Giáo Lý Thánh Kinh:
Chúng
ta nhớ lại trong những tuần trước, mình đã tìm hiểu những gì? Bài thứ nhất là:
Tôi Tin, thế nào là tin? Kế đó bài số hai: Tôi Tin Một Đức Chúa Trời duy nhất.
Tin là tin cái gì? Và tin vào ai? Đức Chúa Trời duy nhất nhưng Đức Chúa Trời
hiện diện trong Ba Thân Vị khác nhau. Cha, Con, Và Thánh Linh.
Hôm
nay, chúng ta sang đến:
Bài 3. THIÊN CHÚA LÀ CHA TOÀN NĂNG
Ô-sê
11:1-4 “Khi Y-sơ-ra-ên còn thơ ấu, ta yêu
dấu nó; ta gọi con trai ta ra
khỏi Ê-díp-tô. 2 Các tiên tri càng gọi
nó chừng nào, nó càng trốn tránh chừng nấy. Chúng nó đã dâng của lễ cho
các tượng Ba-anh, và đốt hương cho tượng chạm. 3 Dầu vậy, ta đã dạy Ép-ra-im
bước đi, lấy cánh tay mà nâng đỡ
nó. Song chúng nó chẳng hiểu biết rằng ta đã chữa lành cho. 4 Ta đã dùng dây nhân tình, dùng xích yêu thương kéo chúng nó đến. Ta
đã như những kẻ cởi ách khỏi hàm chúng nó, và để đồ ăn trước mặt chúng nó.”
Ở
trong đoạn văn này của tiên tri Ô-sê chúng ta không thấy từ Cha, nhưng mà qua
những động từ: “ yêu thương, gọi về, chữa lành, nâng đỡ, áp vào má, đút cho nó
ăn.” Đó là hình ảnh của một người Cha, Đức Chúa Trời yêu thương dân của Ngài
như Cha yêu thương con.
Trong
đoạn văn này, câu thứ nhất: “Khi
Y-sơ-ra-ên còn thơ ấu, ta yêu dấu nó; ta gọi con trai ta ra khỏi Ê-díp-tô.”
Minh
họa: Chúng ta có nhớ câu chuyện Ma-ri và Giô-sép đem con trẻ hài nhi Jêsus chạy
chốn sang Ai-cập, rồi sau khi Hê-rốt qua đời thì Thiên sứ lại bảo Giô-sép từ
Ai-cập trở về.
Đây
là một trong nhiều đoạn văn của Kinh-thánh Cựu Ước để diễn tả về Đức Chúa Trời
như một người Cha. Sách tiên tri Ô-sê là muốn cuốn sách đầy ngôn ngữ hình ảnh.
Tiên tri Ô-sê không chỉ diễn tả về Đức Chúa Trời như một người Cha mà còn diễn
tả Đức Chúa Trời như một người chồng.
Chúng
ta cùng mở tiếp một đoạn Kinh-thánh của Cựu Ước là Ê-sai 49:13-15 “Hỡi trời, hãy hát! Hỡi đất, hãy vui mừng!
Hỡi các núi, hãy lên tiếng hát xướng! Vì Đức Giê-hô-va đã yên ủi dân Ngài, cũng
thương xót kẻ khốn khó.
14 Si-ôn từng nói rằng: Đức Giê-hô-va đã
lìa bỏ ta; Chúa đã quên ta. 15 Đàn bà há dễ quên con mình cho bú, không thương
đến con trai ruột mình sao? Dầu đàn bà quên con mình, ta cũng chẳng quên
ngươi.”
Ở
đây tiên tri Ê-sai lại dùng một hình tượng khác để diễn tả về Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời được ví như một người mẹ, mà còn hơn cả một người mẹ nữa. Bởi vì
thời xưa cũng có mà thời nay lại càng nhiều hơn, có những người mẹ rũ bỏ đứa
con của mình. Cho dù có những người mẹ như thế đi chăng nữa thì ta, ta không
quên ngươi đâu.
