RU-TƠ & Ê-XƠ-TÊ
I. RU-TƠ
MỤC LỤC
01. BẠN KHÔNG THỂ TRỐN CHẠY
02. TÍNH VĨ ĐẠI CỦA NHỮNG ĐIỀU NÀY
03. CUỘC GẶP GỠ LÚC NỮA ĐÊM
04. TÌNH YÊU TÌM RA LỐI ĐI
1. BẠN KHÔNG THỂ TRỐN CHẠY (Ru 1:1-22)
(Chuyện xảy ra tại một
gia đình nọ chỉ vì có quyết định sai lầm khiến xảy đến đói kém, gây ra ba đám
tang)
“Chúng ta cố gắng nổ lực hầu thoát ra khỏi số phận mình, thế nhưng tất cả cũng chỉ dẫn chúng ta đến với nó mà
thôi”.
Nhà văn tiểu luận người Mỹ tên là
Ralph Waldo Emerson đã viết như vậy trong tác phẩm của mình “The Conduct Of Life” (Hướng Dẫn Đời Sống), và
điều đó cũng rất đúng đối với ngày nay khi sách ấy được tái bản vào năm 1860.
Vì Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta quyền tự do chọn lựa, cho nên chúng ta có
thể coi thường ý chỉ của Chúa, không đồng ý với Ngài, không nghe lời Ngài, thậm
chí còn chống nghịch Ngài nữa. Nhưng đến giờ phút chót thì ý chỉ của Ngài sẽ
thắng thế; bởi lẽ “Mưu của Đức Giê-hô-va được
vững lập đời đời Ý tưởng của lòng Ngài còn đời nầy sang đời kia” (Thi 33:11) và “Ngài
làm theo ý mình trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất chẳng ai có
thể cản tay Ngài” (Da 4:35 NKJV).
Tộc trưởng Gióp từng hỏi rằng: “Đức Chúa Trời có lòng trí huệ và rất mạnh sức: Ai cứng
cỏi với Ngài mà lại được may mắn?”
(Giop 9:4 NKJV), ông biết rõ câu trả lời ở đây
là gì và chúng ta cũng vậy: đó là không ai cả. Nếu chúng ta vâng theo
đường lối Chúa thì mọi sự trong đời sống sẽ hiệp lại cùng nhau; còn nếu chúng
ta bất tuân ý Ngài thì tất cả sẽ bắt đầu tan rã. Trong Kinh Thánh không có chỗ
nào ghi lại lẽ thật này được minh họa rõ ràng hơn là
ở sự mô tả các từng trải của Ê-li-mê-léc cùng vợ mình là Na-ô-mi.
Chúng ta xem trong Ru 1:1-22 này
sẽ thấy có ba sai lầm mà chúng ta cần phải tránh khi
chúng ta giải quyết các nan đề trong cuộc sống.
1. Sự vô tín: cố tình trốn chạy khỏi các nan đề của chính mình (Ru 1:1-5)
Thời điểm: Trong những ngày đó cuộc sống thật không đơn
giản chút nào cả: vì suốt thời Các Quan Xét, “Trong lúc đó, không có vua nơi Y-sơ-ra-ên, mọi người cứ
làm theo ý mình tưởng là phải” (Cac 17:6
18:1 19:1
21:25). Sách Các Quan Xét là câu chuyện kể
về dân Y-sơ-ra-ên sống vào một trong những thời kỳ tồi tệ nhất của lịch sử nhân
loại, đó là bản ký thuật về các cuộc phân tranh, tính tàn ác vô nhân đạo, sự
bội đạo, các cuộc nội chiến và sự mất phước của dân tộc. Nói về phương diện
thuộc linh, ngày nay chúng ta cũng
đang sống với tình trạng tương tự như ở sách Các Quan Xét: trong Y-sơ-ra-ên
không có vua, và chúng ta cũng vậy cho đến khi Chúa
Giê-xu tái lâm. Giống như Y-sơ-ra-ên ngày xưa, nhiều con cái Chúa ngày nay đang
sống đời sống vô tín, bất tuân và dĩ nhiên họ không hưởng được phước hạnh gì từ
nơi Chúa cả. Dường như có vẻ thật khó tin câu chuyện tình yêu đẹp đẽ này lại có
thể diễn ra trong thời kỳ đầy tai ương như thế của lịch sử dân tộc, nhưng thời
nay thì có khác gì như vậy? Hiện tại, chúng ta cũng đang đối diện với những rắc
rối phức tạp xảy ra trên thế giới và trong chính quốc gia của mình, đối diện
với sự suy đồi đạo đức cùng nhiều thứ tồi tệ khác nữa, dẫu vậy, Thiên Chúa vẫn
hằng yêu thương nhân loại hư mất và Ngài tiếp tục tìm kiếm cô dâu. Mặc kệ những
sự cảnh báo từ các tin tức truyền thông, báo đài, chúng ta hãy cứ tin chắc rằng
Chúa luôn yêu thương thế gian và Ngài muốn cứu rỗi những tội nhân hư mất. Khi
bạn nhận biết Đức Chúa Giê-xu Christ chính là Chúa Cứu Thế và là Chúa của đời
mình, thì vấn đề thời kỳ không còn quan trọng nữa, và bạn sẽ có mặt trong câu
chuyện tình yêu tuyệt vời đó.
Còn sách Ru-tơ là câu chuyện kể về mùa gặt và cũng là chuyện
tình yêu. Trong thời kỳ đen tối này của lịch sử Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa
Trời vẫn đang tìm kiếm một cô dâu và Ngài đang thu hoạch mùa màng. Chắc chắn,
Y-sơ-ra-ên lúc ấy đang phải gặt lấy hậu quả do sự bất tuân của họ đối với Chúa
(Ga 6:7), tuy nhiên, Đức Chúa Trời lại đang
ban bông trái Thánh Linh trên đời sống của Ru-tơ và Na-ô-mi. Ngày nay, Đức Chúa
Trời hiện đang đến với mùa gặt và Ngài kêu gọi chúng ta hãy tham gia làm thợ
gặt thu hoạch mùa vụ cho Chúa (Gi 4:34-48).
Hiện giờ, “mùa gặt thì trúng nhưng con gặt thì
ít” (Lu 10:2).
Nơi chốn: Thật là lạ khi xảy ra nạn đói ở Bết-lê-hem, nơi
được người ta mệnh danh là “Nhà bánh”!
Trong Kinh Thánh Cựu Ước, sự đói kém thường là chứng cớ trừng phạt của Đức Chúa
Trời xảy ra trên dân sự Ngài khi họ dấy loạn chống nghịch Ngài (Le 26:18-20 Phu 28:15,23-24). Trong
thời kỳ Các Quan Xét, Y-sơ-ra-ên lại tái phạm tội lỗi xây bỏ Chúa và quay sang
thờ hình tượng của các dân ngoại sống quanh họ; thế là Đức Chúa Trời phải trừng
phạt họ (Cac 2:10-19). Những người ngoan đạo
sống đời sống tin kính Chúa lại phải chịu khốn đốn vì cớ những kẻ vô đạo, thậm chí ngay tại Bết-lê-hem.
Quyết định: Khi có khó khăn rắc rối nào đó xảy đến trên đời sống chúng ta,
thường thì chúng ta sẽ phản ứng theo một trong ba hình thức sau: cam chịu, làm
lơ tránh né hoặc thâm nhập vào nan đề ấy. Nếu chúng ta chấp nhận thái độ cam
chịu những hoàn cảnh gian truân của mình thì chúng sẽ biến thành ông chủ khống chế chúng ta và khiến chúng
ta càng ngày càng có xu hướng trở nên cay đắng. Nếu chúng ta cố tình làm ngơ
trốn tránh các nan đề của chính mình thì chúng ta sẽ có thể đánh mất mục tiêu
Đức Chúa Trời muốn đạt được trên đời sống chúng ta. Nhưng nếu chúng ta học cách
thâm nhập vào những nan đề, thì thay vì trở nên những ông chủ của chúng ta,
chắc chắn chúng sẽ biến thành những đầy tớ làm việc cho chúng ta; Đức Chúa Trời
thường dùng mọi sự hiệp lại làm ích cho chúng ta và để làm vinh hiển Ngài
(Ro 8:28).
Ê-li-mê-léc có quyết
định sai khi ông nhất định rời bỏ quê hương. Điều gì khiến ông quyết định sai
lầm trầm trọng như thế?
Ê-li-mê-léc đã bước đi
bằng mắt thấy chứ không phải bằng đức tin: Áp-ra-ham cũng có quyết định sai lầm
như vậy khi ông gặp phải nạn đói tại trong xứ mà ông đã được Chúa hứa ban cho (Sa 12:1-20). Thay vì chờ đợi Thiên Chúa phán bảo
ông sẽ làm việc gì kế tiếp, ông lại chạy trốn sang Ê-díp-tô và rơi vào gian truân.
Cho dù chúng ta gặp hoàn cảnh khó khăn, căng thẳng đến đâu đi chăng nữa cũng
không thành vấn đề, quan trọng là chúng ta phải nhận biết được đó là nơi tốt
nhất và bình an nhất của chúng ta theo ý Chúa. Thật dễ dàng để cùng với Đa-vít
nói rằng: “Tôi có nói: Ôi! Chớ chi tôi có cánh
như bồ câu, Ắt sẽ bay đi và ở được yên lặng” (Thi 55:6). Nhưng khôn ngoan hơn khi chúng ta tuyên
ra lời hứa của Chúa trong Es 40:31 và chờ
đợi Chúa khiến chúng ta “cất cánh bay cao như chim ưng” sải cánh đức tin bay
cao hơn lên trên cả cơn giông bão cuộc đời. Bạn
không thể trốn chạy khỏi những nan đề của chính mình
Bạn thường bước đi bởi đức tin bằng
cách nào? Bằng cách tuyên ra những lời hứa của Đức Chúa Trời và vâng theo Lời
Ngài bất chấp bạn thấy gì, cảm nhận ra sao, hoặc xảy
ra bất cứ điều gì. Điều đó có nghĩa là bạn đã tự nguyện kết ước với Chúa và nhờ
cậy Chúa hoàn toàn để Ngài lo liệu mọi sự cho bạn. Khi chúng ta sống bởi
đức tin, điều ấy sẽ làm vinh hiển Đức Chúa Trời, là bằng chứng cho Ngài giữa
thế gian hư mất này và hình thành tính cách Cơ Đốc nhân trên đời sống chúng ta.
Chúa đã khẳng định: “Người công bình sẽ sống bởi
đức tin” (Ha 2:4 Ro 1:17 Ga 3:11
He 10:38 IICo
5:7); cho nên khi chúng ta không chịu tin cậy Ngài thì đồng nghĩa với
việc chúng ta cho rằng Ngài là kẻ nói dối và sẽ không tôn kính Ngài.
Sự khôn ngoan đời này thường dẫn
người ta đến với những hành động điên rồ và những điều sầu não, còn sự khôn
ngoan đến từ nơi Chúa thoạt đầu thì trông có vẻ như là ngu dại theo cái nhìn
của thế gian nhưng nó sẽ dẫn chúng ta đến với phước hạnh (ICo 3:18-20 Gia
3:13-18). “Khốn thay cho kẻ chính mắt
mình coi mình là khôn ngoan, tự mình xét đoán mình là thông sáng!” (Es 5:21
KJV).
Ê-li-mê-léc trưởng
thành về thể xác chứ không trưởng thành về tâm linh: Bất kỳ người chồng người cha nào cũng đều muốn
che chở nuôi nấng vợ con và gia đình mình, tuy nhiên người đó ắt sẽ không làm
được điều mình muốn đó, một khi anh ta đánh mất ơn phước của Đức Chúa Trời. Lúc
Sa-tan gặp Chúa Giê-xu trong đồng vắng, cám dỗ đầu tiên của nó là đề nghị Đấng Christ hãy thỏa
cơn đói khát của mình trước rồi hảy làm hài lòng Cha Ngài (Mat 4:1-4 Gi 4:34).
Một trong những lời nói dối mà ma quỷ ưa thích nhất đó là: “Các ngươi bắt buộc
phải sống!”. Nhưng khi chúng ta ở trong Đức Chúa
Trời “thì chúng ta sẽ được sống, động
và có” (Cong 17:28 NIV),
và Ngài luôn chăm sóc chúng ta.
Lời làm chứng của Đa-vít thật đáng
suy gẫm: “Trước tôi trẻ, ày đã già nhưng chẳng hề thấy người công bình bị bỏ,
hay là dòng dõi người đi ăn mày” (Thi 37:25
NKGV)Khi Phao-lô đối mặt với tương lai khủng khiếp của mình, ông làm chứng rằng: “Nhưng tôi chẳng kể sự sống
mình làm quí, miễn chạy cho xong việc đua tôi và chức vụ tôi đã lãnh” (Cong 20:24 KJV). Trong những lúc khó khăn, nếu chúng ta tự hi sinh bản thân
mình và đặt để ý Chúa lên trên hết (Mat 6:33)
thì chúng ta có thể tin chắc rằng Chúa hoặc sẽ đem
chúng ta ra khỏi gian truân đó hoặc sẽ đưa chúng ta vượt qua nó.
Ê-li-mê-léc sợ kẻ thù
chứ không sợ Chúa: Ê-li-mê-léc cùng gia đình mình rời bỏ quê hương xứ sở và dân sự Đức Chúa Trời để ra đi đến nơi ở cùng cư dân
của kẻ thù cách đó chừng 50 dặm đường. Dân Mô-áp là hậu tự của Lót được sinh
dòng nối dõi ra từ sự quan hệ loạn luân của ông với chính người con gái đầu
ruột thịt của mình (Sa 19:30-38), và sau này
họ thành kẻ thù của người Do Thái bởi cái cách họ đã đối đãi với Y-sơ-ra-ên
trong suốt chuyến hành hương của Y-sơ-ra-ên đi từ Ê-díp-tô đến Ca-na-an (Phu 23:3-6 Dan
22:1-25:18). Trong thời Các Quan Xét, Mô-áp đã xâm lược Y-sơ-ra-ên và
cai trị dân sự Chúa 18 năm (Cac 3:12-14);
vậy tại sao Ê-li-mê-léc lại còn quay sang xin họ giúp đỡ nữa? Họ là một giống
dân kiêu ngạo (Es 16:6) mà Đức Chúa Trời rất
khinh bỉ, “Mô-áp là cái chậu nơi ta tắm rửa”,
Ngài đã nói như vậy đó (Thi 60:8 KJV), hình ảnh của một dân tộc làm công
việc đầy nhục nhã xấu xa là đi rửa chân cho những người
lính đến xâm lăng xứ họ.
Hậu quả: Tên “Ê-li-mê-léc” có nghĩa: “Đức Chúa Trời của
tôi là vua”. Thế nhưng, Đức Chúa Trời không
phải là vua trên đời sống của Ê-li-mê-léc, vì ông hoàn toàn loại bỏ Ngài ra
khỏi những quyết định của mình. Ông đã thực hiện một quyết định nằm ngoài ý
Chúa là ông đã đi tới Mô-áp, việc này dẫn đến một quyết định sai lầm tồi tệ
khác là hai con trai ông đã lấy hai người nữ Mô-áp làm vợ. Mạc-lôn cưới Ru-tơ (Ru 4:10), còn Ki-li-ôn thì cưới Ọt-ba. Dân Do Thái
cấm lập gia đình với những người nữ ngoại giáo, đặc biệt là đối với dân Am-môn
và dân Mô-áp (Phu 7:1-11 23:3-6 Ne 13:1-3
Exo 9:1-4). Chính những người nữ Mô-áp trong
thời Môi-se đã xui giục, dụ dỗ những người nam Do Thái sống sa đọa suy đổi đạo
đức và thờ hình tượng; kết cuộc và cũng là hậu quả đã có 24.000 người phải chết
(Dan 25:1-18).
Ê-li-mê-léc cùng gia
đình mình phải trốn khỏi Giu-đa để tránh bị giết, nhưng rốt cuộc cả ba người đàn ông này đều bị
chết giống nhau.
Gia đình ông xuất hiện ở Mô-áp chỉ để “tạm trú” đỡ mà thôi, ai dè họ đã cư ngụ
tại đó đến 10 năm (Ru 1:4). Khi kết thúc
thập kỷ của sự bất tuân đó, tất cả những gì còn lại của gia đình ấy chỉ là ba
góa phụ cô đơn cùng ba nấm mồ chôn ba người đàn ông Do Thái tại xứ của người
ngoại giáo mà thôi. Ngoài ra chẳng còn gì cả (c.21). Đối với những kẻ vô tín
thì thường phải gặt lấy hậu quả đáng buồn như thế.
Chúng ta không thể bỏ chạy khỏi
những nan đề của mình. Chúng ta không thể trốn tránh sự thật rằng chúng ta là
nguyên do chính đưa đến hầu hết các nan đề của chúng ta, đó là bởi chúng ta có
tấm lòng bất tuân và vô tín. “Đa số chúng ta đều thường bắt đầu với những vấn
đề nan giải hơn từ bên ngoài nhưng lại quên mất nan đề chính yếu từ bên trong”,
Oswald Chambers đã viết như vậy. “ Cần phải nhận biết “nguyên nhân gây ra là
bởi từ tâm của mình” trước khi đi giải quyết các nan đề của chính mình…” (trích
từ “The Shadow of an Agony” trang
76).
2. Sự dối trá: Cố tình che giấu những lỗi lầm của mình (Ru:1:6-18)
Chúng ta cần xem xét ba
lời chứng trong phần này.
Lời chứng của Na-ô-mi (Ru 1:6-15): Đức Chúa
Trời thăm viếng tất cả dân sự Ngài có đức tin tại Bết-lê-hem ngoại trừ người
con gái bất tuân này của Ngài ở Mô-áp. Na-ô-mi nghe nói nạn đói không còn nữa,
và khi nghe tin tức tốt lành đó bà liền
quyết định trở về quê. Khi chúng ta đi trong đường lối Chúa thì chúng ta sẽ
luôn luôn có “bánh ăn dư dật” (Lu 15:17 KJV). Nhưng khi dân sự Chúa chỉ nghe nói suông về ơn phước của Ngài mà
không nếm trải được gì hết thì thật đáng buồn thay, bởi vì họ không chịu ở
trong nơi để Ngài có thể ban phước cho họ.
Cách đây nhiều năm, tôi có dự một
buổi nhóm cầu nguyện với một số vị lãnh đạo của “Hội Tuổi Trẻ Sống Cho Christ”,
trong số họ có Jacob Stam, em trai của John Stam có vợ tên là Betty đã tử đạo
tại Trung Quốc năm 1934. Chúng ta thường cầu xin Chúa ban phước cho công tác
chức vụ của mình, và tôi thiết nghĩ rằng từ vựng “ban phước” đã được dùng này
chiếm rất nhiều thì giờ khi chúng ta cầu nguyện. Còn Jacob Stam thì cầu nguyện
như vầy: “Kính lạy Chúa! Chúng con nài xin Ngài ban phước cho tất cả mọi sự;
tuy nhiên chúng con cầu xin Ngài khiến chúng con
trở nên có phước”. Giá mà Na-ô-mi có mặt trong buổi nhóm cầu nguyện
đó thì chắc hẳn bà đã phải thú nhận rằng: “Chúa ơi! Con là người thật vô
phước!”
Hễ khi nào chúng ta bất tuân với Chúa
và xa lìa đường lối Ngài, thì chúng ta phải xưng tội mình ra và đồng thời quay
trở lại trong nơi phước hạnh. Áp-ra-ham phải rời khỏi Ai Cập trở về chỗ bàn thờ
mà ông rời bỏ trước đó (Sa 13:1-4), còn
Gia-cốp thì phải quay lại Bê-tên (35:1). Các
tiên tri cũng thường nhắc đi nhắc lại điều này với dân sự Chúa, khuyên họ hãy từ
bỏ tội lỗi mình và trở lại cùng Đức Chúa Trời. “Kẻ ác khá bỏ đường mình, người bất nghĩa khá bỏ các ý
tưởng hãy trở lại cùng Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ thương xót cho, hãy đến cùng Đức
Chúa Trời chúng ta, vì Ngài tha thứ dồi dào” (Es 55:7).
Na-ô-mi có quyết định đúng, nhưng
động cơ của bà thì sai hoàn toàn. Trước hết bà quan tâm đến cái ăn chứ không
phải quan tâm đến việc thờ phượng Chúa. Bạn không hề nghe bà xưng tội mình ra
với Đức Chúa Trời và cũng chẳng thấy bà cầu xin Ngài tha thứ gì cả. Bà trở về
quê cũ chứ không phải trở về với Thiên Chúa.
Na-ô-mi còn sai phạm khi quyết định:
Không cho hai con dâu của bà đi cùng bà.
Nếu đúng là Na-ô-mi đi đến Bết-lê-hem là nơi Đức Chúa Trời hằng sống và chân
thật đang được thờ phượng, thì bà nên để cho Ọt-ba với Ru-tơ đi cùng mới phải.
Đáng lý ra bà phải nói với họ như điều mà Môi-se đã từng nói với anh vợ mình
thế này: “Chúng tôi đi đến xứ mà Đức Giê-hô-va
có phán rằng: Ta sẽ ban xứ đó cho các ngươi. Xin anh hãy đi cùng chúng tôi,
chúng tôi sẽ đãi anh tử tế vì Đức Giê-hô-va có hứa ban ơn cho dân Y-sơ-ra-ên”
(Dan 10:29 KJV). Đằng này, bà lại cố thuyết
phục hai người đàn bà kia hãy quay lại với gia đình họ và trở về với các thần
của họ.
Tại sao một người nữ Do Thái tin
Chúa, là con cháu Áp-ra-ham lại đi khuyến khích hai người nữ ngoại đạo trở về
thờ lạy những thần tượng giả dối như thế? Có lẽ tôi phán đoán sai, nhưng tôi
vẫn có ấn tượng rằng Na-ô-mi không hề muốn dắt Ọt-ba với Ru-tơ đi cùng tới
Bết-lê-hem, bởi vì họ là những bằng chứng sống
cho thấy bà với chồng bà đã để cho hai con trai mình lấy vợ là người ngoài giao
ước của dân tộc. Mặt khác, Na-ô-mi đang cố tình che giấu sự bất tuân
của mình. Nếu bà trở về Bết-lê-hem một mình thì sẽ không ai biết gia đình bà đã
không tuân giữ Luật Pháp Môi-se.
“Người
nào giấu tội lỗi mình sẽ không được may mắn
Nhưng ai xưng nó ra và
lìa bỏ nó sẽ được thương xót.” (Ch 28:13 NKJV).
Khi chúng ta cố tình che giấu tội
lỗi mình, thì đó chính là bằng chứng cho thấy chúng ta đã không thực sự đối mặt
với chúng một cách thành thật và không xử lý chúng theo Lời Chúa dạy. Sự ăn ăn
thật có liên quan đến sự xưng tội thật lòng và sự tan vỡ tấm lòng. “Của lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau
thương:Đức Chúa Trời ôi! Lòng đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu”
(Thi 51:17). Thay vì tan vỡ tấm lòng với
Chúa, Na-ô-mi lại trở nên cay đắng.
Bi kịch ở đây là Na-ô-mi đã không hề
ra mắt Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên theo cách thức nào đó mà bà có thể. Trong Ru 1:13, bà cho rằng Đức Chúa Trời đã gây ra nỗi
sầu thảm đớn đau cho cả bà cùng hai con dâu bà, “Không,
hỡi chúng con, nỗi sầu thảm của mẹ cay đắng muôn phần hơn của chúng con, vì tay
của Đức Giê-hô-va đã giơ ra hại mẹ” (c.13 NIV). Nói cách khác, ý bà
muốn bảo rằng: “Mẹ thật đáng đời khi bị thử thách như thế này, các con còn ở
lại với mẹ làm chi nữa? Ai mà biết được Đức Giê-hô-va sẽ còn để xảy ra những gì
cho mẹ nữa đây?”. Nếu Na-ô-mi đang cùng bước đi với Chúa, thì chắc hẳn bà đã
thu phục được Ọt-ba đưa nàng đến với niềm tin nơi Chúa và mang hai món quà ân
điển về quê nhà ở Bết-lê-hem.
Lời chứng của Ọt-ba (Ru 1:11-14): Lúc đầu hai
nàng dâu này đi cùng Na-ô-mi (c.7), nhưng sau đó bà khuyên họ đừng đi theo bà
nữa. Thậm chí bà còn cầu nguyện cho họ rằng (c.8-9) xin Đức Chúa Trời đối đãi
tử tế với họ và chúc họ tìm được người chồng mới đem lại cho họ sự bình yên
tĩnh dưỡng sau bao nỗi đau thương sầu não đã xảy ra với họ. Nhưng những
lời cầu nguyện của con cái Chúa đã bị sa ngã phạm tội thì có giá trị gì? “Nếu lòng tôi có chú về tội ác, Ắt Chúa chẳng nghe tôi”
(Thi 66:18) Na-ô-mi khuyên Ọt-ba và Ru-tơ
quay về nhà họ đến ba lần (Ru 1:8,11-12).
Khi thấy họ còn lưỡng lự, Na-ô-mi
bắt đầu viện lý do thuyết phục họ: “Mẹ đã quá già rồi thì làm sao có thể lấy
chồng được nữa để tạo lập nên gia đình khác cơ chứ?”, bà đã nói như vậy. “ Và mẹ cũng không thể có con có cái gì nữa, chẳng lẽ
các con phải lãng phí thời gian thêm nhiều năm chờ chúng lớn lên hay sao? Các
con nên trở về nhà mẹ ruột của mình cùng với gia đình sum vầy và tiếp tục vui
hưởng cuộc sống”.
Trong hai nàng dâu thì Ọt-ba là
người yếu đuối hơn. Cô muốn trở về Bết-lê-hem cùng với Na-ô-mi, cô hôn bà, khóc
lóc với bà nhưng rốt cuộc cô đã không ở lại với bà. Cô “chẳng cách xa nước Đức Chúa Trời” (Mac 12:34 NIV), thế nhưng cô quyết định sai nên đã
trở về nhà mình. Ọt-ba hôn mẹ chồng nàng nhưng chúng ta không biết nàng có tình
cảm thật lòng đối với bà hay không nữa: vì quyết định nàng đưa ra chứng minh
rằng tâm tư tình cảm của nàng đã hướng về quê nhà là nơi nàng hy vọng sẽ tìm
cho mình một người chồng khác nào đó. Ọt-ba rời khỏi khung cảnh của câu chuyện
ấy và từ đó trở đi Kinh Thánh không hề nhắc đến nàng
lần nào nữa.
Lời chứng của Ru-tơ (Ru 1:15-18): Na-ô-mi thì
cố tình che giấu; Ọt-ba lại quyết tâm từ bỏ, còn Ru-tơ thì sẵn sàng đứng lên đương
đầu với cuộc sống! Cô quyết không nghe theo lời khuyên của mẹ chồng và không
làm theo gương xấu của người em bạn dâu kia. Tại sao vậy? Tại vì cô thực sự muốn đến tin cậy, nương dựa nơi Đức
Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên (2:12)
Cô vừa phải nếm trải gian truân, thử thách và thất vọng, nản lòng biết bao, thế
nhưng cô không hề oán trách hay đổ lỗi cho Đức Chúa Trời. Thay vào đó, cô tin
cậy Ngài và không hổ thẹn xưng nhận đức tin của mình. Bất chấp gương xấu của
người mẹ chồng bất tuân, Ru-tơ vẫn quyết tìm kiếm, nhận biết Đức Chúa Trời hằng
sống chân thật; cô muốn được ở với dân sự Chúa và cùng cư ngụ trong đất của
Ngài.
Sự trở lại đạo của Ru-tơ là bằng
chứng về ân điển thật lạ lùng, kỳ diệu của Thượng Đế, vì cách duy nhất giúp tội
nhân có thể được cứu là nhờ ân điển (Eph 2:8-10).
Cho dù bị nhiều trở lực bên trong và chung quanh ngăn cản niềm tin của Ru-tơ,
tuy nhiên nàng vẫn một mực tin cậy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Nền tảng dân
tộc cũng gây trở ngại cho Ru-tơ trong vấn đề niềm tin bởi vì nàng xuất thân từ
Mô-áp là dân thờ cúng thần Kê-móc (Dan 21:29
IVua 11:7,33) vị thần tiếp nhận những của lễ dùng con người
làm vật sinh tế (IIVua 3:26-27) và xui cho
người ta sống bại hoại, suy đồi đạo đức (Dan
25:1-18). Hoàn cảnh của Ru-tơ đã gây cản trở, khó khăn cho cô rất nhiều
và đáng lý ra vì hoàn cảnh ấy cô sẽ oán trách Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và
cay đắng lắm. Trước hết, cha chồng cô chết, tiếp theo chồng cô với anh chồng
cũng chết luôn; và bây giờ còn lại mình cô góa bụa không nơi nương tựa. Nếu quả
thật Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã đối đãi với dân sự Ngài như vậy, thì tại sao
giờ đây cô còn theo Ngài làm chi nữa?
Ru-tơ hết lòng yêu thương mẹ chồng
mình, dẫu vậy, Na-ô-mi vẫn không ủng hộ cô; vì vậy bà thúc hối cô trở về nhà
cha mẹ ruột mình với các thần của cô ở Mô-áp. Vì Ê-li-mê-léc và Mạc-lôn giờ đây
đã qua đời, cho nên theo phương diện luật pháp thì Ru-tơ phải ở dưới sự bảo hộ
của Na-ô-mi; và cô phải vâng lời khuyên dạy của mẹ chồng mình. Nhưng Đức Chúa
Trời đã can thiệp vào và khoan dung độ lượng cứu rỗi Ru-tơ bất chấp mọi trở lực
đó, “không phải cứu vì việc công bình chúng ta
đã làm, nhưng cứ theo lòng thương xót Ngài” (ITi 3:5 NKJV). Đức Chúa Trời thường lấy làm vui thích bày tỏ
lòng thương xót Ngài ra (Mi 7:18) đối với
những người vô năng, yếu đuối hèn mọn nhất trong những nơi tưởng chừng như
không thể. Đây là ân huệ kỳ diệu của Thiên Chúa “Đấng
muốn cho mọi người được cứu rỗi và hiểu biết lẽ thật” (ITi 2:4 KJV).
Lời Ru-tơ nói trong Ru 1:16-17 là một trong những lời thú nhận có ý
nghĩa quan trọng nhất được tìm thấy trong Kinh Thánh. Trước hết, Ru-tơ thú nhận
nàng rất yêu thương Na-ô-mi và nàng muốn chung sống với mẹ chồng mình đến trọn
đời. Kế tiếp, Ru-tơ xưng nhận nàng có niềm tin nơi Đức Chúa Trời hằng sống chân
thật và quyết định thờ lạy Ngài. Ru-tơ đã lìa cha mẹ mình (2:11) để đến dính díu với Na-ô-mi và Thượng Đế của
dân tộc bà. Ru-tơ cương quyết đi cùng Na-ô-mi (1:18)
về sống ở Bết-lê-hem với dân tộc của giao ước Đức Chúa Trời.
Nhưng Luật Pháp Chúa có nói rằng: “Dân Am-môn và dân Mô-áp sẽ không được phép vào hội Đức
Giê-hô-va, dầu đến đời thứ mười cũng chẳng hề bao giờ vào được” (Phu 23:3 NKJV). Điều này có nghĩa là sự loại trừ
vĩnh viễn. Vậy Ru-tơ sẽ vào được hội Đức Giê-hô-va bằng cách nào? Bằng cách
Ru-tơ tin vào ân điển của Đức Chúa Trời và giao phó chính mình cho Ngài hoàn
toàn để hưởng ơn thương xót của Ngài. Luật Pháp loại trừ chúng ta ra khỏi gia
đình Đức Chúa Trời, nhưng ân điển Ngài sẽ kể chúng ta vào đó nếu chúng ta đặt
lòng tin nơi Chúa Cứu Thế.
Khi bạn đọc gia phả Chúa Giê-xu
Christ trong Ma-thi-ơ 4, bạn sẽ thấy tên 5 người nữ thì trong số đó có đến 4
người có lắm vấn đề lôi thôi: Ta-ma phạm tội loạn luân với cha chồng (Sa 38:3) Ra-háp vốn là một kỹ nữ ngoại giáo (Gios 2:5) Ru-tơ là người nữ Mô-áp ngoại giáo vô
gia cư, bị xã hội ruồng bỏ (Ru 1:5) và còn
“vợ của U-ri” là một người đàn bà phạm tội tà dâm (IISa
11:6). Vậy họ trở thành phần tử của gia đình Đấng Mết-si-a là nhờ cách
gì thế? Nhờ ân điển lạ lùng và lòng thương xót của Đức Chúa Trời! Ngài là “Chúa không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia
tưởng đâu, nhưng Ngài lấy lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một
người nào chết mất, song muốn cho mọi người đều ăn năn” (IIPhi 3:9 NKJV). (Ma-ri là người nữ thứ năm trong
gia phả này, bà được kể vào đó nhờ ân điển của Đức Chúa Trời và bởi đức tin của
bà. (Lu 1:26-56).
3. Sự cay đắng: Đổ lỗi
cho Đức Chúa Trời đã gây ra gian truân hoạn nạn cho chúng ta (Ru 1:19-22)
Có lẽ hai góa phụ này đã
đến viếng ba ngôi mộ ba người thân yêu của họ lần cuối cùng trước lúc họ rời
Mô-áp. Sau đó họ tự kết ước với Thượng Đế và bắt đầu bước vào đời sống mới.
Thật lý thú để biết được Na-ô-mi và Ru-tơ đã nói gì về chuyến đi của họ từ
Mô-áp đến Bết-lê-hem. Có phải Na-ô-mi đã dạy cho đứa con dâu này của bà biết
một vài giáo huấn căn bản của lụât Môi-se không? Có phải Ru-tơ đã hỏi mẹ chồng
mình về vấn đề niềm tin của người Do Thái, về dân tộc Do Thái và về quê hương
mới của nàng ở Bết-lê-hem chăng? Chúng ta không biết Na-ô-mi trả lời cô thế nào
giữa lúc bà đang cay đắng và nao núng đức tin nơi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên
như vậy.
Na-ô-mi rời khỏi quê
hương 10 năm qua, và nhiều phụ nữ ở đó rất ngạc nhiên khi
thấy họ trở về (trong c.19, đại từ “họ hỏi” thuộc giống cái). Họ hỏi: “Có phải là Na-ô-mi chăng? ” cho thấy họ vừa
ngạc nhiên vừa hoang mang. Tên gọi “Na-ô-mi” có nghĩa là “sự ngọt ngào”, nhưng
lúc bấy giờ bà đang sống không đúng như ý nghĩa của tên ấy. Bà không phải là
Na-ô-mi mà họ đã quen biết trước đó 10 năm. Mười năm đầy khó khăn gian khổ của
bà ở Mô-áp cùng những nỗi sầu não đau thương mất mát đã bào mòn đi dáng vẻ và
tính cách của bà. Thay vì làm cho bà trở nên tốt hơn, những thử thách cuộc đời
lại khiến bà càng thêm cay đắng hơn, là ý nghĩa của từ “mara”.
Chúng ta không thể kiểm soát được
những tình huống xảy ra trong cuộc sống mình, nhưng chúng ta có thể biết cách
ứng phó với chúng. Đó là tất cả những gì mà chúng ta muốn nói về đức tin, tức
là dám tin vào điều Đức Chúa Trời đang hành động trên mọi sự vì cớ ích lợi của
chúng ta, cho dù chúng ta không cảm thấy như vậy hay là như thể không thấy gì
xảy ra cả. “phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa”
(ITe 5:18) là điều không phải lúc nào chúng
ta cũng dễ dàng làm được, nhưng nếu chúng ta thực hiện được mạng lịnh này thì
đó là phương thuốc trị độc hữu hiệu nhất giúp chúng ta loại bỏ được sự cay đắng
và thái độ hay chỉ trích người khác. George H. Morrison một diễn giả người
Scottish nói rằng, “9/10 trong số chúng ta thường có thái độ không vui là do
tính ích kỷ của chúng ta mà ra, đó là đức tính xấu xa rất đáng hổ thẹn khi
chúng ta đứng trước mặt Chúa”. Bởi vì Na-ô-mi đã bị tính ích kỷ nhỏ mọn giam
hãm khống chế, cho nên bà trở nên cay đắng đối với Đức Chúa Trời.
Đầu tiên, bà kết tội Chúa đã gây ra
nỗi cay đắng cho bà (Ru 1:20). Bà cùng chồng
rời Bết-lê-hem đi đến Mô-áp sống đời sống nghèo túng khó khăn ở đó, nay lại trở
về quê cũ mà không có gì cả. Giờ đây bà trở thành người đàn bà tay trắng, không
nhà không cửa cùng với một tấm lòng trống rỗng. Bởi vì bà không chịu đầu phục
Thượng Đế và không chịu chấp nhận sự sửa phạt vì lòng yêu thương của Ngài, cho
nên bà không kinh nghiệm được “bông trái công
bình và bình an cho những kẻ đã chịu luyện tập” (He 12:11).
Bà cho biết Đức Chúa Trời không chỉ
gây cay đắng cho bà mà Ngài còn đem tai họa, hoạn nạn đến cho bà nữa (Ru 1:21). Có đúng là Na-ô-mi đang xưng tội mình
ra, thừa nhận rằng bà và gia đình bà đã phạm tội vì đã đi đến Mô-áp không? Có
phải Na-ô-mi nói bóng gió rằng gia đình bà gặp tất cả những tai ương bất hạnh
như vậy thì thật là đáng đời không? Na-ô-mi gọi Đức Chúa Trời là “Đấng Toàn
Năng” hai lần, theo tiếng Hê-bơ-rơ là Ên Sa-đai (El
Shaddai) nghĩa là “ Đấng nắm hết mọi quyền lực” (c.20-21). Đúng là
phải nhận biết danh Đức Chúa Trời và ý nghĩa của danh Ngài để tin cậy vào danh
ấy, để Ngài hành động trong những tình huống, hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống
chúng ta. “Hỡi Đức Giê-hô-va, phàm ai biết danh
Ngài sẽ để lòng tin cậy nơi Ngài. Vì Ngài chẳng từ bỏ kẻ nào tìm kiếm Ngài”
(Thi 9:10, NKJV). Na-ô-mi vốn có biết rõ
danh Chúa, dẫu vậy bà đã không hành động bằng đức tin.
Nhưng Na-ô-mi có nghèo túng thực sự
không? Hoặc bà có đang thổi phồng hay cường điệu quá mức hoàn cảnh của bà bởi
vì bà đang yếu đuối thể xác và đau đớn tâm hồn? Giá như bà nghĩ đến nguồn an ủi
từ Chúa thì có lẽ bà đã được khích lệ rất nhiều.
Thứ nhất, bà còn có sự sống và đây là món quà quý báu đến từ Đức Chúa
Trời món quà mà chúng ta vẫn thường cho rằng đó là điều hiển nhiên. Na-ô-mi để
lại Mô-áp ba nấm mồ, nhưng Đức Chúa Trời với sự nhân từ Ngài đã giữ lại mạng
sống bà và đem bà trở về Bết-lê-hem. “Đừng sợ mất sự sống mình là sự rồi đây sẽ
không còn nữa”, John Henry Newman nói, “nhưng điều đáng sợ hơn là sẽ không bao
giờ có được sự bắt đầu”. Na-ô-mi nghĩ rằng đời bà thế là hết, tuy nhiên thử
thách gian truân của bà thì thực sự mới bắt đầu. Bà sắp sửa đánh mất đức tin và
hy vọng của mình, nhưng Đức Chúa Trời đã dành sẵn một chương trình khác cho bà!
Na-ô-mi không những còn có sự sống
mà bà còn có cơ hội nữa. Bà còn có
nhiều bạn bè chung quanh, tất cả mọi người đều muốn đem lại những điều tốt đẹp
nhất cho bà. Bước đầu, sự sầu não và nỗi đắng cay đã cô lập bà với cộng đồng,
nhưng dần dần tình hình đã thay đổi. Thay vì ngồi đó buồn bã ngó vào bức tường,
bà quyết định nhìn ra cửa sổ; sau đó bà đứng lên bước ra mở cửa! Khi màn đêm
buông xuống tối tăm nhất, nếu chúng ta ngước nhìn lên, chúng ta vẫn có thể nhìn
thấy những vì sao. Một trong những điều an ủi Na-ô-mi nhiều nhất lúc này chính
là Ru-tơ cô con dâu của bà. Đúng vậy, Ru-tơ là người đã được Đức Chúa Trời
dùng và ban phước cho hết cả những người còn lại trong sách này; vì Ru-tơ là
một phụ nữ biết tin cậy Chúa và đầu phục Ngài hoàn toàn. Na-ô-mi sớm nhận ra
rằng Thượng Đế đã đưa tay ra ban phước trên người thiếu phụ trẻ này và rồi đây
Ngài sẽ thực hiện những điều vĩ đại qua sự vâng lời của cô ấy.
Nhưng trên hết mọi sự, Na-ô-mi vẫn
còn có Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của
Y-sơ-ra-ên. Đức Giê Hô Va được đề cập khoảng 25 lần trong quyển sách
ngắn ngủi này, bởi vì Ngài là Diễn Viên Chính của vở kịch này, mặc cho Na-ô-mi
có nhận ra được điều đó hay không. “ Tôi tin quyết nơi Đức Chúa Trời là Đấng
Thánh”, Tổng thống Woodrow Wilson nói, “Nếu không như vậy, tôi nghĩ là tôi là
người không khôn ngoan chút nào. Vì nếu không có Chúa thì thế giới này chắc
chắn sẽ loạn lên mất, sẽ vô cùng rối rắm hỗn độn không biết đâu mà lần!”. Khi
chúng ta kính sợ Chúa, chúng ta sẽ không cần phải lo sợ điều gì nữa. Vào giờ
phút cuối cùng của cuộc đời, trong cơn hấp hối, John Wesley nói rằng, “Điều
tuyệt vời nhất là Đức Chúa Trời luôn ở cùng chúng ta!” Chúa không chỉ ở với
chúng ta mà thôi, mà Ngài còn vùa giúp
chúng ta nữa; và “Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp
chúng ta, thì còn ai nghịch với chúng ta?
” (Ro 8:31 KJV).
Mùa thu hoạch lúa mạch đến và cũng
là lúc hai góa phụ kia trở về Bết-lê-hem, là thời điểm dân chúng bày tỏ sự vui
mừng ngợi khen Đức Chúa Trời về sự nhân từ Ngài. Lúc ấy đang là mùa xuân, thời
kỳ của sự sống mới và sự bắt đầu mới. Alexander Whyte thường bảo giáo đoàn
truyền giáo Edinburgh rằng đời sống Cơ Đốc nhân đắc thắng là “một chuỗi những
sự khởi đầu mới”, và ông đã nói đúng. Na-ô-mi sắp sửa bước vào sự khởi đầu mới;
vì đối với Đức Chúa Trời, không bao giờ là quá trễ để bắt đầu lại.
Bạn có tin rằng Đức Chúa Trời rất
ủng hộ cho sự bắt đầu mới của bạn không? Cuối cùng, khi Đức Chúa Trời
đứng về phía bạn, sự yên ủi sẽ đến với bạn gấp bội phần so với những gánh nặng bạn đang mang.
Thôi, đừng có dán mắt
vào bức tường nữa, nhưng, bởi đức tin, hãy đứng dậy mở cửa ra nhìn về ngày mai
tươi mới.
2. TÍNH VĨ ĐẠI NHẤT CỦA NHỮNG ĐIỀU NÀY (Ru 2:1-23)
(Chuyện kể rằng Bô-ô có được tình yêu bất ngờ,
còn Ru-tơ thì được tràn ngập ân điển)
Trước khi Thượng Đế làm
thay đổi hoàn cảnh của chúng ta, Ngài muốn biến đổi tấm lòng chúng ta trước. Nếu hoàn cảnh chúng ta được thay đổi theo chiều hướng
tốt hơn thì con người chúng ta sẽ vẫn như cũ, sau đó chúng ta sẽ trở nên tồi tệ
hơn. Mục đích Chúa giúp đỡ chúng ta không phải để chúng ta cảm thấy được dễ
chịu, thoải mái hơn nhưng nhằm an ủi chúng ta, “để
nên giống như hình bóng Con Ngài” (Ro
8:29). Tính cách trở nên giống Đấng Christ là mục đích thánh của Đức
Chúa Trời mong muốn được hình thành ở mỗi con cái
Ngài.
Na-ô-mi cay đắng với
Chúa, còn Ru-tơ thì sẵn lòng để cho Ngài thực hiện ý muốn Ngài trên đời sống
cô; vì vậy Đức Chúa Trời bắt đầu hành động bởi lòng thương xót đối với Ru-tơ.
Chắc hẳn Ru-tơ sẽ tác động đến Na-ô-mi, sau đó Chúa sẽ khiến xảy ra công việc lạ
lùng để cuối cùng đưa đến sự giáng thế của Con Đức Chúa Trời. Ru-tơ và Na-ô-mi
không hề nghĩ rằng họ sẽ là một phần trong kế hoạch đời đời mà Thiên Chúa đã
hứa với Áp-ra-ham sẽ thực hiện rằng dòng giống của ông sẽ đem phước hạnh đến
cho toàn cầu (Sa
12:1-3). Câu chuyện Ru-tơ bắt đầu bằng cái chết của một người chồng và
kết thúc bằng sự sinh nở một em bé. Những dòng lệ đau
thương của Ru-tơ nay biến thành niềm vui chiến thắng.
Nếu chúng ta muốn Thượng
Đế hành động trên đời sống, trên những hoàn cảnh của chúng ta và hoàn tất các
mục đích bởi sự nhân từ Ngài, thì bản thân chúng ta phải thực hiện một số điều
kiện nào đó. Những điều kiện đó được nói đến rất rõ qua những kinh nghiệm, từng
trải của Ru-tơ trong phân đoạn Kinh Thánh này.
1. Chúng ta phải sống bởi đức tin đặt nơi Chúa (Ru 2:1-3)
Có một câu danh ngôn La-tinh nói
rằng: “Trời giúp chúng ta không phải để chúng ta
chẳng làm chi cả”. Vì Ru-tơ không phải là loại người thích ăn không
ngồi rồi, cho nên cô xin phép được đi ra đồng mót lúa về đặng có cái ăn. Đây là
bước đi đức tin của Ru-tơ dựa trên nền tảng mạng lịnh của Đức Chúa Trời ghi
trong Luật Pháp (Le 19:9-10 23:22 Phu 24:19-22).
Hễ khi nào gặt lúa, dân sự Đức Chúa Trời đều phải nhớ đến người nghèo và chừa
phần lúa sót lại trên ruộng cho họ mót. Xét cho cùng, Đức Chúa Trời là Đấng ban
cho con người mùa gặt, cho nên Ngài có quyền bảo người ta phải biết cách xử lý
mùa gặt đó như thế nào.
Sự tồn tại của luật lệ này là một
bằng chứng cho thấy Chúa có lòng quan tâm đến người nghèo giữa vòng dân sự. Dân
tộc được Chúa chỉ dạy phải biết cách đối đãi rời rộng (Le
19:9-10) và cư xử khoan dung độ lượng, hợp tình hợp lý đối với người
nghèo (Xu 23:3,6 Le 19:15 Ch 22:22-23). Đức Chúa Trời còn quan tâm đến những
người góa bụa, vì phần lớn trong số họ rất nghèo, do đó Ngài bảo dân sự phải
chăm sóc họ (Xu 22:22-24 Es 10:1-2). Ru-tơ không những là một goá phụ mà
còn là một ngoại kiều. Bởi vậy, cô có đủ quyền tìm kiếm Đức Chúa Trời xin Ngài
giúp đỡ, chu cấp, Ngài là Đấng “bào chữa công
bình cho kẻ mồ côi và người góa bụa, thương người khách lạ, ban đồ ăn và áo
xống cho người ” (Phu 10:18,NIV).
Sống bởi đức tin có nghĩa là nắm lấy
lời hừa của Đức Chúa Trời và hành động dựa trên những lời hứa ấy, bởi vì “đức tin không có việc làm thì chết” (Gia 2:20, NKJV). vì Ru-tơ tin quyết rằng Thượng Đế
rất yêu thương cô, sẽ chu cấp cho cô cho nên cô quyết định đi đến cánh đồng nào
đó để mót lúa. Đây là hành động hoàn toàn bởi đức tin, vì bản thân cô là một
người lạ, cô lại không biết ai là chủ của các ô ruộng lúa nối tiếp nhau tạo
thành những cánh đồng lúa đó. Mỗi ô ruộng đều có đường biên bao quanh làm ranh
giới, nhưng không có hàng rào nào cả và cũng không có bất cứ dấu hiệu nào ghi
tên của từng gia đình chủ ruộng như chúng ta thấy ở các nông trại ngày nay. Hơn
nữa, là một phụ nữ và là người từ xứ khác đến, Ru-tơ sẽ dễ dàng bị người ta ăn
hiếp, tấn công; cho nên đi đến đâu cô cũng phải hết sức thận trọng.
Bô-ô bắt đầu bước vào câu chuyện từ
chỗ này (Ru 2:1,3), ông có bà con với Ê-li-mê-léc, ông vốn là một
người “có quyền thế và giàu” trong
cộng đồng xã hội lúc bấy giờ. Tên của ông có nghĩa là “sức mạnh nội tại”. Nhờ
sự phù hộ của Đức Chúa Trời, Ru-tơ đã đến mót lúa trong phần ô ruộng thuộc sở
đất của Bô-ô. Câu chuyện ghi rằng Ru-tơ “đã tình cờ” (“té ra may cho nàng”) đến chỗ ô ruộng ấy, tuy
nhiên ấy không phải là tình cờ đâu. Thượng Đế đã đưa dẫn từng bước chân của
nàng đi đến đó, “Khi đương đi, Đức Giê-hô-va dẫn
dắt tôi đến nhà anh em của chủ tôi vậy” (Sa
24:27 KJV). Hành động vùa giúp, phù hộ của Chúa trên đời sống chúng ta
vừa lý thú lại vừa bí ẩn. Chúa thường hành động phối
hợp với chúng ta (Mac 16:20), trong chúng ta (Phi
2:12-13), vì cớ chúng ta (Ro 8:28) và để hoàn thành những mục đích bởi ân
điển của Ngài. Chúng ta hãy cầu nguyện, tìm kiếm ý chỉ của Ngài, và chúng ta
hãy quyết định (đôi khi cũng có những quyết định sai lầm); nhưng Đức Chúa Trời
sẽ bố trí các biến cố, sự kiện và dẫn dắt con cái Ngài có thiện chí. Trong một
sự hiện thấy lạ lùng, tiên tri Ê-xê-chi-ên thấy công trình trợ giúp, phù hộ của
Đức Chúa Trời được mô tả như cái ngai ngự trên “bầu trời” chạy tới chạy lui “kiểu như là bánh xe trong bánh xe” vậy (Exe 1:1-28). bạn không tài nào lý giải nổi điều đó có nghĩa gì, nhưng nhờ Đức Chúa Trời bạn có thể tin cậy
nó và nương dựa vào nó!
2. Chúng ta phải sống bởi ân điển Ngài (Ru 2:4-16)
Sáng hôm ấy, Ru-tơ bắt
đầu ra đồng mót lúa, cô tìm xem có ai đó sẽ cho cô ân huệ (c.2,10,13). Ân huệ
là đặc ân dành cho ai đó vốn không xứng đáng được nhận lãnh và cũng không thể
tìm được. Là một phụ nữ, lại là góa phụ ngoại bang nghèo, Ru-tơ chắc chắn chẳng
dám đòi hỏi gì ở ai hết. Cô là người ở dưới đáy xã hội thời bấy giờ.
Ống dẫn lưu ân huệ ấy
đến cho Ru-tơ chính là Bô-ô. Thật tuyệt vời biết bao khi biết rằng Đức Chúa
Trời vẫn còn có những người tốt sống trong thời kỳ
xấu đầy tối tăm! Nếu bạn chỉ biết nội phần ký thuật về điều này trong sách Các
Quan Xét, có lẽ bạn sẽ kết luận rằng người công bình nhân đức thì lại thường bị
tàn diệt khỏi thế gian (Thi 12:1-2 Es 57:1 IVua 19:10
Mi 7:2). Tuy nhiên vẫn còn có những người
như Bô-ô có sự nhận biết Đức Chúa Trời, hết lòng tìm kiếm Ngài và vâng theo ý
chỉ Ngài. Bô-ô luôn có lòng quan tâm đến các công nhân của mình và mong muốn họ
cũng được nhận hưởng ơn phước Chúa (Ru 2:4).
Vừa khi chào đón các công nhân của
mình đến làm việc trên đồng, Bô-ô phát hiện ra liền có một người lạ trông dáng
vẻ thật đáng yêu cũng có mặt trong số họ. Tôi có ấn tượng rằng Bô-ô đã đem lòng
yêu mến Ru-tơ ngay từ cái nhìn đầu tiên; vì kể từ giây phút đó, Bô-ô cứ hay để
ý đến nàng chứ chẳng để tâm gì đến vụ thu hoạch nữa. Mặc dù là người nước
ngoài, nhưng Ru-tơ vẫn là một thiếu phụ trẻ duyên dáng xinh đẹp gây cho cánh
đàn ông trẻ ở thị trấn đó chú ý (3:10). 2:11 cho biết Bô-ô trước đó có nghe nói về Ru-tơ
rồi, nhưng đến giờ ông mới gặp mặt.
Một lần nữa, chúng ta rất đỗi ngạc
nhiên về sự tể trị và phù hộ này của Đức Chúa Trời. Chúa dẫn Ru-tơ đến đồng lúa
của Bô-ô, sau đó Ngài lại đưa Bô-ô đến thăm ruộng mình trong lúc Ru-tơ đang còn
ở đó. Lúc Bô-ô đến nơi, có lẽ Ru-tơ đang nghỉ giải lao trong ngôi nhà tạm mà
Bô-ô dùng cho công nhân làm chỗ nghỉ ngơi tạm; hoặc có thể cô đã cảm thấy mệt
nhoài nên vội trở về nhà với Na-ô-mi. Khi chúng ta giao phó đời sống mình cho
Chúa, thì những gì xảy đến với chúng ta đều do có ý định của Ngài chứ không hề
bởi sự ngẫu nhiên. Ru-tơ đang là một góa phụ ngoại bang nghèo, nhưng Thượng Đế
vẫn chuẩn bị tạo ra một mối quan hệ mới cho cô để làm thay đổi hoàn cảnh của
cô.
