạo có được một viễn ảnh đúng về tình hình và thấu hiểu được rõ ràng hơn chính các động cơ thúc đẩy mình. 27:17 đề cập vấn đề này khi câu ấy chép: “Sắt mài sắt, bạn rèn bạn”.
Phần đông người ta chẳng bao gìơ có nhiều bạn tri kỷ. Họ có thể có nhiều chỗ quen biết và bạn bè xã giao, nhưng số bạn thân thiết hay tri kỷ thường rất ít. Loại tình bạn này được phát triển qua một thời gian lâu dài, và được thử thách trong nhiều hoàn cảnh, tình hình khác nhau. Thật là nguy hiểm khi chúng ta chia xẻ quá nhiều điều cho những người không phải là bạn tri kỷ. Cần phải có thời gian để xây dựng một tình bạn như thế, và để có lòng tin cậy và tình yêu thương lẫn nhau để che chở và bảo vệ nhau.
Chính trong lãnh vực của tình bạn tri kỷ mà một người lãnh đạo học biết được tình yêu thương. Khi một người lãnh đạo tự cô lập hoá khỏi tha nhân đến độ chẳng có bạn tri kỷ nào cả, thì sự tăng trưởng của vị ấy trong tình yêu thương bị suy giảm rất nhiều.
Học Tập Yêu Thương Người Khác
Học tập yêu thương người khác rất thiết yếu cho chức vụ lãnh đạo thuộc linh. Để thắng vượt một số các vấn đề về lãnh đạo vừa được đề cập, vài nguyên tắc cơ bản dưới đây sẽ rất cần thiết.
Thủy Chung như nhất.
Hãy học tập bày tỏ lòng yêu thương đối với mọi người bất cứ lúc nào. Người ta phải trông chờ được vào người lãnh đạo khi gặp khó khăn thử thách. Tình yêu thương của người ấy luôn luôn hiện diện.
Một bạn thân của tôi đang tình cách đốn một cây to trong sân trước nhà anh ta, Một trận bão lớn đang diễn ra, và nhổ bật gốc nhiều cây. Anh ta đang cần người giúp. Anh ta gọi tôi, cho tôi biết ý định của mình, và nhấn mạnh tính cách cấp bách của công việc ấy. Tôi lập tức chạy sang nhà anh và giúp anh. Thật là một việc hay, cây kia suýt chút nữa đã đè bẹp ngôi nhà của anh ta! Chúng tôi bị ướt cả, và anh quay sang tôi, bảo: “Cám ơn bạn!” Chỉ cần như thế là đã đủ lắm rồi!
Nhu cầu.
Nếu các cấp lãnh đạo tỏ tình yêu thương, thì điều không thể tránh được là họ sẽ bị các nhu cầu của tha nhân thu hút. Họ sẽ sẵn sàng giúp đỡ. IGi1Ga 3:17 chép: “Nếu một tín hữu có của cải sung túc, thấy anh em mình thiếu thốn mà không chịu giúp đỡ, làm sao có thể gọi là người có tình thương của Thượng Đế?”
Một trong các thành viên trong ban giám đốc của chúng tôi vốn là một khích lệ lớn cho tôi. Bất cứ khi nào tôi thấy cần, thì ông ta đều có mặt. Tôi biết ông ta rất yêu mến tôi. Tôi cần một chiếc ô tô chăng? Thế là ông ta đưa chiếc xe của ông ta cho tôi lái đi bao lâu tuỳ ý, chẳng cần đắn đo chi cả Ông ta đáp ứng các nhu cầu của tôi.
Tin cậy.
Một người lãnh đạo có thể tự huỷ sự thành công của mình nếu không thể được người khác tin cậy. Thanh danh của một bạn đồng công khác có thể được bạn bảo vệ an toàn khi người ấy vắng mặt hay không? Rất nhiều tình bạn có thể bị phá huỷ bằng những chuyện ngồi lê đôi mách, hơn bất kỳ một việc gì khác. ChCn 11:13 chép: “Đứa mách lẻo rêu rao điều kín giấu. Người tín trung bảo mật chuyện riêng tư”.
Các cấp lãnh đạo chẳng bao giờ nên phản lại điều bí mật mà người khác tin cậy phó thác cho mình. Những gì người ta tâm sự riêng với bạn phải vẫn được giữ nguyên như thế - đó là những chuyện riêng tư!
Trong một lần họp ban giám đốc, chúng tôi có thảo luận về một người, rằng chẳng hay ông ta có thể trở thành một người lãnh đạo giỏi trong một lãnh vực nào đó của sự phục vụï hay không. Chỉ có một điểm duy nhất chống lại ông ta, là ông ta không thể tin cậy được. Ông ta có vấn đề về ngồi lê mách lẻo. Ông ta không thể giữ kín điều người khác tin cậy uỷ thác cho mình. Chúng tôi biểu quyết không giao nhiệm vụ lãnh đạo cho ông ta lần ấy.
Tự chủ.
Vì thật là khó yêu thương một số người, thỉnh thoảng chúng ta bị mất tự chủ. Những người lãnh đạo không tự kìm chế được hay dễ bị các sự việc làm nổi giận, tự chứng tỏ là mình thiếu tình thương đối với người chung quanh. Tự chủ là một trái của Đức Thánh Linh (xem GaGl 5:22, 23) và nó phải có trong đời sống người lãnh đạo thuộc linh. Nét tương phản giữa một người chỉ có rất ít ngoại trừ tình yêu thương, với người có rất nhiều nhưng thiếu tình yêu thương đã được minh hoạ rõ ràng trong ChCn 15:16-18. Theo khúc sách này, thì ở đâu không có tình yêu thương, thì ở đó có giận dữ và tranh cạnh.
Những người làm việc với những cấp lãnh đạo thiếu tự chủ sẽ đi đến chỗ tin rằng các vị ấy không yêu thương mình. Đúng hơn thì đây là một kết luận thật rõ ràng.
Thành thật.
Đây là đức tính trái ngược với đạo đức giả - một từ ngữ ngày xưa vốn được dùng chỉ một diễn viên thủ một vai khác chỉ bằng cách đơn giản là đeo một chiếc mặt nạ vào. Từ ngữ Anh văn hypocrite: giả hình vốn do ý niệm đeo mặt nạ mà ra. Người thành thật không chịu thủ vai một người khác. Người ấy không chịu giả hình. Tình yêu thương phải thành thật và xuất phát tự đáy lòng. Bạn không thể giả mạo nó!
Nhiều vấn đề về lãnh đạo có thể được giải quyết nếu các cấp lãnh đạo thành thật và thật lòng yêu thương. Lừa dối và không thành thật phá huỷ chức vụ lãnh đạo thuộc linh. Chúng ăn mòn lòng tin cậy của mọi người đối với bạn, khiến họ thắc mắc đặt vấn đề đối với mức độ của sự hiến thân và tình yêu thương của bạn.
Tha thứ.
Eph Ep 4:32 dạy chúng ta phải có lòng nhân từ yêu mến nhau, tha thứ nhau. IPhi 1Pr 4:8 dạy tình yêu thương tha thiết khoả lấp nhiều tội lỗi. Nếu không biết tha thứ, các cấp lãnh đạo sẽ không thể bộc lộ tình yêu thương. Con người đáp lại những người sẵn sàng tha thứ, tìm cách phục hồi và tái lập các mối liên hệ thay vì xé nát chúng đi.
Nếu các cấp lãnh đạo không thể tha thứ cho người khác vì những gì họ đã nói hoặc làm, những người xung quanh họ sẽ cảm thấy tinh thần cay đắng, không chịu tha thứ đó, và sẽ xa lánh, không chịu gần gũi và ủng hộ cho người lãnh đạo ấy.
Một bà nọ cho tôi biết lý do tại sao bà ta không ủng hộ một thành viên nào đó trong ban giám đốc. Bà nhận thấy ông ta thiếu tha thứ đối với một bà khác, và không muốn mình gặp phải một việc giống như thế. Bà ta xa lánh lãnh vực phục vụ của nhân viên trong ban giám đốc ấy là vì lý do đó. Tôi khuyên bà ta nên tha thứ, cùng đến với nhân viên trong ban giám đốc kia để chia xẻ tầm quan trọng của việc ông ta nên tha thứ cho bà kia. Ông ta đã đáp ứng thuận lợi, và bây giờ cả hai bà nọ đều tham gia trong lãnh vực phục vụ của ông.
Cũng như tất cả mọi người khác, các cấp lãnh đạo cũng gặp những vấn đề về yêu thương con người. Trong các mối liên hệ giữa người và người với nhau, thật là dễ quên giá trị của tình yêu thương. Nha Dc 8:6, 7 cho chúng ta biết rằng tình yêu mạnh như sự chết, nhiều nước cũng không dập tắt được nó, nhiều sông cũng chẳng nhận chìm nó được. Mọi tài năng, mọi khả năng trên đời đều không thể thay thế được tình yêu. Các cấp lãnh đạo phải chú trọng vào những gì Thượng Đế đã làm. Chỉ một mình tình yêu thương mới ngăn chận nổi mọi áp lực của cuộc đời và chịu đựng nổi mọi vấn đề của người ta.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Bạn có thấy thật là khó yêu thương một số người trong công tác hay lãnh vực phục vụ của mình không? Họ là ai? Bạn đối xử với họ như thế nào?
2. Bạn có cảm thấy mình quá “bận rộn” để có thể bộc lộ tình yêu thương với những người chung quanh không?
3. Nếu bạn có quá nhiều những điều đòi hỏi nơi mình, có những việc nào bạn đang làm có thể giao cho người khác để làm giảm thiểu gánh nặng của bạn không? Hãy liệt kê một vài việc.
4. Bạn có nhịn nhục, kiên nhẫn với các bạn đồng công và những người khác nữa đang cộng tác với mình không? Bạn có biết những gì khiến bạn mất kiên nhẫn không?
5. Bạn có thể nêu tên vài triệu chứng do bất an trong chính đời sống mình không?
6. Có bao giờ bạn tỏ ra quá nhạy cảm đối với những gì một người nào đó nói hay không? Bạn thắng vượt nó như thế nào?
7. Bạn có dành thì giờ xây dựng các mối liên hệ bạn bè thân thiết với người khác không? Như thế nào?
8. Trong sáu nguyên tắc cơ bản nhằm học tập yêu thương người khác, bạn cần áp dụng những nguyên tắc nào vào cuộc đời mình?

LÀM THẾ NÀO ĐỂ YÊU THƯƠNG NGƯỜI KHÁC BẰNG TÌNH YÊU THƯƠNG CỦA THƯỢNG ĐẾ
Lời đáp thật sự cho nhu cầu yêu thương người khác của một cấp lãnh đạo, là bản thân người ấy phải biết rõ và từng trải được tình yêu thương của Thượng Đế. IGi1Ga 4:8 chép: “Thượng Đế chính là Tình yêu”. Tình yêu thương vốn từ Ngài mà đến. Tình yêu thương của Ngài rất đặc biệt và siêu vượt trên mọi loại tình yêu thương khác. Nó khác với sự đa cảm và dễ xúc động. Tình yêu thương của Thượng Đế vẫn còn đó khi tất cả các loại tình yêu thương khác đều bị cạn kiệt, không còn tồn tại nữa. Nó vẫn ở lại với người ta trong cơn khủng hoảng, gặp hoạn nạn. Nó tồn tại mãi mãi và thoả mãn sâu xa.
Người Hi-lạp cổ thời đã biết có nhiều loại tình yêu thương khác nhau. Họ dùng ít nhất là bốn từ ngữ khác nhau để mô tả tình yêu thương. Một chữ diễn tả sự thương yêu trìu mến thuộc thể (eros). Theo nghĩa xấu nó ám chỉ tình dục vô luân. Chúng ta đều biết rằng “làm tình” không phải bao giờ cũng do tình yêu thương của Thượng Đế thôi thúc.
Một từ ngữ khác được người Hi-lạp (Storge) dùng để nói về tình yêu thương gia đình, giữa cha mẹ và con cái. Nó cũng được sử dụng để đề cập tình thương giữa các loài động vật. Họ còn có một chữ khác (phile) để diễn tả tình bạn chí thân. Chúa Giê-xu gọi các môn đệ Ngài là “bạn hữu” trong GiGa 15:14, 15, và chữ dùng ở đây là philoi.