Hai
đoạn Kinh-thánh Cựu Ước vừa rồi giúp cho chúng ta thấy là từ thời Cựu Ước, dân
của Chúa đã được nghe những lời sách thánh diễn tả Đức Chúa Trời như một người
Cha, như một người mẹ.
Bây
giờ, gần gũi với chúng ta hơn thì chúng ta cùng mở Phúc-âm Ma-thi-ơ 6:7-13 “ …”
Chúa
Jêsus dạy các môn-đệ khi cầu nguyện thì gọi Đức Chúa Trời là Cha, rất rõ. Chúng
ta được gọi Đức Chúa Trời là Cha.
Cũng
ở trong chương 6 này, nếu chúng ta đọc từ câu 1, ta sẽ gặp một đoạn văn nói về
việc bố thí cách kín đáo, rồi cầu nguyện cách kín đáo, rồi đến câu 16 kiêng ăn
cách kín đáo.
Nếu
ta đọc đoạn văn thì ta luôn luôn sẽ gặp câu này: “ Cha của các ngươi” câu số 6 “ Cầu nguyện cùng Cha các ngươi” “
câu 17 Cha của các ngươi”
Chúng
ta thấy Chúa Jêsus lập đi lập lại những động từ đó để chúng ta thấy: Khi mình
tuyên xưng Đức Chúa Trời là Cha chứ không phải tự mình nghĩ ra, Chúa mạc khải
cho mình.
Khi
chúng ta tuyên xưng Đức Chúa Trời là Cha thì điều đó có nghĩa gì? Có hai ý
nghĩa căn bản.
1.
Đức Chúa Trời là cội nguồn của mọi sự và
là Đấng siêu việt mọi sự.
Người
Việt Nam
chúng ta đa phần theo đạo ông bà, có nhiều người đa số nghĩ rằng: tôi đang theo
đạo ông bà mà tôi theo đạo Tin-lành thì tôi phải bỏ ông bà tổ tiên.
Và
người ta không chấp nhận được điều đó, nhưng mà thực sự thì không phải. Người
Tin-lành không bỏ cái việc phụng dưỡng và hiếu kính cha mẹ, ông bà nhưng mà
người Tin-lành ý thức rằng: Ông bà mình sinh ra mình thế ông bà từ đâu mà có?
Có tổ tiên sinh ra ông bà? Thế tổ tiên từ đâu mà có. Chúng ta cứ lần ngược lại
như vậy thì sẽ thấy chính Đức Chúa Trời mới là cội nguồn của mọi sự.
Người
Tin-lành không phải bỏ ông bà tổ tiên nhưng chúng ta ý thức rằng: Chính Chúa
mới là cội nguồn của sự sống, cội nguồn của mọi sự.
Sống
đạo hiếu với Chúa và đồng thời đạo hiếu với ông bà. Đấy là điều thứ nhất khi ta
tuyên xưng Đức Chúa Trời là Cha.
2.
Tuyên xưng Đức Chúa Trời là Cha có nghĩa là tuyên xưng Đức Chúa Trời là Đấng
nhân hậu, yêu thương, chăm sóc con cái mình như là tiên tri Ô-sê diễn tả đó.
Đút cho nó ăn, áp má, nậng nịu. Một Đức Chúa Trời yêu thương, nhân hậu, chăm
sóc con cái của mình còn hơn là một người mẹ chăm sóc con.
Ở
đây cũng có một vài cái khó khăn mà chúng ta nên ý thức, chẳng hạn như những
thập niên sau này, có một phong trào thần học nhấn mạnh về nữ quyền.
Bởi
vì người ta cho rằng: Đàn ông thống trị nhiều quá cho nên bây giờ phải đòi
quyền bình đẳng của phụ nữ.