Các học giả xem Bô-ô như là hình ảnh
Chúa Cứu Thế Giê-xu trong mối quan hệ Ngài với cô dâu là Hội Thánh Ngài. Tương
tự Ru-tơ, tội nhân bị hư mất là những người ở bên ngoài gia đình của giao ước
Đức Chúa Trời, trong tay không có thứ gì cả và không dám đòi hỏi sự thương xót
của Ngài. Nhưng Đức Chúa Trời chủ động tìm đến giúp đỡ, phù hộ, chỉ cho chúng
ta con đường dẫn vào gia đình Ngài thông qua đức tin đặt nơi Chúa Cứu Thế
Giê-xu, (Eph 2:10-22). Tôi sẽ bàn đến mối
liên hệ này rõ hơn ở chương kế tiếp và xem xét kỹ về “người bỏ tiền chuộc bà
con” này.
Bây giờ chúng ta hãy chú
ý đền những chứng cớ về ân điển của Đức Chúa Trời thể hiện qua mối quan hệ giữa
Bô-ô với Ru-tơ:
a. Bô-ô
chủ động (Ru 2:8):
Ân điển có nghĩa là Đức Chúa Trời tự động đến giúp đỡ
chúng ta trước, không phải vì chúng ta xứng đáng được như vậy, nhưng vì Ngài
yêu chúng ta và mong muốn chúng ta thuộc về Ngài, “Chúng ta yêu, vì Chúa đã yêu chúng ta trước” (IGi 4:19 NKJV). Đức Chúa Trời chủ động cứu rỗi
chúng ta khi chúng ta bị chết mất tâm linh (Eph
2:1-10), không còn sức lực nữa (Ro 5:6),
là những tội nhân (5:8), và là kẻ thù nghịch
lại Ngài (5:10). Sự cứu rỗi không phải là
cách giải quyết đến sau của Đức Chúa Trời mà là kế hoạch Chúa đã lập từ trước
vô cùng chuẩn bị cho tương lai đời đời. Chúng ta có lý do chính đáng để tin
rằng Bô-ô vì yêu mến Ru-tơ cho nên những bước đầu tiên của ông cần làm cho nàng là đáp ứng những nhu cầu của nàng.
b. Bô-ô
trò chuyện với Ru-tơ (Ru 2:8): Chính Bô-ô mở lời nói chuyện với Ru-tơ trước, vì Ru-tơ
không dám trò chuyện với ai cả, đặc biệt đối với một người lạ và còn là “ông
chủ của đồng lúa” đang được thu hoạch đó nữa. Một góa phụ ngoại bang lấy tư
cách gì mà dám nói chuyện với một người có quyền có thế như Bô-ô cơ chứ? Tuy
nhiên Bô-ô đã cắt ngang cuộc trò chuyện với viên quản đốc để bảo người thiếu
phụ lạ mặt kia hãy vào mót lúa trong ruộng ông.
Cách đây một vài năm, vợ
tôi cùng đứa con gái nhỏ và tôi đến thăm nước Anh và chúng tôi tự tìm đến
Lichfield nơi chúng tôi biết được Nữ Hoàng Ê-li-za-bét sắp sửa thành lập một
ngôi trường mới dành cho những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Chúng ta tạm thời
từ bỏ kế hoạch của mình, ghìm dây cương ngựa lại kiên nhẫn chờ xem đoàn hộ tống
Nữ Hoàng sắp đi qua đó, và cuối cùng nó đã xuất hiện. Lúc ấy, có lẽ chúng tôi
đứng cách Nữ Hoàng khoảng mười bước chân và khi ấy, Bà đang ở trên một chiếc xe
ngựa do một nữ tỳ điều khiển chạy chầm chậm, Bà đưa tay vẫy đám đông với một cử
chỉ, phong cách rất đặc biệt.
Lúc bấy giờ, giả sử Bà
hạ tấm rèm cửa sổ xe xuống và gọi chúng ta: “xin chào Warren! Xin chào Betty và
July! Ta sẽ bảo các nhân viên bảo vệ của ta đến chăm sóc các vị!”. Nếu xảy ra
điều đó thật, có lẽ mọi người sẽ có ấn tượng rằng chúng ta là những nhân vật
rất quan trọng và thế nào họ cũng đến xin chữ ký của chúng ta cho mà xem. Hãy tưởng tượng thử, làm sao Nữ Hoàng lại có thể đến trò chuyện với từng công dân
Hoa Kỳ đang ở khắp đó đây một cách cá nhân cho xuể!
Nữ Hoàng Ê-li-za-bét chưa bao giờ
nói chuyện với tôi cả, và có lẽ sẽ không bao giờ; nhưng
Đức Chúa Trời Toàn Năng thì đã trò chuyện với tôi trong Chúa Cứu Thế Giê-xu và
qua Lời Ngài rồi! “Đức Chúa Trời …rồi
đến những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài” (He 1:1-2 NKJV). Bất kể những gì mà người thế gian
đầy tội lỗi này đã làm đối với Chúa, Ngài vẫn trò chuyện với chúng ta trong ân
điển Ngài. Ngài không những nói về sự cứu rỗi mà Ngài còn ban cho chúng ta sự
hướng dẫn cần thiết cho chúng ta trong đời sống mỗi ngày. Giống như Bô-ô chỉ
dẫn Ru-tơ, Đức Chúa Trời cũng thường chia sẻ lời khôn ngoan của Ngài để
hướng dẫn đời sống chúng ta hằng ngày. Ngài là “Chủ
mùa gặt” giao nhiệm vụ cho chúng ta và phân bổ công việc, vị trí của chúng ta
trên cánh đồng của Ngài.
c. Bô-ô
hứa bảo vệ Ru-tơ và chu cấp những sự cần thiết cho nàng (Ru 2:9,14-16): Bô-ô gọi Ru-tơ là “con gái ta” bởi vì nàng trẻ hơn ông rất
nhiều (3:10), nhưng đó cũng là một
cách nói biểu lộ lòng yêu mến. Ông đối đãi với nàng giống như đối với thành viên trong gia đình ông. (Đa-vít cũng đã
đối đãi với Mê-phi-bô-sết như vậy. IISa
9:1-13). Bô-ô ra lịnh cho bọn thợ gặt là những nam thanh niên phải bảo
vệ Ru-tơ, còn mấy đầy tớ nữ trẻ kia cũng hãy để cho
nàng mót lúa cùng họ. Ru-tơ cùng mấy nữ đầy tớ đó đi theo ngay phía sau các con
gặt. Như vậy, ngay từ bước đầu Ru-tơ đã có cơ may tốt nhất để mót lúa! Thậm chí
Bô-ô còn dặn đám nhân công gặt lúa hãy để cho Ru-tơ mót giữa những bó lúa và
nên cố tình bỏ sót lúa cho nàng nhặt. Bô-ô cho phép Ru-tơ nếu đói khát thì nàng
cứ tự đến ăn uống ở chỗ các con gặt của ông. Thực tế, Bô-ô đã cùng ăn
với Ru-tơ và còn tự tay trao thức ăn cho cô nữa! (Ru
2:14).
Thật là một bức tranh đẹp đẽ biết
bao về ân huệ của Đức Chúa Trời! Ông chủ này trở nên giống như các đầy tớ là
ông có thể thổ lộ tình yêu đối với một người nước ngoài. Ru-tơ không nghĩ rằng
Bô-ô đã ra lịnh cho các con gặt phải đối đãi tử tế rộng lượng với cô, nhưng cô
tin lời ông ta nói và nhận thấy các nhu cầu cô cần đã được ông đáp ứng. Chúa
Cứu Thế Giê-xu đến thế gian như thể một tôi tớ vậy (Phi
2:1-11) để có thể cứu vớt chúng ta và khiến chúng ta được dự phần vào
trong gia đình Ngài, Ngài chia sẻ cho chúng ta sự giàu có về ơn thương xót và
tình yêu thương của Ngài (Eph 2:4), sự giàu
có về ân huệ Ngài (c.7), về tính khôn ngoan và thông biết của Ngài (Ro 11:33), về sự vinh hiển Ngài (Phi 4:19), vâng, sự giàu có của Ngài quả là “không thể nào đo lường được” (Eph 3:8 NIV). Chúng ta, không bị Đức Chúa Trời xem
là “những kẻ ngoại bang” nữa nhưng là thành viên của
gia đình Ngài, được hưởng sản nghiệp mà Ngài đã dành sẵn cho chúng ta.
d.
Bô-ô khích lệ Ru-tơ (Ru 2:10-13):
Ru-tơ tỏ thái độ khiêm nhường và lòng biết ơn đối với Bô-ô. Nàng biết mình
không xứng đáng nhận lãnh ân huệ của Bô-ô. Nàng tin tưởng vào những lời Bô-ô
hứa hẹn và nàng cảm thấy vui mừng về những lời hứa đó. Ru-tơ không cần phải lo lắng gì nữa cả, bởi vì ông chủ
của mùa gặt giàu có này sẽ lo liệu và chăm sóc cho nàng với Na-ô-mi. Dựa vào
đâu Ru-tơ có thể biết được ông ta sẽ
chăm sóc nàng? Dựa vào những lời ông hứa với nàng và nàng biết ông là người
đáng tin cậy.
Ru-tơ đã không nhìn lại bi kịch cuộc
sống mà nàng đã trải qua, nàng cũng chẳng nhìn vào chính mình và ngẫm nghĩ về
hoàn cảnh khốn cùng, khổ đau đáng buồn của mình nữa. Nàng quỳ xuống dưới chân
ông chủ ấy và tự nguyện vâng phục ông. Nàng không để tâm đến sự nghèo túng của
mình nữa và hướng về sự giàu có của ông ta. Nàng quên đi những nỗi sợ hãi và
tin quyết vào những lời hứa ông đã hứa. Thật là một tấm gương tuyệt vời mà dân
sự Đức Chúa Trời ngày nay hãy noi theo!
Tôi thấy có rất nhiều người lâm vào
cảnh khốn cùng bởi vì họ đã không vâng theo lời khuyên răn trong He 12:2 “Hãy nhìn
xem Đức Chúa Giê-xu”. Họ chỉ lo bỏ ra quá nhiều thì giờ nhìn vào
chính bản thân họ, nhìn vào các hoàn cảnh của họ, và nhìn vào người khác, cho
nên họ đã thất bại không làm được điều mà Ru-tơ đã làm, đó là, hãy tập trung
chú ý đến Ông Chủ của mình. Thay vì tin vào sự toàn hảo của Chúa, người ta lại
chỉ lo hướng đến sự bất toàn của bản thân họ. Thay vì tìm kiếm những sự giàu có
thuộc linh của Chúa, họ lại chỉ biết lằm bằm oán trách về sự phá sản, trắng tay
của mình mà thôi. Họ đi nhà thờ “để xin được đáp ứng những nhu cầu họ cần” thay
vì đến để thờ phượng Chúa là Đấng quan trọng hơn bất cứ nhu cầu nào. Họ nên lưu
ý đến lời khuyên của một bài thơ ngắn do một thính giả của đài phát thanh gởi
đến cho tôi cách đây nhiều năm:
Nhìn vào chính mình thì
sẽ gặp khổ đau
Nhìn vào người khác ắt
sẽ mau thất vọng
Nhìn vào Chúa Giê-xu bạn
sẽ được phước hạnh vui tươi!
e. Bô-ô nhìn thấy nhu cầu Ru-tơ cần (Ru 2:14-18):
Vì Ru-tơ đặt đức tin nơi
Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên cho nên điều ấy đã xảy ra với nàng. Bô-ô nắm rõ
chuyện của Ru-tơ, vì vậy ông không phải mất nhiều thì giờ đi lại trong thành
Bết-lê-hem bé nhỏ này để tìm các thông tin về nàng nữa. Ông biết rằng Ru-tơ đã
lìa bỏ gia đình, quê hương xứ sở và các thần
của mình ra đi đến đây đặt lòng tin cậy nơi Đức Giê-hô-va. Nàng đến xin “ẩn nấp
dưới cánh bóng Ngài”. Hình ảnh này cho chúng ta tháy cảnh gà mẹ bảo vệ đàn gà
con của mình (Thi 91:4 Mat 23:37), nhưng nó còn ám chỉ cánh chê-ru-bim
trong nơi chí thánh (Thi 36:7 61:4). Ru-tơ bây giờ không còn là người ngoại bang
hay là người lạ nữa. Không những nàng được Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên chấp
nhận, mà nàng còn được ở trong nơi chí thánh với Ngài (Eph
2:11-22). Từ “đáp” trong Ru 2:11 theo
nghĩa đen là “ông ấy lên cao giọng”. Bô-ô đang rất phấn khích! Ông muốn mọi
người nghe được những gì ông nghĩ về Ru-tơ, và ông không xấu hổ chút nào khi tỏ
ra đồng cảm với nàng. Ru-tơ tin cậy Đức Giê-hô-va, nàng chứng minh điều đó bằng
cách trung thành với mẹ chồng mình và trở thành phần tử của dân tộc Y-sơ-ra-ên
tại Bết-lê-hem. Cụm từ “an ủi và giục lòng” trong câu 13 có nghĩa là “nói với
con tim”. Lời Đức Chúa Trời xuất phát từ con tim Ngài (Thi
33:11) đến với mọi lòng của dân sự Ngài (Mat
23:18-23) và ban cho họ sự khích lệ với niềm hy vọng (Ru 15:4). Nếu bạn lắng nghe tiếng Chúa từ Lời
Ngài, thì lòng bạn ắt sẽ được khích lệ.
Lời Chúa và Con Ngài có thể làm thỏa
mãn lòng kẻ tin. Khi chúng ta đi tìm kiếm sự thỏa mãn ở bất cứ nơi nào khác,
chúng ta sẽ nhận thấy mình thật bất tuân và không tìm được sự thỏa lòng chút
nào. Thế gian hư mất đã uổng phí công lao nó cho những điều mà nó không tìm
thấy ở đó sự thỏa mãn (Es 55:2), còn Cơ Đốc
nhân thì luôn được thỏa lòng nhờ ân điển của Chúa Cứu Thế Giê-xu (Thi 36:7-9 63:5
65:4 103:5
107:9). Như có một tác giả Thánh Ca đã viết:
Dòng nước cứ mãi phun trào
Bánh hằng sống dư dật nhưng không
Sự giàu có không kể xiết sẽ không
bao giờ hết
Đấng Cứu Chuộc tôi sẽ đến với tôi
Ha-lê-lu-gia! Tôi đã tìm
gặp được Ngài
Là Đấng mà linh hồn tôi
khao khát chờ đợi đã lâu!
Ngài làm thỏa lòng mong
ước của tôi
Bởi dòng huyết Ngài nay
tôi đã được cứu.
(Clara T. Williams)
Chúng ta hãy sống bởi
đức tin, trông cậy vào ân điển Ngài. Và chúng ta cần đáp ứng thêm điều kiện thứ
ba sau đây.
3. Chúng ta phải sống trong hy vọng (Ru 2:17-23)
Suốt cả ngày dài, Ru-tơ
làm công việc mình với tinh thần rất vui vẻ, hy vọng. Nàng không còn lo sợ bị
đám đàn ông kia quấy rầy và cũng không sợ mấy người làm công còn lại ở đó gây
trở ngại. Khi nào đói thì nàng lại được ăn, khát thì được cho uống, lại có chỗ
nghỉ ngơi lúc nàng đuối mệt. Nàng mót được chừng nửa giạ lúa, đủ nuôi sống hai
mẹ con nàng khoảng một tuần lễ. Ru-tơ không chỉ làm lụng siêng năng mà nàng còn
rất cẩn thận chu đáo không bỏ phí bất cứ chút gì do Đức Chúa Trời ban cho nàng.
Na-ô-mi sẽ phản ứng ra
sao trước những từng trải của Ru-tơ? Lần gần đây nhất khi chúng ta gặp Na-ô-mi
là lúc bà san sẻ nỗi đắng cay của mình với những phụ nữ ở Bết-lê-hem và lằm bằm
oán than Đức Chúa Trời sao lại để xảy ra
cho bà niềm đau thương sầu não với sự phá sản nghèo túng như vậy. Khi Ru-tơ xin
phép bà đi ra đồng mót lúa thì bà bảo: “Hỡi con! Hãy đi đi!” (Ru 2:2). Bà không hề khích lệ nàng dâu này của
mình lời nào, thậm chí cũng không hứa cầu nguyện cho nàng gì cả.
Nhưng giờ đây chúng ta nghe có một
từ mới mẻ phát ra từ môi miệng Na-ô-mi “phước!” (c.19-20). Bà không chỉ chúc
phước cho người có lòng hảo tâm đã giúp đỡ Ru-tơ, mà bà còn chúc phước cả Đức
Giê-hô-va! Chúng ta vừa từ bỏ sự đắng cay để đi đến với sự phước hạnh. Khi
Na-ô-mi nhìn thấy những hạt lúa mạch, bà liền chúc phước cho người đã cho phép
Ru-tơ đến mót lúa trong ruộng ông ta; và khi bà nghe kể về người đàn ông đó
chính là Bô-ô, bà liền chúc phước cho Đức Chúa Trời. Một cơ hội tuyệt diệu biết
bao đã đến trong lòng của người góa phụ đang chứa chất biết bao nỗi buồn khổ
này!
Cơ hội này xuất hiện đem vào trong
tâm tưởng bà niềm hy vọng mới, và người đã đưa đến
cho bà niềm hy vọng đó chính là Bô-ô.
Na-ô-mi hy vọng bởi vì bà biết Bô-ô là ai đó
là một người bà con với bà mà lại có quyền thế, tiếng tăm và giàu có nữa. Rồi
đây chúng ta sẽ thấy, chính người đàn ông bà con này đã cứu bà con của mình
thoát khỏi cảnh phá sản nghèo túng và ban cho họ sự khởi đầu mới (Le 25:25-34). Nhưng Na-ô-mi còn có hy vọng vì những điều Bô-ô làm: Ông ta thổ lộ lòng nhân
từ, tử tế đối với Ru-tơ và quan tâm cá nhân đến hoàn cảnh của nàng. Khi Ru-tơ
nói cho Na-ô-mi nghe những điều Bô-ô đã nói với nàng, niềm hy vọng của Na-ô-mi
càng lớn dậy mạnh mẽ hơn bởi vì những lời Bô-ô nói đó bày tỏ cho bà biết ông
rất yêu mến Ru-tơ và ông có nguyện vọng sẽ đem lại hạnh phúc cho nàng. Việc
Bô-ô cứ một mực nài Ru-tơ ở lại ngoài đồng bên cạnh các đầy tớ của ông là bằng
chứng cho Na-ô-mi thấy rằng người bà con phía chồng mình này đang trù tính điều
gì đó có liên quan đến bà và con dâu của bà.
Lẽ nào chúng ta đã tin Chúa Cứu Thế
Giê-xu mà lại không hy vọng gì ở Ngài sao? Khi bạn nhận biết được Ngài là ai
rồi, thấy rõ những điều Ngài đã làm cho chúng ta và đã hiểu được Ngài muốn nói
gì với chúng ta qua Lời Ngài, vậy thì chúng ta còn có lý do gì để thất vọng ở
Ngài nữa cơ chứ. Chúa Cứu Thế Giê-xu chính là Con của Thượng Đế. Ngài chịu chết
vì chúng ta và hiện giờ Ngài đang ở trên thiên đàng cầu thay cho chúng ta.
Trong Lời Ngài, Ngài ban cho chúng ta “lời hứa
rất quí rất lớn” (IIPhi 1:4 KJV)
là những lời không hề dối. Ngày nay bạn cảm nhận ra sao không thành vấn đề,
hoàn cảnh bạn gặp phải dù khó khăn cách mấy cũng chỉ là chuyện nhỏ, quan trọng
là bạn có thể vui mừng hy vọng hướng đức tin của mình về Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Robert G. Ingersoll, một giảng viên
đại học người Mỹ đã gọi sự hy vọng là “tên nói dối trứ danh, là kẻ không bao
giờ vì sự trung thực mà đành phải đánh mất tiếng tăm của mình”. Còn Norman
Cousins đã quá cố, một biên tập viên của tờ báo The
Saturday Review, người đã từng bị bệnh nan y và hay có cơn đau tim
bộc phát rất trầm trọng nhưng đã được cứu sống bằng phép lạ, ông tỏ ra bất đồng
ý kiến với cách gọi trên của Ingersoll rất quyết liệt. “Thể xác con người
thường được một lực hút hấp dẫn mạnh mẽ kéo về phía có sự hy vọng”, cousins đã
viết như vậy. “Đó là lý do tại sao những niềm hy vọng sống của bệnh nhân luôn
là vũ khí bí mật của các bác sĩ. Chúng là những thành phần thuốc đã được giấu
diếm ở các toa thuốc điều trị”. Trong quá trình làm việc của mình với các bệnh
nhân tại Trường Y Khoa UCLA, Cousins đã chứng minh được sức mạnh của sự hy vọng
đã làm thay đổi đời sống con người.
Đối với Cơ Đốc nhân, hy vọng không
phải là thứ “cảm xúc mơ hồ” nông cạn được nảy sinh ra bởi ý tưởng lạc quan quá
khích. Hy vọng là cảm xúc vui mừng khởi phát ra từ nội tâm bởi sự chắc chắn,
tin quyết khi chúng ta tin cậy các lời hứa của Đức Chúa Trời và hướng tới tương
lai trong sự phù hộ, giúp đỡ của Ngài. Niềm hy vọng này là món quà của Đức Chúa
Trời ban cho con cái Ngài thông qua Đức Thánh Linh, là Đấng luôn nhắc nhở chúng
ta nhớ lại những lời Đức Chúa Trời đã hứa trong Kinh Thánh (Ro 15:13).
Nửa giạ lúa mạch của Ru-tơ mót về
chính là “bông trái đầu mùa” khởi đầu cho tất cả những điều còn lại mà Bô-ô sẽ
làm trong tương lai cho nàng, tương tự Đức Thánh Linh luôn ngự trong chúng ta
là “bông trái đầu mùa” của tất cả những điều mà Đức Chúa Trời đã hứa sẽ làm cho
chúng ta (8:23). Phần lúa mà Ru-tơ được Chúa
chu cấp đó sau một tuần lễ rồi cũng hết, nhưng chứng cớ về Đức Thánh Linh có
ngự trong ta vẫn cứ còn lại mãi cho đến chừng những niềm hy vọng của chúng ta
được đáp ứng tất cả và đó là lúc chúng ta gặp được Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Niềm hy vọng mới đầy khích lệ ấy giờ
đây luôn thường trực trong lòng hai góa phụ kia đều hướng về một người, đó là
Bô-ô, tương tự như niềm hy vọng của chúng ta hướng về Con Đức Chúa Trời vậy.
Quả thật, Chúa Cứu Thế Giê-xu chính là
hy vọng của chúng ta (ITi 1:1 ITe 1:3 Co 1:27).
Bởi đức tin đặt nơi Đấng Christ, chúng ta được tái sinh để “có sự trông cậy sống” (IPhi
1:3); và bởi vì đó là niềm hy vọng sống
cho nên nó sẽ lớn lên từng ngày và sinh ra bông trái. Những niềm hy vọng mà
người thế gian bám lấy là những niềm hy vọng chết, còn những niềm hy vọng của
chúng ta là những niềm hy vọng sống bởi lẽ nó được châm rễ ra từ Đấng Christ
hằng sống.
Na-ô-mi có giải thích cho Ru-tơ nghe
về luật lệ “người thân thích có quyền chuộc lại đồ đạc, sản nghiệp” (Le 25:47-55). Không phải chỉ có tình yêu thương và
lòng tử tế của Bô-ô dành cho Ru-tơ là những điều đã đem lại cho Na-ô-mi niềm
tin cậy, mà là chính cảm xúc tuyệt diệu về những điều đó đã làm biến đổi bà
thật bất ngờ. Đó là nguyên tắc cứu chuộc của Đức Chúa Trời được ghi trong Kinh
Thánh là điều đã đem lại cho Na-ô-mi sự đảm bảo rằng Bô-ô chắc chắn sẽ cứu giúp
họ. Là một người bà con gần, Bô-ô có quyền chuộc lại sản nghiệp gia đình của
Ê-li-mê-léc mà Ê-li-mê-léc đã đem cầm cố, thế chấp cho người ta lúc ông ấy đưa
gia đình đến Mô-áp. Na-ô-mi không có đủ tiền của để chuộc lại số sản nghiệp ấy,
nhưng Bô-ô thì có dư khả năng mua lại sản nghiệp đó và giữ lại chúng cho gia
đình bà.
Tuy nhiên, còn một việc nữa có liên
quan đến vấn đề trên: Vợ người quá cố cũng phải thuộc quyền sở hữu cùng với sản
nghiệp gia đình. Do vậy, người bà con gần có quyền chuộc lại sản nghiệp ấy bắt
buộc phải cưới luôn góa phụ đó để sinh con đẻ cái tiếp tục duy trì danh dự của
dòng họ người đã chết. Như vậy họ có quyền thừa kế sản nghiệp ấy, và tên tuổi
dòng họ cùng tài sản gia đình của người quá cố kia lại sẽ được tiếp tục duy trì
như trước. Đó là “cuộc hôn nhân chắp nối để nối dõi tông đường” (Phu 25:5-10). Từ “levir”
trong tiếng La-tinh có nghĩa là “một người anh trai hoặc em trai của chồng”.
Tác giả sách Ru-tơ không giải thích chồng của Ru-tơ là Mạc-lôn có liên hệ như
thế nào với sản nghiệp của cha người để lại đến nỗi Ru-tơ phải bị kể vào trong
cuộc mua bán ấy. Bắt đầu từ lúc nào và lý do tại sao người Do Thái lại nối kết
luật về người có bà con gần có quyền chuộc lại sản nghiệp này với luật về hôn
nhân chắp nối để nối dõi tông đường kia thì chúng ta không được nghe nói đến,
nhưng đó là một phong tục tập quán của người ta trong thời Ru-tơ.
Na-ô-mi khuyên Ru-tơ hãy vâng theo
lời đề nghị của Bô-ô và mỗi khi ra đồng mót lúa thì cứ việc ở lại bên cạnh các
đầy tớ của người. Mùa thu hoạch lúa mạch thường diễn ra trong suốt tháng Ba và
tháng Tư, còn mùa gặt lúa mì thì vào tháng sáu và tháng bảy. Trong khoảng thời
gian hai mùa đó, Ru-tơ rất bận rộn lo tìm cái ăn đủ nuôi sống bản thân mình và
mẹ chồng. Nhưng giờ đây nàng đang làm việc do động cơ là vì có niềm hy vọng
tuyệt vời: Nàng vui mừng biết rằng rồi đây mình sẽ có ngày được cứu chuộc! (Ro 8:23 Eph 4:30).
Thật đáng khích lệ khi thấy những
đổi thay xảy ra với Na-ô-mi vì cớ những điều Ru-tơ đã làm. Đức Chúa Trời dùng
Ru-tơ để biến nỗi đắng cay của Na-ô-mi thành lòng biết ơn, biến sự vô tín của
bà thành sự tin quyết, và đổi sự thất vọng của bà ra sự hy vọng. Đối với một
người nào đó, hễ tin cậy nơi Chúa và vâng theo ý chỉ Ngài thì Ngài sẽ làm biến
đổi tình thế của người đó từ thất bại thành chiến thắng.
Đức tin của Ru-tơ đặt nơi Lời Chúa
đã dẫn nàng đi đến đồng lúa của Bô-ô. Tình yêu Bô-ô dành cho Ru-tơ đã thúc giục
ông dốc đổ ân huệ của mình ra cho nàng và đáp ứng mọi nhu cầu nàng cần. (Ân huệ
là tình yêu phải được trả giá để cứu giúp ai đó là người không xứng đáng). Sự
nếm trải ân huệ của Ru-tơ đã đem lại cho nàng niềm hy vọng mới khi nàng đoán
định được những việc mà người bà con gần có quyền chuộc lại sản nghiệp kia rồi
đây sẽ làm.
“Nên
bây giờ còn có ba điều nầy: Đức tin, sự trông cậy, tình yêu thương”
(ICo 13:13), và chúng ta vẫn hằng có những
điều này nếu chúng ta cứ ở trong Chúa Cứu Thế Giê-xu và tin cậy nơi Ngài luôn
luôn.
3. CUỘC GẶP GỠ LÚC NỬA ĐÊM (Ru 3:1-18)
(Phần này của câu chuyện kể về một hành động đức
tin đơn sơ đã đem lại bình minh cho ngày mới).
Kể từ khi Bô-ô bước vào
cuộc đời Ru-tơ, Na-ô-mi trở thành một con người khác. Bà không còn quan tâm đến
cá nhân mình và lo nghĩ về nỗi gian truân cay đắng của mình nữa, bây giờ bà
chuyển sang quan tâm Ru-tơ và lo cho tương lai
nàng. Khi chúng ta phục vụ chăm sóc người khác
thì đó là lúc chính chúng ta tìm thấy niềm vui lớn nhất và sự thỏa lòng nhất.
Dietrich Bonhoeffer, một Mục Sư người Đức đã tuận đạo, ông từng gọi Chúa Giê-xu
là “Đấng sống vì người khác”, và đó là tên gọi rất xứng hợp với con người Chúa.
“Chớ làm sự chi vì lòng tranh cạnh hoặc vì hư
vinh, nhưng hãy khiêm nhường, coi người khác như tôn trọng hơn mình. Mỗi một
người trong anh em chớ chăm về lợi riêng mình, nhưng phải chăm về lợi kẻ khác
nữa” (Phi 2:3-4 TLB).
Khi hai góa phụ này đến Bết-lê-hem,
kế hoạch của họ là Ru-tơ sẽ chăm sóc Na-ô-mi và hai mẹ con họ sẽ giúp đỡ hổ trợ
lẫn nhau để có cuộc sống tốt hơn. Nhưng giờ đây Na-ô-mi lại có kế hoạch khác:
Ru-tơ sẽ kết hôn với Bô-ô, rồi đây trở về sau mẹ con họ ắt sẽ có cuộc sống vui
vẻ hơn. Qua lời Ru-tơ thuật lại, Na-ô-mi biết được Bô-ô rất có thiện chí ủng hộ
kế hoạch ấy, cho nên bà bắt đầu tiến hành công việc. Trong thời đó, cha mẹ có
quyền sắp xếp hôn nhân cho con cái mình; vì vậy, Na-ô-mi cũng phải tuân theo lẽ
định đó.
Hãy nhớ rằng sách Ru-tơ còn chứa
đựng nhiều điều có ý nghĩa hơn rất nhiều chứ nó không đơn thuần chỉ là câu
chuyện kể lại cuộc hôn nhân của một người nước ngoài đáng bị khước từ với một
người Do Thái rất tôn trọng nọ. Đó cũng là hình ảnh mô tả mối tương giao của
Đấng Christ với những ai tin cậy Ngài và thuộc về Ngài. Tương tự từng bước đi
mà Ru-tơ đã bước trong phân đoạn Kinh Thánh này, dân sự Chúa cũng phải như vậy
nếu họ muốn tiến vào mối tương giao mật thiết hơn với Ngài. Giống như Ru-tơ,
chúng ta không phải chỉ thỏa lòng với việc duy trì cuộc sống bằng những phần
thức ăn thừa (Ru 2:2), hoặc thậm chí chỉ
bằng những vật thực được ban bố cho mà thôi (2:14,15). Nhưng chúng ta phải khát khao duy nhất mình Ngài, vì khi
chúng ta có Ngài, chúng ta ắt sẽ có tất cả những gì Ngài có. Đó
không phải là những sự ban cho do chúng ta tự tìm kiếm được mà là nhờ Đấng Ban
Cho chúng ta mới có.
1. Ru-tơ sửa soạn gặp gỡ Bô-ô (Ru 3:1-5)
Chắc có lẽ nhiều người
đàn ông khác cũng rất vui sướng nếu họ cưới được Ru-tơ làm vợ (3:10), tuy nhiên, họ không có khả năng chuộc lại nàng. Chỉ có một
người bà con gần mới có thể làm được điều đó mà thôi, người ấy chính là Bô-ô.
Vì Na-ô-mi biết đêm ấy Bô-ô sẽ dùng sân đạp lúa và ở lại đó canh giữ lúa của
mình, cho nên bà liền chỉ dẫn Ru-tơ hãy mau sửa soạn đến gặp ông ta. Ru-tơ
chuẩn bị thân mình thật tươm tất, thơm tho qua năm hành động sau đây trước khi
tự nàng sẽ đến ra mắt Bô-ô.
Thứ nhất, nàng tắm rửa
sạch sẽ (Ru 3:3a): Mỗi ngày tại Hoa Kỳ, có đến 450 tỷ ga-lông nước (1 ga-lông
= 4,54 lít Anh) được dùng cho sinh hoạt gia đình, xí nghiệp, nông trại, là
lượng nước đủ để đổ đầy tràn hồ Manhattan sâu đến 96 bộ. Ở phương Đông, sự nóng
bức và đất đai thường xuyên làm mất đi một lượng nước đáng kể, trong khi đó
không phải lúc nào chúng ta cũng có nước dồi dào. Đối với người Do Thái, Luật
Pháp Môi-se có liên quan tới họ là nhiều lúc họ phải thực hiện việc giặt giũ,
tắm rửa mình và thay đổi quần áo, trang phục theo nghi lễ trước khi có
một biến cố đặc biệt nào đó sắp diễn ra (Sa 35:1-3).
Thậm chí Na-ô-mi còn khuyên Ru-tơ hãy có những hành động cử chỉ như một cô dâu
đang sửa soạn cho đám cưới của mình vậy (Xu 16:9-12).
Nếu chúng ta muốn bước vào trong mối tương giao mật thiết hơn
với Chúa chúng ta, thì chúng ta phải “làm cho
mình sạch khỏi mọi sự dơ bẩn phần xác thịt và phần thần linh, lại lấy sự kính
sợ Đức Chúa Trời mà làm cho trọn việc nên thánh của chúng ta” (IICo 7:1 NKJV). Hễ khi nào phạm tội, chúng ta hãy
cầu nguyện rằng: “Xin Chúa rửa sạch con”
(Thi 51:2,7) nhưng cũng có lúc Đức Chúa Trời bảo chúng ta: “Con hãy tự mình rửa đi, hãy tự mình làm cho sạch”
(Es 1:16 NKJV). Khi chúng ta tìm kiếm sự tha
thứ, Đức Chúa Trời sẽ rửa sạch tội lỗi chúng ta theo như Kinh Thánh đã nói (IGi 1:9); nhưng Chúa sẽ không làm cho chúng ta
những việc mà chúng ta bắt buộc phải tự mình làm lấy. Chỉ có chúng ta mới có
thể loại ra khỏi đời sống chúng ta được những thứ có khả năng làm ô uế chúng
ta, và chúng ta biết đó là những thứ gì.
Có thể nó có nghĩa là hãy loại bỏ chúng ra khỏi tủ sách (Cong 19:18,20), khỏi hộp băng cassette hoặc hộp đĩa CD của
chúng ta, ra khỏi giá để sách báo, hoặc có lẽ ra khỏi cả chương trình xem ti vi
của chúng ta nữa. Chúng ta phải biệt riêng chính chúng ta ra khỏi bất cứ điều
gì làm ô uế chúng ta và làm buồn lòng Cha (IICo
6:14-7:1 Gia 4:7-8).
Nếu các thầy tế lễ thời Cựu Ước đã
bị ô uế mà còn bước vào trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời, thì chắc chắn họ
sẽ có nguy cơ bị giết chết (Xu 30:17-21).
Dân Do Thái biết rõ họ phải thánh khiết thì họ mới được đến thờ phượng Chúa (Thi 15:1-1-5 24:1-6);
Còn Cơ Đốc nhân ngày nay thì thường vội vàng chạy đến ra mắt Chúa nhưng không
tự làm sạch tội lỗi của mình trước, cho nên tội lỗi họ sẽ cướp đi các phước
hạnh mà Chúa đã dành ban cho họ. Có phải chăng chúng ta thường thờ phượng Chúa
chỉ như thực hiện một thủ tục lễ nghi trống rỗng
chiếu lệ mà thôi, cho nên quyền năng của Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ tuôn đổ
trên các buổi nhóm của chúng ta?
Bước chuẩn bị kế tiếp
của Ru-tơ là, bà đã tự xức dầu
cho mình thật thơm tho (Ru 3:3): Người phương Đông thường hay dùng dầu
thơm phưng phức để bảo vệ và chữa bệnh cho thân thể, đồng thời sẽ làm cho người
khác cảm thấy dễ chịu. Một cô dâu sẽ đặc biệt quan tâm đến việc tẩm dầu thơm
ngát lên thân thể mình khiến nàng trở nên “hấp dẫn cao độ” (Nha 1:3,12-14 4:11-16).
Việc xức dầu nói lên sự hiện diện và
sự hành động của Đức Thánh Linh trên đời sống chúng ta. Tất cả những ai tin
Chúa đều được Đức Thánh Linh xức dầu cho (IGi 2:20,27), và do đó
chúng ta hãy là “mùi thơm của Đấng Christ” dâng lên cho Cha Thiên Thượng (IICo 2:15). Càng yêu mến bản chất tính cách của
Chúa Cứu Thế Giê-xu, chúng ta lại càng làm hài lòng Cha Thánh của chúng ta; hễ
chúng ta càng làm đẹp lòng Ngài, thì Ngài lại càng
ban phước cho chúng ta nhiều hơn và dùng chúng ta làm vinh hiển Ngài.
Có lần tôi nghe tiến sĩ
Tozer nói rằng: “Giả định Đức Chúa Trời đem Đức Thánh Linh ra khỏi thế giới
này, thì phần lớn những công việc mà Hội Thánh Chúa đang làm ắt vẫn cứ tiếp tục
ngay; và có lẽ sẽ không ai nhận ra được có điều khác thường này”. Hội Thánh
ngày nay của chúng ta có quá dồi dào nguồn nhân lực mà chúng ta có thể sử dụng
để “hầu việc Chúa” mà không cần đến sự
xức dầu của Đức Thánh Linh hành động trên đời sống chúng ta nữa. Nhưng Đức Chúa
Trời có muốn như vậy không? Khi còn tại thế, Chúa Giê-xu đã sống đời sống và
hành động thông qua việc xức dầu của Đức Thánh Linh (Lu
4:16-19). Đến cả Con Trai không tì vết của Thượng Đế mà vẫn cần đến
quyền năng của Đức Thánh Linh như vậy, thì chúng ta lại càng phải cần đến quyền
năng ấy biết chừng nào! Chúng ta có dám cầu nguyện bằng sức lực của thể xác
trong khi Đức Thánh Linh đang hiện diện để giúp đỡ chúng ta không? (Ro 8:26 Eph 2:18).
Chúng ta có ra sức làm chứng cho Đấng Christ mà không cần cầu xin Đức Thánh
Linh phù hộ cho chúng ta không? (Cong 1:8).
Chúng ta có thể nào kết giao với Chúa qua Lời Ngài nhưng lại xa rời công việc
của Thần Linh Ngài? (Eph 1:15-23 3:14-21).
Hành động chuẩn bị thứ
ba của Ru-tơ là thay quần áo (Ru 3:3c): Nàng cởi bỏ áo choàng ngoài ra là thứ trang phục mà những
góa phụ đang có nỗi niềm sầu đau thường mặc, sau đó nàng diện vào một
tấm áo cưới dành cho cô dâu (Es 61:1-3). Có
lẽ Ru-tơ không có tủ quần áo lớn nào cả, nhưng chắc chắn nàng có một cái áo
choàng ngoài rất đẹp và rất đặc biệt để nàng mặc vào những dịp lễ hội. Na-ô-mi
tin quyết rằng rồi đây Ru-tơ sẽ sớm có một đám cưới!
Trong Kinh Thánh, mỗi loại trang
phục đều có mang ý nghĩa thuộc linh nào đó. Sau khi phạm tội chống nghịch Đức
Chúa Trời, hai vị cha mẹ tổ tiên đầu tiên của chúng ta đã cố che lại thân thể
họ; nhưng chỉ có Thiên Chúa mới có thể tha thứ họ và chấp nhận cho họ mặc quần
áo vào, Ngài đã phải đổ huyết mình ra để thực hiện điều đó (Sa 3:1-8,21). Các thầy tế lễ Do Thái thường mặc những chiếc
áo choàng dài mà những ai không phải là thầy tế lễ thì không được phép mặc như
vậy (Xu 28:1-43). Sự cứu rỗi được mô tả như
là sự thay đổi trang phục vậy (Lu 15:22 Es 61:10), và đời sống Cơ Đốc nhân có nghĩa là
phải cởi bỏ “quần áo tang” của đời sống cũ đi và hãy mặc lấy “áo xống của ân
điển” dành cho đời sống mới (Co 3:1-17 Gi 11:44).
Chúng ta không thể bước vào trong sự
hiện diện của Chúa bằng sự công bình của cá nhân chúng ta, bởi vì “mọi sự công
bình của chúng ta trước mặt Chúa chỉ là những áo nhớp” mà thôi (Es 64:6 KJV). chúng ta có thể đến với Ngài trong
sự công bình của Chúa Cứu Thế Giê-xu (IICo 5:21),
vì “chúng ta được Chúa chấp nhận cách vô điều kiện trong Con Yêu Dấu của Ngài”
( Eph 1:6 KJV). Nếu chúng ta làm theo ý chỉ
của Chúa và hết lòng làm đẹp lòng Ngài, thì áo xống của chúng ta sẽ trắng phau
(Kh 19:8); còn nếu chúng ta phạm tội, thì
chúng ta phải xưng tội mình ra với Chúa và cầu xin Ngài làm sạch tội lỗi chúng
ta (Xa 3:1-10). Hễ bạn muốn bước vào trong
mối tương giao mật thiết hơn với Chúa chúng ta, thì hãy “Khá hằng mặc áo
trắng, chớ thiếu dầu thơm trên đầu ngươi” (Tr
9:8 KJV).
Ru-tơ tiếp tục lo sửa
soạn chính mình để gặp gỡ Bô-ô bằng cách học hỏi xem nàng sẽ tự ra mắt ông ta theo cách như thế nào (Ru 3:3-4): Xem ra thì những hành vi này của Ru-tơ
không có gì là không phải phép cả, bởi lẽ đây là cách duy nhất để Ru-tơ tự dâng
chính mình cho người bà con gần kia là người có quyền chuộc lại nàng. Nàng phải
đặt mình tại chân của ông chủ mùa gặt, còn ông ta
chắc chắn sẽ làm nốt phần việc còn lại của mình.
Giả định trên đường đi
tới sân đạp lúa, Ru-tơ quyết định thực hiện cách tiếp cận khác. Tại sao mình
lại phải nằm ngay dưới chân của người mà mình muốn kết hôn như vậy? Tại sao
mình phải dở vạt áo choàng ngoài của ông ấy để hở chân ông ta ra, rồi sau đó
lại xin ông ta đắp phần áo đó lên người mình? Chắc chắn sẽ còn có cách khác tốt
hơn chứ! Nếu Ru-tơ dùng cách tiếp cận khác, có lẽ nàng sẽ bị Bô-ô từ chối; và
như thế thì toàn bộ công trình chuẩn bị của nàng sẽ trở nên công cốc.
Các thầy tế lễ thời Cựu
Ước biết rõ cách nào để đến gần Đức Chúa Trời bởi vì Ngài đã ban cho họ những
lời chỉ dẫn trong Luật Pháp. Cơ Đốc nhân thời Tân Ước cũng biết rõ làm cách nào
để có thể đến gần Chúa bởi lẽ trong Lời Ngài, Ngài có chỉ dạy chúng ta cả rồi.
Mỗi khi chúng ta tương giao riêng tư với Chúa hoặc giữa nơi thờ phượng chung,
chúng ta không có quyền sửa đổi các nguyên tắc đến gần Ngài mà Ngài đã ấn định.
Trong thời gian thi hành
chức vụ suốt một tuần lễ gần Springfield, thì Illinois vợ tôi và tôi quyết định
đến thăm nhà Tổng thống Ápraham Lincoln. Để vào được trong tòa nhà ấy, mỗi
người trong chúng tôi phải có một tấm vé và chỉ được sử dụng vào đó một lần.
Chúng ta bắt buộc phải đi theo nhân viên hướng dẫn và không được đi sai tuyến
của chuyến đi thăm đó. Còn một điều nữa, chúng tôi phải nhả bỏ kẹo sing-gum
đang nhai trong miệng vào thùng rác để ở bên
ngoài tòa nhà! Nếu chúng ta muốn đến thăm nhà ngài Lincoln, thì chúng ta phải
tuân theo những luật lệ như thế.
Tương tự Người Con Trai Hoang Đàng (Lu 15:11-24), những kẻ tội lỗi hư mất có thể đến
với Thượng Đế nếu họ muốn. Ngài sẽ đón nhận họ và biến đổi họ. Nhưng con cái
Chúa phải “thi hành các luật lệ” của Ngài nếu họ muốn tương giao với Cha mình (He 10:19-25). Khi dân sự Đức Chúa Trời nhóm họp
thờ phượng Chúa, chúng ta phải “lấy tâm thần và lẽ thật” mà thờ phượng Ngài
cách cẩn thận (Gi 4:24), tuân theo các
nguyên tắc đã được Chúa ban trong Kinh Thánh. Khi đến
thờ phượng Chúa, thường thì người ta hay làm những việc mà họ cho là đúng và họ
hay dùng những nổ lực đầu tư của con người thay thế cho những sự giáo huấn
thánh của Chúa.
Cuối cùng, Ru-tơ hứa vâng lời (Ru 3:5): “Mọi điều
mẹ đã nói với con, con sẽ làm” (NKJV). Nàng không chỉ là người chỉ
biết nghe Lời Chúa mà còn là người làm theo Lời Ngài. Sự sẵn lòng vâng theo
Chúa là bí quyết để nhận biết được ý Ngài muốn chúng ta làm gì và Chúa sẽ chúc
phước cho chúng ta thực hiện những điều đó. “Nếu
ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo lý ta” (Gi 7:17 bản dịch theo nguyên văn). Ý Chúa không
phải là quán ăn tự phục vụ, là nơi chúng ta có thể nhặt lên và chọn lấy cho
mình những món chúng ta thích. Đức Chúa Trời đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận
tất cả những gì Ngài đã hoạch định cho chúng ta và chúng ta phải tuyệt đối vâng
theo Ngài. Nếu chúng ta đến với Chúa bằng tấm lòng dè
dặt và che giấu nhiều thứ thì việc ấy chỉ dẫn chúng ta đến chỗ làm buồn lòng
Đức Thánh Linh mà thôi và khiến chúng ta bỏ lỡ những điều tốt đẹp nhất của Đức
Chúa Trời vốn dành sẵn cho chúng ta.
2. Ru-tơ đầu phục Bô-ô (Ru 3:6-9)
Mùa gặt là thời gian vui vẻ đặc biệt đối với người Do Thái (Es 9:3 16:10),
là mùa Đức Chúa Trời lấy làm vui thích. “Giê-hô-va
Đức Chúa Trời ngươi sẽ ban phước cho các mùa màng và mọi công việc của tay
ngươi rồi ngươi sẽ vui mừng trọn vẹn” (Phu
16:15). Hầu hết thiên hạ ngày nay đều sống xa rời những nguồn lương thực
nuôi sống họ hằng ngày và họ không nhận biết những gì có liên quan đến việc tạo
ra thức ăn cho họ. Có lẽ những lời cầu nguyện tại bàn ăn của chúng ta chan chứa
niềm vui mừng với tinh thần biết ơn Chúa nhiều hơn nếu chúng ta nhận biết tất
cả những gì chúng ta có được để ăn lúc này đây đều nhờ người nông phu nào đó đã
phải làm lụng khó nhọc để giúp chúng ta giữ lại sự sống mình.
Công việc gặt lúa và đập lúa là
những công việc phải được làm phối hợp với nhau. Cánh đàn ông trong làng sẽ
thay phiên nhau đến làm việc ở sân đạp lúa, đó là một cái sân được người ta đắp
cao lên có bề mặt bằng phẳng nằm bên ngoài làng và thường là ở trên một ngọn
đồi nào đó để nó có thể hứng được gió đêm. Các nam nhân công sẽ đem lúa đã bó
thành từng bó đến để trên sân rồi họ cho bò đi tới đi lui dẫm lên trên các bó
lúa ấy làm rời hạt lúa ra khỏi cọng rơm (Phu 25:4)
hoặc họ sẽ đập vào bó lúa cho hạt lúa rụng ra (Ru
2:17). Sau khi đập giũ lúa xong, nhân công sẽ giê lúa; gió thổi bay đi
những hạt lúa lép với rơm rạ, và phần lúa chắc sẽ còn lại trên sân. Lúa này
được người ta đổ dồn thành đống, sau đó mang đi chợ bán hoặc đem vào cất trong
kho. Nhân công ở đây thường làm việc vào ban đêm là lúc có nhiều gió thổi đến,
và họ sẽ phải ngủ lại tại sân đạp lúa đó để giữ lúa.
Trong chương này có đề cập đến bàn
chân bốn lần (3:4,7-8,14). Ru-tơ đã sấp mình phủ phục dưới chân Bô-ô để
đáp lại những lời nói đầy ơn của ông (2:10),
nhưng giờ đây nàng đang đến chỗ chân ông để cầu hôn. Nàng đề nghị ông làm theo
luật lệ về người bà con gần có quyền chuộc lại sản nghiệp và hãy lấy nàng làm
vợ.
Có lẽ chúng ta thắc mắc: “Tại sao
Ru-tơ lại không đợi Bô-ô ngỏ lời cầu hôn nàng trước mới phải chứ?” Lời ông ta
nói trong 3:10 cho chúng ta biết vì lý do
thứ nhất sau: Ông hoàn toàn ngỡ rằng Ru-tơ chắc sẽ kết hôn với một ai đó trong
số những người đàn ông còn độc thân ở Bết-lê-hem. Còn Bô-ô thì đã già rồi,
trong khi Ru-tơ lại còn quá trẻ đối với ông (4:12).
Rõ ràng ông cứ kể như mình không còn có cơ hội thắng nữa. Nhưng lý do quan
trọng nhất đã được nói đến trong 3:12 rằng:
Còn có một người bà con khác gần hơn ông đang ở trong thị trấn đó có quyền ưu
tiên chuộc lại Ru-tơ và sản nghiệp của gia đình nàng, và Bô-ô đang có ý nấn ná
chờ đợi người kia hành động. Ru-tơ muốn thúc tiến nhanh vấn đề này, cho nên giờ
đây Bô-ô có thể đến gặp người đàn ông ấy đề nghị ông ta quyết định.
“Cuộc sống thường đầy dẫy những hành
vi nhận thức rất mất lịch sự!”, có một chú chó trong một bộ phim hoạt hình nổi
tiếng thường thích thốt lên như vậy, và đối với tính cách mà Kinh Thánh đòi hỏi
thì điều đó lại càng đúng hơn nữa. A-đam đi ngủ và khi thức dậy ông khám phá ra
rằng mình vừa trải qua cuộc phẫu thuật khiến ông giờ đây đã biến thành một
người đàn ông thực thụ. Gia-cốp tỉnh giấc thì phát hiện ra mình đã kết hôn nhầm
với một người nữ! Còn Bô-ô thức giấc lúc nửa đêm thì ông chợt nhìn thấy có một
người đàn bà đang nằm dưới chân mình.
Khi ông hỏi nàng là ai, Ru-tơ đáp
rằng nàng là Ru-tơ; nhưng nàng không tự nhận mình là “người nữ Mô-áp”. Giờ đây
nàng trở thành “người hầu gái” của Bô-ô. Nàng đang bước vào thực hiện một sự
khởi đầu mới. Bạn sẽ tìm thấy tên Ru-tơ được dùng 12 lần trong quyển sách nhỏ
này, và được dùng 5 lần chỉ rõ nàng là người Mô-áp (1:22
2:2,21 4:5,10).
Nếu bạn trải vạt áo choàng ngoài của
mình ra đắp lên người ai đó thì có nghĩa là bạn tuyên bố rằng người ấy đã thuộc
về bạn (Exo 16:8 IVua
19:19), đặc biệt là trong hôn nhân. Từ được dịch là “vạt áo” đó còn có
nghĩa nữa là “cánh”. Ru-tơ đã đến nấp dưới cánh của Đức Giê-hô-va (Ru 2:12); và giờ đây nàng đang ẩn mình dưới cánh của Bô-ô, là người chồng yêu quý của
nàng. Một bức tranh hôn nhân thật đẹp đẽ biết bao!
3. Ru-tơ lắng nghe Bô-ô (Ru 3:10-14)
Qua những việc Bô-ô đối
đãi với Ru-tơ, chúng ta thấy được cái cách mà Đức Chúa Trời cũng đã dùng đối
đãi với chúng ta như vậy khi chúng ta tìm kiếm sự tương giao mật thiết sâu
nhiệm hơn với Ngài. Tương tự Bô-ô nói với Ru-tơ, Đức Chúa Trời cũng thường nói
với chúng ta qua Lời Ngài.
Ngài chấp nhận chúng
ta (Ru 3:8-10): Bô-ô có thể từ chối không làm bất cứ
điều gì cho Ru-tơ cả; nhưng bởi tình yêu ông dành cho nàng, cho nên ông đã chấp
nhận nàng. Thậm chí ông gọi nàng là “Hỡi con gái ta!” (2:8)
và công khai chúc phước cho nàng (Eph 1:3).
Cha Thiên Thượng của chúng ta và Đấng Cứu Chuộc chúng ta vẫn thường luôn tìm
kiếm mối tương giao gần gũi với chúng ta hơn, và chúng ta không phải sợ hãi khi
đến gần nhận hưởng tình yêu thương của Ngài (Gi
14:21-24 Gia 4:7-8). Nếu chúng ta
nhận biết được tình yêu thương vĩ đại của Đấng Cứu Chuộc dành cho chúng ta thể
hiển qua cách thức nào đó thậm chí không đáng chú ý gì mấy, thì chắc chắn chúng
ta sẽ từ bỏ được mọi thứ khác và vui mừng trong mối
tương giao với Ngài.
Ngài bảo đảm với chúng
ta (Ru 3:11-13):
Lúc nửa đêm tối tăm, Ru-tơ không tài
nào nhìn thấy được khuôn mặt của Bô-ô, nhưng nàng có nghe giọng nói của ông; và
giọng nói đó đang nói với nàng những lời bảo đảm đầy yêu thương: “Chớ sợ chi!”.
Chúng ta có sự bảo đảm không phải ở những cảm
xúc hay ở những hoàn cảnh của chúng ta mà là ở trong Lời Ngài. Hỡi những người con thánh thiện của Chúa, hãy đặt đức
tin mình nơi Lời tuyệt diệu của Ngài, vì đó là nền tảng vững chắc biết bao!