Từ ngữ quan trọng nhất đối với các tín hữu là agape, tình yêu thiên thượng. Khi Thánh Kinh đề cập tình yêu của Thượng Đế mà tất cả chúng ta đều cần để yêu mến lẫn nhau thì phần lớn bộ sách ấy đều dùng từ ngữ agape. Chính đó là tình yêu đã đưa Chúa Cứu Thế Giê-xu lên thập tự giá để chịu chết vì tội lỗi chúng ta. Agape ám chỉ các hành động bất vị kỷ. Đó là tình yêu cống hiến, ban tặng. Nó quan tâm đến sự an vui phúc lợi của người khác mà chẳng nghĩ gì đến lợi lộc cá nhân, riêng tư. Từ hi sinh là ý niệm căn bản của từ ngữ agape. Đó là tình yêu không đòi hỏi điều kiện trước khi nó được thực hiện. Đó là sự tha thứ. Nó xây dựng lên chứ không phải là xé cho rách, phá cho sập. Nó luôn luôn khích lệ và tìm cầu điều tốt nhất cho đối tượng của mình.
Thảm Kịch Của Quyền Lãnh Đạo Không Có
Tình Yêu Thương Của Thượng Đế
ICo1Cr 13:1-3 trình bày năm lãnh vực trong đó tình yêu của Thượng Đế là thiết yếu, hay các kết quả không kiến hiệu trong đời sống người khác. Căn nguyên tại sao các cấp lãnh đạo không thôi thúc giục giã được người khác có thể được tìm thấy trong mấy câu này.
Lời nói thiếu sót!
Phao-lô nói “Dù tôi nói được các ngôn ngữ của loài người và thiên sứ, nhưng không có tình yêu thì tôi cũng chỉ khua chiêng, gióng trống ồn ào”. Các cấp lãnh đạo phải nói. Hy vọng những người khác nghe mình. Nếu họ không chịu nghe, vấn đề có thể do “lời nói thiếu sót” đã được đề cập ở đây: thiếu tình yêu thương. Rất có thể là khẩu tài vẫn có đấy, nhưng có lẽ là hãy còn thiếu tình yêu của Thượng Đế.
Ngày nọ, tôi ngồi lại trong một văn phòng bài trí sang trọng để trò chuyện với một lãnh tụ về một lãnh vực bất đồng đặc biệt. Tôi vô cùng kinh ngạc trước tài hùng biện và tinh thông ngôn ngữ của ông ta. Nhưng càng nói lâu bao nhiêu, ông ta càng khiến tôi khó chịu bấy nhiêu. Tôi cảm giác ông ta chẳng hề quan tâm tới quan điểm của tôi hoặc chính con người tôi. Cảm thúc ấy khiến tôi bị chạm tự ái, và tự cảm thấy mình không thể đáp lại những gì ông ta nói. Tôi nghĩ vấn đề này rất thường xảy ra khi chúng ta trò chuyện với người khác. Lắm khi hoàn toàn chỉ vì lý do ấy mà thôi - chỉ nói mà thôi! Chẳng có tình thương. Và thường thường thì nó xúc phạm người khác.
Chỉ có tri thức mà thôi, là “kiêu căng”.
ICo1Cr 13:2 mô tả các vấn đề về quán thông mọi tri thức, nhưng không có tình yêu thương. Các cấp lãnh đạo phải là những người hiểu biết. Kẻ dốt nát thì chẳng lãnh đạo ai được. Nhưng điều quan trọng là tri thức phải có tình yêu thương đi kèm - và đây là một thế quân bình rất khó đạt.
8:1 dạy chúng ta “Kiến thức dễ sinh kiêu căng, còn lòng yêu thương xây dựng cho nhau” Nó chẳng hơn gì sự dốt nát - nó không phải là vấn đề! Vấn đề là chúng ta cần có tình yêu thương cộng với kiến thức để biến tri thức trở thành kiến hiệu trong đời sống người khác.
Một thành viên trong ban giám đốc cho tôi biết trước đây ít lâu về một thượng cấp của cô ta rằng: “Ông ấy biết rõ những gì mình nói; chỉ có điều là ông ta chẳng coi ai ra gì cả!” Một vấn đề phổ biến. Muốn giúp ích được cho người khác, thì kiến thức thiết yếu phải có tình yêu thương đi kèm.
Đưc tin mà không có tình yêu thương thì chẳng là gì cả.
Các cấp lãnh đạo không thể điều hành công việc mà không có đức tin. Nhưng nếu thiếu tình yêu thương thì chúng chẳng là gì cả (xem ICo1Cr 13:2). Có đức tin dời núi thì quả là một ân tứ phi thường! Đức tin lớn đó tạo phấn khởi cho mọi người chung quanh.
Các cấp lãnh đạo có đức tin tin rằng Thượng Đế có thể làm những việc mà phần đông chúng ta chưa hề được nhìn thấy hoặc kinh nghiệm. Những trái núi lớn, thoạt nhìn dường như là các chướng ngại vật khó vượt qua đối với công việc Chúa vẫn phải sụp đổ trước đức tin của một số các nhà lãnh đạo! Nhưng nếu không có tình yêu thương, thì các kết quả sẽ vô cùng nhỏ bé trong việc tạo ảnh hưởng trên người khác.
Một vị mục sư mà tôi quen biết, thách thức các tín đồ của ông phải có đức tin lớn. Ông tin rằng Thượng Đế có thể làm được những việc dường như không thể làm nổi nhân một hoàn cảnh đặc biệt nào đó. Chỉ
Có một số người rất khó cộng tác
(trong trường hợp bạn thiếu chú ý ). Nhiều khi chúng ta phải lấy tình yêu thương mà "chịu đựng " họ . Dù sao thì Thượng Đế cũng đã "chịu đựng " chúng ta .
có điều rắc rối là ông quá xa cách các tín hữu. Vì quá nhiệt thành, mà ông đã đánh mất họ. Trong nỗ lực muốn thấy Thượng Đế làm những việc vĩ đại, ông đã chạy qua mặt họ. Các tín đồ không chịu cộng tác với ông, cho nên nỗ lực của ông ta là một thất bại nặng nề!
Có gì trục trặc, bất ổn thế? Các tín đồ cảm thấy ông không yêu thương họ. Họ cảm thấy ông ta chỉ muốn lợi dụng họ để xây lên một công trình vĩ đại cho đức tin của ông ta! Trong công tác lãnh đạo, đức tin mà không có tình yêu thương là một thảm hoạ.
Dâng hiến mà không có tình thương thì chẳng ích lợi gì.
Các cấp lãnh đạo phải có tấm lòng sẵn sàng dâng hiến. Họ phải chia xẻ với tín đồ lúc gặp thiếu thốn. Nhưng 13:2 nhắc nhở chúng ta rằng cả khi chúng ta dâng hiến cả tài sản “nhưng không do tình yêu thương... cũng vô ích”. Câu này thật là rõ ràng. Chắc chắn là đang có người nghèo thiếu. Có lẽ mọi người đều ý thức là cần phải có việc “bố thí”. Nhưng nếu không do tình yêu thương, thì chỉ vô ích mà thôi. Hành động không hoàn tất được ý định. Bố thí mà không có tình thương, thì không đạt được ý hướng của nó. Tất cả của dâng trên đời này cũng không giúp ích gì được cho người ta khi không có tình yêu thương.
Tử đạo mà không có tình yêu thương cũng vô ích.
Cả khi bạn xả thân để chịu hoả thiêu - thậm chí bạn dám tử vì đạo, thì theo 13:3 việc ấy cũng chỉ phí công vô ích mà thôi. Tử đạo để chỉ tử vì đạo mà thôi, thì không phải là yêu thương. Có rất nhiều trường hợp, chúng ta chỉ chơi trò “tử đạo”. Điều này không bảo đảm được là chúng ta yêu thương người ta. Nó có thể chỉ là một dạng thức của sự ích kỷ. Trong một hoàn cảnh cá biệt nào đó, người ta có thể tử vì đạo để được chú ý, tán thưởng hay ghi công về điều mình làm. Họ cần được mọi người lưu ý.
Tất cả các lãnh vực trên đây (ăn, nói, kiến thức, đức tin, bố thí và tử đạo) đều quan trọng; nhưng nếu không có tình yêu thương, chúng sẽ chẳng có kết quả gì trong đời sống người khác. Tình yêu thương phong phú hoá những điều đó đến độ xây dựng được cho người khác. Các động cơ thúc đẩy ích kỷ, được chuyển hướng để trở thành mối quan tâm đến tha nhân, khi tình yêu thương cầm quyền kiểm soát các lãnh vực ấy. Khi tình yêu của Thượng Đế tác động, thì các thảm hoạ của công tác lãnh đạo có thể được chuyển thành chiến thắng khải hoàn.
Quan Tâm Đến Người Khác Có Nghĩa Gì?
Các cấp lãnh đạo phải tỏ ra quan tâm đến người khác. Bạn không thể ép buộc người ta làm việc ấy; nó phải xuất phát tự đáy lòng. Nhưng làm thế nào để bạn chứng tỏ được một mối quan tâm như thế? 13:4 nêu rõ hai đức tính của tình yêu thương của Thượng Đế phản ảnh mối quan tâm đến người khác chứ không phải đến chính bạn.
Quan tâm hàm ý kiên nhẫn.
“Tình yêu hay nhẫn nại” quả là một câu phát biểu hết sức đơn giản! Khi các cấp lãnh đạo tỏ ra kiên nhẫn với người khác, người ta sẽ biết các vị ấy thật có quan tâm đến họ. Từ ngữ Hi-văn chỉ “nhẫn nại” ám chỉ việc phải dành nhiều thì giờ để nấu cho sôi. Nó luôn luôn được dùng để chỉ người, chứ không phải chỉ các đồ vật. Thượng Đế chẳng bao giờ dạy chúng ta phải nhẫn nại đối với các đồ vật. Ngài không cần loại nhẫn nại ấy. Ngài đang cai trị kiểm soát mọi sự! Tuy nhiên, Ngài đã tỏ ra nhẫn nại đối với con người.
Ê-phê-sô 4:2; nhắc nhở chúng ta rằng nhẫn nại đối với người ta bao gồm việc tỏ ra nhường nhịn (nghĩa đen, chịu đựng) lẫn nhau vì tình yêu thương. Có một số người rất khó cộng tác (trong trường hợp bạn thiếu chú ý) và khó nhất trí, thông cảm. Nhiều khi chúng ta phải lấy tình yêu thương mà “chịu đựng” họ. Dù sao thì Thượng Đế đã “chịu đựng” chúng ta - thật đáng ca tụng Ngài!
Tôi rất khó kiên nhẫn được với một nhân viên làm việc trong văn phòng ban giám đốc của chúng tôi. Tốc độ của anh ta với tốc độ của tôi là hai tốc độ khác hẳn nhau! Tôi muốn anh ta phải hoàn tất một công tác theo lịch trình của tôi. Tôi có quyền trông mong điều đó nơi anh ta - vì tôi là chủ của anh ta kia mà! Nhưng anh ta đã không hoàn thành đúng giờ. Anh ta xin triển hạn thêm. Tôi mất kiên nhẫn đến độ phát bệnh. Tình yêu thương của Thượng Đế ở đâu? Không có! Thay vì giúp đỡ anh ta, tôi lại chê trách và thiếu kiên nhẫn. Lạy Chúa, xin tha tội cho con!
Tình hình đó chứng tỏ tôi thiếu tình yêu thương. Tôi cầu xin Chúa tha tội cho mình, và thử một phương cách khác. Cách đó chứng tỏ lòng nhẫn nại. Nhân viên làm việc trong văn phòng ban giám đốc đó cám ơn tôi vì đã yêu thương anh ta. Tôi có học tập được bài học này không?
Tài thúc giục và thách thức người ta của các cấp lãnh đạo sẽ suy giảm rất nhiều nếu một người lãnh đạo tỏ ra thiếu kiên nhẫn. Tình yêu thương của Thượng Đế là nhẫn nại “chịu đựng” người khác.
Quan tâm là nhân từ.
Tôi thích âm thanh của tiếng “nhân từ” này. Từ ngữ Hi-văn trong 13:4 vốn được dùng chỉ rượu được giữ lâu năm cho dịu đi. Chúa Cứu Thế đã dùng từ ngữ này khi Ngài phán: “Ách ta êm dịu” (Mat Mt 11:30). Thuận phục Ngài không phải là một gánh nặng. Con bò nhiều kinh nghiệm kéo chiếc cày. Con bò chưa kinh nghiệm (người tín hữu) được dạy kéo cày bằng cách buộc lỏng vào chiếc ách, và chỉ học tập kinh nghiệm của con bò đã từng trải (Chúa Cứu Thế) bên cạnh nó mà thôi.
