STEPHEN R.COVEY
7 THÓI QUEN CỦA NGƯỜI THÀNH ĐẠT
Các
bài học hiệu quả để biến đổi bản thân
Mục lục
Lời mở 04
Phần 1: Các
mẫu mực và các nguyên tắc 05
Từ trong ra ngoài 06
Lược qua bảy thói quen 32
Phần 2: Thắng
lợi của cá nhân 40
Thói quen 1: TIÊN PHONG HÀNH ĐỘNG 41
Những nguyên tắc để nhìn xa trông rộng 42
Thói quen 2: LUÔN NHẮM TỚI MỤC TIÊU 69
Những nguyên tắc để lãnh đạo 70
Thói quen 3: CÁI GÌ TRƯỚC LÀM TRƯỚC 99
Những nguyên tắc để xoay sở, điều hành 100
Phần 3: Thắng
lợi của tập thể 117
Các mẫu mực về sự tương thuộc 118
Thói quen 4: LỐI SUY NGHĨ
CÙNG NHAU CHIẾN THẮNG 129
Những nguyên tắc để lãnh đạo tập thể 130
Thói quen 5: HIỂU NGƯỜI TRƯỚC,
RỒI NGƯỜI HIỂU TA 144
Những nguyên tắc để thông hiểu nhau 145
Thói quen 6: HIỆP LỰC 159
Những nguyên tắc để hợp tác sáng tạo 160
Phần 4: Sự đổi
mới 171
Thói quen 7: LUÔN TRAU DỒI 172
Những nguyên tắc để
đổi mới bản thân một cách quân bình 173
Lời mở
Trong 7 thói quen của người thành đạt, tác giả muốn giới
thiệu một phương pháp kết hợp toàn diện và thực tiễn để giải quyết các vấn đề về
tính cách con người và sự nghiệp.
Bằng những giai thoại sâu sắc và ý vị, tác giả cho ta
thấy từng bước của con đường phải đi sống một cuộc đời trung thụ; nhất quán, lương
thiện và xứng với nhân phẩm. Đó là những đức tín giúp chúng ta an tâm thích ứng
với những đổi thay, đồng thời cho chúng ta sự khôn ngoan và sức mạnh để tận dụng
mọi cơ hội mà sự thay đổi tạo ra.
Trong 7 thói quen của người thành đạt, bằng trực giác
nhạy bén của mình, tác giả cống hiến cho chúng ta cơ hội để khám phá bản thân
và gây ảnh hưởng trên người khác.
Đây là cuốn sách kỳ diệu có thể biến đổi cuộc đời mỗi
chúng ta.
Phần 1
CÁC MẪU MỰC VÀ CÁC NGUYÊN TẮC
Từ trong ra
ngoài
Chẳng có sự vượt
trội đích thực nào trong cả thế gian này lại bị chia cách khỏi cuộc sống phải lẽ.
David Starr
Gordan
Trong hơn 25 năm lăn lộn trong giới kinh doanh, theo học
đại học, rồi lập gia đình, ổn định cuộc sống, tôi có dịp gặp nhiều con người,
những cá nhân có mức độ thành đạt bên ngoài đến khó tin, đồng thời lại thấy bản
thân họ vật lộn với sự đói khát nội tâm, một nhu cầu sâu thẩm cho sự tương đẳng,
sự thành đạt và một cuộc sống lành mạnh, phát triển các mối quan hệ với những
người khác.
Tôi đâm ra ngờ vực một số trong những vấn đề họ đã
chia sẽ với tôi, mà có lẽ với bạn lại thân quen.
Nào là:
Tôi đã đặt ra
và đã bắt kịp các mục tiêu của nghề nghiệm, để rồi gặt hái được thành quả
chuyên môn lớn lao, nhưng tôi đã phải trả giá bằng cuộc sống cá nhân và gia đình
tôi. Tôi chẳng màng gì đế vợ con. Tôi còn chẳng hiểu về mình và điều gì thực sự
là quan trọng đối với tôi. Tôi đã phải tự hỏi – có đáng phải như vậy không?
Tôi đã bắt đầu
một đợt ăn kiêng mới – dễ đến lần thứ 15 trong năm nay. Tôi biết mình béo mập
và thực lòng tôi muốn thay đổi. Tôi đọc mọi thông thin mới, tôi đặt mục tiêu,
chuẩn bị lên gân cốt để lấy tinh thần và tự nhủ là mình có thể thực hiện được điều
đó. Thế mà tôi có làm được đâu. Sau một vài tuần, tôi lại xìu đi. Đến cả điều tự
hứa với mình mà cũng chẳng làm nổi.
Tôi đã theo học
hết khóa quản lý này đến quản lý khác để rèn luyện kỹ năng làm sao quản lý cho
có hiệu quả. Tôi hy vọng rất nhiều trong các công nhân của tôi và tôi đã hết sức
tỏ ra thân thiện với họ và xử sự phải lẽ với họ. Nhưng tôi chẳng thấy họ tỏ ra
trung tín gì cả. Tôi nghĩ nếu tôi đau mà phải nằm nhà vài ngày, thế nào họ cũng
dùng phần lớn thời gian để bù khú với nhau bên vòi phun. Sao tôi không huấn luyện
cho họ tính độc lập và tinh thần trách nhiệm hoặc tìm những công nhân có những đức
tính ấy?
Cậu con trai
mới lớn của tôi thật bướng bỉnh. Tôi có nói cách nào nó cũng chẳng thèm nghe.
Phải làm sao bây giờ?
Có quá nhiều
việc phải làm. Chẳng làm sao có đủ thời gian. Suốt ngày, lúc nào tôi cũng vội
và gặp những chuyện bực bội, ngày nào cũng thế, đủ bảy ngày trong tuần. Tôi đã đi
dự buổi hội thảo về việc sắp xếp thời gian và đã vạch cho mình đến nửa tá kế hoạch
khác nhau. Xem ra chúng giúp ích ít nhiều cho tôi, nhưng tôi vẫn cảm thấy mình
sống không được hạnh phúc, hiệu quả, an nhiên như tôi muốn.
Tôi muốn dạy các con tôi về giá trị của lao động. Nhưng
hễ bảo chúng làm việc gì là tôi phải giám sát từng ly từng tí… và lại phải la rầy.
Chẳng thà làm lấy quách cho rồi, như vậy khéo còn dễ chịu hơn. Tại sao con cái
không vui vẻ làm việc mà không cần phải nhắc nhở?
Tôi bận rộn – thật bận rộn. Nhưng đôi khi tôi nghĩ nếu
những gì mình đang làm, có thể về lâu về dài, làm được điều gì thay đổi. Tôi thực
sự thích nghĩ là cuộc sống của tôi có ý nghĩa, rằng một cách nào đó nhiều cái
khác đi vì tôi đang hiện diện ở đây.
Cuộc hôn nhân của tôi trôi đi đơn điệu. Chẳng có gì lục
đục lắm; nhưng cũng chẳng thấy thương yêu nhau. Chúng tôi đã tìm đến tư vấn ;
chúng tôi đã cố gắng ở một số điều, nhưng chúng tôi hình như không thể nhen
nhóm lại tình cảm mà chúng tôi đã có với nhau.
Đó là những vấn đề sâu thẳm, đáng buồn – những vấn đề
mà các
cách tiếp cận tạm thời không thể nào giải quyết được.
Vài năm trước, vợ tôi và tôi đã tranh luận về những mối
bận tâm này. Một trong các cậu con trai của chúng tôi gặp rắc rối trong vấn đề
học vấn. Về mặt xã hội, nó lại non nớt, thường lúng túng khi đứng trước người
khác. Còn về thể thao, nó là một thằng bé nhỏ con, gầy yếu và thiếu sự phối hợp
– nên lúc nào cũng bị bạn bè cười chê.
Vợ tôi và tôi
héo hon vì chỉ mong sao giúp đỡ được nó. Chúng tôi có cảm tưởng là nếu “thành
công” là điều quan trọng trong mọi lãnh vực của cuộc sống, hẳn nó hệ trọng biết
bao trong vai trò làm cha mẹ của chúng tôi. Chính vì thế mà chúng tôi cứ mãi phải
quan tâm đến nó. Chúng tôi động viên, khuyến khích nó để nó lên tinh thần, “Nào cố lên con! Con có thể làm được mà! Cha biết con
làm được mà. Đặt tay con cao hơn chút nữa trên cây gậy và nhìn kỹ vào trái
banh. Đừng vụt vội khi trái banh chưa tới gần” và nếu nó chơi khá hơn một chút, chúng tôi làm mọi cách để ủng hộ nó “Tốt
rồi, con Cứ thế mà tiến”.
Nếu có ai phá ra cười, chúng tôi liền bảo, “Kệ nó nào. Nó còn đang tập mà”. Nhưng
thằng con tôi bật khóc, khăng khăng bảo rằng nó chẳng thể khá hơn được, nó chẳng
thích môn bóng chày tí nào.
Thế là chúng tôi đành chịu và thật lo lắng. Chúng tôi
cố giúp nó thêm, nhưng cứ thất bại mãi. Thôi, đành tính cách khác vậy.
Thời gian đó, trong vai trò chuyên môn của tôi, tôi phải
lãnh đạo việc triển khai với nhiều khách hàng khác nhau trên khắp cả nước.
Trong tư cách đó, tôi đang chuẩn bị các chương trình mỗi tháng hai lần về đề
tài truyền thông và nắm bắt về những người tham gia Chương Trình Phát Triển về
Quản Trị của IBM.
Khi tôi nghiên cứu và chuẩn bị những điều cần trình
bày, tôi đặc biệt lưu ý là làm thế nào những nhận thức này được hình thành và
làm thế nào chúng chi phối đường lối mà chúng tôi trông thấy và đường lối chúng
tôi nhìn thấy thế nào sẽ chi phối đến cách xử sự của chúng tôi ra sao. Điều này
dẫn dắt tôi tìm tòi học thuyết về sự triển vọng và những dự kiến làm sao tự
hoàn thành những ước vọng, đồng thời dẫn dắt tôi nhận ra các nhận thức của
chúng tôi đã bám rễ sâu như thế nào. Nó dạy tôi biết rằng chúng tôi phải nhìn
vào lăng kính để qua đó chúng tôi thấy về thế giới, cũng như vào thế giới mà
chúng tôi thấy và dạy tôi biết là chính lăng kính ấy hình thành cách chúng tôi
giải thích về thế giới.
Khi vợ tôi và tôi chuyện trò về những khái niệm mà tôi
đang dạy ở IBM và về hoàn cảnh của chính chúng tôi, chúng tôi bắt đầu nhận ra
là những gì chúng tôi đang làm đã giúp cậu con trai của chúng tôi không hài hòa
với cách mà chúng tôi nhìn thấy nó một
cách đích thực. Khi chúng tôi thực lòng thử nghiệm những tình cảm sâu xa nhất của
chúng tôi, chúng tôi nhận ra là đứa con của chúng tôi quả thiếu trưởng thành về
mặt tâm lý, thiếu thích ứng, một cách nào đó còn “tụt hậu”. Nên dù có làm cách
nào và nỗ lực đến đâu, những cố gắng của chúng tôi đều vô hiệu, vì những hành động
và các lời nói của chúng tôi, những gì chúng tôi đã thực lòng muốn truyền đạt
cho con, đều như ngầm bảo, “Con không có khả năng. Con phải được che chở”.
Chúng tôi bắt đầu nhận ra, nếu chúng tôi muốn thay đổi
hoàn cảnh, trước hết chúng tôi phải thay đổi chính bản thân chúng tôi. Mà muốn
thay đổi bản thân hữu hiệu, chúng tôi phải thay đổi các nhận thức của chúng tôi.
Đạo đức về nhân cách và tính cách
Cùng thời gian đó, để tăng cường cho việc nghiên cứu về
nhận thức, tôi còn mãi mê nghiên cứu sâu về các tác phẩm văn học thành đạt được
xuất bản trong nước (Mỹ) từ năm 1776. Tôi đã đọc và xem xét kỹ hàng trăm cuốn
sách, các đề tài và những bài tiểu luận về các lãnh vực như sự tự cải thiện,
tâm lý quần chúng và sự tự lực. Trong tay tôi là toàn bộ và chất liệu về những
gì mà một người tự do và dân chủ coi như những chìa khóa mở vào cuộc sống thành
đạt.
Thật là điều tương phản ghê gớm, hầu như tất cả các
tác phẩm văn chương trong thời kỳ đầu (150 năm đầu) đều tập trung vào điều được
gọi là Đạo đức về tính cách như một nền tảng của sự thành công – những
điều như tính chính trực, tính khiêm nhu,
lòng trung tín, sự tiết độ, lòng dũng cảm, sự công bằng, lòng kiên nhẫn, tính cần
mẫn, sự giản dị, sự nhã nhặn và khuôn vàng thước ngọc. Tự truyện của
Benjamin Franklin là một điển hình về tác phẩm văn chương ấy. Về căn bản, nó là
câu chuyện về nỗ lực của một con người nhằm tích hợp những nguyên tắc và những
lề thói nhất định nằm sâu trong bản tính tự nhiên của người đó.
Đạo đức về tính cách dạy rằng, có những nguyên tắc để đạt
được cuộc sống thành đạt và một người chỉ có thể trải nghiệm sự thành công đích
thực và hạnh phúc lâu bền một khi anh ta học biết và hội nhập những nguyên tắc ấy
vào tính cách cơ bản của anh ta.
Nhưng ngay
sau Thế Chiến thứ I, quan điểm về sự thành công đã thay đổi từ Đạo Đức về Tính
Cách sang một thứ mà chúng ta có thể gọi là Đạo Đức về Nhân Cách. Sự thành công
trở nên một trách nhiệm cá nhân hơn, mang hình ảnh đại chúng hơn, có tính chất
liên quan đến quan điểm và cách ứng xử hơn, khéo léo và có phương pháp hơn, nhằm
làm cho các tiến trình tương tác của con người xuôi xả hơn. Đạo Đức về Nhân
Cách này thực chất cần hai hướng: một là các phương pháp về các mối tương quan
cá nhân và tập thể và cái kia là thái độ tinh thần tích cực. Cách nào đó, triết
lý này diễn đạt do cảm ứng và theo các câu châm ngôn giá trị như: “Quan điểm
nói lên tầm cao của bạn”, “Vui vẻ để thêm bạn bớt thù” và “Những gì bạn thai
nghén và tin tưởng chắc hẳn bạn có thể giành được.”.
Các mặt khác của sự tiếp cận cá nhân rõ ràng là sự lôi
cuốn, có khi cả chút gì gọi là mánh khóe, để giúp họ sử dụng các phương pháp để
làm cho người khác thích họ, hay để làm ra vẻ quan tâm đến các sở thích riêng của
những người khác để bắt họ nói ra những gì họ muốn, hoặc để sử dụng “phong cách
có sức hấp dẫn”, hoặc để ép buộc đường lối của họ suốt cuộc sống.
Một số trong tác phẩm văn chương này thừa nhận tính
cách như một cấu thành của sự thành công, nhưng thiên về việc chia thành ngăn hơn
là nhận ra nó như một điều gì nền tảng và như chất xúc tác. Việc nhắc đến Đạo Đức
về Tính Cách hầu như trở thành một công việc có tính chất đầu môi chót lưỡi; sức
ép cơ bản là những phương pháp tác động như phương thuốc tạm thời, là những chiến
lược về quyền lực, những kỹ xảo trong việc thông tri và những quan điểm tích cực.
Tôi bắt đầu
nhận ra Đạo Đức về Tính Cách này là nguồn tiềm thức về những giải pháp mà vợ
tôi và tôi đang cố gắng sử dụng với cậu con trai của chúng tôi. Khi tôi nghĩ
sâu xa hơn về sự khác biệt giữa Đạo Đức về Nhân Cách và Đạo Đức về Tính Cách,
tôi nhận ra là vợ tôi và tôi đã đang làm cho sự thuận lợi xã hội cách biệt cách
xử sự tốt của con cái và dưới mắt chúng tôi, cậu con này đơn giản là không vượt
thắng được. Cái kiểu cứ cho rằng cha mẹ chu đáo với con cái là tốt mà không cần
đếm xỉa đến sự hạnh phúc của con cái.
Khi chúng tôi thảo luận, tôi thật đau lòng nhận ra sự ảnh
hưởng uy quyền, những động cơ và sự nhận thức của chúng tôi về con. Chúng tôi
biết rằng những động cơ có tính chất so sánh xã hội không hài hòa với những giá
trị sâu xa hơn của chúng tôi và có thể dẫn đến thứ tình yêu có điều kiện và cuối
cùng dẫn đến cảm nhận về giá trị bản thân của đứa con bị thu hẹp. Vì thế, tôi
quyết định tập trung những nỗ lực về chúng
tôi – không phải về những kỹ năng, nhưng về những động cơ sâu xa nhất và về
nhận thức của chúng tôi về con. Thay vì cố gắng thay đổi con, chúng tôi cố gắng
đừng cách ra một bên – để phân cách chúng
tôi với con - và để hiểu đặc điểm,
con người, tính cách riêng và giá trị của con.
Nhờ suy nghĩ sâu xa và niềm tin tưởng ấy, chúng tôi bắt
đầu nhìn
con trai của chúng tôi bằng chính tính cách đặc thù của con. Chúng tôi đã thấy
bên trong con từng lớp lớp tiềm năng có thể nhận ra nơi chính nhịp độ tiến triển
và thành công của con. Chúng tôi quyết định nới lỏng và không can thiệp vào
cách thế của con và để cho nhân cách của con nổi bật lên. Chúng tôi đã thấy
vai trò tự nhiên của chúng tôi là hiện diện để khẳng định, vui hưởng và lượng
giá con. Chúng tôi còn tiếp tục tác động một cách có ý thức lên những động cơ của
chúng tôi và nuôi dưỡng các nguồn bảo vệ nội tâm ngõ hầu những cảm nhận về giá
trị của chúng tôi không phụ thuộc vào cách xử sự “đáng tán thưởng” của con cái.
Khi chúng tôi nới lỏng nhận thức cũ của chúng tôi về
con trai mình và phát huy những động cơ dựa trên giá trị, những tình cảm mới bắt
đầu trào dâng. Chúng tôi thấy bản thân chúng tôi vui thỏa về con thay vì so
sánh và phê phán con. Chúng tôi thôi không áp đặt con theo hình ảnh riêng của
chúng tôi hay đo lường con, ngược lại những trông mông của xã hội. Chúng tôi
thôi không khăng khăng nhào nặn con theo một khuôn mẫu xã hội có thể chấp nhận
nào. Vì chúng tôi nhận ra nơi con sự tương hợp cơ bản và khả năng đương đầu với
cuộc sống. Chúgn tôi thôi không bảo vệ con chống lại sự nhạo báng của người
khác.
Con tôi đã được dưỡng dục theo cách bảo bọc này, hẳn
sao tránh khỏi một số đau buồn vì cảm thấy như bị trơ trọi. Nhưng như thế không
phải là chúng tôi cố ý bảo con, “Con không cần sự bảo bọc nữa”, mà là như ngầm
nói với con, “Về cơ bản như vậy là được, con ạ”.
Thời gian trôi qua, con tôi bắt đầu cảm thấy tự tin
hoàn toàn và khẳng định được bản thân. Nó bắt đầu phát huy ưu điểm, nơi chính
nhịp độ tiến triển và thành công của nó. Nó bắt đầu vượt trội khi được đo lường
bằng tiêu chuẩn xã hội – cả về mặt lý thuyết, xã hội và thể thao - ở một mức tiến
nhanh, vượt xa cái gọi là tiến trình phát triển tự nhiên. Rồi năm tháng qua đi,
nó được chọn vào nhóm thành viên lãnh đạo, phát huy trên mọi lãnh vực thể dục
thể thao, mang về những thành tích thượng hạng. Đứng trước cử tọa gồm nhiềm
thành phần, nó báo cáo thành tích với một sức lôi cuốn nhưng nhân cách thật
chân chất.
Chúng tôi tin tưởng rằng những thành tựu đầy “ấn tượng
xã hội” của con trai chúng tôi không phải là thứ thành tựu cầu may, nhưng thật
tương xứng với phần thưởng xã hội dành cho nó. Thật là một kinh nghiệm hết sức
ngỡ ngàng đối với chúng tôi và có tác động nơi các con của chúng tôi. Chúng tôi
càng thấy sự khác biệt chủ yếu giữa Đạo Đức về Nhân Cách và Đạo Đức về Tính
Cách của sự thành công.
Sự trọng đại chính yếu và thứ yếu
Kinh nghiệm của
tôi về cậu con trai, nghiên cứu của tôi về nhận thức và việc tôi đọc tác phẩm văn
chương thành đạt đã kết lại để tạo nên một trong những nỗi niềm “hân hoan”
trong cuộc sống khi các sự việc bỗng dưng nhắp đúng chỗ. Tôi bỗng có thể thấy sự
tác động mạnh mẽ của Đạo Đức về Nhân Cách và để hiểu rõ những điều có vẻ mơ hồ,
thường là những điều trái ngược khó nhận ra một cách có ý thức giữa những gì
tôi biết là sự thật – một số là những gì tôi được dạy từ những năm còn nhỏ trước
đây và những điều nằm sâu trong cảm nhận thầm kín về giá trị - và những triết
lý thoáng qua vây bọc tôi mỗi ngày. Qua bao năm, khi tôi làm việc với bao người,
tận đáy lóng tôi đã hiểu tại ao tôi đã thấy rằng các điều tôi đã dạy và biết là
thường có ảnh hưởng khác với những tiếng nói của đại chúng.
Tôi không cho là những yếu tố của Đạo Đức về Nhân Cách
– sự phát triển nhân cách, việc huấn luyện kỹ xảo giao tiếp và sự giáo dục trên
lãnh vực các kế hoạch gây ảnh hưởng và việc suy nghĩ tích cực – chẳng lẽ lại chẳng
mang lại lợi ích gì, kể cả có khi là điều chính yếu để thành công. Tôi tin
chúng là như vậy. Có điều chúng chỉ là thứ yếu chứ không phải chính yếu. Có lẽ,
trong việc tận dụng khả năng của con người để thiết lập trên nền tảng của những
thế hệ trước chúng ta, chúng ta đã vô tình trở thành quá tập trung vào việc tự
tạo bản thân mình mà quên đi nền tảng để nâng nó lên, hay thu hái nhiều hơn những
gì chúng ta đã gieo, mà có lẽ chúng ta còn quên gieo nữa.
Nếu tôi cố gắng dùng những kế hoạch và những mưu kế
gây ảnh hưởng của con người để làm thế nào làm cho người khác làm những gì tôi
muốn, làm cho người khác làm việc tốt hơn và năng động hơn, làm cho người khác
thích thôi và thích nhau – trong khi về cơ bản, tính cách của tôi không hoàn
thiện, bị mang tiếng là kẻ hai lòng và thiếu thực tâm – để rồi, về lâu về dài,
tôi không thể thành công. Tính cách hai lòng của tôi sẽ nuôi dưỡng dự bất tín
và mọi điều tôi làm – kể cả khi dùng những kỹ năng quan hệ tốt đẹp – sẽ được hiểu
là mánh khóe lôi cuốn, chẳng thể có được sự thành công lâu dài. Chỉ có lòng tốt
cơ bản mới mang lại cho cuộc sống đạt đến một kỹ năng.
Chẳng hạn việc học có tính chất nhồi nhét, có thể thỉnh
thoảng giúp bạn vượt qua và được xếp thứ hạng tốt, nhưng nếu bạn không trả giá
ngày này qua ngày khác, bạn chẳng bao giờ đạt được sự tinh thông thật sự về các
môn mà bạn học hay phát triển trí tuệ của người có ăn học.
Hay trong việc đồng áng cũng vậy, nó là một công việc
luân chuyển theo một trật tự tự nhiên. Bạn cần ra công ra sức và mọi cái cứ thế
tiến triển. Bạn chỉ gặt những gì bạn gieo; không thể đi đường tắt được.
Nguyên tắc này cũng đúng với cách xử sự của con người
và các mối tương quan của con người. Và chúng còn là các phương thức tự nhiên dựa
trên luận nhân quả (gieo gì gặt náy!). Nếu chỉ tính đến những cái trước mắt, có
thể bạn dùng Đạo Đức về Nhân Cách để vượt qua và để gây những ấn tượng thuận lợi
qua sức quyến rũ, mánh lới và giả cách như thể quan tâm đến những sở thích của
người khác, để có thể đạt được những vị trí nhất thời. Nhưng nếu chỉ những đặc điểm
thứ yếu ấy chẳng thể mang lại giá trị lâu bền trong các mối quan hệ lâu dài, mà
chỉ là sự thành công nhất thời, hời hợt.
Nhiều người chỉ biết dùng những cách thế thứ yếu – sự
thừa nhận của xã hội đối với các tài năng của họ - mà thiếu điều trọng đại chính
yếu hay lòng tốt, hào hiệp trong tính cách của họ. Sớm hay muộn, trong các mối
quan hệ lâu dài như trong việc cộng tác làm ăn, cuộc sống vợ chồng, tình bạn và
khi con cái gặp cơn khủng hoảng, sẽ cho thấy tính nhất thời của nó. Họ giống như
điều mà Emerson có lần đã nói: “Những điều bạn thét vào hai tai tôi khiến tôi
chẳng thể nghe thấy những gì bạn nói”.
Tất nhiên, cũng có khi vì thiếu những kỹ năng giao tiếp
đã gây ảnh hưởng nhất định đến chất lượng thông tri. Nhưng những ảnh hưởng ấy cũng
chỉ là thứ yếu. Vì trên đời này có những người chúng ta tin tưởng tuyệt đối vì
chúng ta biết tính cách của họ, cho dù họ có tài hùng biện hoặc những kỹ xảo
giao tiếp hay không, chúng ta vẫn tin tưởng họ và có thể cộng tác với họ tốt đẹp.
William George Jordan đã từng nói: “Mỗi con người đều được
trao tận tay một khả năng phi thường để làm điều thiện hay điều ác – thứ thế lực
thầm lặng, vô thức, vô hình của cuộc sống. Đơn giản đó là sự bức xạ bất biến về
con người thật của anh ta, chứ không phải là những gì anh ta làm ra vẻ thế này
thế nọ”.