Nhưng
từ phong trào nữ quyền này lại sinh ra phong trào không được gọi Đức Chúa Trời
là Cha nữa.
Mà
phải gọi Đức Chúa Trời là mẹ, lạy mẹ chúng con ở trên trời.
Nếu
chúng ta chỉ dừng lại ở đó thôi thì khi chúng ta cứ nghĩ đến từ Cha ở trong
Kinh-thánh là một từ mang tính chất phái tính, hoặc phân biệt phái tính.
Như
vậy, Chúa là đàn ông, thực sự có phải như vậy không? Không phải. Đức Chúa Trời
vượt lên trên sự phân biệt phái tính. Mình là con người mình sống trong thế
giới hữu hạn của loài người và khi nói về Đức Chúa Trời là Đấng vô hình thì
mình phải mượn lấy cái kinh nghiệm của nhân loại, của con người để diễn đạt về
Đấng vô hình.
Và
chúng ta đã mượn những hình ảnh cũng như từ ngữ là Cha để diễn tả về Đức Chúa
Trời, cũng như Chúa Jêsus dùng cái từ ngữ là Cha để dạy chúng ta. Chứ còn thực
sự Đức Chúa Trời vượt lên trên sự phân biệt phái tính.
Và
khi tuyên xưng Đức Chúa Trời là Cha có nghĩa là tuyên xưng tình yêu của Chúa.
Tình yêu mà tiên tri Ô-sê diễn tả là một tình yêu trung tín.
Chúng
ta nhớ lại xem: Tiên tri Ô-sê đã rao giảng về Đức Chúa Trời
bằng
chính cuộc đời của mình, đi cưới một cô gái điếm, cô gái điếm sinh cho ông mấy
đứa con rồi lại bỏ ông để đi đường cũ. Vậy mà Chúa lại bảo ông ấy là đi chuộc
nó về: Đem tiền, đem gạo đi chuộc nó về và yêu thương nó bằng tình yêu thuở ban
đầu.
Ô-sê
đã rao giảng về Chúa bằng chính cái cuộc đời sóng gió của mình để công bố cho
mọi người tình yêu của Chúa là một tình yêu trung tín và trung thủy. Một tình
yêu vượt qua cả phản bội.
Cho
nên, khi tuyên xưng Đức Chúa Trời là Cha có nghĩa là tuyên xưng một tình yêu
trung tín, trung thủy của Đức Chúa Trời.
Và
trong sách Giê-rê-mi nói đến tình yêu vĩnh hằng của Đức Chúa Trời. Và tình yêu
của Đức Chúa Trời được thể hiện một cách trọn vẹn nơi Chúa Jêsus Christ.
Nhìn
Jêsus nằm trong máng cỏ chính là quà tặng của tình yêu trọn vẹn mà Đức Chúa
Trời ban cho nhân loại.
II.
ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ CHA TOÀN NĂNG
Sáng-thế-ký
1:1-2 “ đất còn trống giỗng” “ chưa có hình dạng” đây là Kinh-thánh nền tảng
của thần học để sau này nói đến việc Đức Chúa Trời tạo dựng mọi sự từ hư vô.
Đức
Chúa Trời là Đấng toàn năng bởi vì Ngài tạo dựng tất cả mọi sự và tạo dựng từ
hư vô, không phải là tạo dựng từ một chất liệu nào có sẵn mà hoàn toàn từ hư
vô.
Chúng
ta chỉ có thể làm một cái gì mới ra từ cũ, cái đã có, chứ không phải là từ hư
vô.
Thánh-vịnh
115: 1-8
Ở
đây tác giả Thánh-vịnh nhắc đến các tượng thần ngoại giáo, chúng có là gì đâu,
chúng chỉ do người thế làm ra thôi. Cho dù được làm bằng chất liệu quý giá là
vàng là bạc, có mắt có miệng nhưng mà không nhìn không nói, có tai, có mũi mà
không ngửi không nghe.