Tình yêu thương cũng giống như thế. Đó là tỏ ra dễ dãi, chứ không phải là khó khăn, thô bạo, với người khác. Đó là đi bên cạnh người khác để giúp đỡ người ấy học tập và tăng trưởng. GaGl 5:22 liệt nó vào số “trái của Thánh Linh”. Eph Ep 4:32 khi dùng nó với ý niệm là tha thứ lẫn cho nhau.
Nghĩa gốc trong từ ngữ Hi-văn là tính cách hữu dụng, hữu ích. Nó phản nghĩa với thô bạo, cay đắng. Các cấp lãnh đạo thấu triệt lòng nhân từ chẳng bao giờ chất trên người khác một gánh nặng đến mức khiến người ấy phải ngã quỵ. Họ rất dễ cho người ta đi cùng, và thái độ của họ là yêu thương. Họ tìm cách giúp đỡ, chứ không phải là gây tổn thương.
Các Thái Độ Không Thuộc Về Đời Sống Người Lãnh Đạo
Nếu tình yêu thương của Thượng Đế đang vận hành trong đời sống người lãnh đạo, người ấy sẽ không biểu hiện một số thái độ. Đó là luận điểm của ICo1Cr 13:4-6, tám điểm tích cực đã được liệt kê. Sau đây là tám điều mà tình yêu thương sẽ không làm.
Tình yêu chẳng ghen tị.
Từ ngữ thường được dùng theo nghĩa tốt và được dịch ra là nhiệt thành. Nhiệt thành trong các lãnh vực tốt là đều quan trọng và sinh lợi. Nhưng nhiệt thành có thể dẫn đến ghen tị. Ước ao cũng có được một điều gì đó mà người khác có, là ghen tị.
Nhiều khi các cấp lãnh đạo phạm vào tội tự so sánh mình với các cấp lãnh đạo khác. Họ bắt đầu muốn điều mà một người khác có. Khi nó đã trở thành một thói quen thường xuyên và bắt đầu cai trị kiểm soát bạn, thì bạn càng trở thành kẻ ghen tị cuồng nhiệt hơn. Tình yêu thương của Thượng Đế không còn vận hành trong lòng bạn nữa.
Bạn đối xử thế nào với các thành công của người khác khi chúng được trình bày với bạn? Hãy học tập vui mừng! Thượng Đế đỏi hỏi bạn phải chịu trách nhiệm về điều bạn làm và những gì bạn có thể làm, chứ không phải về những gì một người khác đã làm. Hãy tạ ơn Chúa về các phước hạnh Ngài ban cho người khác và về công việc của họ. Đừng bắt đầu tham muốn nó. Dù sao thì kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng chúng có thể tạo ra nhiều vấn đề mà bạn không cần, cũng chẳng muốn có.
Tình yêu chẳng khoe mình.
Thánh Clement người Alexandria, một lãnh tụ xưa kia của Hội thánh, bảo rằng khoe mình là tự tô điểm mình bằng việc nhấn mạnh trên những điều phụ thuộc và vô ích! Tình yêu thương của Thượng Đế vẫn có điều để khoe, nhưng không phải là phô trương vô ích hoặc chỉ chú trọng vào “cái ta”.
Tình yêu của Thượng Đế không khoe khoang về các thành tích mà ân phúc Thượng Đế giúp ta làm được, trừ phi việc khoe khoang đó quy vinh và làm rạng danh chính Thượng Đế. Thật dễ khoe khoang về những điều không thật sự đáng kể liên quan đến các mối liên hệ nhân sinh hay các giá trị vĩnh cửu. Tình yêu của Thượng Đế thì khác hẳn, và con người lưu ý!
Vị mục sư tiền nhiệm trong lãnh vực phục vụ trước đây của tôi (cũng là người cha thuộc linh của tôi) chỉ cho tôi các ngôi nhà mới mà Hội thánh chúng tôi đang xây cất. Lúc ấy tôi đang suy nghĩ đến việc sẽ trở thành mục sư của Hội thánh, nhưng cũng cảm thấy hơi phân vân về những trách nhiệm đáng sợ và số nợ mà Hội thánh đang gánh chịu. Tôi chẳng biết nói gì nên bảo ông: “Đây là một công trình phi thường. Chắc ông phải tự hào lắm khi nghĩ rằng Hội thánh này lại có thể xây cất một công trình lớn như thế”.
Ông trả lời tôi như thế này: “David ơi, phải nhớ Hội thánh không phải là các công trình xây cất kia đâu. Nếu Chúa đến đêm nay, Antichrist sẽ phải gánh lấy món nợ lớn đấy!”
Tôi không nhớ là chẳng hay lúc ấy nó có khích lệ được tôi không, nhưng chắc chắn là nó đã đặt mọi sự việc vào đúng với viễn cảnh! Tôi đã tạo cơ hội cho ông khoe mình một ít, nhưng ông đã né tránh nó. Thay vào đó, tôi nhận được một bài học quan trọng.
Các công trình xây cất thì chẳng có gì quan trọng. Người của Chúa mới là quan trọng! Khoe mình về những điều phụ thuộc hay vô ích, là xúc phạm đến tình yêu của Thượng Đế. Nó chứng minh rằng tiêu điểm mà chúng ta chú trọng vào là sai lầm - chúng ta đang nhìn chăm vào các đồ vật, thay vì phải chú trọng vào con người, vào các tín đồ.
Tình yêu chẳng kiêu căng.
Từ ngữ Hi-văn chữ kiêu căng có nghĩa là “thổi”. Nó được dùng theo thể “middle voice” trong văn phạm Hy-lạp có nghĩa là “tự thổi mình lên”. Tình yêu của Thượng Đế không tự phô trương trước mặt người khác, luôn luôn “phóng đại” tầm quan trọng, các khả năng hay thành tích của mình. ChCn 27:2 chép “Đừng tự khen mình, để việc ấy cho người khác làm”.
Dấu hiệu rõ ràng của sự thiếu tình thương là kiêu căng. Người hiểu biết mà không có tình thương thì “tự thổi phồng mình” (ICo1Cr 8:1). Các cấp lãnh đạo rất dễ sa vào chiếc bẫy này vì họ thường có sự hiểu biết mà nhiều người khác chung quanh họ không có.
Tình yêu thương không hành động cách khiếm nhã.
Nói cách khác, tình yêu thương của Thượng Đế không phải là không có hình thức. Chữ thích hợp ở đây có lẽ là “lịch thiệp”, “khéo cư xử”. Nó hàm ý “phép xã giao”. Tình yêu của Thượng Đế không tỏ ra khiếm nhã, cộc cằn. Nó nói những điều thích hợp vào thời gian thích hợp trong tình yêu thương.
Nhiều người chúng ta vốn có ý tốt, nhưng lại chẳng quan tâm đến đều chúng ta nói có ảnh hưởng thế nào đến người khác. Chúng ta cho thấy rằng tình yêu của Thượng Đế không kiểm soát cách mình nói với tha nhân. Điều bạn nói có thể là tốt và đúng, nhưng cách nói của bạn có thể ảnh hưởng lớn lao đến cách người khác sẽ đáp ứng lại với bạn. Tình yêu phải lịch thiệp.
Tình yêu không vị kỷ.
Chỉ tìm cầu điều tốt có lợi cho chính mình mà thôi thì không phải là tình yêu của Thượng Đế. Muốn mọi sự phải theo ý ta, thì không phải là yêu thương. Tình yêu của Thượng Đế vốn đầy đức khiêm hạ. Nó xem người khác quan trọng hơn chính bạn (xem Phi Pl 2:3, 4). Những gì liên quan đến người khác phải là quan trọng đối với người lãnh đạo thuộc linh.
Ngày nọ, buổi họp ban giám đốc của chúng tôi trao đổi ý kiến về một công tác phục vụ cá biệt. Mọi người đều đưa ra những gì mà mình cho là ý hay nhất. Chúng đều tốt đến một chừng mực nào đó. Bỗng mọi người chúng tôi đều cảm thấy mình có một chút vị kỷ nào đó. Chúng tôi nhận thức được rằng mình đã chẳng quan tâm gì đến vấn đề các ý kiến của mình ảnh hưởng đến người khác như thế nào.
Thật đáng ngạc nhiên khi một cơ hội như thế đã nhanh chóng thay đổi như thế nào, khi quan điểm của một người khác được chú ý để đưa ra xem xét. Mọi ý kiến đều được đánh giá và kiểm điểm. Công việc đã trở thành một công việc của tình thương chứ không phải là của lòng vị kỷ nữa. Muốn mọi việc phải theo ý mình là điều tự nhiên. Nhưng thật ra, chúng ta không nhất thiết phải như thế!
Tình yêu không “nhạy giận”.
Từ ngữ “nhạy giận” căn cứ vào tự ngữ Hi-văn có nghĩa là “mài cho bén”. Tình yêu thương không bị người khác “mài bén”. Nó không khiến ta trở thành cay đắng khi bị tha nhân phản ứng và phê bình chỉ trích.
Đã có lần Phao-lô bị chọc tức. Ông đã phản đối việc thờ thần tượng của người A-then (xem Cong Cv 17:16). Nhưng ông đã phản đối việc thờ thần tượng, chứ không phản đối người ta vì chọc giận ông. Đây là cả một thế giới của sự khác biệt! Nhiều khi chúng ta có thể bất mãn, tức tối vì một số vụ việc hay hoàn cảnh sai trái và rõ ràng là vi phạm Lời Chúa. Nhưng tình yêu của Thượng Đế không nổi giận với người ta. Các cấp lãnh đạo thuộc linh phải học biết chỗ khác nhau này!
Tình yêu không chấp trách.
Lúc Phao-lô viết “tình yêu thương không lưu tâm đến điều sai trái mình phải chịu” (bản Anh văn) là ông sử dụng ngôn ngữ của người làm kế toán. Ý niệm ở đây là tính toán. Tình yêu của Thượng Đế là tha thứ, chứ không phải là giữ lòng thù oán đối với người đã xúc phạm bạn. Khi chúng ta cứ để tâm trí mình suy nghĩ về đều người khác đã làm cho mình, là chúng ta đang tính toán. Đó là một hình thức của tính tự kỷ trung tâm. Điều cần thiết là phải chôn vùi mọi việc người khác đã làm cho ta và thôi nghĩ đến chúng.
Có lần một người bạn của tôi kể lại lý do của điều anh ta làm cho một người là để trả thù người ấy về một việc người ấy đã làm cho anh nhiều năm trước. Thật là tai hại! Anh ta đã mang lấy nỗi cay đắng ấy quá nhiều năm như thế! Anh ta đã phải bận tâm tính toán điều sai trái mà người kia đã làm cho mình. Anh ta đã không thể tha thứ, chứ chưa nói là đã có thể quên đi!
Tình yêu không vui mừng về việc bất công, nhưng hân hoan trong sự thật.
Bạn phản ứng thế nào khi thấy hoặc nghe người khác làm sai làm ác? Tình yêu thương của Thượng Đế không thể vui mừng mà trái lại còn buồn rầu nữa. Câu này chống lại tinh thần chê bai chỉ trích, lên án người khác về các tội lỗi trong đời sống họ.
Thật dễ vui mừng khi một người khác gặp bất hạnh, nhất là khi điều đó có thể có lợi cho bạn, hay khiến bạn được ưu thế trước mặt nhiều người khác. Nhưng đó không phải là cách làm của tình yêu của Thượng
Người lãnh đạo thuộc linh bảo vệ
và che chắn cho người cộng tác với mình .
Người ấy bênh vực cho họ , cả khi biết rằng
đời sống họ có vấn đề .
Đế. Tình yêu của Thượng Đế không cần triệt hạ kẻ khác để tự cảm thấy mình quan trọng. Nó không vui mừng khi người khác gặp thất bại.
Ngày nọ, ban giám đốc chúng tôi thảo luận về các vấn đề của một Hội thánh gần đó. Họ đang sa sút. Chúng tôi được an ủi vì Hội thánh của chúng tôi đang tăng trưởng. Dường như chúng tôi có vẻ vui mừng khi nghe các vấn đề của Hội thánh kia. Tôi cảm thấy đau lòng. Tôi biết rằng điều đó là sai lầm.