Sức mạnh của mẫu mực
7 Thói quen
của người thành đạt biểu hiện những
nguyên tắc nền tảng về sự thành tựu của con người. Những thói quen này là cơ bản,
là điều chính yếu. Chúng tiêu biểu cho điều nhập tâm về những nguyên tắc mà nhờ
chúng để có được sự hạnh phúc lâu dài và sự thành đạt.
Nhưng trước khi chúng ta có thể thực sự hiểu 7 Thói quen này, chúng ta cần hiểu về
những “mẫu mực” của chính chúng ta và làm thế nào “thay đổi mẫu mực”.
Cả Đạo Đức về Tính Cách và Đạo Đức về Nhân Cách là những
gương về các mẫu mực xã hội. Từ mẫu mực xuất phát từ tiếng Hy Lạp. Gốc
của nó là một thuật ngữ khoa học và ngày nay thường được hiểu theo nghĩa một mô
hình, một học thuyết, một nhận thức, một giả thiết, hay một hệ thống tham khảo.
Theo một nghĩa phổ thông hơn, nó là cách chúng ta “nhìn” thế giới – không phải theo cách nhìn hữu hình, nhưng bằng việc
nhận thức, thấu hiểu và giải thích.
Chúng ta thường hiểu các mẫu mực theo cách nhìn chúng
như những tấm bản đồ. Tất cả chúng ta đều biết “bản đồ không phải là phần lãnh
thổ”. Bản đồ chỉ là một cách giải thích về các khía cạnh của phần lãnh thổ. Mẫu
mực đích thực là như thế đó. Nó là một thuyết lý, một sự cắt nghĩa, hay một mô
hình của một cái gì khác.
Giả thử chúng ta muốn đi tới một chỗ nào đó ở trung
tâm thành phố Hồ Chí Minh. Bản đồ đường xá của thành phố hẳn giúp ích bạn để đi
tới nơi dự định. Nhưng giả như bạn được trao cho một bản đồ sai. Chẳng hạn thay
vì bản đồ của thanh phố Hồ Chí Minh, mà lại là bản đồ của thành phố Hải Phòng
in lộn tên “thành phố Hồ Chí Minh” thì thử hỏi bạn sẽ tuyệt vọng đến thế nào
sau những nỗ lực vất vã của bạn để tìm tới đích. Lúc ấy, dù bạn có tiếp tục tác
động tới cách xử sự và dù bạn có thái độ, quan điểm tích cực đến mấy, để
tạm bằng lòng với nơi bạn tới, thì bạn vẫn là kẻ lạc đường. Vấn đề cơ bản là
cách xử sự và thái độ kia chẳng thay đổi được gì.
Còn nếu bạn có được tấm bản đồ đúng, lúc ấy sự chuyên
cần là điều quan trọng và khi bạn có chạm trán với những chướng ngại làm nản
lòng, thì thái độ, quan điểm tích cực của bạn có thể thực sự làm thay đổi. Nhưng
điều chính yếu là phải có một bản đồ chính xác.
Mỗi người chúng ta có thật nhiều bản đồ trong đầu,
chúng có thể được chia làm hai loại: những bản đồ về các vấn đề là, hay những thực
tại và những bản đồ về các vấn đề nên
là, hay những giá trị. Đôi lúc
chúng ta chất vấn về sự chính xác của chúng; và thường chúng ta còn chẳng biết
là chúng ta có chúng. Đơn giản là chúng ta thừa nhận cách chúng ta nhìn sự vật,
vấn đề theo cách chúng thực sự là và cách chúng nên là.
Thế rồi các quan điểm và hành vi của chúng ta phát
sinh từ những giả thiết đó. Cách chúng ta nhìn vấn đề là suối nguồn tạo ra cách
chúng ta suy nghĩ và hành động.
Trước khi đi xa hơn, tôi mời các bạn tỏ ra thông minh
và xúc cảm. Bỏ ra ít giây và nhìn vào bức tranh ở hai trang tiếp theo đây.
Nào, hãy nhìn vào bức tranh (2) và diễn tả cẩn thận những
gì bạn nhìn ra
(hình)
Có phải bạn nhìn ra đó là một phụ nữ? Bạn áng chừng
nàng bao nhiêu tuổi? Trông nàng thế nào? Nàng mặc gì vậy? Bạn nghĩ nàng có thể
có những vai trò gì?
Có lẽ bạn mô tả phụ nữ ở bức tranh (2) khoảng 2 tuổi –
rất dễ thương, ăn mặc thật đúng mốt với cánh mũi xinh xinh, nhỏ nhắn và một
dáng vẻ e ấp. Nếu bạn là một chàng trai độc thân, hẳn bạn muốn làm quen với
nàng. Còn nếu bạn được nghe thuật lại, có thể bạn muốn thuê nàng làm người mẫu.
Nhưng bạn nghĩ sao nếu tôi bảo bạn là bạn sai rồi? Nếu
tôi bảo bạn đó là một cụ bà sáu, bảy mươi tuổi trông ủ dột, có cái mũ to đùng,
áo quần xốc xếch thì sao? Đó là một người mà nếu gặp trên đường, bạn còn phải
giúp bà ta đi qua đường.
Vậy ai đúng, nào? Bạn nhìn lại bức tranh đi. Bạn có thể
thấy một cụ Bà chứ? Nếu chưa thấy, thử ngắm lại lần nữa. Bạn có thấy cái mũi
khoằm to tướng của bà lão không? Rồi chiếu khăn trùm đầu của bà ta nữa?
Nếu bạn và
tôi trực diện trao đổi với nhau, hẳn chúng ta có thể thảo luận về bức tranh. Bạn
thuật lại những gì bạn thấy cho tôi nghe và tôi cũng thế. Chúng ta có thể tiếp
tục thông tri cho nhau cho đến khi cả hai chúng ta nói rõ cho nhau nghe những gì
chúng ta thấy.
Vì chúng ta không thể làm điều đó, nào hãy mở tới
trang … có bức tranh thứ (3) và hãy quan sát bức tranh này nhiều lần. Giờ bạn
có thể thấy ra một bà cụ chứ?
Đây là một thực nghiệm ở một trường đại học trên cơ sở
đánh giá ba bức tranh. Một nửa số sinh viên được phát bức tranh (1), phân nửa
kia được phát bức tranh (3). Sau khi quan sát kỹ bức tranh mà mỗi sinh viên đang
cầm trên tay chừng 10 giây, vị giáo sư cho chiếu bức tranh (2) lên màn ảnh kèm
với hai bức tranh kia. Những sinh viên đã nhìn thấy hình ảnh người phụ nữ trẻ
liền thấy ngay dáng dấp trẻ trung của người phụ nữ và ngược lại, nửa số sinh
viên khác lại thấy ngay vẻ già nua của chị ta. Khi hai sinh viên ở hai nhóm đối
lập trao đổi qua lại với nhau những gì họ nhìn ra, các vấn đề thông tri lóe
lên.
Một bên khăng khăng cho rằng đó là một phụ nữ trẻ đẹp,
dễ thương, khoảng đôi mươi. Bên kia cho rằng đó chỉ là một mụ già 70, 80 đáng
yêu cái nỗi gì. Bên nào cũng bảo thủ quan điểm của họ, không dễ gì thay đổi. Mà
muốn thay đổi, họ vẫn bị lệ thuộc vào hình ảnh mà họ đã thấy lúc đầu. Nó không
còn là vấn đề của lý luận hợp lý, mà là vấn đề thuộc phạm vi tâm lý.
Tôi thường dùng sự thể hiện nhận thức này khi làm việc
với con người và các tổ chức vì nó cho ta thấy rõ ràng bản thân và ấn tượng sâu
sắc giữa cá nhân với nhau. Trước hết, nó cho thấy rằng việc ước định mạnh mẽ có
tác động các nhận thức, các mẫu mực của chúng ta. Nếu chỉ 10 giây mà đã ảnh hưởng
đến cách nhìn của chúng ta về sự việc, huống chi những ước định của cả cuộc đời?
những ảnh hưởng trong cuộc đời chúng ta – gia đình, trường học, giáo hội, môi
trường nơi làm việc, bạn bè, các quan hệ làm ăn và những mẫu mực xã hội như Đạo
Đức về Tính Cách – tất cả đều cứ âm thầm tác động lên chúng ta và giúp hình
thành khuôn mẫu của chúng ta.
Nó cũng cho thấy rằng những mẫu mực này là nguồn phát
sinh các quan điểm và cách xử sự của chúng ta. Chúng ta không thể hành động trọn
vẹn vượt ra ngoài những mẫu mực ấy.
Rồi chúng còn ảnh hưởng đến cách chúng ta tương tác với
những người khác. Họ cũng chịu những mẫu mực tác động của chúng ta.
Chúng ta cứ tưởng mình khách quan nhìn nhận thế giới. Nhưng đâu phải thế. Chúng ta nhìn thế
giới, không như nó là, mà như chúng ta là, như chúng ta đã được ước định
để nhìn nó. Khi chúng ta mở miệng mô tả những gì chúng ta thấy, thì thật ra
chúng ta diễn tả chính chúng ta, những nhận thức và các mẫu mực của chúng ta
khi có ai không thống nhất với chúng ta, chúng ta liền cho rằng họ sai. Nhưng
khi luận chứng đưa ra, những con người chân thực, nhạy bén sẽ thấy sự việc khác
đi, mỗi người nhìn qua thấy kính riêng theo kinh nghiệm.
Điều này không có nghĩa là không có vấn đề. Trong việc
dẫn chứng, hai con người lúc đầu đã chịu ảnh hưởng bởi hai bức tranh có qui ước
khác nhau cùng nhìn vào bức tranh thứ ba. Giờ đây cả hai cùng nhìn vào những sự
kiện – các đường vạch đen và những khoảng trống trắng – và có thể cả hai nhận
ra những điều này như những sự kiện. Nhưng cách giải thích của mỗi người về các
sự kiện này lại thể hiện những kinh nghiệm trước đó và các sự kiện chẳng có nghĩa
gì ngoài việc cắt nghĩa của mỗi người về chúng.
Càng biết rõ về những gì thuộc các mẫu mực, bản đồ,
hay giả thiết của chúng ta và tùy mức độ chúng ta chịu ảnh hưởng bởi các kinh
nghiệm của chúng ta, chúng ta càng chịu trách nhiệm về những mẫu mực đó, chúng
ta thử nghiệm chúng ngược với thực tại; rồi chúng ta lắng nghe người khác và đón
nhận các nhận thức của họ, do đó có được một bức tranh lớn hơn và một tầm nhìn
khách quan hơn nhiều.
Sức mạnh của
việc thay đổi mẫu mực
Có lẽ cái nhìn thấu suốt quan trọng nhất giành được từ
sự thể hiện nhận thức nằm trong phạm vị thay đổi mẫu mực, điều mà chúng ta có
thể gọi là niềm “hân hoan”, “kinh ngạc” khi một người, cuối cùng, cũng “nhìn
ra” bức tranh ghép kia theo một cách khác. Càng bị giới hạn bởi nhận thức ban đầu,
người đó càng tỏ ra rất đổi “kinh ngạc”. Nó như thể bước ngoặt bất ngờ từ bên
trong.
Từ ngữ thay đổi
mẫu mực được Thomas Kuln giới thiệu
trong cuốn sách làm cột mốc rất có ảnh hưởng của ông. Cuốn Cơ cấu của các cuộc cách mạng
khoa học. Kuln cho thấy hầu hết các bước đột phá đáng kể trong lãnh vực
nỗ lực của khoa học trước hết phải là phá bỏ những cách suy nghĩ cũ, những
khuôn mẫu cũ.
Đối với
Ptolemy, nhà thiên văn học tài ba của Hy Lạp, cho rằng trái đất là trung tâm của
vũ trụ. Nhưng Copernicus làm một thay đổi mẫu mực ấy, dù phải chịu nhiều chống đối
và ngược đãi, bằng cách đặt mặt trời vào vị trí trung tâm. Thế là bỗng nhiên
cái phải giải thích khác đi.
Khuôn mẫu của Platon về vật lý là một mẫu mực của sự
chính xác và đều đặn mà đến nay vẫn là cơ sở cho khoa công trình hiện đại. Nhưng
nó là một phần, không phải là toàn bộ. Thế giới khoa học được cách mạng hóa bởi
mẫu mực của Einstein, mẫu mực về tính tương đối (relativity paradigm), học thuyết
có tính dự đoán rất cao và giá trị về mặt cắt nghĩa, giải thích.
Cho đến khi học thuyết về mầm bệnh được phát triển, một
tỉ lệ cao các phụ nữ và trẻ em chết trong khi sinh, nhưng không ai biết vì sao.
Trong các cuộc giao tranh, nhiều binh lính chết vì những vết thương nhỏ và các
loại bệnh hơn là từ những tổn thương lớn nơi tuyền tuyến. Nhưng ngay khi học
thuyết về mầm bệnh được triển khai, một mẫu mực hoàn toàn mới, một cách hiểu được
cải tiến, sáng tỏ hơn về những gì đang xảy ra đã làm cho ngành y khoa có được sự
cải tiến sâu sắc và đầy ý nghĩa.
Không phải tất cả những thay đổi mẫu mực đều theo những
chiều hướng tích cực. Như chúng ta đã thấy, sự thay đổi từ Đạo Đức về Tính Cách
sang Đạo Đức về Nhân Cách đã kéo chúng ta ra khỏi chính các cội nguồn đã từng
nuôi dưỡng sự thành công và hạnh phúc đích thực.
Nhưng dù
chúng thay đổi chúng ta theo hướng tích cực hay tiêu cực, dù có chính nhất thời
hay theo đà phát triển, những thay đổi mẫu mực vẫn làm cho chúng ta chuyển đổi
từ cách nhìn này về thế giới sang một cách nhìn khác. Và những đổi thay đó tạo
ra sự thay đổi mạnh mẽ. Các mẫu mực của chúng ta, đúng hay sai, đều là nguồn
phát sinh các quan điểm và các cách xử sự của chúng ta và cuối cùng là mối tương
quan của chúng ta với những người khác.
Tôi nhớ một thay đổi mẫu mực nho nhỏ mà tôi trải qua
vào một buổi sáng Chủ Nhật ở đường xe điện ngầm tại New York. Mọi người đang
yên lặng ngồi chờ - một số thì đọc báo, một số đang đắm chìm trong suy tư, số
khác đang thiu thiu ngủ. Thật là một cảnh êm đềm và yên ả.
Bỗng nhiên, một người đàn ông và các đứa con của ông
ta đi vào. Đám trẻ la lối om sòm khiến toàn bộ bầu không khí thay đổi ngay.
Người đàn ông
ngồi xuống cạnh tôi, hai mắt nhắm lại, chẳng để ý tới cảnh sắc đang xảy ra. Lũ
trẻ la hét lung tung, quăng ném các đồ vật, có khi còn túm lấy cả những tờ báo
của những người đang đọc. Thật là lộn xộn. Thế mà người đàn ông ngồi cạnh tôi vẫn
chẳng tỏ thái độ gì hết.
Thật khó lòng mà không phát cáu lên. Tôi không thể tin
nổi ông ta lại vô cảm đến độ cứ để lũ con chạy loạn xạ như vậy mà không có thái
độ với chúng, làm như chẳng có trách nhiệm gì cả. Mọi người ai cũng tỏ ra bực bội.
Cuối cùng không còn chịu được nữa, tôi quay qua ông ta và bảo, “Này ông, đám con của ông quấy phá mọi người
quá chừng. Sao ông không la rầy chúng một chút?”
Người đàn ông
mở to mắt nhìn như tỉnh lại, rồi bảo:
“Vâng, ông nói đúng. Tôi nghĩ tôi nên làm điều gì chứ. Chúng tôi vừa từ bệnh viện
tới đây, mẹ lũ con của tôi mới qua đời ở đó cách đây một giờ. Tôi đâu còn hồn
vía nào để nghĩ ngợi và lũ trẻ thì nào có biết gì”.
Các bạn có thể tưởng tượng lúc đó tôi cảm thấy thế nào
không? Mẫu mực của tôi thay đổi. Bỗng nhiên tôi nhìn các sự việc khác đi; và
vì tôi nhìn khác đi, tôi suy nghĩ khác đi, tôi cảm nhận khác đi, tôi xử sự khác đi. Cơn bực dọc của tôi tan
biến. Tôi không còn bận tâm đến việc phải dằn thái độ và cách xử sự của tôi nữa;
trái tim tôi ngập đầy nỗi đau của người đàn ông. Mối thương cảm và lòng trắc ẩn
của tôi cứ thế trào dâng: “Vợ ông mới qua đời à? Ồ, tôi xin lỗi! Ông có thể thuật
lại cho tôi nghe được không? Nào, tôi có thể làm gì giúp ông?” Mọi cái thay đổi
ngay tức thì.
Mọi người hiện diện ở đấy cũng thế. Không ai còn tỏ
thái độ như lúc đầu nữa.
Thật rõ ràng là nếu chúng ta muốn tạo những thay đổi tương
đối nhỏ trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta có thể tập trung một cách thích đáng
vào các quan điểm và các cách xử sự của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta muốn có những
thay đổi đáng kể, chúng ta cần tiếp tục tác động lên các mẫu mực cơ bản của
chúng ta.
Thoreau đã
nói, “Muốn dứt bỏ các điều ác, chỉ có cách là bứng tận gốc”. Cũng vậy, chúng ta
chỉ có được những cải thiện có tính đột phá trong cuộc sống của chúng ta khi
chúng ta nhổ bỏ tận gốc các quan điểm và các cách xử sự của chúng ta, những mẫu
mực mà các quan điểm và cách xử sự của chúng ta phát nguồn từ đó.
Nhìn và sống
Tất nhiên, đâu phải mọi thay đổi mẫu mực đều xảy ra tức
thời. Đâu phải lúc nào cũng có sự đổi thay như cái nhìn thấu suốt nhanh chóng của
tôi ở đường xe điện ngầm, kinh nghiệm thay đổi mẫu mực mà vợ tôi và tôi đã có với
cậu con trai của chúng tôi xảy ra chậm, khó khăn và phải mất một thời gian suy
tính. Nó chỉ có được khi chúng tôi thay đổi những mẫu mực cơ bản và có cái nhìn
sự việc khác đi, để chúng tôi có thể tạo nên sự thay đổi có tính đột phá nơi bản
thân chúng tôi và nơi hoàn cảnh.
Để nhìn thấy
con chúng tôi khác đi, vợ tôi và tôi phải sống
khác đi. Mẫu mực mới của chúng tôi được tạo ra khi chúng tôi đầu tư vào sự
phát triển tính cách của bản thân chúng tôi.
Các mẫu mực không thể tách rời tính cách. Sống là Nhìn theo chiều kích của con người.
Và những gì chúng tôi nhìn có tương
quan chặt chẽ với những gì chúng tôi sống.
Chúng ta không thể có được những đổi thay xa hơn về cách nhìn của chúng ta mà đồng thời không thay đổi cách sống của chúng ta và ngược lại. Kể
cả sự trải nghiệm thoáng chốc khi tôi đang ở đường xe điện ngầm sáng Chủ Nhật ấy.
Tôi tin là mọi người, khi nghe ra câu chuyện, đều không thể ngồi yên, thờ ơ trước
nỗi đau và sự rối trí của người đàn ông kia.
Các mẫu mực
có tác động mạnh vì chúng tạo ra lăng kính để qua đó chúng ta nhìn thế giới. Sức
mạnh của việc thay đổi mẫu mực là sức mạnh chủ yếu để có được sự đổi thay mang
tính đột phá, bất kể đó là sự chuyể đổi tức thời hay chậm chạp, cần thời gian
suy tính cẩn thận.
Mẫu mực được tập trung vào nguyên tắc
Đạo Đức về Tính Cách được đặt nền tảng trên ý tưởng nền
tảng trong đó có những nguyên tắc
chi phối những ấn tượng sâu sắc của con người – những luật tự nhiên trong chiều
kích con người là những gì có thật, như thể bất biến và không thể tranh cãi, chẳng
hạn như luật hấp dẫn trong phạm vị vật lý.
Một ý tưởng về thực tại – và sự tác động mạnh – của những
nguyên tắc này có thể rơi vào kinh nghiệm thay đổi mẫu mực giống như trường hợp
mà Frank Koch nói đến trong Các tiến
trình (proceedings), một tạp chí của Học Viện Hải Quân.
Hai tàu chiến
được phân công tới đội tàu chiến đang diễn tập ngoài biển khơi vào những ngày
thời tiết xấu. Tôi đang công tác trên tàu chiến chỉ huy và đang quan sát trên
cây cầu khi màn đêm buông xuống. Tầm nhìn thật khó khăn vì sương mù, vì thế
viên thuyền trưởng vẫn đứng trên cầu quan sát mọi hoạt động.
Ngay sau lúc
trời sập tối, đội canh phòng trên mạn tàu báo cáo, “chiếu đèn lên, có chuyện ở
mạn phải tàu”.
“Giữ hướng đầu
tàu hay lùi lại phía sau?” viên thuyền trưởng hét to.
Đội canh
phòng trả lời, “Giữ hướng đầu tàu, thưa thuyền trưởng”, có thể chúng tôi bị va đập
mạnh với con tàu kia mất thôi.
Sau đó, viên
thuyền trưởng gọi người đánh tín hiệu, “Hãy ra hiệu cho con tàu đó: chúng ta đụng
nhau mất thôi, nói họ nên đổi hướng tiến 20 độ”.
“Còn tôi là
thủy thủ loại cừ đây”, tín hiệu trả lời, “Anh nên đổi hướng 20 độ”.
Ánh đèn tín
hiệu lập lòe báo, “Tôi là hải đăng đây”.
Chúng tôi phải
thay đổi hướng.
Các nguyên tắc như ngọn hải đăng. Chúng là những luật
tự nhiên không thể hủy bỏ được. Giống như Cecil B deMille nhận xét về cá nguyên
tắc hàm chứa trong bộ phim bất hủ, Mười điều
răn, “Chúng ta không thể phá lề luật. Chúng ta chỉ có thể tự hủy mình khi
chống lại lề luật”.
Trong khi nhiều người có thể nhìn vào cuộc sống riêng
của họ và những tương tác theo những mẫu mực hay các bản đồ nổi lên từ các kinh
nghiệm và ước định của họ nhưng đừng quên là các bản đồ không phải là phần lãnh
thổ. Chúng là một “thực tại chủ quan”, chỉ cố gắng miêu tả phần lãnh thổ.
“Thực tại chủ
quan”, hay chính là phần lãnh thổ, được các nguyên tắc của “ngọn hải đăng” sáng
tạo nên có sức chi phối sự phát triển và hạnh phúc của con người – những luật tự
nhiên được dệt theo cơ cấu của mỗi nền văn minh xã hội xuyên suốt lịch sử và tạo
thành các nét cơ bản của mỗi gia đình và thể chế tồn tại và phát triển. Mức độ
mà theo đó các bản đồ tâm linh của chúng ta diễn tả chính xác phần lãnh thổ chẳng
làm thay đổi sự hiện hữu của nó.
Thực tại của những nguyên tắc hay các luật tự nhiên như
vậy trở thành hiển nhiên cho mọi người, những người từng suy nghĩ sâu sắc và thử
nghiệm các chu trình của lịch sử xã hội. Các nguyên tắc này tồn tại ở mọi thời đại.
Tùy mức độ nhận biết và sống hòa hợp với chúng đã quyết định sự hưng vong của
con người.
Những nguyên tắc tôi nói đến đây không phải là những
bí truyền, những ý tưởng huyền bí và có tính chất “tôn giáo”. Chẳng có nguyên tắc
nào trong cuốn sách này là của riêng của bất kỳ niềm tin hay tôn giáo riêng biệt
nào, kể cả niềm tin riêng của chính tôi. Những nguyên tắc này là một phần của
phần lớn mỗi tôn giáo lớn tồn tại lâu đời, cũng nhữ của các triết thuyết xã hội
và hệ thống đạo đức từ trước đến nay. Chúng hiển nhiên và dễ được mọi người chấp
nhập là hữu lý. Chúng hầu như trở thành một phần của điều kiện sống, của sự hiểu
biết và của ý thức của con người. Chúng tồn tại trong mọi người, bất kể họ thuộc
thành phần xã hội nào hay niềm tin nào, kể cả trong những điều kiện cùng quẫn
nhất hay không tin tưởng gì cả.
Chẳng hạn các nguyên tắc về sự công bằng sự chính trực và sự lương thiện là những nguyên tắc tạo
ra nền móng của sự tin tưởng trong các tương quan hợp tác, sự phát triển lâu bền
của mỗi cá nhân và của các cá nhân với nhau.
Nhưng các nguyên tắc không phải là những điều tập thành (practices). Sự tập
thành là một hoạt động hay hành động chuyên biệt, cần cho người này những chưa
hẳn cần cho người kia.
Các điều tập thành là những cái có tính chuyên biệt
theo tình thế, còn các nguyên tắc là những sự thật sâu xa, nền tảng được áp dụng
chung cho mọi người, mọi hoàn cảnh – cho mọi cá nhân, cho các đời sống vợ chồng,
cho mọi gia đình, cho tất cả các tổ chức tư và công. Khi những sự thật này được
tiếp thu thành các thói quen, lúc ấy con người có khả năng tạo nên hàng loạt những
thực hành khác nhau để đối phó với các hoàn cảnh khác nhau.
Các nguyên tắc không phải là những chiến lợi phẩm những giá trị. Một băng cướp có thể chia nhau
những chiến lợi phẩm, nhưng chúng vi phạm những nguyên tắc mà chúng ta đang
nói. Các nguyên tắc là phần lãnh thổ. Các giá trị là các bản đồ. Khi chúng ta đánh
giá các nguyên tắc đúng, chúng ta có được sự thật, chân lý – một nhận thức về
các sự việc đúng. Các nguyên tắc là những đường lối chỉ đạo nhằm hướng dẫn con
người, chúng được minh chứng để đem lại giá trị lâu dài, vĩnh cửu. Chúng là nền
tảng. Chúng không cần phải bàn cãi vì chúng quá hiển nhiên. Muốn biết chúng hiển
nhiên thế nào, chúng ta chỉ việc sống ngược lại với chúng, chúng ta sẽ nhận ra
ngay. Mặc dầu ngườit a có thể bàn cãi về tính chất, tính biểu thị, hay việc thực
hiện các nguyên tắc ấy thế nào, chứ dường như sự ý thức và nhận thức bẩm sinh đã
nói lên sự tồn tại của chúng.
Những mẫu mực của chúng ta càng gần với các nguyên tắc,
các luật tự nhiên, chúng càng có độ chính xác cao và hoạt động càng hữu hiệu.
Những tấm bản đồ chính xác sẽ tác động rất lớn các điều có hiệu lực của cá nhân
và của các cá nhân với nhau, vượt xa bất kỳ nỗ lực nào nhằm thay đổi các quan điểm
và các cách xử sự của chúng ta.
Các nguyên tắc của sự phát triển và thay đổi
Vẽ đẹp của Đạo Đức về Nhân Cách, sự hấp dẫn có qui mô
lớn, là điều xem ra có ít nhiều sự nhanh chóng và dễ dàng để đạt chất lượng của
cuộc sống – sự hiệu quả cá nhân và sự giàu sang, những mối quan hệ sâu nặng với
người khác – có thể không cần trải qua tiến trình hành động và phát triển tự
nhiên để có thể thực hiện được.
Đó là biểu tượng mà không cần chất liệu. Đó là kiểu “làm
giàu nhanh” hứa hẹn “sự giàu sang mà không đổ mồ hôi”. Có thể có được như vậy –
những người vạch kế hoạch vẫn thế, chẳng có gì thay đổi.
Như vậy, Đạo Đức về Nhân Cách là hão huyền và lừa bịp.
Nỗ lực để đạt các hiệu quả chất lượng cao với các kỹ thuật và những phương cách
tạm thời của nó cũng gần giống như khi ta cố tới một nơi nào đó ở thành phố Hồ
Chí Minh bằng tấm bản đồ của thành phố Hải Phòng.
Hãy xem những lời nhận xét sắc bén sau đây của Erich
Fromm về cội nguồn và hoa trái của Đạo Đức về Nhân Cách.
Ngày nay
chúng ta tình cờ gặp một người xử sự như một cỗ máy, anh ta chẳng biết hoặc chẳng
hiểu về chính mình con người duy nhất mà anh ta biết là con người mà anh ta giả
định, con người nói những lời líulo vô nghĩa thay cho những câu nói có tính
cách thông hiểu, con người chỉ biết mỉm cười giả tạo thay cho tiếng cười chân
thực, con người làm ra vẻ thất vọng ê chề thay cho nỗi đau đích thực. Con người
ấy chẳng ai có thể nào làm cho họ hết giả dối, mà lúc nào cũng tỏ ra gượng ép,
mất đi cá tính của mình. Đồng thời anh ta cũng chẳng khác gì hàng triệu người
trong số chúng ta đang đi lại trên trái đất này.
Trong toàn bộ cuộc sống, có những giai đoạn phát triển
kế tiếp nhau. Một đứa bé tập lẫy, tập ngồi lên, bò và rồi chập chững bước đi và
chạy nhẩy. Mỗi bước như vậy đều quan trọng và cần có thời gian, không thể bỏ
qua được.
Đó là điều có thật trong các giai đoạn của cuộc sống,
trong mọi lãnh vực của cuộc sống, dù là chuyện nhỏ hay lớn. Nó thật sự liên
quan đến mọi cá nhân, các cặp vợ chồng, tất cả các gia đình và các tổ chức xã hội.
Chúng ta biết và chấp nhận sự kiện này hay nguyên tắc
của qui trình này trong phạm vi qui
luật tự nhiên, nhưng để hiểu nó phải cần đến các lãnh vực tình cảm, các mối tương
quan con người và cả phạm vi tính cách cá nhân ít phổ biến hơn và khó khăn hơn.
Cả khi hiểu được nó rồi đi nữa, nhưng để chấp nhận và sống hài hòa với nó lại
là vấn đề hạn hẹp và khó khăn hơn. Chính vì thế mà chúng ta hay tìm cách đi đường
tắt hoặc nhảy bỏ những bước quan trọng nhằm tiết kiệm thời gian và công sức nhưng
vẫn gặt hái kết quả như mong ước.
Nhưng liệu như vậy sẽ xảy ra điều gì? Có phải chỉ duy
suy nghĩ tích cực có thể giúp bạn tranh đua hiệu quả mà không cần đến chuyên
môn? Chẳng hạn, bạn có thể làm cho bạn bè tin rằng bạn có thể chơi dương cầm
trong buổi hòa nhạc trong khi thực tình trình độ của bạn mới đang ở bước đầu tập
tểnh?
Câu trả lời
quá rõ. Đơn giản là bạn chẳng thể làm trái, phớt lờ, hay đi tắt qui trình này được.
Làm vậy bạn chỉ tổ gặt hái những thất vọng.
Cách chúng ta nhìn vấn đề là cái cần bàn
Đứng trước các vấn đề của cuộc sống, nhiều người muốn
tìm ngay một cách thế để giải quyết chúng. Có thể họ tìm ra người chỉ cho họ những
kỹ thuật và xảo thuật, mà chỉ trong thời gian ngắn, xem ra có tác dụng. Nhưng
càng dựa vào những giải pháp tạm thời để giải quyết những vấn đề cấp bách, thì
chính cách tiếp cận ấy càng đóng góp nhiều vào tình trạng tồi tệ tiềm tàng.
Như vậy, cách chúng ta nhìn vấn đề là cái cần bàn.
Chúng ta nhìn
lại những tình huống mà chúng ta đặt ra ở đầu chương này. Nào là vấn đề xử sự
trước những yếu kém về tính tự giác và trách nhiệm của công nhân khiến tôi phân
vân không biết xử trí ra sao, nào là tình trạng bận rộn suốt ngày suốt tháng
khiến cuộc sống của tôi chẳng lấy gì làm hạnh phúc, hiệu quả, an nhiên như tôi
mong muốn; nào là cuộc sống hôn nhân của tôi trôi đi một cách tẻ nhạt, mà dù đã
đi tìm sự tham vấn, tình trạng cũng chẳng khá hơn…
Vậy liệu mẫu mực nền tảng của Đạo Đức về Nhân Cách có
tác động đền ngay chính đường lối chúng ta nhìn các vấn đề của chúng ta cũng như
cách chúng ta nỗ lực giải quyết chúng hay không?
Dù có nhìn thấy nó hay không, nhiều người đang vỡ mộng
với những lời hứa rỗng tuếch của Đạo Đức về Nhân Cách. Họ muốn điều thực chất;
họ muốn phương pháp chứ không muốn những cái tạm thời. Họ muốn giải quyết những
vấn đề tiềm tàng rất khó chịu và tập trung vào những nguyên tắc mang lại những
kết quả lâu dài.
Một mức suy nghĩ mới
Albert Einstein đã nhận xét, “Các vấn đề quan trọng mà chúng ta đối diện không thể nhận được giải
quyết cùng một mức suy nghĩ mà chúng ta ở vào khi chúng ta tạo ra chúng”.
Khi chúng ta nhìn chung quanh và bên trong chúng ta nhận
ra các vấn đề được tạo nên khi chúng ta sống và tương tác trong phạm vi Đạo Đức
về Nhân Cách, chúng ta bắt đầu nhận ra đấy là những vấn đề sâu xa, nền tảng
không thể được giải quyết ở mức độ hời hợt để dựa vào đó chúng được tạo thành.
Chúng ta cần một mức độ mới, một mức suy nghĩ sâu sắc
hơn – một mẫu mực dựa vào những nguyên tắc diễn đạt chính xác lĩnh vực của con
người thành đạt và việc tương tác – để giải quyết những điều quan tâm sâu xa
này.
Mức suy nghĩ mới này là những gì mà 7
thói quen của người thành đạt nói về. Nó là cách tiếp cận “từ trong ra
ngoài” tập trung vào các nguyên tắc, dựa trên tính cách để tới với sự thành đạt
của con người và của các cá nhân với nhau.
“Từ trong ra ngoài” có nghĩa là trước hết phải bắt đầu
với chính bản thân; với phần sâu thẳm nhất của bản thân – với các mẫu mực, tính
cách và các động cơ của bạn.
Chẳng hạn, nếu bạn muốn có cuộc hôn nhân hạnh phúc, hãy
là loại người tạo ra năng lực tích cực và tránh năng lực tiêu cực. Nếu bạn
muốn được vừa ý hơn, hãy là bậc cha mẹ biết thông hiểu, cảm
thông, nhất quán hơn. Nếu bạn muốn được tự
do và quyền hạn rộng hơn, hãy là người
công nhân có trách nhiệm, sẵn sàng giúp đáp và đóng góp nhiều hơn. Nếu bạn muốn
được tin tưởng, hãy tỏ ra đáng tin hơn…
Phương pháp từ
trong ra ngoài bảo rằng những thắng lợi của cá nhân đi trước những thắng lợi tập
thể; là làm và giữ các lời hứa giữa chúng ta trước khi làm và giữ lời hứa với
những người khác. Nó bảo là, thật vô ích để đặt nhân cách trên tính cách, để nỗ
lực cải thiện các mối quan hệ với những người khác trước khi cải thiện với
chính chúng ta.
Từ trong ra ngoài là một qui trình – một qui trình tiếp
diễn của sự đổi mới dựa trên những luật tự nhiên chi phối sự lớn lên và phát
triển của con người. Nó là đường xoắn ốc hướng thượng của sự phát triển dẫn đến
những hình thái cao dần lên về tính độc lập đầy trách nhiệm và sự tương thuộc
có hiệu quả.
Tôi đã từng làm việc với nhiều người – những con người
tuyệt vời, những con người tài năng. Những con người khát khao giành được hạnh
phúc và sự thành đạt, những con người đan săn tìm. Tôi đã làm việc với các ban
quản trị doanh nghiệp, với các sinh viên, các nhóm tôn giáo và dân sự, các gia đình,
các đôi vợ chồng. và tôi nghiệm ra rằng, tôi chưa bao giờ thấy những cách giải
quyết bền vững các vấn đề, hạnh phúc và thành công lâu bền, lại tới từ ngoài
vào trong.
Từ trong ra ngoài là một thay đổi mẫu mực gây ấn tượng
sâu sắc đối với phần lớn mọi người.
Và từ kinh nghiệm bản thân – cả về chính mình và khi
làm việc với hàng ngàn người khác – và từ việc thử nghiệm của những cá nhân và
các tổ chức xã hội thành đạt qua lịch sử, tôi tin chắc rằng nhiều trong số các
nguyên tắc biểu hiện trong 7 thói quen
đã nằm sâu trong chúng ta, trong ý thức và trong lương tri của chúng ta, để nhận
ra và phát triển chúng và để sử dụng chúng nhằm đáp ứng những điều quan tâm sâu
xa nhất của chúng ta, chúng ta cần suy nghĩ khác đi, cần thay đổi những mẫu mực
của chúng ta thành một cái gì mới, sâu sắc hơn, ở mức “từ trong ra ngoài”.
Khi chúng ta thực tâm tìm cách hiểu và hòa nhập những
nguyên tắc này vào đời sống của chúng ta, tôi tin chắc là chúng ta sẽ khám phá
và tái khám phá chân lý mà T.S. Eliot nhận định.
“Chúng ta
không được dừng sự truy tìm và mục đích của tất cả các truy tìm của chúng ta sẽ
phải đi tới nơi, chúng ta đã khởi sự và để biết nơi ấy ngay từ đầu”