Trong Cuộc Nổi Dậy Của Nghĩa Hòa
Đoàn xảy ra ở Trung Quốc (1900-1901), khi các công nhân với Hội Truyền Giáo
Trung Hoa đang phải trải qua những nỗi khốn khổ cùng cực, thì James Hudson
Taylor nhà sáng lập Hội, là người sau đó đã qua đời ở tuổi thất tuần, từng nói
với các đồng sự của mình rằng: “Tôi không biết đọc, tôi không biết suy nghĩ,
thậm chí tôi không thể cầu nguyện, nhưng tôi có thể tin cậy Chúa”. “Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta
nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng” (Ro 10:17 NKJV).
“Chớ sợ chi!” là lời bảo đảm mà Đức
Chúa Trời đã ban cho rất nhiều người trong số các đầy tớ Ngài như: Áp-ra-ham (Sa 15:1), I-sác (26:24),
Gia-cốp (46:3), Môi-se và dân tộc Y-sơ-ra-ên
(Xu 14:13), Giô-sua (Gios 8:1 10:8), vua
Giô-sa-phát (IISu 20:17), những người Do
Thái sống sót sau cuộc lưu đày trở về quê hương mình (Es
41:10,13-14
43:1,5 44:2), tiên
tri Ê-xê-chi-ên (Exe 3:9), tiên tri Đa-ni-ên
(Da 10:12,19), Giô-sép (Mat 1:20),
Xa-cha-ri (Lu 1:13), Ma-ry (1:30), những kẻ chăn chiên (2:10), Phao-lô (Cong
27:24), và sứ đồ Giăng (Kh 1:17). Bạn
và tôi có thể nói với những người có đời sống thuộc linh phi thường này rằng: “Thượng Đế là Đấng giúp đỡ tôi; tôi sẽ không sợ chi!”
(He 13:6 NKJV).
Bô-ô không những làm cho Ru-tơ hết
sợ hãi, mà ông còn hứa với nàng về một tương lai có liên quan đến nàng: “Ta sẽ làm cho nàng mọi điều nàng sẽ nói” (Ru 3:11 NKJV). Bất kể điều gì do Chúa khởi nên,
thì Ngài sẽ cho kết thúc; và khi Ngài làm việc gì thì Ngài sẽ làm trọn mới thôi
(Phi 1:6 Mac
7:37). Đúng là Ru-tơ không bắt buộc tự mình phải làm cho mình những điều
mà chỉ có Bô-ô mới có thể làm.
Cái điều mà đối với Na-ô-mi dường
như là đơn giản thì giờ đây hóa ra hơi rắc rối một chút, bởi vì còn có một
người đàn ông khác cũng là bà con gần hơn đang ở Bết-lê-hem. Bô-ô không thoái
thác vấn đề này với Ru-tơ, vì ông không muốn nàng trở về nhà với những sự thất
vọng trong lòng. Có được vui mừng và bình an không phải là không biết gì đến
những sự kiện có thật đang diễn ra nhưng đó không phải là những ảo tưởng dẫn
đến sự thất vọng, ngã lòng. Mối quan tâm lớn nhất của Bô-ô lúc này là việc
chuộc lại cho được Ru-tơ, dù là người bà con gần có quyền chuộc lại kia làm
điều đó cũng được.
Khi bạn xem bức tranh mô tả sự cứu
chuộc chúng ta trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, chắc chắn bạn sẽ có ấn tượng mạnh mẽ
nhất rằng Đức Chúa Trời đã tuân giữ Luật Pháp
Ngài khi Ngài thực hiện xong sự cứu rỗi chúng ta qua Đấng Christ. Luật Pháp Ngài nói thế này: “Linh hồn nào phạm tội thì linh hồn đó sẽ chết”
(Exe 18:4 NKJV), và Thượng Đế đã không tìm
cách khác để né tránh luật định này. “Ngài đã
không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho”
(Ro 8:32). Dĩ nhiên, sẽ không có “một người
bà con gần” nào nữa có thể cứu chuộc được thế gian hư mất này. “Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác vì ở dưới trời,
chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu”
(Cong 4:12 KJV).
4. Ru-tơ nhận lãnh ân huệ của Bô-ô (Ru 3:15-17)
Trong những ngày đi mót
lúa, Ru-tơ được Bô-ô đối đãi rất tử tế, rời rộng. Nhân công của ông để cho nàng
đi sau lưng các con gặt mà mót; họ bảo vệ nàng không
bị ai quấy rầy, hiếp đáp; họ cố tình làm rơi lúa cho nàng lượm. Bô-ô san sẻ
phần ăn trưa của mình cho nàng, thậm chí ông còn tận tay trao cho nàng những
hạt ngũ cốc rang (Ru 2:14). Ngay từ ngày đầu
đi mót, Ru-tơ đã mang về nhà được hơn nửa giạ lúa đủ nuôi sống hai mẹ con nàng
hơn hai tuần lễ.
Bô-ô không những giúp nàng bớt sợ
hãi mà còn ban cho nàng một sự đảm bảo về tương lai, đồng thời, với lòng thương
yêu ban cho vô điều kiện,ông cũng chu cấp cho nàng rất rời rộng những nhu cầu
nàng cần ngay trong hiện tại. Nàng không mở miệng xin xỏ gì cả, nhưng ông đã
cho nàng lúa bởi vì ông thương yêu nàng. Ông sắp cưới nàng, cho nên ông không
muốn cô dâu tương lai của ông phải mót lúa trên đồng giống như những người lao
động nghèo khổ khác.
Câu hỏi của Na-ô-mi trong 3:16 đã làm bối rối các dịch giả và những người
thông dịch. Tại sao chính mẹ chồng Ru-tơ lại đi hỏi nàng rằng nàng là ai? Bản
dịch của Kinh Thánh Hằng Sống (The
Living Bible) thì dịch câu hỏi này như sau: “Ồ! Có chuyện gì xảy ra vậy, con
yêu?” và cả hai bản dịch NIV với NASB đều dịch thế này: “ Con gái của ta ơi!
Hôm nay con đi mót thế nào hả?”, Còn bản Kinh
Thánh nhuận chánh (Authorized Version King James) thì dịch câu ấy
sát nghĩa theo cổ bản Hê-bơ-rơ: “ Hỡi con gái ta! Con là ai?”. Nói cách khác
là: “ Có phải con vẫn là Ru-tơ người nữ Mô-áp chăng, hoặc con là phu nhân Bô-ô tương lai phải không?”
Ru-tơ ghi nhớ những lời Bô-ô nói
những lần trước đó (2:19-21); và nàng thuật
lại cho Na-ô-mi nghe Bô-ô đã hứa với nàng những gì. Sau đó Ru-tơ đưa cho
Na-ô-mi thấy món quà rời rộng mà Bô-ô đã ban cho họ. Hễ có người đàn ông nào
gởi biếu mẹ vợ tương lai của mình món quà gì đó thật hào phóng thì chắc chắn
người đó sẽ được ưu ái chọn làm người chồng!
Na-ô-mi không còn nói rằng bà ta là
người trắng tay nữa (1:21). Giờ đây, họ đã
được no đủ bởi ân huệ của người bà con gần có quyền chuộc lại sản nghiệp kia.
Đức tin và sự vâng lời của Ru-tơ đã làm cho đời sống họ được biến đổi hoàn toàn, và họ đang sống đời sống nhờ ân điển.
5. Ru-tơ chờ Bô-ô hành động (Ru 3:18)
Đúng là “bởi
đức tin và lòng nhịn nhục” mà chúng ta được hưởng lời hứa (He 6:12 10:36).
Vì Na-ô-mi và Ru-tơ tin rằng Bô-ô sẽ hoàn thành ý nguyện mà ông đã nói là ông
sẽ làm, cho nên họ kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi họ nhận được tin tức tốt lành
là Ru-tơ sẽ thành cô dâu. “Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va, Và
nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành việc ấy” (Thi
37:5).
Tôi xin thú thật chờ đợi là một
trong những việc khó nhất đối với tôi, dù là ngồi chờ ngay bàn ăn tại nhà hàng
nào đó hay chờ chuyến bay đã bị hoãn lại không cất cánh. tôi là người hoạt động
xã hội theo bản năng tự nhiên, và tôi thích nhìn thấy mọi việc xảy ra đúng lúc.
Có lẽ đó là lý do tại sao Chúa lại hay bắt tôi phải chờ đợi. Trong những lúc
chờ đợi đó, tôi thường được ba cụm từ trong Kinh Thánh khích lệ động viên tôi,
đó là : “Hãy ở đây!” (Ru 3:18 KJV), “Hãy ở
đó!” (Xu 14:13 KJV), và “Hãy ở yên lặng!” (Thi 46:19 KJV).
“Hãy ở đây!” là lời Na-ô-mi khuyên Ru-tơ, một lời khuyên thật khôn ngoan. Ru-tơ
ắt sẽ không đạt được gì nếu nàng cứ theo Bô-ô đi đây đó khắp Bết-lê-hem và ra
sức thúc ép ông ta phải giữ lời hứa của mình. “Các ngươi sẽ được sức mạnh, là tại yên lặng và trông cậy”
(Es 30:15 KJV). Bản
tính tự nhiên của con người chúng ta là hay nóng nảy và chỉ muốn bươn qua tình
huống khó khăn nào đó trước cả Chúa; nhưng khi chúng ta càng ra sức xoay trở
thì chúng ta lại càng làm cho vụ việc trở nên tồi tệ hơn mà thôi.
“Hãy ở đó!” là mạng lệnh của Môi-se truyền cho dân
Y-sơ-ra-ên khi quân đội Ê-díp-tô đang truy sát phía sau họ. Họ không cần phải
hốt hoảng vì Đức Chúa Trời đã nắm chắc tình huống này trong tay. Sau đó, Chúa
truyền bảo dân sự “Cứ
đi tới!” (Xu 14:15), và
Ngài đã đưa dẫn họ vượt ngang qua biển một cách an toàn. Có thời kỳ dừng lại ở
yên vị trí mình và có thời xuất hành, cho nên chúng ta cần luôn tỉnh thức cảnh
giác để nhận biết lúc nào thì Chúa muốn chúng ta làm gì.
“Hãy yên lặng và
biết rằng ta là Đức Chúa Trời” (Thi 46:10 KJV) là một phương thuốc giải độc thần
diệu dành cho tinh thần bồn chồn không yên. Tiếng Hê-bơ-rơ dịch cụm từ “hãy yên
lặng” này ra nghĩa là “hãy thả lỏng hai tay và thư giản!”. Chúng ta rất thường
thiếu kiên nhẫn đối với Chúa và cứ thế lao vào can thiệp những vấn đề mà đáng
lý ra chúng ta không nên can dự đến. Ngài là Đức Chúa Trời, và Ngài có thể ra
tay làm được những việc không thể. Còn khi chúng ta ra tay thì có lẽ chỉ tổ gây
trở ngại thêm và khiến cho sự việc trở nên tồi tệ hơn mà thôi.
Bô-ô đang bận rộn hành động vì
Ru-tơ, và Na-ô-mi tin quyết rằng ông ta sẽ không bỏ cuộc cho đến chừng nào ông
giải quyết xong vấn đề. “Tôi tin chắc rằng Đấng
đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Đức Chúa Jêsus Christ”
(Phil 1:6 KJV). Lời này khích lệ lòng tôi
nhận biết rằng Chúa Cứu Thế Giê-xu đang làm việc không mệt mỏi vì cớ dân
sự Ngài đó là Ngài hiện ở trên trời đang luôn cầu thay cho chúng ta (He 8:34), và Ngài đang hành động trong chúng ta, khiến chúng ta làm thành ý
muốn trọn vẹn của Ngài (13:20-21 Phi 2:12-13).
Bạn có đang sấp mình
dưới chân của Ông Chủ Mùa Gặt không? Và bạn có tin Ngài đang hành động không?
Chứng cớ về lòng tin cậy
nơi Chúa của bạn chính là bạn hãy sẵn lòng ở yên đó và cứ để Ngài hành động
theo cách của Ngài.
4. TÌNH YÊU TÌM RA LỐI ĐI (Ru 4:1-22)
(Trong phần này, Bô-ô và
Ru-tơ cưới nhau, Na-ô-mi cảm thấy tâm hồn trống trải cô đơn của mình giờ đây
tràn ngập niềm vui, đôi bàn tay trống rỗng của bà đã được lấp đầy bằng một em
bé trai).
Sách Ru-tơ mở ra với ba đám tang nhưng khép lại bằng một đám cưới.
Trong phân đoạn Kinh Thánh đầu chứa đựng rất nhiều tiếng khóc than, nhưng ở
chương Kinh Thánh cuối đã ký thuật lại có một niềm vui vô bờ bến tại thị trấn
Bết-lê-hem bé nhỏ kia. “Sự khóc lóc đến trọ ban
đêm, Nhưng buổi sáng bèn có sự vui mừng” (Thi
30:5 KJV). Không phải tất cả mọi câu chuyện trong cuộc sống đều có kết
thúc vui vẻ hạnh phúc như vậy; nhưng quyển sách nhỏ này nhắc nhở chúng ta rằng
đối với Cơ Đốc nhân, thì Đức Chúa Trời vẫn đang
tiếp tục viết chương sách cuối cùng. Chúng ta không phải lo sợ cho
tương lai của mình.
Phân đoạn Kinh Thánh này
tập trung vào 3 nhân vật: Chàng rể, cô dâu và một em bé.
1. Chàng rể (Ru 4:1-10)
Luật về người bà con gần
có quyền chuộc lại sản nghiệp được Kinh Thánh nêu lên trong Le 25:23-34 còn
luật về hôn nhân chắp nối để nối dõi tông đường cơ bản được kể đến trong Phu 25:5-10. Mục đích hai luật này là nhằm bảo
tồn, duy trì danh các gia đình và bảo vệ sản nghiệp của họ trong Y-sơ-ra-ên.
Đức Chúa Trời là Chủ mọi đất đai và Ngài không muốn bọn người giàu lợi dụng đất
ấy của Ngài để bóc lột người nghèo với người góa bụa. Khi được áp dụng, những
luật này đảm bảo rằng danh của gia đình có người qua đời sẽ không bị mai một
theo người đã khuất đó và sản nghiệp của anh ta sẽ không bị bán sang, chuyển
nhượng ra bên ngoài bộ lạc hoặc thị tộc mình. Nhưng thường xảy ra bi kịch ở đây
là không phải lúc nào các nhà cầm quyền Do Thái cũng thi hành đúng luật này, và
nhiều nhà tiên tri đã lên án họ là những kẻ cướp đất của người nghèo bơ vơ, đơn
thương độc mã (IVua 21:1-29 Es 5:8-10 Ha 2:9-12).
Sự lạm dụng đất đai của dân tộc là nguyên nhân đưa họ đến với Cuộc Lưu Đày (IISu 36:21).
Ý nghĩa của sự chuộc
lại: Từ “chuộc lại” nghĩa
là “giải phóng bằng một giá phải trả”. Trong trường hợp của Ru-tơ và Na-ô-mi,
Sản nghiệp của Ê-li-mê-léc có lẽ hoặc đã bị bán đi hay bị đem cầm cố, thế chấp
dưới những hình thức nào đó, và các quyền đối với đất đai đó đã được chuyển
sang cho Mạc-lôn chồng của Ru-tơ khi Ê-li-mê-léc qua đời. Điều này giải thích
lý do tại sao Ru-tơ vẫn còn bị dính líu đến việc giao dịch này. Tuy nhiên, nàng
lại quá nghèo khổ cho nên không chuộc lại nổi đất ấy.
Khi đến với sự cứu chuộc về tâm
linh, tất cả mọi người đều đang ở trong xiềng xích của lỗi với Sa-tan (Eph 2:1-3 Gi 8:33-34),
và họ không có khả năng tự giải phóng mình. Chúa Cứu Thế Giê-xu đã hy sinh
chính mạng sống Ngài để làm giá chuộc cho mọi tội nhân (Mac 10:45 Kh 5:9-10), và nhờ
đức tin họ đặt nơi Ngài họ sẽ được giải thoát khỏi kiếp phu tù, nô lệ.
Mỗi lần tôi đi hiệu sách, tôi thường
cố tìm xem những cuốn sách có tiêu đề đang được người ta chú ý đến nhiều; và
trong những năm gần đây, đề tài chính của nhiều sách là sự cứu nguy. Tôi
tìm ở các kệ sách có sách nói về bệnh nghiện ma tuý, sự nô lệ cho ma túy và làm
cách nào để thoát khỏi điều đó. Trong một thế giới mà người ta chỉ lo chú trọng
đến việc tìm hưởng niềm vui được tự do về chính trị hơn bất kỳ thứ gì khác mà
thôi, do đó đang có hàng triệu người hiện phải nô lệ cho sự ăn uống, tình dục,
ma tuý, rượu mạnh, bài bạc, công việc, cùng với hàng lô hàng lốc những “ông
chủ” khác nữa. Trong khi chúng ta xin Chúa ban cho sự giúp đỡ từ các nhà tư vấn
và các bác sĩ chuyên khoa, thì chỉ có Chúa Cứu Thế Giê-xu là Đấng duy nhất có
khả năng đem lại sự tự do cho những ai đang bị nô lệ. “Vậy nếu Con buông tha các ngươi, các ngươi sẽ thật được
tự do” (Gi 8:36 NKJV).
Tiêu chuẩn của người
chuộc: Không phải ai
cũng đều có thể thực hiện đủ bổn phận của người bà con gần có quyền chuộc lại
sản nghiệp. Trước hết, người đó bắt buộc phải là
người có bà con gần (Le 25:25). Đây là trở ngại chính đối với Bô-ô mà
ông phải vượt qua bởi vì còn có một người khác ở Bết-lê-hem có quan hệ bà con
gần với Ru-tơ hơn cả ông (Ru 3:12-13). Khi
bạn xem điều này như là hình bóng về Chúa Cứu Thế Giê-xu, thì nó sẽ nhắc nhở
bạn rằng Ngài phải trở nên bà con gần
với chúng ta thì Ngài mới chuộc chúng ta được. Ngài trở nên xác thịt và huyết
để Ngài có thể chết thế cho chúng ta trên cậy thập hình (He 2:14-15). Khi Ngài được sinh ra ở thế gian này
trong hình hài xác thịt của một con người, Ngài đã trở thành “người có bà con
gần” của chúng ta; và Ngài sẽ vẫn là “người bà con” của chúng ta mãi mãi. Thật
là một tình yêu không gì có thể so sánh được!
Để đạt được điều kiện người ta đưa
ra, người bà con gần có quyền chuộc lại sản nghiệp còn phải có khả năng chi trả cho giá chuộc. Ru-tơ
và Na-ô-mi quá nghèo cho nên họ không thể tự chuộc lại mình được., nhưng Bô-ô
có đầy đủ mọi nhu cầu cần thiết để giải phóng họ cho họ được tự do. Khi đến với
sự cứu chuộc các tội nhân, không ai ngoại trừ chính Chúa Cứu Thế mới có đủ sự
giàu có để trả giá chuộc cho chúng ta. Quả thật, giá chi trả bằng tiền sẽ không
bao giờ có thể giải phóng được tội nhân; Phải có sự đổ huyết báu của Đấng
Christ ra thì mới hoàn tất được sự cứu chuộc (IPhi
1:18-19 Thi 49:5-9). Chúng ta được
cứu chuộc nhờ huyết Chúa Giê-xu Christ (Eph 1:7),
bởi vì Ngài đã hy sinh chính mạng sống Ngài thay cho chúng ta (ITi 2:14) và đã trả xong giá chuộc đời đời cho
chúng ta (He 9:12).
Còn có đòi hỏi thứ ba sau đây: Người
bà con gần có quyền chuộc lại sản nghiệp phải
sẵn lòng chuộc. Khi chúng ta đọc đến chương Kinh Thánh này, chúng ta
sẽ thấy vì người bà con gần hơn kia không hề sẵn lòng chuộc lại Ru-tơ, cho nên
Bô-ô hoàn toàn tự do mua lại sàn nghiệp cùng với người vợ của kẻ có sản nghiệp
đó nhưng đã quá cố. Người bà con gần hơn kia tuy có tiền của nhưng ông ta không
có động cơ để chuộc: ông sợ sẽ gây họa cho sản nghiệp của chính gia đình mình.
Cách thức chuộc: Trong thời cổ đại, người ta thường đặt một văn phòng xử án tại nơi
cửa thành làm công việc xét xử do các bật trưởng lão ở thành đó chủ trì (Phu 21:18-21 IISa 15:2 Giop 29:7-25).
Khi Bô-ô đến nơi cửa ấy, ông mời 10 trưởng lão làm chứng cho cuộc giải quyết
ấy. Khi thấy người bà con gần hơn kia vừa đi ngang qua một bằng chứng nữa cho
thấy sự sắm sẵn của Đức Chúa Trời Bô-ô liền gọi ông
ta lại. Bấy giờ mọi thứ đều đã sẵn sàng cho công việc giải quyết quan trọng ấy
là công việc mà cuối cùng nó sẽ can hệ đến sự xuất hiện của Con Đức Chúa Trời
trong thế gian.
Đề tài chính của chương
Kinh Thánh này là sự chuộc lại:
Từ “chuộc”, “mua” được dùng ít nhất
15 lần. Sẽ không thể có sự chuộc lại nếu không
trả bằng một giá chuộc nào đó.Theo quan điểm này của chúng ta, thì
sự cứu rỗi hoàn toàn miễn phí đối với “bất kỳ ai
cầu khẩn danh Chúa” (Cong 2:21
KJV); nhưng theo quan điểm của Đức Chúa Trời thì sự cứu chuộc phải được trả một
cái giá rất đắt.
Người bà con gần hơn kia sẵn sàng
mua lại đất, nhưng khi biết được rằng Ru-tơ vẫn còn dính dáng đến việc giải
quyết này, thì ông rút lui. Ông giải thích là nếu ông cưới Ru-tơ e rằng ông sẽ
hủy hoại phần sản nghiệp của chính mình. Nếu ông có con trai với Ru-tơ thì con
trai đó sẽ trở thành người duy nhất thừa kế sau này của ông, còn tài sản của
Mạc-lôn và phần điền trang mà ông đang làm chủ
rồi đây hóa ra lại trở thành của dòng họ nhà Ê-li-mê-léc. Thêm một thực tế
nữa, Ru-tơ là người nữ Mô-áp cũng là một vấn đề rắc rối cho ông. (Vì cả Mạc-lôn
và Ki-li-ôn đều cưới người nữ Mô-áp và đều đã chết cả!).
Chắc chắn Bô-ô không cảm thấy căng
thẳng gì khi người bà con gần kia bước sang một bên và ông đã mở ra cho Ru-tơ
một lối đi là trở thành vợ ông. Thật đáng chú ý rằng người bà con gần hơn kia
đã ra sức bảo vệ danh với sản nghiệp của ông ta mà thôi; nhưng thậm chí chúng
ta cũng không biết được ông tên gì hay chuyện gì đã xảy ra với gia đình ông ta
nữa! Bô-ô đã liều mình mạo hiểm vì tình yêu và sự vâng lời, tên ông được lưu
lại trong Kinh Thánh và luôn được người ta kính trọng. “Song ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời
đời” (IGi 2:17 NKJV). Điều này
cũng giải thích lý do tại sao không thấy nhắc đến tên Ọt-ba trong Ru 4:9-10.
Phong tục cởi giày có lẽ có liên
quan đến mạng lịnh thánh của Đức Chúa Trời là hễ chân bước đi đến đâu trên đất
thì sẽ được sở hữu đến đó (Sa 13:17 Phu 11:24 Gios 1:3).
Trong những năm sau đó, mười nhân chứng kia sẽ có thể làm chứng rằng vụ việc
chuộc lại này đã được giải quyết ổn thỏa bởi vì họ có chứng kiến người bà con
gần hơn kia tự tay tháo giày mình trao cho Bô-ô. Hành động này tượng trưng cho
việc ông bằng lòng nhường quyền sở hữu đất đai ấy lại cho người bà con là Bô-ô.
Giờ đây Bô-ô vừa có đất – lại vừa có cả Ru-tơ nữa!
Tôi có đề cập trước rằng Bô-ô là
hình ảnh của Chúa Giê-xu Christ, Người Bà Con Gần và cũng chính là Đấng Cứu
Chuộc của chúng ta; và trong tình huống này cũng có ý nói như vậy. Tương tự
Bô-ô, Chúa Giê-xu không hề quan tâm, bận lòng đến việc e rằng sẽ làm tiêu tan
sản nghiệp mà mình đang làm chủ; thay vào đó, Ngài đã khiến chúng ta trở nên
một phần trong sản nghiệp của Ngài (Eph 1:11,18). Giống như
Bô-ô, Chúa Giê-xu đã thực hiện kế hoạch của mình một cách riêng tư, nhưng Ngài
phải trả giá công khai; và chẳng khác gì Bô-ô, Chúa Giê-xu đã hành động vì tình
yêu và vì cô dâu của Ngài.
Tuy nhiên, có một số điểm tương phản
giữa Bô-ô và Chúa Cứu Thế Giê-xu. Bô-ô mua lại Ru-tơ bằng cách ban phát sự giàu
sang của mình ra, còn Chúa Giê-xu đã mua lại cô dâu cho mình bằng cách phải hy
sinh chính mình Ngài trên thập tự giá. Bô-ô không phải chịu đau thương đến chết
mới có được cô dâu. Bô-ô phải cạnh tranh với người bà con gần hơn kia, nhưng
đối với Chúa Cứu Thế Giê-xu thì không phải như thế. Bô-ô lấy Ru-tơ để làm sáng
danh người đã khuất (Ru 4:10), còn chúng ta
là những Cơ Đốc nhân thì làm vinh hiển danh Đấng Christ hằng sống. Có nhiều
nhân chứng trên đất làm chứng rằng Ru-tơ đã thuộc về Bô-ô (c.9-10), còn dân sự
Đức Chúa Trời thì có những chứng cớ từ trời, từ Đức Thánh Linh và từ Lời Chúa (IGi 5:9-13).
Trong Ru
4:1-2, bạn sẽ tìm thấy có mô tả năm lần việc người ta ngồi xuống.
Khi Chúa Giê-xu Christ hoàn tất xong việc mua lại cô dâu, Ngài đã ngồi xuống
nơi Thiên Đàng (He 1:3 Mac 16:19) bởi vì vụ việc đã được giải quyết xong. “Xong rồi!”.
2. Cô dâu (Ru 4:11-12)
Thật tuyệt vời khi có
nhiều niềm vui chân thành của sự kết ước đến với cô dâu chú rể nhờ những điều
họ đang làm ở trong đường lối Chúa. Trong chức vụ Mục Sư của mình, tôi có tham
dự một số đám cưới có đủ mọi thứ nhưng không vui vẻ chút nào. Chúng ta thích
rầu rĩ thay vì chúc tụng, tán dương vui vẻ. George Jessel, một người làm trò
tiêu khiển nổi tiếng đã định nghĩa hôn nhân là “sự sai lầm mà mọi người đều mắc phải”, nhưng điểm dừng cuối
cùng khiến bạn mắc phải sai lầm ấy chính là sự thay đổi trong hôn nhân. Ngược
lại với những gì người ta nghĩ, hôn nhân không phải là “việc riêng”. Đó là sự
phối hiệp thánh của Đức Chúa Trời với dân sự Ngài, và mọi cô dâu chú rể đều
mong muốn hôn nhân của họ được tràn ngập ơn phước của Đức Chúa Trời và của dân
sự Ngài.
Dân sự cầu nguyện cho Ru-tơ có con
cái, vì đối dân Y-sơ-ra-ên thì việc có con cái được xem là có phước chứ không
bị coi là gánh nặng (Thi 127:3-5). Nhưng
than ôi! Xã hội thời nay lại không nghĩ như vậy. Tại Hoa Kỳ mỗi năm, có đến
1500 bào thai bị hủy một cách hợp pháp, những bộ phận thân thể của chúng bị
người ta đem thủ tiêu đi như thể chúng là những khối ung thư gây chết người
vậy. Một ngày nọ, có một nữ y tá là Cơ Đốc nhân nói
với tôi rằng: “Bệnh viện chúng tôi, một phần trong đó có chúng tôi đang ngày
đêm làm việc cố gắng giữ lại sinh mạng cho những đứa trẻ sơ sinh. Còn số khác
thì lại đang giết hại chúng. Đức Chúa Trời sẽ nói gì về điều này?”
Những người vợ Do Thái
sinh con đẻ cái là việc rất quan trọng, bởi vì đó không chỉ là việc duy trì nòi
giống dân tộc mà còn vì để qua Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời sẽ sai Đấng Mết-si-a
đến thế gian. Người Do Thái rất ghét tình trạng nạo phá thai và việc đem vứt
con ngoài đường cho đến chết là những việc phổ biến ở các quốc gia khác. Hai người vợ của gia-cốp là Lê-a và Ra-chên đã sinh cho ông
tám con trai những người đã “dựng nên” nhà Y-sơ-ra-ên bằng việc sáng lập và dẫn
dắt các chi phái Y-sơ-ra-ên (Sa 29:31-30:24 35:18). Việc dùng từ
Ép-ra-ta (Ephrathah) trong Ru 4:11 rất có ý nghĩa, bởi vì từ này theo tiếng
Hê-bơ-rơ nghĩa là “sinh sản nhiều”. Dân sự mong muốn Ru-tơ sinh được nhiều con
cái và trở nên nổi tiếng đem lại vinh dự cho thôn làng bé nhỏ này của họ. Đó là
nơi Ra-chên đã được chôn cất (Sa 35:19),
nhưng quan trọng hơn nữa là, người ta sẽ biết đến nơi này là nơi Chúa Cứu Thế
Giê-xu được sinh ra.
Mấy người hàng xóm cũng
muốn nhà Bô-ô được trở nên giống nhà Pha-rết (Ru 4:12 Mac 1:3).
Gia đình Pha-rết sống ở Bết-lê-hem (ISu 2:5,50-54), và Bô-ô
là hậu duệ của Pha-rết (c.18). Ta-ma, mẹ Pha-rết, là một người đàn bà không tin
kính Chúa; thế nhưng bà lại có tên trong gia phả Chúa Cứu Thế của chúng ta (Mat 1:3).
Có nhiều sự đổi thay tuyệt vời đến
với đời sống Ru-tơ bởi vì nàng tin cậy Bô-ô và để cho ông hành động vì cớ ích
lợi của nàng! Nàng đi từ sự cô đơn đến tình yêu, từ
công việc làm lụng vất vả đến sự nghỉ ngơi, và từ tuyệt vọng đến hy vọng. Nàng
không còn là “Ru-tơ người nữ Mô-áp” nữa, vì quá khứ đã đi qua, và nàng đang
thực hiện một sự bắt đầu mới. Giờ đây, nàng là “Ru-tơ, vợ của Bô-ô”, một cái
tên làm cho nàng rất hãnh diện.
Một trong nhiều hình ảnh nói về Hội Thánh trong Kinh Thánh là “cô dâu
của Đấng Christ”. Trong Eph 5:22-23, điều
được nhấn mạnh về tình yêu thương của Đấng Christ dành cho Hội Thánh thể hiện
trong quá trình thi hành chức vụ của Ngài là: Ngài đã chết thay cho Hội Thánh
(quá khứ), Ngài thanh tẩy Hội Thánh và nuôi dưỡng Hội Thánh qua Lời Ngài (hiện
tại), và sẽ có ngày Ngài đem Hội Thánh vào trong sự vinh hiển (tương lai). Đấng
Christ hiện đang sửa soạn ngôi nhà đẹp đẽ cho cô dâu Ngài và sẽ có một ngày lễ
cưới của Ngài rồi đây sẽ được diễn ra (Kh 19:1-10,21-22).
3. Em bé (Ru
4:13-22)
Đức Chúa Trời đối đãi
với Ru-tơ rất nhân từ độ lượng nên đã đưa nàng rời khỏi Mô-áp, ban cho nàng đức
tin để nàng tin cậy Ngài và được cứu rỗi. Sự nhân từ Ngài còn tiếp tục tuôn đổ
trên đời sống nàng khi nàng chuyển đến
Bết-lê-hem, vì vậy Ngài đưa dẫn nàng tới đồng lúa của Bô-ô và tại nơi đó Bô-ô
đã phải lòng nàng. Sự nhân từ Chúa lại cứ tiếp tục đến tại nơi cửa thành là nơi
người bà con gần hơn kia từ chối Ru-tơ và Bô-ô đã chuộc được nàng. Sau đám
cưới, Đức Chúa Trời lại đổ ân điển của Ngài ra trên Bô-ô và Ru-tơ khiến nàng có
thai (Sa 29:31 30:1-2
33:5) và Chúa cho
nàng sinh hạ một bé trai rất bình an, người ta đặt tên đứa trẻ đó là Ô-bết
(nghĩa là “đầy tớ”).
Đức Chúa Trời sẽ dùng
đứa trẻ này làm nguồn phước cho nhiều người.
Ô-bết là sự phước hạnh
cho Bô-ô và Ru-tơ: Đây không phải là một
đứa trẻ bình thường, bởi vì đó là món quà đặc biệt của Đức Chúa Trời ban tặng cho Bô-ô và Ru-tơ; quả thật, Ô-bết bé bỏng là
ơn phước biết bao cho gia đình của họ! Nhưng đứa
trẻ nào cũng đều là quà tặng đặc biệt của Đức Chúa Trời cả và đều
được Ngài đối đãi như thế. Mọi đứa trẻ đều xứng đáng được gia đình yêu thương
và được cha mẹ chúng quan tâm chăm sóc là những người mong muốn nuôi dạy chúng
trong “sự sửa phạt khuyên bảo của Chúa mà nuôi
nấng chúng nó” (Eph 6:4 NKJV)
Thật là một đặc ân lớn lao khi đem một sự sống mới vào trong thế gian và sau đó
dẫn dắt sự sống mới đó lớn lên trưởng thành trở nên
như điều Đức Chúa Trời đã hoạch định!
Ô-bết còn là phước
hạnh cho Na-ô-mi: Ô-bết được người bà thân tình này nhận làm con
và Na-ô-mi coi Ô-bết như con ruột của mình
vậy, thế là bà trở thành mẹ nuôi của Ô-bết. Mấy người phụ nữ ở Bết-lê-hem đến
chung vui với Na-ô-mi, họ nói với bà rằng: “Đáng
ngợi khen Đức Giê-hô-va chẳng từ chối cho bà một người có quyền chuộc lại”
(Ru 4:14 NKJV)Lời này ám chỉ Ô-bết chứ không
phải nói về Bô-ô.
Ô-bết chính là “người làm hồi sinh
cuộc đời” của Na-ô-mi. Các bậc ông bà có thể làm chứng rằng đối với họ thì
những đứa cháu của họ còn tốt hơn cả nguồn tuổi xuân bởi vì chúng ta “sẽ được
trẻ lại” khi có các cháu đến thăm viếng chúng ta. Mặc dù không phải vị ông bà
nào cũng đồng ý như vậy, nhưng tất cả họ đều biết câu nói này: “Chúng được gọi
là “cháu” bởi vì khi chúng đến thăm hay đi khỏi thì chúng đều rất tuyệt”. Không có cách gì làm cho chúng ta vui sống hơn là hãy bắt
tay đầu tư chính bản thân mình cho thế hệ trẻ hơn. Mỗi đứa
trẻ được sinh ra trên thế gian này là mỗi ngân sách dành cho tương lai, và các
bậc ông bà cần tập trung chú ý đến tương lai ấy chứ đừng nhìn về quá khứ nữa.
Khi bạn bồng bế đứa trẻ nào đó, thì chính là bạn đang ôm lấy tương lai trong
vòng tay của mình.
Ô-bết sẽ là phước hạnh đối với
Na-ô-mi trên một phương diện khác nữa: Rồi đây người sẽ chăm sóc gia đình có
người bà là Na-ô-mi, vì chính gia đình này đã đem Ô-bết vào trong thế gian.
Bô-ô đã chuộc lại sản nghiệp cho gia đình bà; giờ đây Ô-bết lại tiếp tục duy
trì dòng họ gia đình tồn tại, bảo vệ sản nghiệp và dùng nó nuôi sống Na-ô-mi
dài lâu. Người sẽ sống đúng với tên của người là “đầy tớ” đối với Na-ô-mi, “mẹ
nuôi” của người.
Sự bảo đảm về tính pháp lý cho
chuyện này không phải ở luật đất đai mà là ở tình yêu
thương của Ru-tơ đối với mẹ chồng nàng. Ô-bết sẽ sớm học biết yêu thương Na-ô-mi
tương tự như Ru-tơ đã yêu thương bà. Ô-bết là con trai một của Ru-tơ, nhưng
lòng yêu mến của người dành cho mẹ và bà sẽ ngang bằng lòng yêu mến của bảy con
trai gộp lại.
Ô-bết sẽ đem phước
hạnh đến cho Bết-lê-hem: Đứa
trẻ này sẽ đem lại tiếng tăm cho dòng họ gia đình mình và cho cả thành phố quê
hương mình. Tên của Ê-li-mê-léc hầu như đã biến mất khỏi Y-sơ-ra-ên, thế nhưng
Ô-bết sẽ làm cho tên ấy được nổi tiếng và đem vinh quang đến cho Bết-lê-hem. Dĩ
nhiên, điều này đã xảy ra thật qua cuộc đời với công việc, chức vụ của vua
Đa-vít (c.22) và qua Con Trai vĩ đại cao trọng hơn cả ông là Chúa Cứu Thế
Giê-xu. Na-ô-mi chắc được an ủi rất nhiều vì bà biết danh của gia đình bà sẽ
không bị mai một đi, nhưng ngày càng trở nên được nổi tiếng.
Ô-bết sẽ đem phước
hạnh đến cho Y-sơ-ra-ên: Ô-bết
là cháu nội vua Đa-vít, một trong những nhà thống trị xuất chúng nhất của
Y-sơ-ra-ên. Khi nhắc đến tên Đa-vít, chúng ta thường nghĩ đến Gô-li-át hoặc
Bát-sê-ba. Đa-vít phạm phải một trọng tội, nhưng dù sao đi nữa ông vẫn cứ là
người có đức tin vĩ đại đã được Đức Chúa Trời dùng để xây dựng nên vương quốc
Y-sơ-ra-ên. Ông lãnh đạo dân sự đánh bại mọi kẻ thù, mở rộng lãnh thổ, gia tăng
thêm sản nghiệp và quan trọng hơn tất cả là ông đã dẫn dắt con dân Chúa thờ
phượng Ngài. Ông sáng tác nhiều bài hát để cho người Lê-vi hát khi thờ phượng,
ông còn chế tạo ra nhiều nhạc cụ nữa. Ông bỏ ra cả cuộc đời mình tích góp của
cải để dùng vào công việc xây cất Đền Thờ, và Đức Chúa Trời đã cho ông biết
trước những kế hoạch, dự liệu cho Đền Thờ đó để Sa-lô-môn có thể tiến hành công
việc xây cất ấy. Bất kể cả những lúc Đa-vít cầm trong tay cây ná, hoặc thanh
gươm, hoặc cây đàn hạc hay bài thi thiên, thì ông vẫn luôn là một tôi tớ vĩ đại
của Đức Chúa Trời, là người đã đem lại biết bao ơn phước không xiết kể cho
Y-sơ-ra-ên.
Ô-bết sẽ đem phước
hạnh đến cho toàn thế giới: Điều lớn lao nhất mà Đức Chúa Trời đã làm cho Đa-vít là Ngài đã
không ban cho ông chiến thắng trên các kẻ thù của ông hoặc trên của cải ông
dành để xây xất Đền Thờ. Đặc ân vĩ đại nhất mà Đức Chúa Trời đã ban cho ông là
ông được làm ông tổ của Đấng Mê-si-a. Đa-vít mong muốn xây cất một ngôi nhà cho
Đức Chúa Trời, nhưng Ngài lại bảo với ông rằng Ngài sẽ xây một tòa nhà (dòng
dõi) cho Đa-vít (IISa
7:1-29). Đa-vít biết rõ Đấng Mê-si-a sẽ đến từ chi phái Giu-đa là chi
phái hoàng gia (Sa 49:8-10), nhưng không ai
biết được đích xác gia đình nào trong Giu-đa sẽ được chọn cho sự ra đời của Ngài. Đức Chúa Trời đã chọn dòng dõi Đa-vít, và Đấng Cứu
Chuộc sẽ được biết đến là “con cháu Đa-vít” (Mat
1:1).
Dân thành Bết-lê-hem có biết sơ rằng
Đức Chúa Trời đã dành sẵn những chương trình quan trọng cho đứa trẻ bé bỏng ấy!
Ô-bết sau này có một con trai đặt tên là Gie-sê; và Gie-sê sinh được tám người
con trai, thì người con trai út trong số đó về sau này chính là vua Đa-vít (IVua 16:6-13). Hễ khi nào bạn nhìn thấy một em bé
sơ sinh hay một đứa trẻ nào đó, thì xin hãy nhớ cho rằng có thể em bé đó sẽ là
người mà Đức Chúa Trời đã có kế hoạch sau này dùng đến cho một tương lai vĩ
đại. Thầy giáo thời xưa thường hay đập nhẹ mũ của mình vào những học trò nào có ý tưởng hay và chính đáng, bởi vì trong số các học trò
ấy có lẽ sẽ có người trở thành vị tướng hoặc thành hoàng đế không chừng.
Người Mô-áp sẽ không được phép vào
hội Đức Giê-hô-va “dầu đến đời thứ mười cũng
chẳng hề bao giờ vào được” (Phu 23:3).
Nhưng sách Ru-tơ ngắn ngủi này đã khép lại với bảng phả hệ đời thứ mười mà đỉnh
cao đáng chú ý nhất là tên Đa-vít!
Đừng bao giờ đánh giá
thấp quyền năng ân điển của Đức Chúa Trời.
PHẦN CHUYỂN TIẾP: NHỮNG ĐIỀU NHẬN XÉT TỪ SÁCH RU-TƠ
Mục đích chính của sách
Ru-tơ là ở tính lịch sử. Nó diễn giải cho chúng ta biết về tổ tiên của Đa-vít
và nó xây một chiếc cầu nối giữa thời kỳ Các Quan Xét với giai đoạn Đức Chúa
Trời ban cho Y-sơ-ra-ên một vua.
Nhưng Kinh Thánh còn hơn
cả một cuốn sách lịch sử. Người ta học được nhiều bài học thực tiễn được rút ra
từ những sự kiện này – là những bài học có khả năng khích lệ, động viên chúng
ta trong bước đi thuộc linh của mình. Sách Ru-tơ cũng mang tính chất như vậy.
Chắc chắn cuốn sách ngắn
ngủi này đã tiết lộ cho chúng ta thấy Đức Chúa Trời phù hộ, làm ơn cho Ru-tơ và
Na-ô-mi theo như cách mà Ngài đã dẫn dắt họ. Sách khích lệ tôi nhận biết rằng
Đức Chúa Trời vẫn hằng chăm sóc chúng ta ngay cả những khi chúng ta cay đắng
với Ngài giống như Na-ô-mi vậy. Đức Chúa Trời hướng dẫn Ru-tơ, một “tân tín
hữu”, và dùng đức tin với sự vâng lời của nàng để chuyển thất bại thành chiến
thắng. Đức Chúa Trời quan tâm đến từng chi tiết trong đời sống chúng ta, và sự
thật này sẽ đem lại cho chúng ta sự khích lệ và niềm vui khi chúng ta mưu cầu ý
nghĩ mỗi ngày sống làm đẹp lòng Ngài.
Sách Ru-tơ chứa đựng
những hình ảnh minh họa đẹp đẽ về công việc cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Câu
chuyện mở ra với một Ru-tơ là người ngoài, là một người lạ mặt, nhưng sách kết
thúc với một Ru-tơ là thành viên thuộc cộng đồng của giao ước Chúa bởi vì nàng
đã kết hôn với Bô-ô, một người bà con gần của nàng có quyền chuộc lại sản
nghiệp. Ông ta phải trả một giá để nàng được chuộc lại.
Nhưng sách Ru-tơ còn
minh họa về mối tương giao mật thiết của Cơ Đốc nhân với Chúa. Trong phân đoạn
1, Ru-tơ thậm chí không biết rằng có mặt Bô-ô trên đời này. Trong phân đoạn 2,
Ru-tơ là một người lao động chân tay nghèo khổ, đi mót lúa trong ruộng của Bô-ô
và đón nhận những món quà của ông ban tặng. Đối với nàng, Bô-ô chỉ là một người
giàu có quyền thế đã bày tỏ lòng tử tế với nàng mà thôi. Trở lại điểm này trong
phân đoạn 3 chỗ Ru-tơ tự nguyện phủ phục dưới chân Bô-ô và
tin vào những lời hứa hẹn của ông ta. Kết quả được ký thuật trong phân đoạn 4:
Ru-tơ không còn là người lao động nghèo khổ nữa, vì giờ đây nàng đã có Bô-ô, và mọi thứ gì ông có thì thảy đều thuộc về nàng.
Có quá nhiều người trong dân sự Chúa
ngày nay bằng lòng sống đời sống như trong phân đoạn 2, đi nhặt những phần thức
ăn thừa của người ta bỏ và làm hết sức mình để có thể vượt qua hoàn cảnh khó
khăn của họ. Họ mong muốn nhận được quà của Đức Chúa Trời, nhưng họ lại không
muốn tương giao mật thiết với Ngài. Thật quan trọng và có ý nghĩa biết bao nếu
như họ biết đầu phục Chúa, dâng mình cho Ngài và luôn hướng về Đấng Ban Cho chứ
không phải lo hướng về những món quà! Giăng đã ngẫm nghĩ về điều này trong Gi 14:21-24.
Sách Ru-tơ nhắc chúng ta nhớ rằng
Đức Chúa Trời đang làm việc trong thế giới chúng ta, Ngài đang tìm kiếm cô dâu
và đang thu hoạch mùa màng; chúng ta phải tìm cho mình vị trí trong chương
trình tìm kiếm những linh hồn hư mất của Ngài. Những sự kiện trong sách Ru-tơ
xảy ra thuộc thời kỳ Các Quan Xét, là thời kỳ chẳng khác gì mấy so với thời
hiện tại này của chúng ta. Nếu bạn chỉ cứ mãi lo nghĩ về những điều xấu, điều
ác trong xã hội thời nay thì chắc chắn bạn sẽ trở nên người bi quan, yếm thế và
hay hoài nghi; nhưng, nếu bạn cầu hỏi Đức Chúa Trời để biết Ngài muốn bạn đến
làm việc tại cánh đồng nào của Ngài và bạn hãy trung tín hầu việc Ngài, thì bạn
sẽ nếm trải được ân huệ, tình yêu thương và niềm vui thoả từ nơi Ngài.
Các Quan Xét là cuốn sách “không
vua” (Cac 17:6 18:1
19:1 21:25).
Sách I Sa-mu-ên là sách nói về “vua do loài người lập nên”, khi Đức Chúa Trời
ban Sau-lơ cho Y-sơ-ra-ên theo như điều họ cầu xin Ngài. Những sự việc này sẽ
khiến thế giới chúng ta trở nên hết sức tồi tệ đến nỗi rồi đây sẽ có ngày mọi
dân mọi nước sẽ kêu khóc vì họ đã trót đòi hỏi cần có một vua để nuôi dưỡng họ
và bảo vệ họ. Vua ấy rồi sẽ xuất hiện; và chúng ta gọi tên hắn là AntiChrist.
Nhưng sách I Sa-mu-ên không phải là
sách kết thúc của câu chuyện này, vì sách II Sa-mu-ên là sách nói về vua do Đức Chúa Trời lập nên! Đa-vít đã xuất
hiện trong bối cảnh ấy, và ông thiết lập vương quốc trong danh Đức Giê-hô-va.
tương tự như thế, khi vua do loài người lập nên làm những điều tồi tệ nhất, thì
Vua đến từ Đức Chúa Trời sẽ xuất hiện, đoán xét thế giới tội lỗi xấu xa này, sẽ
tiêu diệt những kẻ vô tín và không có đời sống tin kính Chúa, sau đó Ngài sẽ
thiết lập vương quốc vinh hiển của Ngài.
Trong lúc ấy, dẫu rằng chúng ta hiện
đang sống trong thời kỳ tối tăm giống như thời Các Quan Xét là khoảng thời gian
Y-sơ-ra-ên không có vua, nhưng trước hết chúng ta vẫn có thể tìm thấy vương
quốc của Đức Chúa Trời và trở thành những thần dân thuộc về hoàng gia của Vua
trên muôn vua (Mat 6:33). Tên Ê-li-mê-léc có
nghĩa là “Đức Chúa Trời của tôi là Vua”, nhưng Ê-li-mê-léc đã không sống đúng
theo ý nghĩa đó của tên mình, vì ông hoài nghi Chúa và bất tuân với Ngài. Mặc
dù trong Y-sơ-ra-ên không có vua và tất cả mọi thứ chung quanh chúng ta trông
có vẻ như đang sụp đổ, tuy nhiên chúng ta vẫn có thể có một Vua trên đời sống
mình, Ngài sẽ cai trị trong mỗi lòng chúng ta.
Chính sự giao phó của Ru-tơ đã làm
thay đổi hoàn toàn đời sống nàng và đời sống của những người mà nàng yêu
thương.
Bạn có bao giờ tự nguyện sấp mình
dưới chân Chúa là Ông Chủ mùa gặt chưa? nếu bạn chưa làm điều đó thì Đức Chúa
Trời sẽ không thể khiến bạn trở nên như điều mà Ngài muốn xảy ra trên đời sống
bạn.
II. Ê-XƠ-TÊ
MỤC LỤC
01. HOÀNG HẬU NÓI: “KHÔNG”
02. TÂN HOÀNG HẬU
03. KẺ THÙ CŨ ĐỔI TÊN MỚI
04. NGÀY QUYẾT ĐỊNH
05. MỘT NGÀY BÌNH THƯỜNG CỦA QUAN TỂ TƯỚNG
06. NHỮNG DẤ HIỆU CẢNH CÁO
07. TẤM MẠNG CHE MẶT MỞ RA
08. TỪ NẠN NHÂN TRỞ THÀNH NGƯỜI CHIẾN THẮNG
09. ĐỨC CHÚA TRỜI LUÔN GIỮ LỜI HỨA CỦA NGÀI
1. HOÀNG HẬU NÓI: “KHÔNG!” (Et 1:1-22)
(Chuyện kể về sự bất hòa trong một gia đình đã
phát triển thành cuộc khủng hoảng của cả dân tộc)
Chúng ta hãy bắt đầu làm
quen với một vị vua. Tên của nhà vua người Ba-tư này là Khshayarshan, theo
tiếng Hê-bơ-rơ gọi là A-suê-ru, còn tiếng Hy Lạp thì gọi là Xét-xe. Cha người
là Đa-ri-út đệ I, và ông nội người chính là Si-ru Đại Đế; vì vậy người đã xuất
thân từ một gia đình có dòng dõi tiếng tăm lừng lẫy. A-suê-ru cai trị đế quốc
Ba-tư từ năm 486-465 TC. Đế quốc này được chia thành 20 “tiểu quốc” (bang), mỗi
tiểu quốc lại được chia thành “nhiều tỉnh nhỏ”; và vua A-suê-ru nắm quyền cai
trị toàn bộ.
Tương tự hầu hết các vua
ngày ấy, A-suê-ru là người rất kiêu căng ngạo mạn; và trong phân đoạn Kinh
Thánh này, chúng ta sẽ thấy có ba bằng chứng nói về sự kiêu ngạo ấy của ông.
1. Vua có thói khoe khoang (Et 1:1-9)
Các nhà cầm quyền ở Đông
phương thường rất thích tổ chức các bữa đại tiệc đãi đằng hậu hĩ thật hoang phí
có đông người dự, bởi vì nhân những dịp đó họ có cơ hội gây ấn tượng cho khách
khứa thấy được vương quyền và sự giàu có của mình. Ba bữa đại tiệc được đề cập
đến trong chương này gồm có: một bữa dành cho tất cả anh em binh sĩ trong quân
đội và những vị chính khách tai to mặt lớn của bộ máy chính quyền cả nước
(c.1-4); một bữa dành cho các đấng mày râu ở kinh đô Shushan (tiếng Hy Lạp gọi
là “Su-sơ”), được khoản đãi tại cung điện mùa Đông của nhà vua (c.5-8); bữa đại
tiệc thứ ba dành cho tất cả phụ nữ ở Su-sơ (c.9) do hoàng hậu Vả-thi chủ trì.
Có lẽ nhà vua không tập
hợp được hết tất cả các quan cai đầu tỉnh lại cùng một lần; bởi vì nếu làm thế
các quan chức ấy sẽ xao lãng công việc và nhiệm vụ của mình trong suốt 6 tháng
trường thì e rằng sẽ làm cho đế quốc suy yếu mất. Cũng có thể là, cứ qua một
đợt 6 tháng, A-suê-ru lại truyền mời các quan chức đến
Su-sơ theo một thời khoá biểu luân phiên. Kế đó, sau khi hội ý với họ, nhà vua
sẽ triệu tập họ lại dự yến tiệc suốt bảy ngày để họ có thể có sự hội ý chung.
Trong Et 1:11, tác giả nói rõ là các quan
trưởng cũng có mặt tại bữa đại tiệc kéo dài suốt một tuần lễ này.
Cùng với ba bữa đại tiệc đó, còn có
ít nhất sáu bữa tiệc nữa được ghi nhận trong sách này là: bữa tiệc vào lễ đăng
quang lên ngôi hoàng hậu của Ê-xơ-tê (2:18);
bữa tiệc được tổ chức riêng cho nhà vua và Ha-man (3:15);
hai bữa yến tiệc do Ê-xơ-tê tổ chức đãi nhà vua và Ha-man (5:1-14 7:1-10);
bữa yến tiệc của dân Do Thái tổ chức khi họ nghe loan báo về chiếu chỉ mới (8:17); cuối cùng là Lễ Tiệc Phu-rim (9:17-19). Đức Chúa Trời thật tuyệt vời biết bao
khi Ngài có thể dùng cả chuyện ăn uống thường ngày của người ta như thế để hoàn
tất các mục đích của Ngài! (ICo 10:31).
Phía sau bữa đại tiệc
dành cho các nhà quý tộc và các quan binh là mục đích gì vậy? Kinh Thánh không
nói cho chúng ta, nhưng lịch sử cổ đại có nói. Herodotus, một sử gia người Hy
Lạp (485-425 TC) có lẽ đã đề cập đến những bữa yến tiệc thịnh soạn này trong Sách Sử của ông, ông ta ghi nhận
rằng A-suê-ru có bàn bạc hội ý với các quan chức của ông ta về việc có thể đi
xâm lược Hy Lạp. Cha của A-suê-ru là Đa-ri-út đệ I có lần xâm lược Hy Lạp và bị
thất bại nhục nhã tại Marathon vào năm 490 TC. Trong thời gian chuẩn bị binh
lực để trở lại Hy Lạp báo thù thì Đa-ri-út băng hà (486 TC); giờ đây con trai
ông ta cảm thấy cần phải trả thù cho cha và bành trướng đế quốc của mình ra
thêm. Herodotus có khẳng định rằng A-suê-ru đã lên kế hoạch xâm lăng tất cả các
nước Châu Âu và “sẽ thâu tóm toàn bộ thế giới này thành một đại đế quốc mà
thôi”.