Để giúp cho chính thái độ của mình, tôi đặt công việc của Hội thánh kia vào bảng liệt kê các vấn đề cần cầu nguyện của tôi, và một ngày nọ, tôi gọi điện thoại cho vị mục sư ấy để khích lệ ông. Thái độ của tôi đã thay đổi hẳn. Tôi thật sự muốn cho ông thành công. Từng trải ấy đã có ý nghĩa lớn lao đối với tôi. Trong một hình thức nhỏ, tôi cảm thấy yêu mến ông và công tác phục vụ của ông. Tôi đã cầu xin Chúa giúp tôi có thiện cảm và lòng thương xót khi nghe về nỗi bất hạnh của người khác. Sẽ có ngày có thể tôi cũng gặp vấn đề, và mong rằng nhiều người khác sẽ quan tâm lo nghĩ đến mình!
Bạn Phản Ứng Thế Nào Để Thay Đổi Tình Hình?
Tình yêu của Thượng Đế có thể giúp ích. Mọi việc không luôn luôn xoay chuyển theo cách chúng ta nghĩ hay trù hoạch. Khi gặp biến chuyển, tình yêu thương có thể nâng đỡ và khích lệ chúng ta. ICo1Cr 13:7 đề cập bốn điều sẽ giúp định tính chất các phản ứng của chúng ta đối với “tất cả mọi sự ” trong cuộc đời khi tình yêu của Thượng Đế nắm quyền cai trị kiểm soát.
Tình yêu khoan dung tất cả.
Từ ngữ Hi-văn ở đây có nghĩa là bảo vệ hay bảo tồn bằng cách che chắn. Trong Hi-văn hiện đại, nó ám chỉ cái mái nhà. Ý muốn nói ở đây, là tình yêu của Thượng Đế phủ lên một chiếc mái che, để che chở hay phủ trùm trên người khác.
Có nhiều hoàn cảnh hoặc tình hình, trong đó loại phản ứng này rất cần thiết trong cuộc đời người lãnh đạo thuộc linh. Người ấy bảo vệ và che chở cho những người công tác với mình. Ông ta là người bênh vực họ. Ông ta bênh vực họ cả khi biết rằng đời sống họ có vấn đề. Tình yêu thương của ông ta là sẵn sàng gánh lấy những điều đó khi nhiều người khác không thể kiên nhẫn làm như thế. Ông ta chú trọng vào việc gây dựng người ta mà điều ấy thì đòi hỏi phải mất thì giờ.
Tình yêu tin tưởng tất cả.
Điều này không có nghĩa là chúng ta phải cả tin và ngây thơ. Trái lại, nó chỉ một niềm tin cậy chắc chắn vào tất cả mọi việc đang xảy ra. Thượng Đế vốn đứng phía sau tất cả. Mọi sự đều có một chủ đích. Đây là niềm tin trái ngược với kẻ luôn luôn nghi ngờ, tự hỏi tại sao chúng lại xảy ra, hay đã xảy ra như thế.
Một người lãnh đạo thuộc linh học tập nương tựa vào Thượng Đế và Lời Ngài, chứ không phải là vào các cảm nghĩ hoặc chẳng hay mọi sự việc có diễn tiến theo cách mình trù liệu hay không. Người ấy tin cậy quyền tể trị của Thượng Đế và biết rằng có những lúc sẽ phải “thất bại”. Những cơ hội đó sẽ trở thành những bậc đá trên con đường đi lên, khi bạn tin cậy nơi Chúa.
Những người làm việc cho một người lãnh đạo thuộc linh biết an nghỉ trong Chúa, cả khi gặp căng thẳng và biến chuyển lớn lao, đều sẽ tự nhận thấy mình thích nghi được với tình hình, mà nếu không phải là như thế, sẽ không tài nào đối phó nổi.
Tình yêu hy vọng tất cả.
Chúng ta phải lạc quan. Tình yêu của Thượng Đế nhìn vào tương lai. Nó đặt nền móng cho cách đáp ứng của mình trên cá tính và quyền năng của Thượng Đế. Thượng Đế có quyền làm điều mà một số người xem dường như bất năng. Tình yêu luôn luôn hy vọng điều tốt nhất. Nó nhìn thấy “tất cả mọi sự” đều là cơ hội để Thượng Đế hành động hầu chứng minh rằng Ngài thật là ai.
Loại tình yêu này không dễ chán nản. Nó luôn luôn tin vào điều có thể làm, chứ không dừng lại ở những gì thuộc quá khứ hay rắc rối trong hiện tại. Con người sẵn sàng đáp ứng với tình yêu biết hy vọng. Họ được khích lệ. Họ sẽ cứ tiếp tục công việc, cả trong những tình hình khó khăn nhất.
Tình yêu chịu đựng tất cả.
Tình yêu có thể chịu đựng áp lực. Từ ngữ Hi-văn có nghĩa là “vẫn tồn tại bên dưới”. Nó được cho các đồ vật hay hoàn cảnh, chứ không phải con người. Tình yêu chịu đựng khi gặp hoàn cảnh khó khăn. Nó biết phải cứ tiến bước như thế nào, khi nhiều người khác bỏ cuộc. Nó quan tâm đủ để cứ ở lại, khi mọi sự không diễn biến theo cách mọi người mong muốn.
Một vị mục sư báo cho tôi biết ông sắp lìa khỏi Hội thánh của mình. Ông thất vọng. Sự tăng trưởng đã không có như ông mong muốn. Ông không còn kiên nhẫn được nữa. Ông không muốn dính dáng với một Hội thánh đang sa sút. Tôi chỉ hỏi ông: “Thế ông có yêu thương những người tín đồ ấy không?” Ông ta không biết chắc rằng điều ấy là quan trọng. Nhưng nó rất quan trọng đấy. Tình yêu của Thượng Đế sẽ giữ bạn lại tại nơi mà phần đông người khác đều muốn bỏ đi. Tình yêu thương của Thượng Đế sẽ chịu đựng được trong những hoàn cảnh nhiều thử thách nhất.
Từng Trải Tình Yêu Của Thượng Đế
Tình yêu của Thượng Đế nảy sinh trong lòng chúng ta nhờ sự hiện diện và quyền năng của Đức Thánh Linh (xem RoRm 5:5; GaGl 5:22). Nhờ được Đức Thánh Linh ngự trị trong lòng, mỗi người tín hữu đều có khả năng từng trải tình yêu của Thượng Đế hằng ngày trong cuộc đời mình (xem ICo1Cr 6:19, 20). Tiềm năng chính là ở đấy. Vấn đề có thể là cách ứng dụng. Vấn đề căn bản trong công tác lãnh đạo thuộc linh, là được Đức Thánh Linh cai trị kiểm soát để yêu thương như Thượng Đế muốn bạn yêu thương và theo nhu cầu yêu thương của bạn. Nhu cầu quan trọng là cần có nhiều cấp lãnh đạo đầy dẫy Thánh Linh.
Đã có nhiều công thức từng được gợi ý về làm thế nào để có được một đời sống đầy dẫy Thánh Linh. Những điều kiện như cầu nguyện, đức tin, vâng phục, làm chứng, học hỏi nghiên cứu, v.v.. đều đã được đưa ra như “bí quyết” để có được một đời sống đầy dẫy Thánh Linh. Tất cả dường như đều thuộc vào loại mà tôi gọi là “hội chứng nhiều hơn nữa”. Tôi chỉ cần làm một điều gì đó “nhiều hơn” điều tôi hiện đang làm, là tôi sẽ đạt được kết quả mong muốn là được đầy dẫy Thánh Linh. Điều đó có thể gây nhiều thất vọng và tự gây thất bại cho mình. “Nhiều hơn” là bao nhiêu? Tôi cần cầu nguyện nhiều hơn chăng? Lẽ tất nhiên, luôn luôn là cần càng nhiều hơn! Tôi có cần vâng lời Chúa nhiều hơn chăng? Lẽ tất nhiên luôn luôn là cần càng nhiều hơn nữa!
Để đơn giản hoá vấn đề được đầy dẫy Thánh Linh này, tôi bắt đầu bằng cách thừa nhận rằng Đức Thánh Linh là Thượng Đế. Ngài có đầy đủ khả năng để khiến cho tình yêu của Ngài biểu hiện trong đời sống tôi. Thật ra theo một ý nghĩa Ngài chẳng cần chi đến sự giúp đỡ của tôi. Tôi thường cản đường Ngài trong điều Ngài muốn làm. Thật ra, tôi chẳng cần gì phải lo lắng đối với điều Ngài muốn làm.
Tiếp theo, tôi nhận biết có một điều ngăn chận giòng chảy của quyền năng Thượng Đế trong đời sống tôi - đó là tội lỗi. Nó làm buồn lòng và dập tắt Thánh Linh. Kết luận đơn giản của tôi: Dứt khoát với tội lỗi, thì tự động Thánh Linh sẽ đầy dẫy tôi! Có lẽ bạn không thích tính cách đơn giản của việc này, nhưng nó đã giúp ích cho tôi, và nó cũng có thể giúp ích cho bạn nữa. Nếu tội lỗi chận đứng công tác của Đức Thánh Linh, thì đó chính là vấn đề mà tôi cần phải giải quyết. Xin thử một thí dụ để dễ hiểu hơn.
Tôi có vấn đề trong việc bày tỏ tình yêu thương với một người cá biệt nào đó. Tất cả những gì tôi đã thử làm, đều thất bại. Mọi sự đều diễn biến ngày càng tồi tệ hơn. Một ngày nọ tôi nhận ra vấn đề: tôi đã có tinh thần không chịu tha thứ đối với một việc gì đó mà người ấy đã làm. Một khi tội lỗi này được cất đi thì tình yêu thương của tôi đối với người ấy được phục hồi. Rất đơn giản.
Một thí dụ khác: Tôi đã xúc phạm nặng nề một nhân viên khác trong ban giám đốc bằng một hành động tôi đã thực hiện với tư cách một người lãnh đạo. Lúc đó tôi cảm thấy mình phải nói lên lời xin lỗi, nhưng tôi đã bỏ qua không làm. Rất lâu sau đó, tôi phát giác ra một vấn đề nghiêm trọng trong việc yêu thương người nhân viên trong ban giám đốc ấy. Cuối cùng sau nhiều chiến đấu nội tâm, tôi đã đến với người ấy và xin lỗi về việc tôi đã làm nhiều tháng trước. Mối liên hệ được vãn hồi và giờ đây, tình yêu thương được tự do bộc lộ giữa tôi và người ấy.
Thí dụ thì có rất nhiều. Tội lỗi chận nghẹt giòng chảy của tình yêu của Thượng Đế. Hãy giải quyết tội lỗi đi, bạn lại sẽ từng trải tình yêu của Thượng Đế. Trên hết mọi sự, đừng bỏ qua những gì bạn biết là mình phải làm (như tìm sự tha thứ). Hãy giải quyết ngay tức khắc mọi việc đi. Mẫu mực tình yêu sẽ ngày càng kiên định hơn.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Bạn có những thái độ nào mà đời sống người lãnh đạo không nên có?
2. Bạn yếu ở điểm nào trong năm lãnh vực trong đó tình yêu thương của Thượng Đế là thiết yếu không? Lãnh vực nào? Bạn có thể làm gì để củng cố nó (chúng)?
3. Có điều nào trong tám điểm tiêu cực mà bạn cần tránh trong chính đời mình?
5. Tình yêu thương của bạn có lạc quan nhiều về tương lai không?
6. Muốn thay đổi hoàn cảnh, bạn phản ứng như thế nào?
7. Bạn có thể làm gì để từng trải tình yêu thương của Thượng Đế trong đời mình?

CÁC DẤU HIỆU CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO CÓ TÌNH YÊU THƯƠNG
Trong chương trước, chúng ta đã khảo sát tình yêu thương của Thượng Đế như đã được mô tả trong ICo1Cr 13:1-13 và ứng dụng vào công tác lãnh đạo. Trong chương này chúng ta sẽ đề cập các phương diện thực tiễn khác nữa của “tình yêu thương trong công tác lãnh đạo”.