Lược qua bảy
thói quen
“Chúng ta được
hình thành do những gì chúng ta lập lại nhiều lần. Như vậy, sự vượt trội không
phải là một hành vi mà là một thói quen.”
-A. islolle-
Xét về cơ bản, tính cách của chúng ta là một tập hợp của
các thói quen của chúng ta. “Gieo một tư
tưởng, gặt một hành động, gieo một hành động, gặt một thói quen, gieo một thói
quen, gặt một tính cách, gieo một tính cách, gặt một vận mệnh”, câu châm
ngôn diễn biến như vậy.
Các thói quen
là những nhân tố có tác động mạnh trong đời sống của chúng ta. Vì chúng nhất
quán, thường là những khuôn mẫu vô tâm, chúng biểu lộ tính cách của chúng ta một
cách kiên định, diễn ra hàng ngày và phát sinh hiệu quả… hay sự vô hiệu quả của
chúng ta.
Như Horace Mann, một nhà sư phạm tài danh đã nói, “Các thói quen như một sợi cáp. Chúng bện
thành một tao ngày nọ qua ngày kia và rồi chẳng thể nào bứt nó ra được”. Cá
nhân tôi không thống nhất với phần sau của câu nói. Tôi biết là có thể đánh bứt
được. Người ta có thể tập hay không tập các thói quen. Nhưng tôi cũng biết nó
không phải là cái nhất thời. Nó đòi hỏi một quá trình và một sự kiên trì ghê gớm.
Những ai trong chúng ta đã quan sát chuyến du hành mặt
trăng của chiếc Apollo 11 đều lấy làm sững sờ khi chúng ta thấy lần đầu tiên
con người đi bộ trên mặt trăng rồi quay về trái đất. Mức cao ấy như thể một câu
chuyện không tưởng, khó có thể tin được, không biết diễn tả sao cho thỏa đáng
vào những ngày xảy ra biến cố đó. Nhưng để lên được đó, nói cho đúng, các phi
hành gia đã phải thoát khỏi lực hút rất lớn của trái đất. Biết bao năng lượng đã
tiêu tốn trong vài phút đầu lúc phóng con tàu lên, trong vài dậm đầu của cuộc
hành trình, số năng lượng ấy còn lớn hơn số tiêu thụ trong vài ngày sau để vượt
qua nửa triệu dặm.
Các thói quen cũng vậy, có một lực hút rất lớn – lớn hơn
nhiều người tưởng. Việc công phá mạnh mẽ những xu hướng đã trở thành thói quen
như sự trì hoãn, tính nóng vội, tính hay chỉ trích, hay tính ích kỷ, là những
thứ đã vi phạm nguyên tắc cơ bản để mang lại hiệu quả cho con người, đòi hỏi
nhiều ý chí và thay đổi trong cuộc sống của chúng ta. “Cất cánh” cần một nỗ lực
lớn, nhưng một khi ta đã thoát khỏi lực hút, sự tự do của ta chạm đến một chiều
kích hoàn toàn mới.
Cũng như bất
kỳ lực tự nhiên nào, lực hút có thể hợp với chúng ta hay chống lại chúng ta. Lực
hút của một số thói quen hiện có của chúng ta có thể cầm chân chúng ta không để
chúng ta đi tới những nơi chúng ta muốn tới. Nhưng cũng có lực hút giữ the giới
của chúng ta lại với nhau, giữ cho các hành tinh nằm trong quĩ đạo của chúng và
giữ cho vũ trụ này được trật tự. Nó là một lực tác động mạnh và nếu chúng ta
dùng nó có hiệu quả, chúng ta có thể dùng sức hút của thói quen để tạo sự liên
kết và trật tự cần thiết để tạo lập cuộc sống của chúng ta có hiệu quả.
Định dạng “Các thói quen”
Theo các chủ đích của chúng ta, chúng ta sẽ định nghĩa
một thói quen như sự giao nhau của kiến
thức, kỹ xảo và khát vọng.
Kiến thức là khuôn mẫu có tính chất lý thuyết, là điều để thực hiện và điều đặt vấn đề để thực hiện.
Kỹ xảo là phương
cách thực hiện ra sao.
Và khát vọng là động cơ thúc đẩy, là ước vọng thực hiện.
Để làm bất cứ điều gì trở thành thói quen trong cuộc sống
của chúng ta, chúng ta phải có ba điều đó.
Thật vô ích trong khi ta tương tác với các cộng sự tại
nơi làm việc, với chồng (vợ), hay con cái của ta vì ta luôn nói với họ những gì
chúng ta nghĩ mà không bao giờ thực sự lắng nghe họ. Trừ phi chúng ta tìm ra những
nguyên tắc đúng về sự tương tác giữa con người với nhau, còn không, chẳng bao
giờ chúng ta biết chúng ta cần lắng
nghe cả.

Ngay cả khi chúng ta biết điều đó ngõ hầu sự tương tác
với người khác có hiệu quả, ta vẫn cần lắng nghe họ, nếu không ta không thể có
cách, có kỹ xảo. Và như thế là chúng ta không biết cách lắng nghe người khác.
Nhưng nếu biết cần lắng nghe và biết cách lắng nghe vẫn
chưa đủ. Trừ phi chúng ta muốn nghe,
còn không, nó chưa thể là thói quen trong cuộc đời của chúng ta. Tạo một thói
quen đòi hỏi đưa vào cả ba chiều kích đó.
Việc thay đổi cách
sống, cách nhìn là một tiến trình đi lên – cách sống làm thay đổi cách nhìn và rồi đến lượt cách nhìn làm thay đổi cách sống, để rồi
cứ thế chúng ta leo cao mãi trên đường xoắn phát triển. Tiếp tục tác động trên
kiến thức, kỹ xảo và khát vọng, chúng ta có thể bức phá tới những mức độ thành đạt
mới của cá nhân và giữa các cá nhân với nhau một khi chúng ta phá bỏ những mẫu
mực cũ đã cho chúng ta sự an toàn giả tạo trong bao năm qua.
Đôi khi nó là một tiến trình đầy khó nhọc. Nó là một
thay đổi cần được thúc đẩy bởi một mục đích cao hơn bởi việc sẵn sàng hạ thấp
những gì bạn nghĩ là bạn muốn hiện nay để muốn điều sau này. Nhưng tiến trình
này tạo ra hạnh phúc, “đối tượng và dự kiến về sự tồn tại của chúng ta”. Hạnh
phúc có thể được định dạng, ít ra một phần nào, như hoa trái của khát vọng và
khả năng để hy sinh những gì chúng ta đang muốn để đạt đến cái chúng ta muốn cuối cùng.
Chuỗi liên tục thành thục
7 thói quen không là một bộ chia cắt hay những công thức chuẩn bị
tinh thần theo từng cái một. Trong sự hài hòa với các luật phát triển tự nhiên,
chúng cung cấp cho ta một phương pháp tiệm tiến, liên tiếp, hội nhập cao để
phát triển hiệu quả cá nhân và giữa các cá nhân với nhau. Chúng chuyển dịch
chúng ta theo một chuỗi liên tục thành thục từ chỗ ỷ lại đến chỗ tự lập
rồi đến chỗ tương thuộc.
Mỗi chúng ta đều bắt đầu cuộc đời từ một đứa trẻ, phụ thuộc hoàn toàn vào người khác.
Chúng ta được người khác chỉ bảo, được nuôi dưỡng và được nâng đỡ. Nếu không có
sự nuôi dưỡng này, chúng ta chỉ có thể sống được vài giờ, hay tối đa là vài
ngày.
Rồi dần dần, với tháng năm kế tiếp nhau, càng ngày
chúng ta càng tự lập hơn – cả về mặt
thể lý, tinh thần, tình cảm và tài chính – cho đến cuối cùng thì chúng ta có thể
tự lo liệu cho chúng ta, trở thành một con người không còn bị lệ thuộc vào người
ngoài và tự dựa vào khả năng của bản thân.
Khi chúng ta tiếp tục lớn lên và trưởng thành, chúng
ta nhận dần ra là tất cả nhu cầu tự nhiên là sự tương thuộc, là có một hệ sinh thái chi phối thiên nhiên, kể cả
xã hội. Chúng ta khám phá xa hơn và thấy rằng các phạm vi cao hơn của tính tự
nhiên của chúng ta là phải có các mối quan hệ với những người khác – cuộc sống
con người còn là sự phụ thuộc lẫn nhau.
Sự phát triển từ một đứa trẻ lên một con người trưởng
thành phù hợp với luật tự nhiên. Có nhiều chiều kích để phát triển. Việc đạt đến
mức trưởng thành thể lý đầy đủ chưa hẳn đồng thời bảo đảm có cả sự trưởng thành
về mặt tình cảm và tinh thần. Mặt khác, một người phụ thuộc chưa hẳn đã không
trưởng thành về mặt tinh thần và tình cảm.
Theo chuỗi liên tục thuần thục, thì một người phụ thuộc
cần người khác để có được điều họ muốn; còn người độc lập có thể có được điều họ
muốn qua nỗ lực của chính họ; và những người phụ thuộc lẫn nhau nối kết những nỗ
lực của họ với những nỗ lực của người khác để đạt được sự thành công lớn nhất.
Tự bản chất, cuộc sống là sự tương tác cao, sự tương
tác ấy còn vượt xa cả sự trưởng thành, hơn cả khái niêm tiên tiến. Nếu tôi có sự
tương tác về thân thể, tôi vừa tự lực, có khả năng, nhưng tôi lại còn có thể
cùng anh làm việc với nhau để đạt đến sự hoàn mỹ, cao hơn cả những gì tôi nỗ lực
hết sức khi thực hiện một mình. Nếu tôi có sự tương tác tình cảm, tôi cảm nhận được
giá trị của bản thân, nhưng tôi cũng thấy rằng tôi có nhu cầu về tình yêu, về sự
cho đi và nhận lại tình yêu từ người khác. Nếu tôi có sự tương tác về trí tuệ,
tôi biết rằng tôi cần người khác để cùng tôi suy nghĩ hay nhất.
Như một con người có tính tương tác, tôi có cơ hội
chia sẻ bản thân tôi với người khác sâu xa hơn, ý nghĩa hơn và tôi có thể tiếp
cận những suối nguồn rộng lớn và tiềm năng to lớn nơi những con người khác.
Sự tương tác là một chọn lựa mà chỉ những con người tự
lập mới thực hiện được. Người lệ thuộc không thể chọn lựa để trở thành tương
tác. Họ không đủ tư cách để làm điều đó.
Chính vì thế, các Thói
quen 1, 2 và 3 trong sách này là nhằm giải quyết vấn đề tự chủ. Chúng chuyển
đổi một con người từ chỗ lệ thuộc đến chỗ tự lập. Chúng là “những thắng lợi của
cá nhân”, phần chính yếu của sự phát triển về tính cách Những thắng lợi của cá nhân phải
có trước những thắng lợi của tập thể. Bạn không thể đảo nghịch qui
trình này, cũng giống như bạn không thể thu hoạch trước khi gieo trồng. Đó cũng
là phương pháp từ trong ra ngoài.
Và khi bạn đã thực sự độc lập, bạn có nền tảng để phát
huy tính tương tác. Bạn có cơ sở về tính cách để từ đó hợp tác có hiệu quả
trong đội nhóm, trong sự hợp tác và thông tri bằng các Thói quen 4, 5 và 6.