Theo Herodotus, nhà vua
này có phát biểu như vầy: “Ta có ý định bắc một cây cầu ngang qua Hellespont và
cho quân đội hành quân xuyên Châu Âu sang đánh người Hy Lạp, bằng cách đó ta có
thể trả thù được người A-then về những sai lầm mà họ đã phạm là họ đã từng
chống lại người Ba-tư và cha ta”. [1] Bác của vua là Artabanus, đã kịch liệt phản đối kế hoạch này của
vua, nhưng nhà vua vẫn cứ khăng khăng giữ ý định của mình và ông ta đã thành
công khi thuyết phục các quan trưởng và các viên chức nghe theo ông ta.
Việc vua A-suê-ru cố
tình gây ấn tượng cho các nhà quý tộc và các tướng lĩnh trong quân đội thấy
được sự giàu sang và sức mạnh quyền lực của ông ta là điều hết sức quan trọng
đối với ông. Khi họ nhìn thấy những cột trụ làm bằng cẩm thạch, những tấm màn
đẹp rực rỡ lộng lẫy có đính theo những chiếc chuông bằng bạc, những chiếc ghế
tràng kỷ làm bằng vàng và bạc đặt trên các lối đi có mặt đường lát bằng đá cẩm
thạch đẹp tuyệt vời, những vật dụng làm bằng vàng ròng dùng để phục vụ bàn ăn,
như thế thì họ chỉ biết nghe theo và phục tùng nhà vua chứ họ còn có thể làm gì
khác nữa. Tương tự một người bán hàng dẫn bạn ra ngoài đi tới một nhà hàng ăn
sang trọng để dùng bữa tối thật đắt tiền, nhà vua đã bẻ gãy sự kháng cự của họ.
Vốn là một người rất kiêu căng tự phụ, nhà vua biết phải làm cách nào để thu
phục được tính kiêu ngạo nơi kẻ khác.
Nhưng thật đáng tiếc
thay, sự khoe khoang phô trương về sự giàu có xa hoa này của nhà vua đã không
thể đảm bảo cho sự chiến thắng về phương diện quân sự. Vào năm 480 TC, trong
khi nhà vua đang ngự trên ngai theo dõi trận đánh thì lực lượng hải quân Ba-tư
đã bị tiêu diệt tại Salamis; và vào năm 479 TC, quân đội Ba-tư lại bị đánh bại
tại Plataea. Như vậy, mộng tưởng bành trướng thế giới để biến tất cả thành một
đế quốc riêng mình của nhà vua A-suê ru đã chấm
dứt. Hễ nói rằng có một người đáng lý ra đã nên học lấy lẽ thật trong Ch 16:18, thì người đó
phải là A-suê-ru: “Sự kiêu ngạo đi trước,
sự bại hoại theo sau. Và tánh tự cao đi trước sự sa ngã ” (NKJV).
Những ai có quyền có
chức trong tay thì nên nhớ cho rằng tất cả mọi quyền lực đều được đến từ Đức
Chúa Trời (Ro
13:1), chỉ có Ngài là Đấng duy nhất có quyền hoàn toàn và cầm quyền trên
tất cả. Pha-ra-ôn đã phải học bài học đó ở Ê-díp-tô (Xu
7:3-5) Nê-bu-cát-nết-sa cũng đã phải học bài học ấy tại Ba-by-lôn (Da 3:1-4:37) vua Bên-xát-xa thì học được bài học
này ngay tại bàn yến tiệc báng bổ thánh thần của mình (Da
5:1-31) San-chê-ríp vua A-si-ri thì học được tại các cửa thành
Giê-ru-sa-lem (Es 36:1-37:38); và vua Hê-rốt
Ạc-ríp-ba đệ I thì học được bài học ấy ngay khi ông băng hà vì bị trùng đục
trong ruột (Cong 12:20-23). Mọi người bất luận là nam hay nữ khi đã nắm được
quyền hạn gì đó trong tay thì cũng chỉ là người thừa hành của Chúa mà thôi bời
vì chính Chúa Giê-xu Christ mới là Chúa Tể của tất cả.
2. Vua có thói say sưa rượu chè (Et 1:10-12)
Kinh Thánh lờ đi những
vấn đề thuộc về quân sự này bởi vì mục đích tác giả là nhằm giải thích cho
chúng ta rõ Ê-xơ-tê đã trở thành hoàng hậu ra
sao. Vào ngày cuối của bữa đại tiệc bảy ngày, vua A-suê-ru “uống rượu hứng lòng rồi” (Et 1:10 NIV), bèn ra lịnh cho hoàng hậu phải bước
ra phô diễn vẻ đẹp của bà cho các quan khách đang tụ tập tại đó xem; nhưng bà
không tuân lịnh vua. Dĩ nhiên, về phần bà, bà cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm nên
bà mới phản ứng như vậy. Ở đây có một người đàn bà đang thách thức quyền lực
của một người đàn ông, là một người vợ không tuân theo mệnh lệnh của chồng, là
một thần dân đang phủ nhận lịnh truyền của nhà vua. Kết quả là: “Vua bèn nổi giận dữ, phát nóng nả trong lòng”
(1:12 NIV).
Khi bạn nghiên cứu sách Ê-xơ-tê, bạn
sẽ khám phá ra rằng vị vua đầy quyền lực này tuy có khả năng kiểm soát mọi thứ
nhưng không kiểm soát được chính bản thân mình. Những người cố vấn của vua tác
động đến vua một cách dễ dàng; vua hay có những quyết định rất bốc đồng để rồi
sau đó vua phải hối tiếc; khi vua không làm được điều gì đó theo ý của mình thì
vua sẽ nổi giận ngay. Vốn là người thích được người ta nịnh hót, tâng bốc, vua
làm vị chủ tể của một đế quốc hùng mạnh nhưng vua lại không thể làm chủ được
bản thân. “Người chậm nóng giận thắng hơn người
dõng sĩ. Và ai cai trị lòng mình thắng hơn kẻ chiếm lấy thành” (Ch 16:32). Vua A-suê-ru đã cho xây một thành trì
đồ sộ tại Su-sơ, thế nhưng vua lại không tài nào xây nổi tính nết, nghị lực cho
chính mình. “Người nào chẳng chế trị lòng mình.
Khác nào một cái thành hư nát, không có vách ngăn” (25:28 NKJV). Nhà vua không tài nào kiểm soát được
tính khí và những cơn thèm khát của mình.
Đây là điểm dừng lý thú để xem xét
vấn đề rượu chè và sự giận dữ là hai thứ có sức công phá rất dữ dội đưa đến xã
hội chúng ta sự hủy diệt ghê gớm thậm chí còn hơn cả sự tiết lộ những con số
thống kê.
Trong khi chúng ta rất ngưỡng mộ sự
khôn ngoan của vua là điều khiến ông không ép buộc các quan khách của mình phải
uống rượu (Et 1:8), chúng ta lại không thể
nào khen ngợi nổi gương xấu mà ông đã làm là ông có thói rượu chè be bét. Kinh
Thánh không ra lịnh phải kiêng khem
rượu hoàn toàn, nhưng lời Chúa có đề cập đến việc đó rất rõ. Dân Y-sơ-ra-ên
không được uống rượu mạnh trong cuộc hành hương nơi đồng vắng của họ (Phu 29:5-6), các thầy tế lễ không được phép uống
rượu nho và rượu mạnh trong khi phục vụ tại đền tạm (Le
10:8-11). Người Na-xi-rê không những bị cấm uống rượu nho mà thậm chí
cũng không được ăn vỏ và hạt nho (6:1-3).
Mặc dù khi còn tại thế, Chúa Cứu Thế Giê-xu của chúng ta có uống rượu nho,
nhưng hiện nay, Ngài là “người kiêng rượu hoàn toàn”. Người ta bảo Chúa Giê-xu
đã làm gương cho họ về việc uống rượu chỉ để xã giao, thậm chí họ còn chỉ ra
rằng Ngài đã từng hóa nước thành rượu, cho nên họ thường lấy Lu 22:18 ra suy ngẫm: “Vì,
ta nói cùng các ngươi, từ nay ta sẽ không uống trái nho nữa, cho tới khi nước
Đức Chúa Trời đến rồi ”( KJV). Tôi không biết mấy người này “có noi
theo gương Ngài” trong những lĩnh vực nào khác nữa của cuộc sống nữa không,
chẳng hạn như là về gương cầu nguyện, phục vụ, và hy sinh (Có lẽ là không).
Phần đông các pha quảng cáo đẩy mạnh
cho việc bán những thức uống có cồn mô tả những người ăn mặc lịch sự bảnh bao
hợp thời trang đang ngồi trong những nơi rất trang nhã lịch sự gây cho người ta
cảm giác, ấn tượng lừa dối rất tinh ma rằng “uống rượu bia để xã giao” và cũng
là để đạt được mục đích công việc làm ăn của mình. Nhưng các Mục Sư, những
người làm công tác xã hội, các bác sĩ, và các nhân viên tình nguyện của Hội Ẩn
Danh Tư Vấn Và Cứu Trợ Những Người Nghiện Rượu thì lại vẽ lên một bức tranh
khác. Họ tận mắt chứng kiến nhiều cuộc hôn nhân đổ vỡ, nhiều tinh thần và thể
xác bị hư hoại, nhiều gia đình lộn xộn đối xử với nhau hết sức tồi tệ, và nhiều
sự nghiệp bị tan tành theo mây khói là những tình trạng hay xảy ra với những ai
cho rằng “uống rượu bia để xã giao”.
Connie Mack, một huấn luyện viên
bóng rổ và cũng người quản lý đội bóng, cách đây khá lâu có nói rằng rượu không
thích hợp với cơ thể người như cát không thích hợp khi nó có trong bình xăng của
chiếc xe ô tô vậy. Rượu là chất gây nghiện chứ không phải là đồ ăn thức uống,
nó hủy diệt thân thể con người chứ không phải nuôi dưỡng. Kinh Thánh cảnh cáo
kẻ uống rượu say sưa buông tuồng (Ch 20:1 21:17 23:20-21 Es 5:11 Lu 21:34
Ro 13:13-14 ICo
5:11 Eph 5:18 IPhi 4:3-5) và ngay cả kinh Cô-ran cũng có nói thế này: “Có quỷ
dữ trong từng quả nho chín mọng”.
Cách tốt nhất để tránh say rượu là
không nên uống chút rượu nào cả. Có một câu danh ngôn Nhật cảnh báo rằng: “ Đầu
tiên người uống rượu, thứ hai rượu uống rượu, và sau đó rượu uống người”. Mẫu
thân của Vua Lemuel cũng có dạy người:
“Hỡi
Lê-mu-ên, chẳng xứng hiệp cho các vua
Chẳng xứng hiệp cho
các vua uống rượu,
Hay là cho các quan
trưởng nói rằng. Vật uống say ở đâu?” (Ch
31:4 KJV).
Còn như cơn giận của vua A-suê-ru đã
trút lên đầu vị hoàng hậu đáng yêu của mình thì thật là hành vi mất lịch sự vì
không biết thế nào là lịch sự cả, mang tính rất trẻ con, hoàn toàn không đúng
lúc và không đáng chút nào. Nếu như vua không bị rượu xui giục, chắc hẳn ông đã
không ra lịnh bắt vợ mình phải bước ra phô bày vẻ đẹp của bà trước các quan
khách gồm những nhà lãnh đạo đã say xỉn kia như vậy. Sự kiêu ngạo của vua đã
thắng vua. Vì nếu vua không có quyền ra lịnh cho vợ mình như vậy, thì làm sao
vua có thể ra lịnh cho binh lính Ba-tư được ? Bởi hoàng hậu Vả-thi đã làm cho
vua mất mặt trước các tùy tùng lãnh đạo của vua, cho nên vua bắt buộc phải làm
điều gì đó để cứu lấy lòng tự trọng và danh dự của mình.
Vả-thi đúng, còn A-suê-ru sai; và
cơn giận của vua chính là chứng cớ cho thấy ông quả là đã sai rõ ràng. Sự giận
dữ thường khiến người ta trở nên mù quáng và làm cho tâm trí họ vốn rất tốt và
cao quý trở nên bị u mê ám chướng. Pietro Aletino một thi sĩ người Ý
(1492-1557) có viết gửi cho bạn mình thế này: “Người nào đã lên cơn giận dữ thì
đều trở nên mù quáng và ngu ngốc, lúc ấy lẽ phải đối với họ không còn nữa, và
khi đó cơn giận sẽ cướp đi tất cả mọi trí năng của người, và chỉ để lại sự xét
xử người mà giờ đây đã trở thành tù nhân của sự kiêu ngạo từ chính cơn giận dữ
ấy”. Hễ ai là tù nhân của sự kiêu ngạo, thì người đó đúng là vua cao quý của
Hoàng Đế Ba-tư!
Quả thật, thường có cơn giận thánh
nghịch lại tội lỗi, là cơn giận có thể thiêu đốt mọi lòng của người tin kính
Chúa (Ro 12:9). Ngay cả Chúa Cứu Thế chúng
ta cũng đã biểu lộ sự giận dữ đối với tội lỗi (Mac
3:5), nhưng chúng ta phải cẩn thận với cơn giận của mình đối với tội
lỗi, đừng để nó trở thành cơn giận tội lỗi thì chúng ta sẽ phạm tội (Eph 4:26). Đôi khi điều mà chúng ta gọi là “sự
phẫn nộ chính đáng” thật ra đó chỉ là sự trá mạo của thái độ bực tức, giận dữ
hoàn toàn sai trật, không chính đáng chút nào nấp dưới lớp áo xống bề ngoài của
đạo mà thôi. Chúa Giê-xu đánh giá sự giận dữ ngang hàng với tội giết người (Mac 5:21-26), Phao-lô có cảnh báo chúng ta rằng
cơn giận dữ có thể ngăn trở sự cầu nguyện của chúng ta (ITi 2:8).
Tính kiêu căng tự phụ nuôi sống cơn
giận và khi cơn giận phát triển nó lại làm gia tăng thêm tính kiêu ngạo. “Kẻ
nóng tính hay cáu giận thì thường hành động rất ngu xuẩn”, tác giả sách Ch 14:17 đã cảnh cáo như vậy, là câu cách ngôn đã
được vua A-suê-ru chứng minh rất đầy đủ rõ ràng. Thay vì giận hoàng hậu Vả-thi,
nhà vua lại quay sang căm giận bản thân mình và hành động hết sức ngu ngốc.
Trước khi rời khỏi phần này trong
câu chuyện trên của chúng ta, tôi muốn chỉ ra rằng Phúc Âm của Chúa Cứu Thế
Giê-xu đã góp phần giải phóng phụ nữ và nâng cao phẩm giá họ lên trong xã hội ở
bất cứ nơi đâu trên khắp thế giới có sự rao giảng và tin nhận Tin Lành. “Tại đây không còn chia ra người Giu-đa hoặc người Gờ-réc,
không còn người tôi mọi hoặc người tự chủ, không còn đàn ông hoặc đàn bà, vì
trong Đức Chúa Jêsus Christ, anh em thảy đều làm một”( Ga 3:28, KJV). Để đi đến sự nhận biết được tầm
quan trọng của người phụ nữ trong Hội Thánh, chúng ta còn phải trải qua một chặng đường dài, nhưng dù gì cũng phải cảm ơn
phần nào sự ảnh hưởng, tác động của Tin Lành đến xã hội, đưa đến việc giải
phóng phụ nữ thoát khỏi gông xiềng của sự bạo hành và ban cho họ nhiều cơ hội
tốt để họ sống và làm việc. [2]
3. Vua không có lòng khoan dung, độ lượng (Et 1:13-22)
Lòng tự trọng của vua bị
khuấy động, châm chích, từ đó nó phun ra một thứ nọc độc ghê gớm xui khiến
người ta có thể làm bất cứ mọi chuyện mà họ sẽ không bao giờ dám làm nếu họ là người khiêm nhường và biết đầu phục
Chúa. Frances Bacon đã viết trong Bài Tiểu Luận
của mình thế này: “Hễ người nào cứ mãi nghĩ ngợi về
sự trả thù thì chắc chắn những vết thương lòng của chính người đó sẽ không lành
được, còn nếu không thì nó sẽ được lành và ổn thỏa”. A-suê-ru không bị rượu tác
động khiến cứ nghĩ mãi về vấn đề đó thì chắc hẳn vua sẽ không bao giờ truất phế
vợ mình như vậy. Cuối cùng, hoàng hậu cho thấy bà là người có chí khí hơn vua.
Vị vua Ba-tư này có 7
nhà cố vấn là những người chuyên trả lời cho vua những vấn đề, công việc nhà nước
và họ có quyền đến gần ngai vua. Họ cũng biết rõ cần phải làm cách nào để nịnh
hót và tâng bốc nhà vua nhằm bảo đảm cho những địa vị của họ
và họ sẽ khiến nhà vua ban cho họ những gì họ muốn. Cụm từ “hiểu được cả thời
vận” (c.13) cho biết rằng những người đó cũng là những nhà chiêm tinh chuyên
nghiên cứu các vì sao và dựa vào đó để có thể đoán định trước được tương lai
bằng những cách siêu nhiên. Các ông vua đông phương thời ấy thường nhờ các
chiêm tinh gia cho họ biết trước những vấn đề về cá nhân, về chính phủ và về
quân đội. (Da 1:20 2:2,10,17 4:7 5:7,11,17).
Về việc xử lý sự bất tuân của hoàng
hậu Vả-thi, nhà vua hỏi bàn với 7 vị cố vấn của ông rằng ông sẽ giải quyết việc
này thế nào. Trước tiên, họ vội vàng cường điệu hóa tầm quan trọng của vấn đề lên
quá mức: nào là hoàng hậu Vả-thi đã làm điều sai phạm không chỉ đối với vua mà
đối với cả đế quốc! Rồi đây, khi các quan khách trở
về nhà, họ sẽ nói với mọi người rằng chính hoàng hậu mà cũng không thèm tuân
theo lời nhà vua chồng bà gì cả, vậy thì hậu quả của sự đó sẽ nguy hại biết chừng
nào. Nào là phụ nữ trên toàn quốc chắc chắn sẽ coi thường chồng mình, và rồi ắt
sẽ có sự nổi loạn quy mô của các bà vợ cùng nhau nổi dậy chống lại các đức lang
quân khiến dẫn đến việc tất cả đàn bà sẽ chống nghịch lại đàn ông. (Nhiều nhà
bình luận cho biết từ “các người nữ” trong Et 1:17
có nghĩa là “phụ nữ nói chung”, còn từ “các bà vợ” trong c.18 ám chỉ đến những
phụ nữ thuộc tầng lớp quý tộc trong xã hội). Các vị cố vấn này đang chơi một
cái trò rất là ma mãnh; bằng cách thổi phồng vấn đề lên, họ cũng đã cường điệu
hóa tầm quan trọng của chính họ lên quá mức khiến nhà vua càng phải dựa dẫm vào
họ nhiều hơn.
Thế nhưng tình huống thực sự nghiêm trọng tới đâu? Khi hoàng hậu Vả-thi không chịu vâng
lời vua, tôi tự hỏi không biết có bao nhiêu quan chức tai to mặt lớn và các nhà
quý tộc tại bàn tiệc đó đã nói với nhau thế này: “Ồ! Hôn nhân của chính nhà vua
cũng đâu có khác gì hôn nhân của chúng ta! Vợ vua đã giữ vững lập trường của
mình, và như vậy bà đã làm một việc tuyệt vời thật!”. Không rõ rồi vua có bị
mất quyền và oai phong của mình đối với cả đế quốc hay không nữa kể từ sau giờ
đó vua đã rụt vai mình lại, cười gượng và đã làm điều ngu ngốc. “Sự giận dữ của kẻ ngu muội liền lộ ra tức thì. Còn người
khôn khéo che lấp sỉ nhục mình” (Ch
12:16 NIV).
Bảy người thông thái kia khuyên vua
phế truất hoàng hậu Vả-thi và hãy lập hoàng hậu khác
lên thay chỗ bà. Họ bảo đảm rằng nếu vua làm như vậy chắc chắn vua sẽ khiến cho
tất cả mọi phụ nữ trên khắp quốc gia đều phải sợ và thêm lòng kính trọng các
đức ông chồng của mình. Nhưng rồi thế nào nhỉ? Có phải mọi tấm lòng đều được
thay đổi nhờ vào việc các ông vua ban hành những chiếu chỉ hoặc nhờ vào các
cuộc hội nghị và quốc hội để thông qua những luật lệ của chính phủ? Nên xử phạt
Vả-thi như thế nào để khiến cho tất cả phụ nữ Ba-tư phải yêu kính chồng họ
nhiều hơn? Có phải tình yêu và sự kính trọng là những thứ có thể được phát khởi
trong lòng chúng ta bởi các sắc lệnh của con người?
Bảy kẻ khôn ngoan kia đã
tỏ ra vô cùng tàn nhẫn trong việc xử phạt Vả-thi và hết sức ngu xuẩn trong việc
lượng giá phụ nữ trên khắp đế quốc ra sao? Họ tàn ác đến độ thế nào khi họ lợi
dụng quyền hạn của luật pháp để hủy diệt một người phụ nữ và đe dọa sự hòa bình
trong từng gia đình trên khắp quốc gia như thế? Họ đang
khiêu khích mọi người chồng hãy hành động giống như vua A-suê-ru vậy và hãy
điều hành gia đình dựa trên nền tảng là các sắc lệnh hành pháp của nhà nước (Es 1:22). Thật là trái ngược với những lời Phao-lô
đã khuyên răn những người chồng người vợ trong Eph
5:18-33!
Vẫn đang bị kích động bởi cơn giận
dữ và lòng căm tức, nhà vua quyết tìm cách nào đó để chữa lành lòng kiêu ngạo
của mình đã bị tổn thương, xúc phạm, ông liền đồng ý với lời chỉ giáo của mấy
vị cố vấn kia phế bỏ Vả-thi (Et 1:19-21).
Ông phái nhiều người đưa thư đi khắp đế quốc tuyên bố ban ra chỉ dụ hoàng gia
là một chỉ dụ không cần thiết, không thể thi hành được và không thể sửa đổi hay
rút lại được. Vua A-suê-ru ban hành các sắc lệnh này ra mà không hề đắn đo suy
nghĩ xem mình đang làm điều gì đây (3:9-12).
Đó là một bằng chứng cho thấy tính kiêu căng tự phụ của vua.
Vua không cho thay chỗ của Vả-thi
ngay. Thay vào đó, ông xuất quân đi chinh chiến xâm lăng Hy-lạp, là nơi ông bị
thất bại nhục nhã; khi ông quay về nhà, ông lao vào tìm kiếm sự an ủi từ thú
vui thỏa mãn những cơn thèm muốn nhục dục của mình bằng cách cho người săn lùng
một tân hoàng hậu nào đó và tuyển vào hậu cung thật nhiều cung tần phi nữ. Phụ
nữ trong đế quốc của vua không những phải sống qụy lụy, lệ thuộc đàn ông mà còn
phải làm “những đối tượng sex” để đem lại cho họ sự thỏa mãn nhục dục. Càng
biết nhiều về đời sống thể xác của vua A-suê-ru thì bạn sẽ càng thấy ghê tởm
ông ta hơn.
Kinh Thánh không nói cho chúng ta
biết điều gì đã xảy ra với hoàng hậu Vả-thi. Nhiều học giả Kinh Thánh cho rằng
bà chính là Amestris, mẫu thân của Ạt-ta-xét-xe người đã cai trị đế quốc Ba-tư
từ năm 464-425 TC. Rất có thể Ê-xơ-tê hoặc sẽ không được ân sủng hoặc phải
chết; vì Amestris có ảnh hưởng lớn ở cương vị là một thái hậu trong suốt thời
trị vị của con trai mình.
Ạt-ta-xét-xe sinh năm 483 TC, là năm
có bữa đại tiệc đã được mô tả trong Et 1:1-22.
Có lẽ do lúc đó đang mang thai cho nên bà không muốn xuất hiện trước đám đàn
ông kia. Con trai bà là Ạt-ta-xét-xe cai trị trong suốt thời E-xơ-ra (Exo 7:1,7,11-12,21 8:1) và thời
Nê-hê-mi (Ne 2:1 5:14
13:6).
Nhưng bất luận thế nào thì trên sân
khấu giờ đây đang dành lối đi cho hai nhân vật chính của vở kịch bước ra trình
diễn: đó là Ha-man, một người ghét cay ghét đắng dân Do Thái, và một người là
Ê-xơ-tê, một phụ nữ đã cứu nguy cho dân tộc mình.
2. TÂN HOÀNG HẬU (Et 2:1-23)
(Trong phần này Ê-xơ-tê
trở thành vợ vua và Mạc-đô-chê được ban thưởng vì đã cứu mạng vua)
“Đức Chúa Trời đang dự
liệu những người con anh hùng của Ngài”, A.B. Simpson người sáng lập ra Hội
Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp đã nói như vậy, “ khi cơ hội
đến, Ngài sẽ đặt để họ vào vị trí thích hợp ngay, và thế giới sẽ lấy làm kinh
ngạc khi biết được họ đã đến từ đâu”.
Tiến sĩ Simpson còn cho biết thêm
rằng Đức Chúa Trời cũng có chuẩn bị sẵn những
người nữ anh hùng của Ngài, vì
chắc chắn Ê-xơ-tê đã được Đức Chúa Trời trù liệu trước Ngài sẽ dùng bà ở vai
trò là một tân hoàng hậu. Chúa không bao giờ bị
bất ngờ trước những tình huống hoặc sẽ uổng công khi chuẩn bị các đầy tớ Ngài.
Ngài cố ý đưa Giô-sép đến Ê-díp-tô (Thi 105:17), Ê-xê-chi-ên và Đa-ni-ên đến
Ba-by-lôn, Nê-hê-mi đến kinh đô Su-sơ, và Ngài cũng đã có dụng ý khi đưa
Ê-xơ-tê đến đế quốc Ba-tư để thi hành chức vụ của bà đối với dân Do Thái.
Khi bạn đọc chương Kinh Thánh này,
bạn sẽ thấy có ít nhất ba chứng cớ cho thấy bàn tay của
Đức Chúa Trời đã hành động trên các công việc của dân sự Ngài.
1. Sự đồng tình của vua (Et 2:1-4)
Đã gần bốn năm trôi qua
kể từ khi hoàng hậu Vả-thi bị truất phế. Trong suốt thời gian ấy, A-suê-ru trực
tiếp thân chinh thực hiện chiến dịch Hy-lạp đầy xui xẻo của mình và quay về
nước trong nỗi nhục nhã chứ không phải được người ta tôn vinh, ca tụng. Khi vua
suy xét lại những việc làm hấp tấp của mình đối với vợ trước đó, ông cảm thấy
muốn nhen nhóm lại tình cảm với Vả-thi; mặc dù ở hậu cung có rất nhiều cung tần
mỹ nữ, nhưng ông vẫn thấy nhớ hoàng hậu. Đây là điểm khác biệt giữa tình yêu và
tình dục. Sự phấn khích trôi qua tức thời không giống như giá trị bền vững dài
lâu ngày càng tăng thêm trong mối liên hệ tình cảm của cả một đời người.
Các cố vấn của vua không
muốn Vả-thi được phục hồi lại địa vị mình trong hoàng cung và được nhà vua sủng
ái như trước; vì nếu bà giành lại ngôi vị của mình thì chắc chắn bọn họ sẽ gặp
nguy hiểm. Cuối cùng, chính họ đã bảo vua đuổi bà ta đi khỏi hậu cung! Nhưng
còn có điều quan trọng hơn đời sống các cố vấn ấy của nhà vua, là sự tồn vong
của dân tộc Do Thái đang bị đe doạ. Chắc chắn Hoàng hậu Vả-thi sẽ không bao giờ
can thiệp giùm cho lợi ích của người Do Thái đâu. Có khi bà ta còn liên minh
phe cánh với Ha-man nữa là đằng khác.
Vì biết rõ nhà vua có
lòng tham muốn về nhục dục thể xác rất nhiều, cho nên, mấy vị cố vấn kia xúi
giục vua cho triệu tập hết thảy mọi thiếu nữ nào còn đồng trinh mà lại có nhan
sắc đẹp đẽ nhất trên khắp mọi miền đất nước tại hậu cung mới. Đây không phải là
“cuộc thi sắc đẹp” mà những người thắng cuộc được tưởng thưởng bằng cách sẽ
được ban cho cơ hội lên ngôi hoàng hậu. Các thiếu nữ này bị bắt buộc đưa vào
hậu cung và trở thành người của hậu cung. Mỗi đêm, nhà vua lại ngủ với một
người nữ mới; và sáng hôm sau thì người nữ đó liền trở nên một trong số những
tì thiếp của vua. Thế rồi có một thiếu nữ trong số ấy làm vua hết sức đẹp lòng
và nàng trở thành tân hoàng hậu của vua. Nghe có vẻ giống như điều xảy ra trong
câu chuyện “Nghìn Lẻ Một Đêm” vậy, ngoại trừ chi tiết trong các câu chuyện đó,
Hoàng đế Shahriar cứ mỗi ngày cưới một người vợ mới để rồi qua sáng hôm sau thì
liền sai người giết chết người vợ mới cưới đó. Theo ông ta thì làm như thế mới
đảm bảo rằng người vợ ấy sẽ chung thuỷ với ông!
Tôi không biết có bao
nhiêu cô gái đẹp đã trốn thoát được khi các đám tùy tùng, tay chân của vua đi
truy lùng đuổi bắt họ đem về cung? Có nhiều bà mẹ tan nát cả cõi lòng, và có
nhiều người cha đã không ngần ngại nói dối với người đi thi hành công vụ đó cho
vua và phủ nhận mình không có đứa con gái nào còn đồng trinh cả. Có lẽ có một
vài trong số các cô gái đã phải kết hôn đại với bất kỳ người đàn ông nào họ gặp
được vì như vậy còn hơn là phải trải qua cuộc sống tuyệt vọng bị giam chặt
trong hậu cung của nhà vua. Họ chỉ được ở với vua một lần mà thôi, và thế là họ phải thuộc về vua mãi mãi mà không được lập gia
đình với ai khác nữa cả. Nếu nhà vua lãng quên họ mất, thì họ đành phải chấp
nhận sống cuộc sống cô đơn nơi hậu cung. Vậy, họ có được danh giá chứ? Có lẽ là
có. Họ có hạnh phúc không? Không hề!
“Lòng
của vua ở trong tay Đức Giê-hô-va khác nào dòng nước chảy,
Ngài làm nghiêng lệch
nó bề nào tùy ý Ngài muốn” (Ch 21:1 NKJV).
Điều này không có nghĩa là Đức Chúa
Trời bắt buộc A-suê-ru phải chấp nhận kế hoạch của Ngài, hoặc rằng Ngài đồng ý
để cho vua sống đời sống lạm dụng tình dục ở phụ nữ nơi hậu cung như vậy. Nó
chỉ có ý nghĩa đơn giản là, Đức Chúa Trời không phải là tác giả gây ra tội lỗi
của họ, Ngài chỉ trực tiếp đưa họ vào trong tình huống khiến họ có những quyết
định là điều sẽ hoàn tất các mục đích của Ngài.
Các quyết định mà ngày nay người ta
thường đưa ra trong lĩnh lực quan trọng của chính phủ và ở lĩnh vực tài chánh
dường như rất xa rời với đời sống hằng ngày của dân sự Chúa, tuy nhiên chúng có
tác động, ảnh hưởng đến chúng ta và ảnh hưởng đến công việc Chúa qua nhiều
cách. Thật là tuyệt khi nhận biết rằng Đức Chúa Trời đang ngự trên ngai Ngài và
không có quyết định nào có thể ngăn cản các mục đích của Ngài. “Hết thảy dân cư trên đất thảy đều cầm như là không có,
Ngài làm theo ý mình trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất, chẳng
ai có thể cản tay Ngài và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy?” (Da 4:35 NIV).
“Không có thuộc tính nào của Đức
Chúa Trời an ủi con cái Chúa nhiều hơn là học thuyết nói về quyền tể trị tối
cao của Ngài”, Charles Haddon Spurgeon đã nói như
vậy. Trong khi chúng ta khẳng định rằng có nhiều điều liên quan đến học thuyết
này hiện vẫn đang được bao phủ trong sự bí ẩn, vậy lẽ nào Đức Chúa Trời Toàn
Năng lại không phải là Vị Chúa Tể của cõi vũ trụ này vốn là của Ngài. Ngay cả
mọi công việc của một vị vua ngoại giáo cũng đều luôn ở dưới sự cai trị, kiểm
soát của Ngài.
2. Sự chọn lựa của Ê-xơ-tê (Et 2:5-18)
Bây giờ chúng ta được
giới thiệu đến với Mạc-đô-chê và Ê-xơ-tê em họ ông, là người sẽ cùng với Ha-man
đóng vai chính trong vở kịch này. Một lần nữa, chúng ta lại thấy bàn tay của
Đức Chúa Trời hành động trên đời sống của người nữ Do Thái đáng yêu đó. Hãy xem
xét các tác nhân có liên quan sau đây.
Sự ảnh hưởng của
Mạc-đô-chê (Et 2:5-7):Mạc-đô-chê
được nhắc đến tên 58 lần trong sách này, ông được nhận dạng là một “người Do
Thái” 7 lần (2:5 5:13
6:10 8:7 9:29,31 10:3). Ông
tổ của ông là Kích, một trong số những người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem bị bắt
sang Ba-by-lôn trong lần bị trục xuất thứ hai vào năm 597 TC (IIVua 24:1-20). Si-ru, vua Ba-tư, đã tiến vào
Ba-by-lôn năm 539 TC và đến năm sau đó vua cho phép dân Do Thái hồi hương. Có
đến khoảng 50.000 người được trở về (Exo 1:1-2:70).
Vào những năm tiếp theo sau, những người Do Thái còn lại trở về Y-sơ-ra-ên;
nhưng Mạc-đô-chê đã quyết định ở lại thủ đô Ba-tư.
Trong khi người Ba-by-lôn đã gây khó
khăn cho đời sống của người Do Thái như vậy, thì người Ba-tư lại đối đãi họ rất
nhân hậu, khoan dung; có nhiều người Do Thái sống và làm ăn phát đạt trở nên
thịnh vượng ngay trong nơi họ bị bắt giam cầm làm phu tù đó. Mạc-đô-chê cuối
cùng cũng có được một địa vị chính thức trong bộ máy nhà nước và ông thường
ngồi làm việc tại cửa vua (Et 2:21). Có lẽ
ông được ban cho chức quyền này sau khi Ê-xơ-tê đã được tuyển vào cung, bởi vì
ông thường hay đi tới đi lui ở phía trước cung của
các phi tần xem thử con gái nuôi của mình đang làm gì ở đó (c.11). Nếu ông là
một nhân viên của vua, thì chắc hẳn ông thường có được những tin tức nội bộ.
Ê-xơ-tê làm con gái nuôi
của Mạc-đô-chê (c.15). Tên Ê-xơ-tê theo tiếng Ba-tư nghĩa là “ngôi sao”, còn
theo tiếng Hê-bơ-rơ là Hadassah – “cây mía”. (Thật là ngộ khi một cây mía lại có
thể trổ hoa giống như ngôi sao vậy.) Là một người nữ
xinh đẹp, Ê-xơ-tê cũng đã bị bắt đem về hậu cung của nhà vua cùng với nhiều
người nữ khác. Có một câu danh ngôn tiếng Anh nói rằng: “Sắc đẹp có thể sinh ra
những chiếc lá đẹp và lịch sự nhưng trái nó thì đắng”. Chúng ta không biết có
bao nhiêu cô gái trẻ đẹp tại đế quốc này đã phải hối hận vì họ đã được sinh ra
cùng với sắc đẹp!
Một trong những tác nhân
chính của câu chuyện ở đây là thực tế rằng dân thành Su-sơ
không hề biết Mạc-đô-chê và Ê-xơ-tê là người Giu-đa. Chỉ khi Mạc-đô-chê nói cho
các viên chức trong hoàng cung biết về ông thì họ mới biết được như vậy (3:4), nhà vua cũng chỉ mới được biết Ê-xơ-tê là
người Giu-đa ngay ở bàn tiệc do bà tổ chức khoản đãi vua với Ha-man (7:1-10).
Sự việc này cho chúng ta thấy một
vài vấn đề. Thứ nhất, nếu Mạc-đô-chê và Ê-xơ-tê đã bị đồng hóa theo người Ba-tư
thì chắc chắn họ đã không duy trì được một gia đình đàng hoàng khi còn tại gia
và sẽ không giữ luật Môi-se đâu. Thậm chí, họ còn làm theo cả những quy định
của sự kiêng ăn, chưa kể đến việc họ cũng đã vâng giữ các luật lệ biệt riêng
mình ra thờ phượng Chúa, do đó, quốc tịch thật của họ chắc chắn sẽ bị người ta
nhanh chóng phát hiện ra ngay thôi. Vì Ê-xơ-tê đã giữ đức tin theo cách Do Thái
của mình trong đời sống suốt thời gian trong năm đầu chuẩn bị (2:12), trong bốn năm bà làm hoàng hậu (2:16 3:7), bởi
vậy, sự che giấu ban đầu của bà rốt cuộc rồi cũng đã lộ ra.
Bất kỳ ai cũng có quyền giấu quốc
tịch thật của mình và đó không phải là một cái tội.
Cho đến chừng nào không ai hỏi họ gì cả, thì Mạc-đô-chê và Ê-xơ-tê vẫn có quyền
giấu nguồn cội dân tộc mình. Nếu người ta tưởng rằng hai anh em họ con cô con
cậu đó không phải là người Do Thái, vâng, thì đó chuyện của họ, kệ họ. “Không
phải lúc nào cũng có thể nói ra hết mọi lẽ thật”, Matthew Henry đã viết, “và
cũng có điều không thật sẽ đừng bao giờ nên nói ra”. Tuy nhiên, Ê-xơ-tê và
Mạc-đô-chê đã không nhận biết rằng Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đang hiện diện
trong xã hội của người ngoại bang đó thì quả là điều thật đáng tiếc.
Họ đã phải lẩn tránh quá
nhiều thứ. Những người không chính thức như họ sẽ phải sống cách sống như thế
nào? Dẫu rằng Luật Pháp Môi-se chỉ mang tính chất tạm thời, thế nhưng nó đã
được kết thúc bằng sự chết của Đấng Christ trên thập tự giá, những quy định của
luật ấy vẫn tiếp tục tác động; và người Do Thái đều hết lòng hết sức tuân giữ
chúng. Đa-ni-ên và các bạn mình trung tín vâng giữ luật lệ Chúa rất cẩn thận trong khi họ đang sống ở Ba-by-lôn, cho nên Đức
Chúa Trời đã ban ơn lành cho họ (Da 1:1-21).
Vậy lẽ nào Ngài lại không nhận thấy sự không trung thực của Mạc-đô-chê và
Ê-xơ-tê hay sao mà Ngài vẫn còn dùng họ để hoàn
tất các mục đích của Ngài?
Nhưng còn có điều quan trọng hơn cả
nếp sống của họ là vấn đề có một người nữ Do Thái
sống trong hậu cung và cuối cùng đã kết hôn với một người không phải là người
Do Thái. Luật Pháp Môi-se cấm tất cả các hình thức quan hệ tình dục bất
chính và những cuộc hôn nhân loạn luân, pha tạp (Xu
20:14 34:16 Le
16:1-50 Phu 7:1-4); cả E-xơ-ra với
Nê-hê-mi đều có đề cập đến vấn đề người Do Thái kết hôn với người ngoài dân tộc
(Exo 9:1-10:44 Ne
10:30 13:23-27). Song, Đức Chúa Trời
đã cho phép một nữ đồng trinh Do Thái trở thành vợ của một vị vua không phải là
người Do Thái lại vốn là một người ngoại đạo dâm đãng đầy dục vọng, một tín đồ
thờ bái Thần Lửa!
Có một số sinh viên trường Kinh Thánh
coi đây như là một “cuộc thi sắc đẹp” toàn quốc và Ê-xơ-tê là thí sinh dự thi
có lẽ đáng lý ra không nên tham dự. Họ cũng khẳng định rằng Mạc-đô-chê có khích
lệ động viên Ê-xơ-tê dự thi vì ông ta muốn có một người Do Thái ở trong nơi dễ
gây ảnh hưởng đến khắp đế quốc đề phòng trường hợp có sự cố gì xảy ra sau này.
Có thể sự lý giải này đúng. Tuy nhiên, các sinh viên khác thì bảo những người
nữ dự thi đó không phải do họ tình nguyện đến thi mà là vì họ bị các nhân viên
thi hành công vụ đặc biệt của vua tìm kiếm chọn lựa và đưa về tập trung lại như
vậy. Các cô gái này không phải bị bắt cóc, nhưng ai cũng đều biết rằng họ không
thể chống đối lại nổi ý muốn của tên bạo chúa Đông Phương ấy. Trong trường hợp
này tôi không nghĩ rằng chúng ta lên án Ê-xơ-tê về những gì đã xảy ra với bà do
những hoàn cảnh đưa đến, vì phần lớn chúng đều nằm ngoài sự kiểm soát của bà;
và Đức Chúa Trời tể trị trên mọi hoàn cảnh đó vì cớ ích lợi của dân sự bà.
Khi bạn xem xét tình trạng sa ngã
của dân Do Thái lúc ấy, sự bất tuân của những người
Do Thái sống sót còn ở lại đế quốc Ba-tư và nếp sống không có tính thuộc linh
chút nào của Mạc-đô-chê và Ê-xơ-tê, thì bạn có thắc mắc tại sao không thấy xuất
hiện danh Chúa trong sách này không? Liệu bạn có muốn tìm thấy danh thánh của
mình ở một dân tộc bất khiết như thế không?
Sự khích lệ của Hê-gai (Et 2:8-9): Tương tự Giô-sép được ưu ái trọng dụng
ở Ê-díp-tô (Sa 39:21), Đa-ni-ên ở Ba-by-lôn
(Da 1:9), giờ đây Ê-xơ-tê cũng đã được sủng
ái ở Su-sơ. Đức Chúa Trời vĩ đại đến nỗi thậm chí Ngài có thể làm việc trong
lòng và tâm trí của viên quản lý hậu cung! Đó là Hê-gai vốn không phải người Do
Thái. Công việc của ông là giúp vua giải trí, và ông chẳng biết gì về Đức Chúa
Trời chân thật của Y-sơ-ra-ên cả. Tuy nhiên, ông đang giữ một vai trò quan trọng
trong chương trình mà Đức Chúa Trời sắp thực hiện vì cớ dân sự Ngài. Thậm chí
ngày nay, Đức Chúa Trời cũng đang hành động khắp mọi nơi mà bạn và tôi thì cứ
nghĩ rằng Ngài đã không hiện diện.
Mỗi cô gái chuẩn bị vào với vua đều
được Hê-gai bỏ ra suốt một năm dài “làm đẹp” cho. Việc làm đẹp đó gồm phải ăn
kiêng theo chế độ ăn đặc biệt, xức những loại dầu thơm và các thứ mỹ phẩm đặc
biệt, có lẽ họ phải được huấn luyện một khóa về nghi thức xã giao. Họ cũng phải
tập làm một việc làm thỏa mãn những ham muốn của nhà vua. Người nào làm cho vua
hài lòng nhất thì ắt sẽ được trở thành vợ vua. Bởi vì có sự sắm sẵn của Đức
Chúa Trời, cho nên Hê-gai đã “làm đẹp đặc biệt” cho Ê-xơ-tê và ông còn dành một
chỗ tốt nhất trong hậu cung cho bà với mấy nàng hầu
của bà ở.
Quốc tịch của Ê-xơ-tê (Et 2:10-11): Nếu Ê-xơ-tê đã không được sinh ra trong dân
tộc Do Thái, thì có lẽ bà sẽ không bao giờ có thể cứu nguy được dân tộc mình
thoát khỏi sự tàn sát thảm khốc. Hình như sự giữ im lặng về quốc tịch mình của
hai anh em con nhà cô cậu đó là do Đức Chúa Trời hướng dẫn họ như vậy vì Ngài
đã có một công việc đặc biệt để cho họ thực hiện. Trong thế giới của người
ngoại giáo, có rất nhiều người theo chủ nghĩa bài xích Do Thái, và và động cơ
hành động của Mạc-đô-chê có lẽ là vì sự an toàn cá nhân của anh em họ, tuy
nhiên Đức Chúa Trời đang có điều gì đó đại sự hơn trong quyết định của Ngài.
Mạc-đô-chê và Ê-xơ-tê muốn được sống yên ổn, nhưng Đức Chúa Trời đã dùng họ để
giữ lại sự sống cho dân Do Thái.
Sự phê chuẩn của vua (2:12-18): Cứ mỗi đêm, lại có một trinh nữ
được đưa đến với vua; đến sáng mai cô gái đó sẽ bị chuyển đến ở tại cung dành
cho các tì thiếp, và không bao giờ được trở lại với
vua trừ phi vua nhớ đến nàng và cho gọi nàng quay lại. Tính vui thú nhục dục
buông thả như thế của vua A-suê-ru cuối cùng đã làm cho vua chán ngấy đến nỗi
vua không còn phân biệt nổi người nào là gái còn đồng trinh với người nào
không. Đây không phải tình yêu mà là sự thèm khát những cơn nhục dục khoái lạc
của xác thịt càng ngày càng dâng cao của vua mà thôi; và vua càng thèm khát thì
lại càng không cảm thấy được thỏa mãn.
Ê-xơ-tê đã chiếm được sự
ưu ái của bất kỳ ai gặp gỡ bà; khi nhà vua nhìn thấy bà, trong ông tràn đầy sự
phấn khích hơn nhiều so với khi ông thấy bất kỳ người nào trong số các cô gái
khác. Cuối cùng thì ông cũng đã tìm được một người thay thế vào vị trí của
Vả-thi rồi! Cụm từ “vua thương mến Ê-xơ-tê” (KJV) không lý giải được cho ý
nghĩa là vua đã bị cú sét ái tình đối với Ê-xơ-tê khiến vua yêu bà thực sự bằng
tình yêu thuần khiết và tự nguyện hoàn toàn. Bản dịch NIV dịch câu này rất hay:
“Giờ đây, Ê-xơ-tê thu hút, quyến rũ nhà vua hơn bất cứ ai trong số các cô gái
còn lại” (c.17). Điều này hiển nhiên là đến từ Đức Chúa Trời Đấng mong muốn Ê-xơ-tê có mặt trong chốn hoàng cung ấy là nơi bà có
thể can thiệp giùm cho dân tộc mình. “từ trước
vô cùng Ngài đã thông biết những việc đó ” (Cong
15:18 NKJV).
Thật đáng chú ý rằng Ê-xơ-tê đã giao
phó chính bản thân mình trong tay Hê-gai và làm theo những gì Hê-gai chỉ bảo.
Hê-gai biết rõ nhà vua thích gì, và ông tỏ ra thiên vị Ê-xơ-tê, ông mặc cho bà
những áo xống và trang điểm cho bà theo cách rất hợp với bà. Bởi vì Ê-xơ-tê có
sẵn vẻ đẹp thiên phú “tốt tươi hình dạng, đẹp đẽ dung nhan” (Et 2:7 NIV), cho nên bà không cần đòi hỏi “phải
sửa soạn nhiều hơn” như các cô gái khác (IPhi 3:1-6).
Nhà vua tự tay mình đội vương miện
cho Ê-xơ-tê và tuyên bố bà là tân hoàng hậu của quốc gia. Sau đó vua cho mời
các quan chức thuộc tất cả các ban ngành và vua mở một bữa đại tiệc thết đãi
họ. (Đây là bữa tiệc thứ tư được ghi nhận trong sách này. Các vua Ba-tư thường
tận dụng mọi cơ hội để tổ chức tiệc tùng ăn chơi!). Nhưng sự hào phóng này của
vua A-suê-ru thậm chí còn lan đến tận những người thường dân, vì ông có thông
báo cho họ biết rằng vào dịp lễ nào đó của cả quốc gia, ông sẽ ban phát quà đến
cho mọi người. Ngày lễ này có lẽ tương tự như ngày lễ kỷ niệm “Năm Hân Hỉ” của
người Hê-bơ-rơ. Tương tự cũng có miễn xá hết các loại thuế má, tôi tớ nô lệ
được phóng thích, người lao động được nghỉ ngơi. Vua A-suê-ru muốn tất cả mọi
người đều có cảm tình tốt đối với tân hoàng hậu.
3. Sự can thiệp của Mạc-đô-chê (Et 2:19-23)
Việc “Các nữ đồng trinh
hiệp lại lần thứ nhì” được đề cập trong câu 19 có lẽ có nghĩa là các quần thần
của vua lại tiếp tục tìm nhiều cô gái đẹp khác đưa về hậu cung cho vua, bởi vì
nhà vua không thích làm người chỉ có một vợ và trải qua phần đời còn lại của
mình chỉ với mỗi Ê-xơ-tê mà thôi. Những người lo chuẩn bị tổ chức “cuộc thi sắc
đẹp” lần hai này nhận thấy rằng đây là lần thi giã từ đối với “các thí sinh dự
thi” là những người sẽ không bao giờ được ra mắt vua. Họ được ban quà và được
cho về nhà. Riêng tôi thì thích cách hiểu đầu hơn. Cho dù các cô gái có được
làm hoàng hậu hay là không, thì đối với một người như A-suê-ru chẳng mảy may
quan tâm đến việc để cho nhóm các cô gái đẹp còn đồng trinh kia được tự do rời
khỏi cung điện của vua!
Nhưng ở đây có điều quan trọng hơn
cả là, trong câu 19 chúng ta thấy Mạc-đô-chê đang nắm giữ một địa vị có quyền
hành trong tay được người ta tôn trọng, ông thường ngồi nơi cửa vua (Et 4:2 5:13). Ở
phương đông thời cổ đại, cửa vua như thế là nơi được dùng tương tự như phòng xử
án thời hiện đại của chúng ta bây giờ, nơi người ta tiến hành giải quyết, xử lý
những việc công quan trọng (Ru 4:1 Da 2:48-49). Chắc hoàng hậu Ê-xơ-tê đã dùng uy tín
mình xin được cho người anh họ của bà công việc ấy.
Một lần nữa, chúng ta lấy làm kinh
ngạc về sự sắm sẵn của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên trong cuộc sống của một con
người không có lòng kính sợ Chúa. Cả Mạc-đô-chê lẫn Ê-xơ-tê đều không nói cho
ai biết quốc tịch thật của mình. Có lẽ chúng ta nên xếp họ cùng với Ni-cô-đem
và Giô-sép người A-ri-ma-thê là “những môn đồ bí mật, kín giấu” tuy nhiên cũng
đã được Đức Chúa Trời dùng để bảo vệ và khâm liệm xác Chúa Giê-xu (Gi 19:38-42). Tương tự hai người kia, Mạc-đô-chê
và Ê-xơ-tê đã “trốn” ở kinh đô của người Ba-tư bởi vì Đức Chúa Trời dành sẵn
một công việc rất đặc biệt cho họ làm. Mạc-đô-chê có thể lợi dụng địa vị chức
quyền của mình để đem lại ích lợi cho cả vua lẫn cho người Do Thái.
Tại các triều đình ở phương đông,
việc đi vận động ngầm trong hoàng cung là chuyện bình thường. Riêng chỉ có một
số ít quần thần nào đó mới được tự do đến gần nhà vua mà thôi (Et 1:10,14), và họ thường dùng những đặc quyền của mình để
nhận hối lộ của người dân nào cần đến sự giúp đỡ của nhà vua. (Đây là lý do tại
sao các quan chức dưới quyền của Đa-ni-ên đã không ưa thích gì ông ta; bởi lẽ
Đa-ni-ên là người quá trung thực. Xem Da 6:1-28).
Có thể mưu đồ ám sát đó có liên quan
đến việc đăng quang lễ lên ngôi của tân hoàng hậu và rằng bọn người phe cánh
trước đây của Vả-thi trong triều đình vốn rất ghét những việc nhà vua đã làm.
Hoặc cũng có thể do hai kẻ có mưu đồ ám sát đó rất căm ghét Ê-xơ-tê vì cớ bà là
người ngoài. Mặc dù không phải lúc nào cũng được tuân thủ, nhưng truyền thống
dân tộc cho biết rằng các vua Ba-tư thường phải chọn vợ trong số các cô gái
thuộc bảy gia đình dòng họ quý tộc của xứ. Những kẻ có âm mưu này chắc là người
theo chủ nghĩa truyền thống không muốn thấy “một phó thường dân” ngồi trên ngôi
hoàng hậu.
A-suê-ru đang hưởng thụ quyền lực,
sự giàu có và các thú vui hầu như bất tận của mình. Ông được bảo vệ theo hình
thức cách ly với mọi vấn đề diễn ra hàng ngày của cuộc sống (Et 4:1-4) thế nhưng việc này đã không bảo vệ nổi
sự an toàn cá nhân của ông. Người ta vẫn có thể âm mưu với nhau chống lại vua
và đe doạ mạng sống vua. Quả thực là như vậy, 14 năm sau đó, A-suê-ru đã bị ám
sát!
Đức Chúa Trời trong sự dự liệu của
Ngài, Ngài đã khiến cho Mạc-đô-chê có thể nghe được âm mưu đó và liền báo cho
hoàng hậu Ê-xơ-tê biết. Khi Ê-xơ-tê tâu lại với vua, bà đã giúp Mạc-đô-chê có
được uy tín và tiếng tăm vì ông đã kịp bóc trần mưu đồ đen tối kia.; điều này
có nghĩa là tên tuổi ông đã được chính thức lưu vào sách sử ký của triều chính.
Sự kiện này đóng một vai trò quan trọng trong vở kịch ở bốn năm sau (6:1-14).
Cụm từ “bị treo nơi cây hình” (2:23
KJV) có lẽ có nghĩa “bị đóng vào cọc nhọn dựng đứng lên xuyên qua người để
thiêu sống”, một hình thức thi hành án tử hình thông thường của dân Ba-tư thời
xưa, là giống dân không hề có lòng nhân hậu, khoan dung đối với các tù nhân.
Cách tử hình thông thường của dân Do Thái là ném đá; nhưng nếu họ thực sự muốn
làm nhục nạn nhân, thì họ sẽ treo thi thể người ấy lên trên cây cho đến khi mặt
trời lặn (Phu 21:22-23).