Còn
Đức Chúa Trời chúng ta, Đức Chúa Trời đích thực, chân thật thì làm sao? Đức
Chúa Trời của chúng ta ở trên trời, muốn làm gì thì Chúa làm nên. Đấng toàn
năng.
Gần
gũi với chúng ta hơn ở trong Tân-Ước Phúc-âm Luca.
Minh
họa: Khi Thiên sứ Gáp-ri-ên báo tin cho bà Ma-ri.
“
Vì không có gì mà Chúa không làm được” Đó là Đấng toàn năng.
Đấng
toàn năng đã làm cho tôi những việc lớn và khó, đáng ngợi khen Đức-Giê-hô-va.
Về
mặt giáo lý, dựa trên lời mạc khải của Chúa. Hội-thánh hiểu toàn năng là làm
sao?
Hội-thánh
tuyên xưng là Đấng toàn năng bởi vì Chúa tạo dựng mọi sự và Chúa sắp đặt công
trình theo thánh ý của Chúa.
Chính
Chúa là Đấng dựng nên mọi sự và sắp đặt mọi công trình theo thánh ý của Ngài
cho nên chính Chúa mới là Chủ của vũ trụ này, của thế giới này, và của lịch sử.
Thỉnh
thoảng mình nghe cái câu: Đức Chúa Trời là Chúa của lịch sử và Đức Chúa Trời
điều khiển các biến cố theo thánh ý của Ngài.
Nhiều
khi chúng ta không hiểu được cho nên có nhà văn Công giáo nói rằng: “ Đức Chúa
Trời vẽ đường thẳng bằng những nét cong”
Có
thực sự chúng ta có dám tin rằng: Đức Chúa Trời toàn năng không? Chúa là Chúa
của lịch sử, Chúa của vũ trụ, Chúa của loài người không?
Có
một vài khó khăn cho niềm tin:
1. Khi nói đến toàn năng thì theo kinh nghiệm của con
người, người ta dễ nghĩ rằng: Toàn năng nó sẽ gắn liền với sự độc tài, độc đoán
và độc ác.
Bởi
vì nhân loại có kinh nghiệm rằng: Khi một ái đó mà nắm quyền lực quá lớn thì
người đó rất dễ trở thành độc tài.
Minh
họa: Hít-le, Sít-ta-Lin, nhớ lại Mao-trạch-đông. Nhân loại có kinh nghiệm như
vậy và vì thế càng trong thế giới hiện đại người ta tìm cách để làm sao quyền
lực không chỉ dồn vào một người. Thường trong một đất nước người ta phải lập
ra: Lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Dù
ông là tổng thống đi nữa thì ông cũng phải thi hành theo Pháp luật và sống theo
pháp luật. Nếu ông thi hành không đúng thì tư pháp, tòa án sẽ xử ông.
Nhờ
vậy, mái tránh được cái sự độc tài, chứ không thì nếu một người nắm hết quyền
lực trong tay thì nó sẽ dễ sinh ra độc tài, độc đoán và độc ác.
Cho
nên, nhiều nước trên thế giới người ta không có một đảng, độc đảng, mà người ta
có đa đảng là để thoát ra khỏi cái sự độc tài đó.
Vì
kinh nghiệm đau thương của con người như thế, cho nên, khi nói Đức Chúa Trời là
Đấng toàn năng người ta sẽ nghĩ đến toàn năng nó gắn với độc tài, độc đoán.
Thế
nhưng mình không chỉ tuyên xưng Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng mà chúng ta còn
tuyên xưng Đức Chúa Trời là Cha toàn năng.
Cho
nên, sự toàn năng ấy nó gắn với tình phụ tử, sự toàn năng ấy gắn với tình yêu
thương. Chứ không phải là sự độc đoán, độc tài.