Nói thế không có nghĩa là bạn phải chờ cho đến khi
hoàn thiện các Thói quen 1, 2 và 3 rồi
mới tiếp qua các Thói quen 4, 5 và 6,
mà phải hiểu rằng chuỗi liên tục sẽ giúp bạn sắp xếp sự phát triển của bạn hiệu
quả hơn.
Như một thành phần của thế giới tương tác, bạn phải
liên kết với thế giới đó hằng ngày. Việc hiểu ra sự tác động nơi mỗi hành động
tương tác của bạn sẽ giúp bạn luôn tập trung vào những nỗ lực của bạn, trong sự
hài hòa với các luật tự nhiên về sự phát triển.
Thói quen 7 là thói quen của sự đổi mới – một sự đổi mới thường
xuyên và cân bằng về cả 4 chiều kích của cuộc sống. Nó xoay quanh và biểu hiện
tất cả các thói quen khác. Nó là thói quen để liên tục cải thiện, tạo nên vòng
xoắn thăng tiến của sự phát triển nhằm nâng bạn lên các mức hiểu biết và sống mỗi
thói quen đó theo cách mới.
Bạn hãy xem biểu đồ của 7 Thói quen dưới đây. Nó cũng được dùng để giới thiệu vào các chương
mục sau mỗi khi bàn đến một thói quen. Lúc ấy, phần được đền cập sẽ được bôi đậm
lên trong biểu đồ.
(hình) tr.49
Định dạng tính hiệu quả
7 Thói quen là những thói quen nhằm mang lại hiệu quả. Vì chúng được đặt nền tảng trên những
nguyên tắc, chúng mang lại những kết quả khả dĩ có tính lợi ích lâu dài nhất.
Chúng trở thành nền tảng của tính cách một con người, cho phép người ấy có khả
năng giải quyết các vấn đề hiệu quả, cực đại hóa các cơ hội và không ngừng học
hỏi và tích hợp những nguyên tắc khác vào đường xoắn thăng tiến của sự phát triển.
Chúng là những
thói quen nhằm mang lại hiệu quả còn vì chúng dựa trên một mẫu mực có hiệu quả
nằm trong sự hài hòa với một luật tự nhiên, một nguyên tắc được gọi là “Sự Cân
Bằng về Sản Phẩm/Khả năng Tạo ra sản phẩm” kiểu như “con Ngỗng và quả trứng
vàng” trong truyện ngụ ngôn của Aesop.
Truyện kể rằng,
có một anh nông dân nghèo kia, một ngày nọ anh ta khám phá trong ỗ ngỗng nhà
anh có một trái trứng bằng vàng lấp lánh. Lúc đầu anh ta nghĩ đó chỉ là một trò
lừa. Nhưng khi anh ta đến lấy để thử và biết đó là vàng ròng. Anh nông dân
không dám tin vào vận may của mình. Những ngày sau anh ta vẫn thấy vậy nên càng
đâm hoài nghi. Nhưng rồi, ngày nào cũng vậy, vừa thức dạy là anh ta chạy ngay
ra ổ trứng và anh ta lại thấy một trái trứng bằng vàng khác. Anh ta trở nên
giàu sụ.
Nhưng càng
giàu, anh ta lại trở nên tham lam và thiếu kiên nhẫn. Thế là, anh ta không còn đợi
để cứ mỗi ngày ra nhặt một trái trứng vàng, anh ta quyết định mổ thịt con ngỗng
để lấy tất cả trứng vàng ra một thể. Nhưng khi mổ con ngỗng ra, anh ta chẳng thấy
gì. Không có những trái trứng vàng – và từ nay cũng chẳng kiếm đâu ra lấy một
trứng vàng nào nữa. Anh ta đã giết con ngỗng đẻ trứng vàng.
Tôi nghĩ rằng trong câu chuyện thần thoại này vẫn có điều
gì hợp luật tự nhiên, là một nguyên tắc – sự minh định cơ bản về tính hiệu quả.
Phần lớn người đời nhìn tính hiệu quả từ mô hình quả trứng vàng: bạn càng sản
sinh nhiều hơn, bạn càng làm nhiều hơn và bạn càng có hiệu quả hơn.
Nhưng như câu truyện chỉ ra cho thấy, sự hiệu quả thực
là một chức năng gồm hai vế: Cái được sản sinh ra (những quả trứng vàng) và vốn
quí sản xuất hay khả năng để sản xuất (con ngỗng).
Nếu bạn chấp nhận một mô hình cuộc sống tập trung vào
những quả trứng vàng và bỏ mặc con ngỗng, chẳng bao lâu bạn sẽ chẳng còn cái vốn
quí để sản sinh những trái trứng vàng. Mặt khác, nếu bạn chăm bẫm con ngỗng nhưng
không có mục đích nhắm tới những quả trứng vàng, chẳng mấy chốc bạn sẽ chẳng có
đủ tiền đề nuôi thân và nuôi con ngỗng.
Sự hiệu quả nằm ở chỗ quân bình – Điều mà tôi gọi là
“Sự Quân Bình”.
Hẳn nhiên, không thể một sớm một chiều bạn đã có thể
có được những chuyển đổi. Nhưng như Thomas Paine đã nói. “Điều gì chúng ta
giành được quá dễ dàng, chúng ta coi quá nhẹ. Nó chỉ đáng quí khi nó cần phải
trả giá. Mỗi cái đều có giá của nó”.
Phần
2
THẮNG LỢI
CỦA CÁ NHÂN

Thói quen 1:
TIÊN PHONG HÀNH ĐỘNG

Những nguyên
tắc để nhìn xa trông rộng
Tôi biết chẳng
có gì khích lệ hơn khả năng chắc chắn của con người để đưa cuộc sống của họ lên
nhờ nỗ lực đầy ý thức.
Henry David
Thoreau
Khi bạn đọc cuốn sách này, cố gắng đứng cách xa khỏi
chính mình. Cố gắng phóng tầm ý thức của bạn hướng lên vào một góc phòng và
nhìn chính mình, bằng óc tưởng tượng, bạn đọc nó. Liệu bạn có thể nhìn vào
chính mình như thể bạn là một ai khác?
Giờ đây, bạn cố một điều khác. Hãy nghĩ về hiện trạng
của bạn. Bạn có thể nhận ra nó không? Bạn đang nghĩ gì nào? Bạn có thể diễn tả
tâm trạng lúc này của bạn không?
Giờ bạn suy
nghĩ vài phút xem tâm trí bạn đang hoạt động ra sao. Nó linh lợi hay tỉnh táo?
Liệu bạn có thếy bạn bị gằng co giữa cách tập làm như thế và việc ước định điều
được dàn dựng từ việc làm đó?
Khả năng thực hiện điều này chỉ có riêng ở con người.
Loài vật không có được khả năng này. Chúng ta gọi nó là “biết về chính mình”,
hay khả năng suy nghĩ về chính quy trình suy nghĩ của bạn. Đó là lý do vì sao
con người có quyền lực trên tất cả những vật khác trong thế gian này và vì sao
họ làm được những tiến bộ đáng kể từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Đó là lý do vì sao chúng ta có thể nâng cao và học được
từ những kinh nghiệm của người khác và của chính mình. Đó cũng là lý do vì sao
chúng ta tạo được và phá bỏ được những thói quen.
Chúng ta không là những tình cảm của chúng ta. Chúng
ta không là những trạng thái của chúng ta. Kể cả chúng ta cũng chẳng là những tư
duy của chúng ta. Chính sự kiện mà chúng ta nghĩ về những điều này chia cách
chúng ta khỏi chúng và khỏi thế giới động vật. Sự tự biết mình cho chúng ta khả
năng đứng tách ra và thử nghiệm cả cách chúng ta “nhìn” chính chúng ta – mẫu mực
về bản thân chúng ta, thứ mẫu mực nền tảng nhất của tính hiệu quả. Nó ảnh hưởng
không chỉ đến quan điểm và cách xử sự của chúng ta, mà còn cả cách chúng ta
nhìn người khác. Nó trở thành tấm bản đồ của chúng ta về bản chất của nhân loại.
Thật vậy, cho đến khi chúng ta lưu tâm nhìn chính
chúng ta (và cả cách nhìn người khác), chúng ta sẽ có khả năng hiểu người khác
nhìn và cảm nhận họ và thế giới này như thế nào. Không biết như vậy, chúng ta sẽ
áp đặt các khái niệm của chúng ta lên cách xử sự của họ và coi chúng ta là
khách thể/đối tượng.
Điều này giới hạn đáng kể khả năng cá nhân của chúng
ta và khả năng kết liên với người khác nữa. Nhưng vì khả năng riêng của con người
là tự biết mình, chúng ta có thể thử nghiệm các mẫu mực của chúng ta để xác định
chúng là thực tại – hay được dựa trên nguyên tắc hoặc nếu chúng có chức năng để
qui định và là những điều kiện.
Tấm gương của xã hội
Nếu cái nhìn duy nhất mà chúng ta có về chúng ta đến từ
hình ảnh trung thực của xã hội – từ mẫu mực hiện hành của xã hội và từ các ý kiến,
các quan điểm, các nhận thức và các mẫu mực của người khác chung quanh chúng ta
– quan điểm về chính chúng ta giống như sự phản chiếu của tấm gương lồi lõm ở
cuộc hội hè.
“Anh chẳng
bao giờ đúng giờ cả”.
“Vì sao bạn
chẳng thể giữ mọi thứ đúng chỗ?”.
“Bạn phải là
một nghệ sĩ mới phải!”.
“Anh ăn như
con heo vậy!”.
“Tớ chẳng tin
là cậu đã thắng!”.
“Điều đó quá đơn
giản. Vậy sao bạn không hiểu?”.
Những cái nhìn này rời rạc và bất cân xứng. Chúng thường
là những thứ được dự đoán hơn là những thứ gì được phản ánh, việc dự đoán những
điều quan tâm và những mặt yếu về tính cách của con người cho ra lực truyền hơn
là sự phản ánh đúng những gì chúng ta là.
Sự phản ánh mẫu mực xã hội hiện hành nói cho chúng ta
biết là chúng ta được xác định ở qui mô lớn hơn bởi việc qui định và những điều
kiện. Trong khi chúng ta đã thừa nhận sức mạnh to lớn của việc qui định trong đời
sống của chúng ta, để nói rằng chúng ta được
xác định bởi nó, là chúng ta không kiểm soát nổi sự ảnh hưởng đó, tạo nên một
tấm bản đồ hoàn toàn khác.
Trên thực tế có ba tấm bản đồ xã hội – ba thuyết lý về
quyết định luận (theory of determinism) được chấp nhận rộng rãi, độc lập hay
trong sự phối hợp, để giải thích về bản chất con người.
Quyết định luận về di truyền, về cơ bản nói là, ông bà hình thành nó cho bạn.
Chính vì thế mà tạo sao bạn có tính khí như vậy. Ông bà bạn có tính hay bẳn gắt,
nóng nảy và nó có trong DNA (acid deoxyribonucleic – Cấu tử cơ bản của tế bào
di truyền) của bạn. Nó đi qua các thế hệ và bạn thừa hưởng nó.
Quyết định luận về tâm linh, về cơ bản nói là, cha mẹ bạn hình thành nó cho bạn.
Kinh nghiệm về dưỡng dục của bạn, thời ấu thơ của bạn. Về cơ bản, phơi bày những
xu hướng cá nhân và kết cấu tính cách của bạn. Chẳng hạn vì sao bạn sợ đứng trước
đám đông, ấy là do cha mẹ bạn đưa đến cho bạn. Hay vì sao bạn có cảm nhận về
sai phạm, ấy là do khi còn bé bạn đã từng
bị phạt, bị hất hủi, bị so sánh với một ai khác khi bạn không thực hiện đúng như
điều được mong đợi.
Quyết định luận về hoàn cảnh, về cơ bản nói là, ông chủ đang hình thành nó cho bạn.
Ông chủ đó có thể là người chồng (vợ) của bạn, tuổi trẻ ngỗ nghịch của bạn,
hoàn cảnh kinh tế, hay các chính sách của quốc gia. Nói chung là ai đó hay điều
gì đó trong hoàn cảnh của bạn chịu trách nhiệm về tình cảnh của bạn.
Mỗi tấm bản đồ này được dựa trên lý thuyết về tác nhân
kích thích/sự đáp ứng mà chúng ta thường hay liên tưởng đến các thí nghiệm của
Pavlov thực hiện với những con chó. Tư tưởng cơ bản cho rằng chúng ta được ước định
để đáp ứng theo một cách đặc thù trước một tác nhân kích thích riêng biệt.

Những kiểu mẫu của quyết định luận này chính xác và đứng
về mặt chức năng diễn tả hoàn cảnh thế nào? Những tấm gương này phản ánh bản chất
thực của con người ra sao? Liệu chúng có là những lời tiên đoán đầy đủ không?
Liệu chúng có được dựa trên những nguyên tắc mà chúng ta có thể cho là có giá
trị bên trong bản thân chúng ta không?
Giữa tác nhân kích thích và sự đáp ứng
Để trả lời cho các câu hỏi này, xin cho phép tôi chia
sẽ với các bạn câu chuyện có tính tác động về Viktor Frankl.
Frankl là một người theo quyết định luận được xây dựng
theo truyền thống của hệ tâm lý của Freud, khái luận tâm lý này cho rằng bất cứ
điều gì xảy ra cho bạn khi bạn còn bé sẽ hình thành tính cách và nhân cách của
bạn và về cơ bản chi phối toàn bộ cuộc sống của bạn. Những giới hạn và những
tham số của cuộc sống được đặt để và về cơ bản bạn không thể tác động nhiều vê
nó.
Frankl cũng là chuyên gia về tâm thần học và là một người
Do Thái. Ông đã từng bị cầm tù trong các trại tập trung của Đức Quốc Xã. Ở đó
ông trải nghiệm những điều ghê sợ mà mỗi lần nhắc đến khiến ta phải rùng mình.
Cha mẹ, anh em và vợ ông đều đã chết trong các trại tập
trung hay tại các lò hơi ngạt. Coi như toàn bộ gia đình của ông đều bị hủy diệt,
trừ người em gái của ông. Bản thân ông từng chịu tra tấn và chịu nhiều nhục
hình và chẳng biết số phận mình sẽ ra sao.
Một ngày kia, trong khi trần truồng ơ một mình trong một
căn phòng nhỏ, ông bắt đầu hiểu về điều mà sau này ông đã gọi là “cái cuối cùng
trong các quyền tự do của con người” – thứ tự do mà những tên canh ngục Đức Quốc
Xã không thể tước đi được. Chúng có thể khống chế toàn bộ hoàn cảnh của ông,
chúng có thể làm điều gì chúng muốn trên thân xác ông, nhưng bản thân Viktor
Frankl là một sinh vật tự biết chính mình có thể thấy như một kẻ quan sát những
gì dính líu đến chính bản thân ông. Cá tính cơ bản của ông vẫn nguyên vẹn. Ông ta có thể tự quyết định làm thế nào toàn
bộ điều này sẽ tác động nơi ông. Giữa những gì xãy ra cho ông, hay các tác
nhân kích thích và sự đáp ứng của ông với nó, là chính sự tự do hay sức mạnh để
chọn cách đáp ứng đó.
Trong những trải nghiệm của ông, Frankl sẽ bộc bạch
mình trong những hoàn cảnh khác nhau, như thuyết trình trước các sinh viên của
ông sau khi ông được giải thoát khỏi trại tập trung. Ông ta có thể tự mô tả
mình ở trong lớp học, trong trí tưởng tượng của ông và cho sinh viên những bài
học mà ông đã học được khi chính ông là người bị tra tấn.
Qua một loạt những tập luyện trí tuệ như vậy – về tinh
thần, tình cảm và đạo lý, chủ yếu là dùng ký ức và sự mường tượng – ông đã tập
luyện sự tự do còn phôi thai và nhỏ nhoi của ông cho đến khi nó ngày một lớn hơn,
cho đến khi ông còn có tự do hơn những kẻ giam giữ ông. Chúng có quyền tùy tiện, còn ông, ông có quyền tự do, sức mạnh nội tâm hơn đễ luyện
tập các quan điểm của ông. Ông cảm thấy cảm hứng trước những gì chung quanh
ông, kể cả những tay cai ngục. Ông giúp người khác tìm ra ý nghĩa và chân giá
trị khi phải chịu cảnh lao tù.
Giữa những hoàn cảnh làm mất thể diện nhất có thể mường
tượng ra, Frankl đã dùng thiên tư về sự tự biết mình của con người để khám phá
một nguyên tắc nền tảng về bản chất con người: Giữa mối liên quan của tác nhân kích thích và sự đáp ứng, con người có
tự do để chọn lựa.
Trong phạm vi tự do chọn lựa ấy là những thiên tư chỉ
có ở con người. Thêm vào cho sự tự biết
mình, chúng ta có trí tưởng tượng
– khả năng tạo trong trí não chúng ta những gì vượt khỏi thực tại mà chúng ta đang
sống. Chúng ta có ý thức – một nhận
biết thầm kín về đúng, sai về những nguyên tắc chi phối cách xử sự của chúng ta
và một cảm nhận về mức độ, qua đó các suy nghĩ và hành động của chúng ta vận
hành hài hòa với chúng. Và chúng ta có ý
chí độc lập – khả năng hành động dựa trên sự tự biết mình của chúng ta, tự
do trước tất cả những ảnh hưởng khác.
Ngay cả những động vật thông mình nhất cũng không có được
những thiên tư ấy. Có thể chúng được huấn luyện để biết phải làm điều gì, nhưng
chúng không thể lãnh trách nhiệm về việc luyện tập ấy; hay nói khác đi, chúng
không thể ra lệnh, chỉ bảo, không thể thay đổi chương trình huấn luyện và cả chẳng
hiểu gì về nó.
Con người lại làm được. Chúng ta có thể viết ra những
chương trình mới cho bản thân chúng ta ngoài các bản năng và việc huấn luyện ấy
ra. Chính vì thế mà khả năng của loài vật khá giới hạn, còn khả năng của con người
thì vô hạn. Mà nếu chúng ta sống như các loài động vật sống vì các bản năng, vì
những ước định và các điều kiện, vì ký ức tập thể, chúng ta lại cũng bị giới hạn.
Cái riêng ấy của con người đã nâng chúng ta lên khỏi
hàng động vật, rồi những gì chúng ta tập luyện và khai thác những thiên tư này
cho chúng ta khả năng làm tràn đầy khả năng riêng có ấy của con người. Mối liên
quan giữa nhân tố kích thích và sự đáp ứng là khả năng to lớn nhất của chúng ta
– sự tự do để chọn lựa.