Có một trong những nhu cầu quan trọng nhất của đời sống một người lãnh đạo thuộc linh là từng trải và biểu lộ tình yêu của Thượng Đế. Trong Tân ước, chúng ta được dạy mười sáu lần là “phải yêu thương lẫn nhau”. Trong khúc sách quan trọng IGi1Ga 4:7-19 luận về tình yêu của Thượng Đế, chúng ta được dạy những điều sau đây:
1. Thượng Đế là Tình yêu.
2. Tình yêu đến từ Thượng Đế.
3. Phải nhận biết Thượng Đế mới có tình yêu của Ngài.
4. Tình yêu của Thượng Đế được bày tỏ khi Chúa Giê-xu chịu chết trên thập tự giá vì tội lỗi chúng ta.
5. Thánh Linh của Thượng Đế làm nảy sinh tình yêu thương trong lòng chúng ta.
6. Tình yêu không sợ hãi.
7. Chúng ta được lệnh phải yêu thương nhau.
8. Khả năng yêu thương của chúng ta có cơ sở là sự kiện Thượng Đế đã yêu chúng ta trước.
Tình yêu của Thượng Đế là vĩnh hằng và tồn tại mãi - nó vẫn tồn tại sau khi mọi việc khác đều không còn nữa (Gie Gr 31:3; ICo1Cr 13:8). Nó hành động mà không đòi hỏi phải được đáp lại (RoRm 5:8; IGi1Ga 4:10) và chẳng bao giờ là vị kỷ hoặc thiên về vật chất (2:15-16). Tình yêu của Thượng Đế là lòng nhân từ thương xót đối với các nhu cầu của tha nhân (3:17-18) và quan tâm đến các quyền lợi của tha nhân (RoRm 13:8-10). Phẩm chất căn bản của nó là hi sinh (Eph Ep 5:2, 25; IGi1Ga 3:16; 4:9-10).
Một trong những đặc tính kỳ diệu nhất của tình yêu của Thượng Đế là nó vốn vô điều kiện. Nó được đặt trên cơ sở là sự thành tín của Thượng Đế, chứ không phải trên tài năng hay đức độ của chúng ta (PhuDnl 6:7-9; RoRm 3:22-24). Nó cũng vô điều kiện vì Thượng Đế vốn giàu lòng nhân từ thương xót đối với chúng ta (Thi Tv 103:8-11; Eph Ep 2:4) và sẵn sàng tha tội cho chúng ta (ChCn 10:12; 17:9; IPhi 1Pr 4:8). Chỉ đơn giản là vì Ngài yêu thương và yêu thương chúng ta rất nhiều, thế thôi! Chúng ta không tài nào chiếm đoạt hay làm gì để xứng đáng nhận được một tình yêu như thế... chúng ta chỉ có việc tiếp nhận và đáp ứng lại với nó mà thôi.
Thật là điều kỳ diệu khi đề cập tình yêu của Thượng Đế, và khảo sát các nét đặc trưng và những cách đáp ứng kỳ diệu của nó. Các cấp lãnh đạo thuộc linh cần có tình yêu của Thượng Đế trong đời sống và công tác lãnh đạo của mình. Nhưng quán triệt các dấu hiệu của tình yêu thương trong công tác lãnh đạo để tuân thủ điều mà các cấp lãnh đạo Hội thánh có trách nhiệm phải làm trong công tác phục vụ Chúa là điều rất hữu ích. Xin khảo xét các trách nhiệm cơ bản sau đây.
Chăn Bầy Của Chúa
Có lẽ không còn câu nào khác nêu rõ vai trò và trách nhiệm của một người lãnh đạo Hội thánh hơn là nhiệm vụ quan trọng này. Người ấy phải chăn dắt, yêu thương chăm sóc bầy chiên đã được Chúa giao cho mình.
Trong Cong Cv 20:17-36 có một khúc sách thật cảm động về trách nhiệm của những người lãnh đạo Hội thánh Ê-phê-sô, và trách nhiệm của họ đối với sứ đồ Phao-lô. Phao-lô đã dạy các lãnh tụ này (các “trưởng lão” của Hội thánh) phải làm việc sau đây: “Anh em hãy giữ lấy mình và luôn cả bầy mà Đức Thánh Linh đã lập anh em làm kẻ coi sóc để chăn Hội Thánh của Đức Chúa Trời, mà Ngài đã mua bằng chính huyết mình” (câu 28).
Hướng dẫn và nuôi nấng.
“Chăn giữ... Hội thánh mà Thượng Đế đã mua” là trách nhiệm của người lãnh đạo Hội thánh. Một bầy chiên vốn có xu hướng tự nhiên là đi lang thang (EsIs 53:6), gặp nhiều rắc rối và nguy hiểm. Người chăn phải yêu thương theo dõi chăm sóc chúng (như “những người quản lý”) và làm tất cả những gì có thể làm đựơc để bảo vệ và bênh vực chúng (Cong Cv 20:28-30).
Phi-e-rơ người tự mô tả mình là một trưởng lão, viết cho các bạn trưởng lão của ông như sau:
Bây giờ, tôi có đôi lời nhắn nhủ các người lãnh đạo Hội thánh. Tôi cũng là người lãnh đạo như anh em; chính mắt tôi đã trông thấy Chúa Cứu Thế chết trên cây thập tự. Khi nào Ngài trở lại, tôi cũng sẽ hưởng vinh quang với Ngài. Tôi nài khuyên anh em. Hãy chăn bầy chiên Thượng Đế giao cho anh em, chăm sóc họ cách vui vẻ, đừng phàn nàn miễn cưỡng, không phải vì được lợi lộc gì nơi họ mà chỉ vì muốn tích cực phục vụ Chúa. Đừng áp chế ai, nhưng hãy làm gương tốt cho họ noi theo. Rồi khi Thủ lãnh Chăn Chiên đến, anh em sẽ được chung hưởng vinh quang bất diệt với Ngài (IPhi 1Pr 5:1-4).
Công tác lãnh đạo bằng tình yêu của Thượng Đế quan tâm chăn giữ bầy chiên của Chúa. Việc “chăm sóc” này không phải vì bị ép buộc nhưng là tự nguyện do nhiệt tình. Động cơ thúc đẩy không phải là lợi riêng hay cơ hội để cầm quyền trên người khác. Các cấp lãnh đạo Hội thánh là những người chăn dưới quyền Chúa Cứu Thế Giê-xu, là “thủ lãnh của những người chăn chiên” (5:4, cũng xem Thi Tv 23:1). Điều mong ước của chúng ta phải là câu “Tốt lắm” và phần thưởng của Ngài.
Đừng “áp chế” bầy chiên
Những điểm tiêu cực trong khúc sách này cho thấy loại lãnh đạo không có tình thương trong những gì họ nói mà làm. Người lãnh đạo này “áp chế” (làm chủ, làm chúa) bầy chiên. Ông ta muốn chứng tỏ cho họ biết ai là người được giao quyền và đòi hỏi họ phải thuận phục. Thật khó xem đó là gương tốt của một người lãnh đạo có tình yêu thương.
Nhiều năm trước đây, có một người lãnh đạo trong Hội thánh nơi tôi làm mục sư đã thực thi quyền lãnh đạo của mình khá mạnh tay. Ông thường nói về việc thế nào các tín đồ phải thuận phục quyền lãnh đạo, và cảm thấy với tư cách mục sư, tôi phải giảng về sự thuận phục chức vụ lãnh đạo thường xuyên hơn trong các bài giảng. Ông ta đề cập đến việc con người phản loạn như thế nào. Qua nhiều buổi họp, tôi chú ý thấy ông ta áp đảo nhiều người khác và buộc mọi người phải nhất trí với ông.
Rõ ràng là ai nấy đều oán ghét con người ấy và cách hành quyền lãnh đạo của ông ta. Một lần nọ, trong một buổi họp, một người anh em bị ông dọa nạt đã mạnh mẽ đối đầu với ông và nói: “ông đã chẳng quan tâm đến ai cả ngoại trừ bản thân ông ! Nếu thỉnh thoảng ông chịu khó tỏ ra chút ít tình yêu thương, có lẽ phần đông chúng tôi sẽ chịu nghe những gì ông nói”. Mọi người hiện diện trong phòng hôm ấy đều cảm thấy buổi họp thật căng thẳng. Chẳng ai biết phải nói gì. Chủ toạ buổi họp cho chúng tôi giải tán sau khi cầu nguyện và khuyên mọi người hãy cầu nguyện cho vấn đề này và hỏi ý Chúa xem Ngài muốn chúng ta phải làm gì.
Đến buổi họp tháng sau đó, người lãnh đạo áp chế kia đã là một con người tan vỡ. Điều đã nói với ông ta trong buổi họp trước đã khiến ông ta rất đau lòng vì đó là lần đầu tiên trong đời mình, ông ta được nhìn thấy chính mình như cách nhiều người khác đã thấy. Ông nhận ra vấn đề của mình là thiếu tình thương người. Ông đã quan tâm tới các vấn đề và những việc cần phải làm cho xong, hơn là quan tâm đến người khác. Lời xưng tội và xin tha thứ công khai của ông đã được mọi người trong buổi họp tiếp nhận nồng hậu, và tiếp sau đó là một thì giờ cầu nguyện và khích lệ lạ lùng. Từ đó trở đi, công tác lãnh đạo của ông ta đã đổi khác.
Phục Vụ Người Nghèo Thiếu
Trợ cấp vật chất.
Lần đầu tiên các cấp lãnh đạo hội thánh được tuyển chọn trong Hội thánh tại Giê-ru-sa-lem. Vấn đề gợi ý sự cần thiết phải có công tác lãnh đạo là sự chăm sóc cho các quả phụ. Chúng ta đọc thấy trong Cong Cv 6:1-3.
Lúc ấy, số tín hữu càng gia tăng nhanh chóng. Người Do-thái theo văn hoá Hy-lạp than phiền người Hy-bá vì các quả phụ trong nhóm họ không được cấp phát thực phẩm đầy đủ. Mười hai sứ đồ triệu tập toàn thể tín hữu và tuyên bố: Chúng tôi không thể bỏ việc giảng dạy lời Chúa để lo phân phối lương thực. Vậy xin anh em cử bảy người được tiếng khen, đầy dẫy Thánh Linh và khôn ngoan để chúng tôi uỷ thác việc này.
Nhiều hệ phái đã kết luận rằng các cấp lãnh đạo này là “chấp sự” chứ không phải “trưởng lão” vì câu “phân phối lương thực”. Tuy nhiên, tại thời điểm này cũng như trong sử ký nguyên thuỷ của Hội thánh tại Giê-ru-sa-lem, người ta không hề thấy việc đề cập các chấp sự.
Trong 11:27-30, các Cơ-đốc nhân tại An-ti-ốt đã mở một cuộc lạc quyên để cứu giúp những người trong xứ Giu-đê đang gặp nạn đói. Họ nhờ Ba-na-ba và Phao-lô chuyển số tiền ấy cho “các trưởng lão” chứ không phải là cho các chấp sự. Rõ ràng là các trưởng lão đã phụ trách việc chăm sóc cho những người nghèo thiếu.
Trong ITi1Tm 5:1-6 có một phần thảo luận khá dài về vấn đề chăm sóc cho các quả phụ và về những ai trong đám họ phải được Hội thánh
Các cấp lãnh đạo chỉ hoàn tất công tác
trong việc họp han trị sự , tường trình và
khảo cứu mà thôi vẫn chưa thấu triệt
các đòi hỏi của Thượng Đế và các nhu cầu
của những người thuộc về Ngài .
trợ cấp những người không được gia đình trợ cấp, và những người hội đủ một vài phẩm cách là trung tín với Chúa và Hội thánh Ngài, phải được Hội thánh trợ cấp. Câu 16 đề cập việc trợ giúp các quả phụ thật sự là quả phụ. Mấy câu tiếp sau đó (5:17 và tt) đề cập trách nhiệm của các trưởng lão.
IGi1Ga 3:17, 18 nói mạnh về vấn đề chăm sóc những người thiếu thốn:
Nếu một tín hữu có của cải sung túc, thấy anh em mình thiếu thốn mà không chịu giúp đỡ, làm sao có thể gọi là người có tình thương của Thượng Đế? Các con ơi, đừng yêu thương đầu môi chót lưỡi, nhưng phải thật lòng yêu thương người khác và chứng tỏ tình yêu đó bằng hành động.
Người lãnh đạo giàu tình thương sẽ đáp ứng nhu cầu của người ta. Gia Gc 2:14-17 cũng lý luận tương tự và kết hợp nó với đức tin cứu rỗi:
Anh em thân yêu, nếu anh em bảo mình có đức tin mà không chứng tỏ bằng hành động thì có ích gì không? Đức tin ấy chẳng cứu được ai. Nếu anh em gặp một người bạn đói khổ rách rưới, mà chỉ nói: Chào anh, Chúa ban phúc lành cho anh! Chúc anh mạnh khoẻ, no ấm! nhưng chẳng cho họ cơm ăn, áo mặc thì lời nói ấy có ích lợi gì? Vậy đức tin phải đi đôi với hành động. Đức tin không thực hành chỉ là đức tin vô dụng.
Phục vụ người đau ốm.