Mạc-đô-chê không được thừa nhận công
trạng và cũng chẳng được ban thưởng gì hết cho công
lao ông đã cứu mạng vua. Nhưng không sao. Đức Chúa Trời có nhìn thấy việc đó và
những vấn đề ấy đã được Ngài ghi nhận và sẽ biến chúng thành sự ích lợi vào
đúng thời của chúng. Những việc lành của chúng ta giống như những hạt
giống được gieo trồng xuống bởi đức tin, và bông trái của chúng không phải lúc
nào cũng xuất hiện ngay. “Tai họa đuổi theo kẻ
có tội. Còn phước lành là phần thưởng của người công bình” (Ch 13:21 NKJV). Nhưng dự tính toán thời gian của
Đức Chúa Trời luôn luôn chính xác, kịp lúc, và Ngài thấy đó là công việc ích
lợi chứ không hề uổng phí chút nào.
Tuy nhiên, âm mưu mà
Mạc-đô-chê vừa bóc trần này không là gì cả so với âm mưu cũng do chính ông phát
hiện ra vào bốn năm sau đó, ấy là mưu đồ của Ha-man kẻ thù của người Do Thái,
đã lập và sắp gây tội ác.
3. KẺ THÙ CŨ VỚI TÊN MỚI (Et 3:1-15)
(Phần này kể về một con
người xấu xa độc ác dám thách thức quyền năng của Đức Chúa Trời Toàn Năng)
Suốt bốn năm liền, mọi
thứ ở Su-sơ đều rất bình yên. Ê-xơ-tê đã lên ngôi hoàng hậu từ dạo ấy, còn
Mạc-đô-chê vẫn tiếp tục làm công việc cho vua tại cửa vua. Sau đó, mọi thứ đã
thay đổi, hết thảy người Do Thái sống trong đế quốc chợt nhận thấy rằng họ đang
gặp nguy hiểm sắp bị người ta giết chết nhằm chỉ để làm thỏa mãn lòng căm thù
của một con người tên là Ha-man.
Sách Ê-xơ-tê là một trong năm sách của Cựu Ước mà người Do Thái gọi là “Kinh
Điển ” hoặc gọi là “Năm Cuộn Giấy” (từ Megilloth
trong tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa “cuộn giấy da”). Các sách còn lại đi cùng với
nó gồm sách Ru-tơ, Truyền Đạo, Nhã Ca và Ca Thương.
Mỗi năm cứ vào dịp Lễ Phu-rim, người ta sẽ đem sách Ê-xơ-tê ra tuyên đọc giữa
nhà hội; và hễ khi nào nghe đọc đến tên Ha-man, thì người ta liền dậm chân la
lên: “Hãy xoá tên hắn đi!” Đối với người Do Thái ở bất cứ nơi đâu, thì Ha-man
đều là hiện thân của kẻ cố tình muốn tuyệt diệt dân Y-sơ-ra-ên.Chương này giải
thích cho chúng ta biết lý do tại sao Ha-man lại là một con người nguy hiểm
đáng sợ như vậy.
1.Tổ tiên của Ha-man (Et 3:1a)
Ha-man là người
A-ga-gít, và điều này cho biết ông đến từ miền A-gát của đế quốc. Nhưng điều
này còn có nghĩa ông là hậu duệ của A-gát vua dân A-ma-lét (ISa 15:8). Khi nhắc đến vua dân A-ma-lét này, chúng ta dễ dàng hiểu được
ngay lý do tại sao Ha-man lại ghét người Do Thái đến vậy: Đức Chúa Trời đã
tuyên chiến với dân A-ma-lét, Ngài muốn tên tuổi họ và những ký ức về họ bị xóa
khỏi thế gian này.
Câu chuyện đưa chúng ta trở về thời Xuất Khỏi Ai-cập của
Y-sơ-ra-ên (Xu 17:8-15), lúc ấy dân A-ma-lét
đã tấn công những người Y-sơ-ra-ên yếu đuối thuộc bộ phận hậu cần của dân sự
đang ra đi (Phu 25:18). Sau khi Môi-se
truyền lịnh cho Giô-suê đánh lại dân A-ma-lét, ông đã cầu nguyện trên núi thay
cho dân sự và Giô-suê đã giành thắng lợi rực rỡ. Đức Chúa Trời phán bảo Mê-si-a
hãy ghi vào sử sách rằng Ngài đã tuyên chiến với dân A-ma-lét và rồi đây sẽ có
ngày Ngài tuyệt diệt họ hoàn toàn vì những gì họ đã làm đối với dân sự Ngài.
Môi-se nhắc người Y-sơ-ra-ên nhớ lại việc họ đã bị dân A-ma-lét xảo quyệt tấn
công trước khi họ tiến vào Đất Hứa dạo ấy (25:17-19).
Chính Sau-lơ, vị vua đầu tiên của
Y-sơ-ra-ên là người đã được Đức Chúa Trời truyền lịnh hãy tiêu diệt dân
A-ma-lét (ISa 15:1-35); nhưng Sau-lơ đã
không hoàn thành được sứ mạng được giao và đánh mất luôn ngôi vị của mình. (Có
một người A-ma-lét quả quyết rằng chính anh ta đã giết chết Sau-lơ tại chiến
trường. xin xem IISa 1:1-10). Bởi vì Sau-lơ
không chịu vâng lời Đức Chúa Trời tuyệt đối đã để cho một số người A-ma-lét
sống; và một trong số những hậu duệ của số người A-la-lét sống sót đó chính là
Ha-man, kẻ đã có dã tâm quyết tiêu diệt người Do Thái là kẻ thù xưa của dân tộc
hắn. Thật đáng lưu ý rằng vua Sau-lơ người Bên-gia-min đã thất bại vì không
chịu tiêu diệt hết người A-ma-lét; còn Mạc-đô-chê cũng là người Bên-gia-min (Et 2:5) lại dám bước ra chiến trường đánh bại được
Ha-man. Cũng thật đáng chú ý rằng thủ lĩnh xây dựng nên dân tộc A-ma-lét là một
hậu tự của Ê-sau (Sa 36:12), và Ê-sau lại là
kẻ thù của Gia-cốp em trai mình. Đây là giai đoạn hai của cuộc xung đột thuộc
kỷ nguyên cũ giữa xác thịt và Đức Thánh Linh, giữa Sa-tan và Thượng Đế, giữa
con đường đức tin và con đường thế gian.
Nói về con người Ha-man
thì cái gì cũng thật là đáng ghét; bạn không thể tìm
thấy ở hắn ta có lấy một điều gì đó đáng được ca ngợi. Đúng là như vậy, ở con
người này điểm nào Đức Chúa Trời cũng gớm ghét
cả!
“Có
sáu điều Đức Giê-hô-va ghét,
Và bảy điều Ngài lấy
làm gớm ghiếc:
Con mắt kiêu ngạo,
lưỡi dối trá,
Tay làm đổ huyết vô
tộ;
Lòng toan những mưu
ác,
Chân vội vàng chạy đến
sự dữ,
Kẻ làm chứng gian và
nói điều dố,
Cùng kẻ gieo sự tranh
cạnh trong vòng anh em” (Ch 6:16-19 NKJV).
Xin bạn hãy ghi nhớ kỹ 7 điều ác này
để khi đọc sách Ê-xơ-tê, bạn sẽ thấy chúng
được thể hiện trong con người tồi
bại đó ra sao.
2. Quyền thế của Ha-man (Et 3:1b)
Vào khoảng giữa năm thứ
7 đến năm thứ 12 thời vua A-suê-ru trị vì (c.7 Et 2:16), nhà vua quyết định lập Ha-man lên làm
quốc trưởng của quốc gia. Thử nghĩ xem: Mạc-đô-chê đã cứu mạng vua nhưng chẳng
nhận được lời cảm ơn nào, lại không được ban thưởng gì; còn Ha-man độc ác kia
chẳng làm được trò trống gì thì lại được thăng quan tiến chức! Trong cuộc sống,
dường như có nhiều điều thật là bất công; tuy nhiên, Đức Chúa Trời biết rõ việc
Ngài đang làm và Ngài sẽ không bao giờ rũ bỏ sự công bình Ngài, Ngài sẽ không
để cho những con cái Ngài làm việc lành việc thiện mà lại không được thưởng
công.(Thi 37).
Có lẽ Ha-man đã nhờ vào sự nịnh bợ
mới tiến tới được địa vị mới đầy quyền lực này bởi vì hắn là loại người đó. Hắn
là một kẻ kiêu căng ngạo mạn, mục đích của hắn là chiếm cho được quyền hành
trong tay và muốn được người ta công nhận, trọng vọng. Như chúng ta đã thấy,
vua A-suê-ru là một người yếu đuối, cả tin, dễ bị bốc đồng khi được nịnh hót,
tâng bốc và lại có tính thích làm hài lòng người ta; vì thế Ha-man chẳng khó
khăn gì khi tiến hành mưu toan của mình.
Một số sinh viên trường Kinh Thánh
coi Ha-man là hình ảnh minh họa của “con người tội lỗi” là kẻ rồi đây sẽ có
ngày xuất hiện thống trị trên loài người một cách tàn độc, vô nhân đạo (IITe 2:1-17 Kh 13:1-18).
Ha-man được nhà vua ban cho chức quyền cao trọng, Sa-tan cũng sẽ ban quyền lực
rất lớn cho kẻ thống trị thế giới độc ác này, và chúng ta gọi kẻ đó là
Anti-Christ (13:2,4). Tương tự Ha-man căm ghét dân Do Thái và cố tìm
cách tiêu diệt họ, Anti-Christ cũng sẽ dấy lên làn sóng bài xích Do Thái toàn
cầu (12:13-17). Ban đầu, nó làm bộ thân
thiện với người Y-sơ-ra-ên và thậm chí nó còn kết hiệp ước bảo vệ họ nữa, nhưng
rồi sau đó nó sẽ phá vỡ hiệp ước và chống lại dân tộc nào mà nó đã từng đồng ý
giúp đỡ (Da 9:24-27). Tương tự Ha-man cuối
cùng đã bị đánh bại hoàn toàn và bị xử tội, thì Anti-Christ cũng sẽ bị Chúa
Giê-xu Christ đánh thắng, chế ngự và bắt giam vào trong hồ lửa đời đời (Kh 19:11-20).
Đức Chúa Trời để cho Ha-man được đề
bạt vào địa vị cao như vậy bởi vì Ngài có mục đích cần được hoàn thành qua con
người hắn. (Ro 9:17). Chúa luôn giữ lời hứa
của Ngài một cách nghiêm túc và Ngài không bao giờ phá vỡ giao ước mà Ngài đã
lập với dân sự. Bạn tôi là J. Vernon McGee từng nói thế này: “Con người đó vừa
chú tâm nghĩ đến đám tang của một trong số các dân tộc và điều ấy sắp sửa tiêu
diệt hắn ta”; và Ha-man không phải là sự ngoại lệ.
Những việc mà người ta dùng quyền
hành của mình để thực hiện chính là sự trắc nghiệm bản chất họ. Họ đã dùng
quyền hành của mình để tự thăng quan tiến chức cho chính mình hay là để giúp đỡ
người khác? Họ thường làm vinh hiển bản thân họ hay họ làm vinh hiển Đức Chúa
Trời? Đa-ni-ên được ban cho quyền cao chức trọng tương tự như Ha-man, thế nhưng
ông đã dùng quyền hành của mình để tôn cao Đức Chúa Trời và giúp đỡ nhiều người
khác (Da 6:1-28). Dĩ nhiên, có sự khác nhau
giữa Đa-ni-ên và Ha-man: Đa-ni-ên là người khiêm nhường đức độ của Đức Chúa
Trời, còn Ha-man là một con người kiêu ngạo của thế gian.
3. Tính kiêu căng tự phụ của Ha-man (Et 3:2-6)
Ha-man không bằng lòng
chỉ với chức vụ cao trọng và việc lợi dụng nó, hắn còn muốn được tất cả mọi
người nơi công cộng phải nhận biết hắn và tỏ lòng kính trọng hắn là những điều
hắn có thể đạt được. Mặc dù người dân thời xưa ở vùng Cận Đông có thói quen hay
tỏ ra công khai sự kính trọng ai đó, nhưng nhà vua vẫn phải ban ra một chỉ dụ
đặc biệt có liên quan đến Ha-man, nếu không thì người ta ắt sẽ không chịu qùy
lạy hắn đâu. Ha-man là một kẻ ti tiện, hèn hạ nhưng lại đang nắm một địa vị
quan trọng; và còn có nhiều người quý tộc khác có giá trị hơn hắn nhiều đã
không có thiện chí tỏ ra nhận biết hắn. Sự thật này có ý nói bóng gió rằng
Ha-man có được địa vị không phải do hắn kiếm được mà là do hắn kiếm chác. Nếu
hắn là một quan chức có giá trị thực sự, thì các cán bộ lãnh đạo khác ắt đã rất
vui mừng nhận ra hắn.
Tính tự cao tự đại
thường làm lòa mắt người ta khiến họ không còn biết thực sự mình là ai và không
chịu chấp nhận rằng họ đang có những thứ mà quả thực họ không xứng đáng có được
như vậy. Walter Savage Landor một nhà văn tiểu luận người Anh (1775-1864) đã
viết: “Khi bóng của những con người thấp bé ngã dài ra, thì đó là dấu hiệu cho
thấy mặt trời đang lặn dần”. Thật vậy, Ha-man là một người bé nhỏ, nhưng vì
tính tự cao tự đại của hắn đã thúc ép hắn tự nhìn vào chính mình rồi cứ ngỡ
rằng mình to lớn hơn con người thật sự của mình.
“Những kẻ ngu xuẩn
thường tự cho mình xứng đáng với những gì được ban cho với địa vị, chức vụ của
mình”, Aesop đã viết như vậy trong câu chuyện ngụ ngôn “Con Lừa Làm Cán Bộ” của
mình; và câu chuyện ấy hoàn toàn ám chỉ Ha-man. Hắn được người ta công nhận
không phải bởi bản tính hay tài năng của hắn, mà là vì địa vị hắn đang nắm giữ
theo chỉ dụ của nhà vua ban ra “Đừng cố biến mình thành một người thành công”,
Albert Einstein bảo, “nhưng hãy ra sức trở thành một người có giá trị”. Mọi
người nam người nữ nào có giá trị thì họ đều xứng đáng được người ta công nhận.
Sự thăng chức của Ha-man
nói lên điều tồi tệ nhất ở con người Ha-man, nhưng nó cũng nói lên điều tốt
nhất ở con người Mạc-đô-chê; vì Mạc-đô-chê không chịu tỏ lòng kính trọng Ha-man. Tuy nhiên, xin hãy nhớ cho, người Do Thái sẽ
không bị vi phạm Điều Răn thứ hai (Xu 20:4-6)
khi họ quỳ xuống trước những người có quyền hành chẳng khác nào Cơ Đốc nhân
ngày nay bày tỏ lòng tôn kính đối với các cán bộ chính quyền vậy. Ví dụ,
Áp-ra-ham đã quỳ xuống trước dân chúng họ Hếch khi ông thương lượng với họ xin
đất làm mộ địa chôn cất Sa-ra (Sa 23:7).
Cũng vậy, các anh của Giô-sép đã quỳ xuống trước Giô-sép vì tưởng rằng ông là
một quan lớn người Ê-díp-tô (42:6). Ngay cả
Đa-vít cũng đã quỳ xuống trước Sau-lơ (ISa 24:8),
và Gia-cốp với gia đình ông đã quỳ xuống trước Ê-sau (Sa
33:3,6-7).
Người Do Thái thậm chí còn quỳ xuống trước lẫn nhau (IISa
14:4 18:28).
Có một đám đông người đang ở tại cửa
vua, một số đang năn nỉ Ha-man giải quyết giùm các vấn đề của họ. Rất thường
xuyên, Ha-man không chú ý việc Mạc-đô-chê vẫn hay đứng trong khi những người
khác đều quỳ mọp xuống cúi lạy hắn. Nhiều quan viên ở đó hỏi Mạc-đô-chê sao lại
có hành vi như vậy, và đó là lúc Mạc-đô-chê công khai cho họ biết bởi vì ông là
người Do Thái (Et 3:3-4). Mấy ngày sau, các
quần thần trong triều bàn tán xôn xao về vấn đề Mạc-đô-chê, có lẽ họ cố tình
làm thay đổi cách nghĩ của ông ta, rồi họ đã báo cho Ha-man biết về hành vi của
Mạc-đô-chê. Kể từ đó, Ha-man để mắt theo dõi Mạc-đô-chê và nung nấu trong lòng
sự căm giận, hắn không chỉ căm giận người đàn ông này tại cửa vua mà thôi, hắn
còn nuôi lòng thù hận đối với hết thảy người Do Thái đang sinh sống trên toàn
quốc.
Lý do tại sao Mạc-đô-chê lại không
chịu quỳ xuống trước Ha-man như vậy? Sự gì đã ngăn cản người Do Thái này không
cho ông làm điều mà mọi người khác đang làm đó? Cho dù Mạc-đô-chê không thể tôn
kính Ha-man, nhưng ít ra ông cũng phải tôn trọng địa vị mà nhà vua đã ban cho
hắn chứ.
Theo tôi thì câu trả lời cho điều
này là, vì Ha-man là người A-ma-lét, và người A-ma-lét vốn là kẻ thù không đội
trời chung của người Do Thái. Đức Chúa Trời thề và lời thề đó được ghi thành
văn bản rằng Ngài đã tuyên chiến với dân A-ma-lét và Ngài sẽ chiến đấu với họ
từ đời nọ sang đời kia (Xu 17:16). Vậy thì làm
sao Mạc-đô-chê lại có thể chịu tỏ lòng kính trọng đối với kẻ thù này của dân Do
Thái và cũng là kẻ thù của Thượng Đế được? Ông không muốn phạm phải điều mà
Giô-áp đã nói về vua Đa-vít: “vua thương những
người ghét vua, và ghét những người thương vua” (IISa 19:6 NKJV).
Cuộc luận chiến của Mạc-đô-chê với
Ha-man không phải là sự tranh chấp giữa một cá nhân với một con người khó tính,
kiêu ngạo. Đó là sự tuyên bố của Mạc-đô-chê rằng ông là người đứng về phía Đức
Chúa Trời trong cuộc đấu tranh dân tộc giữa người Do Thái với người A-ma-lét.
Mạc-đô-chê không muốn mình phạm lại lỗi lầm mà vua Sau-lơ tổ tiên mình đã phạm
là đã quá khoan dung độ lượng với kẻ thù của Đức Chúa Trời (ISa 15:1-35). Bởi vì Sau-lơ thỏa hiệp với người
A-ma-lét, cho nên ông đã đánh mất ngai vàng; còn Mạc-đô-chê thì quyết chống lại
họ, cho nên cuối cùng ông đã giành được ngôi vị (Et
8:15).
Hãy nhớ rằng giả sử xảy ra sự tuyệt
diệt người Do Thái lần đó thì có nghĩa là sẽ kết liễu lời Đức Chúa Trời đã hứa
ban Đấng Mê-si-a cho thế gian. Chúa hứa bảo vệ dân Ngài để họ trở thành ống
dẫn, qua đó Ngài có thể ban Lời Ngài và Con Ngài xuống thế gian. Y-sơ-ra-ên sẽ
đem nguồn phước cứu rỗi đến với mọi dân tộc (Sa
12:1-3 Ga 3:17-18). Không phải
Mạc-đô-chê đang ra sức nuôi dưỡng sự rửa hận cá nhân chống lại Ha-man đến nỗi
khiến ông tham gia vào trận chiến không ngừng nghỉ của Đức Chúa Trời nghịch
cùng những kẻ đang làm việc cho ma quỷ và đang cố ngăn cản ý muốn của Ngài trên
đất này (Sa 3:15).
Mạc-đô-chê không phải là người duy
nhất trong Kinh Thánh đã vì lương tâm mình mà hăng hái thể hiện “sự bất phục về
dân sự” như vậy. Các bà mụ đã bất phục lệnh của Pha-ra-ôn không chịu giết hại
con trẻ người Do Thái (Xu 1:15-22). Đa-ni-ên
với ba bạn mình đã từ chối không chịu ăn thức ăn của vua (Da 1:1-21), ba bạn ông cũng không chịu quỳ trước
lạy bức tượng Nê-bu-cát-nết-sa (3:1-30). Các
sứ đồ không ngừng làm chứng tại Giê-ru-sa-lem và tuyên bố “Chúng ta thà vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn vâng lời
người ta” (Cong 5:29). Đây là lời
tuyên bố đức tin mạnh mẽ, hùng hồn thật tuyệt vời, hoặc cũng có thể đó là lời
thoái thác hèn nhác trách nhiệm cá nhân, nó tuỳ thuộc vào tấm lòng của người
nói câu ấy.
Nhưng xin làm ơn chú ý rằng, trong
mỗi trường hợp này, người ta đều có lời trực
tiếp từ Đức Chúa Trời bảo đảm cho họ thấy họ đang làm theo ý Ngài. Và cũng cần lưu ý thêm là, trong tất cả trường
hợp trên, các con cái Chúa đều là những người tốt và có lòng kính sợ Chúa. Họ
không chủ trương dấy loạn hoặc làm thiêu rụi dần các toà nhà chỉ vì “lương
tâm”. Bởi lẽ mọi quyền hành dân sự đều do Đức Chúa Trời cho phép, ban hành (Ro 13:1-14), cho nên Cơ Đốc nhân phải nghiêm túc
chấp hành luật lệ của đời sống xã hội; và nếu chúng ta muốn làm được điều đó
thì chúng ta phải biết phân biệt sự khác nhau giữa những thành kiến cá nhân với
những sự lên án của Kinh Thánh.
Còn một điều khác có liên quan đến
nữa là: vì Mạc-đô-chê tự nhận mình là người Do Thái, cho nên ông đang tìm đến
với các rắc rối cho cả ông lẫn cho hết thảy những người Do Thái đang sống trên
khắp đế quốc. Sự vâng lời bởi lương tâm và bởi ý
Chúa mà lại đi bất chấp, coi thường luật lệ dân sự thì đó không phải là điều
người ta có thể thực hiện được một cách khinh suất, ngẫu nhiên. Tuy nhiên, có một số “những người phản đối vì
lương tâm: mà chúng ta thường thấy trên ti vi có vẻ giống như những người quê
mùa thô kệch sắp đi tới dự một bữa tiệc nào đó hơn là giống nhưng người lính
chiến sắp xông ra trận tuyến. Họ không bao giờ dám đứng lên với những người như
Martin Luther đã thách thức các giáo sĩ cấp cao (giám mục hoặc tổng giám mục)
và các nhà thống trị chuyên quyền bằng lời tuyên bố: “Lương tâm tôi đã bị Lời
Đức Chúa Trời cai trị rồi. Giờ tôi cứ làm như thế, bởi vì tôi không thể làm
khác đi được!”.
Có lẽ Mạc-đô-chê đã thiếu sót khi
nhắc đến những thói quen tôn giáo của mình, tuy nhiên chúng ta rất ngưỡng mộ
tinh thần chống đối đầy can đảm đó của ông. Chắc chắn Đức Chúa Trời đã đặt để
ông và Ê-xơ-tê vào trong các chức vụ, địa vị chính thức của triều chính như vậy
để họ có thề cứu nguy dân tộc mình thoát khỏi sự tuyệt diệt. Có lẽ họ xao lãng
luật lệ Do Thái của mình chẳng phải do họ cố ý vì họ đã dám liều cả mạng sống
mình để bảo vệ nó như bạn đã thấy đó.
Tương tự một khối u ung thư, lòng
căm giận của Ha-man đối với Mạc-đô-chê đã nhanh chóng phát triển thành lòng căm
thù đối với cả dân tộc Do Thái. Đáng lý ra Ha-man đã tâu cho vua biết sự vi
phạm của Mạc-đô-chê, và nhà vua ắt sẽ bỏ tù Mạc-đô-chê hoặc có khi đem xử tử ông cũng nên; thế nhưng, điều đó vẫn không làm thoả
mãn lòng thèm khát báo thù của Ha-man. Không, sự căm tức của hắn chắc phải đã
được nuôi dưỡng bởi điều gì đó khủng khiếp hơn, ví dụ như là sự hủy diệt cả một
dân tộc nào đó chẳng hạn. Giống như Giu-đa ở trên nơi Phòng Cao thế nào, thì
Ha-man cũng đang ở trong cung điện thế ấy: hắn đã biến thành kẻ sát nhân. Mark
Twain gọi chủ nghĩa bài Do Thái là “sự ganh ghét, đố kỵ đã bị thổi phồng lên
quá cỡ của những con người có ý nghĩ hèn hạ, ti tiện ”. Và ông ta đã đúng.
4. Tính xảo quyệt của Ha-man (Et 3:7-15a)
Bây giờ chúng ta hãy
bước theo từng bước theo sau kẻ tên Ha-man độc ác kia khi hắn tiến hành thực
hiện kế hoạch tuyệt diệt dân tộc Do Thái.
Hắn chọn ngày (Et 3:7): Ha-man cùng với
một số chiêm tinh gia trong triều bày trò rút thăm để chọn ngày giờ hủy diệt
người Do Thái. Bọn họ rủ nhau bí mật làm điều này trước khi Ha-man đến báo cho
vua biết kế hoạch của hắn. Ha-man muốn chắc ăn rằng các thần của hắn sẽ giúp
hắn và kế hoạch hắn đưa ra đó phải thành công mới được.
Các dân tộc phương đông
thời ấy thường thực hiện một số bước quan trọng khi họ cầu hỏi những vì tinh tú
và xin các điềm báo trước. Trước đó một thế kỷ, vua Nê-bu-cát-nết-sa và các
tướng tá dưới quyền vua không nhất trí với nhau về
chiến lược của một chiến dịch gì đó, họ liền dừng cuộc thảo luận lại để cầu hỏi
các thần của họ. “Vua Ba-by-lôn đứng lại nơi cháng ba, là nơi vào hai con
đường ấy, đặng bói khoa. Vua ấy lắc những cái tên, hỏi các thần tượng, và xem
xét gan” (Exe 21:26 NKJV) [3] Từ vựng puru
(Phu-rơ) trong tiếng Ba-by-lôn nghĩa là “rút thăm”, và người Do Thái đã căn cứ
vào từ này để đặt tên cho ngày lễ tiệc đó của họ là Lễ Phu-rim (Exo 9:26).
Thật lý thú khi Ha-man bắt đầu thực
hiện mưu toan của hắn nhằm vào tháng Nít-san (tức tháng giêng), là tháng người
Do Thái tổ chức lễ ăn mừng ngày họ được giải phóng khỏi
Ai Cập. Khi các chiêm tinh gia bắt thăm mỗi ngày mỗi tháng theo lịch
xong, họ đi đến quyết định chọn ngày thích hợp nhất: đó là ngày 13 tháng 12
(c.13). Chắc chắn đây là quyết định bởi Đức Chúa Trời, bởi vì đó là quyết định
mà người Do Thái đã có cả một năm tròn để chuẩn bị, và bởi vì nó đã cho
Mạc-đô-chê và Ê-xơ-tê có thì giờ để hành động. “Người
ta bẻ thăm trong vạt áo. Song sự nhứt định do nơi Đức Giê-hô-va mà đến”
(Ch 16:33 KJV).
Liệu Ha-man có thất vọng với sự chọn
lựa này không? Có lẽ hắn muốn hành động ngay, hắn không muốn người Do Thái có
cảnh giác trước sự tấn công của hắn, và như thế thì hắn mới thỏa mãn được lòng
thù hận của hắn sớm hơn. Mặt khác, hắn đã có gần một năm nuôi dưỡng hận thù này
và giờ đây là lúc thích hợp để hắn báo thù, cho nên chắn chắn hắn rất vui mừng.
Hắn muốn nhìn thấy dân Do Thái sợ hãi hắn và nhìn biết hắn đang có quyền hành
cai trị trên họ. Ngay cả việc cho dù người Do Thái lợi dụng cơ hội trì hoãn này rời khỏi đế quốc, thì hắn sẽ cũng có thể tống khứ họ
đi và chiếm đoạt lấy mọi của cải hàng hóa của họ bỏ lại. Kế hoạch này của hắn có
vẻ rất hoàn hảo.
Ha-man đòi hỏi sự cho
phép của nhà vua (Et 3:8-11): Tương tự
Sa-tan kẻ thù lớn của dân Do Thái, Ha-man vừa kẻ sát nhân vừa là kẻ nói dối (Gi 8:44). Bắt tay thực hiện mưu đồ, thậm chí
Ha-man cũng chẳng thèm nói cho vua biết tên cụ thể của một dân tộc mà hắn vu
cáo là họ sắp lật đổ vương quốc của vua. Lời trình tấu mơ hồ này của hắn càng
khiến cho sự nguy hiểm nghe có vẻ trở nên nghiêm trọng hơn. Những con người mà
hắn cho là nguy hiểm đó sự thật thì họ đang bị tản lạc khắp nơi trên khắp đất
nước hắn, thậm chí họ đang rất cần nhà vua làm điều gì đó cho đời sống họ là
đằng khác.
Ha-man đã đúng khi hắn
mô tả dân Do Thái là một dân tộc mà “luật pháp của chúng nó khác hơn luật pháp của các dân
khác” (Et 3:8). Luật Pháp của dân
Do Thái khác thật bởi vì họ là tuyển dân của Đức Chúa Trời, là dân tộc duy nhất
nhận được luật thánh của Ngài do chính Ngài trực tiếp ban cho, “Lại há có nước lớn nào có những mạng lịnh và luật lệ công
bình như cả luật pháp nầy, mà ngày nay ta đặt trước mặt các ngươi chăng?” (Phu 4:8
NKJV) và câu trả lời là “Chắn chắn không!”.
Sự thực là chỉ có một người tên
Mạc-đô-chê không tuân theo luật lệ của nhà vua mà thôi, thế nhưng Ha-man đã
thổi phồng chuyện đó lên quá đáng, và quy cho cả dân tộc Do Thái đã không tuân
theo tất cả mọi luật lệ của đất nước hắn. Tiên tri Giê-rê-mi từng chỉ dạy dân
Do Thái trong cuộc Lưu Đày là hãy cư xử tử tế và sống hòa đồng, hợp tác với
những kẻ đã bắt họ làm phu tù (Gie 29:4-7),
thực tế cho thấy dường như họ đã làm theo lời chỉ dạy đó. Nếu dân Do Thái sống
trong đế quốc Ba-tư đã tái phạm tội nổi loạn mưu phản nhà vua thì chắc chắn vua
sẽ biết liền.Và cho dù là chỉ có một vài người Do Thái ở tại một số nơi nào đó
trên đất nước đã bất tuân luật lệ vua, nhưng tại sao hết thảy dân tộc Do Thái
lại phải bị huỷ diệt cả chỉ vì sự vi phạm của số ít người ấy?
Ha-man đã phát ra cú đòn kết liễu
đối phương bằng lời kết thúc của hắn rằng hắn sẽ dâng cho nhà vua 10.000 ta
lâng bạc là giá trả cho việc vua cho phép hắn âm thầm trừ khử hết những con
người nguy hiểm kia không còn lấy một mống nào. Theo sử gia Herodotus người Hy
Lạp (Quyển III, phần 95), thì lợi tức thu nhập hằng năm của cả đế quốc Ba-tư là
15.000 ta lâng bạc. Thực ra mà nói, Ha-man sắp sửa dâng cho nhà vua một khoảng
tài vật lớn tương đương với 2/3 số lượng bạc khổng lồ đó. Chắc hẳn Ha-man phải
là một kẻ giàu sụ không thể tưởng tượng nổi. Dĩ nhiên, hắn hy vọng sẽ bớt xén
thêm được một số trong số bạc lớn này từ những chiến lợi phẩm mà hắn sẽ cướp
của dân Do Thái.
Trong Et
3:11, lời đáp lại của vua A-suê-ru (“Bạc đã ban cho ngươi”, KJV) nhấn
mạnh rằng nhà vua đã không nhận số bạc đó nên Ha-man đã tự dùng chúng để trả
công giá thật hậu hĩnh cho chính mình. Theo phong cách Phương Đông, việc nhà
vua lịch sự từ chối số bạc dâng đó (“Ngươi hãy giữ lấy số bạc đó”, NIV), hoàn
toàn đã làm thỏa lòng mong đợi của Ha-man để hắn công nhiên nhận lấy số bạc ấy.
(Xem sự mặc cả về giá cả của Áp-ra-ham với các con trai dân họ Hếch trong Sa 23:1-20). Ha-man biết rằng các cuộc chiến tranh
Hy Lạp đều vì mục đích để tích lũy, mở rộng thêm các kho báu cho nhà vua, và
chắc chắn hắn sẽ không bao giờ chịu đóng vào kho tàng quá nhiều tiền bạc cho
một nhà thống trị đầy quyền lực như thế nếu như nhà vua ấy không thực sự có ý
định trả cho việc hắn làm một công giá nào đó (Et
4:7).
Không cần hỏi han thêm gì nữa, nhà
vua đã trao cho Ha-man chiếc nhẫn dùng để đóng ấn của triều chính (8:2,8), và Ha-man sẽ dùng nó thay mặt cho danh nghĩa
nhà vua có quyền hành động. Hắn có thể thảo ra bất cứ chiếu chỉ gì hắn thích
rồi lấy nhẫn làm ấn này của vua đóng dấu vào, thế là chiếu chỉ đó sẽ được luật
pháp quốc gia chấp nhận, thông qua và thực hiện. Đúng là vua A-suê-ru đã làm
một việc thật ngu ngốc; và đó là bản chất của vua, vua đã hành động vội vã như
thế để rồi về sau phải hối tiếc. “Trả lời trước
khi nghe. Ấy là sự điên dại và hổ thẹn cho ai làm vậy” (Ch 18:13 NKJV).
Ha-man cho loan truyền
chiếu chỉ ra ngay lập tức (Et 3:12-14):
Không hề hay biết người Do Thái đang chuẩn bị tổ chức Lễ Vượt Qua, Ha-man mãi
lo bận rộn với các viên thư ký của nhà vua thảo ra một chiếu chỉ mới rồi cho
dịch ra thành nhiều thứ tiếng khác nhau theo thổ âm của từng dân tộc đang sinh
sống trên khắp đất nước. Trong câu 13, lời lẽ của chiếu chỉ tương tự như trong
những lời Sa-mu-ên đã chỉ giáo vua Sau-lơ khi ông khuyên vua hãy đi tiêu diệt
dân A-ma-lét (ISa 15:1-3). Có điều khác nhau
quan trọng ở đây là vua Sau-lơ đã không cho phép cướp đoạt của dân ấy bất cứ
chiến lợi phẩm nào, còn Ha-man cùng với mấy kẻ trợ thủ đắc lực của hắn thì hy
vọng rằng chúng sẽ cướp bóc được của người Do Thái thật nhiều tài vật, tài sản
để chúng làm giàu. Các nhân viên bưu tá của triều đình đã nhanh chóng chính
thức đi thông báo truyền chiếu chỉ ấy ra cho mọi người ở khắp nơi trên toàn
lãnh thổ đều biết.
Trong vương quốc thời cổ đại, chỉ
với một thông điệp có nội dung là tin tức xấu như vậy mà lại có thể được người
ta nhanh chóng chuẩn bị, dịch thuật ra nhiều thứ tiếng và được vội vàng đem đi
loan báo ra khắp nơi như thế, vậy lý do tại sao Hội Thánh lại phải mất rất
nhiều thời gian để rao truyền tin tức tốt lành là sự cứu rỗi bởi đức tin đặt
nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu? Chắc chắn rằng, thế giới hiện đại của chúng ta ngày
nay đông người hơn so với số người trong vương quốc thời xa xưa ấy của vua
A-suê-ru, đồng thời chúng ta còn có nhiều phương tiện truyền thông và phương
tiện giao thông hiện đại, hữu hiệu hơn người ta thời ấy nữa. Vấn đề là ở chỗ những nhân viên làm nhiệm vụ đưa tin kia.
Sứ điệp thì đã có sẵn để được rao ra, nhưng chúng
ta không có đủ người đi rao báo chúng và cũng không có đủ tiền bạc để làm lộ phí
gửi chúng đi.
Công việc này đã được
tiến hành mau lẹ bởi vì Ha-man không muốn vua A-suê-ru đổi ý. Một khi chiếu chỉ
được viết ra và được đóng ấn rồi, thì sắc lệnh quyết định số phận bất hạnh của
dân Do Thái cũng đã được niêm phong; vì các điều luật của người Mê-đi Ba-tư
thường thì bất di bất dịch (Exo
1:19 8:8 Da
6:8). Và thế là kế hoạch đầy xảo quyệt của
Ha-man đã được tiến hành.
5. Sự vô cảm của Ha-man (Et 3:15b)
Ha-man sai người gửi
những tờ trát báo tử đến cho hàng ngàn người dân vô tội và sau đó hắn cứ thản
nhiên ngồi xuống dự yến tiệc chiêu đãi với nhà
vua! Hắn là một kẻ thật nhẫn tâm biết chừng nào! Hắn giống những người mà tiên
tri A-mốt đã mô tả: “uống rượu trong những chén
lớn, dùng dầu rất quí xức cho thơm mình, mà không lo đến tai nạn của Giô-sép!”(Am 6:6). Tuy
nhiên, kết cuộc, chính tờ trát báo tử do Ha-man đóng ấn niêm phong, lại dành
cho bản thân hắn; vì trong vòng chưa đầy ba tháng sau đó, hắn đã bị xử tử (Et 8:9).
Helen Keller nói: “Khoa học có thể
tìm ra phương cách nào đó để xử lý được những điều xấu xa nhất, nhưng nó không
tìm ra được phương thuốc nào có chữa trị nổi sự tồi tệ nhất ttrong tất cả những
sự tồi tệ đó là tính vô cảm, là lương tâm chai lỳ của con người” (Theo “My Releligion”, trang 162). Chúa Giê-xu đã
minh họa rất sống động về tính vô cảm này trong câu chuyện ẩn dụ Người Sa-ma-ri
Nhân Lành (Lu 10:25-37). Ngài kể rằng có hai
người tỏ ra rất ngoan đạo, đó là thầy tế lễ và một người Lê-vi nọ, thế nhưng cả
hai đều cố tình không cứu giúp một người bị thương
sắp chết lúc đó, còn có người Sa-ma-ri vốn là người ngoại đạo bị người ta khinh
ghét thì lại là người hết lòng chăm sóc kẻ bị thương kia. Chúa Giê-xu cho biết
rõ Đức Chúa Trời muốn chúng ta sống có tình yêu thương, cụ thể là hãy yêu người
lân cận của mình bất kể người đó là ai miễn là họ cần chúng ta giúp đỡ
họ.
Do đó, trước khi lên án đả kích tên
Ha-man độc ác kia, chúng ta hãy tự suy xét tấm lòng mình đi đã. Có hàng tỉ tội
nhân trên thế giới ngày nay đang bị tuyên án sẽ phải lãnh nhận sự chết đời đời, hầu hết các Cơ Đốc nhân đều chẳng mảy
may quan tâm đến điều đó. Chúng ta có thể ngồi dự yến tiệc trong nhà thờ của
mình và dùng những bữa ăn trưa trong ngày Chúa Nhật mà không hề nghĩ ngợi, bận
tâm gì đến việc sẽ làm cách nào đó để rao báo sứ điệp này ra cho mọi người : “rằng Đức Chúa Cha đã sai Đức Chúa Con đặng làm Cứu Chúa
thế gian” (IGi 4:14).
Trong tháng 5 năm 1865, trong công
cuộc truyền giáo tới Trung Quốc, J. Hudson Taylor đã rời khỏi đoàn đến nghỉ lại
với một số bạn bè của mình tại Brighton, một thành phố nghỉ mát nổi tiếng nằm
gần biển của Anh Quốc. Ông suy sụp sức khoẻ, ngã bệnh, và ông đã dốc lòng tìm
kiếm ý Chúa cho tương lai chức vụ của ông. Vào Chúa Nhật, ngày 25 tháng 5, “vì
không thể nào chịu nổi trước cảnh tượng hội chúng đang
hoan hỉ vui mừng trong nhà Đức Chúa Trời”, ông liền đi dạo trên bờ cát và đấu
tranh với Đức Chúa Trời trong tâm thần đau đớn cực độ. Chúa đã trả lời cho ông
một cách rõ ràng, và ông tin Đức Chúa Trời đã chuẩn bị sẵn cho ông 24 nhân viên
nữa cùng làm việc với ông tại Trung Quốc. Hai ngày sau, ông đến Ngân Hàng
London County mở tài khoản với tên Hội Truyền
Giáo Nội Địa Trung Quốc! Đó là sự khởi đầu của một công cuộc truyền giáo bằng
phép lạ rất kỳ diệu và ngày nay công cuộc đó vẫn còn cứ tiếp tục hoạt động,
tiến triển. [4] Câu nói trên cứ khắc khi
vào trong tim tôi: “vì không thể nào chịu nổi trước cảnh tượng hội chúng đang
hoan hỉ vui mừng trong nhà Đức Chúa Trời”. Chắc chắn được hoan hỉ vui mừng
trong Chúa và cứ vui mừng luôn như thế trong nhà Ngài là điều quý báu thật, tuy
nhiên sự vui mừng này không bao giờ có thể là sự thay thế cho trách nhiệm được.
Có một bài biệt Thánh Ca đã nhấn mạnh điều đó: “Bàn tiệc của Đức Chúa Trời thật
đông đủ nhưng cánh đồng Ngài thì vắng vẻ biết bao!”. Tất cả chúng ta đều mong
muốn được thưởng thức bàn yến tiệc đó, nhưng chúng ta lại không thích chia sẻ
sứ điệp của Chúa cho người khác. Chúng ta không muốn trở thành những kẻ vô tín
nhẫn tâm và vô cảm như Ha-man sống thật thờ ơ lãnh đạm, không quan tâm gì đến
những cảnh ngộ cuộc đời của hàng tỉ tỉ linh hồn đang bị hư mất trên thế giới
này.
Tương phản với sự vui vẻ
của nhà vua và viên thủ tướng chính phủ của ông ta là sự nặng nề buồn rầu và sự
hoang mang lo sợ của dân chúng thành Su-sơ gồm những người không phải dân Do
Thái lẫn người Do Thái. Điều gì đã khiến xảy ra sự thay đổi chính sách đột ngột
như vậy? Tại sao người Do Thái lại thình lình bị kẻ thù của họ trên toàn quốc
tấn công như thế? Họ có con đường nào trốn thoát không?
Tình thế lúc bấy giờ
thật vô vọng, tuy nhiên, vì Đức Chúa Trời đã chuẩn bị sẵn hai người đứng vào vị
trí của họ rồi là Mạc-đô-chê với Hoàng hậu Ê-xơ-tê và Ngài đang sẵn sàng hành
động.
4. NGÀY QUYẾT ĐỊNH (Et 4:1-17)
(Phần này, hoàng hậu đi
vào nội viện và chấp nhận trả giá cho hành động đó của mình)
Có lẽ có đến chừng 15
triệu người Do Thái sống rải rác khắp đế quốc Ba-tư. Bởi vì sự thù hằn của
Ha-man và sự ngu dại của vua A-suê-ru mà giờ đây họ sắp sửa bị giết chết, trừ
phi họ thay đổi chỗ ở rời khỏi đất nước này. Nhưng nếu vậy thì họ biết đi đâu
bây giờ? Ngay cả quê cha đất tổ của họ là xứ Y-sơ-ra-ên cũng đang bị vua
A-suê-ru cai trị cho nên nơi đó cũng chẳng an toàn cho họ
chút nào. Vì người Ba-tư đã thống trị “từ Ấn Độ đến Ê-thi-ô-bi” (Et 1:1), do đó chỉ còn rất ít nơi để dân Do Thái
lúc ấy có thể chạy đến đó trú ẩn.
Tại đế quốc, những sự phản ứng lại
chiếu chỉ của Ha-man mỗi nơi mỗi khác. Ha-man và nhà
vua hoàn toàn chẳng để tâm đến tình trạng khốn khổ, lo sợ của nhân dân, cả hai
vị đang ngồi dự tiệc yến trong hoàng cung. Trong khi đó, dân chúng ở thủ
đô thì lại đang hoang mang, lo sợ tột độ và họ không biết phải làm gì bây giờ (3:15). Còn hoàng hậu Ê-xơ-tê thì đang bị cô lập
trong hậu cung chẳng biết gì về hiểm họa mà bà cùng với dân tộc bà sắp phải đối
mặt. Nhiều người Do Thái tại các tỉnh lỵ bắt đầu kiêng ăn khóc lóc rất sầu thảm
(4:3), chỉ duy nhất còn có một người là
Mạc-đô-chê có khả năng làm cái gì đó để đẩy lùi hiểm họa này; và ông bắt tay
hành động ngay tức khắc.
1. Mạc-đô-chê biểu lộ mối quan tâm của mình (Et 4:1-3)
Biểu hiện ra bên ngoài và những hành
động của Mạc-đô-chê (c.1) là biểu hiện của một một người đang gặp hoạn nạn lớn
(IISa 1:11-12 13:19)
hoặc đang có sự ăn năn hối cải rất thống thiết (Gion
3:1-10 Ne 9:1-2). Mạc-đô-chê chắc là
đang rất sợ hãi hay là đang hổ thẹn lắm khi dân chúng biết được chỗ đứng của
ông. Ông đã nói cho các quan lại, quần thần tại cửa vua biết ông là người Do
Thái; giờ đây ông đang nói cho cả thành phố biết ông không những là người Do
Thái mà còn là người đang chống đối lại sắc lệnh giết
người kia. Mặc dù không thể chứng minh được câu nói sau đây trích từ các tác
phẩm của nhà chính khách người Anh tên là Edmund Brurke, nhưng người ta cứ quy
cho đó là lời của ông, rằng: “Tất cả các điều kiện mà điều ác cần để khiến nó
chiến thắng đó là những người tốt không nên làm gì hết”.
“Hãy
giải cứu kẻ bị đùa đến sự chết,
Và chớ chối rỗi cho
người đi xiêu tó tới chốn hình khổ.
Nếu con nói: Chúng tôi
chẳng biết gì đến;
Thì Đấng mà cân nhắc
lòng người ta, há chẳng xem xét điều ấy sao?
Và Đấng gìn giữ linh
hồn con, há không biết đến ư?
Chớ thì Ngài sẽ chẳng
báo mỗi người tùy theo công việc họ làm sao?”
Những lời nghiêm túc này
được trích dẫn từ Ch
24:11-12 (NKJV) khẳng định rõ ràng rằng chúng ta không thể có thái độ
bàng quan lãnh đạm trước sự sống đồng loại mình đang lâm nguy.
Mạc-đô-chê đã kết thúc chuyến hành
hương than khóc sầu thảm của mình ngay tại cửa vua, nơi trung tâm luật pháp và
thương mại của thành phố, cũng là nơi nối kết phố chợ
với tòa án. Nhưng Mạc-đô-chê chắc phải còn đi xa lắm bởi vì các vua chúa Đông
phương này sống trong một thiên đường nhân tạo tách biệt họ với cuộc sống thực
tế bên ngoài. “Họ không bao giờ để cho những chiếc áo bao gai của tang chế xuất
hiện bên trong cổng nhà họ”, vị truyền đạo người Anh Quốc tên là George H.
Morrison đã nói như vậy. “Họ phải có sự vui thú với bất cứ giá nào. Họ phải sống
đời sống thoải mái dễ chịu, như thể họ chẳng hề nghe tiếng ai kêu la với họ cả”
(Trích từ “The Afterglow Of God”,
trang 72).
Thật là tương phản biết bao với Nhà Vua cũng là Thầy Tế Lễ của chúng ta từ
thiên đàng đã đến vui mừng tiếp đón chúng ta để mang lấy mọi gánh nặng cũng
những sự ưu phiền đau khổ của chúng ta!
Mạc-đô-chê có thể hy vọng đạt được
điều gì tại cửa vua với chiếc áo bao gai và những lời khóc than sầu thảm của
mình? Vâng, có chứ, thế nào cũng có người nào đó nơi cung điện sẽ chú ý đến ông
và báo tin về ông cho hoàng hậu Ê-xơ-tê biết. Các thị nữ theo hầu hoàng hậu đều
quen biết Mạc-đô-chê (Et 2:11), mặc dầu họ
không biết mối quan hệ giữa ông với hoàng hậu; Mạc-đô-chê nhờ mấy người hầu của
hoàng hậu báo cho bà biết mọi chuyện (2:22).
Vì Mạc-đô-chê không thể vào được bên trong hậu cung, cho nên đây chính là hy
vọng duy nhất của ông.
Ê-xơ-tê nhận được tin báo Mạc-đô-chê
mặc áo bao gai và rải tro lên đầu đang khóc lóc than van tại cửa vua. Vì bà
không rõ vì sao người anh họ này của bà lại có hành vi bất thường như thế, cho
nên bà đã làm một việc hợp lý là sai người đem đến cho Mạc-đô-chê bộ quần áo
tươm tất giục ông mặc vào vì e rằng chiếc áo bao gai kia của ông sẽ gây chú ý
cho các quan triều thần của vua và các nhân viên bảo vệ ở đó. Giả định nhà vua
chợt xuất hiện ở cửa vua để tiếp kiến thần dân của mình thì điều gì sẽ xảy ra
nhỉ? Nếu như thế thì chắc chắn Mạc-đô-chê sẽ gặp rắc rối to.
Động cơ của hoàng hậu thì tốt, nhưng
phương pháp hành động của bà thì sai lầm. Trước khi sai người gửi cho Mạc-đô-chê
áo xống mới, đáng lý ra bà nên tìm hiểu xem vấn đề thực sự ở đây là gì. Nếu
A-suê-ru xuất hiện ở cửa, thì bộ áo xống đẹp đẽ lịch sự kia của Mạc-đô-chê có
thể nhất thời cứu nguy ông thoát khỏi cơn thịnh nộ của nhà vua, thế nhưng chúng
không thể cứu người Do Thái thoát khỏi bản án tử mà Ha-man đã gán cho họ. Tuy
nhiên, sự than khóc sầu thảm của Mạc-đô-chê cuối cùng cũng đã gây được chú ý
của hoàng hậu; và đó là mục đích của ông.
2. Mạc-đô-chê giải thích về hiểm hoạ mà dân Do Thái đang gặp (Et 4:4-9)
Việc Mạc-đô-chê từ chối
không nhận áo xống mới của hoàng hậu gửi đến đã đem lại cho ông cơ hội báo cho
hoàng hậu biết tin tức khẩn của ông, vì vậy bà liền sai một trong số các quan
thái giám đi ra cửa vua hỏi xem Mạc-đô-chê đã xảy ra chuyện gì vậy. Tôi nghi là
Ha-thác có nhận biết được Mạc-đô-chê đang đóng vai trò quan trọng gì đó trong
chương trình của Đức Chúa Trời để đánh bại Ha-man và cứu nguy dân Do Thái. Vì
thường thì trong công việc của Chúa, Ngài hay dùng những con người vô danh để
hoàn tất các công tác quan trọng cho Ngài. Chúng ta có biết chú bé đã trao cho
Chúa Giê-xu mấy cái bánh và cá dạo ấy tên là gì không? Những người cứu thoát
Phao-lô bằng cách họ đã khiêng ông trong cái giỏ rồi nâng giỏ ấy lên cao dòng
qua tường thành Đa-mách là những ai thế? Đứa hầu gái bé mọn đã nói cho Na-a-man
biết hãy đi gặp nhà tiên tri lần đó tên là gì vậy? Chúng ta không biết, nhưng
Đức Chúa Trời đã dùng những con người ấy để hoàn thành các mục đích của Ngài.
Tương tự những cánh cửa khổng lồ lại có thể đung đưa được trên các tấm bản lề
bé nhỏ, thì những biến cố vĩ đại cũng có thể xoay mình chuyển hướng trên các
việc làm, nghĩa cử “bé mọn” và thỉnh thoảng là trên những con người vô danh
không ai biết đến.
Mạc-đô-chê không những
đã biết hết các sự kiện đưa đến việc xuất hiện chiếu chỉ kia, mà ông còn có một
bản sao y bản chính chiếu chỉ ấy nhờ người chuyển đến tay Ê-xơ-tê đọc cho chính
bà nghe. Điều này chứng minh rằng Mạc-đô-chê đã nắm giữ một địa vị rất cao
trọng trong nội các triều chính, một vị trí mà Đức Chúa Trời đã dành cho ông để
qua đó Ngài thực hiện mục đích cứu nguy dân Do Thái của ông. Ngoài việc đưa ra
bằng chứng tố cáo đó cho Ê-xơ-tê biết, Mạc-đô-chê còn làm thêm nhiều việc khác
nữa. Ông thúc giục Ê-xơ-tê hãy cho vua biết quốc tịch thật của mình và hãy mau
đến chỗ vua ngự triều cầu xin vua, can thiệp giùm cho dân tộc.
Khi Mạc-đô-chê bảo
Ha-thác đến khuyên Ê-xơ-tê hãy vào cung vua xin giùm cho “dân tộc bà”, thì có
nghĩa ông đã tiết lộ cho Ha-thác biết sự thật Ê-xơ-tê là một nữ Do Thái. Điều
này có làm cho Ha-thác bị sốc không? Hay là có lẽ chính ông ta cũng là một
người Do Thái chăng, và đó là lý do tại sao Mạc-đô-chê tin tưởng ông ta nên đã
cho ông ta biết bí mật này? Tương tự Đa-ni-ên cùng với ba người bạn của ông ở
Ba-by-lôn, những người Do Thái đi lưu đày ở đế quốc Ba-tư cũng đã bị ép buộc dự
vào các công việc triều chính.
Bây giờ, có một câu hỏi
quan trọng là: hoàng hậu Ê-xơ-tê đã phản ứng ra sao trước sự khủng hoảng này?
3. Mạc-đô-chê khích lệ và thúc giục hoàng hậu (Et 4:10-14)
Hãy luôn nhớ cho rằng
Mạc-đô-chê không thể nói trực tiếp với Ê-xơ-tê biết chuyện, cho nên ông ông
buộc phải nhờ hoạn quan Ha-thác đem tin tức của ông báo lại cho bà hay. Ê-xơ-tê
không có cách nào để có thể cảm nhận được một cách cá nhân rằng Mạc-đô-chê đã cảm thấy ra sao, và Mạc-đô-chê cũng không thể nhận
biết hết được Ê-xơ-tê sẽ biểu lộ xúc cảm của bà ra thể nào. Thật khác biệt biết
bao khi chúng ta nhìn thấy những gương mặt, nghe những giọng nói của những
người mà chúng ta đã tiếp xúc vừa qua! Chắc chắn Ha-thác đang có một trách nhiệm
nặng nề là làm một mắc xích liên kết giữa hai con người đang gặp cảnh lâm nguy
nhưng trong tay họ lại đang nắm giữ sự cứu rỗi của cả dân tộc Do Thái.