Trong việc khám phá nguyên tắc cơ bản của bản chất con
người, Frankl đã diễn tả một mô hình bản thân chính xác từ việc ông ta bắt đầu
phát triển thói quen đầu tiên và cơ bản nhất của con người thành đạt trong bất
kỳ hoàn cảnh nào, đó là thói quen của tính
tiên phong hành động.
Từ này giờ đây được dùng phổ biến trong các tác phẩm về
quản lý. Nó có nghĩa là một sự khởi xướng. Nó có nghĩa là, là con người. Chúng
ta có trách nhiệm với cuộc sống của các quyết định của chúng ta, chứ không phải
của các điều kiện mà chúng ta có. Chúng ta có thể hạ thấp các mặt tình cảm trước
những điều có giá trị. Chúng ta có sự khởi xướng và có trách nhiệm để làm cho mọi
điều xảy ra.
Hãy nhìn vào từ trách
nhiệm – được ghép bởi hai từ: sự đáp
ứng và khả năng – tức là khả năng để chọn lựa sự đáp ứng. Con người thành đạt
nhận ra trách nhiệm đó. Họ không đổ lỗi cho các hoàn cảnh, cho các điều kiện,
hay các quy định bắt họ phải ứng xử. Sự xử sự của họ là một sản phẩm của sự chọn
lựa đầy ý thức của chính họ, được dựa trên những giá trị, hơn là một sản phẩm của
các điều kiện có được, được dựa trên tình cảm.
Theo tự nhiên, chúng ta luôn năng động. Nhưng nếu cuộc
sống của chúng ta là một hoạt động của việc qui định và của các điều kiện, thì
hoặc do quyết định hay mặt định, chúng ta đã chọn để cho các sự việc khống chế
chúng ta. Mà nếu thế, chúng ta chỉ là con người chỉ biết phản ứng, tức là con người bị tác động bởi hoàn cảnh vật lý. Nếu thời
tiết tốt, người ấy cảm thấy dễ chịu; còn nếu không, tiết trời ảnh hưởng đến
thái độ và việc làm của họ. Con người năng động có thể khắc phục thời tiết, nên
dù trời mưa hay nắng cũng chẳng làm họ khác đi.
Người chỉ biết phản ứng cũng bị chi phối bởi hoàn cảnh
xã hội, sự “đổi thay của xã hội”. Khi người ta đối xử tốt với anh ta, anh ta cảm
thấy hài long; còn không anh ta trở thành phòng thủ hay cảnh giác. Người chỉ biết
phản ứng xây dựng cuộc sống tình cảm của họ chung quanh sự đối xử của những người
khác.
Người chỉ biết phản ứng bị các tình cảm các hoàn cảnh,
các điều kiện lái họ đi. Nhưng người năng động được các giá trị hướng dẫn – họ
cẩn trọng suy nghĩ về tuyển chọn và thu thập các giá trị. Sự chọn lựa của họ dựa
trên giá trị.
Như Eleanor Roosevelt đã nói, “Chẳng ai có thể làm hại
bạn nếu như bạn không đồng ý (để cho họ làm hại)”. Hay Gandhi cũng nói, “Chẳng
ai có thể lấy đi long tự trọng của chúng ta nếu chúng ta không đem quẳng nó đi
cho họ.” Đó là sự cho phép do ý muốn của chúng ta, do ưng thuận của chúng ta,
cho phép điều đó xảy ra với chúng ta.
Frankl chính là một trong số nhiều người đã có khả năng
khai thác sự tự do cá nhân trong những hoàn cảnh khó khăn để nâng đỡ và làm cho
người khác phấn chấn, giúp họ vượt lên sự chịu đựng, vượt lên hoàn cảnh khó khăn.
Viktor Frankl gợi ý là có ba giá trị chủ yếu trong đời
sống – những cái dựa trên kinh nghiệm,
hay những cái xảy ra cho chúng ta; những
cái sáng tạo, hay những cái chúng ta mang vào cuộc sống; và những cái do quan điểm, hay sự đáp ứng
của chúng ta trong những hoàn cảnh khó khăn như khi căn bệnh hiểm nghèo ở vào
giai đoạn cuối; trong đó, những cái do quan điểm là giá trị cao hơn cả.
Những hoàn cảnh khó khăn thường tạo ra những thay đổi
về mẫu mực để có thể có được cái nhìn hoàn toàn mới về thế giới, về bản thân và
về những người khác. Viễn cảnh rộng lớn hơn của họ ảnh hưởng đến những giá trị
về những cái do quan điểm để có thể nâng đỡ và truyền cảm hứng cho tất cả chúng
ta.
Hãy bắt đầu
Bản tính cơ bản của chúng ta là hành động, chứ không
phải bị hành động theo. Cũng như khả năng làm cho chúng ta có thể chọn lựa sự đáp
ứng của chúng ta trước những hoàn cảnh đặc biệt, điều này cũng cho chúng ta khả
năng tạo ra các hoàn cảnh.
Việc bắt đầu không có nghĩa là huyênh hoang, phách lối,
hung hăng. Nó có nghĩa là nhận ra trách nhiệm của chúng ta để hoàn thành công
việc.
Một số người chờ xem có điều gì xuất hiện hay có ai chăm
sóc, quan tâm đến họ. Nhưng những người hoàn thành bằng những công việc có kết
quả đều là những con người năng động, những con người là những giải pháp cho
các vấn đề, không phải vì bản thân các vấn đề, những con người bắt tay vào việc
để làm bất cứ điều gì là cần thiết, phù hợp với những nguyên tắc đúng, để hoàn
thành công việc.
Bất cứ lúc nào có ai trong gia đình chúng tôi, dù là một
trong những đứa con còn nhỏ tuổi, tỏ ra thiếu trách nhiệm hay đợi người khác
làm thay mình hoặc chờ một giải pháp, chúng tôi đều bảo người ấy. “Hãy dùng tài
xoay sở và hãy bắt đầu đi!” Thế rồi, về sau này, khi gặp các trường hợp như vậy,
trước khi chúng tôi nhắc nhở điều ấy, người ấy đã biết mình phải làm gì.
Nhắc nhở người khác biết trách nhiệm không có nghĩa là
hạ thấp họ, mà là việc khẳng định. Sự năng động là một phần của bản tính con người
và mặc dầu sinh lực năng động có thể ngủ quên, chúng vẫn có đó và chỉ cho được đánh
thức dậy.
Tất nhiên, khi nói thế cũng còn cần quan tâm đến sự trưởng
thành của cá nhân họ. Chúng ta không trông mong có sự hợp tác sáng tạo cao với
những con người còn bị lệ thuộc sâu nặng về mặt tình cảm. Nhưng chúng ta có thể,
ít ra, khẳng định bản tính cơ bản của họ và tạo một bầu không khí ở đó họ có thể
nắm bắt các cơ hội và giải quyết các vấn đề theo cách ngày càng tự lực hơn.
Hành động hay bị hành động theo
Sự khác nhau giữa những người tập để biết khởi sự và
những người không, hiểu cho sát nghĩa, giống như sự khác biệt giữa ngày và đêm.
Tôi không nói đến mức độ khác biệt về hiệu quả là 25 hay 50%; mà tôi nói có thể là trên 500%, nhất là
khi họ là những con người thông minh hiểu biết và nhạy bén hơn những người
khác.
Cần bắt tay vào việc để tạo sự quân bình về tính hiệu
quả giữa sản phẩm và khả năng tạo ra sản phẩm trong cuộc đời bạn. Cần bắt tay
vào việc để phát triển 7 thói quen.
Khi bạn nghiên cứu 6 thói quen kia, bạn sẽ thấy là mỗi thói quen ấy tùy thuộc vào
sự phát triển sinh lực năng động của bạn. Mỗi thói quen đặt trách nhiệm nơi bạn
để hành động. Nếu bạn chờ để bị hành động theo, bạn sẽ bị hành động theo. Lúc ấy
mọi cái lại khác đi.
Có dạo tôi làm việc với một nhóm người đang tìm cách cải
tiến công việc kinh doanh gia đình, làm đại lý cho hơn 20 tổ chức khác nhau và
cứ ba tháng gặp nhau để bàn bạc một cách thoải mái.
Lúc này công việc kinh doanh bị đình đốn và tác động
tiêu cực trên cơ sở kinh doanh này có phần nặng hơn so với nền kinh tế nói
chung. Những con người này xem chừng khá nản chí.
Ngày đầu tiên, cuộc thảo luận của chúng tôi là, “Điều
gì xảy ra cho chúng ta? Cái gì là nhân tố kích thích?”. Nhiều cái đang xảy ra.
Những áp lực của hoàn cảnh rất lớn. Rồi tình trạng thất nghiệp lan tràn, nhiều
người trong số những người này bỏ bạn bè chỉ cốt làm sao duy trì sự sống còn của
các cửa hang của họ. Vào cuối ngày hôm đó, mọi người còn cảm thấy chán nản hơn.
Ngày thứ hai, chúng tôi lại đưa ra câu hỏi. “Điều gì rồi
sẽ xảy ra trong tương lai?” chúng tôi nghiên cứu các chiều hướng của hoàn cảnh
với giả thiết phản ứng ngầm mà những vấn đề đó có thể tạo ra tương lai của họ.
Hết ngày thứ hai, chúng tôi còn có phần chán ngán hơn. Mọi cái sẽ còn tồi tệ hơn
trước khi chúng có thể khởi sắc lại và ai cũng biết như thế.
Qua ngày thứ ba, chúng tôi quyết định tập trung vào vấn
đề năng động. “Chúng ta đáp ứng thế
nào đây?” Chúng ta sẽ làm gì? Chúng ta có cách nào khởi sự trong tình
thế này?” Buổi sáng chúng tôi nói chuyện về việc quản lý và vấn đề giảm giá. Buổi
chiều chúng tôi thảo luận về việc gia đình thị phần. Chúng tôi tập trung trí tuệ
về cả hai lãnh vực, rồi tập trng vào vài vấn đề rất thực tiển và rất khả thi. Một
tinh thần mới rất phấn khích, tràn trề hy vọng và nhận thức thật năng động khi
bế mặc buổi họp.
Vào chính lúc kết thúc ngày thứ ba, chúng tôi tổng kết
những kết quả của hội nghị trong một câu trả lời gồm ba phần cho vấn đề, “việc
kinh doanh thế nào?”.
Phần một: Những cái đang xảy ra cho chúng ta chẳng thuận
lợi và các chiều hướng xem ra còn tồi tệ hơn trước khi nó khởi sắc lại.
Phần hai: Nhưng những gì chúng ta đang tạo ra rất khả
quan vì chúng ta đang quản lý tốt hơn, hạ giá và mở rộng thị phần.
Phần ba: Vì
thế, việc kinh doanh sẽ phát triển hơn bao giờ hết.
Giờ đây lý trí mách bảo điều gì? “Ồ, cứ tiến lên. Đối diện với các sự kiện, bạn chỉ còn cách là suy nghĩ
tích cực và tự chuẩn bị tinh thần để tiến xa hơn nữa. Trước sau gì rồi bạn cũng
đối diện thực tế”.
Nhưng vẫn có điều khác nhau giữa việc suy nghĩ tích cực
và tính năng động. Chúng ta đối diện thực tế, thực tế về hoàn cảnh hiện hành và
những dự phòng trong tương lai. Nhưng chúng ta cũng đối diện thự tế do đã có sức
mạnh để chọn lựa sự đáp ứng tích cực với những hoàn cảnh đó và những gì sẽ xảy
ra. Không đối diện thực tế có thể khiến chúng ta chấp nhận ý tưởng là, những gì
đang xảy ra cho chúng ta đã định đoạt chúng ta.
Các hang buôn, các nhóm cộng đồng, các tổ chức dù dưới
hình thức nào, kể cả dạng gia đình – cần phải năng động. Họ có thể liên kết sự
sáng tạo và tài xoay sở của các cá nhân năng động để tạo một trào lưu năng động
bên trong tổ chức. Tổ chức không cần đến sự khoan dung của hoàn cảnh, nó cần bắt
tay vào việc để hoàn thành những giá trị và những mục đích được chia sẽ giữa những
cá nhân có liên quan.
Lắng nghe tiếng nói của chúng ta
Vì các quan điểm và các cách xử sự của chúng ta trào
dâng khôi những mẫu mực của chúng ta, nếu chúng ta dùng khả năng tự biết mình của
chúng ta để thử nghiệm chúng, thường chúng ta có thể thấy nơi chúng bản chất của
các mô hình tiềm tang của chúng ta. Tỉ như tiếng nói của chúng ta là một dấu chỉ
đích thực về mức độ để qua đó chúng ta thấy chính chúng ta như những con người
năng động.
Tiếng nói của những con người chỉ biết phản ứng thường
tìm cách thoái thác trách nhiệm, như:
“Tôi thế đó,
Tôi chỉ có thể làm thế thôi”. Tôi đã được định đoạt rồi. Chẳng thể làm gì thay đổi
được.
“Hắn làm tôi điên
lên!” Tôi không có trách nhiệm. Đời sống tình cảm của tôi bị những thứ ngoài tầm
kiểm soát của tôi chi phối.
“Tôi không thể
làm điều đó. Chỉ vì tôi không có thời gian”. Có điều gì đó bên ngoài đang khống
chế tôi khiến tôi không còn thời gian.
“Nếu vợ tôi
biết kiên nhẫn hơn”. Cách xử sự của một ai khác đang hạn chế sự hiệu quả của
tôi.
“Tôi phải làm
thế”. Các hoàn cảnh hay những người khác đang áp lực tôi để buộc tôi phải làm.
Tôi không có tự do chọn lựa các hành động của tôi.
Tiếng nói của
người chỉ biết phản ứng
Tôi không thể làm điều gì khác
Tôi chỉ có thể làm thế
Hắn làm tôi phát điên mất
Họ không cho phép làm điều đó
Tôi phải làm điều đó
Tôi không thể
Tôi phải
Nếu như
Tiếng nói của
con người năng động
Nào, xem chúng ta còn những cách gì khác
Tôi có thể chọn một phương pháp khác
Tôi kềm chế các tình cảm của tôi
Tôi có thể tạo một cách có hiệu quả
Tôi sẽ chọn một đáp ứng thích hợp
Tôi chọn cách
Tôi thích hơn
Tôi sẽ
Tiếng nói ấy phát xuất từ mẫu mực cơ bản của quyết định
luận. Và toàn bộ tinh thần của luận thuyết này là sự thoái thác trách nhiệm. Tôi không chịu trách nhiệm tôi có được chọn
cách đáp ứng đâu.
Có lần một sinh viên hỏi tôi. “Thầy cho phép em nghỉ học.
Em phải đi chơi quần vợt”.
“Em phải đi,
hay em muốn đi?” tôi hỏi.
“Em phải đi
thật mà”, anh ta trả lời.
“Nhưng nếu em không đi thì có sao không?”
“Có chứ, tụi nó sẽ đuổi em ra khỏi đội”.
“Em thấy hậu quả thế nào?”
“Em không biết”.
“Có nghĩa là, em muốn
đi vì em muốn được ở lại đội chơi. Nhưng còn việc em bỏ lớp thì sao?”
“Em không biết”.
“Hãy suy nghĩ kỹ. Vì sao em cho việc vắng lớp là chuyện
bình thường?”
“Thầy tính đuổi em đấy chứ?”
“Em nghĩ sao giữa hai việc đó. Tất cả chỉ là hậu quả về
mặt xã hội thôi mà?”
“Em nghĩ em muốn vắng lớp”.
“Được thôi. Em phải cân nhắc giữa hai hậu quả đối chọi
nhau rồi hãy quyết định. Tôi nghĩ nếu là trường hợp tôi, tôi có muốn đi chơi quần
vợt đi nữa thì chẳng bao giờ tôi nói là phải”.
Thế là anh ta ngoan ngoãn bảo, “Vâng, em muốn đi chơi quần vợt”.
“Và như vậy là bỏ dự giờ của tôi chứ gì?” tôi nói giễu
cợt lại.
Đấy, người ta hay đỗ lỗi cho các lực bên ngoài – cho
người khác, các hoàn cảnh, kể cả cho trời đất – nghĩa là cho hoàn cảnh của
chính họ.
Trong một buổi hội nghị tôi đang thuyết trình về khái
niệm của sự năng động, một người đứng lên nói: “Thưa ông, Stephen, tôi thích những gì ông đang trình bày. Nhưng mỗi
hoàn cảnh mỗi khác. Như cuộc hôn nhân của tôi đây. Tôi thật khó xử. Vợ tôi và
tôi chẳng đồng cảm với nhau như trước đây. Tôi nghĩ tôi và vợ tôi chẳng còn yêu
nhau nữa. tôi phải làm sao đây?”
“Có gì là
tình cảm ở đây đâu nào?”Tôi hỏi.
“Có chứ”, ông ta tái khẳng định. “Nhưng chúng tôi đã có với nhau 3 đứa con nên chúng tôi phải lo lắng
cho chúng. Theo ông thì thế nào đây?”
“Hãy yêu thương
nàng”, tôi trả lời.
“Tôi đã nói rồi,
tình cảm không còn nữa”.
“Hãy yêu
nàng”.
“Ông không hiểu.
Tình cảm yêu thương không còn nữa”.
“Nhưng hãy cứ
yêu nàng. Nếu không còn tình cảm đấy mới là lý do để yêu nàng”.
“Nhưng làm
sao ông có thể yêu khi ông không yêu?”
“Ông bạn của
tôi ơi, yêu là động từ. Yêu – thứ tình cảm – là hoa trái của hành động yêu, một
động từ. Vậy, hãy yêu nàng. Hãy thỏa mãn nàng. Hãy hy sinh. Hãy lắng nghe nàng.
Hãy đánh giá cao. Hãy làm nổi bật lên. Hãy khẳng định nàng. Ông bạn có muốn làm
điều đó không?”
Trong các tác phẩm văn chương lớn của tất cả các xã hội
tiến bộ, yêu là một động từ. Những con người chỉ biết phản ứng tạo nó thành một
tình cảm. Họ bị tình cảm lôi kéo. Hollywood thường đã viết kịch bản khiến chúng
ta tin rằng chúng ta không có trách nhiệm, tin rằng chúng ta là một sản phẩm của
các tình cảm của chúng ta. Nhưng kịch bản của Hollywood không diễn tả thực tại.
Nếu tình cảm của chúng ta khống chế các hành động của chúng ta, đó là vì chúng
ta thoái thác trách nhiệm của chúng ta và làm cho chúng ta có khả năng làm như
vậy.

Những con người năng động biết yêu là một động từ. Yêu
là một hành động: những hy sinh bạn thực hiện, việc cho đi bản thân mình, giống
như người mẹ đưa đứa con mới sinh vào cuộc đời. Nếu bạn muốn khảo sát tình yêu,
hãy khảo sát những con người biết hy sinh vì người khác, ngay cả hy sinh cho người
làm bạn bực mình, hay chẳng đáp lại tình yêu của bạn. Nếu bạn là cha mẹ, bạn
hãy nhìn vào tình yêu mà bạn dành cho các con, những đứa con mà bạn hy sinh vì
chúng. Yêu là một giá trị được thực hiện qua các hành động yêu thương. Những
con người năng động hạ thấp tình cảm trước giá trị. Tình yêu – thứ tình cảm –
có thể đoạt lại được.
Phạm vi quan tâm/Phạm vi ảnh hưởng
Một cách thế tuyệt vời khác để trở nên biết mình hơn
khi đánh giá chính mức độ của mình về tính năng động là nhìn vào nơi chúng ta tập
trung thời gian và năng lực của chúng ta. Mỗi người chúng ta có một biên độ
quan tâm rộng lớn – về sức khỏe, con cái, các vấn đề công ăn, việc làm, món nợ
quốc gia, chiến tranh hạt nhân. Chúng ta có thể phân cách những vấn đề đó khỏi
những điều mà tinh thần và tình cảm chúng ta không vướng bận bằng cách tạo ra một
“phạm vi quan tâm”.
Khi chúng ta nhìn vào nhìn vào những vấn đề bên trong
phạm vi quan tâm, nó xuất hiện cho thấy có một số điều vượt ra ngoài tầm kiểm
soát của chúng ta và một số khác chúng ta có thể làm gì được. Chúng ta có thể
nhận dạng những điều quan tâm trong nhóm sau bằng cách vẽ vòng ngoại tiếp xung quanh
chúng bên trong một phạm vi ảnh hưởng nhỏ hơn.

Bằng cách xác định điều nào trong hai phạm vi đó khiến
chúng ta tập trung phần lớn thời gian và sức lực, chúng ta có thể khám phá nhiều
hơn về mức độ năng động của chúng ta.

Những con người năng động tập trung năng lực vào phạm
vi ảnh hưởng. Họ tiếp tục tác động lên những điều họ có thể làm được điều gì. Bản
chất năng lực của họ là tích cực, đang nới rộng và khuyếch đại ra, tạo cho phạm
vi ảnh hưởng của họ tăng lên.
Ngược lại, những con người chỉ biết phản ứng tập trung
nỗ lực của họ vào phạm vi quan tâm. Họ tập trung vào mặt yếu của người khác, những
vấn đề về môi trường và các hoàn cảnh là những cái họ không kiểm soát được. Sự
tập trung của họ dẫn đến việc đổ lỗi và buội tội các quan điểm, lên tiếng phản đối
và càng lúc càng cảm thấy họ biến thành những nạn nhân. Năng lực tiêu cực được
sinh ra bởi sự tập trung này, kết hợp với sự sao lãng những phạm vi họ có thể
làm được điều gì đó, đã khiến cho phạm vi ảnh hưởng của họ thu hẹp lại.

Cho đến chừng nào chúng ta còn đặt mình vào phạm vi
quan tâm, chúng ta còn để cho các vấn đề kiềm tỏa chúng ta. Chúng ta không có được
sự khởi sắc năng động cần thiết để tác động sự thay đổi tích cực.
Lúc đầu, tôi đã chia sẻ với các bạn chuyện về đứa con
trai của tôi gặp khó khăn trong vấn đề học vấn. Vợ tôi và tôi đã quan tâm rất
nhiều đến mặt yếu của nó và về cách người khác đối xử với nó.
Nhưng những điều
đó nằm trong phạm vi quan tâm của chúng tôi. Và chừng nào chúng tôi còn tập
trung nỗ lực vào những điều đó, chúng tôi vẫn chẳng làm được gì, nếu chúng tôi
không ngừng tăng cường những tình cảm không thích hợp và sự vô vọng, chúng tôi
không thể củng cố tính độc lập của cậu con của chúng tôi.