Thư tín Gia-cơ cũng chỉ ra trách nhiệm của người lãnh đạo có tình yêu thương đối với những người đang gặp đau yếu:
Có ai đau yếu? Nên mời các trưởng lão trong Hội thánh đến nhân danh Chúa xức dầu cầu nguyện. Lời cầu nguyện do đức tin sẽ chữa lành người bệnh. Vì Chúa sẽ đỡ người bệnh dậy, nếu người ấy có tội, Chúa sẽ tha thứ. Hãy nhận lỗi với nhau và cầu nguyện cho nhau để anh em được lành bệnh. Lời cầu nguyện của người công chính rất mạnh mẽ và hiệu nghiệm. Ê-li cũng chỉ là người như chúng ta, nhưng khi ông cầu xin cho đừng mưa, thì trong ba năm rưỡi chẳng có mưa rơi xuống đất. Rồi ông cầu xin cho mưa trở lại, trời liền mưa và đất đai sinh hoa mầu.
Câu 14 vạch rõ người đau ốm phải mời các trưởng lão đến. Từ Hi-văn “mời” hàm ý một cuộc họp mặt riêng tư, chứ không phải một buổi họp công cộng. Người đau yếu phải “mời” các trưởng lão của Hội thánh đến với mình. Họ phải đến với người ấy, chứ không phải là ngược lại.
Các trưởng lão được chỉ dạy phải xức dầu cho người bệnh và cầu nguyện xin Chúa chữa lành người ấy. Lúc Chúa Giê-xu sai Mười Hai Sứ đồ ra đi với sứ mạng truyền giảng, chúng ta đọc thấy các vị đã “xức dầu chữa lành nhiều người bệnh” (Mac Mc 6:13). Xức dầu ở đây không liên hệ đến giá trị y học của dầu. Dầu là biểu hiệu của quyền năng và sự hiện diện của Thượng Đế.
Cần lưu ý là văn bản đòi hỏi phải có mặt nhiều hơn là một trưởng lão. Không có người duy nhất nào được đề cao hay ca ngợi trong chức vụ chữa bệnh. Chính Thượng Đế mới là Đấng chữa bệnh. Phải có nhiều hơn một vị trưởng lão bảo đảm việc Thượng Đế phải được tôn vinh, chứ không phải là các trưởng lão. Chính Chúa mới cứu hay chữa lành được cho người bệnh. Văn bản chép: “Chúa sẽ đỡ người bệnh dậy”. Phần của các trưởng lão là cầu nguyện. Không phải vì người bệnh thiếu đức tin mà hậu quả là người ấy không được chữa lành. Chính Thượng Đế mới là Đấng cầm quyền kiểm soát tối cao.
Các trưởng lão phải “cầu nguyện do đức tin”. Đây không phải là một lời cầu nguyện đòi hỏi. Đây là một lời cầu nguyện thờ phượng, một niềm tin âm thầm vào Thượng Đế hằng sống có thể làm điều Ngài muốn. Không phải đức tin lớn của chúng ta đặt vào Thượng Đế có thể chữa được bệnh, mà là đức tin đặt vào một Thượng Đế vĩ đại!
Các cấp lãnh đạo biểu hiện tình yêu của Thượng Đế sẽ trợ giúp các tín đồ có nhu cầu vật chất và thuộc thể. Đó là tình yêu thương. Điều gì kém hơn thế đều không phải là những gì Thượng Đế đòi hỏi các cấp lãnh đạo thuộc linh. Các cấp lãnh đạo chỉ hoàn tất công tác trong các buổi họp ban chấp hành, các bản tường trình và khảo cứu mà thôi vẫn chưa thấu triệt các đòi hỏi của Thượng Đế và các nhu cầu của những người thuộc về Ngài. Điều đó vượt xa những buổi họp, các phương pháp và phần tài liệu; nó là việc lo lắng chăm sóc cho tín đồ và làm những gì chúng ta có thể làm được để đáp ứng các nhu cầu của họ.
Răn Bảo Và Trực Diện
Có lẽ trách nhiệm này là khó khăn nhất. Chúng ta không thường kết hợp việc cảnh cáo và đối đầu bằng tình yêu thương. Nhưng đó là cách duy nhất có thể làm với tình yêu thương.
Bảo vệ bầy.
Phao-lô bảo rằng một người lãnh đạo phải có khả năng “vững tin chân lý đã học hỏi mới có thể dạy lại kẻ khác và hướng dẫn những kẻ lầm lạc” (Tít 1;9). Sau khi vạch rõ trách nhiệm của các cấp lãnh đạo hội thánh, Phao-lô đề cập bản chất chủ yếu của việc họ trực tiếp đối đầu là để “làm câm miệng” những kẻ phá đổ cả nhà người ta (câu 11).
Trong Cong Cv 20:29-30 Phao-lô khuyên các cấp lãnh đạo thuộc linh Ê-phê-sô:
Vì tôi biết sau khi tôi đi, sẽ có phần tử giả mạo trà trộn phá hoại anh em như lang sói độc ác chẳng tiếc gì bầy chiên. Trong anh em cũng sẽ có người xuyên tạc chân lý để lôi cuốn tín hữu.
Các cấp lãnh đạo Hội thánh có trách nhiệm bảo vệ bầy khỏi những cuộc tấn công từ bên ngoài chức vụ và khỏi bị chia rẽ bên trong chức vụ. Người lãnh đạo có tình yêu thương chăm sóc bầy chiên và bảo vệ nó, bất chấp bản thân có thể bị chê bai chỉ trích vì làm như thế. Chẳng ai muốn trực tiếp đối đầu với kẻ xấu cả, nhưng các cấp lãnh đạo thuộc linh phải làm việc ấy bằng tình yêu thương.
Rồi Phao-lô lại đề cập vấn đề trực diện với kẻ xấu khi ông nhấn mạnh: “Thưa anh em thân yêu, nếu có tín hữu nào bị tội lỗi quyến rủ, anh em là người có Thánh Linh hãy lấy tinh thần dịu dàng khiêm tốn dìu dắt người ấy quay lại đường chính đáng. Anh em phải cẩn thận giữ mình để khỏi bị quyến rủ”. Còn trong ICo1Cr 4:14-16, ông viết những lời đầy yêu thương này về việc trực tiếp đối đầu với kẻ xấu:
Tôi viết những điều này, không phải để anh em xấu hổ, nhưng để khuyên răn anh em như con cái thân yêu. Dù anh em có một vạn thầy giáo trong Chúa cứu Thế, nhưng chỉ có một người cha: tôi đã dùng Phúc Âm sinh anh em trong Chúa Cứu Thế. Nên tôi khuyên nài anh em bắt chước tôi.
Đây là một người cha giàu tình thương trực diện với con cái mình. Ông ta muốn cảnh cáo và răn dạy chúng, không phải vì chống lại chúng và cố hạn chế các hoạt động và niềm vui sống của chúng, nhưng làm như thế là để bảo vệ chúng khỏi huỷ hoại cuộc đời chúng.
Tiến trình sửa trị của Hội thánh.
Phần khó khăn nhất của công tác lãnh đạo thuộc linh là trực diện để cảnh cáo các tín hữu về hậu quả của các hành động của họ. Trên khắp thế giới việc sửa trị của Hội thánh đang rất thiếu sót. Đã có việc khoan dung cao độ đối với cách ăn ở tội lỗi. Tương đối chủ nghĩa và tư tưởng trần tục đã góp phần vào vấn đề khổng lồ này. Giờ đây, quyền lợi cá nhân được coi trọng hơn trách nhiệm tập thể.
Môi trường để trực diện với những kẻ làm quấy vốn rất khó. Phần đông người khác đều không muốn nghe chuyện ấy. Họ cực lực chỉ trích và khăng khăng bảo rằng đó không phải là công việc của chúng ta. Nhưng theo Lời Chúa, thì đó là công việc của chúng ta, và chúng ta phải làm cho xong.
Tiến trình trực diện và sửa trị của Hội thánh đã được Chúa chúng ta phác thảo rõ ràng:
Nếu anh em con có lỗi với con, nên đến nói riêng cho anh ấy biết. Nếu anh ấy giác ngộ, nhận lỗi, thì con được lại anh em. Nếu anh không nghe, con nên nên mời một vài nhân chứng đến xác nhận điều con nói. Nếu anh vẫn không nhận lỗi, con báo cáo cho Hội thánh. Nếu ngoan cố không nghe Hội thánh, anh sẽ bị Hội thánh tuyệt giao và khai trừ. Ta quả quyết với các con, điều gì các cấm đoán dưới đất sẽ bị cấm đoán trên trời, điều gì các con cho thực hành dưới đất sẽ được thực hành trên trời. Ta cũng quả quyết: Nếu hai người trong các con đồng tâm cầu xin bất cứ điều gì, Cha ta trên trời sẽ thực hiện điều đó. Nếu hai ba người trong các con nhân danh ta họp mặt, ta sẽ đến với họ (Mat Mt 18:15-20).
Bước 1: Trực diện cá nhân và riêng tư . Nếu chịu nghe, nhận tội và ăn năn, thì mục đích đã đạt được. Tình yêu thương của người trực diện sẽ khoả lấp các tội lỗi (IPhi 1Pr 4:8) và không nhắc lại điều đó cho bất kỳ ai khác.
Chính tại điểm này mà nhiều rắc rối đã xảy ra. Thường thường thì các cấp lãnh đạo sẽ thảo luận một tình hình trong một nhóm hay với một vài người khác trước khi chính mình gặp riêng người kia. Việc này dẫn tới nhiều tiếng đồn và lời buộc tội sai lầm. Càng có đông người chen vào tại điểm này, thì tổn hại sẽ càng lớn rộng thêm.
Nếu người kia không chịu nghe trong cuộc đối đầu riêng tư, thì.....
Bước 2: Trực diện với hai hoặc ba nhân chứng . Nhiều khi một người sẽ sửa đổi câu chuyện, hay xuyên tạc các sự kiện, hoặc bảo rằng mình không có nói điều mà người trực diện mình bảo là mình nói. Chính vì thế mà cần phải có hai hoặc ba nhân chứng tham gia khi kẻ phạm tội không chịu đáp ứng với sự trực diện cá nhân và riêng tư. Câu phát biểu của Chúa Giê-xu “Nếu hai ba người trong các con nhân danh ta họp mặt, ta sẽ đến với họ” (Mat Mt 18:20), đề cập việc sửa trị của Hội thánh chứ không phải việc hội họp căn bản của một Hội thánh!
Nếu người kia chịu nghe thì chẳng cần phải có biện pháp gì thêm nữa. Theo kinh nghiệm của tôi, thì nhiều người sẽ nhận điều họ đã làm và thật sự “chịu nghe” tại điểm này của cuộc trực diện khi có hai nhân chứng hoặc nhiều hơn. Phần lớn việc sửa trị của Hội thánh đã có thể hoàn tất ở hai bước căn bản đầu tiên này. Nếu càng có nhiều lãnh vực phục vụ chịu cẩn thận thực thi các bước này theo trình tự đã nêu, sẽ có ít rắc rối hơn trong những buổi họp công cộng, và ít có chuyện ngồi lê đôi mách và tiếng đồn lan truyền về tội lỗi của một người nào đó.
Bước 3: Kể lại sự việc ấy với Hội thánh . Thật là khó biết rõ đã có ngụ ý gì ở đây, nhất là con số các thành viên của Hội thánh Giê-ru-sa-lem lên đến nhiều ngàn người. Làm thế nào để áp dụng việc này, nếu nó có nghĩa là việc toàn thể các thành viên phải họp lại để nghe một chuyện như thế? Có lẽ đây là việc phải làm trong những giai đoạn mà sự tăng trưởng của Hội thánh hãy còn nhỏ hơn, không có quá đông người.
Điều dường như hữu lý hơn là các cấp lãnh đạo của Hội thánh mới là nhóm người quan trọng nhất để đối phó với tình hình. Sau lần trực diện cá nhân và riêng tư, và trường hợp gồm luôn hai ba người chứng, bước tiếp theo sẽ có sự tham gia của bộ phận quản trị chính thức của Hội thánh, thường do các trưởng lão đại diện. Điều này có thể giải thích lời răn bảo trong Tit Tt 1:9 dành cho các trưởng lão hoặc giám mục.
Nếu người anh em kia chịu đáp ứng với cuộc trực diện và trình bày chính thức này thì hãy tạ ơn Chúa! Sẽ chẳng còn phải làm gì nữa cả, và các cấp lãnh đạo phải bảo vệ cho người ấy khỏi bị tổn hại hay chê trách gì thêm.