Trong câu 10-11, sự đáp
lại của Ê-xơ-tê ở đây không phải là thái độ lảng tránh, thoái thác mà là sự
thanh minh. Bà nhắc Mạc-đô-chê nhớ lại điều ông đã biết, đó là không ai, kể cả
hoàng hậu thảy đều không được phép xông thẳng vào nội viện là nơi vua đang ngự
trên ngai để xin được yết kiến vua. Nếu bà làm như thế thì bà thật quá liều
mạng. Nhà vua Ba-tư này không chỉ chẳng lưu tâm gì đến nỗi sầu thảm của dân
chúng bên ngoài và cũng chẳng thèm nghe những tin tức xấu, mà vua còn cố bảo vệ
mình khỏi bị những sự gì gây gián đoạn xen vào thời gian biểu của vua. Một lần
nữa, tôi không nghĩ rằng đây là lý do mà Ê-xơ-tê đã đưa ra để bào chữa cho
mình, mà đúng hơn đó là lời yêu cầu khẩn thiết của bà xin Mạc-đô-chê hãy cho bà
một vài lời hướng dẫn. Là một trang nam tử, ông biết rõ nghi thức xã giao trong
chốn cung đình ra sao, và ông cũng rất quan tâm đến những gì đang diễn ra. Còn
Ê-xơ-tê thì đang sống biệt lập nơi hậu cung và bà không có khả năng nghĩ ra một
phương kế nào thích hợp để có thể giải quyết được vấn đề nan giải này. Vả lại,
cả tháng nay bà đã không gặp vua; có lẽ bà vừa bị thất sủng vì lý do gì đó chưa
được biết. Vua A-suê-ru là người hay thay đổi ý định, còn Ê-xơ-tê thì không
muốn làm cho vấn đề trở nên tồi tệ hơn.
Tôi có ấn tượng rằng
Mạc-đô-chê đã hiểu sai ý của Ê-xơ-tê. Có vẻ như là ông ta nghĩ rằng Ê-xơ-tê
đang cố tình giấu đi quốc tịch của mình và né tránh trách nhiệm đích thân đến
xin yết kiến nhà vua vậy. Nếu như ông gặp được hoàng hậu và nghe bà nói trực
tiếp chuyện này thì có lẽ ông đã nhận xét về bà khác đi.
Trong lời phúc đáp của
mình, Mạc-đô-chê nhắc Ê-xơ-tê nhớ lại ba sự thật nghiêm túc.Thứ nhất, ông bảo
cho bà biết dù bà đã là thành viên sống trong cung điện nhưng điều đó vẫn không
bảo đảm rằng bà sẽ được thoát khỏi sự giết hại. Chiếu chỉ triều đình nói là “hết thảy dân Giu-đa”
(3:13), Ha-man muốn nhìn thấy đến người Do
Thái cuối cùng cũng phải bị truy cho ra và giết đi, cho dù người đó ở trong
cung vua đi chăng nữa. Đối với vấn đề đó, có lẽ còn có những thành viên khác làm việc trong triều là những người vẫn
còn giữ lòng trung thành với Vả-thi thìchắc họ rất vui mừng khi thấy hoàng hậu
Ê-xơ-tê bị trừ khử đi.
Thứ hai, Mạc-đô-chê nhắc
Ê-xơ-tê nhớ rằng nếu lúc này cho dù bà cứ làm thinh thì dân tộc bà chắc cũng sẽ
được giải cứu bằng cách nào đó. Ở đây ý Mạc-đô-chê muốn ám chỉ đến sự sắm sẵn
của Đức Chúa Trời dẫu rằng danh Ngài không hề thấy được đề cập đến dù chỉ một
lần. Vì Mạc-đô-chê có biết giao ước của Chúa với Áp-ra-ham (Sa 12:1-30), cho nên ông tin dân tộc Y-sơ-ra-ên sẽ được Chúa bảo vệ khỏi sự
tuyệt diệt này. Tuy nhiên, ông cảnh cáo Ê-xơ-tê cho dù có xảy đến sự giải cứu
đi chăng nữa thì có một số người Do Thái vẫn bị giết hại, trong số đó hiển
nhiên sẽ có bà.
Tại sao Đức Chúa Trời ban “sự tiếp trợ và sự giải cứu” cho dân Do Thái mà
Ngài lại còn để cho Ê-xơ-tê cùng với những người bà con của bà sẽ bị giết hại?
Có lẽ Mạc-đô-chê nhìn thấy điều này như là sự trừng phạt dành cho bà vì bà
không sẵn lòng can thiệp cho dân tộc mình. Biết việc lành mà không làm cũng là
phạm tội (Gia 4:17). Do đó, thay vì tự bảo
vệ mình bằng sự im lặng, Ê-xơ-tê đã liều mình dấn thân vào chốn nguy hiểm hơn.
Ha-man và bọn tay chân tuỳ tùng của hắn e rằng sẽ bắt gặp được Ê-xơ-tê xuất
hiện trong nội điện của nhà vua và có thể chúng sẽ giết bà mất.
Mạc-đô-chê nhấn mạnh sự thật thứ ba:
việc bà có mặt trong hoàng cung như thế này không phải là sự ngẫu nhiên đâu,
nhưng là “vì cớ cơ hội hiện lúc nầy mà ngươi
được vị hoàng hậu” (Et 4:14
NIV). Ông không nói thẳng rằng Đức Chúa Trời đã đặt để bà ở nơi đây, nhưng đó
là ý ông muốn nói. Nếu Ê-xơ-tê bỏ chút thì giờ ra ôn lại cuộc đời mình, thì bà
không thể không nhận thấy được rằng tất cả mọi chi tiết trong đời sống bà đều
có sự dẫn dắt thánh của Chúa. Giờ đây, nếu Chúa đã đưa bà lên ngôi hoàng hậu
như thế, thì chắc chắn Ngài có sẵn mục đích, và mục đích đó đến lúc này sẽ được
thể hiện ra: Bà đã có mặt trên ngôi vị mình để hôm nay can thiệp cho dân tộc
mình. Xin nhớ lại lời của Giô-sép nói với các anh mình như vầy: “Các anh toan hại tôi, nhưng Đức Chúa Trời lại toan làm
điều ích cho tôi, hầu cho cứu sự sống cho nhiều người, y như đã xảy đến ngày
nay, và giữ gìn sự sống của dân sự đông đảo” (Sa 50:20 NKJV).
Khi bạn ngẫm nghĩ những lời đó của
Mạc-đô-chê, bạn sẽ học được một số lẽ thật căn bản về sự sắm sẵn và ban cho của
Đức Chúa Trời là điều rất quan trọng đối với Cơ Đốc nhân ngày nay. Thứ nhất đó
là Đức Chúa Trời có những mục đích thánh cần hoàn
thành trong thế gian này. Những mục đích của Ngài có liên quan đến
dân tộc Do Thái và các dân không phải là dân Do Thái trên thế giới. Cũng có
liên quan đến Hội Thánh Ngài. Đức Chúa Trời giao thiệp với từng cá nhân cũng
như với từng dân tộc nữa. Những mục đích của Ngài có liên hệ đến đời sống các
vua chúa, hoàng hậu, với cả các thường dân, với người thiện lẫn người ác. Không
có gì trong thế gian này nằm ngoài sự tác động của các mục đích Ngài.
Mạc-đô-chê cho biết rõ rằng Đức Chúa Trời thường hoàn thành các mục đích Ngài qua con
người. Vì những lý do nào đó mà chúng ta không hiểu hết được, rằng
Đức Chúa Trời hay cho phép kẻ ác làm điều ác trên thế giới này; nhưng Ngài có
thể hành động ở trong và qua những người chưa tin Chúa và qua dân sự của Ngài
để làm trọn các mục đích Ngài. Đức Chúa Trời không phải là tác giả khiến nhà
vua phạm tội, nhưng Ngài cho phép ông say rượu và trở nên ngu dại đi phế truất
hoàng hậu Vả-thi. Chúa dùng sự cô đơn của vua để đưa Ê-xơ-tê lên ngôi, và trong
chương sách Ê-xơ-tê đoạn 6, Chúa dùng sự khó ngủ của vua để thưởng công cho
Mạc-đô-chê và bắt đầu phá đổ quyền lực của Ha-man. Trong mọi việc lớn nhỏ Đức
Chúa Trời đều có tể trị cả.
Lẽ thật thứ ba là Mạc-đô-chê nhấn
mạnh rằng Đức Chúa Trời vẫn sẽ hoàn thành các
mục đích Ngài cho dù đầy tớ Ngài từ chối không chịu vâng theo ý chỉ của Ngài.
Nếu Ê-xơ-tê khước từ ý Chúa dành trên đời sống bà, thì Đức Chúa Trời vẫn có thể
giải cứu dân sự Ngài; nhưng Ê-xơ-tê sẽ trở thành kẻ hư mất. Khi các Mục Sư và
các nhà Truyền giáo đề nghị Hội Thánh cử cho những người tình nguyện làm công
việc Chúa phục vụ các Cơ Đốc nhân, thì thỉnh thoảng họ nhấn mạnh rằng công việc
Chúa chỉ được làm khi con dân Chúa có sự cảm động muốn làm; nhưng như vậy đâu
có đúng.
Nếu bạn và tôi từ chối vâng lời
Chúa, Ngài có thể sẽ loại chúng ta ra và dùng người khác làm công việc đó của Ngài, còn
chúng ta thì bị mất phước; hoặc Ngài có thể sửa phạt chúng ta cho đến
chừng chúng ta đầu phục ý muốn chỉ của Ngài. Có hai trường hợp minh họa cho
điều này. Vì Giăng còn gọi là Mác rời bỏ đoàn truyền giáo trở về quê nhà (Cong 13:13 15:36-41),
cho nên Đức Chúa Trời đã dấy Ti-mô-thê lên thế chỗ anh ta (16:1-3). Còn khi Giô-na chạy trốn lánh mặt Đức
Chúa Trời, Ngài đã truy đuổi ông mãi cho đến lúc ông chịu vâng theo Ngài mới
thôi, cho dù ông không hết lòng. Khi tưởng chừng như Đức Chúa Trời không hề cai
trị, thì Ngài đã cai trị; Ngài luôn luôn hoàn thành các mục đích của Ngài.
Bài học thứ tư từ bài giảng của
Mạc-đô-chê là Đức Chúa Trời không vội vàng hấp
tấp nhưng ý muốn Ngài sẽ làm thành các kế hoạch của Ngài đúng lúc đúng kỳ.
Đức Chúa Trời chờ đợi nhà vua trị vì đến ba năm trước khi hoàng hậu Vả-thi bị
truất phế. Kế đó, Ngài lại tiếp tục đợi bốn năm nữa (Et
2:16) trước khi Ngài đưa Ê-xơ-tê lên ngôi hoàng hậu. Không phải mãi cho
đến 12 năm cai trị của nhà vua (3:7) thì Đức
Chúa Trời mới cho phép Ha-man ngấm ngầm hoạch định mưu đồ đen tối xấu xa của
mình như vậy đâu, Ngài đã mất gần một năm để quy định bằng sắc lệnh “ngày khủng
hoảng” cho dân Do Thái.
Nếu bạn mới đọc sách Ê-xơ-tê lần
đầu, có thể bạn sẽ thiếu kiên nhẫn với Đức Chúa Trời và cho rằng sao Ngài chẳng
làm gì cả vậy. Trong phân đoạn 1 và 2, có một vị vua say xỉn và mấy vị quân sư
ưa nịnh hót bợ đỡ của vua dường như là những kẻ đứng đầu, đảm trách mọi việc
trong triều. Từ phân đoạn 3 đến phân đoạn 6, thì có vẻ như thể là gã Ha-man độc
ác kia đang cầm quyền ở đó. Thậm chí sau khi Ha-man không còn xuất hiện nữa,
thì chiếu chỉ không thể sửa đổi được của vua đã giữ lại sự sống cho mọi người. Thế nhưng Đức Chúa Trời ở đâu?
Đức Chúa Trời không bao giờ vội vàng
hấp tấp cả. Ngay từ lúc bắt đầu thì Ngài đã biết được kết cuộc ra sao rồi,
những sắc lệnh, bản án của Ngài ban ra thì luôn luôn đúng và luôn luôn kịp lúc.
Tiến sĩ A. W. Tozer ví sánh những mục đích tuyệt hảo của Đức Chúa Trời giống
như chiếc tàu lớn chạy trên đại dương, rời khỏi thành phố New Jork và đi về
hướng Livepool, England. Hành khách trên tàu tự do làm gì tuỳ thích, nhưng họ
không thể tự ý thay đổi được lịch trình chuyến đi của tàu.
“Con tàu vĩ đại được thiết kế rất
tuyệt vời Đức Chúa Trời không bao giờ tuỳ tiện thay đổi lịch trình xuất hành
của nó trên biển chiến thắng”, tiến sĩ Tozer đã viết, “Đức Chúa Trời luôn kiên
định hướng đến sự làm trọn những mục đích có giá trị đời đời mà Ngài đã hoạch
định trong Chúa Cứu Thế Giê-xu trước khi thế giới này được tạo dựng” (Trích từ
“The Knowledge Of The Holy”, trang
118).
Sự tể trị tối cao của Đức Chúa Trời
không chủ trương thừa nhận thuyết định mệnh hay thuyết tiền định mù quáng, vì
cả hai thuyết này đều khiến cho cuộc sống trở thành tù ngục. Chỉ có Đức Chúa
Trời tối cao mới có đủ quyền ban sắc lệnh tự do chọn lựa cho người nam lẫn
người nữ, chỉ có Đức Chúa Trời chí cao mới có thể làm trọn các mục đích chứa
đựng tình yêu thương và đầy sự khôn ngoan của Ngài trong thế gian này, thậm chí
Ngài còn làm cho điều xấu điều ác đưa đến kết quả là sản sinh ra điều tốt và
ích lợi (Sa 50:20). Vấn đề ở đây không phải
là “Đức Chúa Trời hiện có đang kiểm soát thế giới này không?”, mà là “Đức Chúa
Trời hiện có đang cai trị trên đời sống tôi không?”.
Chúng ta có đang phối hợp với Ngài để chúng ta trở thành một phần của câu trả
lời chứ không phải trở thành một phần của vấn đề cần giải quyết này?
Tôi xin trích dẫn lời
của tiến sĩ Tozer một lần nữa: “Trong cuộc chiến thuộc linh hiện đang diễn ra
dữ dội xung quanh chúng ta, hễ ai đứng về phía Đức Chúa Trời tức là đang ở phía
chiến thắng và không thể nào thua được; còn ai đứng về phía đối phương của Đức
Chúa Trời tức là đang ở phía thua và không thể nào chiến thắng được” (trang
119).
4. Mạc-đô-chê xúc tiến kế hoạch (Et 4:15-17)
Khi chúng ta gặp Ê-xơ-tê
và Mạc-đô-chê lần đầu tiên, họ đã giấu tung tích gốc gác thật của mình là người
Do Thái. Còn bây giờ, Mạc-đô-chê đang lên danh sách những người Do Thái nào
muốn có mặt trong cuộc chiến chống lại Ha-man, và Ê-xơ-tê thì ra lệnh cho các
nô tỳ của mình phải tham gia kiêng ăn! Dẫu rằng danh Đức Chúa Trời không hề
thấy được đề cập đến trong câu chuyện, nhưng hành vi biểu hiện sự hạ mình này
rõ ràng là hướng về Chúa và chắc chắn còn có những sự cầu nguyện đi kèm với sự
kiêng ăn đó. Sự kiêng ăn và cầu nguyện thường được thấy đi cùng với nhau trong
Kinh Thánh, vì kiêng ăn là bước chuẩn
bị cho sự cầu nguyện hết lòng, hết sức tập trung với tinh thần khiêm nhường, hạ
mình. (Et 8:21-23 Thi
35:13 Da 9:3 Cong
13:3). Trong tính chất của nó, sự kiêng ăn không bảo đảm được rằng Đức
Chúa Trời chắc sẽ ban phước, vì kiêng ăn phải được đi kèm với tấm lòng thành
thật, khiêm nhường, hạ mình và tan vỡ trước mặt Đức Chúa Trời (Es 58:1-10 Gio 2:12-13
Mat 6:16-18). Nếu sự kiêng ăn chỉ là hình
thức lễ nghi tôn giáo thì nó hoàn toàn không thực hiện được mục đích thuộc linh
nào cả.
Vì dân Do Thái sống tản mác khắp đế
quốc đã “có sự thảm sầu, kiêng cữ ăn, khóc lóc,
và kêu van” (Et 4:3), cho nên
Mạc-đô-chê không khó khăn gì khi ông nhóm họp người Do Thái lại tại kinh đô
Su-sơ đặng cầu nguyện cho Ê-xơ-tê, để bà sửa soạn đến ra mắt vua xin giùm cho
họ. Đây là vấn đề sống chết đối với bà và dân tộc bà, Đức Chúa Trời dùng cơn
khủng hoảng mà Ha-man đã tạo ra để đem sự hồi sinh thuộc linh đến cho dân tộc
Ngài đang bị tản lạc giữa vòng dân ngoại. Thường thì dân sự Chúa hay phải trải
qua gian truân trước khi khi họ có thể tự mình hạ mình xuống cách khiêm nhường
và kêu xin Ngài.
Chúng ta sẽ lý giải thế nào cho
những lời này của Ê-xơ-tê: “Nếu tôi phải chết
thì tôi chết!”? Có phải đây là
lời bày tỏ sự cam chịu của người chưa tin Chúa hay không? (“Ồ! Nếu các người ép
tôi đến đó, và tôi sẽ làm theo những gì các người bảo cho dù do chuyện ấy mà
tôi có thể bị giết chết!”) hay đó là sự đầu phục ý muốn Đức Chúa Trời cách thật
lòng (“ Tôi sẽ làm theo ý Chúa cho dù phải trả bất cứ giá nào!”)Tôi chọn cách
lý giải thứ hai. Theo tôi nghĩ, Ê-xơ-tê là hình ảnh phản chiếu lại cho sự dấn
thân và lòng tin quyết mà Phao-lô đã nhấn mạnh với các trưởng lão ở Hội Thánh
Ê-phê-sô: “Nhưng tôi chẳng kể sự sống mình làm
quí, miễn chạy cho xong việc đua tôi và chức vụ tôi đã lãnh nơi Đức Chúa Jêsus,
để mà làm chứng về Tin lành của ơn Đức Chúa Trời” (Cong 20:24 KJV).
Theo quan điểm của con người thì mọi
thứ thảy đều chống đối lại Ê-xơ-tê và việc bà đã thi hành sứ mệnh thành công.
Luật lệ xã hội loài người nghịch lại bà, bởi vì không ai được phép can ngăn nhà
vua cả. Triều chính chống lại bà, bởi vì chiếu chỉ nói rằng bà sẽ bị giết chết.
Giới tính của bà nghịch lại bà, bởi vì thái độ của nhà vua đối với phụ nữ còn
tệ hại hơn cả tính chất của chủ nghĩa sô-vanh là đằng khác. Các quan lại chống
đối bà, bởi vì họ chỉ làm những điều gì mà họ cảm thấy hài lòng và để lấy lòng
Ha-man mà thôi. Còn nữa, ngay cả sự kiêng ăn cũng dường như chống nghịch bà
nữa, bởi vì trải qua suốt ba ngày liền không ăn không uống ắt sẽ khiến cho
ngoại hình bà trở nên tiều tụy và suy giảm sức khỏe thuộc thể. Nhưng, “Nếu Đức Chúa Trời vùa giúp chúng ta, thì còn ai nghịch
với chúng ta? ” (Ro 8:31 KJV).
Câu trả lời bởi đức tin là “chẳng có
ai cả!”.
5. MỘT NGÀY BÌNH THƯỜNG CỦA QUAN TỂ TƯỚNG (Et 5:1-14)
(Phần này kể về một kẻ
độc ác xấu xa đã tự dựng giá treo cổ cho chính mình)
Trong những năm gần đây,
các phương tiện truyền thông đại chúng đã đưa những thông tin sốt dẻo về các
hành vi cư xử có vấn đề (thường là bất hợp pháp) của những người nổi tiếng,
chẳng hạn như những vận động viên thể thao chuyên nghiệp, chính trị gia, nhà
diễn thuyết, thống đốc học viện tài chính, và thậm chí có cả những hoàng thân
quốc thích nữa. Từ “cửa Nước” tới “Cửa Iran” rồi đến “Cửa Ngọc”, các phóng viên
điều tra vô cùng tất bật lo đi săn cho được những tin tức nhằm đáp ứng được thị
hiếu không bao giờ thỏa mãn nổi của công chúng là hay thích nghe những chuyện bê bối, tai tiếng.
Nếu tất cả những hoạt động này của
giới báo chí chẳng đem lại được gì khác, thì chắc chắn chúng đã nhấn mạnh thêm
cho ý nghĩa và tầm quan trọng của sự cảnh báo trong Kinh Thánh rằng: “phải biết rằng tội chắc sẽ đổ lại trên các ngươi”
(Dan 32:23 NKJV). Người ta có thể che đậy
được những hành vi, công việc xấu xa đáng hổ thẹn của họ trong một lúc nào đó,
tuy nhiên, cuối cùng rồi sự thật cũng sẽ phơi bày ra, thế là ai nấy đều biết
hết chuyện gì đang diễn ra. Kẻ phạm tội đó chắc chắn sẽ nhận ra rằng những việc sai trái mà mình đã làm cho người khác thì
cũng là làm cho chính bản thân mình vậy.
Những lời trong Thi 7:14-16 khiến tôi nghĩ đến Ha-man:
“Kìa,
kẻ dữ đương đẻ gian ác;
Thật nó đã hoài thai
sự khuấy khỏa, và sanh điều dối trá.
Nó đào một hố sâu,
Nhưng lại té vào hố nó
đã đào.
Sự khuấy khỏa nó đã
làm sẽ đổ lại trên đầu nó,
Và sự hung hăng nó
giáng trên trán nó”(NIV).
Luật báo ứng của đời này tuyên bố
rằng kẻ nào cố tình tìm mọi phương cách làm hại người khác thì kết cuộc kẻ ấy
sẽ tự làm hại chính mình. Albert Camus người Pháp, là một thành viên theo
thuyết hiện sinh đã viết trong cuốn tiểu thuyết của mình “The Fall ”
rằng: “Không cần phải nóng lòng chờ đợi đến sự phán xét cuối cùng nữa bởi vì sự
ấy vẫn cứ đang xảy ra hằng ngày đấy thôi!”.
Mặc dù những chiếc máy nghiền của
Đức Chúa Trời đang quay chậm chạp,
Tuy nhiên, chúng nghiền cho mọi thứ
nát tương;
Dẫu rằng Ngài đang nhẫn nại đứng
chờ,
Và Ngài đang nghiền tất cả với độ
rất chính xác.
(Friedrch von Logau)
Ha-man đã không nhận ra
được điều đó, nhưng có bốn yếu tố sau đây đã bắt đầu cùng nhau hành động hủy
diệt hắn.
1. Quyền tể trị tối cao của Đức Chúa Trời (Et 5:1-5)
Ê-xơ-tê lo nghĩ không
biết nhà vua có chấp nhận sự xuất hiện của bà và cho phép bà được yết kiến vua
hay không nữa. Nếu vua không chấp nhận, thì tức là bà sẽ bị xử tử ngay tại chỗ;
bà dư sức biết tính khí thất thường hay thay đổi của vua ra sao. Dân Do Thái đã
kiêng ăn cầu nguyện suốt ba ngày qua, nài xin Đức Chúa Trời can thiệp giùm họ
và giải cứu họ thoát khỏi sự tuyệt diệt; và giờ đây Ê-xơ-tê phải hành động.
Hành động của Ê-xơ-tê đã
được xếp vào trong số những hành động đức tin vĩ đại trong Kinh Thánh và có lẽ
đã được ghi nhận trong Hê-bơ-rơ 11. Đúng là người Do Thái không có đủ đức tin
để cầu nguyện xin Đức Chúa Trời hành động. Một số người
buộc phải cầu nguyện, vì “đức tin không có việc làm thì chết” (Gia 2:20 KJV). Nhưng Ê-xơ-tê đã không bắt đầu dựa
trên nền tảng của “đức tin mù quáng”. Bà biết rằng Đức Chúa Trời có lập giao
ước với dân Do Thái là Ngài sẽ thay họ đối phó với kẻ thù của họ (Sa 12:1-3). Bà cũng biết Đức Chúa Trời của
Y-sơ-ra-ên là Đức Chúa Trời hay tha thứ sẽ lắng nghe dân Ngài khi họ hạ mình
cầu xin Ngài (IISu 7:14). Hơn nữa, Đức Chúa
Trời đã cho phép những người Do Thái sống sót trở về quê hương họ xây dựng lại đền thờ cho Ngài. Vậy, chắc chắn đây không
phải là ý Chúa muốn để cho họ bị tuyệt diệt và công việc họ làm cho Ngài sẽ bị
kết thúc tại đây đâu.
Không giống như Ê-xơ-tê,
khi chúng ta đến gần ngôi ân điển, chúng ta không còn
phải thắc mắc lo nghĩ xem cha chúng ta sẽ nghĩ gì về chúng ta bởi vì Ngài luôn
luôn yêu thương dân sự Ngài và Ngài sẵn lòng đón tiếp họ bước vào trong sự hiện
diện của Ngài. Một trong những nhu cầu lớn nhất
của Hội Thánh Chúa hiện nay là cần có những người can thiệp giùm có lòng trung
tín cầu nguyện cho thế gian hư mất và cho Hội Thánh Chúa được phấn hưng mạnh mẽ. “Ngài thấy không có người, chẳng ai cầu thay, thì
lấy làm lạ lùng” (Es 59:16
KJV). Khi nhu cầu này quá lớn và đặc ân cầu nguyện dành cho chúng ta thật quá
tuyệt vời, thì hiển nhiên là Chúa chúng ta sẽ lấy làm ngạc nhiên sao dân Ngài
lại chẳng đoái hoài gì đến ngôi ân điển cả. Như John Newton đã viết:
“Bạn ơi hãy đến với Vua
Trình lên cho Ngài những
lời cầu khẩn
Vì ân điển và quyền năng
Ngài dồi dào đến nỗi
Chúng ta không cần phải
cầu xin Ngài quá nhiều lời”.
Chúng ta hãy chú ý rằng
Ê-xơ-tê đã tự chuẩn bị cho mình tinh thần sẵn sàng đến gặp nhà vua. (Xin bạn
nhớ lại Ru-tơ cũng đã sửa soạn mình để đi gặp Bô-ô. Xem chương 3). Nếu bạn biết
bạn sắp sửa đi gặp Tổng thống Hoa Kỳ tại Nhà Trắng, hoặc gặp người trong hoàng
gia tại cung điện Buckingham, chắc hẳn bạn sẽ lo chuẩn bị trước cho cuộc gặp gỡ
đó. Tương tự Phi-e-rơ lúc sắp chìm xuống biển, có nhiều lúc chúng ta phải chạy
bổ nhào vào trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời kêu la xin Ngài cứu giúp.
Nhưng quyền năng của Ngài hành động qua “những lời cầu nguyện khẩn cấp” này sẽ
phải tùy thuộc vào mối tương giao thường xuyên hằng ngày của chúng ta với Chúa,
và mối tương giao đó đòi hỏi phải có sự chuẩn bị. Việc chuẩn bị cầu nguyện cũng
quan trọng như việc cầu nguyện vậy.
Nhà vua thực sự đã nhìn thấy hoàng
hậu đến, ông cho mời bà vào hỏi xem bà cần gì. “Trong
lòng loài người có nhiều mưu kế. Song ý chỉ của Đức Giê-hô-va sẽ thành được”
(Ch 19:21 KJV).
“Lòng
của vua ở trong tay Đức Giê-hô-va khác nào dòng nước chảy, Ngài làm nghiêng lệch
nó bề nào tùy ý Ngài muốn.” (21:1
Exo 6:22). Quyền tể trị tối cao của Đức Chúa
Trời luôn kiểm soát trên mọi sự.
Tại sao Ê-xơ-tê lại không báo ngay
cho nhà vua biết về âm mưu độc ác của Ha-man? Vì ít nhất bốn lý do sau. Thứ
nhất, khi ấy chưa phải lúc. Nhà vua
chưa sẵn sàng tiếp nhận thông tin gây kinh hoảng rằng một quan chức cao cấp số
một của mình chính là một tên vô lại. Giữa công việc triều chính lúc ấy, chắc
hẳn A-suê-ru sẽ coi lời cáo trạng của Ê-xơ-tê về hành động mưu phản nào đó
không chỉ như là sự đồn huyễn đơn giản nơi chốn hoàng cung thôi đâu.
Thứ hai, cũng chưa phải đúng chỗ đúng nơi để Ê-xơ-tê lên
tiếng can thiệp, xin giùm cho dân tộc mình. Chắc chắn lúc ấy đang có mặt những
người hầu cận nhà vua trong nội viện, và việc hoàng hậu công khai đến đó kêu
xin với vua điều gì đó hẳn là đã vi phạm vào quy định nghi thức của hoàng cung.
Cảnh tượng một người đàn bà vừa khóc vừa kêu xin trước ngai vua ắt sẽ làm cho
vua bực mình lắm và khiến cho tình hình càng trở nên xấu đi. Tốt hơn hết là
hoàng hậu nên thưa chuyện này với vua một cách riêng tư tại phòng riêng của bà
chứ không nên đem ra nói giữa nơi vua đang thiết triều.
Lý do thứ ba là Ê-xơ-tê muốn Ha-man,
và chỉ mỗi một mình Ha-man mà thôi có mặt tại đó lúc bà tâu cho vua biết viên
thủ tướng chính phủ này của vua đã có mưu đồ độc ác xấu xa thể nào. Với khả
năng trực giác của phụ nữ, Ê-xơ-tê tin rằng Ha-man sẽ cảm thấy chột dạ, bất an;
hắn chắc sẽ phải thừa nhận tội trọng của mình và sẽ làm điều gì đó thật ngu
ngốc khiến cho nhà vua nổi giận. Như vậy, hóa ra Ê-xơ-tê đều đã có hai sự tính
toán đúng.
Nhưng còn có lý do thứ tư nữa đó là
bản thân Ê-xơ-tê đã không ý thức gì về thời gian lúc đó cả. Phải có thêm sự
kiện gì đó xen vào trước khi bà có thể chia sẻ gánh nặng của mình với nhà vua,
và sự kiện ấy đã diễn ra ngay đêm đó. Nhà vua ắt sẽ nhận ra rằng vua chưa hề
ban thưởng cho Mạc-đô-chê cho công lao ông ta đã cứu mạng vua vào 5 năm trước,
và vua sẽ sửa chữa lỗi lầm đó của mình ngay tức khắc. Vua sẽ khen ngợi
Mạc-đô-chê, đồng thời cũng sẽ làm bẽ mặt Ha-man trong cùng lúc đó; và kinh
nghiệm này sẽ giúp chuẩn bị cho vua chịu lắng nghe yêu cầu của Ê-xơ-tê.
Bữa yến tiệc của Ê-xơ-tê đã dọn sẵn.
Do đó, Ha-man và nhà vua phải vội vàng đến dự. Để đáp lời cầu nguyện của
Ê-xơ-tê, Đức Chúa Trời đã hành động trong lòng nhà vua khiến ông không chỉ sẵn
lòng đến phối hợp với hoàng hậu của mình mà Ngài còn làm cho Ha-man cũng cùng
góp phần vào kế hoạch của Ngài nữa. Sự chuẩn bị, sắm sẵn của Đức Chúa Trời thật tuyệt vời làm sao!
2. Sự tin tưởng sai (Et 5:6-9a)
Chỉ có mỗi mình Ha-man được tham dự bữa tiệc với nhà vua và
hoàng hậu tại nhà riêng của hoàng hậu như vậy thì thật là vinh dự cho hắn quá
đi chứ! Hình như chưa có một quan chức nào của đất nước này được vinh hạnh cỡ
đó. Khi Ha-man ăn uống với nhà vua và Ê-xơ-tê, lòng tin tưởng của hắn tăng lên.
Quả thật, hắn đang là một nhân vật quan trọng của quốc gia, và tương lai hắn
rất được đảm bảo.
Khi vua bảo hoàng hậu
hãy trình cho vua biết bà có yêu cầu gì, thì vị thủ tướng chính phủ này lại
càng tăng thêm sự tin tưởng hơn; vì ở đây, nhà vua với hoàng hậu đang cùng bàn
bạc thảo thuận với nhau vấn đề cá nhân gì đó trong sự có mặt của hắn! Ha-man
không chỉ là người bạn tâm giao của vua, mà giờ đây hắn còn được chia sẻ những
mối quan tâm lo lắng của hoàng hậu một cách thân tình nữa. Vì hoàng hậu đã mời
hắn dự tiệc, cho nên nhất định bà đánh giá rất cao tài cố vấn của hắn.
Tại bàn tiệc, chúng ta
thấy có ba chứng cớ về sự tể trị tối thượng của Đức Chúa Trời. Thứ nhất, Chúa
đã kiềm chế Ê-xơ-tê không nói cho vua biết ngay sự thật về Ha-man. Trong lúc
trong lòng bà đang lo sợ như vậy, tôi nghĩ bà không thể không nói với vua. Chúa
hành động trên đời sống bà và hướng dẫn bà nói, thậm chí ngay cả khi bà không ý
thức được điều đó. Đức Chúa Trời làm trì hoãn hành động phơi bày sự thật quan
trọng đó cho đến chừng nhà vua tỏ lòng tôn trọng, khen ngợi Mạc-đô-chê và tưởng
thưởng cho ông.
Chúng ta cũng thấy bàn
tay tể trị của Đức Chúa Trời đang hành động qua
việc nhà vua chấp nhận sự trì hoãn của Ê-xơ-tê và bằng lòng đến dự bữa tiệc thứ
hai của bà. Những vị quân vương như A-suê-ru không có thói quen để người khác
bảo phải đợi chuyện gì đó. “Việc toan liệu của
lòng thuộc về loài người. Còn sự đáp lời của lưỡi do Đức Giê-hô-va mà đến”
(Ch 16:1 NIV).
“Trong
lòng loài người có nhiều mưu kế. Song ý chỉ của Đức Giê-hô-va sẽ thành được”
(19:21 NIV). Bất cứ mọi kế hoạch mà A-suê-ru
đã đưa ra cho tối hôm sau thảy đều bị hủy bỏ để vua dành thì giờ đó đến dự bữa
tiệc thứ hai của hoàng hậu.
Chứng cớ thứ ba cho thấy có quyền tể
trị của Đức Chúa Trời ở đây là không ai trong số khách đến dự tiệc của Ê-xơ-tê
biết bà là một người Do Thái lại đang dám trình bày
thông tin quan trọng này về Ha-man. Hẳn là sau khi biết được quốc tịch thật của
hoàng hậu, Ha-man chắc chắn sẽ nghĩ ra mưu kế gì đó để ngăn cản không cho bà
can thiệp, xin hộ cho dân tộc bà. Mưu đồ vận động ngầm xây dựng bè phái chốn
hoàng cung là một trò chơi nguy hiểm, hễ ai tham gia vào thì sẽ kiếm được lợi
lộc từ công việc bán cho hắn những tin tức gì đó mà họ biết được cho Ha-man.
Sự thật là Ê-xơ-tê đã
mời Ha-man đến dự bữa tiệc thứ hai chỉ cốt để làm gia tăng thêm lòng tin tưởng
cho con người độc ác này (Et
5:12), và đó là mục đích thực của hoàng
hậu. Bà biết rõ chỉ cần kẻ thù này của bà cứ quá tự tin, tự mãn như thế thì
điều ấy ắt sẽ dẫn hắn đến với sự thất bại. “Kẻ
nào tin cậy nơi lòng mình là kẻ ngu muội. Còn ai ăn ở cách khôn ngoan sẽ được
cứu rỗi” (Ch 28:26 NIV). Giống
như kẻ giàu ngu dại trong câu chuyện ẩn dụ của Chúa Cứu Thế chúng ta (Lu 12:16-21), Ha-man tin chắc rằng hắn có quyền
định đoạt cuộc đời của mình, thế nhưng thực tế hắn chỉ còn cách sự chết vài giờ
đồng hồ mà thôi.
Có hai người vì có sự tin tưởng sai
dẫn đến mất mạng, đó là: vua Bên-xát-xa và Giu-đa Ích-ca-ri-ốt. Vua Bên-xát-xa
tổ chức một bữa đại tiệc và hôm đó vua đã phỉ báng Đức Chúa Trời của
Y-sơ-ra-ên; và bằng cách sai bàn tay đến viết trên tường, Đức Chúa Trời thông
báo cho vua biết số phận của vua đã tận. Chính trong đêm đó Ba-by-lôn bị chiếm
và vua Bên-xát-xa bị giết chết (Da 5:1-30).
Còn Giu-đa, một sứ đồ của Chúa Cứu
Thế, nhưng lại không phải là một con cái Chúa thật (Gi
6:70-71) mà là một kẻ phản bội và cũng là một tên trộm (12:6). Tại Phòng Cao, hắn ngồi chỗ rất vinh dự nơi
bàn ăn, và không ai trong số các môn đồ biết được lòng dạ hắn thế nào. Nhưng
Chúa Giê-xu thì biết rõ hắn đang trong lòng hắn nghĩ gì và hắn sắp làm gì, Ngài
giấu không cho các môn đồ còn lại biết điều Ngài đã biết như vậy. Thực tế, thậm
chí Chúa Giê-xu còn rửa chân cho Giu-đa nữa! Vì hắn tin tưởng rằng hắn có thể
kiểm soát mọi thứ, cho nên hắn đã phản bội Chúa Giê-xu đem nộp Ngài cho kẻ thù
rồi kết liễu đời mình bằng sự tự sát (Mat 27:1-10).
Nơi an toàn duy nhất để chúng ta đặt
lòng tin tưởng của mình vào chính là Chúa Cứu Thế Giê-xu.
3. Sự kiêu ngạo (Et 5:10-12)
Diễn viên sân khâu nổi
tiếng John Barrymore nói: “Một trong những sự hối tiếc lớn nhất của tôi là
trong suốt những năm hành nghề của tôi tại nhà hát, tôi đã không chịu ngồi vào
chỗ ghế kháng giả xem thử mình diễn thế nào”.
Đó là điều đúng với thái
độ, dáng dấp của Ha-man khi hắn rời cung điện trở về nhà cùng nỗi vui mừng hớn
hở trong lòng. Mới dự bữa ăn trưa thịnh soạn rất thân
mật với nhà vua và hoàng hậu, nay lại tiếp tục dự bữa tiệc thứ hai vào tối hôm
sau của hoàng hậu, Ha-man đã tự phóng mình lao đi trên con tàu bản ngã của hắn
và điều này làm tôi thấy ghê tởm hắn mỗi khi tôi đọc đến phần đó. Hãy chú ý các
đại từ nhân xưng ở đây: những bạn hữu hắn, vợ hắn, sự giàu có của
hắn, các con trai hắn ( Ha-man có 10 người con trai, Et 9:7-10). Nhà vua đã đề bạt hắn lên địa
vị cao trọng trên hết mọi người khác. Tôi được nhắc nhớ lại người nông dân giàu
có trong Lu 12:16-21 là người rất thích dùng
từ ta.
Có phải Ha-man không biết rằng “Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau, Và tánh tự
cao đi trước sự sa ngã” (Ch 16:18
NKJV) chăng? Hoặc hắn không biết “Sự kiêu ngạo
của người sẽ làm hạ người xuống. Nhưng ai có lòng khiêm nhượng sẽ được tôn vinh”
(29:23 NKJV) hay sao? Hễ ai kiêu ngạo tự mãn
về địa vị chức quyền, về của cải giàu có, về thân thế gia đình hoặc về bất cứ
thứ gì khác thì hãy chú ý đến lời của Giăng Báp-tít: “Ví chẳng từ trên trời ban cho, thì không một người nào có
thể lãnh chi được” (Gi 3:27 KJV). “Bởi
vì, ai phân biệt ngươi với người khác”
Phao-lô hỏi: “Ngươi há có điều chi mà chẳng đã nhận lãnh sao? Nếu ngươi đã
nhận lãnh, thì sao còn khoe mình như chẳng từng nhận lãnh?” (ICo 4:7 NKJV).
Nhiều nhà thần học cho rằng sự kiêu
ngạo là bản chất của tội lỗi. (Có lẽ đó là lý do tại sao sự kiêu ngạo được nêu tên vào hàng thứ nhất trong danh sách “những điều
Đức Chúa Trời ghét”. (Ch 6:16-19).
Chính sự kiêu ngạo đã biến thiên sứ trưởng Lu-xi-phe
thành quỷ Sa-tan: “Ta sẽ lên trên cao
những đám mây, làm ra mình bằng Đấng Rất Cao” (Es 14:14 NKJV). Sa-tan dùng sự kiêu ngạo cám dỗ
Ê-va: “Ngươi sẽ giống Đức Chúa Trời” (Sa 3:5
NIV). William Barclay, học giả Kinh Thánh người Anh đã viết: “Sự kiêu ngạo là
mảnh đất nơi mọc lên mọi tội lỗi khác và cũng là nguồn cội dẫn đến tất cả các
thứ tội lỗi”.
Con người tội lỗi thường hay kiêu
ngạo về cái gì? Chắc chắn chúng ta không thể kiêu ngạo về tổ tiên của chúng ta.
William Jenkyn, diễn giả của giáo phái Thanh giáo nói thế này: “Cha chúng ta là
A-đam, ông nội chúng ta là bụi đất, còn ông cố chúng ta thì chẳng có gì cả”.
Một dòng dõi thật vô nghĩa hết sức! Có một thứ mà Kinh Thánh nói rất nhiều về
nhân loại đó là tội lỗi của họ: “Đức Giê-hô-va
thấy sự hung ác của loài người trên mặt đất rất nhiều, và các ý tưởng của lòng
họ chỉ là xấu luôn” (6:5 KJV).
Vậy, những thành tích mà chúng ta đạt được thật vô nghĩa biết chừng nào!
Có người nói rằng sự kiêu ngạo là
thứ dịch bệnh mà ai cũng biết và ai cũng bị nhiễm
bệnh ngoại trừ người nào đã có bệnh. Nếu không được chữa trị, thì tính kiêu
ngạo sẽ là căn bệnh dẫn đến chết người.
4. Sự hiểm ác (Et 5:9b,13-14)
Khi Ha-man rời khỏi cung
điện chỗ hoàng hậu, hắn ta hí hửng bước đi như thể đi trên không trung với vẻ
đắc ý lắm, nhưng khi nhìn thấy Mạc-đô-chê thì ngay tức khắc hắn phải trở xuống
đất. Vào những lần trước đây, Mạc-đô-chê đã nhất định không chịu quỳ xuống
trước Ha-man (Et
3:4-5), lần này người Do Thái gan dạ đó thậm chí không thèm đứng dậy và
tỏ ra chẳng biết gì đến sự có mặt của viên thủ tướng chính phủ nổi tiếng ấy nữa
là đằng khác. Có dịp tôi được tham dự cuộc họp báo theo chỉ thị tại Nhà Trắng;
khi tổng thống Reagan bước vào phòng họp, thì tất cả chúng tôi đều phải đứng
lên dập gót chào ông ta. Còn lúc vị quan tòa chủ trì bước vào phòng xử án, thì
tất cả mọi người ở đó đều đồng loạt đứng dậy chào và cứ đứng cho đến khi ông cho phép ngồi xuống thì mới ngồi. Cá nhân mỗi chúng ta có
ưa vị tổng thống đó hay vị quan tòa kia hay không thì không thành vấn đề. Nhưng
tất cả chúng ta phải tỏ sự tôn trọng chức vụ mà họ đang nắm giữ.
Ha-man đã “đầy dẫy lòng giận dữ
Mạc-đô-chê” (5:9 NIV). Lòng căm
thù của Ha-man đối với người Do Thái nói chúng và đối với Mạc-đô-chê nói riêng
đã biến thành liều thuốc độc ngấm sâu vào lục phủ ngũ tạng của hắn đến nỗi
khiến cho hắn thậm chí không thể nào vui mừng nổi khi nói về sự vĩ đại cao
trọng của mình! “Song mọi điều đó chẳng ích gì
cho ta cả”, hắn thú nhận, “hễ
lâu chừng nào ta thấy Mạc-đô-chê, người Giu-đa, ngồi tại cửa vua” (5:13 NIV).
Tính hiểm độc là lòng căm thù ngấm
ngầm đem lại cho chúng ta sự khoái trá nếu kẻ thù chúng ta gặp khốn đốn, nó sẽ
khiến chúng ta đau khổ khi kẻ thù chúng ta thành công. Lòng hiểm ác không bao
giờ có thể tha thứ mà luôn luôn phải báo thù cho được thì mới thỏa. Sự hiểm độc
là ký ức đẹp, ích lợi đối với những vết thương lòng và là ký ức xấu, gây hại
đối với những tấm lòng tử tế. Trong ICo 5:8,
Phao-lô ví sánh tính gian ác độc dữ này giống như men vậy, ban đầu nó chỉ là
rất ít mà thôi, nhưng dần dần nó dậy lên, nở ra và cuối cùng nó tràn lan khắp
nơi bao trùm toàn bộ đời sống chúng ta. Tính hiểm ác trong lòng con cái Chúa
làm buồn lòng Đức Thánh Linh và cần phải loại bỏ hẳn nó ra khỏi đời sống chúng
ta (Eph 4:30-32 Co
3:8).
Tính hiểm độc thường diễn tiến âm ỉ,
để rồi cuối cùng rồi tự nó cũng phải lộ ra. Nhưng khi bạn nhắm bắn vào kẻ thù
mình thì hãy coi chừng! Vì viên đạn thường nẩy bật ra khỏi mục tiêu bay ngược
lại làm bị thương kẻ đã cầm súng bắn nó đi! Nếu có ai đó muốn tự vẫn thì cách nhanh
nhất để kết liễu đời mình là hãy bắt chước Ha-man ấp ủ, nuôi dưỡng trong lòng
tính hiểm ác độc địa như vậy.
Ha-man tiêm nhiễm, đầu độc vợ hắn
cùng với bạn bè hắn sự thù hận người Do Thái khiến bọn chúng đề nghị hắn xin
phép nhà vua treo cổ Mạc-đô-chê. Với một người như Ha-man đầy quyền hành như
vậy chắc chắn lúc nào hắn cũng phải đảm trách một số công việc gì đó mà nhà vua
sẽ không phải tốn thì giờ lưu tâm đến. Dĩ nhiên,
đây là tình hình xảy ra trước khi A-suê-ru nhận ra rằng Mạc-đô-chê đã cứu mạng
vua!
Giờ đây chúng ta hiểu rõ hơn lý do
tại sao Ê-xơ-tê đã trì hoãn việc nói cho vua biết sự thỉnh cầu của bà. Sau
những sự kiện diễn ra trong phân đoạn 6, chắc chắn
Ha-man không thể nào có được quyền hạn hành quyết Mạc-đô-chê nữa.
Để khỏi tốn thì giờ,
Ha-man cho người dựng cây mộc hình làm giá treo cổ lên. Không biết thân cây mộc
hình đó cao 75 bộ hay là người ta chôn nó xuống đất, phần thân cây tính từ mặt
đất lên cao chừng đó thì chúng ta không rõ, nhưng đó là chiều cao bằng chiều
cao của bức tường thành hoặc của một toà nhà tính từ mặt đất lên tới nóc. Nhưng
kế hoạch của Ha-man thì đã rõ ràng: Hắn muốn dùng sự hành quyết Mạc-đô-chê này
để làm kinh hoảng người Do Thái và cho họ biết rằng nhà vua đã có ý định làm
như vậy khi vua phê chuẩn cho ban chiếu chỉ. Sự hành quyết một người Do Thái
nổi tiếng như Mạc-đô-chê như thế ắt sẽ làm tê liệt mọi ý chí của dân Do Thái
đang sống trong đế quốc, và Ha-man sẽ được họ đến cầu cạnh, van xin.
Còn có một điều nữa nói
về cây mộc hình làm giá treo cổ này mà chúng ta cũng không rõ lắm: Liệu cây mộc
hình làm giá treo cổ này có giống với giá treo cổ ở phương Tây không, là một
thứ hình cụ dùng để treo cổ người bị tử hình lên cho đến chết? Hay là nó giống
như một cây cọc nhọn dùng để đâm xiên ngang qua thân người bị tử hình? Người
Ba-tư nổi tiếng về những hình phạt tàn khốc dã man của họ, một trong số những
hình phạt khủng khiếp đó là họ dùng cọc nhọn đâm xiên ngang thân kẻ tử tội còn
sống và cứ để thế cho kẻ ấy phải chịu đau đớn cùng cực cho đến chết.
Cho dù giá treo cổ này ở
hình thức nào đi nữa, nhưng hóa ra nó chính lại là công cụ dùng để xử tử Ha-man. Đức Chúa Trời đang đứng trong bóng tối dõi mắt
quan sát mọi thứ thuộc về Ngài.
“Vì
các đường của loài người ở trước mặt Đức Giê-hô-va;
Ngài ban bằng các lối
của họ.
Kẻ hung dữ sẽ bị gian
ác mình bắt phải,
Và bị dây tội lỗi mình
vấn buộc lấy.
Nó sẽ chết vì thiếu
lời khuyên dạy.
Và bị lầm lạc vì ngu
dại quá” (Ch
5:21-23 NKJV).
6. NHỮNG DẤU HIỆU CẢNH CÁO (Et 6:1-14)
(Ở phần này, Đức Chúa
Trời đã rung lên một hồi chuông báo động, nhưng Ha-man không thèm nghe )
Có lẽ bạn vẫn thường
nhìn thấy tấm áp phích quen thuộc có dòng chữ thế này: “Hôm nay là ngày đầu
tiên của phần đời còn lại của bạn”.
Giả sử có ai đó đã nói
như thế với Ha-man khi hắn rời khỏi nhà hắn vào sáng sớm hôm ấy và vội vàng đi
đến cung điện, thì người ấy ắt hẳn đã nói sai. Lẽ ra phải nói thế này: “Nè,
Ha-man! Hôm nay là ngày cuối cùng của đời
ông đấy nhé!”
“Chúa
Giê-hô-va phán: Thật như ta hằng sống, ta chẳng lấy sự kẻ dữ chết làm vui,
nhưng vui về nó xây bỏ đường lối mình và được sống” (Exe 33:11 KJV)
“Chúa
không chậm trễ về lời hứa của Ngài như mấy người kia tưởng đâu, nhưng Ngài lấy
lòng nhịn nhục đối với anh em, không muốn cho một người nào chết mất, song muốn
cho mọi người đều ăn năn” (IIPhi 3:9 NKJV)
“Hỡi
Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem, ngươi giết các đấng tiên tri và ném đá những kẻ
chịu sai đến cùng ngươi, bao nhiêu lần ta muốn nhóm họp các con ngươi như gà
mái túc con mình lại ấp trong cánh, mà các ngươi chẳng khứng!” (Mat 23:37 NKJV).
Dựa vào nền tảng ba câu Kinh Thánh
này, chúng ta có thể tin chắc rằng Đức Chúa Trời không hề mong muốn tội nhân
phải bị chết mất mà Ngài chỉ muốn họ xây bỏ tội lỗi mình để được cứu rỗi. Thiên
đàng sẽ rất vui mừng khi có tội nhân ăn năn (Lu
15:7,10),
nhưng Đức Chúa Trời không ép buộc người ta từ bỏ tội
lỗi và tin nhận Con Ngài. “Ta muốn:… mà
các ngươi chẳng khứng!”.
Chúng ta càng cảm thấy
gớm ghiếc, ghê tởm Ha-man và những hành động xấu xa tồi bại của hắn chừng nào,
thì chúng ta lại càng nên nhớ rằng Đức Chúa Trời rất yêu thương tội nhân và
Ngài luôn muốn cứu vớt họ. Chúa vẫn đang nhẫn nhục chịu đựng và dùng nhiều tác
động khác nhau chạm mạnh đến lòng người ta khi Ngài tìm cách xây trở họ khỏi
con đường xấu xa gian ác của họ. Chúng ta sẽ thấy một vài trong số những tác
động này đã diễn ra qua các biến cố của chương này.
1. Đêm khám phá (Et 6:1-5)
Một lần nữa, chúng ta
lại thấy có bàn tay tể trị của Đức Chúa Trời hành động trên đời sống vua
A-suê-ru rất rõ. Đức Chúa Trời đang tiến hành thực hiện các mục đích của Ngài
cho dù vua có biết được điều đó hay không, và bạn có thể thấy trong phần này có
ít nhất 5 bằng cớ về sự lo liệu trước và sắm sẵn của Đức Chúa Trời.
Nhà vua bị mất ngủ (Et 6:1a): “Thật không dễ dàng nằm xuống ngủ khi trên đầu có đội chiếc mão gai!”, Shakespeare đã
viết như vậy. Sa-lô-môn khẳng định: “Giấc
ngủ của người làm việc là ngon, mặc dầu người ăn ít hay nhiều, nhưng sự chán
lắc làm cho người giàu không ngủ được” (Tr
5:12 KJV). Vậy những sự sự lo nghĩ gì đã làm cho nhà vua không ngủ được
như thế? Vua đang lo lắng về tài chính chăng? Hay tại vua đã ăn uống ở bữa tiệc
của hoàng hậu quá độ chăng? Hay là vua đang bối rối hoang mang về lời thỉnh cầu
chưa được nói ra của hoàng hậu?
Có lẽ một vài trong số những mối bận
tâm lo lắng trên chắn hẳn đã đóng vai trò một phần gây ra sự mất ngủ của vua
trong đêm đó, tuy nhiên, phía sau tất cả những điều đó có bàn tay tể trị tối
cao của Đức Chúa Trời Đấng luôn chăm xem dân Ngài và Ngài không bao giờ chợp
mắt hoặc ngủ cả (Thi 121:3-4). Đức Chúa Trời
khiến nhà vua không ngủ được bởi vì Ngài có điều gì đó muốn nói cho vua biết.
Trong lần đi thăm sở thú, tôi bị mê
hoặc bởi “cuộc triển lãm đêm” này. Các con thú ở đó là những loại mà hầu hết
trong chúng ta chưa bao giờ thấy bởi vì chúng thường ngủ ngày và thức dậy hoạt
động vào ban đêm. “Trong khi các bạn đang ngủ nghỉ”, một trong những tấm áp
phích quảng cáo nói như thế, “thì thiên nhiên vẫn luôn đang bận rộn làm việc
giúp giữ cho cán cân cuộc sống được cân bằng, ổn định”. Tôi tự nhủ: “Trong lúc
mình ngủ thì Cha Thiên Thượng của mình lại rất bận rộn làm việc để bảo đảm cho
một ngày mới sẽ được bắt đầu giống y như điều Ngài muốn”. Tình yêu thương của
Đức Chúa Trời không bao giờ dứt khiến “mỗi buổi sáng thì lại mới luôn” (Ca 3:22-23) bởi vì Chúa không hề ngủ và không hề
thôi làm việc để mọi sự hiệp lại làm ích cho chúng ta (Ro
8:28).