Cách duy nhất là phải đặt mình vào Phạm vi ảnh hưởng để
tạo nên năng lực tích cực để vừa thay đổi bản than chúng tôi, vừa tạo ảnh hưởng
trên cậu con của chúng tôi. Nhờ tiếp tục tác động lên bản thân thay vì lo lắng
về những điều kiện, chúng tôi đã có thể gây ảnh hưởng lên các điều kiện.
Do vị thế, sự dư dật, vai trò và các mối quan hệ, có một
số hoàn cảnh mà nhờ đó Phạm vi ảnh hưởng của một người lớn hơn Phạm vi quan tâm
của họ.
Hoàn cảnh này phản ánh tình trạng thiển cận về mặt
tình cảm tự trói buộc mình – một thứ khác của lối sống ích kỷ theo phản ứng chỉ
biết tập trung vào Phạm vi quan tâm.
Nếu có phải
quan tâm nhiều, Phạm vi quan tâm của những con người năng động cũng chỉ ngang bằng
Phạm vi ảnh hưởng vì họ luôn nhận trách nhiệm để tầm ảnh hưởng của họ có hiệu
quả.
Kiểm soát trực tiếp, gián tiếp và tình trạng không kiểm
soát được
Các vấn đề mà chúng ta đối diện rơi vào một trong ba
lãnh vực: kiểm soát trực tiếp (những vấn đề liên quan đến cách xử sự của chúng
ta); kiểm soát gián tiếp (những vấn đề liên quan đến cách xử sự của người
khác), và không kiểm soát được (những vấn đề chúng ta không làm gì được, như những
thực tại quá khứ hay tình thế). Phương pháp năng động đặt bước thứ nhất vào giải
pháp của cả ba loại vấn đề bên trong Phạm vi ảnh hưởng hiện nay của chúng ta.
Những vấn đề kiểm
soát trực tiếp được giải quyết bằng việc tiếp tục tác động lên các thói
quen của chúng ta. Chúng nằm rõ rang trong Phạm vi ảnh hưởng của chúng ta. Đó
là “Những thắng lợi cá nhân” của các thói quen 1, 2 và 3.
Những vấn đề kiểm
soát gián tiếp được giải quyết nhờ thay đổi các phương pháp gây ảnh hưởng của
chúng ta. Đó là “Những thắng lợi tập thể” của các thói quen 4, 5 và 6. Theo tôi
nhận thấy, có đến 30 phương pháp gây ảnh hưởng khác nhau. Một số người chỉ có
chừng ba hay bốn phương pháp làm vốn, thường bắt đầu với lý lẽ này nọ và, nếu
không được việc, họ quay qua chạy trốn hay có mâu thuẫn, lúng túng. Làm thế nào
giải thoát điều này thì chỉ còn cách học các phương pháp mới thay vì cứ mãi cắm
đầu vào các phương pháp không hiệu quả để “phấn đấu cho đạt chuẩn” như người
khác.
Những vấn đề không
kiểm soát được đòi buộc chúng ta phải thay đổi để thành tâm và thanh than
chấp nhận những vấn đề mới và tìm cách sống chung với chúng, kể cả khi chúng ta
không thích. Bằng cách này chúng ta không để cho các vấn đề ấy kiềm tỏa chúng
ta.
Bất kể là trực tiếp, gián tiếp, hay không kiểm soát được,
chúng ta có trong tay bước thứ nhất để giải quyết. Việc thay đổi các thói quen
của chúng ta, thay đổi cách nhìn của chúng ta về các vấn đề không kiểm soát được
là tất cả những gì nằm trong Phạm vi ảnh hưởng của chúng ta.
Phát triển phạm vi ảnh hưởng
Thật phấn chấn khi nhận ra là trong việc chọn sự đáp ứng
của chúng ta trước hoàn cảnh, chúng ta gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoàn cảnh. Nó
giống như khi chúng tat hay đổi một phần công thức hóa học, chúng ta thay đổi bản
chất của các kết quả.
Những con người năng động, có thể lúc đầu, họ thường bị
hiểu lầm, có lẽ do sự thông minh, tài năng và cả cách xử sự của họ trước các vấn
đề. Nhưng có điều, tập thể ấy, tổ chức ấy vẫn cảm thấy là không thể thiếu họ
qua những gì họ thực hiện có hiệu quả, nên trước sau gì họ cũng gây được ảnh hưởng
trong tập thể ấy.
Sự thành công của những con người năng động không dựa
vào các hoàn cảnh của họ, mà là chọn cách đáp ứng với các hoàn cảnh. Sự tập
trung của họ nằm ở Phạm vi ảnh hưởng và điều đó làm cho mọi cái khác đi.
Có một số người giải thích “tính năng động” có nghĩa
là huyênh hoang, phách lối, hay vô cảm; nhưng đâu phải con người năng động nào
cũng vậy. Họ là những con người thông minh, được các giá trị hướng dẫn, họ đọc được
thực tại và họ biết thực hiện điều gì cần.
Chúng ta hãy nhìn vào trường hợp hợp của Gandhi. Những
kẻ tố cáo ông là những người nằm trong viện lập pháp, họ cho rằng ông đã không
lên tiếng mạnh mẽ để lên án đế quốc Anh đã nô dịch dân Ấn Độ, nhưng ông vẫn một
mực tuyệt thực, lặng lẽ, từ tốn, âm thầm phát triển Phạm vi ảnh hưởng với các tầng
lớp lao động. Làn song ủng hộ, tin cậy theo ông qua khắp các miền đất nước. Mặc
dầu ông không nắm giữ một cơ quan hay vị thế chính trị nào, nhưng qua lòng trắc
ẩn, sự dũng cảm và niềm tin vào đạo lý, cuối cùng ông đã khuất phục được đế quốc
Anh, phá bỏ sự thống trị chính trị của họ trên dân tộc của ông.
“Sở hữu” hay “Hiện hữu”
Đối với những người luẩn quẩn trong Phạm vi quan tâm
lúc nào họ cũng nghĩ đến sự “Sở hữu” (the have’s),
kiểu đặt điều kiện, như:
“Tôi sẽ hạnh phúc khi
nào tôi “có” được căn nhà riêng”.
“Giá như tôi
“có” được một ông chủ không độc tài như thế…”
“Nếu như tôi
“có” được một người chồng kiên nhẫn hơn…”
“Giá như tôi
“có” được những đứa con biết vâng lời…”
“Nếu như tôi
“có” được mức độ…”
“Nếu chỉ cần
tôi “có” nhiều thời gian hơn cho tôi…”
Nhưng những người chú tâm đến Phạm vi ảnh hưởng thì
lúc nào cũng xem coi mình “Hiện hữu” (the be’s) thế nào – như tôi có thể (là) kiên nhẫn hơn, có thể (là) khôn ngoan hơn có thể (là) đáng yêu hơn. Họ tập trung
vào tính cách.
Câu chuyện về Giô-sép trong Kinh Thánh Cựu Ước của Cơ Đốc
giáo là hình ảnh của một con người năng động với hai lần thử thách, lần đầu khi
ông bị các anh em bán làm nô lệ qua Ai Cập và lần hai khi bị vu cáo vì cự tuyệt
sự dan díu tình ái để phải ngồi tù mất 13 năm. Nhưng cả hai trường hợp, Giô-sép
luôn là con người năng động, ông luôn tác động vào sự “hiện hữu” để vươn lên, lấy
lại lòng tin nơi nhà vua Ai Cập.
Đây là ý tưởng làm thay đổi mẫu mực đáng nói nơi nhiều
người. Việc đổ lỗi cho người khác, cho các điều kiện tạo nên tình trạng trì trệ
là điều quá dễ dàng. Nhưng chúng ta có trách nhiệm – “Khả năng chịu trách nhiệm”
– để làm chủ cuộc đời của chúng ta và để gây ảnh hưởng mạnh mẽ các hoàn cảnh của
chúng ta bằng cách tác động lên sự “hiện hữu”, lên con người chúng ta để biết
chúng ta là ai, thế nào.
Nếu tôi có rắc rối trong đời sống hôn nhân, liệu tôi được
lợi lộc gì khi cứ tiếp tục bắt chồng (vợ) phải thú nhận các lỗi lầm của họ. Làm
vậy chẳng khác tôi cứ giam mình vào một tình thế tiêu cực. Tôi còn khiến mình mất
đi khả năng gây ảnh hưởng nơi chàng (nàng) – thái độ cần nhằn, buộc tội, phê
phán chỉ làm cho nàng (chàng) cảm thấy chàng (nàng) có lý ngay trong chính sự yếu
đuối của họ. Sự phê phán của tôi làm cho tình hình tồi tệ hơn ý muốn sửa sai.
Khả năng để tích cực tác động hoàn cảnh của tôi tàn lụi và chết đi.
Nếu tôi thực sự muốn cải thiện tình hình, tôi nên tiếp
tục tác động lên cái mà tôi có thể kiểm soát được – bản than tôi. Tôi nên đừng
vội bó buộc nàng (chàng) cải thiện, mà nên xem lại những mặt yếu của bản thân.
Tôi nên tập trung để là một người bạn đời đúng mực và cao thượng, một nguồn
tình yêu và sự nâng đỡ vô điều kiện. Có như vậy, người chồng (vợ) sẽ cảm thấy sức
mạnh của tấm gương năng động và sẽ đáp trả đúng mực.
Có nhiều cách để đặt mình vào Phạm vi ảnh hưởng – hãy là người biết lắng tai nghe hơn, hãy là người công nhân sẵn sang cộng tác và
tận tụy hơn. Đôi khi điều có tính năng động nhất mà chúng ta có thể thực hiện
là hãy tỏ ra (là) mình hạnh phúc, chỉ
cần bằng nụ cười chân thật. Hạnh phúc, cũng giống như bất hạnh, đều là sự chọn
lực có tính năng động. Điều quan trọng của con người năng động là cứ sống đúng
mực và chấp nhận những gì hiện chúng ta chưa kiểm soát được, trong khi vẫn tập
trung các nỗ lực của chúng ta vào những gì chúng ta có thể làm được gì.
Đầu kia của cây gậy
Trước khi chúng ta có thể thay đổi hoàn toàn sự tập
trung cuộc sống của chúng ta vào Phạm vi ảnh hưởng, chúng ta cần xem xét hai điều
trong Phạm vi quan tâm của chúng ta, chúng là những điều chúng ta đáng suy nghĩ
sâu xa hơn – các hậu quả và các lỗi lầm.
Trong khi chúng ta được tự do chọn lựa những hành động,
chúng ta lại không được tự do để chọn các hậu quả của những hành động ấy. Hậu
quả bị luật tự nhiên chi phối, mà chúng ta có quan tâm đến cũng không được.
Chẳng hạn chúng ta có thể quyết định sống lươn lẹo
trong việc kinh doanh. Các hậu quả về mặt xã hội tùy thuộc vào việc chúng ta có
bị phát hiện hay không, nhưng những hậu quả tự nhiên đối với tính cách cơ bản của
chúng ta là một hậu quả chắc chắn.
Cách xử sự của chúng ta bị các nguyên tắc chi phối. Việc
sống hài hòa với chúng mang lại những hậu quả tích cực, còn khi làm trái với
chúng sẽ mang lại những hậu quả tiêu cực, còn khi làm trái với chúng sẽ mang lại
những hậu quả tiêu cực. Chúng ta được tự do chọn cách đáp ứng trong bất kỳ hoàn
cảnh nào. Nhưng khi đã làm như vậy rồi, chúng ta chọn luôn cả hậu quả kèm theo
“khi chúng ta nâng một đầu của cây gậy,
chúng ta nâng cả đầu gậy kia lên”.
Rõ là, có những lúc trong cuộc đời của mỗi người chúng
ta, chúng ta đã nhắc một thứ mà sau đó chúng ta biết là cây gậy không thích đáng.
Các chọn lựa của chúng ta mang lại những hậu quả mà nhiều khi chúng ta không muốn
thế, để nếu chúng ta được chọn làm lại, chúng ta sẽ làm khác đi. Chúng ta gọi
những chọn lựa này là những sai lầm và chúng là điều thứ hai đáng cho chúng ta
suy nghĩ sâu xa hơn.
Với những ai có quá nhiều ân hận, có lẽ bài tập về
tính năng động thiết yếu nhất là nhận ra những lỗi lầm đã qua cũng là những gì
nằm ngoài Phạm vi quan tâm của chúng ta. Chúng ta không thể lấy lại chúng,
chúng ta không thể hủy bỏ chúng, chúng ta không thể kiểm soát các hậu quả
(consequence) đến như một kết quả (result).
Phương pháp năng động trước một lỗi lầm là nhận ra nó
ngay, hãy sửa chữa và học được điều gì nơi nó. Thật vậy, điều này biến một thất
bại thành sự thành công. Nói như người sáng lập ra hang IBM, TJ. Watson, “Thành
công nằm ở phía xa của sự thất bại”.
Nhưng nếu không nhận ra một lỗi lầm, không sửa và học được
gì ở nó, lại là một lỗi lầm thuộc cấp bậc khác. Nó thường đặt một người vào con
đường tự lừa dối, tự bào chữa, thường là tìm cách hợp lý hó (những dối trá hữu
lý) cho mình và cho những người khác. Lỗi lần thứ hai, lý do che đậy này, càng
làm tăng sức mạnh cho lỗi lầm thứ nhất, ban cho nó tầm quan trọng không cân xứng
và càng gây tai hại hơn cho bản thân.
Sự đáp ứng của chúng ta trước bất cứ lỗi lầm nào đều ảnh
hưởng chất lượng sau này. Thật quan trọng để biết thừa nhận và sửa sai các lỗi
lầm của chúng ta để chúng không ảnh hưởng đến sau này và giúp chúngta đừng mắc
phải nữa.
Tạo và giữ những điều cam kết
Ở ngay trung tâm của Phạm vi ảnh hưởng của chúng ta là
khả năng tạo và giữ các điều cam kết và các điều hứa hẹn. Các điều cam kết mà
chúng ta tạo nên cho bản thân hay cho những người khác và trung thực giữ những
cam kết ấy, là điều cốt lõi và là sự thể hiện rõ nét nhất tính năng động của
chúng ta.
Nó còn là điều chủ yếu cho sự phát triển của chúng ta.
Qua các thiên tư về việc tự biết mình và
ý thức, chúng ta ý thức các lãnh vực nào còn yếu kém, các lãnh vực cần cải
thiện, các lãnh vực cần khai thác tài năng, các lãnh vực cần được thay đổi hay
nên loại trừ khỏi cuộc sống của chúng ta. Sau đó, khi chúng ta nhận ra và dùng trí tưởng tượng và tính độc lập của chúng ta để tác động lên nhận thức đó – chúng ta củng
cố tính cách, con người, để tạo mọi cái điều khả thi trong cuộc sống của chúng
ta.
Có hai cách giúp chúng ta làm chủ ngay cuộc đời của
chúng ta:
“Tạo một cam
kết – và giữ cho bằng được.
“Đặt ra một
mục tiêu – và hành động để đạt cho bằng được.
Chính lúc chúng ta tạo và giữ một cam kết, dù nhỏ cũng
là cách chúng ta tạo lập tính trung thực bên trong chúng ta, cho chúng ta nhận
thức tự chủ, lòng dũng cảm và sức mạnh để biết nhận trách nhiệm hơn trước cuộc
sống của chính chúng ta. Và từng bước thực hiện như vậy khiến danh dự của chúng
ta ngày càng lớn hơn các tính khí của chúng ta.
Sức mạnh để tạo
và giữ những cam kết cho chính chúng ta là điều quan trọng để phát triển những
thói quen cơ bản mang lại thành công. Kiến thức, kỹ năng và khát vọng đều nằm
trong tầm kiểm soát của chúng ta. Chúng ta có thể tác động lên bất cứ một điều
nào để cải thiện mức quân bình của cả ba.
Tính năng động hay sự tiên phong hành động: Thử nghiệm
của ngày thứ Ba
Chúng ta không có kinh nghiệm sống ở trại tập trung như
Frankl để nhận ra và khai thác tính năng động của chúng ta như trong trường hợp
của ông ta. Nhưng chúng ta có những sự kiện thông thường hang ngày để khai triển
khả năng năng động để xử lý những áp lực khác thường của cuộc sống. Chính vì thế
mà chúng ta cần tạo và bị ách tắc giao thông, lúc gặp một khách hang khó chịu,
hay khi đứng trước đứa con ngỗ nghịch, bướng bỉnh. Làm thế nào để chúng ta nhìn
ra các vấn đề và cần tập trung năng lực của chúng ta ở đâu. Đó là tiếng nói mà
chúng ta sử dụng.
Tôi muốn đề nghị bạn thử nghiệm nguyên tắc về tính năng
động trong vòng 30 ngày. Đơn giản chỉ cần thử và nhìn xem những gì xảy ra.
Trong 30 ngày ấy, bạn chỉ đặt mình vào Phạm vi ảnh hưởng. Hãy tạo và giữ những điều
cam kết nho nhỏ. Và hãy tập với thái độ nhẹ nhàng thư thái, chưa cần phê phán vội.
Hãy thử ngay trong chính đời sống hôn nhân, gia đình
và công ăn việc làm của bạn. Đừng biện lý với ai và cũng đừng biện lý với cả
chính mình. Khi bạn sai lỗi, hãy nhận và sửa sai, cũng như rút lấy kinh nghiệm
cho mình – ngay lập tức. Đừng đỗ lỗi cho hoàn cảnh. Hãy tác động lên những gì bạn
có thể kiểm soát được. Hãy tác động lên con người bạn, xem bạn nên (là) thế nào.
Hãy nhìn mặt yếu của người khác với long cảm thông chứ
đừng lên án. Vấn đề không phải là họ không làm điều gì, mà là họ nên làm điều
gì.
Những ai kiên trì và từng bước tập cho mình có được sự
tự do từ trong trứng nước, sự tự do của họ ngày càng phát triển; còn không, sự
tự do đó ngày một thui chột đi, vì họ chỉ “đóng” theo cách kịch bản của cha mẹ,
các đồng nghiệp và xã hội soạn ra.
Chúng ta có trách nhiệm với sự thành công với hạnh
phúc và cuối cùng là với phần lớn các hoàn cảnh của chính chúng ta. Biết mình
có trách nhiệm là yếu tố cơ bản để thành công và để có được những thói quen của
sự thành công.
NHỮNG ĐỀ NGHỊ ỨNG DỤNG
1.- Trong một
ngày, hãy lắng nghe tiếng nói của bạn và của những người khác chung quanh bạn.
Bạn có thường dùng hoặc nghe những câu nói có tính phản ứng như “nếu như”, “tôi
không thể”, hay “tôi phải”?
2.- Hãy nhận dạng
một kinh nghiệm mà bạn có thể gặp trong một ngày gần đây, dựa vào kinh nghiệm đã
qua, có lẽ bạn xử sự theo cách phản ứng. Ôn lại hoàn cảnh trong bối cảnh thuộc
phạm vi ảnh hưởng của bạn. Bạn có thể đáp ứng theo cách năng động như thế nào?
Dành ra một lúc để tạo ra thật sống động một kinh nghiệm trong tâm trí bạn, mường
tượng ra con người bạn khi đáp ứng năng động như vậy. Nhắc nhở bạn có một khoảng
cách giữa nhân tố kích thích và sự đáp ứng. Tạo một cam kết cho bản thân để tập
chọn lựa tự do.
3.- Chọn ra một
vấn đề của công ăn việc làm hay đời sống cá nhân đang làm bạn thất vọng. Xác định
xem nó là vấn đề trực tiếp, gián tiếp, hay không thể kiểm soát được. Nhân ra bước
đầu tiên bạn có thể đặt mình vào Phạm vi ảnh hưởng để giải quyết nó.
4.- Thử nghiệm
ngày thứ Ba về tính năng động. Nhận biết sự thay đổi trong Phạm vi ảnh hưởng của
bạn.
Thói quen 2:
LUÔN NHẮM TỚI MỤC TIÊU