Bước 4: Khai trừ người ấy . Đến đây thì các cấp lãnh đạo chẳng còn có cách chọn lựa nào khác hơn là kể người anh em kia như một người không tin Chúa - “một người ngoại quốc và là kẻ thu thuế”. Nghĩa là người ấy phải bị loại trừ, không còn được giao hảo như một thành viên của Hội thánh nữa. Chủ đích của hành động này là nhằm phục hồi địa vị cho một người anh em, chứ không phải là giải quyết cho xong vấn đề.
Trong ICo1Cr 5:1-13, chúng ta có trường hợp một thành viên của Hội thánh phạm tội loạn luân. Lời truyền dạy ở đây là loại người anh em phạm tội ra khỏi đoàn thể. Trong câu 5, vị sứ đồ đã răn bảo họ: “chúng ta giao người ấy cho Sa-tan để huỷ diệt thân xác, nhưng linh hồn được cứu khi Chúa Cứu Thế Giê-xu trở lại”.
Do không còn được chiếc dù (ô) của Hội thánh, các thành viên và các cấp lãnh đạo của nó che cho nữa, giờ đây người anh em phạm tội nọ phải nhận chịu hậu quả của các hành động của mình như chưa từng gặp trước kia. Sự kiện đáng chú ý trong câu chuyện này, là người anh em ấy đã ăn năn. Và trong IICô-rinh-tô, Phao-lô khuyên Hội thánh phục hồi địa vị cho người ấy để chứng tỏ tình yêu thương của họ đối với người ấy vì người ấy đã biết ăn năn.
Lãnh Đạo Bằng Gương Tốt
HeDt 13:7 dạy: “Anh em hãy nhớ đến những người dìu dắt và truyền dạy lời Chúa cho mình. Hãy nghĩ đến kết quả tốt đẹp của đời sống họ và học tập lòng tin Chúa của họ”. Trong IPhi 1Pr 5:3, Phi-e-rơ viết rằng các cấp lãnh đạo phải làm “gương tốt” cho bầy. Trong ITi1Tm 5:17-18 Phao-lô nói về các cấp lãnh đạo đang cai trị:
Con hãy hết lòng tôn kính các trưởng lão khéo lãnh đạo Hội thánh, đặc biệt là những người đã dày công truyền giáo và giáo huấn. Vì Thánh Kinh đã dạy: Con đừng khớp miệng con bò đang đạp lúa và người làm việc thì xứng đáng lãnh thù lao.
Trong 3:4, 5 các đòi hỏi cho khả năng lãnh đạo của một trưởng lão phát sinh từ sinh hoạt gia đình của người ấy:
Giỏi việc tề gia, dạy dỗ con cái biết vâng phục trọn vẹn. Nếu không biết tề gia, làm sao cai trị Hội thánh của Thượng Đế?
Ở đây, việc quản trị Hội thánh được mô tả bằng mấy chữ “cai trị” (bản Anh văn là “săn sóc”) - là những từ đã được dùng ở LuLc 10:1-42 trong câu chuyện về Người Sa-ma-ri nhân từ chăm sóc cho các nhu cầu thuộc thể và vật chất của người bị kẻ cướp đánh đập rồi bỏ cho chết. Người lãnh đạo giàu tình thương cai trị hay lãnh đạo bằng gương tốt và từng trải trong gia đình của họ, quản lý việc của Hội thánh bằng một tấm lòng chăm lo săn sóc các tín đồ và phục vụ các nhu cầu của họ.
Trong tất cả các vấn đề này, người ta thấy được tình yêu thương của người lãnh đạo và những hành động chứng minh xứng đáng với tước vị “lãnh đạo thuộc linh”. Chúng ta đang cần càng nhiều hơn những nhà lãnh đạo biết rõ tình yêu thương của Thượng Đế và chứng minh nó trong mọi trách nhiệm và hành động đối với các tín đồ.
BẢNG KIỂM ĐIỂM CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
1. Hãy liệt kê vài đức tính của tình yêu của Thượng Đế mà bạn muốn có trong chính đời sống mình.
2. Tại sao bạn nghĩ rằng nhiều cấp lãnh đạo vốn thiếu tình yêu thương trong các mối liên hệ giữa họ với các tín đồ?
3. Bạn có thể cho một thí dụ cụ thể về thế nào một người lãnh đạo đã chứng tỏ tình yêu thương bằng chính việc người ấy đã làm không? Việc làm ấy có được tiếp nhận như một hành động do tình yêu thương không?
4. “Chăn bầy” có nghĩa gì?
5. Các cấp lãnh đạo có thể trợ giúp các nhu cầu thuộc thể và vật chất như thế nào?
6. Hãy giải thích các bước của công tác sửa trị của Hội thánh, và cho thí dụ minh hoạ nếu bạn có thể rút ra từ kinh nghiệm bản thân.
7. Hội thánh của bạn có thể củng cố địa vị của mình và thực thi việc sửa trị của Hội thánh như thế nào?
8. Bạn có phải là một người lãnh đạo không? (Chương tiếp sau đây rất quan trọng!)

CHUNG QUY: BẠN CÓ PHẢI LÀ MỘT NGƯỜI LÃNH ĐẠO KHÔNG?
Các nhà lãnh đạo vốn nhờ học tập rèn luyện mà thành chứ không phải là bẩm sinh! Đó là luận điểm ẩn phía sau cả quyển sách này. Chúng tôi xin nêu ra đây bảy điểm thiết yếu cho thấy một người lãnh đạo thuộc linh thật ra là người như thế nào: gương tốt, biết truyền đạt, có khả năng, có động cơ thúc đẩy, có uy quyền, có chiến lược và có tình yêu thương. Nhưng làm thế nào để bạn biết chắc mình là một người lãnh đạo thuộc linh, nhất là khi bạn vẫn chưa có kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo? Bạn phải bắt đầu từ đâu?
Công Tác Lãnh Đạo Không Dành Cho Tất Cả Mọi Người
Có người tin rằng tất cả mọi người đều có thể và đều phải trở thành người lãnh đạo. Nếu tất cả mọi người đều là lãnh đạo, thì ai sẽ làm mọi việc khác? Không, công tác lãnh đạo không dành cho tất cả mọi người. Kinh nghiệm chứng minh rõ ràng việc đó. Có một số người cố tìm cách trở thành lãnh đạo chỉ để phát hiện ra rằng chẳng có ai chịu theo họ cả. Nhiều người khác không chịu nổi áp lực và các đòi hỏi của công tác lãnh đạo. Một số người không thể đưa ra các quyết định hoặc điều khiển kẻ khác. Một số không thích sống cô đơn hay cô lập. Quả thật là công tác lãnh đạo không dành cho tất cả mọi người.
Có nhiều mức độ trong công tác lãnh đạo. Có người có thể lãnh đạo thành công 10 người, nhưng lại thất bại khi lãnh đạo 1.000 người. Có những điểm khác nhau lớn lao giữa việc lãnh đạo 10 người so với lãnh đạo 1.000 người. Các yêu cầu và trách nhiệm khác nhau rất lớn.
Có nhiều phong cách lãnh đạo khác nhau. Có người thích làm việc tại bàn giấy, có người thích thôi thúc giục giã tha nhân hành động. Có người giỏi đào tạo huấn luyện một vài người, người khác lại có tài vận động quần chúng đông đảo. Một số người thì cứng rắn bất khả chuyển lay, nhiều người khác lại dễ dãi và thay đổi luôn.
Vậy thế nào là một người lãnh đạo? Điều gì là cần thiết để chứng minh cho tài lãnh đạo của bạn nếu bạn muốn trở thành lãnh đạo nhưng vẫn chưa có kinh nghiệm trong công tác ấy?
Thẩm Định Khả Năng Lãnh đạo
Tài lãnh đạo có thể được đánh giá hay trắc nghiệm căn cứ vào một vài sự việc. Một trong số các trắc nghiệm này tự nó vốn không đủ để chứng minh bạn là một người lãnh đạo; nhưng khi phối hợp với nhau, chúng có thể giúp xác nhận bạn có phải là một nhà lãnh đạo hay không.
Trắc nghiệm 1: Tiếng gọi của Chúa
Trong công tác lãnh đạo thuộc linh, một người dứt khoát phải biết rằng Thượng Đế đã kêu gọi mình vào vai trò lãnh đạo. Nhưng Thượng Đế làm việc ấy như thế nào? Có phải bạn mở Thánh Kinh ra, và câu đầu tiên mà bạn nhìn thấy là câu mà Thượng Đế sẽ dùng để phán dạy bạn? Có phải bạn nghe tiếng nói trong đêm khuya, hay qua một giấc mơ? Hay bạn nghe những tiếng chuông reo? Hay có nhiều ánh chớp loé lên trên bầu trời? Lẽ tất nhiên là không phải. Vậy, làm thế nào để bạn biết được, nếu Thượng Đế gọi bạn vào công tác lãnh đạo thuộc linh?
Tiếng gọi của Thượng Đế là một ấn tượng liên tục đè nặng trong lòng bạn, khiến bạn mong muốn trở thành một ngươi lãnh đạo thuộc linh. Nếu bạn không thật lòng mong muốn trở thành một người lãnh đạo
Nếu Thượng Đế gọi bạn trở thành
một người lãnh đạo , thì mong ước ấy
phải rất mạnh mẽ và trước sau như một .
Nếu bạn có thể nhận lấy mà cũng
có thể từ bỏ nó , thì hãy từ bỏ nó .
thuộc linh, thì đừng lao vào đó. Bàn về các cấp lãnh đạo của chi hội địa phương, Phao-lô đã viết cho Ti-mô-thê rằng những người ấy phải mong ước chức vị lãnh đạo (xem ITi1Tm 3:1).
Nguyên bản Hi-văn nhấn mạnh bản thân người ấy phải có một ước muốn tha thiết tự đáy lòng, chứ không phải do áp lực của một ai khác tạo ra trên người ấy. Nếu Thượng Đế gọi bạn, ước muốn ấy phải mạnh mẽ và liên tục. Nếu nó đến rồi đi hoặc bạn có thể nhận lấy hay từ chối, thì hãy từ bỏ nó đi. Đừng lao vào!
Trắc nghiệm 2: Hoài bảo cá nhân
Điều này nảy sinh từ tiếng gọi của Chúa. Phải chăng bạn muốn trở thành một người lãnh đạo? Bạn thật sự mong muốn như thế? Các cấp lãnh đạo thiếu hoài bão cá nhân đối với chức vụ lãnh đạo thường là những nhà lãnh đạo không thành công và yếu kém. Bạn phải thật lòng mong muốn và vui mừng về nó. Có quá nhiều cấp lãnh đạo vẫn than phiền về các trách nhiệm của chức vụ lãnh đạo.
Một trong số nhiều người trong Hội thánh của chúng tôi vẫn than phiền luôn về các trách nhiệm của mình trong tư cách một người lãnh đạo. Tất cả những người khác đều là vấn đề, và gánh nặng công tác của ông ta là quá nặng nề để có thể gánh vác nổi. Ông ta làm khó cho những người cùng làm việc với mình. Nhiều khi thật là khó chịu đựng nổi ông ta. Ông ta có tinh thần chê bai chỉ trích. Ông ta không thích ánh hào quang thuộc linh lờ mờ mà chức vị lãnh đạo đem đến cho mình. Ông ta muốn được chú ý.
Hôm nay người ấy không còn địa vị lãnh đạo nữa. Bạn có thể nói là ông ta đã đánh mất nó. Riêng tôi thì rất nghi ngờ là có lần ông ta đã có nó. Suốt thời gian được địa vị lãnh đạo, ông ta thiếu mất ước muốn và niềm vui cá nhân của người làm lãnh đạo. Người ao ước thì cũng vui vẻ nhận trách nhiệm lãnh đạo và hân hoan đảm trách chúng.
Trắc nghiệm 3: Trưởng thành
Hãy quên đi công tác lãnh đạo thuộc linh nếu bạn vẫn còn là một em bé Cơ-đốc hay bạn vẫn chưa tăng trưởng trong sự hiểu biết về Chúa Cứu Thế. Sự tăng trưởng là thiết yếu cho công tác lãnh đạo thuộc linh. Sự tăng trưởng là cần thiết để biện biệt chẳng hay bạn có phải là một người lãnh đạo thuộc linh hay không.
Chỉ vì bạn đã làm công tác lãnh đạo ngoài đời không dẫn tới kết luận rằng công tác lãnh đạo thuộc linh sẽ dễ dàng đến tay bạn. Nếu không có sự trưởng thành trong Chúa Cứu Thế, bạn sẽ phải té sấp mặt xuống ngay! Bạn sẽ lao vào những vấn đề mà bạn chẳng bao giờ nghĩ là có thể có! Bạn sẽ bị tổn hại, còn người khác thì chán nản thất vọng, và có lẽ bạn sẽ phải bỏ cuộc vì hoàn toàn tuyệt vọng!