Nhà vua chọn cách giả
trí (Et 6:1b): Vua
A-suê-ru không bao giờ phải lúng túng đối với các nguồn giả trí cả! Vua có thể
cho truyền gọi mấy nàng tì thiếp, cung phi ở hậu cung đến, hay là cho đòi ban
nhạc hoàng gia tới biểu diễn cho vua thưởng thức. Vua và các thị vệ của mình có
thể cùng chơi trò chơi gì đó với nhau, hoặc vua thích thì sẽ cho gọi một người
hát rong nào đó đến hát cho vua nghe một bài Ballad chẳng hạn. Cuối cùng, quyết
định của vua là sai người đọc sách gì đó cho vua nghe chắc chắn là do Đức Chúa
Trời khiến như vậy.
Đức Chúa Trời sao có thể
hướng dẫn chúng ta thậm chí ngay cả trong từng vấn đề nhỏ nhặt như là những trò
tiêu khiển, giải trí của chúng ta? Chắc chắn Ngài có thể chứ. Khi tôi còn là
một thanh niên Cơ Đốc, có dịp tôi dự bữa tiệc sinh nhật của một người bạn nọ
lại hoá ra đó là một trong những sự kiện quan trọng nhất đã xảy ra trong đời
tôi. Bởi vì tối hôm đó, tôi quyết định lên các kế hoạch trong ngành giáo dục
của tôi. Cuối cùng quyết định ấy đã dẫn tôi đến với những ngôi trường của tôi
đang được thay đổi và tôi gặp được cô gái mà nay đã trở thành vợ tôi. Đừng bao
giờ coi thường những điều khác thường mà Đức Chúa Trời có thể làm qua một sự
kiện bình thường nào đó tương tự như một bữa tiệc sinh nhật chẳng hạn.
Viên cận thần của nhà
vua chọn sách (6:1c): Đức
Chúa Trời khiến vua A-suê-ru muốn được nghe đọc sách sử ký của vương quốc.
(Nghe đọc sách đó thì đố ai mà ngủ được!). Nhưng Đức Chúa Trời còn hướng dẫn
viên cận thần đến kệ sách lấy đúng cuốn sử ký có phần ghi lại công trạng của
Mạc-đô-chê đối với nhà vua vào năm năm trước. Chắc chắn phải còn có nhiều tập
sử ký khác nữa, thế nhưng viên cận thần chỉ chọn đúng tập đó mà thôi.
Sao Đức Chúa Trời lại có
thể hướng dẫn người ta ngay cả trong việc chọn sách nào để đọc như vậy? Vâng,
Ngài có thể chứ. Vào cuối tháng Hai năm 1916, có một sinh viên người Anh đã mua một cuốn sách tại quầy sách ở ga xe lửa nọ. Chàng trai
ấy đã từ chối không mua cuốn sách ấy ít nhất 12 lần mỗi khi anh nhìn nó, nhưng
rồi hốm ấy rốt cuộc anh đã mua nó. Đó là cuốn Phantastes (Những Người Ảo Tưởng) của tác giả George Mac
Donald, việc đọc cuốn sách ấy cuối cùng đã dẫn chàng thanh niên này đến sự ăn
năn quy đạo. chàng thanh niên đó là ai thế? Đó chính là C. S. Lewis, là một nhà
biện giáo nổi tiếng nhất và vĩ đại nhất biện giải cho niềm tin Cơ Đốc chúng ta
vào giữa thế kỷ hai mươi này. Ông viết cho một người bạn bảo rằng ông đã nhặt
được cuốn sách “do xui xẻo!”, nhưng tôi tin rằng chính Đức Chúa Trời đã hướng
dẫn ông trong sự chọn lựa đó của ông.
Đức Chúa Trời thậm chí còn có thể
chỉ dẫn chúng ta phải đọc những gì trong cuốn sách nào đó. Có một thanh niên nọ tại
Bắc Phi đi tìm kiếm cho mình sự bình an, thỏa mãn, thứ nhất là ở trong những
thú vui nhục dục xác thịt, sau đó là ở sự bình thản lạnh lùng trước cuộc sống, nhưng rồi anh ta chỉ càng trở nên khốn khổ và thảm
thương hơn. Một ngày nọ, anh ta nghe đứa bé con hàng xóm đang vừa chơi trò chơi
gì đó vừa la lên rằng: “Hãy cầm nó đọc đi! Hãy cầm nó đọc đi!” Chàng
trai trẻ này liền cầm ngay cuốn Kinh Thánh lên và “tình cờ” mở ra chỗ sách Ro 13:13-14; chính những câu Kinh Thánh này đã dẫn
anh ta đến với việc tin nhận Chúa Cứu Thế. Chúng ta được biết chàng trai trẻ đó
hiện nay chính là Augustine, Giáo Sĩ Trưởng phụ trách công việc Giáo Hội tại
Hippo và cũng là tác giả của rất nhiều tác phẩm kinh điển Cơ Đốc.
Viên cận thần của nhà
vua A-suê-ru đã chọn đúng tập sử ký ký thuật về công trạng của Mạc-đô-chê và đã
đọc ngay phần đó cho vua nghe. Sự sắm sẵn này của Đức Chúa Trời mới tuyệt diệu
làm sao!
Nhà vua trì hoãn việc
ban thưởng cho Mạc-đô-chê (Et
6:2-3): Đây là vấn đề then chốt: Nếu như
Mạc-đô-chê đã được tôn vinh ca ngợi vào 5 năm trước, thì những biến cố đưa đến
ngày khủng hoảng này giờ đây đâu có xảy ra. Ban thưởng và trừng phạt là nền
tảng để duy trì lòng trung thành tiết nghĩa của người Ba-tư, thật là bất thường
nếu có công trạng nào của ai đó xứng đáng được ban thưởng mà lại không được ban
thưởng. Thế tại sao công trạng của Mạc-đô-chê tuy có được lưu lại trong sử ký
nhưng lại bị lãng quên đi như vậy? Phải chăng viên thư ký lo việc ghi chép sử
sách này nằm trong bộ máy nhà nước quan liêu đó nhân cơ hội này chống lại
Mạc-đô-chê để rửa hận đúng không? Hay là bản lưu của phần ghi chép ấy đã bị
thất lạc mất? Chúng ta không biết được; nhưng có điều chúng ta biết chắc, rằng
Đức Chúa Trời đã lưu tâm đến chuyện này và Ngài chọn sẵn ngày để cho Mạc-đô-chê
được tôn vinh.
Có phải chính Đức Chúa
Trời đã lên lịch cho các công việc này hết cả phải không? Chắc chắn, đúng là như thế! Sau khi đối xử tốt với quan tửu chánh của
Pha-ra-ôn, Giô-sép tưởng rằng điều đó sẽ đưa ông thoát khỏi ngục tù; thế nhưng
Giô-sép đã phải đợi hơn 2 năm sau cho đến lúc Đức Chúa Trời chọn ông làm nhà
thống trị chỉ dưới quyền Pha-ra-ôn mà thôi tại Ê-díp-tô (Sa 40:23-41:1). Đức Chúa Trời đã chọn một ngày rất
cụ thể, riêng biệt cho dân Do Thái rời khỏi Ê-díp-tô (Xu
12:40-42 Sa 15:13-16), và ngay cả sự
giáng sinh của Chúa Cứu Thế Giê-xu tại Bết-lê-hem cũng đã diễn ra “khi kỳ hạn đã trọn” (Ga 4:4 KJV). Sống giữa vòng thế giới đầy phức tạp,
lộn xộn và rối rắm này, một Cơ Đốc nhân sống đời sống dấn thân cho Chúa sẽ mạnh
dạn nói rằng: “Kỳ mạng tôi ở nơi tay Chúa” (Thi
31:15 KJV) người đó sẽ tìm thấy sự thỏa lòng và bình an trong ý muốn
Ngài.
Người ta thường bảo: “Sự trì hoãn
của Đức Chúa Trời không phải là sự từ chối của Ngài”. Đôi khi chúng ta không
giữ được lòng kiên nhẫn và thắc mắc tại sao kẻ ác thì hay thịnh vượng còn người
công bình thì hay gặp bất hạnh khổ đau, nhưng Đức Chúa Trời không bao giờ vội
vã, hấp tấp cả. Ngài nhẫn nhục chịu đựng kẻ ác bởi vì Ngài muốn họ ăn năn, và
Ngài rất kiên nhẫn đối với dân sự Ngài bởi vì Ngài muốn họ nhận lãnh được phần
thưởng thích đáng tại thời điểm thích hợp để hoàn thành mục đích ích lợi. Nếu
Mạc-đô-chê cứ luôn bối rối, hoang mang sao nhà vua lại thăng chức cho Ha-man mà
lại thờ ơ với mình như thế, thì chắc hẳn ông đã sớm
nhận ra rằng Ngài không hề sai lầm chút nào.
Ha-man đến thật đúng
lúc (Et 6:4): Có thể Ha-man đã
thức suốt đêm đó, vui sướng giám sát công việc dựng cây mộc hình làm giá treo
cổ để hắn sẽ dùng treo cổ (hoặc xiên người) Mạc-đô-chê lên. Vừa sáng sớm tinh
mơ, Ha-man đã muốn đến gặp nhà vua ngay để có thể xin vua cho phép hắn
thi hành xử tử Mạc-đô-chê (Ch 6:18). Theo
suy nghĩ của Ha-man thì việc treo cổ Mạc-đô-chê được tiến hành vào buổi sáng càng
sớm càng tốt. Có như vậy thì thi thể của Mạc-đô-chê sẽ bị đem bêu ra đó suốt cả
ngày trọn, và điều này ắt làm cho Ha-man vui sướng thỏa dạ biết bao, đồng thời
sẽ gieo nỗi kinh khiếp vào lòng những người dân Do Thái đang sống trong thành
phố. Sau khi hành quyết Mạc-đô-chê xong, Ha-man sẽ có thể yên tâm rằng mọi
người đều phải nghe theo mệnh lệnh của nhà vua mà lo quỳ xuống trước hắn.
Giả sử đến 2 giờ sau đó
Ha-man mới tới thì sao nhỉ? Nhà vua ắt hẳn sẽ phải hỏi ý kiến những nhà cố vấn
khác, và Ha-man chắc chắn sẽ bị gạt ra ngoài buổi lễ tán dương Mạc-đô-chê. Đức
Chúa Trời muốn Ha-man phải bỏ ra cả ngày để tôn vinh ca tụng Mạc-đô-chê và
không còn lấy làm hả hê về thi thể của Mạc-đô-chê sẽ bị treo trên mộc hình ấy
nữa. Đức Chúa Trời thậm chí đã cảnh cáo Ha-man rằng tốt hơn hắn ta nên đổi
hướng, nếu không thì kết cuộc hắn sẽ bị hủy diệt mà thôi.
Khi bạn ôn lại những
bằng cớ về sự dự liệu, sắm sẵn này của Đức Chúa Trời, bạn sẽ không thể không
muốn ngợi khen và cảm tạ Ngài vì Ngài là Đức Chúa Trời vĩ đại cao cả.
“Đức
Giê-hô-va làm bại mưu các nước,
Khiến những tư tưởng
các dân tộc ra hư không.
Mưu của Đức Giê-hô-va
được vững lập đời đời,
Ý tưởng của lòng Ngài
còn đời nầy sang đời kia.” (Thi 33:10-11 NKJV).
“Chẳng
có sự khôn ngoan nào. sự thông minh nào. hay là mưu kế nào,
Mà chống địch Đức
Giê-hô-va được”
(Ch 21:30 NIV).
“Nếu Đức
Chúa Trời vùa giúp chúng ta thì còn ai nghịch với chúng ta?” (Ro 8:31 KJV).
2. Buổi sáng quyết định (Et 6:6-10)
Thường thì phải đi vào
chính điện nơi vua ngự triều, nhưng lúc bấy giờ Ha-man lại được mời vào phòng
ngủ của vua. Kiểu tôn trọng mới mẻ này đã làm gia tăng thêm lòng tự cao tự đại
của Ha-man và khiến hắn thêm sự tin tưởng sai lầm mà thôi; hắn tưởng hắn đang
kiểm soát mọi biến cố và rằng số phận Mạc-đô-chê đã được hắn quyết định. Khi
nhà vua hỏi ý kiến hắn về vấn đề của một người nào đó thì lòng kiêu căng tự phụ
tự mãn của hắn đã được thổi phồng lên thêm.
Trong câu 6, vua nêu lên
câu hỏi úp úp mở mở và vua không nói rõ “người
nào vua muốn tôn trọng” (NKJV) là ai. Bởi tính tự cao, Ha-man cứ tưởng vua
đang nói về hắn. Nhưng rốt cuộc thì người đang ở trong vương quốc của vua xứng
đáng được vua tôn trọng ca ngợi là ai thế? Sau lần Mạc-đô-chê làm cho Ha-man bẽ
mặt ngoài đường phố, giờ đây hắn lại càng muốn trả thù gấp bội phần: trước hết,
hắn cứ để nhà vua tôn trọng khen ngợi Mạc-đô-chê đi đã, sau đó hắn sẽ cho người
treo cổ Mạc-đô-chê lên trên cây mộc hình. Ha-man chắc là rất hả hê đến cực điểm
vì đã được tham dự bữa tiệc với lòng tràn “khoái lạc” với nhà vua và hoàng hậu.
Gã Ha-man kiêu ngạo đã lờ mờ nhận
thấy rằng, trước khi ngày hôm ấy trôi qua, tình hình ắt sẽ hoàn toàn thay đổi:
hắn sẽ bị bắt buộc phải tỏ ra tôn trọng Mạc-đô-chê trước tất cả dân chúng trong
thành; bữa tiệc của Ê-xơ-tê hóa ra lại là dịp để làm lộ ra kẻ tạo phản nhà vua,
đất nước; và chính Ha-man chứ không phải Mạc-đô-chê sẽ phải bị treo trên cây
mộc hình.
“Người
công bình được cứu khỏi hoạn nạn
Rồi kẻ hung ác sa vào
đó thế cho người” (Ch
11:8 NKJV).
“Trước
khi sự bại hoại, lòng người vẫn tự cao
Song sự khiêm nhượng
đi trước sự tôn trọng” (18:12
NKJV).
Nửa phần đầu của câu này áp dụng cho
Ha-man và nửa phần còn lại của câu là dành cho Mạc-đô-chê. Chỉ phân cách nhau
một dấu phẩy nhỏ thôi nhưng lại có sự khác biệt biết bao! 29:23 cũng có nội dung tương tự: “Sự kiêu ngạo của người sẽ làm hạ người xuống. Nhưng ai có
lòng khiêm nhượng sẽ được tôn vinh” (NKJV). Bạn đang sống giống với
nội dung ở phía nào của dấu phẩy?
Vì Ha-man tưởng rằng nhà vua đang
nói đến sự tôn trọng mà hắn sắp sửa nhận được, cho nên hắn đã đáp lại vua một
câu rất hay: người được làm cho tôn trọng sẽ mặc y phục của chính vua, cỡi trên
ngựa của vua và đội trên đầu vương miện của vua, lại phải có một quan triều
thần tối tôn dẫn người cỡi ngựa đó đi khắp thành phố ra lệnh cho mọi người hãy
tỏ lòng tôn kính người. Đó là một sự kiện giống với lễ đăng quang biết bao!
Càng ngẫm nghĩ về bản chất của
Ha-man, tôi lại càng tin rằng hắn đang muốn chiếm đoạt ngai vàng cho mình. Giả
sử có chuyện gì bất ngờ xảy ra với A-suê-ru thì chắc chắn Ha-man là người thứ
hai trong đế quốc này đang ở vị trí thuận lợi nhất chiếm ngay được ngai vàng.
Một kẻ đầy lòng tham muốn một cách ích kỷ và vô cùng kiêu ngạo thì ắt hẳn là
hắn sẽ không bằng lòng với địa vị thứ hai đó của mình đâu nếu như hắn có cơ hội
đoạt được vị trí cao nhất. Nếu những điều được mô tả trong Et 6:8-9 thực tế sẽ được làm cho Ha-man, thì ắt
hẳn dân thành Su-sơ sẽ tin chắc vua A-suê-ru đã chọn Ha-man làm người kế vị ông
ta.
Xin lưu ý chi tiết vua A-suê-ru đã
gọi Mạc-đô-chê là “người Giu-đa”
(c.10). Chắc hẳn bạn có ấn tượng rằng vua A-suê-ru hoàn toàn quên bẳn việc ông
đã cho phép Ha-man hạ chiếu chỉ tiêu diệt người Do Thái. Mới ngày nào nhà vua
là kẻ thù của dân Do Thái, vậy mà chỉ mới một vài tuần trôi qua đây thôi, vua
đã làm cho tôn trọng một trong những công dân Do Thái đang làm lãnh đạo như
thế! Nhưng A-suê-ru có một món nợ cần phải trả, vì Mạc-đô-chê đã cứu mạng ông
dạo ấy. Và có lẽ qua việc làm cho Mạc-đô-chê được người ta tôn vinh khen ngợi
một cách công khai như vậy, nhà vua đã khiến cho các cư dân thành phố đang
hoảng kinh kia đã được trấn tĩnh, yên ổn trở lại (3:15).
Đó là một buổi sáng
quyết định. Nhà vua quyết định ban thưởng cho Mạc-đô-chê, và Ha-man đã quyết
định sẽ phải ban thưởng những gì. Thế rồi kết quả ra sao?
3. Ngày nhục nhã (Et 6:11-14)
Chúng ta không biết
Ha-man sẽ phản ứng thế nào khi hắn nghe nhà vua bảo hắn hãy làm tất cả mọi điều
ấy cho Mạc-đô-chê. Hắn có bị sốc không nhỉ? Hắn có biểu lộ sự ngạc nhiên đến độ
không thể tin được của hắn ra hay không? Chắc là không, bởi vì bạn không thể
tùy tiện, tự do biểu lộ về con người của mình ra trước mặt vị quân vương đông
phương nào đó đâu. Chính sự ăn ở hai lòng đầy kinh nghiệm của Ha-man đã dẫn
chân hắn đến trước mặt vua lúc này, cho nên hắn chỉ còn biết quỳ xuống nhận
lệnh của vua và làm theo mà thôi.
Thứ nhất, hắn phải đi ra
lối cửa vua, gặp Mạc-đô-chê mời ông vào trong cung điện. Kế
tiếp, hắn phải mặc triều phục của vua cho Mạc-đô-chê. Sau khi đỡ Mạc-đô-chê lên
ngồi trên lưng ngựa của vua, hắn lại phải dẫn ngựa ấy đi khắp thành phố và
tuyên bố: “Người mà vua muốn tôn trọng được đãi
như vậy” (6:9 NIV). Thế rồi sau
khi đi dạo khắp các đường phố xong, hắn phải dẫn ngựa quay về cung điện rồi tự
tay cởi triều phục của vua cho Mạc-đô-chê, xong, Mạc-đô-chê lại được trở lại
với chỗ của mình tại cửa vua. Thật là mỉa mai cho Ha-man quá cỡ! Vì gần trọn cả
ngày trời hắn phải làm đầy tớ hầu hạ Mạc-đô-chê, đi ra lệnh cho dân chúng hãy
quỳ xuống tỏ lòng kính trọng và ngợi khen tán tưởng Mạc-đô-chê! Điều mà Mạc-đô-chê đã từ chối không bao giờ làm đối với Ha-man quỳ
xuống còn bây giờ thì chính Ha-man lại phải bảo người ta làm như thế đối với
Mạc-đô-chê!
Được khen ngợi một cách
công khai phô trương khiến nhiều người biết đến như thế đã tác động đến
Mạc-đô-chê như thế nào? Khi sự ấy trôi qua, ông ta lại trở về chỗ của mình tại
cửa vua và tiếp tục công việc phục vụ nhà vua như trước một cách bình thường.
sự khen ngợi tán thưởng không làm thay đổi những con người khiêm nhường thật,
vì những giá trị mà họ có được còn quý báu hơn gấp vạn lần. Đức Chúa Trời có
thể ban phước hạnh cho những người khiêm nhường bởi vì chỉ có họ mới là những
người hết lòng kính sợ, tôn trọng Chúa và luôn muốn ca ngợi Ngài.
Còn phản ứng của Ha-man
thì hoàn toàn khác hẳn, vì hắn đã bị bẽ mặt, nhục nhã quá đỗi. Hắn đi về nhà
ngay trùm đầu lại tỏ vẻ rầu rĩ, sầu thảm lắm. Mạc-đô-chê cũng đã biểu hiện y
như thế khi ông biết được chiếu chỉ hôm nọ của vua có liên quan đến người Do Thái (4:1-2).
Một lần nữa, tình thế đã xoay ngược.
Dẫu rằng trước đó người ta có quỳ
lạy Ha-man, nhưng giờ đây hắn không dám gặp họ bởi vì hắn đã bị làm nhục trước
mặt họ và hắn biết rõ họ đang cười nhạo chế giễu sau lưng hắn. Đúng là có sự
khác biệt giữa danh tiếng và bản chất như thế. Ha-man là một người nổi tiếng
như cồn, tiếng tăm lẫy lừng, chỉ có nhà vua mới có thể khiến cho hắn được trở
nên như vậy; nhưng hắn không phải là người có chí khí. Sự nổi danh hắn có được
là nhờ bởi chức vụ địa vị, sự giàu có và quyền thế của hắn, nhưng hắn sẽ dễ
dàng bị tước đi tất cả mọi thứ đó.
Có điều thật tương phản biết bao
giữa hai lần tụ họp gia đình của Ha-man trong 6:13
và được ký thuật trong 5:10-12! Vào lần
trước, Ha-man hết lời khoe khoang sự vĩ đại của mình, còn lần này thì hắn đã
phải thú nhận hắn bị bẽ mặt, bị nhục nhã ra sao. Nếu như người cỡi trên ngựa
kia là một quan triều thần nào đó chứ không phải là Mạc-đô-chê người Do Thái,
thì có lẽ Ha-man ắt đã có thể xoay trở tình thế; nhưng rồi, việc hắn bị bắt
buộc tán dương và làm cho tôn trọng một người Do Thái như thế đã khiến cho
Ha-man hoàn toàn mất hết chí khí, tinh thần.
Ngay lúc đó, vợ hắn cùng
mấy tay cố vấn của hắn đã nói với hắn một câu
nói thật thú vị: “Ông đã khởi mòi sa bại trước
mặt Mạc-đô-chê rồi, nếu hắn quả thuộc về dòng dõi dân Giu-đa, thì ông sẽ chẳng
thắng hắn được đâu, nhưng sẽ sa bại quả hẳn trước mặt người” (6:13 NKJV). Sự nhục nhã của Ha-man trên các đường
phố với những lời này phát ra từ trong nhà hắn chắc hẳn đã cảnh cáo hắn và
khiến hắn phải thay đổi hướng hành động của mình. Đức Chúa Trời đang cảnh cáo
Ha-man, thế nhưng viên thủ tướng chính phủ tự cao tự đại này vẫn chẳng thèm lưu
tâm đến sự cảnh cáo ấy. Giá như mà hắn hết lòng thành thật ăn năn tội và cầu
xin Chúa thương xót, thì có thể hắn sẽ được cứu mạng và cả 10 người con trai
của hắn cũng thế.
Dân Ba-tư là dân rất mê tín dị đoan,
các cố vấn của họ đã nhìn thấy trong các biến cố có cái ngày diễn ra “điềm xấu”
này đối với tương lai của Ha-man. Có lẽ họ cũng có biết đến giao ước của Đức
Chúa Trời lập với Áp-ra-ham (Sa 12:1-3),
hoặc có thể họ rất rành lịch sử Do Thái. Nhưng dù ở góc độ nào, thì họ đều có
nhìn thấy Ha-man sẽ sụp đổ khỏi địa vị danh vọng của mình; và sự tiên đoán kinh
khủng này đáng lý ra phải đưa Ha-man đến với sự khiêm nhường, hạ mình và ăn năn
tội mới phải chứ.
Trong khi Ha-man đang
đem những điều không may của mình nói với vợ hắn với bọn
quan thầy cố vấn của hắn, thì quan thái giám của nhà vua đã xuất hiện ở cửa hộ
tống hắn mau đến dự yến tiệc do hoàng hậu khoản đãi. Hắn đã chuẩn bị tinh thần
“khoái lạc” để đến dự tiệc, còn
Mạc-đô-chê thì chắc chắn không đời nào có được diễm phúc đó đâu (Et 5:14) thế nhưng, giờ đây mọi sự đã thay đổi.
Sẽ xảy ra điều gì tiếp theo? Lời
khẩn xin đầy bí mật của hoàng hậu Ê-xơ-tê sẽ được tiết
lộ ra tại bàn tiệc là gì vậy?
Ha-man liền rời khỏi nhà
cùng với quan thái giám đi ăn bữa ăn cuối cùng của hắn.
Khi Đức Chúa Trời rung lên hồi
chuông cảnh cáo, thì chúng ta hãy lập tức dừng lại, nhìn xem, lắng nghe và làm
theo lời Ngài.
7. TẤM MẠNG CHE MẶT BỊ GỠ RA (Et 7:1-10)
(Trong phần này, Ha-man
đã bị treo cổ kết liễu cuộc đời )
Khi nhà vua và Ha-man
đến tại nhà riêng của Ê-xơ-tê trong cung điện, cả hai đều chưa biết Ê-xơ-tê vốn
là một người Do Thái. Có lẽ Ha-man vẫn còn đang bực tức về những chuyện đã xảy
ra trong ngày hôm ấy, thì giờ này hắn ta đang tự trấn tĩnh mình lại và hy vọng
tìm được sự vui vẻ ở bữa tiệc. Đây là bữa tiệc thứ bảy được ký thuật trong sách
Ê-xơ-tê.
Chắc sau khi biết được
quốc tịch của hoàng hậu, có lẽ Ha-man sẽ lo tìm đường chạy trốn hoặc van xin
nhà vua rủ lòng thương xót, độ lượng, khoan dung. Đức Chúa Trời đã cảnh cáo
Ha-man qua các hoàn cảnh, qua mấy vị cố vấn của hắn và qua cả vợ hắn nữa, vậy
mà viên thủ tướng chính phủ này đâu có thèm lưu tâm đến những sự cảnh cáo đó
của Chúa.
“Phàm
ai có lòng kiêu ngạo lấy làm gớm ghiếc cho Đức Giê-hô-va;
Quả thật nó sẽ chẳng
được khỏi bị phạt” ( Ch
16:5 NIV).
Sự nhẫn nhục chịu đựng của Đức Chúa
Trời đã dẫn Ha-man vào trong ý nghĩ mà hắn tưởng là đúng. “Bởi chẳng thi hành ngay án phạt những việc ác, nên lòng
con loài người chuyên làm điều ác” (Tr
8:11 NKJV). Sự kiên nhẫn chịu đựng của Đức Chúa Trời ngày nay đang là cơ
hội cho mọi người ăn năn (IIPhi 3:9), thế
nhưng thế gian tội lỗi này của chúng ta cứ ngỡ rằng Ngài chắc không trừng phạt
tội nhân đâu. “Khi người ta sẽ nói rằng: Bình
hòa và yên ổn, thì tai họa thình lình vụt đến, như sự đau đớn xảy đến cho người
đàn bà có nghén, và người ta chắc không tránh khỏi đâu” (ITe 5:3 NKJV).
1. Sự thỉnh cầu của hoàng hậu (Et 7:1-4)
Kể từ bữa tiệc đêm
trước, vua A-suê-ru vẫn đang đợi nghe lời thỉnh cầu của hoàng hậu; vì vậy, khi
được hầu rượu rồi, nhà vua đã đề cập đến chuyện đó. Dĩ nhiên, câu nói “dầu cho đến phân nửa nước”
là lời hứa cửa miệng của vua, nhưng chúng ta không nên hiểu chúng theo nghĩa
đen (5:3 Da 5:16
Mac 6:23). Đơn giản nó có ý muốn nói rằng
nhà vua tỏ ra là người rất hào phóng, rộng rãi. Do đó, bạn hãy cứ nói cho vua
nghe bạn muốn gì, vậy thôi.
Trong suốt 24 tiếng đồng hồ trước
đó, Ê-xơ-tê có lẽ đã dợt đi dợt lại nhiều lần những gì mình sẽ nói với vua, giờ
đây Đức Chúa Trời đã ban cho bà sự can đảm dạn dĩ nói ra những gì bà dự định sẽ
nói đó. Hãy nhớ cho rằng, bà đang liều mình dấn thân, bởi vì chỉ cần vua từ
chối lời khẩn cầu của bà thì bà sẽ phải mất mạng.
Ngay từ đầu bà cho thấy rõ bà phải
tùy thuộc vào thiện ý của nhà vua và bà đã không cố nài vua hãy làm điều gì đó
cho bà. Bà chỉ thưa rằng bà có ước muốn làm hài lòng vua chứ không phải để làm
hài lòng bà. Điều này tác động rất tốt đến tâm lý nhà vua, đặc biệt là đối với
một vị quân vương có tính sô-vanh như vua A-suê-ru này.
Bà cũng rất khôn ngoan đã không nói
rằng: “Có một kẻ trong vương quốc của bệ hạ đang âm mưu tiêu diệt tất cả dân Do
Thái!”. Bà đã hướng sự thỉnh cầu của mình vào
một thực tế là, sự sống của hoàng hậu đang bị đe dọa và nhà vua phải có trách
nhiệm làm thứ gì đó. Như thế,
chúng ta có lý do để tin chắc rằng nhà vua vẫn đang còn yêu thương hoàng hậu
của mình cho nên ông ta không muốn có bất cứ điều gì làm hại đến bà. Vua ngồi
đó trước mặt hoàng hậu, chiêm ngưỡng dung nhan xinh đẹp của bà, và lời bà nói
ra lúc ấy đã khiến vua phải đứng dậy rời khỏi bữa tiệc, bỏ đi ra. Kẻ độc ác
đang muốn giết hoàng hậu là ai vậy?
Không những sự sống của
hoàng hậu đang gặp nguy hiểm mà dân tộc bà còn đang có nguy cơ bị giết hại. Tôi
đoán chính câu nói này của bà đã khiến cho nhà vua bối rối. Dân tộc bà là dân
tộc nào nữa? Chả nhẽ bà không phải là người Ba-tư sao? Bà đang giữ một bí mật
gì đối với ta (vua) vậy?
Thế rồi Ê-xơ-tê liền
nhắc vua nhớ lại chiếu chỉ kỳ trước mà vua đã phê chuẩn cho phép tuyệt diệt
người Do Thái. Thực tế, những lời của hoàng hậu gần như lặp lại theo đúng
nguyên văn từng chữ một trong chiếu chỉ (Et 3:13). A-suê-ru đủ
thông minh để hiểu được ý hoàng hậu muốn nói gì và vua hiểu rằng Ê-xơ-tê là
người Do Thái, vua đã tỏ ra không cố tình đồng lòng chút nào với kẻ muốn giết
hoàng hậu!
Ê-xơ-tê tiếp tục chỉ ra
cho vua biết việc ban ra chiếu chỉ này sẽ phải bị trả giá ra sao (c.9-11). Nếu
vua đã mua những người Do Thái như là mua các nô lệ, thì bây giờ họ đành phải
chịu sự đối xử như vậy. Nhưng đằng này vua
đã mua họ để rồi đẩy họ vào sự chết và bị hủy diệt hoàn toàn thì chẳng ai có
thể bồi thường nổi giá mà vua đã bỏ ra mua họ. Ê-xơ-tê nói: “Vì tôi và dân tộc tôi đã bị bán để hủy diệt, giết chết,
và làm cho hư mất đi. Vả, nếu chúng tôi bị bán để làm nô lệ, tất tôi đã nín
lặng, mặc dầu kẻ thù nghịch chẳng bồi thường sự thiệt hại cho vua lại được”.
Hoàng hậu Ê-xơ-tê đã can đảm can thiệp giùm cho dân tộc mình. Thế nhà vua sẽ
đáp lại bà ra sao?
“Hãy
phó các việc mình cho Đức Giê-hô-va,
Thì những mưu ý mình
sẽ được thành công.
Đức Giê-hô-va đã dựng
nên muôn vật để dùng cho Ngài;
Đến đỗi kẻ ác cũng
vậy, để dành cho ngày tai họa” (Ch 16:3-4 NIV).
2. Nhà vua nổi cơn thịnh nộ (Et 7:5-8)
Tại điểm này, bạn hãy cố
hình dung xem có điều gì đang diễn ra trong tâm trí vua A-suê-ru. Không cần
công khai lên án vua, nhưng Ê-xơ-tê đã ám chỉ vua là một kẻ giết người độc ác
khủng khiếp, vua cảm thấy mình đã phạm tội thật sự. Vua biết rõ vua đã vội vàng
ưng thuận phê chuẩn việc ban hành chiếu chỉ. Nhưng vua không nhận ra rằng chiếu
chỉ đó lại là một phần của một âm mưu. Vua đã ký duyệt lệnh thi hành án tử cho
chính người vợ của mình! Giờ thì vua phải tìm cách cứu thoát vợ mình và cứu vãn
thể diện cho chính vua nữa.
Trong nền quân chủ
chuyên chế, nhà vua được người ta suy tôn như một vị thần và vua không thể có
sự sai lầm nào. Đây là lý do tại sao các vị quân vương thời xưa luôn luôn có
sẵn một đám người chuyên làm nhiệm vụ giơ đầu chịu báng thay là những người
thường để bị quở mắng thay cho sự thiếu hiểu biết hay sự vô năng của vua. (Các
chính trị gia thời hiện đại cũng hay làm như vậy). Do đó, câu hỏi của vua trong
câu 5 ngụ ý rất rõ về điều này: “Kẻ dám toan lòng làm như vậy là ai, và nó ở đâu?”. Vua đang phải kiếm một ai đó để trừng phạt.
A-suê-ru vừa hết sức
ngạc nhiên khi ông biết được quốc tịch của hoàng hậu; giờ thì ông lại bị chạm
nọc với sự ngạc nhiên khác: viên quan đại thần mà ông sủng ái nhất lại chính là
đối thủ và cũng là kẻ thù đã bày mưu vẽ kế ra toàn bộ sự việc đen tối xấu xa này. Ê-xơ-tê không hề tiết lộ rằng Ha-man, cũng như
vua, chỉ mới biết bà là người Do Thái do từ chính miệng bà vừa nói ra. Có lẽ
A-suê-ru cho rằng Ha-man có mưu ác là muốn giết chết hoàng hậu và để thực hiện
được việc đó thì sẽ phải giết hết người Do Thái. Có lẽ vì chuyện này mà Ha-man
chắc có dính líu đến mưu phản của Bích-than, Thê-rết dạo trước mà Mạc-đô-chê đã
từng phát hiện, tố giác với vua, và đó là một âm mưu tạo phản giết vua! (Et 2:21-23). Tương
tự Ê-xơ-tê, Mạc-đô-chê cũng là một người Do Thái!
Đến đây chúng ta có thể hiểu rõ hơn
lý do tại sao Đức Chúa Trời lại hướng dẫn Ê-xơ-tê trì hoãn sự thỉnh cầu của bà:
vì Ngài muốn A-suê-ru có cơ hội nhận biết những gì Mạc-đô-chê đã làm cho vua,
rằng Mạc-đô-chê là một người Do Thái xứng đáng được tôn trọng, tán thưởng. Nếu có một người Do Thái đã cứu mạng vua như thế, thì tại
sao vua lại muốn đi tuyệt diệt hết người Do Thái như vậy?
“Vua
nổi thạnh nộ, đứng dậy khỏi bữa tiệc, đi ra nơi ngự viên” (7:7 NIV). Chúng ta có biết vua A-suê-ru là người
nóng tính rất dễ nổi giận (1:12); nhưng
trong lần này, cơn giận của vua chắc là đã hóa thành núi lửa phun trào. Tính
kiêu hãnh và lòng tự trọng của người đàn ông trong con người vua đã bị xúc phạm
ghê gớm bởi vì vua đã đánh giá sai về bản chất của con người Ha-man. Vua thấy
mình đã làm việc ngu ngốc là đã đề bạt Ha-man lên chức vụ địa vị cao như vậy và
vua lại còn đem lại cho hắn nhiều ảnh hưởng tiếng tăm nữa. Vua cũng đã mắc sai
lầm khi phê chuẩn chiếu chỉ mà không có sự xem xét, cân nhắc cẩn thận mọi sự
việc (Ch 18:13). Kết quả là, vua đang gây
nguy hiểm cho sự sống của hai người Do Thái đặc biệt một là Mạc-đô-chê, ân nhân
đã cứu mạng vua, hai là E-xơ-tê người vợ yêu dấu của vua.
Nhà vua cứ đi đi lại lại trong vườn,
ông đang cố kiềm chế cơn giận dữ phun trào ra trong lòng mình. “Cơn thạnh nộ của vua khác nào sứ giả sự chết;”
(16:14 KJV). “Vua
thạnh nộ khác nào sư tử gầm thét” (19:12
KJV). Dĩ nhiên là Ha-man phải sợ khiếp vía! Bởi vì hắn là người thường hay kề
cận bên cạnh vua đủ để hắn biết rõ và hiểu được tính khí đặc biệt của vua thế
nào. Hắn biết vua sắp sửa trở thành quan tòa đưa hắn ra xét xử và lập bản án
cho hắn mà hắn sẽ không thể nào thoát khỏi được.
Về phần Ha-man, hắn thấy còn có một
khả năng hiếm hoi: hy vọng vào sự khoan dung, độ lượng của hoàng hậu. Có lẽ hắn
cố đánh thức lòng thương hại của bà, nhờ bà xin giùm cho hắn. Ê-xơ-tê biết
Ha-man chính là công cụ mà ma quỷ đã dùng để tuyệt diệt dân tộc Do Thái của bà.
Nếu như trước đó Ha-man có biết bà là người Do Thái, thì có lẽ hắn đã ghi rõ
trong chiếu chỉ rằng sẽ không giết bà, nhưng hắn vẫn có quyền tiêu diệt hết dân
tộc của bà. Vì thù ghét Mạc-đô-chê người anh họ của hoàng hậu mà Ha-man đã lao
vào lập nên toàn bộ âm mưu này (Et 3:5-6),
và Ê-xơ-tê sắp sửa rủ bỏ được một người từng đối xử với bà quá hèn hạ như vậy.
Trong bài bình luận về Ê-xơ-tê người
Do Thái, tiến sĩ S. Goldman đưa ra lời bình 7:8
thế này: “Đó là kẻ từng kiêu căng hống hách, ưa ức hiếp người khác và thường
hay gieo thảm họa, thế mà giờ đây lại trở nên hèn nhát đang rên rỉ, van xin” (
Trích từ “The Five Megilloth”, trang
228). Khi có quyền lực của nhà vua yểm trợ ở phía sau, Ha-man hay tỏ ra vênh
váo và rất hùng hổ, hay đòi hỏi người ta phải kính trọng hắn và thường ra lệnh.
Còn bây giờ cơn thịnh nộ của nhà vua đang nghịch lại hắn, và bản chất thật của
con người hắn đã lòi ra. Hắn chẳng phải là người phi thường giỏi dang gì; hắn
chỉ là kẻ hèn hạ bé nhỏ chỉ có tài khoe khoang khoác lác, huênh hoang mà thôi!
Tất cả ngựa và người của nhà vua lúc này dù có hiệp sức lại cũng chẳng thể nào
giữ lại được mạng sống cho Ha-man.
Thật là ngược đời! Ha-man đã từng
đùng đùng nổi giận chỉ vì có một người đàn ông
Do Thái không chịu quỳ xuống trước hắn, nhưng giờ đây, hắn lại đang phủ phục
trước một người đàn bà Do Thái, năn
nỉ van xin bà cứu mạng! Khi nhà vua bước vào phòng trông thấy cảnh tưởng đó,
ông kết tội Ha-man đã cố tình xúc phạm quấy nhiễu hoàng hậu. đang cơn giận dữ,
chắc hẳn nhà vua đã phóng đại quá mức bất cứ những gì Ha-man đã làm; bên cạnh
đó, tội quấy nhiễu, xúc phạm hoàng hậu đã là tội tử hình. Không cần bàn đến tội
mưu phản, thì mọi người cũng đều có thể thấy rằng Ha-man đã phạm tội tấn công
hoàng hậu. Chỉ với tội danh này thì Ha-man cũng đã đủ bị xử tử.
Sau khi hộ tống Mạc-đô-chê đi vòng
quanh thành phố trở về, Ha-man đã trùm đầu
mình lại một cách nhục nhã, xấu hổ (6:12);
còn bây giờ, lính thị vệ của nhà vua đang trùm mặt
hắn lại chuẩn bị đưa hắn đi hành hình. Giá như mà Ha-man đã trùm đầu mình
lại trong sự hạ mình và ăn năn tội lỗi mình một cách chân thành, thì có lẽ giờ
đây mọi việc đã khác đi, vậy mà, hắn đâu có thèm lắng nghe những sự cảnh cáo
của Đức Chúa Trời. Với lòng dạ hiểm ác và hết sức kiêu
ngạo, hắn đã quá lộng quyền đến nỗi hắn trở nên loà cả mắt chẳng nhìn thấy
những nguy hiểm đang chực chờ hắn phía trước.
3. Phần thưởng dành cho Ha-man (Et 7:9-10)
“Người
công bình được cứu khỏi hoạn nạn
Rồi kẻ hung ác sa vào
đó thế cho người” (Ch
11:8 NKJV).
Cây mộc hình do Ha-man cho người
dựng lên dành cho Mạc-đô-chê đang còn đứng sờ sờ ra đó, giờ thì nó trở thành
công cụ đã được chuẩn bị sẵn để hành quyết Ha-man. Do đó, nhà vua quyết định
cho dùng nó luôn thể cho tiện. Hình như Ha-man đã cho người đem dựng nó tại
trong cung điện để hắn lập kế giết cho được Mạc-đô-chê hay sao ấy, bởi vì có
một người hầu của vua biết rõ mục đích của cây mộc hình đó. Với bản chất kiêu
căng ngạo mạn, Ha-man đã khoác loác quá cỡ đến nỗi những lời hắn rêu rao giờ đã
quay lại không những ám ảnh hắn mà còn gây hoạ giết chết hắn nữa.
Vào ngày trước đó, Ha-man dẫn
Mạc-đô-chê đi khắp các đường phố trong sự huy hoàng
vẻ vang hết sức long trọng và vinh dự; còn bây giờ Ha-man bị dẫn đi khắp các
đường phố với bộ dạng mặt thì bị che lại và có một cây mộc hình làm giá treo cổ
đang chờ sẵn để kết thúc chuyến đi này của hắn. Chắc chắn Xê-rết vợ hắn cùng
với mười con trai hắn đều đã chứng kiến cuộc hành hình hắn, và có nhiều người
dân Do Thái trong thành phố cũng có chứng kiến nữa. Chắc hẳn vụ việc này đã đem
lại sự khích lệ lớn lao cho người Do Thái vì họ biết được Ha-man kẻ thù của
họ đã tiêu đời.
“Chớ
hề dối mình, Đức Chúa Trời không chịu khinh dể đâu;”, Phao-lô cảnh
cáo, “vì ai gieo giống chi, lại gặt giống ấy”
(Ga 6:7 NIV). Ha-man đã gieo cơn giận dữ
nghịch lại Mạc-đô-chê, và giờ đây hắn đã phải gặt lấy cơn thịnh nộ của nhà vua.
Ha-man muốn giết Mạc-đô-chê và người Do Thái, thì bây giờ hắn lại bị nhà vua
giết. “Theo điều tôi đã thấy, ai cày sự gian ác.
Và gieo điều khuấy rối, thì lại gặt lấy nó” (Giop 4:8 KJV). “Kẻ nào gieo sự
bất công sẽ gặt điều tai họa. Và cây roi thạnh nộ nó sẽ bị gãy đi” (Ch 22:8 NIV).
Nguyên tắc gieo và gặt bất di bất
dịch này đã được minh họa khắp trong Kinh Thánh, nó được áp dụng cho con cái
Chúa lẫn người chưa tin Chúa. Gia-cốp giết một con vật và nói dối với cha mình,
xạo rằng mình chính là Ê-sau (Sa 26:1-29);
nhiều năm sau đó các con trai của Gia-cốp đã giết một con vật và nói dối với
người, bịa ra rằng Giô-sép đã chết (37:31-35).
Pha-ra-ôn ra lệnh hãy dìm nước cho chết tất cả những con trẻ nào là người Do
Thái (Xu 1:1-22), thế rồi một ngày nọ, quân
đội của người đã bị dìm chết trong nước của Biển Đỏ (14:1-15:27).
Đa-vít lén lút chiếm đoạt vợ người
hàng xóm của mình và đã phạm tà dâm (IISa 11:1-27),
đến lượt chính con trai vua là Áp-sa-lôm đã chiếm đoạt các tì thiếp của cha
mình và ngang nhiên công khai phạm tội tà dâm với họ (IISa
16:20-23). Chưa hết, Ta-ma con gái Đa-vít đã bị Am-nôn người anh trai
cùng cha khác mẹ cưỡng hiếp (IISa 13:1-39).
Đa-vít giết chồng của Bát-sê-ba (11:14-25), và ba trong số các con trai của vua
cũng đã bị giết: Áp-sa-lôm (II Sa 18), Am-nôn (13:23-36),
và A-đô-ni-gia (IVua 2:13-25). Sau-lơ người
Tạt-sơ đã từng hùng hổ ném đá Ê-tiên (Cong 8:1);
và khi ông trở thành Phao-lô làm nhà truyền giáo, thì ông đã bị người ta ném đá
tại Lít-trơ (14:19-20).
Nhưng chúng ta hãy nhớ rằng luật
gieo và gặt này cũng được áp dụng để làm điều tốt và đúng. Nếu chúng ta gieo
cho xác thịt thì ắt sẽ gặt lấy sự hư nát, còn nếu chúng ta gieo cho Thánh Linh
thì chúng ta chắc chắn gặt được sự sống đời đời (Ga
6:8). Không có việc lành để làm vinh hiển Đức Chúa Giê-xu Christ thì
chúng ta sẽ bị lãng quên trước mặt Đức Chúa Trời. Không có lời yêu thương trong
danh Chúa Giê-xu thì chúng ta sẽ chỉ là đồ bỏ đi mà thôi. Nếu chúng ta không
nhìn thấy mùa gặt trong đời này, thì chúng ta sẽ thấy nó khi chúng ta ứng hầu
mặt Chúa. Thậm chí một chén nước lã được ban cho trong danh Chúa Giê-xu cũng sẽ
đem lại cho chúng ta phần thưởng (Mat 10:42 25:31-46).
Ha-man đã bị treo cổ, hoặc bị đâm
xiên người, ở ngay trên cây mộc hình do chính hắn cho dựng lên, và thi thể hắn
được người ta lấy xuống đem chôn.
“Tất
cả mọi tài sản của cải và sự vinh quang của Ha-man thảy đều không thể cứu hắn
thoát khỏi sự chết, và khi chết hắn cũng chẳng đem theo mình được chút gì.
“Chúng
nó nhờ cậy nơi tài sản mình,
Phô trương của cải dư
dật mình
Chẳng có người nào
chuộc được anh em mình,
Hoặc đóng giá chuộc người nơi Đức Chúa Trời,
Vì giá chuộc mạng sống
họ thật mắc quá…
Chớ sợ khi người nào
trở nên giàu có,
Lúc sự vinh hiển nhà
người ấy tăng lên
Vì khi người chết
chẳng đem đi gì được,
Sự vinh hiển người
cũng không theo người xuống mồ mả đâu” (Thi 49:6-8,16-17 NKJV).
Trong IPhi
1:18-19, Phi-e-rơ có nói cho chúng ta biết sự cứu chuộc đáng giá ra sao:
bằng chính huyết đã đổ ra của Chúa Cứu Thế Giê-xu, Con của Đức Chúa Trời.
Đây không không phải chỉ là bài học
về một cá nhân mà còn là bài học về dân tộc Y-sơ-ra-ên: Mọi kẻ thù nào cố tình huỷ diệt Y-sơ-ra-ên thì đều đã bị
huỷ diệt. “Ta sẽ ban phước cho người
nào chúc phước ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi” (Sa 12:3 NKJV) là lời Đức Chúa Trời đã phán hứa với
Y-sơ-ra-ên, Ngài là Đấng luôn luôn giữ lời. Ngài thực hiện lời hứa của Ngài rất
nghiêm túc ngay cả những lúc các dân các nước trên thế giới này không thèm quan
tâm đến và thậm chí còn thách thức những lời hứa ấy của Ngài nữa.
Điều này không có nghĩa là Đức Chúa
Trời phải chấp thuận hết mọi việc mà Y-sơ-ra-ên đã làm và sẽ làm, nhưng nó có
nghĩa là Chúa không bao giờ chấp nhận những kẻ nào cố tình ra sức tuyệt diệt
tuyển dân của Ngài. Cho dù đó là Pha-ra-ôn ở Ai Cập, là Nê-bu-cát-nết-sa ở
Ba-by-lôn, Ha-man ở Ba-tư hay là Hít-le ở Đức quốc, thì kẻ thù của dân Do Thái
cũng chính là kẻ thù của Đức Chúa Trời Toàn Năng và chúng sẽ không bao giờ đạt
được ý đồ của mình.
“Rồi
cơn giận vua bèn nguôi đi” (Et 7:10
KJV). Từ vựng được dịch là “nguôi đi”
này trong tiếng Hê-bơ-rơ ở Sa 8:1 mô tả cảnh
Cơn Nước Lụt đã rút xuống. Cơn thịnh nộ sôi sục trong lòng nhà vua đã dâng cao
đến tột đỉnh khi vua hạ lệnh hành quyết Ha-man. còn bây giờ nó đã lắng dịu
xuống và vua trở lại với con người của chính mình. Nhưng cho dù kẻ thù đã được
trừ khử xong, thì vấn đề chính vẫn chưa được giải quyết rốt ráo; vì chiếu chỉ
nhà vua ban hành vẫn đang phát huy tác dụng và
không thể nào được sửa đổi. Lúc bấy giờ đã đến tháng thứ ba (Et 8:9), và còn chín tháng nữa thì tới ngày bất
hạnh là lúc người Do Thái sẽ bị giết một cách hợp pháp (3:13).
Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê sẽ phải giải
quyết vấn đề này thế nào đây?
Đó là đề tài của chương
tiếp theo.
8. TỪ NẠN NHÂN TRỞ THÀNH NGƯỜI CHIẾN THẮNG (ET 8:1-17)
(Phần này chứa đựng tin
tức tốt lành của một luật lệ mới đem lại sự hy vọng và niềm vui mừng).
Ha-man đã chết, nhưng
sắc lệnh giết người vẫn còn sống rất mạnh mẽ. Cho dù những kẻ độc ác đã khuất,
nhưng hậu quả những lời cay độc và những việc làm xấu xa tồi bại của chúng vẫn
cứ tồn tại một cách dai dẳng. Thậm chí ngày nay, có nhiều người vô tội lại phải
chịu đau khổ khốn đốn vì cớ những kẻ phạm tội hiện đang nằm trong mồ mả của
chúng.
Trừ phi có điều gì đó
xảy ra can thiệp vào, nếu không trong vòng chín tháng nữa người Ba-tư sẽ tấn
công người Do Thái và tiêu diệt họ không còn một mống trên đất này. Có khoảng
chừng 15 triệu người Do Thái đang sống giữa vòng 100 triệu dân bản xứ của đế
quốc. Do đó, thật là lợi thế cho kẻ thù chống nghịch lại dân sự Đức Chúa Trời.
Dĩ nhiên, dân sự Ngài luôn luôn chỉ là phần thiểu số; và “chỉ cần có Đức Chúa
Trời ở cùng là họ sẽ trở thành đa số”. Chúa đem Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê vào trong
vương quốc “để dành cho thì giờ đã điểm này ”, và họ đã chuẩn bị hành động.
1. Mạc-đô-chê được đề bạt, thăng chức (Et 8:1-2,15)
Theo các sử gia thời cổ
đại, hễ khi kẻ tạo phản bị tử hình xong thì triều đình sẽ kê biên tài sản của
kẻ ấy. Sau khi vua A-suê-ru tịch thu hết tài sản của Ha-man về cho mình, chắc
hẳn vua sẽ có một khối của cải kết xù; tuy nhiên, vua đã ban hết thảy chúng cho
Ê-xơ-tê. Còn hơn cả một hành động thể hiện sự hào phóng như vậy, có lẽ món quà
này là hiện vật thay mặt cho lòng thành của vua muốn chuộc lại lỗi lầm của
những quyết định ngu ngốc mà vua đã từng đưa ra khiến mang lại quá nhiều sự đau
đớn cho Ê-xơ-tê và cho dân tộc bà. Có thể sau đó Ê-xơ-tê đã đem chia sẻ, phân
phát một phần tài sản ấy cho những người Do Thái để họ có thể sửa soạn chính
mình đối diện với cuộc khủng hoảng sắp xảy đến.
A-suê-ru đã biết cả
Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê đều là người Do Thái cả, nhưng
đến giờ ông mới rõ họ còn là anh em họ với nhau nữa. Như vậy, A-suê-ru có quan
hệ bà con với Mạc-đô-chê qua hôn nhân của vua! Khi Ha-man bị hạ bệ, vua liền
thu hồi lại chiếc nhẫn dùng để đóng ấn từ tay hắn (Et
3:10), là biểu hiệu cho quyền lực của vua (8:8,10 3:12), và vua trao nhẫn ấy cho Mạc-đô-chê, đề bạt
ông lên làm quan tể tướng. Khi có một hoàng hậu là người Do Thái, giờ lại thêm
một vị thủ tướng chính phủ cũng là người Do Thái hành sự trong hoàng cung như
thế, dân Do Thái đang sống trên khắp đế quốc này từ nay đã có vị trí chính trị
tốt hơn và thuận lợi hơn so với trước rất nhiều.
Ê-xơ-tê trao quyền quản lý khối tài
sản khổng lồ của Ha-man vào tay Mạc-đô-chê, là người đầu tiên đã chống đối
Ha-man và quyết không chịu quỳ xuống trước hắn. Nếu như không có sự dũng cảm
của Mạc-đô-chê cùng với sự can đảm của Ê-xơ-tê, thì e rằng cho đến giờ Ha-man
ắt sẽ vẫn còn đang nắm quyền cai trị.
“Hãy
trông đợi Đức Giê-hô-va,và giữ theo đường Ngài,
Thì Ngài sẽ nâng ngươi
lên để nhận được đất!
Khi kẻ ác bị diệt đi,
thì ngươi sẽ thấy điều ấy.