Những nguyên
tắc để lãnh đạo
Những gì nằm sau và trước chúng ta là những vấn đề nhỏ
so với những gì nằm bên trong chúng ta.
Cliver Hendell Holmes
Xin vui lòng tìm một chỗ vắng lặng và không bị phá quấy
để đọc vài trang tiếp theo này. Hãy làm cho tâm trí bạn không vướng bận điều
chi trừ những gì bạn sẽ đọc và những gì tôi muốn mời bạn làm. Đừng bận tâm đến
thời biểu, công việc, gia đình, hay bạn bè của bạn. Hãy cùng tôi tập trung và mở
tâm trí bạn ra.
Trong trí tưởng tượng của bạn, bạn hãy mường tượng
chính bạn đang tới sự đám tang của một người thân yêu của bạn. Hình dung bạn đang
lái xe tới nhà đặt quan tài, bạn dừng xe và bước ra. Khi bước vào bên trong tòa
nhà, bạn để ý đến những bông hoa. Bạn thấy mặt mũi các bạn bè và những người
thân. Trong lòng bạn trào dâng nỗi xót thương vì sự mất mát này và cảm động vì
sự có mặt những người đang ở đây.
Khi bạn bước tới căn phòng và nhìn vào quan tài, bỗng
bạn thấy mình đang giáp mặt với chính mình, như đó là đám tang của bạn. Tất cả
những người này đã đến để nghiên mình trước bạn, để tỏ tình cảm thân thương và
cảm kích trước cuộc sống của bạn.
Khi bạn ngồi để đợi các nghi thức bắt đầu, bạn nhìn
vào bản chương trình có trong tay bạn. Có đến bốn người phát biểu. Một từ phía
gia đình bạn, với đầy đủ bà con dòng tộc từ khắp nơi tới dự. Người thứ hai là một
trong những bạn bè, anh ta nói lên cảm tưởng về bạn. Người thứ ba đến từ công sở
nơi bạn làm việc. Và người thứ tư là là của giáo hội, nơi bạn đã có những đóng
góp khi còn sống.
Giờ hãy suy nghĩ sâu xa. Bạn muốn những người phát biểu
trong tang lễ này nói gì về bạn và cuộc đời của bạn? Bạn muốn những lời phát biểu
của họ phản ánh bạn là hạng chồng, vợ, cha, hay mẹ nào? Là loại bạn bè nào? Là
loại đồng nghiệp nào?
Bạn thích họ nhìn bạn với tính cách nào? Bạn muốn họ
nhắc nhở những đóng góp và những thành tựu nào của bạn? Hãy nhìn thật kỹ vào những
người chung quanh bạn. Bạn muốn thay đổi cuộc sống của họ những gì?
Trước khi bạn đọc tiếp nữa, dành ra vài phút để ghi
nhanh những cảm tưởng của bạn. Nó sẽ gia tăng rất nhiều sự hiểu biết cá nhân của
bạn về thói quen 2.
“Luôn nhắm tới mục tiêu nghĩa là gì?”
Nếu bạn bị cuốn hút sâu vào trải nghiệm có tính mường
tượng này, hẳn bạn có một thoáng đắm chìm vào những giá trị nền tảng. Bạn đã tạo
được sự giao tiếp vắn với điều mà hệ chỉ đạo bên trong nơi trung tâm của Phạm
vi ảnh hưởng.
Hãy suy nghĩ những lời của Joseph Addison:
Khi tôi nhìn
lên các nắm mồ của các vĩ nhân, mọi cảm xúc về lòng đố kỵ chết đi trong tôi;
khi tôi đọc những văn bia nơi các một chí về vẻ đẹp, mọi khát vọng vô chừng biến
mất; khi tôi tình cờ chạm phải nỗi đau của những người làm cha mẹ đang gục đầu
trên bia mộ, trái tim tôi tan chảy với nỗi niềm thương cảm; khi tôi thấy phần một
của các bậc làm cha làm mẹ, tôi suy nghĩ về sự phù phiếm của nỗi đau thương cho
con người mà chẳng chóng thì chầy chúng ta cũng phải bước theo; khi tôi nhìn thấy
các vị vua chúa nằm bên những con người đã truất phế họ, rồi những con người
thù nghịch nhau nằm kế cận nhau và cả những con người thánh thiện nữa, tôi đau
buồn và kinh hoàng ngẫm nghĩ về những tranh giành nhỏ nhoi, những bè phái và những
tranh luận của loài người. Khi tôi đọc các ngày tháng ghi trên mộ bia, một số mới
qua đời hôm qua, số khác chết cách đây đến 600 năm, tôi nghĩ về cái ngày trọng đại
ấy khi tất cả chúng ta là những người cùng tuổi với nhau.
Mặc dầu thói quen 2 áp dụng cho nhiều hoàn cảnh và nhiều
mức sống khác nhau, nhưng ứng dụng nền tảng nhất là về “luôn nhắm tới mục tiêu”
để bắt đầu từ hôm nay với hình ảnh hay mẫu mực về lúc tận cùng của đời sống như
hệ qui chiếu hay tiêu chuẩn mà mọi cái được thử nghiệm bởi nó. Mỗi phần của cuộc
sống của bạn – cách xử ngày hôm nay, ngày mai, tuần tới, tháng tới – có thể được
thử nghiệm trong bối cảnh của tổng thể, của những gì thực là vấn đề cho bạn.
Luôn nắm rõ mục tiêu, bạn có thể đoán chắc rằng bất kỳ việc gì bạn làm vào một
ngày nào đó không vi phạm tiêu chuẩn mà bạn đã định hình như một điều tối quan
trọng và chắc chắn rằng mỗi ngày trong trong
cuộc đời của bạn đóng góp vào cách nhìn đầy ý nghĩa mà bạn có về cuộc sống
như một tổng thể.
Nhắm tới mục tiêu có nghĩa là khởi sự với một sự hiểu
biết rõ ràng về nơi tới của bạn. Nó có nghĩa là biết bạn sẽ đi đâu để hiểu rõ hơn
hiện bạn đang ở đâu và để các bước đi của bạn luôn đúng hướng.
Bạn dễ bị sập bẫy đến không ngờ, dễ rơi vào sự bận rộn
của cuộc sống, để cứ ra sức leo mãi, leo mãi trên bậc thang thành công để chỉ
thấy ra rằng nó đang dựa vào bức tường không ổn. Có thể là rất bận rộn – thật bận
rộn – mà chẳng mấy hiệu quả.
Con người thường thấy mình trống rỗng khi đang giành được
các thắng lợi, những thành công mà bỗng nhiên họ nhận thấy xem ra phải trả bằng
giá quá đắt. Dù ở lãnh vực nghề nghiệp nào, con người như cố giành cho được mức
thu nhập cao nhất, để được danh tiếng hơn, mà bất chấp những thứ chính ra thật
có ý nghĩa nhất với họ mà giờ đây không còn.
Cuộc đời chúng ta thật sẽ khác biết bao khi chúng ta
thật sự biết điều gì là quan trọng sâu xa đối với chúng ta, chúng ta sẽ tìm ra
cách chế ngự bản thân hàng ngày để chúng ta biết mình phải như thế nào và làm
những gì có ý nghĩa nhất. Nếu nấc thanh (danh vọng) không tựa vào bức tường vững
chắc, mỗi bước mà chúng ta đạt được có thể dẫn chúng ta đến chỗ sai lầm nhanh hơn.
Có thể chúng ta bận rộn hơn và cũng có thể chúng ta rất thành công, nhưng chúng ta chỉ đạt
hiệu quả thực sự khi chúng ta luôn biết nhắm tới mục tiêu.
Nếu bạn suy xét kỹ những gì bạn muốn người ta nói về
mình trong kinh nghiệm về tang lễ, hẳn bạn sẽ thấy được cho mình hình ảnh rõ nét về sự thành công. Nó sẽ khác với những
hình ảnh trước giờ bạn vẫn nghĩ. Những thứ mà trước giờ chúng ta phấn đấu giành
cho bằng được như danh vọng, sự thành đạt, tiền bạc… không là một phần của bức
tường vững chắc.
Khi bạn luôn nhắm tới mục tiêu, bạn sẽ có một viễn cảnh
khác. Một người hỏi người kia về cái chết của một người bạn chung của họ, “Anh
ta để lại bao nhiêu?” người bạn kia trả lời “Anh ta bỏ lại tất cả”.
Mọi cái đều được tạo nên hai lần
“Luôn nhắm tới mục tiêu” được dựa trên nguyên tắc Tất cả đều được tạo nên hai lần. Một lần
thuộc tinh thần và một lần thuộc thể chất.
Điều này có nghĩa là, trước khi làm bất cứ điều gì, như
xây dựng một căn nhà, đóng một bộ bàn ghế, hay tính mở một cửa hiệu buôn bán,
trước hết bạn phải xác định rõ, suy nghĩ kỹ về kế hoạch, sau đó sắp xếp mọi yếu
tố lại và bước thứ hai là thực hiện từng công đoạn của công việc, để làm sao
khi bạn cất xong căn nhà, căn nhà đó thật ưng ý, khi đóng xong bộ bàn ghế, nó
phải là bộ bàn ghế đẹp và tiện lợi, hoặc khi quyết định mở cửa hàng, thì các yếu
tố về tài chính, nghiên cứu và khai thác, tiếp thị, bố trí con người, các phương
tiện làm việc… phải đủ để bạn nắm chắc phần thành công. Phần lớn các doanh nghiệp
thất bại ngay từ bước đầu tiên, vì các vấn đề như kém vốn đầu tư, hiểu sai về
thị trường, hay thiếu kế hoạch kinh doanh.
Hay như việc giáo dục con cái cũng vậy. Nếu bạn muốn
nâng cao trách nhiệm và tính kỹ luật tự giác của con cái, bạn phải nhắm tới mục
tiêu rõ ràng khi bạn tác động nơi con cái mỗi ngày. Bạn không thể đối xử với
chúng theo những cách có thể ngầm hủy tính tự giác kỷ luật và lòng tự trọng của
chúng.
Nguyên tắc này có thể áp dụng vào nhiều lãnh vực của
cuộc sống, từ những chuyện nhỏ nhặt nhất cho đến những việc lớn lao.
Tùy mức độ chúng ta hiểu về nguyên tắc của hai bước
sáng tạo này và nhận trách nhiệm về cả hai bước ấy, chúng ta sẽ tác động vào và
mở rộng các biên giới của Phạm vi ảnh hưởng của chúng ta. Còn nếu mức độ thực
hiện của chúng ta không hài hòa với nguyên tắc này và chịu trách nhiệm ngay từ
bước sáng tạo đầu, chúng ta sẽ làm nó giảm hiệu quả.
Do chủ động dự tính hay do ngầm định
Nguyên tác mọi cái được tạo nên hai lần là nguyên tắc
dành cho hết mọi công việc, nhưng không phải tất cả những sáng tạo bước đầu đều
được chủ động dự tính đầy ý thức. Trong cuộc sống riêng của chúng ta, nếu chúng
ta không phát triển sự tự biết mình và có trách nhiệm với những sáng tạo bước đầu,
chúng ta sẽ để cho người khác và những hoàn cảnh bên ngoài Phạm vi ảnh hưởng của
chúng ta hình thành phần lớn cuộc sống của chúng ta do sự ngầm định. Chúng ta sống
kiểu phản ứng theo những kịch bản được gia đình, các đồng nghiệp, các chương
trình hành động của người khác trao vào tay chúng ta, những áp lực của hoàn cảnh
– những kịch bản từ bao đời trước, từ nền giáo dục và từ những ước định sẵn của
xã hội.
Những kịch bản này tới từ con người, không phải từ các
nguyên tắc. Chúng nổi lên do những mặt yếu bên trong của chúng ta, do tính phụ
thuộc vào người khác vào những gì muốn sở hữu, vì cảm tưởng được trọng vọng,
hay nghĩ rằng ta là nhân vật quan trọng.
Dù chúng ta có biết điều đó hay không, dù chúng ta có
bị nó khống chế hay không, chúng ta vẫn cần đế sự sáng tạo bước đầu cho mỗi phần
của cuộc sống. Điều đó quyết định chúng ta đi bước tiếp theo, bước sáng tạo thứ
hai) là của chính chúng ta hay của người khác, của hoàn cảnh hay của những thói
quen trong quá khứ.
Những khả năng riêng có của con người về sự tự biết
mình, trí tưởng tượng và ý thức có khả năng giúp chúng ta kiểm tra những sáng tạo
bước đầu và có thể giúp chúng ta chịu trách nhiệm về bước sáng tạo đầu tiên của
chính chúng ta, là kịch bản của riêng chúng ta. Nói cách khác, thói quen 1 mách
bảo, “Bạn là người sáng tạo”, thói quen 2 là sự sáng tạo đầu tiên.
Khả năng lãnh đạo và quản lý
-
Hai sự sáng tạo
-
Thói quen 2 được dựa trên các nguyên tắc của khả năng
lãnh đạo cá nhân, nó có nghĩa, khả năng lãnh đạo là sự sáng tạo đầu tiên. Lãnh đạo
không phải là quản lý. Quản lý là bước sáng tạo thứ hai mà chúng ta sẽ bàn ở
Thói quen 3. Nhưng khả năng lãnh đạo phải đến trước.
Quản lý là một điểm mấu chốt: Làm thế nào tôi có thể
hoàn thành tốt nhất những công việc nào đó? Lãnh đạo xử lý điểm cao nhất: Những
việc nào tôi muốn hoàn thành? Nó đúng như quan điểm của Peter Drucker và Warren
Bennis, “Quản lý là làm các việc cho đúng;
lãnh đạo là làm các việc đúng”. Quản
lý là hiệu quả khi đang bước lên bậc thang thành công; lãnh đạo xác định cái
thang đó có được tựa vào bức tường vững chắc hay không.
Bạn có thể mau chóng nắm bắt sự khác biệt quan trọng
này giữa hai điều đó khi bạn hình dung ra một nhóm người đang dùng rựa khai lối
đi băng qua khu rừng. Họ là những người sản xuất, những người giải quyết vấn đề.
Họ đang phát những bụi cây để làm quang lối đi.
Các nhà quản lý đi phía sau chỉ vẽ cho họ cách sử dụng
công cụ, phương pháp làm. Nhà lãnh đạo là người leo lên cái cây cao nhất, quan
sát toàn cảnh và la lên. “Không phải quãng rừng này!”
Nhưng bạn có biết các nhà quản lý và các công nhân đang
ra sức làm việc sẽ đáp lại thế nào không? “Im đi! Chúng tôi đang tiến hành công
việc”.
Cũng như các cá nhân, các đội nhóm và các thương gia,
chúng ta thường rất bận rộn đang phát quang các bờ bụi mà chúng ta không nhận
ra đó không phải là quãng rừng phải làm. Và hoàn cảnh đang thay đổi nhanh chóng
khiến chúng ta phải làm sao có sự lãnh đạo hiệu quả mới là điều quan trọng hơn
– trong mỗi khía cạnh của cuộc sống tự lập và tương thuộc.
Chúng ta cần một tầm nhìn hay một điểm tới và một cái
la bàn hơn, mà ít cần đến tấm bản đồ về đường xa. Thường chúng ta không biết địa
thế phía trước sẽ thế nào hay chúng ta sẽ cần những gì để hoàn thành nó; phần lớn
sẽ dựa vào sự phán đoán của chúng ta vào lúc đó. Và chiếc la bàn bên trong sẽ
luôn cho chúng ta hướng đi.
Sự thành đạt – thường cả khi để sống sót nữa – không
duy chỉ đựa trên những gì chúng ta ra sức nỗ lực, nhưng còn ở chỗ chúng ta biết
phán đoán đúng sai nên hay không. Sự biến hóa dành vị trí trong phần lớn mỗi
ngành kinh doanh và nghề nghiệp đòi hỏi trước tiên là khả năng lãnh đạo, rồi mới
đến khả năng quản lý.
Trong kinh doanh, những thay đổi trong thị trường
nhanh đến độ nhiều sản phẩm và các ngành hàng mới vài năm trước đây còn phù hợp,
giờ đã trở thành lỗi thời. Khả năng lãnh đạo hiệu quả và năng động cần liên tục
giám sát sự thay đổi của môi trường. Nhất là những thói quen và chuyển động mua
bán của khách hàng, để có thể đưa ra tác động cần thiết nhằm tổ chức các phương
cách cho đúng hướng.
Việc quản lý hiệu quả mà không có sự lãnh đạo hiệu quả
giống như việc “xếp ngay ngắn những cái ghế bố trên con tàu Titanic”.
Sự lãnh đạo đã nhiều khi thiếu vắng trong các tổ chức
kinh doanh, trong môi trường gia đình, mà trong đời sống riêng của chúng ta còn
thiếu vắng hơn nữa. Chúng ta chỉ lo quản lý sao cho có hiệu quả, tìm cách nào đạt
các mục đích trước khi gạn lọc những giá trị của chúng ta.
Mệnh lệnh: Hãy trở thành người sáng tạo ban đầu của bạn
Như chúng ta đã nhận định ở trên, tính năng động được
dựa trên thiên tư riêng có của con người về sự tự biết mình. Hai thiên tư riêng
có của con người thêm vào để giúp chúng ta có khả năng phát triển tính năng động
và tập lãnh đạo cuộc sống riêng của chúng ta là trí tưởng tượng và ý thức.
Qua trí tưởng tượng, chúng ta có thể hình dung thế giới
tự thân đầy khả năng bên trong chúng ta. Qua ý thức, chúng ta có thể giao tiếp
với các luật hay các nguyên tắc của vũ trụ cùng các tài năng cá nhân và các ngã
đường cống hiến và cả với các đường lối chỉ đạo của cá nhân mà qua đó chúng ta
có thể phát triển chúng một cách hiệu quả nhất. Được kết hợp với sự tự biết
mình, hai thiên tư này cho chúng ta khả năng viết ra kịch bản của chính chúng
ta.
Vì chúng ta đã quen sống với kịch bản được trao tận
tay chúng ta, quá trình viết kịch bản cho riêng mình cần đến một tiến trình “viết
lại”, hay sự thay đổi mẫu mực mà chúng ta đã từng có.
Tôi thấy quyền tự truyện của Anwar Sadar, cựu tổng thống
Ai Cập, là một trong những lời giải thích truyền cảm nhất về quá trình viết lại
này. Sadar được nuôi dưỡng, giáo dục và được tiêm nhiễm nặng lòng căm thù với
dân Do Thái và ông đã truyền cũng như tập hợp được ý chí của toàn dân theo tư tưởng
đó.
Đó là một tư tưởng mang tính độc lập và dân tộc cao khơi
gợi tình cảm nơi nhân dân. Nhưng đó cũng là điều thật xuẩn ngốc và ông ta biết điều
đó, nên ông ta đã “viết lại” qua kinh nghiệm lúc đó ông còn là một thanh niên bị
cầm tù trong xà lim số 54, một xà lim dùng để biệt giam ở Nhà Tù trung tâm
Cairo, khi ông ta âm mưu chống lại Vua Farouk. Chính hoàn cảnh đó đã cho ông thời
gian để suy nghĩ lại.
Đến thời Nasser, ông bị giáng cấp xuống một vị trí chẳng
mấy quan trọng gì. Mọi người tưởng ông sẽ thoái chí. Nhưng điều đó đã không xảyr
a. Chẳng ai hiểu ông cả. Ông đang chờ một cơ hội tốt.
Và khi thời cơ tới, khi ông trở thành tổng thống Ai Cập
và đương đầu với những thực tại chính trị, ông đã “viết lại” bản thân ông về
phía dân tộc Do Thái. Ông đã đi thăm Hội Đồng Lập Pháp (của Do Thái) ở
Jerusalem và mở ra những hoạt động hòa bình nhằm phá bỏ tiền lệ, một sự khởi xướng
để cuối cùng có được Hiệp Ước Trại David”.
Sadat đã có khả năng sự dụng sự tự biết mình, trí tưởng
tượng và ý thức của ông để thực hiện khả năng lãnh đạo cá nhân, để thay đổi một
mẫu mực chủ yếu, để thay đổi cách ông ta nhìn tình thế. Ông ta đã tác động vào
trung tâm của Phạm vi ảnh hưởng để tạo ảnh hưởng trên hàng triệu con người
trong Phạm vi quan tâm rộng lớn hơn.
Nhờ việc phát triển sự tự biết mình, nhiều người trong
chúng ta khám phá ra những kịch bản kém hữu hiệu những thói quen đã bám rễ sâu
hầu như không còn giá trị với chúng ta, hầu như không còn phù hợp với những điều
mà chúng ta thực sự coi trọng trong cuộc sống. Thói quen 2 bảo chúng ta không
phải sống với những kịch bản ấy. Chúng ta có khả năng đáp ứng để dùng trí tưởng
tượng và khả năng sáng tạo của chúng ta để viết những kịch bản mới hiệu quả hơn,
phù hợp hơn với những giá trị sâu xa nhất và với những nguyên tắc đúng đắn là
những gì ban cho những giá trị của chúng ta ý nghĩa.
Tỷ như, tôi
hay phản ứng dữ dội với con cái mỗi khi chúng làm điều gì mà tôi cảm thấy không
thích đáng, lúc ấy tôi cảm thấy căng thẳng ngay phần thượng vị. Tôi cảm thấy
các bức tường phòng thủ dựng cả lên, tôi như muốn la toáng lên mà chẳng cần để
ý đến thái độ của mình.
Nhưng nếu giờ đây tôi đang ngồi ở đám táng mà chúng ta
mường tượng ở phần đầu chương này và một trong những đứa con của tôi chuẩn bị
nói, lúc ấy tôi muốn cuộc sống của con tiêu biểu cho sự thắng lợi của việc giáo
dục, huấn luyện và rèn luyện đầy yêu thương qua bao năm thắng, hơn là những đụng
độ cấp thời đã để lại các vết thương lòng. Lúc ấy tôi muốn trái tim và tâm trí
của con ắp đầy những kỷ niệm dễ chịu của một thời đầy ý nghĩa và sâu nặng cùng
nhau. Lúc ấy tôi muốn con tôi nhớ đến tôi là một người cha đáng yêu biết sẽ chia
niềm vui và nỗi đau suốt thời gian con khôn lớn lên. Lúc ấy tôi muốn con nhớ tới
những lúc con đến bên tôi với các nỗi niềm của con. Lúc ấy tôi muốn lắng nghe,
yêu thương và giúp đáp con. Lúc ấy tôi muốn con biết rằng tôi không phải là con
người toàn thiện, nhưng tôi đã cố gắng với những gì tôi có thể làm được. Và, hơn
bất cứ ai trên thế gian này, tôi yêu thương con.
Lý do mà tôi muốn tất cả những điều đó vì, trong thâm
tâm, tôi coi trọng con cái. Tôi yêu thương chúng, tôi muốn giúp đỡ chúng. Tôi đánh
giá vai trò là một người cha của chúng.
Nhưng câu phải lúc nào tôi cũng thấy được những giá trị
đó. Tôi đã bị các vấn đề “cố hữu” vây bủa khiến tôi chỉ biết làm theo phản ứng.
Và cách tôi tác động các con hàng ngày thường ít giống với cách mà tôi cảm nhận
sâu sắc về chúng.
Nhưng vì tôi tự biết mình, tôi có trí tưởng tượng và
có ý thức, tôi có thể thử nghiệm những giá trị sâu xa nhất của tôi. Tôi có thể
nhận ra rằng cách mà tôi đang sống không hài hòa với những giá trị đó, rằng cuộc
sống của tôi không phải là sản phẩm của dự tính chủ động đầy năng động của tôi,
mà bước sáng tạo đầu tiên của tôi chiều theo những hoàn cảnh và người khác. Và
tôi có thể thay đổi. Tôi có thể sống vì trí tưởng tượng của tôi thay vì ký ức của
tôi. Tôi có thể buộc mình vào khả năng vô hạn thay vì quá khứ hạn hẹp của tôi.
Tôi có thể trở thành con người sáng tạo ban đầu của chính tôi.
Luôn nhắm tới mục tiêu có nghĩa là tiếp cận vai trò
làm người cha của tôi, cũng như các vai trò khác trong cuộc sống, với các giá
trị và chiều hướng rõ ràng. Nó có nghĩa là chịu trách nhiệm trước bước sáng tạo
đầu tiên của tôi, có nghĩa là tôi viết lại chính tôi để các mẫu mực mới đem lại
cho tôi quan điểm và cách xử sự phù hợp với những giá trị sâu xa nhất của tôi
và hài hòa với những nguyên tắc đúng đắn.
Nó có nghĩa là từng ngày bắt đầu với những giá trị vững
chắc ấy trong tâm trí. Rồi như những thăng trầm, những thách thức xảy đến, tôi
có thể có những quyết định dựa trên những giá trị này. Tôi có thể hành động với
lòng chính trực. Tôi không phải phản ứng theo xúc cảm hoàn cảnh. Tôi có thể thực
sự năng động, được các giá trị hướng dẫn, vì những giá trị ấy thật rõ ràng.
Lời bày tỏ nói lên nhiệm vụ cá nhân
Cách hiệu quả nhất mà tôi biết để luôn nhắm tới mục
tiêu là viết ra những lời bày tỏ nói lên
nhiệm vụ cá nhân hay một thứ triết lý sống hoặc một niềm xác tín. Nó tập
trung vào những gì bạn muốn là (tính cách) và muốn thực hiện (những cống hiến
và những thành tựu) và trên những giá trị hay những nguyên tắc để xây dựng tính
cách hay nhiệm vụ.
Vì mỗi người có những nét đặc thù và những hoàn cảnh
khác nhau, lời bày tỏ sẽ phản ánh sự đặc trưng ấy, cả về nội dung và hình thức.
Như trường hợp người bạn của tôi, anh ta viết lên những lời xác tín như sau:
Trước hết cần
tề gia
Nhưng mưu sự
tại nhân, thành sự tại thiên.
Hãy luôn nhớ đến
những người thân quen.
Lắng nghe cả
hai phía trước khi phán đoán.
Cần thanh thủ
sự khuyên bảo của mọi người.
Đừng bao giờ
nói xấu sau lưng ai.
Thật thà, thẳng
thắn khi cần quyết định.
Ngày càng
nâng cao trình độ.
Chớ bao giờ đợi
nước đến chân mới nhảy.
Luôn có quan điểm
tích cực.
Hóm hỉnh để tạo
chất men cho đời.
Biết người,
biết việc.
Đừng sợ sai
sót – chỉ sợ thiếu óc sáng tạo, thiếu tinh thần xây dựng, hay thiếu tính phục
thiện.
Tạo thuận lợi
cho cấp dưới thành công.
Trước khi
phát biểu cần biết lắng nghe cho kỹ.
Tập trung mọi
khả năng và nỗ lực vào việc đang phải thi hành, đừng bận tâm đến việc chưa tới
hay sự thăng quan tiến chức.
Một phụ nữ
tìm kiếm những giá trị quân bình cho gia đình và công việc đã diễn đạt cảm nhận
về nhiệm vụ cá nhân của mình theo cách khác:
Tôi tìm kiếm cách tốt nhất để quân bình giữa nghề nghiệp
và gia đình (kiểu giỏi việc nước, đảm việc nhà), vì đối với tôi, cả hai đều
quan trọng.
Cán bộ sẽ là
nơi mà ở đó tôi và gia đình tôi, các bạn bè và mọi khách khứa tìm thấy niềm
vui, sự dễ chịu, an bình và hạnh phúc. Tôi còn cần tạo một môi trường sạch sẽ
và ngăn nắp, thuận tiện và dễ sống. Tôi sẽ tính toán từ cái ăn, đến những phương
tiện giải trí, cũng như những gì phải làm ở nhà. Đặc biệt tôi muốn dạy các con
tôi biết thương yêu, chăm học và sống vui tươi – và cả biết làm việc và phát
triển tài năng riêng của từng đứa.
Tôi trân trọng
các quyền lợi, các quyền tự do và các trách nhiệm của xã hội dân chủ. Tôi sẽ là
một công dân biết quan tâm và có hiểu biết, kể cả những vấn đề về mặt chính trị
để đảm bảo rằng tiếng nói của tôi được mọi người lắng nghe và lá phiếu của tôi
có giá trị.
Tôi sẽ là một
con người tiên phong hành động, đi đầu trong các mục tiêu của cuộc sống. Tôi
tác động lên các hoàn cảnh và các cơ hội chứ không đợi làm theo người khác.
Tôi ráng giữ để
mình không vướng vào những thói nghiện ngập hay tiêu cực. Tôi phát triển các
thói quen giúp tôi đừng rơi vào những sáo mòn và những hạn hẹp nhưng luôn phát
triển các khả năng và những chọn lựa của tôi.
Tiền bạc phải
là người đầy tớ chứ không thể là ông chủ của tôi. Lúc nào cũng cần độc lập về
tài chính. Các mong ước sẽ là đối tượng của các nhu cầu và ý nghĩa của tôi. Trừ
món nợ lâu dài về nhà cửa và xe hơi, tôi tránh không bao giờ mua hàng thiếu.
Tôi sẽ chi tiêu ít hơn những gì tôi kiếm được và gởi tiết kiệm đều đặn, hoặc đầu
tư vào những việc sinh lợi.
Hơn nữa, tôi
sẽ dùng tiền bạc và tài năng của tôi để làm cho cuộc sống thú vị hơn đối với người
khác qua việc phục vụ và đóng góp vào quĩ từ thiện.
Bạn có thể
coi những bày tỏ nói lên nhiệm vụ cá nhân như một bản hiếp pháp dành cho bản
thân. Nó là một bất biến có tính chất nền tảng.
Một bảng bày tỏ nói lên nhiệm vụ cá nhân dựa trên những
nguyên tắc đúng đắn làm tiêu chuẩn cho một con người. Nó là hiến pháp của bản
thân, là cái nền để thực hiện những quyết định hướng tới cuộc sống và những gì
lớn lao hơn, cái nền để làm những quyết định hàng ngày giữa những hoàn cảnh và
những cảm xúc có ảnh hưởng đến cuộc sống. Nó làm cho một cá nhân có khả năng
luôn đứng thẳng trước những đổi thay của cuộc đời.
Con người không thể sống với những đổi thay nếu không
có một nòng cốt bất biến bên trong họ. Chìa khóa để có khả năng biến đổi là một
cảm nhận bất biến về con người của bạn, bạn là ai, bạn sẽ là gì và bạn coi trọng
điều gì.
Với một bản
bày tỏ như vậy, chúng ta có thể nương theo những đổi thay. Chúng ta không cần vội
đánh giá hay định kiến. Chúng ta không cần hình dung ra hết mọi điều trong cuộc
sống để đúc sẵn hay phân loại mọi thứ và mọi người nhằm thích nghi với thực tại.
Hoàn cảnh cá nhân của chúng ta cũng có thể thay đổi
theo một nhịp điệu không ngừng. Sự đổi thay mau lẹ như vậy đốt cháy một số lớn
những con người cảm thấy không thể điều khiển hoàn cảnh, không thể đương đầu với
cuộc sống. Họ chỉ biết phản ứng và bỏ cuộc, ngồi chờ với hy vọng sẽ có điều gì
khá hơn xảy đến với họ.
Nhưng đời nào có được như vậy. Trong trại tập trung của
Đức Quốc xã, Viktor Frankl đã học được nguyên tắc của tính năng động, ông cũng
học được tầm quan trọng của mục đích, của ý nghĩa trong cuộc sống. Bản chất của
phép “Trị liệu biểu trưng”, thứ triết lý mà sau này ông đã triển khai và giảng
dạy. Liệu pháp ấy tiêu trừ sự trống rỗng bằng cách giúp cá nhân khám phá ra ý
nghĩa riêng của họ, nhiệm vụ của họ trong cuộc sống.
Một khi bạn đã có cảm nhận về nhiệm vụ, bạn có được điều
cốt yếu là tính năng động, có tầm nhìn và những giá trị để điều khiển cuộc sống
của bạn. Mà đã có hướng cơ bản, bạn sẽ quyết định được những mục tiêu trước mắt
và lâu dài. Bạn có sức mạnh, nghị lực để viết lên bản “hiến pháp” cho mình dựa
trên những nguyên tắc nhằm phát huy việc sử dụng thời gian có hiệu quả, phát
huy các tài năng.
Ở ngay trung tâm
Để viết một bản
bày tỏ nói lên nhiệm vụ cá nhân, chúng ta phải bắt đầu ở ngay trung tâm của Phạm
vi Ảnh hưởng, trung tâm đó bao hàm các mẫu mực cơ bản nhất của chúng ta, là lăng
kính để chúng ta nhìn thế giới.
Đó là nơi chúng ta giao tiếp với tầm nhìn xa trông rộng
và các giá trị của chúng ta. Đó là nơi chúng ta sử dụng thiên tư về sự tự biết
mình để thử nghiệm các mô hình. Đó là nơi chúng ta dùng trí tưởng tượng như một
la bàn giúp chúng ta khám phá ra những tài năng riêng và những lĩnh vực để cống
hiến. Đó là nơi chúng ta phát huy khả năng sáng tạo để ngầm tạo nên đích điểm
mà chúng ta hằng khao khát, tạo hướng cho chúng ta biết nên bản “hiến pháp” của
cá nhân.
Đó cũng là nơi mà các nỗ lực hội tụ giành được những kết
quả to lớn nhất. Khi chúng ta tác động ngay chính trung tâm của Phạm vi ảnh hưởng,
chúng ta mở rộng phạm vi của nó. Đó là công việc của khả năng tạo sản phẩm có
tính đòn bẩy, tác động đáng kể đến thành tựu từng mặt của cuộc sống.
Bất cứ điều gì nằm ở trung tâm Phạm vi ảnh hưởng của
chúng ta sẽ là nguồn phát sinh sự an toàn, sự hướng đạo, sự khôn ngoan và nội lực
của chúng ta.
Sự an toàn tiêu biểu sự cảm nhận về giá trị, cá tình, lòng tự trọng,
nơi nương tựa tình cảm của bạn.
Sự hướng đạo là nguồn phát sinh phương hướng cho cuộc sống. Được
hoàn thiện do các mô hình, hệ qui chiếu của bạn, cái giải thích cho bạn những
gì đang xảy ra, là những chuẩn mực hay những nguyên tắc hoặc những tiêu chuẩn
ngầm từng lúc chi phối đến việc quyết định và thực hiện của bạn.
Sự khôn
ngoan là viễn cảnh của bạn về cuộc sống,
cảm nhận của bạn về sự quân bình, hiểu biết của bạn về những phần và những
nguyên tắc khác nhau ứng dụng và liên kết với người khác. Nó bao hàm sự phán đoán,
sự sáng suốt, sự thấu hiểu.
Nội lực là năng lực hay khả năng hành động, sức mạnh hay quyền
lực để hoàn thành một điều gì. Nó là nghị lực sinh động để chọn lựa và quyết định.
Nó còn là khả năng vượt thắng những thói quen bám rễ sâu để tiến tới những thói
quen cao hơn, hiệu quả hơn.

Cả bốn nhân tố - sự an toàn, sự hướng đạo, sự khôn
ngoan và nội lực – tương thuộc nhau. Sự an toàn và sự hướng đạo sáng suốt mang
tới sự khôn ngoan đích thực và sự khôn ngoan trở thành điểm sáng hay chất xúc
tác để phát sinh và hướng dẫn nội lực. Khi bốn nhân tố này cùng tồn tại với
nhau, chúng tạo nên một sức mạnh lớn của một con người cao nhã, một tính cách
quân bình và nét riêng được tích hợp một cách mỹ mãn.
Những nhân tố
nâng đỡ cuộc sống này còn củng cố từng chiều kích khác của cuộc sống. Mỗi cái
có quan hệ với nhau, không thể có vấn đề bao trùm hay chẳng là gì cả (an
all-or-nothing matter), mà mức độ phát triển từng nhân tố được biểu thị ở một nơi
nào đó trong chuỗi liên tục, rất giống với chuỗi liên tục thành thục như đã nói
ở trước. Điều đáng nói là nếu khi bốn nhân tố này của bạn yếu đi, bạn sẽ lại phụ
thuộc vào các hoàn cảnh hay người khác, những thứ mà bạn không kiểm soát được.
Còn nếu bạn kiểm soát được chúng, bạn có khả năng độc lập và nền tảng để phát
phong phú, để có được các mối quan hệ tương thuộc.
Ngoài ra, mỗi người chúng ta còn có những qui chiếu
trung tâm khác trên nhiều lãnh vực của cuộc sống, để từ đó phát sinh bốn nhân tố
trên, chi phối các mối quan hệ tương thuộc của chúng ta. Chúng ta xem bảng định
dạng sau đây:
|
Trung tâm
|
Sự an toàn
|
Sự hướng đạo
|
Sự khôn ngoan
|
Nội lực
|
|
Nếu
bạn qui chiếu về đời sống vợ chồng
|
*
Những tình cảm của bạn về sự an toàn được đặt trên cách mà chồng (vợ) bạn đối
xử với bạn.
*Bạn
dễ bị tổn thương trước tâm trạng và tình cảm của chồng (vợ).
* Bạn
hết sức thất vọng do sự co cụm hay xung khắc khi hai người bất hòa hay khi
không đáp ứng sự trông đợi của nhau.
*
Những va chạm có tính chất đe dọa đến mối tương quan vợ chồng.
|
*
Phương hướng của bạn xuất phát từ các nhu cầu và ước muốn của cả hai người.
*
Tiêu chuẩn để quyết định bị giới hạn vào những gì bạn nghĩ là có lợi nhất cho
cuộc sống hôn nhân, hoặc cho bản thân chồng (vợ)
|
*
Viễn cảnh đời sống của bạn xoay quanh những điều có ảnh hưởng tích cực cho chồng
(vợ) hay cho mối quan hệ vợ chồng của bạn.
|
* Sức
mạnh để tác động của bạn bị hạn chế bởi những mặt yếu nơi chồng (vợ) bạn hoặc
nơi chính bản thân bạn.
|
|
Nếu
bạn qui chiếu về đời sống gia đình
|
* Sự
an toàn của bạn được tìm thấy nơi sự tán đồng của gia đình và khi gia đình được
đầy đủ.
* Sự
an toàn ấy tùy thuộc tình cảnh gia đình.
*
Giá trị con người của bạn tùy thuộc vào thanh danh của gia đình.
|
* Mẫu
mực của gia đình là nguồn giúp bạn chấn chỉnh thái độ và cách xử sự của bạn.
*
Tiêu chuẩn để quyết định là những gì có lợi cho gia đình hay các thành viên
trong gia đình.
|
* Bạn
giải thích toàn bộ cuộc sống tùy vào gia đình, tạo sự hiểu biết có tính cục bộ
và thiên lệch.
|
*
Các hành động của bạn bị giới hạn bởi các mẫu mực và truyền thống gia đình.
|
|
Nếu
bạn qui chiếu về tiền bạc
|
*
Giá trị con người bạn được xác định bởi giá trị chung cuộc.
* Bạn
dễ bị tổn thương trước bất cứ điều gì đe dọa đến sự an toàn kinh tế của bạn.
|
* Lợi
nhuận là tiêu chuẩn để bạn quyết định.
|
*
Làm ra tiền là lăng kính để bạn nhìn và hiểu cuộc đời, tạo nên sự phán đoán lệch
lạc.
|
* Bạn
bị hạn chế vào những gì bạn có thể thực hiện với đồng tiền của bạn và với tầm
nhìn hạn hẹp của bạn.
|
|
Nếu
bạn qui chiếu về công việc
|
* Bạn
có khuynh hướng minh định bản thân bằng vai trò nghề nghiệp của bạn.
* Bạn
chỉ cảm thấy dễ chịu khi bạn làm việc.
|
* Bạn
quyết định dựa trên những nhu cầu và các trông đợi nơi công việc của bạn.
|
* Bạn
thường bị giới hạn vào vai trò công việc của bạn.
* Bạn
nhìn công việc như sự sống của bạn.
|
*
Các hành động của bạn bị hạn chế vào các mẫu mực về vai trò của công việc,
các cơ hội nghề nghiệp, sự câu thúc của tổ chức, sự nhận thức của ông chủ và
vài nhược điểm trong cuộc sống của bạn khi thi hành một công việc.
|
|
Nếu
bạn qui chiếu về của cải
|
* Sự
an toàn của bạn được đặt nền tảng trên tiếng tăm, địa vị xã hội, hay những của
cải hiển nhiên mà bạn sở hữu.
* Bạn
có khuynh hướng so sánh những gì bạn có với những gì người khác có.
|
* Bạn
quyết định dựa trên những gì cần bảo vệ, cần gia tăng, hay phô bày lộ liễu
tài sản, của cải của bạn.
|
* Bạn
nhìn đời qua việc so sánh về kinh tế và các mối quan hệ xã hội.
|
*
Chức năng của bạn nằm trong tầm hạn hẹp nơi những gì bạn sắm được hay những
tiếng tăm mà bạn giành được ngoài xã hội.
|
|
Nếu
bạn qui chiếu về sự vui thú
|
* Bạn
chỉ cảm thấy an toàn khi được thỏa lòng “hoàn toàn”
* Sự
an toàn của bạn không bền vững, có tính chất nhất thời.
|
*
Quyết định của bạn dựa trên những gì mang lại cho bạn niềm vui thú.
|
* Bạn
nhìn đời theo những gì mang lại lợi ích cho bạn.
|
* Sức
mạnh của bạn hầu như không đáng kể.
|
|
Nếu
bạn qui chiếu về bạn bè
|
* Sự
an toàn của bạn là một chức năng của hình ảnh của xã hội.
* Bạn
dựa dẫm nhiều vào các ý kiến của người khác.
|
*
Quyết định của bạn dựa vào “suy nghĩ” của người khác.
* Bạn
dễ bị lúng túng.
|
* Bạn
nhìn đời qua lăng kính của xã hội.
|
* Bạn
bị giới hạn bởi chiều hướng xã hội.
*
Các hành động của bạn thay đổi như suy nghĩ của bạn.
|
|
Nếu
bạn qui chiếu về kẻ thù
|
* Sự
an toàn của bạn không bền vững, nó tùy thuộc vào những hành động của kẻ thù.
*
Lúc nào bạn cũng ngỡ rằng hắn ta có mặt đâu đó.
* Bạn
tìm sự tự bào chữa và sự chuẩn nhận từ ý kiến tương đồng.
|
* Bạn
bị các hành động của kẻ thù hướng dẫn.
* Bạn
quyết định dựa trên những gì nhằm cản đường kẻ thù.
|
*
Phán đoán của bạn hẹp hòi và lệch lạc.
* Bạn
thường tỏ ra phòng thủ, phản ứng dữ dội và thường hoang tưởng.
|
*
Chút ít sức mạnh mà bạn có được xuất phát từ cơn tức giận, đố kỵ, oán giận và
thù oán – thứ sinh lực tiêu cực ấy có tính chất làm thui chột và phá hủy.
|
|
Nếu
bạn qui chiếu về tôn giáo
|
* Sự
an toàn của bạn được đặt nền tảng trên sự hưng thịnh của giáo hội và vào công
việc bạn có được trọng vọng và ảnh hưởng trong giáo hội hay không.
* Bạn
tìm thấy hình ảnh của bạn và sự an toàn dưới các nhãn hiệu và các so sánh của
tôn giáo.
|
* Bạn
được dẫn dắt bởi những người khác sẽ đánh giá các hoạt động của bạn liên quan
đến các lời giảng dạy và các mong đợi của giáo hội.
|
* Bạn
nhìn thế giới theo cách nhìn của “người có niềm tin” và “người không có niềm
tin”.
|
* Sức
mạnh được thừa nhận đến từ vị trí và vai trò của giáo hội của bạn.
|
|
Nếu
bạn qui chiếu về việc coi mình là
trung tâm
|
* Sự
an toàn của bạn luôn thay đổi.
|
*
Tiêu chuẩn quyết định của bạn là; “Nếu điều đó tốt…”
“Tôi
muốn gì”.
“Tôi
cần gì”.
“Điều
đó có lợi gì cho tôi?”
|
* Bạn
nhìn cuộc đời bằng cách phải quyết định thế nào, các sự kiện và hoàn cảnh ra
sao sẽ gây ảnh hưởng cho bạn.
|
*
Khả năng để tác động của bạn bị giới hạn vào các phương sách của chính bạn,
không cần đến các lợi ích và sự tương thuộc.
|
Nhưng nếu cuộc sống của chúng ta qui chiếu vào những
nguyên tắc đúng đắn, chúng ta sẽ tạo nên một nền tảng vững chắc để phát triển bốn
nhân tố nâng đỡ cuộc sống:

Sau đây là bảng
định dạng bốn yếu tố khi bạn biết qui chiếu cuộc sống vào những nguyên tắc đúng
đắn.
|
Trung tâm
|
Sự an toàn
|
Sự hướng đạo
|
Sự khôn ngoan
|
Nội lực
|
|
Nếu
bạn qui chiếu về các nguyên tắc
|
* Sự
an toàn của bạn được dựa trên những nguyên tắc đúng đắn, bền vững, mặc những điều
kiện và các hoàn cảnh bên ngoài.
* Bạn
biết những nguyên tắc đích thực có thể được chuẩn nhận nhiều lần trong cuộc sống
của bạn, thông qua các kinh nghiệm của chính bạn.
*
Như thước đo về sự tự cải thiện, những nguyên tắc đúng đắn thực hiện chức năng
cùng với tính chính xác, tính kiên định, vẻ đẹp và sức mạnh.
*
Những nguyên tắc đúng đắn giúp bạn hiểu sự phát triển của chính bạn, phú cho
bạn sự tin tưởng để học biết nhiều hơn, từ đó tăng cường kiến thức và sự hiểu
biết của bạn.
*
Nguồn phát sinh sự an toàn của bạn cung cấp cho bạn phần cốt lõi không lay
chuyển nổi, giúp bạn nhìn sự thay đổi như một cuộc mạo hiểm thú vị và cơ hội
cống hiến đáng kể.
|
* Bạn
được hướng dẫn bởi kim chỉ nam giúp bạn nhận ra nơi bạn muốn đi và đến đó như
thế nào.
* Bạn
sử dụng những dữ liệu chính xác giúp bạn quyết định đầy đủ và có ý nghĩa.
* Bạn
đứng tách biệt khỏi các tình thế, các cảm xúc, các hoàn cảnh và nhìn vào một
tổng thể quân bình. Các quyết định và các hành động của bạn phản ánh những
tính toán trước mắt và lâu dài.
*
Trong mọi hoàn cảnh, bạn quyết định có ý thức và năng động dựa trên các
nguyên tắc đã được rèn luyện.
|
* Sự
phán đoán của bạn hoàn thiện một loạt lớn những hệ quả lâu dài và phản ánh cả
sự khôn ngoan và tính chắc chắn.
* Bạn
nhìn mọi thứ khác đi, nên bạn cũng hành động khác với lẽ thường tình.
* Bạn
nhìn cuộc đời qua một mẫu mực nền tảng để có được một cuộc sống hiệu quả, biết
dự phòng.
* Bạn
nhìn cuộc sống theo những gì bạn có thể thực hiện cho đời và cho con người.
* Bạn
sống theo lối sống năng động, tìm cách xây dựng và phục vụ con người.
* Bạn
giải thích mọi trải nghiệm cuộc đời như cơ hội để học hỏi và cống hiến.
|
* Sức
mạnh của bạn chỉ bị giới hạn ở sự hiểu biết và sự tuân thủ luật tự nhiên và
những nguyên tắc đúng đắn và bởi những hệ quả tự nhiên của chính những nguyên
tắc đó.
* Bạn
tự nhận biết, có khả năng hiểu biết, là một con người năng động, không bị hạn
chế nhiều vào các quan điểm, các cách xử sự, hay các hành động của người
khác.
*
Khả năng tác động của bạn vượt xa các phương sách của chính bạn và giúp bạn
ngày càng phát triển tính tương thuộc.
*
Những quyết định và những hành động của bạn không bị tài chính hay các giới hạn
của hoàn cảnh lúc ấy lèo lái. Bạn có kinh nghiệm về sự tự do có tính tương
thuộc.
|
Như một con người biết qui chiếu vào nguyên tắc, bạn cố
gắng đứng tách biệt khỏi xúc cảm của tình thế và khỏi những nhân tốt khác có thể
có tác động lên bạn và ước định những ý kiến. Nhìn vào tổng thể quân bình – các
nhu cầu của công việc, các nhu cầu của gia đình, những nhu cầu khác có liên
quan và những lôi cuốn khả dĩ của những quyết định khác nhau – bạn vẫn có thể
có được giải pháp hữu hiệu nhất, đưa tất cả các nhân tố vào để xem xét.
Đứng trước mọi tình huống, trước hết, bạn không phải
hành động theo người khác hay hoàn cảnh. Bạn đang chọn lựa một cách năng động để
biết phải thay thế cách nào hiệu quả nhất. Bạn quyết định đầy ý thức và hiểu biết.
Thứ đến, bạn biết quyết định của bạn có hiệu quả nhất
vì nó được dựa trên những nguyên tắc đưa đến những kết quả lâu dài có thể tiên đoán
được.
Thứ ba là, những gì bạn đã chọn là để cống hiến cho những
giá trị tối thượng của cuộc sống của bạn, hay lợi ích của tập thể.
Thứ tư là, vì bạn có tính độc lập, bạn có thể tạo được
sự tương thuộc hữu hiệu.
Và cuối cùng, bạn cảm thấy hài lòng về quyết định của
bạn. Dù bạn đã chọn thực hiện điều gì, bạn đều có thể tập trung vào việc đó và
cảm thấy thú vị khi làm.
Như một con người biết qui chiếu vào nguyên tắc, bạn
nhìn mọi thứ khác đi. Và vì bạn nhìn khác đi như vậy, bạn sẽ suy nghĩ và hành động
khác đi. Vì bạn có mức độ an toàn, sự hướng đạo, sự khôn ngoan và nội lực cao bắt
nguồn từ phần cốt lõi bất biến, vững chắc, bạn có được nền tảng để phát huy cuộc
sống năng động và hiệu quả cao.
Viết và sử dụng lời bày tỏ nói lên nhiệm vụ cá nhân
Khi chúng ta đi
sâu vào bên trong bản thân, khi chúng ta hiểu và tập hợp các mẫu mực cơ bản của
chúng ta lại để đưa chúng đến sự hài hòa với các nguyên tắc đúng đắn, chúng ta
vừa tạo được một sự qui chiếu hiệu quả và mạnh mẽ, vừa tạo một lăng kính rõ
ràng để qua đó chúng ta có thể nhìn thế giới. Rồi chúng ta có thể tập trung
cách nhìn đó về chúng ta, những cá nhân riêng biệt, có quan hệ với thế giới này
như thế nào.
Frankl nói rằng chúng ta khám phá hơn là chúng ta hư cấu
các nhiệm vụ của chúng ta trong cuộc sống. Thật là một cách tuyệt vời. Tôi cho
rằng mỗi người chúng ta có một người kiểm soát bên trong gọi là lương tâm. Lương tâm ấy cho chúng ta nhận
biết con người đặc thù của chúng ta và những cống hiến riêng mà chúng ta thực
hiện, Frankl bảo đó là, “sứ mạng hay tiếng gọi riêng của mỗi người trong cuộc đời
này… mà không ai có thể thay chỗ được và cuộc đời ấy chỉ sống một lần. Vì thế,
mỗi người cần thực hiện đầy đủ cơ hội có một không hai đó.”
Ý nghĩa của chúng ta đến từ bên trong. Một lần nữa,
chúng ta lại được nghe Frankl nói, “Cuối cùng, con người không nên hỏi ý nghĩa
của cuộc sống của họ là gì, nhưng nên nhận ra rằng họ là người bị chất vấn. Tắt
một lời, mỗi người bị cuộc sống chất vấn; và họ chỉ có thể trả lời với cuộc đời
bằng câu trả lời của chính cuộc sống của họ, bằng chính sự thể hiện trách nhiệm
của họ”.
Trách nhiệm, hay tính năng động cá nhân là điều nền tảng
cho sự sáng tạo bước đầu. Nói theo ẩn dụ của thời đại máy tính, Thói quen 1 bảo,
“Bạn là người lập trình”. Đến lượt Thói quen 2 bảo “Hãy lập trình”. Đến chừng
nào bạn chưa chấp thuận ý tưởng là bạn chịu trách nhiệm, bạn là người lập
trình, bạn chưa thực sự đầu tư vào việc lập trình.
Như một con người năng động, chúng ta có thể khởi sự
biểu lộ tình cảm về những gì chúng ta muốn là và muốn làm trong cuộc sống của
chúng ta. Chúng ta có thể viết lời bày tỏ nói lên nhiệm vụ cá nhân, một bản hiến
pháp cá nhân.
Bản bày tỏ nói lên nhiệm vụ không phải là thứ bạn có
thể viết sau một đêm. Nó cần sự nội quan sâu sắc, sự phân tích tỉ mỉ, sự biểu lộ
cẩn trọng và phải viết đi viết lại nhiều lần mới có được, có khi phải hàng tuần,
hàng tháng bạn mới có được một bản thật sự vừa lòng. Đến như thế đi nữa, bạn vẫn
cần duyệt lại thường xuyên và có những thay đổi nho nhỏ theo những biến thiên của
thời gian và hoàn cảnh. Nhưng về mặt cơ bản, nó trở thành bản “hiến pháp” của bạn,
một sự biểu lộ tình cảm kiên định về tầm nhìn và đánh giá của bạn. Nó trở thành
tiêu chuẩn để qua đó bạn đo lường mọi cái khác trong cuộc sống.
Việc duyệt xét thường xuyên như vậy làm thay đổi con
người bạn, vì nó thúc ép bạn suy xét kỹ về những điều ưu tiên và vững tin sắp xếp
cách sống của bạn. Khi bạn làm vậy, người khác sẽ cảm nhận không bị những cái đang
xảy ra xung quanh chi phối bạn. Bản thân bạn cũng cảm nhận những gì bạn đang thực
hiện và bạn cảm thấy hưng phấn về nó.
Việc động não nhằm mở rộng viễn cảnh và khẳng định vai
trò lãnh đạo, chủ động của bản thân
Sự tự biết
mình cho chúng ta khả năng kiểm tra các suy nghĩ của chính chúng ta. Đặc biệt,
nó còn giúp chúng ta sáng tạo, bản tỏ bày nói lên nhiệm vụ của bản thân vì hai
thiên tư riêng có ở nơi con người là trí tưởng tượng và ý thức là những thứ cho
chúng ta khả năng thực thi Thói quen 2. Chúng là hai chức năng chủ yếu của bán
cầu não bên phải. Biết cách đánh động vào năng lực to lớn của phần não phải sẽ
gia tăng khả năng sách tạo bước đầu của chúng ta. Lúc đó chúng ta nhờ khả năng
mường tượng để chủ động mở rộng viễn cảnh chứ không đợi chờ hoàn cảnh hay người
khác. Từ đó, bạn có thể hình dung và khẳng định mọi tình huống trong cuộc sống.
Khả năng lãnh
đạo, chủ động của cá nhân không phải là kinh nghiệm duy nhất. Nó không bắt đầu
và chấm dứt cùng với bảng tỏ bày nói lên nhiệm vụ cá nhân, mà nó là một qui
trình còn tiếp diễn để bạn luôn có tầm nhìn và luôn giữ vững những giá trị trước
khi bản thân bạn và cuộc sống của bạn thích ứng với phần lớn những điều quan trọng
nhằm giúp bạn luôn nhắm tới mục tiêu.
Một sự khẳng định
có giá trị có năm phần cơ bản hợp thành: Nó thuộc phạm vi cá nhân, nó tích cực,
nó xảy ra ngay lúc ấy, nó nhận ra được, và nó có tính chất tình cảm.
Tỉ như tôi đưa
ra một tình huống thế này:
“Thật là rất thỏa
lòng (tình cảm) khi thấy rằng
(nhận ra) tôi (phạm vị cá nhân) tỏ ra (lúc ấy) khôn ngoan, yêu thương, vững vàng và tự chủ (tích cực) khi con tôi
xử sự sai trái.
Sau đó tôi mường tượng về những lúc con tôi xử sự sai
trái với những chi tiết thấm đậm tình cảm hơn; mà cứ sự thường tôi dễ nổi nóng
vào những lúc ấy, thì tôi lại có thể kiềm chế mình trước tình cảnh ấy mà tỏ ra
yêu thương, mạnh mẽ, tự chủ, giành được sự khẳng định về mình.
Cứ thế, sau nhiều lần, cách xử sự của tôi sẽ thay đổi.
Thay vì sống theo những kịch bản mà người khác hay hoàn cảnh, hoặc xã hội hay
thói quen đưa đến, tôi sống theo những gì tôi viết ra cho chính mình.
Nhận dạng các vai trò và các mục tiêu
Mỗi người
chúng ta có một số các vai trò khác nhau trong cuộc sống của mỗi người – những
lãnh vực hay những khả năng khác nhau mà chúng ta chịu trách nhiệm. Chẳng hạn,
một người vừa là chính bản thân mình, vừa là một người chồng, một người cha, một
nhà giáo, một chức sắc trong một tôn giáo và một thương gia, mà mỗi vai trò đều
quan trọng.
Một trong những vấn đề lớn thường xảy ra là khi người đó
nỗ lực đạt hiệu quả cao trong cuộc sống thì họ lại không suy nghĩ đủ rộng. Họ mất
đi cảm nhận về sự cân đối, sự quân bình, môi trường sinh thái tự nhiên cần thiết
cho một cuộc sống hiệu quả. Họ có thể bị mỏi mòn vì công việc và sao lãng vấn đề
sức khỏe, có khi vì sự thành đạt trong nghề nghiệp, họ còn thờ ơ với phần lớn
các mối quan hệ quí báu trong cuộc sống.
Chính vì thế, trong bản tỏ bày nói lên nhiệm vụ cá
nhân, bạn cần lưu tâm đến sự quân bình này nhiều hơn.
Chẳng hạn, khi nhìn vào vai trò nghề nghiệp, dù là nghề
nghiệp gì đi nữa, bạn nên tự hỏi, “Bạn đang bận rộng gì trong lãnh vực đó?” “Những
giá trị nào chi phối bạn?” Hãy nghĩ về các vai trò của bạn – người chồng, người
vợ, người cha, người mẹ, người láng giềng, người bạn. “Bạn bận rộn thế nào
trong các vai trò đó?” “Điều gì quan trọng đối với bạn?” Rồi nghĩ về các vai
trò trong tập thể - lãnh vực chính trị, các công việc chung, những tổ chức tình
nguyện.
Một thành viên trong ban quản trị nọ đã dùng ý tưởng về
các vai trò và các mục tiêu để sáng tạo lời tỏ bày nói lên nhiệm vụ như sau:
Nhiệm vụ của
tôi là sống sao cho tương hợp và tạo sự thay đổi nơi cuộc sống của những người
khác.
Để thực hiện nhiệm vụ này:
Tôi cần
khoan dung: Tôi tìm cách và biết yêu
thương mọi người – từng người một – bất kể hoàn cảnh của họ.
Tôi hy sinh: Tôi dành thời gian, tài năng và các phương cách cho
nhiệm vụ của tôi.
Tôi truyền cảm
hứng: Để mọi người ý thức mình là anh
em với nhau.
Tôi tác động
mạnh mẽ: Để tạo sự thay đổi trong cuộc
sống của những người khác.
Những vai trò
đó chiếm phần ưu tiên để hoàn thành nhiệm vụ của tôi.
Là người chồng – Người bạn đời là người quan trọng nhất trong cuộc sống
của tôi. Cùng nhau góp phần vào việc sinh hoa kết trái để có một cuộc sống hòa
hợp. Cùng nhau góp phần vào sự thăng tiến trong công ăn việc làm, công việc từ
thiện và tiết kiệm.
Là người cha
– Tôi giúp các con có được một cuộc sống
ngày càng sôi nổi hơn.
Là người
con/là người anh em ruột thịt – Tôi
thường có mặt để nâng đợ và yêu thương.
Là người
láng giềng – Tôi luôn biết hành động
vì người khác.
Là đại lý
giao dịch – Tôi là chất xúc tác làm
cho công việc được trôi chảy, phát triển.
Là người học
trò – Điều quan trọng là ngày nào tôi
cũng có được điều gì mới.
Viết ra nhiệm vụ theo những vai trò quan trọng trong
cuộc sống giúp bạn có được sự cân bằng và hài hòa. Nó làm cho mỗi vai trò nổi bật
trước mặt bạn, khiến bạn không nhầm lẫn vai trò này với vai trò kia, hoặc mải
miết với vai trò này mà sao nhãng vai trò khác, nhưng coi mọi vai trò có tầm
quan trong ngang nhau tùy từng lúc.
Khi đã nhận dạng các vai trò khác nhau, sau đó bạn nghĩ
đến các mục tiêu về lâu về dài mà bạn muốn hoàn thành trong mỗi vai trò đó. Những
mục tiêu ấy phải hài hòa với những nguyên tắc đúng đắn, những luật tự nhiên,
cho bạn khả năng lớn hơn để hoàn thành chúng. Chúng không là các mục tiêu do người
khác áp đặt, mà là các mục tiêu của chính bạn. Chúng phản ánh những giá trị sâu
xa nhất, tài năng riêng của bạn, cảm nhận của bạn về nhiệm vụ và chúng phát triển
vì những vai trò do bạn chọn lựa trong cuộc sống.
Một mục tiêu
có hiệu năng chủ yếu tập trung vào các kết quả hơn là vào tính hoạt động. Nó nhận
diện đích điểm bạn muốn là và, trong qui trình, giúp bạn xác định nơi bạn đang ở.
Nó cho bạn thông tin làm cách nào để đến được nơi nó và nói cho bạn biết khi
nào bạn tới. Nó hợp nhất các nỗ lực và năng lực của bạn. Nó ban cho bạn ý nghĩa
và mục đích các việc bạn thực hiện. Và cuối cùng, nó có thể chuyển thể chính nó
thành hoạt động thường nhật để bạn là một con người năng động, bạn đang làm chủ
cuộc sống của mình, bạn đang làm cho những gì xãy ra hàng ngày đề giúp bạn có
khả năng thực hiện những gì bạn muốn.
Các vai trò và các mục tiêu giúp bạn thiết lập nhiệm vụ
cá nhân. Nếu bạn chưa có bản hành động cá nhân, thì đây là nơi để bạn khởi sự.
Vì thói quen 2 được dựa trên nguyên tắc, nó có thể ứng
dụng rộng rãi cả trong các lãnh vực cá nhân, gia đình, các nhóm hoạt động và
các tổ chức dưới mọi hình thức; để khi việc ứng dụng được thực hiện, nó mang lại
thành quả tốt đẹp cho mọi hình thức tập thể đó.
NHỮNG ĐỀ NGHỊ ỨNG DỤNG.
1.- Dành thời
gian để ghi chép những cảm tưởng bạn mường tượng khi đọc về đám tang ở đầu chương
này. Bạn có thể dùng biểu đồ dưới đây để sắp xếp các suy nghĩ của bạn.
|
Lãnh
vực hoạt động
|
Tính
cách
|
Những
cống hiến
|
Những
thành tựu
|
|
Gia
đình
|
|
|
|
|
Bạn
bè
|
|
|
|
|
Công
việc
|
|
|
|
|
Tập
thể, các lãnh vực khác…
|
|
|
|
2.- Dành ra một
lúc ghi lại những vai trò bạn đang nghĩ đến. Bạn có cảm thấy thỏa lòng về hình ảnh
phản ánh cuộc sống của bạn không?
3.- Dành đủ
thời gian để phân cách bạn hoàn toàn khỏi hoạt động hàng ngày và bắt đầu tác động
lên những suy nghĩ về nhiệm vụ của bản thân bạn.
4.- Duyệt qua
biểu đồ về các qui chiếu khác nhau trên nhiều lãnh vực của cuộc sống và khoanh
tròn những lãnh vực nào bạn có thể nhận ra mình đang quan tâm. Những điều đó
hình thành một mô hình nào về cách xử sự trong cuộc sống của bạn không? Bạn có
hài lòng với những gợi ý mà bạn phân tích không?
5.- Thu thập
các ghi chú, các trích dẫn và những ý tưởng mà bạn muốn dùng như nguồn chất liệu
cho những suy nghĩ về nhiệm vụ cá nhân của bạn.
6.- Nhận dạng
một dự phỏng (project) mà bạn sẽ đối diện trong một tương lai gần và áp dụng
nguyên tắc về việc sáng tạo tinh thần. Hãy ghi lấy những kết quả mà bạn khát vọng
và những bước nào sẽ dẫn bạn tới những kết quả đó.
7.- Chia sẽ
những nguyên tắc của Thói quen 2 với gia đình hoặc nhóm đồng nghiệp và đề nghị
cùng nhau viết ra những suy nghĩ về nhiệm vụ của gia đình, của nhóm.