Trắc nghiệm 4: Từng trải
Tục ngữ xưa có câu: “Nếu chưa thử làm, bạn sẽ chẳng bao giờ biết” có thể áp dụng vào đây. Nếu bạn chưa từng lãnh đạo ai cả, thì thật là khó biết được bạn có phải là một người có thể lãnh đạo hay không! Từng trải rất quan trọng để bạn tự tin và bảo đảm cho công tác lãnh đạo của bạn. Đừng đi qua suốt cuộc sống Cơ-đốc của bạn để phân vân tự nhủ bạn vốn có thể hay đáng lẽ ra bạn đã phải là một người lãnh đạo! Xin hãy bắt đầu thử nghiệm ngay đi!
Hãy bắt đầu từ một việc nhỏ. Xin đừng đến với ông mục sư của bạn và nói: “Tôi thích làm người hướng dẫn cho lớp học 200 người này!” Nếu ông mục sư của bạn là người khôn ngoan, ông ta sẽ chẳng bao giờ giao loại trách nhiệm đó cho một người chẳng có chút từng trải làm người lãnh đạo thuộc linh nào cả. Hãy nhận một trách nhiệm dưới quyền lãnh đạo của một người lãnh đạo nào đó. Hãy trung tín trong một số ít việc, thì tài lãnh đạo của bạn sẽ tăng trưởng đến nhiều việc.
Điều quan trọng nhất cần nhớ trong việc thu thập kinh nghiệm cho công tác lãnh đạo thuộc linh, là phải trung tín và đáng tin cậy. Đây có thể là một chức vụ nhỏ và vô nghĩa đối với bạn, nhưng phải tận tâm hoàn thành nó! Những người trung tín trong những việc nhỏ rất có triển vọng để được sử dụng trong những lãnh vực lớn hơn của sự phục vụ. Những người không thể tin cậy được, cho dù có rất nhiều cơ hội cũng sẽ chẳng bao giờ trở thành những người lãnh đạo thuộc linh mạnh mẽ.
Trắc nghiệm 5: Được nhiều người khác xác nhận
Có ai khác nghĩ rằng bạn là một người lãnh đạo (ngoài cha mẹ bạn) hay không? Trước khi bạn tra xét xem mình có phải là một người lãnh đạo thuộc linh hay không, thì tốt hơn hết là bạn nên quan sát xem những người khác đang nói gì. Chính vì thế mà thời gian rất cần thiết cho việc đánh giá những người lãnh đạo thuộc linh. Phải có thì giờ để quan sát con người hành động. Phải có thì giờ để xác định sự trung thành và sự đáng tin cậy.
Mấy năm trước đây, có một thanh niên trong Hội thánh chúng tôi cảm thấy Chúa muốn anh ta trở thành một người lãnh đạo thuộc linh. Anh ta cho chúng tôi biết việc đó, như điều anh phải làm. Nhưng hãy còn thiếu một điều: việc được những người khác xác nhận. Khi hỏi về sự hữu hiệu của anh ta, thì nhiều người tỏ ra nghi ngờ và thắc mắc về anh ta. Chúng tôi còn phải chờ thêm ít lâu nữa (đây là một lời khuyên tốt!).
Các tín đồ trong lãnh vực phục vụ của anh ta không phục cách lãnh đạo của anh ta. Có lẽ họ sai lầm. Có lẽ có chút gì “cá nhân” trong đó. Hãy để cho anh ta được hưởng lợi thế của một điểm nghi ngờ. Chúng tôi rà soát lại với nhiều người khác trong một lãnh vực phục vụ khác. Bản tường trình vẫn y như thế. Trong những cuộc thảo luận ấy, nhiều người vẫn tiếp tục phản ảnh hoài nghi công tác lãnh đạo của anh ta. Chỉ có chúng tôi phải đưa ra quyết định chăng? Chúng tôi quyết định không sử dụng anh ta vào một công tác lãnh đạo đặc biệt trước khi tài lãnh đạo thuộc linh của anh ta trở thành hiển nhiên hơn đối với những người cùng làm việc với anh ta.
Lời góp ý của các thành viên khác trong Thân thể Chúa Cứu Thế rất quan trọng để xác định chức vụ lãnh đạo thuộc linh. Nếu tất cả mọi người đều thắc mắc đặt vấn đề về chức vụ lãnh đạo của một người, thì có thể nghi ngờ việc người ấy có thể thành công trong chức vụ lãnh đạo!
Trắc nghiệm 6: Các kết quả
Trong lúc bạn thực thi công tác lãnh đạo của mình, đã có kết quả gì không? Có những chỉ tiêu nào đã đạt được? Các tín đồ có được thách thức, tuân thủ kỷ luật để trở thành môn đệ, tự nguyện đăng ký tham gia công tác không? Các tín đồ có hưởng ứng tích cực không?
Các chỉ tiêu đặc thù và có thể đo lường được rất quan trọng để xác định các kết quả của công tác lãnh đạo thuộc linh. Các chỉ tiêu là một nền tảng vững chắc cho việc thẩm định.
Một mùa hè nọ, tôi thấy một người thực thi tài lãnh đao tuyệt vời khi ông ta tự mình huy động hơn 500 người để làm một công tác chỉnh trang các tiện nghi của Hội thánh chúng tôi. Có lẽ có một số người nghi ngờ tài lãnh đạo của ông ta, nhưng các kết quả đã chứng minh rằng ông ta quả là một người lãnh đạo. Ông ta đã hoàn thành các chỉ tiêu đề ra trong thời hạn quy định và với số kinh phí cho phép.
Ta có thể nhìn thấy kết quả trong đời sống những người được rèn luyện và có động cơ thúc đẩy trong công tác lãnh đạo. Họ có phải là những người sinh lợi không? Điều này làm chứng tốt cho tài lãnh đạo của một người biết dốc đổ thì giờ và năng lực của mình vào đó. Không phải lúc nào cũng được những người bên ngoài chú ý, nhưng người thật sự có tài lãnh đạo thuộc linh có thể được đánh giá căn cứ vào việc mọi người làm việc cho người ấy và dưới quyền người ấy có hiệu quả thế nào.
Các kết quả khác cần thẩm định là năng suất và hạnh phúc của những người cộng tác với người lãnh đạo. Khi mọi sự cứ thường xuyên rối tung cả lên, thì có thể thắc mắc đặt vấn đề đối với công tác lãnh đạo.
Trắc nghiệm 7: Kiến thức
Bạn biết được gì về công tác lãnh đạo? Bạn có đọc các sách viết về vấn đề ấy không? Chúng sẽ rất hữu ích. Chẳng hề có quyển nào trong các sách đó có câu trả lời cuối cùng cho việc trở thành người lãnh đạo, nhưng chúng sẽ chẳng làm gì hại bạn đâu! Bạn có tham dự những cuộc hội thảo hay hội nghị nào về vấn đề lãnh đạo và quản trị?
Riêng tôi thì tin rằng các cuộc hội thảo, các lớp tu nghiệp và các trường cao đẳng đào tạo người cho công tác lãnh đạo thuộc linh phải có các giáo trình trong chương trình học tập của họ, đề cập đến chức vụ lãnh đạo thuộc linh. Các giáo trình ấy chẳng những chỉ đòi hỏi phải đọc nhiều sách trong các lãnh vực lãnh đạo và quản trị, mà còn phải tìm cách cung cấp cho các sinh viên nhiều kinh nghiệm có giá trị trong việc rèn luyện tài lãnh đạo.
Hãy học tập tất cả những gì bạn có thể học hỏi được về công tác lãnh đạo. Hiện có rất nhiều sách trong tầm tay bạn (cả sách trong đạo lẫn ngoài đời). Cũng hãy học tập đời sống của những người đang là các cấp lãnh đạo thuộc linh. Hãy học hỏi nghiên cứu những gì họ làm và cách họ làm mọi việc. Hãy học những gương mẫu của các nhà lãnh đạo thuộc linh trong Thánh Kinh. Kiến thức về lãnh đạo sẽ giúp bạn phát triển chính tài lãnh đạo của bạn.
Kiểm Điểm Các Chứng Cứ
Hãy lấy bảy trắc nghiệm này và tự đánh giá chính bạn theo biểu đồ dưới đây. Chứng cứ cho mỗi trắc nghiệm có vững mạnh không, có nghĩa là một sự việc liên tục đối với bạn không? Hay nó rất yếu kém, ngụ ý rằng trắc nghiệm ấy chỉ có thể ứng dụng vào một số ít các trường hợp mà thôi? Loại chứng cứ “yếu kém” chỉ thị sự cần thiết phải dành nhiều thì giờ và cơ hội hơn cho việc đánh giá. Có lẽ phần chứng cứ vẫn chưa thấy có trong đời sống của bạn. Nếu là như thế, hãy đánh dấu vào loại “không”.
1. Tiếng gọi của Chúa
2. Hoài bảo cá nhân
3. Trưởng thành
4. Từng trải
5. Được người khác xác nhận
6. Kết quả
7. Kiến thức
Đừng thất vọng vì kinh nhiệm của quá khứ hay những khó khăn trong hiện tại. Chúa có quyền khiến bạn trở thành người lãnh đạo mà Ngài muốn bạn phải trở thành! Hãy tin cậy Ngài và trông cậy vào quyền năng và sức lực của Ngài! Nếu hoài bảo của bạn là chức vụ lãnh đạo, hãy cầu nguyện hằng ngày để Chúa phát triển và củng cố tài lãnh đạo của bạn. Hãy cầu xin Ngài ban cho bạn sự khôn ngoan dành cho công tác lãnh đạo đó.
Có nhiều lúc bạn sẽ cảm thấy rằng trở thành một người lãnh đạo thật chỉ bõ công. Bạn sẽ bị người ta phiền trách chê bai vì địa vị lãnh đạo của mình. Mọi sự sẽ không biến chuyển theo cách bạn mong muốn hay trù hoạch đâu. Sẽ có nhiều tranh chấp và vấn đề cá nhân. Người khác sẽ bất mãn và bị xúc phạm do cách bạn xử lý mọi việc. Nhiều người khác sẽ chống lại bạn và phản đối quyền lãnh đạo của bạn. Nhiều lúc thật dễ nói rằng “Tôi bỏ cuộc”. Hãy cất đi mấy tiếng ấy khỏi ngữ vững của bạn ngay từ bây giờ! Đừng bao giờ từ chức, bỏ cuộc! Bạn có thể đổi thay các sự việc hoặc tình hình; nhưng đừng bao giờ bỏ cuộc!
Sẽ có ngày bạn thấy mọi công sức mình đã bỏ ra thật là xứng đáng khi nghe Cứu Chúa phán rằng: “Tốt lắm, con rất ngay thật trung hành”. Điều chúng ta cần, là lời tán thưởng của Ngài. Thưa bạn là người lãnh đạo thân mến của tôi, nó rất đáng bõ công, không những chỉ vì phần thưởng tương lai, mà cả vì phước hạnh hiện tại nữa.
Công tác lãnh đạo không phải dễ dàng, nhưng nó xứng đáng với công sức của chúng ta. Tôi yêu thích nó. Còn bạn thì thế nào? Trong vấn đề lãnh đạo, tôi không muốn mọi việc trong cuộc đời mình phải đổi khác đi, Tôi không xứng đáng làm người lãnh đạo, nhưng tôi ao ước nó. Tôi muốn làm điều tốt nhất mình có thể làm được vì vinh quang của Chúa Cứu Thế Giê-xu tôi! Tôi cần được Ngài trợ giúp hằng ngày, và điều đó được mọi người cùng cộng tác với tôi nhìn thấy rõ ràng! Tôi không phải là một người hoàn toàn, cũng không biết tất cả những gì cần phải biết về công tác lãnh đạo. Nhưng tôi đang thử, đang cố gắng. Tôi đang tiến đến, và bạn cũng phải làm như thế! Mọi người chúng ta đều có thể học tập. Mọi người và mọi hoàn cảnh tình hình đều là giáo sư của chúng ta!
Các nhà lãnh đạo vốn nhờ học tập rèn luyện mà thành, chứ không phải là bẩm sinh! Do đó, mọi người chúng ta đều có hy vọng! Chúa có thể khiến chúng ta trở thành các nhà lãnh đạo mà Ngài muốn chúng ta phải trở thành! Nguyện danh kỳ diệu của Ngài được ca ngợi tán tụng!


Related link

Latest Features

Weather

Facebook comments