Tôi từng thấy kẻ ác có
thế lực lớn,
Trải ra như cây xanh
tươi mọc nơi cố thổ,
Song có người đi qua,
kìa, hắn chẳng còn nữa
Tôi tìm hắn, nhưng
không gặp” (Thi
37:34-36 NKJV).
Nhà vua hài lòng cho Mạc-đô-chê mặc
triều phục xứng đáng với với địa vị của mình, điều đó được mô tả trong Et 8:15. Mạc-đô-chê không còn mặc những chiếc áo
choàng ngoài cũ mượn của người ta nữa (6:7-11),
nhưng bây giờ, đã có những áo xống mới tinh dành sẵn cho ông một cách đặc biệt.
Sắc phục của địa vị, cấp bậc của Mạc-đô-chê trong hoàng gia là màu xanh và màu
trắng (1:6). “Mão triều thiên” bằng vàng có
lẽ là một cái khăn xếp lớn đi cùng với một chiếc áo choàng dài ngoài màu trắng
pha lẫn màu tía, biểu hiện rằng Mạc-đô-chê là một nhân vật quan trọng có quyền
lực trong tay rất lớn.
Mọi thứ gì mà Ha-man đã kiếm chác
được từ nhà vua nhờ các mưu đồ của hắn, thì giờ đây vua dùng chúng làm quà ban
tặng cho Mạc-đô-chê, bởi vì Mạc-đô-chê là người xứng đáng được như vậy. Ngay từ
lúc bắt đầu câu chuyện, Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê hầu như không gương mẫu chút nào
trong việc thể hiện đức tin giữ đạo của mình; còn bây giờ chúng ta có ấn tượng
rằng mọi sự đã thay đổi. Cả hai người đã công khai nói ra quốc tịch Do Thái của
mình và cùng nhau kêu gọi hết thảy những người Do Thái đang cư ngụ trên toàn đế
quốc hãy kiêng ăn cầu nguyện. Trên một góc độ nào đó, họ là những người xung
kích trong việc “phục hưng” lại dân tộc Do Thái và làm cho người Do Thái được
người ta tôn trọng hơn trên toàn lãnh thổ này.
Nhưng không phải lúc nào Đức Chúa
Trời cũng ban “một kết thúc tốt đẹp” như thế cho các câu chuyện của mọi người.
Ngày nay, không phải tất cả Cơ Đốc nhân trung tín nào cũng đều được thăng quan
tiến chức và được ban cho những sự tôn trọng, vinh dự đặc biệt. Có một số người
trong số họ đã phải chịu cực hình vì cớ họ dám đứng ra bênh vực cho Đấng
Christ! Đức Chúa Trời không hứa rằng chúng ta sẽ được đề bạt, thăng chức và trở
nên giàu có, nhưng Ngài bảo đảm với chúng ta là Ngài luôn luôn tể trị, kiểm soát
trên mọi hoàn cảnh và Ngài sẽ viết tiếp chương cuối của câu chuyện này. Nếu
hiện nay Đức Chúa Trời không cất nhắc chúng ta lên những địa vị cao trọng trên
đất, thì chắc chắn Ngài sẽ làm điều đó cho chúng ta
khi chúng ta được vinh hiển.
2. Sự thỉnh cầu của Ê-xơ-tê (Et 8:3-6)
Sự giàu có, thanh thế,
và cả sự an ninh cho cá nhân Ê-xơ-tê vẫn không thể làm cho bà yên tâm thỏa lòng
một khi dân sự bà đang còn ở trong sự nguy hiểm. Đối với bà, điều quan trọng
nhất trong cuộc sống không phải là sự thoải mái của bà mà là sự giải cứu dân
tộc; bà không thể ngồi yên cho đến chừng nào vấn đề nan giải này được giải
quyết. Điều này chẳng giống chút nào với một số Cơ Đốc nhân hiện nay là những
người chẳng thèm quan tâm gì đến những nhu cầu cần thiết của thế giới hư mất này,
nhưng họ chỉ mãi lo tìm những cách mới mẻ nào đó để xài tiền và kiếm thú vui!
Họ nghĩ rằng việc đi nhà thờ và dâng hiến của họ là để làm tròn bổn phận Cơ Đốc
nhân của họ mà thôi và những việc ấy sẽ đem lại cho họ sự tự do muốn làm gì thì
làm tuỳ thích với phần thì giờ và tiền bạc còn lại của họ. Chúng ta cần có thêm
nhiều người giống như Ê-xơ-tê là người có lòng cưu mang những người cần được
cứu chuộc hơn là lo nghĩ đến bất kỳ điều gì khác trong cuộc sống bà.
Cách đây nhiều năm,
trong một buổi nhóm cầu nguyện đêm khuya của Hội Tuổi Trẻ Sống Cho Christ, tôi
có nghe người được chỉ định là Jacob Stam cầu nguyện rằng: “Kính lạy Chúa! Hầu
hết chúng con hiểu về sự tận hiến, hy sinh cho Chúa là chỉ có mỗi một việc biết
đọc nó lên mà thôi!”. Tôi không bao giờ quên lời ấy, và tôi phải thú nhận rằng
thỉnh thoảng lời đó lại ám ảnh tôi. tôi nhớ lại
một buổi nhóm cầu nguyện khác của các nhân viên YFC là buổi mà Bill Carle quá
cố hôm ấy hát bài “Chúa Ơi! Xin Hãy Sai Con!”, và Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã đem hết
thảy chúng tôi vào trong sự quỳ gối cầu nguyện với tâm tình hiến dâng đời sống
cho Chúa đi rao báo về Chúa Cứu Thế cho thế gian biết.
Ê-xơ-tê không thể làm được hết mọi
sự, nhưng bà có thể làm được một số việc; và những gì bà có thể làm thì bà đã
làm rồi. Bà đến gần ngai vua nài xin người huỷ bỏ sắc lệnh mà Ha-man đã ban ra.
Chính sự can thiệp này của bà tại ngai vua đã
cứu dân tộc bà thoát khỏi sự giết hại.
Bà không cầu xin gì cho bản thân bà cả, bà chỉ xin vua cứu dân tộc bà và cất đi
gánh nặng trong lòng bà mà thôi.
Khi tôi học Kinh Thánh, tôi rất cảm
kích những người nào đã cầu nguyện, nài xin cho dân Do Thái. Lúc Y-sơ-ra-ên
phạm tội, Môi-se gặp Đức Chúa Trời tại trên núi và xin giùm cho họ (Xu 32:1-35). Thậm chí ông còn sẵn sàng xin Đức
Chúa Trời loại bỏ ông ra khỏi Sách Sự Sống nếu như điều đó có thể cứu được dân
tộc. Nhiều thế kỷ sau, sứ đồ Phao-lô nói rằng ông sẵn lòng để bị “dứt bỏ, lìa khỏi Đấng Christ” miễn là sự đó có
thể giúp cứu vớt được dân Y-sơ-ra-ên vô tín (Ro
9:1-3, KJV).
Trên núi Cạt-mên, Ê-li
đã cầu nguyện cho dân Y-sơ-ra-ên bất tuân (I Vua 18); tại trong cung điện,
Nê-hê-mi đã cầu nguyện cho người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem (Ne 1:1-11). Tương tự
Nê-hê-mi, E-xơ-ra đã than khóc cầu nguyện, nài xin Đức Chúa Trời cứu giúp dân
sự tội lỗi của Ngài (Exe 9:1-11) và Đa-ni-ên
với tinh thần hạ mình, khiêm nhường đã kiêng ăn cầu nguyện xin Chúa cho ông có
thể hiểu được kế hoạch của Ngài đối với Y-sơ-ra-ên là thể nào (Da 9:1-27). “Hỡi
Giê-ru-sa-lem, ta đã đặt các vọng canh trên thành ngươi cả ngày và đêm chúng nó
chẳng hề im lặng. Hỡi các ngươi là kẻ nhắc nhở Đức Giê-hô-va,chớ có nghỉ ngơi
chút nào. Đừng để Ngài an nghỉ cho đến chừng nào đã lập lại Giê-ru-sa-lem và
dùng nó làm sự ngợi khen trong cả đất!”
(Es 62:6-7 NKJV).
“Hãy
cầu hòa bình cho Giê-ru-sa-lem
Phàm kẻ nào yêu mến
ngươi sẽ được thới thạnh” (Thi 122:6 KJV). Không thể có sự hòa bình và yên ổn
trong thế giới này cho đến chừng nào có sự hòa bình và yên ổn tại
Giê-ru-sa-lem, và không thể có sự hoà bình yên ổn ở Giê-ru-sa-lem trừ phi dân
sự Đức Chúa Trời biết làm theo mạng lịnh trên và cầu nguyện: “Xin nước cha được đến”.
“Ngón đòn cơ bản của ma quỷ chính là
khi nó khiến cho Hội Thánh và những người chăn bầy ở đó quá khinh suất, coi
thường không để ý đến vũ khí đầy quyền năng của chúng ta là sự cầu nguyện”, một
nhà truyền bá Phúc Âm là R. A. Torrey đã viết như vậy trong tác phẩm “How To Obtain Fullness Of Power In Christian Life and
Service”. “ Ma quỷ sẽ hết sức vui mừng khi Hội Thánh Chúa sinh sôi
nẩy nở ra nhiều ban bệ, tổ chức với bộ máy hoạt động giả hình một cách khéo léo
rằng sẽ đi chinh phục thế gian này cho Chúa Cứu Thế nhưng lại chẳng có sự cầu
nguyện gì” (Trích từ Sword Of the Lord,
sách tái bản, trang 59).
Tấm gương Ê-xơ-tê khích lệ chúng ta
hãy đến gần ngai Đức Chúa Trời cầu xin giùm cho người
khác, đặc biệt là cho các quốc gia trên thế giới là những nơi có nhiều
linh hồn hư mất đang cần được giải cứu khỏi sự chết. “Nếu có ai đó có lòng quan tâm sốt sắng nhiệt thành cầu
nguyện thì có thể đem lại sự thay đổi lớn lao trên thế giới này, vì sự cầu nguyện
là chìa khoá giải phóng quyền năng của Đức Chúa Trời. “anh em chẳng được chi, vì không cầu xin”
(Gia 4:2 NKJV).
3. Nhà vua ra tuyên cáo (Et 8:7-17)
Vấn đề mà Ê-xơ-tê và
Mạc-đô-chê phải đối mặt là nhà vua vì quá ngu ngốc đã phê chuẩn sắc lệnh kia và
bây giờ không thể hủy bỏ được nữa bởi vì luật lệ của người Mê-đi Ba-tư không
bao giờ được sửa đổi. Trong các quốc gia có nền dân chủ thời hiện đại, cơ quan
lập pháp có thể chỉnh sửa bổ sung các quyết định và có quyền hủy bỏ luật lệ,
toà án tối cao của xứ đó thậm chí có thể tuyên bố bãi bỏ những luật lệ nào
không phù hợp với hiến pháp; nhưng những việc ấy chưa hề xảy ra bao giờ trong
đế quốc Ba-tư chuyên chế thời cổ đại này. Lời vua ban ra là luật của xứ, và vua
thì không thể làm điều sai lầm.
Vua A-suê-ru lúc bấy giờ
không thể thu hồi hay hủy bỏ được sắc lệnh của mình một cách hợp pháp, nhưng
ông có thể ban hành một chiếu chỉ mới bênh vực người Do Thái. Sắc dụ mới bày tỏ
cho hết thảy mọi người trong vương quốc biết rằng nhà vua mong muốn thần dân
của người hãy có thái độ khác đối với dân Do Thái và hãy coi như đó là sự ban
ơn cho họ. Thần dân của vua không phải mướn luật sư cắt nghĩa cho họ hiểu về
chiếu chỉ mới này. Bạn có thể tin chắc họ đã nhận được thông điệp: Không được
tấn công người Do Thái vào ngày mồng 7 tháng 3.
Vì Mạc-đô-chê giờ đây đã
là quan tể tướng triều đình, cho nên công việc của ông là soạn thảo ra chiếu
chỉ mới đó. Nội dung ông soạn là cho phép người Do Thái tự vệ chống lại bất kỳ
ai cố tình giết hại họ và cướp đoạt tài sản của họ. Trong vương quốc lúc ấy có
rất nhiều người giống như Ha-man căm ghét dân Do Thái và chỉ muốn tiêu diệt họ
rồi dùng chính tay mình cướp bóc của cải tài sản của họ mà thôi. Chiếu chỉ mới
này cho phép dân Do Thái tập hợp lại tự bảo vệ mình, nhưng họ không được phép
đi gây hấn trước.
Nhiều học giả không đồng
ý với cách dịch trong câu 11. Bản dịch của Kinh Thánh nhuận chánh nhấn mạnh
rằng chiếu chỉ ấy cho phép dân Do Thái đánh giết vợ con của những kẻ tấn công
họ và được quyền cướp lấy cho mình các chiến lợi phẩm, bản dịch NASB cũng đồng
ý với cách dịch này. Bản dịch NIV thì liên hệ “đám đàn bà con cái” với những người Do Thái bị tấn công chứ không bảo rằng những người
Do Thái đã giết chết vợ và con cái của những kẻ cừu thù tấn công họ. Tôi thích
cách dịch của bản NIV hơn.
Nếu bạn đọc Et 3:11-13, bạn sẽ
thấy hai chiếu chỉ cũ và mới có những lời diễn giải giống nhau. Mạc-đô-chê đã
dùng “ngôn ngữ chính” của nhà nước, bởi vì những sự tuyên bố hợp pháp phải được
thể hiện dưới hình thức ngôn ngữ pháp lý. Ngôn ngữ này có lẽ có vẻ xa lạ đối
với người không chuyên môn, nhưng nếu không có chúng thì chúng ta sẽ gặp rắc
rối và sẽ dịch sai. Bạn không thể viết luật theo cách bạn làm thơ hoặc theo
kiểu lập công thức chế biến món ăn được.
Theo 8:9,
chỉ dụ mới này đã được soạn thảo vào ngày 23 tháng 3,
theo tây lịch của chúng ta là nhằm ngày 25 tháng 6 năm 474 T.C. (Xin nhớ cho
rằng, lịch của người Do Thái được bắt đầu tính từ tháng 4). Chiếu chỉ thứ nhất
được ban hành vào ngày 17 tháng 4 (3:12).
Như vậy, tính từ ngày Ha-man tuyên bố gây chiến với
người Do Thái đến ngày này đã được 70 ngày đã trôi qua. “Ngày Hủy Diệt” (D-Day)
dành cho người Do Thái là ngày mồng 7 tháng 3. Do đó, mọi người có khoảng 8
tháng chuẩn bị tinh thần.
Chúng ta hãy dừng lại
xem xét thử việc Mạc-đô-chê trao cho người Do Thái quyền giết chóc và cướp bóc
như thế liệu có đúng với đạo lý hay không. Nhiều người phủ nhận việc Kinh Thánh
được thần cảm khi họ chỉ ra “các cuộc tàn sát đẫm máu” trong Kinh Thánh như là
chứng cớ cho thấy Đức Chúa Trời mà Kinh Thánh ghi nhận chỉ là “kẻ hay ức hiếp”
người ta mà thôi. Hãy tưởng tượng xem ai đời lại đi thờ phượng một vị thần đã
ra lệnh tàn sát toàn bộ dân chúng như thế bao giờ!
Thứ nhất, chúng ta hãy
xem chiếu chỉ mà A-suê-ru đã ban hành, vì tất cả mọi vấn đề đều bắt đầu từ chỗ đó.
Nếu đúng là Mạc-đô-chê đã quá độc ác thông báo cho người Do Thái hãy tự vệ, thì
so ra Ha-man và vua A-suê-ru lại là những người độc ác hơn nhiều khi họ bảo
người Ba-tư hãy tấn công người Do Thái theo như trong chiếu chỉ thứ nhất truyền
ra! Sự tự vệ không phải là tội, còn tội diệt chủng thì dứt khoát là trọng tội
rồi. Những người chỉ trích này có tán thành với chiếu chỉ của nhà vua hay không? Tôi hy vọng chắc chắn
là không! Vâng, nếu họ không đồng tình với chiếu chỉ mà nhà vua đã cho phép
giết người đó, thì sao họ lại có thể không tán thành với chiếu chỉ của
Mạc-đô-chê có nội dung cho phép người Do Thái tự vệ là chính đáng như vậy? Tốt hơn hết thì chiếu chỉ của Ha-man đừng bao giờ được ban
ra; nhưng bởi vì nó đã được ban ra rồi, cho nên Mạc-đô-chê cần phải tước hết mọi
khả năng gây hại của nó bằng cách ông sẽ ban ra chiếu chỉ của mình.
Bây giờ, chúng ta hãy
nhìn vào phần ký thuật trong phân đoạn 9, là chỗ bạn khám phá ra có ba sự kiện
quan trọng: Dân Do Thái chỉ giết những kẻ nào tấn công họ mà thôi; họ chỉ giết
đàn ông (9:6,12,15) họ không tra tay cướp bóc gì mặc
dù họ được quyền làm điều đó (c.10, 15:16). Thực tế, dân Do Thái đã giết chết 800 người đàn ông chỉ
riêng tại thành Su-sơ (c.6,15) cho thấy có rất nhiều người Ba-tư đang chực chờ
cơ hội tấn công dân sự Đức Chúa Trời. (Đó là con số ước chừng mà thôi vì cư dân
tại thủ đô đó có khoảng nửa triệu người).
Tổng số người bị giết là 75.000
người (c.16) trong số toàn dân cư xấp xỉ 100 triệu dân. Nhưng trên thực tế chắc
là có hơn 75.000 người đã chuẩn bị đi giết hại những người Do Thái đơn thương độc mã không ai bảo vệ, và điều này
cho thấy thần dân của vua A-suê-ru thù ghét dân sự của Đức Chúa Trời biết chừng
nào. Thậm chí họ còn sẵn sàng tấn công khi họ
biết dân Do Thái sẽ chống trả lại họ để tự vệ, và đó là bằng chứng cho thấy chủ nghĩa bài Do Thái đang lan
tràn rất mạnh mẽ trên khắp đế quốc. Những nhà phê bình nói rằng việc những
người Do Thái giết chết 75.000 người Ba-tư là sai phạm bởi vì như thế thì họ đã
trở thành những kẻ sát nhân. Nhưng nếu như để cho 75.000 người Ba-tư kia giết
hại người Do Thái nhiều gấp 10 lần như thế thì liệu có tốt hơn chăng?
Chiếu chỉ của Mạc-đô-chê hoàn toàn
phù hợp với giao ước của Đức Chúa Trời đã lập với Áp-ra-ham: “Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi,rủa sả kẻ
nào rủa sả ngươi và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước”
(Sa 12:3 NKJV). I-sác cũng đã đồng ý với
Mạc-đô-chê; vì khi I-sác chúc phước cho Gia-cốp, ông nói: “Ai rủa sả con sẽ bị rủa sả lại, Ai cầu phước cho con, sẽ
được ban phước lại!” (27:29 NKJV). Hơn nữa, Đức Chúa Trời có phán với
Môi-se rằng: “ta sẽ thù nghịch cùng kẻ thù
nghịch ngươi, và đối địch với kẻ đối địch ngươi” (Xu 23:22 NKJV). Và xin đừng quên lời trích dẫn này
của tiến sĩ J. Vernon Mcgee: “Dân Do Thái sẽ đưa tang kẻ nào cố tình hủy diệt họ”.
Được tự do soạn thảo ra
một chiếu chỉ mới là một việc, nhưng để chuyển tải được thông điệp của chiếu
chỉ ấy ra cho mọi người lại là chuyện hoàn toàn khác. Mạc-đô-chê phân công các
thư ký làm công việc dịch nội dung chiếu chỉ mới ra thành nhiều thứ tiếng thổ âm rồi sao y bản chính, sau đó ông cử
các nhân viên bưu tá đem tin tức tốt lành đó đến cho mọi người ở khắp các tỉnh
thành khác nhau trên toàn quốc.Những người đưa tin ấy phải “lật đật” đi thi hành công vụ bởi vì họ phải “vâng mạng vua thúc giục” (Et 8:14 KJV). Bản dịch NIV dịch là “họ giục ngựa
phóng nhanh vì họ phải vâng lệnh vua”.
Giá như mà Hội Thánh chúng ta ngày
nay cũng giống như các thư ký và những người đi đưa tin đó! Chúng ta cần nói
cho mọi dân mọi nước trên thế giới này bằng tiếng mẹ đẻ của họ biết về tin mừng
cứu rỗi qua việc tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu biết bao! Nhà vua đã ra lệnh cho
chúng ta, và chúng ta bắt buộc phải ra đi cho Ngài, thế nhưng vì một vài lý do
nào đó chúng ta đã chần chờ, do dự không đi. Nếu từng có một nhóm là những viên
thư ký và những kẻ đi đưa tin ngoại đạo, lúc đó lại chẳng hề có những phương
tiện giao thông và truyền thông hiện đại nào cả, thế nhưng họ đã nhận chiếu chỉ
của Mạc-đô-chê đem đến cho toàn bộ đế quốc như thế, vậy thì các Cơ Đốc nhân là
những người làm công việc Chúa ngày nay hẳn là có khả năng hơn họ rất nhiều để
đem Tin Lành của Chúa Cứu Thế đến cho thế gian hư mất này!
Kể từ lúc A-đam sa ngã, thì “luật
pháp của tội lỗi và sự chết” đã len lõi xâm nhập vào trong thế gian (Ro 8:2 5:12-21);
và Đức Chúa Trời sẽ không hủy bỏ luật pháp đó. Tiền công của tội lỗi là sự chết (6:23). Nhờ bởi sự chết và sự sống lại của Chúa Cứu
Thế Giê-xu, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta một luật lệ khác và đã có hiệu lực
thi hành: “luật pháp của Thánh Linh sự sống đã
nhờ Đức Chúa Jêsus Christ buông tha tôi khỏi luật pháp của sự tội và sự chết”
(8:2). Đức Chúa Trời đã tuân giữ đúng luật
pháp về tội lỗi và sự chết khi Ngài ban cho Chúa Giê-xu Con Một của Ngài đến
thế gian mang lấy mọi tội lỗi chúng ta và chịu chết trên cây thập tự giá. Nhưng
sau đó, Đức Chúa Trời khiến Chúa Giê-xu từ kẻ chết sống lại và Ngài ban hành
một sắc lệnh mới có hiệu lực để giúp cho tội nhân có thể được cứu chuộc. Ngài
muốn chúng ta chuyển tải tin tức tốt lành đó bằng mọi thứ tiếng đến với mọi
quốc gia, dân tộc.
Phân đoạn Kinh Thánh này bắt đầu với
cảnh hoàng hậu Ê-xơ-tê khóc (Et 8:3), nhưng
nó được kết thúc với niềm vui hớn hở và lễ tiệc ăn mừng của người Do Thái
(c.15-17). Sự vui mừng, sung sướng đó được đề cập trong phân đoạn này ít nhất
là 7 lần dưới hình thức này hay hình thức khác. (Đây là lễ tiệc thứ 8 được nói
đến trong sách Ê-xơ-tê). Trước đó, người Do Thái phải than khóc, sầu não và
kiêng ăn, còn bây giờ, họ đang vui mừng hớn hở xiết bao.
Có điều quan trọng làm xoay chuyển
tình thế hoàn toàn ở đây không phải là việc viết chiếu chỉ hoặc thậm chí là việc ban hành chiếu chỉ ấy ra trên khắp mọi tỉnh
thành. Nhưng là ở chỗ thực tế rằng người Do Thái đã tin tưởng vào chiếu chỉ
ấy.
Chính vì tin tưởng lời Mạc-đô-chê mà
cuộc đời họ đã được thay đổi. Họ có niềm hy vọng, sự vui mừng, và bình an bởi
vì họ tin vào những lời viên thủ tướng chính phủ lúc bấy giờ đã nói. “Vậy xin Đức Chúa Trời của sự trông cậy, làm cho anh em
đầy dẫy mọi điều vui vẻ và mọi điều bình an trong đức tin, hầu cho anh em nhờ
quyền phép Đức Thánh Linh được dư dật sự trông cậy!” (Ro 15:13,
NKJV).
Câu: “Có
nhiều kẻ trong các dân tộc của xứ lại nhập bọn với dân Giu-đa” (Et 8:17 KJV) được hiểu theo nhiều ý khác nhau.
Cách hiểu thứ nhất là có nhiều người ngoại không phải là người Do Thái trong đế
quốc đã bỏ đạo theo thế tục của mình chuyển sang theo đạo của người Do Thái.
Nhưng vì người Do Thái ở quá xa thành Giê-ru-sa-lem và những thầy tế lễ dạy đạo
cho nên, “những tân tín hữu” này chưa thể hiểu hết được vấn đề đức tin của
người Do Thái. Về sau này họ được người ta biết đến là “những người kính sợ Đức Chúa Trời”, hoặc là “những người tôn thờ Đức Chúa Trời”
(Cong 10:2 16:14
18:7).
Theo tôi thì câu trên có nghĩa là
nhiều người ngoại giáo tức không phải là người Do Thái trong vương quốc nhưng
đã đứng về phía người Do Thái, ủng hộ, binh vực cho người Do Thái và hành động
như thể họ là người Do Thái vậy. Họ không hề hổ thẹn khi họ được người Do Thái
đồng hóa dẫu rằng họ đã từng coi người Do Thái là kẻ thù của họ.
Sau khi tổng thống Reagan bị bắn,
trong lúc chờ phẫu thuật, ông ta đã nói đùa với ê-kíp y bác sĩ đang làm việc
lúc ấy rằng: “Tôi mong sao tất cả các bạn đều là những đảng viên của Đảng cộng
Hòa!”. Một trong số các vị bác sĩ đáp: “Thưa ngài tổng thống! Hiện tại tất cả
chúng tôi đều là đảng viên của Đảng Cộng Hòa cả rồi!”. Đó là thái độ, quan điểm
của rất nhiều người đang sống tại đế quốc Ba-tư lúc chiếu chỉ của Mạc-đô-chê
được ban hành ra: “Ngày nay, tất cả chúng
ta đều là người Do Thái”.
Sách Ê-xơ-tê mở ra với khung cảnh
người Do Thái được mô tả hết sức sơ lượt, mờ nhạt đến nỗi cả Ê-xơ-tê lẫn
Mạc-đô-chê đều không dám thừa nhận quốc tịch thật của mình. Nhưng giờ đây người
Do Thái rất kiêu hãnh và tự hào về dân tộc mình và họ quá đỗi vui mừng với
những gì Đức Chúa Trời đã làm cho họ, khiến thu hút thêm nhiều người khác nữa
đến với đức tin của họ! Ngay cả những người ngoại giáo cũng có thể nhìn thấy
Đức Chúa Trời đang chăm sóc dân sự Ngài rất rõ ràng.
Nhà truyền giáo Billy Sunday nói:
“Nếu bạn không tìm thấy sự vui thỏa nào trong niềm
tin đạo của mình, thì có lẽ là đang có sự rò rỉ chỗ nào đó trong đời sống Cơ
Đốc của bạn”. Nếu con cái Chúa ngày nay chứng minh và biểu lộ ra cho người ta
thấy có rất nhiều sự vui thỏa nơi Thiên Chúa của mình, thì chắc chắn sẽ có
nhiều người chưa tin Chúa được Hội Thánh thu hút và họ sẽ sẵn sàng đến đó tiếp
thu và suy gẫm sứ điệp Phúc Âm.
Thật đáng để thử xem có
đúng như vậy hay không.
9. ĐỨC CHÚA TRỜI LUÔN GIỮ LỜI HỨA CỦA NGÀI (Et 9:1-10:3)
(Đến phần này, cục diện đã thay đổi, những người
bị ức hiếp giờ đã giành lại cho mình thế thượng
phong)
“Hãy
tìm sự bình an cho thành mà ta đã khiến các ngươi bị đày đến làm phu tù”
Đó là lời Đức Chúa Trời thông qua tiên tri Giê-rê-mi khuyên dạy dân Do Thái (Gie 29:7 NKJV); và điều quan trọng hơn cả là họ
phải biết làm theo lời đó của Ngài. Không phải dân Do Thái đã gây hấn với người
ngoại giáo, mà là chính dân ngoại đã tuyên chiến với dân Do Thái!
“Ngày Hủy Diệt” đã đến với người Do
Thái, là ngày do Ha-man chỉ định trong chiếu chỉ của hắn sẽ giết hết tuyển dân
Đức Chúa Trời đang sống trên khắp đất nước. Nhưng chiếu chỉ của Mạc-đô-chê đã
khiến cho “sự hủy diệt” hoá thành “sự giải cứu”. Dân Do Thái được phép chống
trả lại kẻ thù của họ và họ có đến 9 tháng chuẩn bị cho cuộc chạm trán đó. Dân
bản xứ trong vương quốc rất ghét dân Do Thái nên bọn họ mong sao sẽ chiến
thắng, tuy nhiên, “việc đã đổi trái đi, chánh
các người Giu-đa đó lại lấn lướt những kẻ ghét mình” (Et 9:1 NIV).
1. Cuộc báo thù: sự sợ hãi dân Do Thái (Et 9:1-16)
Cánh đàn ông Do Thái
được tổ chức thành quân đội, sẵn sàng đối phó với kẻ thù nào tấn công , gia
đình họ, và cố tình cướp đoạt tài sản của họ. Nhưng Đức
Giê-hô-va còn ban cho họ vũ khí hữu dụng hơn cả gươm giáo của họ nữa, bởi vì “chúng nó bắt sợ hãi dân Giu-đa lắm” (8:17 KJV 9:2).
Đó là sự sợ hãi mà Đức Chúa Trời đã đặt vào lòng dân ngoại để làm cho họ không
dám chiến đấu với dân Ngài nữa.
điều này nhắc chúng ta nhớ lại kinh
nghiệm của gia-cốp khi ông đi từ Si-chem đến Bê-tên. “Đoạn, chúng khởi hành, Đức Chúa Trời bèn giáng sự kinh
hãi cho các thành ở chung quanh đó, nên họ chẳng dám đuổi theo các con trai của
Gia-cốp” (Sa 35:5 KJV). Chính sự
kinh hãi giống như vậy đã đi trước Y-sơ-ra-ên khi họ tiến vào Đất Hứa. “Ngày nay, ta khởi rải trên các dân tộc trong thiên hạ sự
sợ hãi và kinh khủng về danh ngươi, đến đỗi khi nghe nói về ngươi, các dân tộc
đó sẽ run rẩy và bị sự kinh khủng áp hãm trước mặt ngươi” (Phu 2:25 NKJV 11:25).
Ra-háp nói cho hai thám tử Do Thái biết sự kinh hãi người Y-sơ-ra-ên đã làm tê
liệt các dân tộc trong xứ Ca-na-an (Gios 2:8-11
5:1 9:24),
và đúng là sự hãi hùng đó đã giúp đem lại chiến thắng cho Y-sơ-ra-ên.
Một trong những vấn đề đối với thế
giới ngày nay đó là “Chẳng có sự kính sợ Đức
Chúa Trời ở trước mặt chúng nó” (Ro 3:18
KJV). Tương tự Pha-ra-ôn, người ta sẽ nói rằng: “Giê-hô-va
là ai mà tơi phải vâng lời người?”
(Xu 5:2 KJV). Nhưng
nếu họ không thấy dân sự Đức Chúa Trời kính sợ Chúa thì làm sao họ có thể kính
sợ Ngài được? Liệu có sự hết lòng
kính sợ Chúa như thế giữa vòng dân sự Ngài khiến cho một người chưa tin Chúa
nào đó đến dự nhóm với chúng ta sẽ sấp mặt xuống thờ lạy Ngài và “nói rằng thật có Đức Chúa Trời ở giữa anh em”
chăng? (ICo 14:25 NKJV).
Sự kính sợ Chúa luôn bảo vệ ai có
lòng kính sợ Ngài và tin tưởng những lời phán hứa của Ngài. Bởi vì dân Do Thái
tin tưởng chiếu chỉ của Mạc-đô-chê, cho nên họ có sự can đảm và không còn sợ
hãi kẻ thù nữa; sự can đảm đó đã đặt nỗi kinh hãi vào lòng kẻ thù của họ. (Phi 1:28). Trước khi vua Giô-sa-phát ra trận, Đức
Chúa Trời có sứ điệp cho ông là: “Khá tin cậy
Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, thì các ngươi sẽ vững chắc, hãy tin các đấng
tiên tri Ngài, thì các ngươi sẽ được may mắn” (IISu 20:20). Cho đến hôm nay, đó vẫn là lời khuyên
dạy khôn ngoan.
Nhưng còn có một khía cạnh khác đối
với sự kính sợ Chúa là sự đã giúp đem lại chiến thắng cho người Do Thái, ấy là
họ cũng phải có lòng kính sợ Mạc-đô-chê (Et 9:3).
Các quan lại trong triều, những hoàng thân quốc thích, các quan đầu tỉnh, và
các nhân viên tùy tùng của nhà vua trên khắp đế quốc thảy đều kính sợ
Mạc-đô-chê khiến họ thậm chí đã giúp đỡ người Do Thái tự vệ chống lại người
Ba-tư. Đức Chúa Trời đã ban cho Mạc-đô-chê quyền cao chức trọng và làm cho
người được nổi danh, Mạc-đô-chê thì dùng quyền lực của mình để làm theo những
gì Đức Chúa Trời muốn.
Cơ Đốc nhân ngày nay đang sống trong
một xã hội dân chủ theo thuyết đa nguyên không nên len lõi vào các chức vụ, địa
vị về chính trị chỉ nhằm mục đích sẽ lợi dụng chức quyền đó để nâng đỡ đức tin
đạo giáo của mình và hủy diệt những kẻ nào không đồng tình với họ. Mạc-đô-chê
là quan tể tướng trong triều đình, nơi mà lời ông nói ra sẽ thành luật. Tuy
nhiên, Cơ Đốc nhân ngày nay có thể sống đời sống đức tin để người ta có thể
nhìn thấy được quyền năng của Đức Chúa Trời trên đời sống họ, và kẻ thù sẽ phải
e dè trước lúc tấn công. Thế nhưng, thay vì thế gian vô thần phải kinh hãi Hội
Thánh Chúa, đằng này Hội Thánh lại tỏ ra sợ hãi thế gian và họ trở nên giống thế gian đến nỗi khó để phân biệt
được điểm khác nhau giữa họ và thế gian.
Hội Thánh ngày nay không còn
“hiện
ra như rạng đông,
Đẹp như mặt trăng,
tinh sạch như mặt trời,
Đáng sợ khác nào đạo
quân giương cờ xí ?” (Nha 6:10 KJV).
Hơn nữa, chúng ta vốn đã “khổ sở, khốn khó, nghèo ngặt, đui mù, và lõa lồ”
(Kh 3:17 KJV), là tình trạng thường được
chúng ta dùng để mô tả những người tù chiến tranh. Thay vì làm người chiến
thắng, chúng ta lại trở thành những tù binh! Đó là điều rất hiển nhiên bởi vì
thế gian này không có sự kính sợ Đức Chúa Trời.
“Vì
chúng tôi dầu sống trong xác thịt, chớ chẳng tranh chiến theo xác thịt. Vả,
những khí giới mà chúng tôi dùng để chiến tranh là không phải thuộc về xác thịt
đâu, bèn là bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, có sức mạnh để đạp đổ các đồn lũy”(
IICo 10:3-4 NIV). Hễ khi nào Hội Thánh cố ra
sức dùng những khí giới đời này để chiến đấu, thì thường những hậu quả đem lại
rất lôi thôi, chưa kể tai họa là đằng khác.
Tuy nhiên, nếu trang bị lấy mọi khí
giới của Đức Chúa Trời (Eph 6:10 đến hết
đoạn), và tin tưởng vào lời cầu nguyện và Lời Chúa (Cong
6:4), thì người chiến binh Cơ Đốc sẽ có thể xuất trận với đức tin và
lòng can đảm mạnh mẽ.
Thực chất, khi dân Ba-tư tấn công
dân Do Thái họ có được sự hợp lực của Ha-man người A-ma-lét; và điều này khiến
họ trở thành kẻ thù của Đức Chúa Trời (Et 9:5).
Trong khi đánh trả và giết chết những kẻ nào tấn công mình, người Do Thái đã
làm công việc đối với kẻ thù mà vua Sau-lơ đã từng từ chối không làm (ISa 15:1-35).
Trong Et
9:5-15, chúng ta được biết tin tức từ kinh đô Su-sơ và trong câu 16-17,
có thêm những tin tức về những gì đã xảy ra tại các vùng khác trên khắp đất
nước. Trong suốt hai ngày chạm trán, dân Do Thái đã giết chết 800 tên địch quân
là kẻ thù của họ chỉ riêng tại Su-sơ (c.6,15). Rõ ràng là có rất nhiều người
Ba-tư đã cả gan tấn công người Do Thái ngay trong thành phố có nhà vua đang lưu
trú và có cả Ê-xơ-tê với Mạc-đô-chê đang sống. Có lẽ đó là những người Ba-tư
rất trung thành với Ha-man và thường sống dựa vào bổng lộc của Ha-man ban tặng.
Giờ đây họ trở nên giận dữ điên cuồng bởi vì vị anh hùng của họ đã sụp đổ và sự
giàu có của vị anh hùng ấy cũng không còn gì.
Vì dân Do Thái không phải là kẻ đi
gây hấn, nghĩa là chính 10 con trai của Ha-man đã dẫn quân đội kéo đến tấn công
họ trước; và cả 10 tên ấy đều đã bị giết chết. Xác bọn chúng được treo lên trên
cây mộc hình của Ha-man để làm sự cảnh cáo cho kẻ thù. (Trong bản văn Kinh
Thánh tiếng Hê-bơ-rơ, tên của 10 kẻ này được xếp trên một trang theo hình thể
của một cây mộc hình. Vào ngày Lễ Phu-rim, người làm nhiệm vụ tuyên đọc Kinh
Thánh trong nhà hội sẽ đọc 10 tên chúng lên liền một mạch bởi vì các con trai
này của Ha-man đều đã bị chết chung với nhau). Cảnh tượng thi thể của 10 con
trai ấy bị treo lên trên cây mộc hình của Ha-man như vậy chắc chắn sẽ làm nhụt
chí bọn người Ba-tư khiến chúng không dám tấn công dân Do Thái nữa và kết cuộc
sẽ cứu được sự sống họ.
Có một số nhà bình luận xem sự thỉnh
cầu của Ê-xơ-tê trong câu 12-13 như là bằng cớ cho thấy bà không có lòng khoan
dung, nhưng không phải vậy đâu. Phe cánh và thế mạnh nhất của Ha-man đều ở kinh
đô Su-sơ cả là nơi người ta đã quỳ xuống trước hắn để được hắn ban bố cho lợi
lộc. Vì họ sẽ dễ dàng tập hợp lại thực hiện chiếc lược của họ, cho nên Ê-xơ-tê
muốn đảm bảo rằng sẽ không còn mầm móng nào trong số họ còn sống sót cả kẻo e
về sau này sinh ra rắc rối, hậu họa. Có lẽ bà có đủ thông minh nhận biết rằng
những kẻ ủng hộ Ha-man chắc sẽ quay lại tấn công vào ngày hôm sau, cho nên bà
vội cầu xin vua A-suê-ru cho phép thêm dân Do Thái có quyền tự vệ.
Dân Do Thái tại các nơi khác trên đế
quốc đã giết chết 75.000 tên kẻ thù mình trong một ngày, điều đó cho thấy có
biết bao nhiêu người Ba-tư rất căm ghét dân Do Thái và chỉ muốn tiêu diệt họ mà
thôi. Trung bình cứ mỗi tỉnh thành có khoảng chừng 600 người Ba-tư bị giết. Vì
dân Do Thái hiện sống rất đông tại đế quốc, cho nên chiến thắng này của họ chắc
chắn đó là quà tặng cho lòng can đảm và đức tin của họ.
Có ba lần trong phần ký thuật này
khẳng định rằng dân Do Thái không hề cướp đoạt lấy bất cứ thứ gì cả của kẻ thù
(c.15-16). Chính việc cướp lấy các chiến lợi phẩm từ kẻ thù mà vua Sau-lơ đã
đánh mất vương quốc của mình (ISa 15:12-23),
và dân Do Thái đã không lặp lại sai lầm đó của vua. Mục đích của họ không phải
là để chiếm lấy của cải, họ chỉ muốn bảo vệ chính mình và lấy lại quyền được
sống yên ổn của họ tại đất nước này. Cũng xin nhớ cho rằng, dân Do Thái chỉ giết chết những kẻ nào tấn công họ mà thôi;
bởi vì họ không phải là những người đi gây hấn trước.
2. Tổ chức lễ kỷ niệm: Lễ tiệc của dân Do Thái (Et 9:17-32)
Thật đáng buồn khi một dân tộc (hay
Hội Thánh) lãng quên đi những vị anh hùng của họ và những biến cố, sự kiện mà
Đức Chúa Trời đã sắm sẵn, ban cho họ hầu giúp giữ lại sự sống của họ. Thế hệ mới rất dễ dàng có xu hướng, theo họ là điều đương
nhiên, đòi hỏi những ơn phước mà các thế hệ trước đó đã phải vật lộn đấu tranh
và chịu hy sinh mất mát mới có được! Dân Do Thái không để mắc phải sai lầm đó
nữa, nhưng họ đã thiết lập ra Lễ Phu-rim để nhắc nhở thế hệ con cháu họ nhiều
năm về sau này phải luôn nhớ rằng Đức Chúa Trời đã cứu Y-sơ-ra-ên thoát khỏi sự
hủy diệt.
Mặc dù Lễ Phu-rim không
phải là lễ hội của Cơ Đốc nhân nói chung, nhưng chắc chắn mọi Cơ Đốc nhân đều
có thể cùng chung vui lễ tiệc ấy với các bạn Do Thái của mình bởi vì mọi ơn
phước thuộc linh mà chúng ta có được hôm nay thì thảy đều nhờ qua người Do Thái
cả. Dân Do Thái đã đem lại cho thế gian sự nhận biết về một Đức Chúa Trời hằng
sống chân thật, về Kinh Thánh và về Chúa Cứu Thế. Những Cơ Đốc nhân đầu tiên
chính là những tín hữu người Do Thái, và những nhà truyền giáo đầu tiên cũng
thế. Chúa Giê-xu là một người Do Thái đã chết vào dịp Lễ Vượt Qua, là ngày lễ
thánh của dân Do Thái, và Ngài sống lại từ kẻ chết vào ngày lễ thánh khác cũng
của dân Do Thái, ấy là ngày Lễ Trái Đầu Mùa. Đức Thánh Linh từ trời giáng xuống
trên một nhóm tín đồ người Do Thái vào ngày lễ của người Do Thái là Lễ Ngũ
Tuần. “Sự cứ rỗi đến từ người Do Thái” (Gi 4:22). Vậy, nếu không
có người Do Thái thì chắc hẳn sẽ không có Hội Thánh.
Không có gì là sai đối
với vần đề tín ngưỡng truyền thống về mặt ý nghĩa của nó. Hội Thánh luôn luôn là một thế hệ ngăn chặn sự tuyệt
chủng; và nếu chúng ta không nhắc nhở con cháu chúng ta phải nhớ những điều Đức
Chúa Trời đã làm cho chúng ta và cho ông bà tổ tiên chúng ta, thì Hội Thánh
chắc sẽ tiêu vong bởi tính vô cảm và sự thờ ơ lãnh đạm.
“Hỡi
các con, hãy đến nghe ta
Ta sẽ dạy các con sự
kính sợ Đức Giê-hô-va” (Thi
34:11 NIV).
Nhưng khi chúng ta để cho tín ngưỡng
truyền thống dần dần biến thành chủ nghĩa truyền
thống thì chúng ta sẽ gặp rắc rối. Nhà thần học Jaroslav Pelikan
nói: “tín ngưỡng truyền thống là đức tin sống của kẻ chết; còn chủ nghĩa truyền
thống là đức tin chết của kẻ sống”
Dân Do Thái ở khắp các tỉnh thành đã
ngừng cuộc đánh nhau vào ngày 13 tháng A-đa (tháng 3) và tổ chức lễ hội vào ngày hôm sau đó. Nhưng vì dân Do Thái ở Su-san vẫn còn
đang chiến đấu tự vệ trong ngày 14 tháng đó, cho nên qua ngày 15 họ mới tổ chức
lễ được. Ban đầu, dân Do Thái đã cùng nhau hiệp lại đến với chiến thắng, còn
bây giờ họ phải phân chia ra trong sự tổ chức lễ kỷ niệm. Tất cả điều đó tùy
thuộc vào việc bạn sống ở thành thị hay thôn quê. Tuy nhiên, Mạc-đô-chê sau đó
có sai người gởi thư tín đến khuyên tất cả người Do Thái hãy tổ chức lễ
kỷ niệm vào cả hai ngày 14 và 15 tháng đó (Et
9:20-22).
Ngày nay, dân Do Thái bắt đầu cử
hành lễ kỷ niệm ấy của họ bằng việc ăn kiêng vào ngày 13 của tháng (c.31), nhằm
để nhớ lại ngày mà chiếu chỉ gieo tai ương của Ha-man đã được ban hành (3:12). Họ đi đến nhà hội nghe người ta đọc sách
Ê-xơ-tê lớn tiếng; và hễ khi nào tên của Ha-man được đề cập đến thì họ liền la
lên: “Hắn thật đáng nguyền rủa!” hay là “ Hãy xóa sổ tên hắn đi!”. Bọn trẻ con
mang trống lắc trong ngày Lễ Phu-rim, chúng tập họp lại và hễ cứ nghe đọc đến
tên Ha-man thì chúng dùng trống đó gây ầm ĩ lên.
Vào sáng ngày 14 tháng ấy, dân Do
Thái lại đến nhà hội nghe đọc câu chuyện Ê-xơ-tê lần nữa và cả hội chúng hiệp
lại cầu nguyện. Câu chuyện Môi-se và người A-ma-lét (Xu
17:8-16) cũng được người ta đem ra đọc. Sau đó người dự lễ trở về nhà
mình ăn bữa lễ tiệc thịnh soạn với những món ăn đặc biệt và tặng quà cáp cho
nhau, rồi lại tiếp tục tổ chức lễ kỷ niệm vào ngày hôm sau. Họ cũng gởi quà với
thức ăn đến cho người nghèo túng thiếu để tất cả mọi người đều có thể cùng nhau
vui vẻ.
Tên gọi “Phu-rim” là từ ở dạng số
nhiều của từ Pur trong tiếng
Ba-by-lôn có nghĩa là “rút thăm”. Nó bắt nguồn từ việc bắt thăm của Ha-man để
quyết định ngày tuyệt diệt dân Do Thái (Et 9:24
3:7). Mặc dầu không thấy có sự phê chuẩn của
Đức Chúa Trời cho việc tổ chức bữa lễ tiệc mới này, thế nhưng dân Do Thái vẫn
quyết định duy trì việc tổ chức lễ từ thế hệ này sang thế hệ khác (9:26-28). Hãy chú ý đến sự nhấn mạnh việc dạy dỗ
con cái hiểu được ý nghĩa của ngày Lễ Phu-rim là gì để sứ điệp về bữa lễ tiệc
đó sẽ không bị mai một đi trong thế hệ tương lai. Chủ nghĩa yêu nước của người
tin kính Chúa dần dần sẽ tiến tới xa hơn là biến thành chủ nghĩa dân tộc và
lòng tự hào công dân đem lại sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời vì những việc Ngài
đã làm. Hãy xem bàn tay của Đức Chúa Trời hành động trong lịch sử và ngợi khen
Ngài vì sự nhân từ với lòng thương xót của Ngài, để rồi nài xin Ngài tha thứ
tội cho chúng ta, có lẽ đó là cách tốt nhất để Cơ Đốc nhân có tinh thần yêu
nước tổ chức kỷ niệm ngày lễ nào đó của quốc gia. Nhưng theo sau sự tổ chức lễ
kỷ niệm đó phải có sự cống hiến. Vị lãnh đạo chính trị người Mỹ là Adlai
Stevenson nói rằng: “Chủ nghĩa yêu nước không phải là cơn xúc động bột phát,
điên cuồng và thoáng qua một cách ngắn ngủi, nhưng đó là sự cống hiến kiên
định, đều đặn và lặng lẽ của cả một đời người”.
Không phải có mỗi quan tể tướng
Mạc-đô-chê đã gửi thư đến khuyên dạy người Do Thái trong khắp đất nước, mà
hoàng hậu Ê-xơ-tê cũng có phối hợp với Mạc-đô-chê gửi lá thư thứ hai đến chỉ
bảo họ thêm nữa (c.29-32). Có lẽ một số ít người Do Thái tại các tỉnh thành
không muốn thay đổi ngày lễ kỷ niệm đầu tiên của họ chút nào (c.19), và như thế
thì cả hoàng hậu lẫn quan tể tướng đều cần phải cho gửi lá thư thứ hai này đến
để giữ sự hoà bình trong dân. Dân sự Đức Chúa Trời sau khi đánh bại kẻ thù xong
thì hay tổ chức ăn mừng chiến thắng và tự đánh nhau là chuyện quá bình thường!
Lá thư thứ hai được mô tả là “lời hòa bình và chân thật” (c.30), điều này
cho thấy rằng sự phân rẽ giữa vòng những người Do Thái cần phải được hàn gắn
lại. Cả Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê không chỉ có gửi thư nhưng họ còn có những việc
khác nữa được viết lại trong sách (nhật ký chăng?) mà Mạc-đô-chê đã sử dụng như
tài liệu ghi chép của cá nhân ông (c.20,32). Có thể sách ấy sau này đã trở
thành một phần trong số những sách ký thuật chính thức của đế quốc.
Câu chuyện kể lại chiến thắng này
của dân Do Thái trên kẻ thù họ đều được tổ chức lễ tiệc kỷ niệm hằng năm, được
ký thuật trong hai lá thư nghiêm túc, được viết thành một cuốn nhật ký, và cuối
cùng được kể vào các sách Kinh Thánh Cựu Ước! Thật đáng trách biết bao “xã hội
thật là phí” thời hiện đại này của chúng ta đã quên đi lịch sử của mình và,
giống như những người A-thên thời xưa, đã bỏ thì giờ ra “chỉ lo nói và nghe việc mới lạ mà thôi” (Cong 17:21 KJV). Triết
gia George Santayana đã có lý khi ông bảo rằng: “Những ai không nhớ quá khứ của
mình đều bị lên án để hồi tưởng lại những gì đã trôi qua”
3. Sự tán dương: tiếng tăm của Mạc-đô-chê (Et 10:1-3)
Phân đoạn Kinh Thánh
cuối cùng ngắn ngủi này nói cho chúng ta biết rằng Mạc-đô-chê, không hề giống
với người tiền nhiệm của mình là Ha-man, ông đã dùng địa vị chức vụ của mình để
phục vụ nhà vua và giúp đỡ dân Do Thái. Có lúc, khi người ta được tôn lên địa
vị cao trọng, thì họ sẽ quên đi nguồn cội của mình và không thèm quan tâm để ý
gì đến những nhu cầu của dân chúng. Mạc-đô-chê không phải loại người như vậy.
Thậm chí những công sự về chính trị của ông đều được ghi vào sử sách chính thức
của đế quốc, những gì ông đã làm cho dân sự ông đều được Đức Chúa Trời ghi nhận
cả và Ngài sẽ ban thưởng cho ông.
Tại sao tác giả sách này
lại đề cập đến chương trình thuế mới của vua A-suê-ru như vậy? Mạc-đô-chê và
người Do Thái phải làm gì đối với việc này? Một số nhà nghiên cứu Kinh Thánh
cho rằng chính Mạc-đô-chê là người đã thiết lập và điều hành hệ thống thu thuế
ấy như sự thay thế cho chiến tranh và chiến lợi phẩm, là nguồn của cải của quốc
gia. Giờ đây, vương quốc đã thái bình, dân Do Thái tự do đi làm, kiếm tiền, và
được phồn thịnh; của cải tài sản của dân Do Thái ngày càng được gia tăng và tài
sản của cải của quốc gia cũng vậy nói chung. Mạc-đô-chê thường nhắc nhà vua
rằng ngôi vua xứng đáng được chia phần trong số tài sản của cải đó. Bởi vì suy
cho cùng thì chính vua là người đã chọn Ê-xơ-tê, một người nữ Do Thái, và vua
cũng đã đề bạt Mạc-đô-chê cũng là người Do Thái lên địa vị cao trọng; và cả ba
người họ đều đã cùng nhau làm việc cứu nguy dân Do Thái thoát khỏi sự hủy diệt.
Vì không phải là dân bản xứ của đế quốc, cho nên người Do Thái cũng như những
dân ngoại đều cần phải có bổn phận và nghĩa vụ đối với quốc vương mà họ đang
trực thuộc. Trong phân đoạn Kinh Thánh này có một sứ điệp quan trọng là Đức
Chúa Trời đã tiếp tục dùng Mạc-đô-chê giúp đỡ dân Do Thái. Dân Do Thái là những
người lạ sống ở xứ người và là đối tượng của tất cả mọi kiểu quấy nhiễu lợi
dụng và bị đối xử tàn tệ, bất công. Mạc-đô-chê nhìn thấy rằng họ cần được đối
xử công bằng. Câu cuối cùng của sách này được người ta dịch theo nhiều ý khác
nhau. Bản Kinh Thánh nhuận chánh dịch là: “và nói sự hoà bình cho cả dòng dõi
mình”, cho thấy ông đã khích lệ người Do Thái hãy sống hòa bình với nhau. Bản
NIV dịch: “và tuyên ra sự thịnh vượng của cả dân tộc Do Thái”. Điều này ngụ ý
rằng vẫn còn có nhiều thế lực hoạt động tại đế quốc hay chống đối và đe doạ
người Do Thái, nhưng Mạc-đô-chê đã đại diện cho họ tại toà và bảo vệ họ. “Ông
hết lòng hết sức vì dân tộc mình, và là một người bạn thiết tại tòa bênh vực và
bảo vệ họ” (TLB).
Vở kịch Ê-xơ-tê lý thú
hấp dẫn đã khép lại, nhưng nguồn ơn phước vẫn cứ tiếp tục tuôn chảy. Đức Chúa
Trời đã gìn giữ, bảo tồn dân tộc Do Thái để chúng ta ngày nay mới có Kinh Thánh
và có Chúa Cứu Thế. Giờ đây, công việc của chúng ta là nói cho cả thế giới này
biết về Chúa Cứu Thế đó, hết lòng tìm kiếm chinh phục nhiều người cho Chúa.
Chúng ta là những người đi đưa thư của Nhà Vua, và chúng ta không được thất
bại.
Ru-tơ cùng với Ê-xơ-tê
vượt qua nhiều thế kỷ, vươn tay ra nắm lấy tay nhau và cùng nói với Hội Thánh
Chúa ngày nay rằng: HÃY PHÓ THÁC!
CHÚ THÍCH:
Chương 4
[5]