2. Kinh nghiệm về đau khổ, về sự dữ trong cuộc đời.
Kinh
nghiệm về sự dữ này nó khiến cho chúng ta nghi ngờ về Đức Chúa Trời. Một là tôi
tin Chúa là Cha yêu thương, nhưng Chúa không phải là Đấng toàn năng. Cho nên,
Chúa yêu tôi thật nhưng Chúa chẳng làm được cái gì.
Hai
là tôi tin Chúa là Đấng toàn năng nhưng mà rứt khoát Chúa không phải là Cha yêu
thương. Bởi vì Chúa toàn năng mà Chúa yêu thương tôi thật thì sao tôi xin hoài
không được, tôi cứ khổ hoài mà Chúa không giải thoát.
Đó
là vấn nạn lớn lắm, có bao giờ chúng ta ở trong tâm trạng đó không?
Minh
họa: Khi nhìn các cháu, các em thiếu nhi khuyết tật, thính giác, thị giác. Tôi
cũng sợ, vì mình không biết nói cái gì? Sợ là vì nếu không khéo thì mình hoàn
toàn đứng ở ngoài.
Minh
họa: Một người Giám mục khi bị ung thư lúc hấp hối đã nói rằng: “ Chúng ta
không hiểu gì hết về đau khổ”
Nguy
cơ là chúng ta trở thành kẻ đứng hoàn toàn ở bên ngoài, nếu chỉ diễn thuyết
hoặc nói về đau khổ mà trong khi đó mình không có gì đến kinh nghiệm đau khổ cả
thì chúng ta mới chỉ đứng ở ngoài thôi.
Nếu
chúng ta không kinh nghiệm đau khổ thì không thể hiểu được những người đang
sống trong đau khổ.
Minh
họa: Chuyện kể về một anh thanh niên, anh gặp nhiều em thiếu nhi đau khổ, đói
khát và anh ngửa mặt lên trời và nói rằng: Trời ạ, sao Chúa lại để cho chúng nó
khổ vậy, thì anh nghe thấy tiếng nói rằng: Chính vì thế mà ta mới dựng nên nhà
ngươi.
Ta
dựng nên nhà người để biết đưa bàn tay ra để đỡ người ta, biết dùng cái miệng
để đỡ người ta.
Kinh
nghiệm về sự đau khổ và sự dữ là lý do lớn nhất dẫn đến tình trạng vô thần, phủ
nhận niềm tin vào Đức Chúa Trời khi cuộc sống rơi vào đau khổ mà không có lối
thoát.
Đôi
khi chúng ta nghĩ toàn năng là nắm quyền sinh sát, muốn làm cái gì thì làm,
muốn giết ai thì giết nhưng khi mình đứng trước máng cỏ, chuồng chiên. Đức Chúa
Trời trở thành một người bé bỏng thì thử hỏi sự toàn năng ở đâu. Một bé người
ta bóp cái là chết thì sự toàn năng ở đâu. Khi treo trên thập giá thì thử hỏi
toàn năng ở đâu? Xuống thập tự giá không nổi. Sự toàn năng của Đức Chúa Trời
không theo cách hiểu của loài người mà là sự toàn năng trong tình yêu.
Thánh
Phao-lô nói: Thập tự giá thế gian cho là điên dồ, nhưng đối với chúng ta là
những kẻ tin thì thập tự giá là sức mạnh và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời.
Để
kết thúc giờ học, chúng ta để thì giờ để thinh lặng cầu nguyện.
Mác
4: 35-41.
Các
môn-đệ của Chúa Jêsus đối diện với sóng gió giữa biển khơi và các ông đầy sợ
hãi dù có Chúa hiện diện ngay trên con thuyền. Trong cuộc đời của chúng ta có
những thử thách và sóng gió như thế không? Có những khó khăn và thất bại như
thế không? Và trong những giây phút ấy, tôi có dám tin vào tình yêu và quyền
năng của Chúa không?
Tôi
phản ứng như thế nào? Phản ứng của đức tin hay phản ứng mang tính xác thịt?