MỤC LỤC
01. VỞ KỊCH BẮT ĐẦU
02. CUỘC THẢO LUẬN BẮT ĐẦU
03. CUỘC THẢO LUẬN TIẾP TỤC
04. NGƯỜI “EM ÚT” TỨC GIẬN
05. CUỘC THẢO LUẬN BIẾN THÀNH CUỘC TRANH LUẬN
06. CÓ PHẢI KẺ THÙ ĐÍCH THỰC MUỐN DẤY LÊN CHĂNG?
07. TẤT CẢ ĐỀU TÙY THUỘC VÀO QUAN ĐIỂM CỦA BẠN
08. THỨ TỰ TẠI TÒA
09. MỘT TIẾNG THÌ THẦM YẾU ỚT THAY
10. TÔI XIN NGỪNG VỤ KIỆN CỦA MÌNH
11. Ê-LI-HU CÓ NHỮNG CÂU TRẢ LỜI
12. Ê-LI-HU GIẢI THÍCH VÀ BÊNH VỰC ĐỨC CHÚA TRỜI
13. CUỘC KHẢO THÍ CUỐI CÙNG
14. ĐOẠN KẾT
1. VỞ KỊCH BẮT ĐẦU (Giop 1:1-3:26)
“Hãy
giao phó quá khứ cho sự thương xót của Đức Chúa Trời, hiện tại cho tình yêu
Ngài, và tương lai cho sự định liệu của Ngài.” (Thánh Augustine)
Lord Byron có dụng ý khi ông viết: “Chân lý luôn luôn kỳ lạ, kỳ lạ hơn cả điều tưởng tượng.”
Sách Gióp không phải là
sự tưởng tượng tôn giáo. Gióp là một con người có thật, không phải là nhân vật
tưởng tượng. Cả Exe
14:14,20
Gia 5:11 đều làm
chứng điều đó. Vì ông là người thật, có những từng trải thật, nên ông có thể
cho chúng ta biết điều chúng ta cần biết về những vấn đề của đời sống trong thế
gian.
Ba chương đầu này giới
thiệu với chúng ta về một người đàn ông tên Gióp và bày tỏ bốn sự thật quan
trọng về ông.
1. Sự thịnh vượng của Gióp (Giop 1:1-5)
Xứ Út-xơ có lẽ ở gần Ê-đôm (Ca 4:21). Ê-li-pha – một trong những người bạn của
Gióp đến từ Thê-man là xứ có liên hệ với dân Ê-đôm (Giop
2:11 Sa 36:11) Tính cách của Gióp Gióp vốn trọn vẹn và ngay
thẳng (Giop 1:1). Ông không phải là vô tội,
vì không ai có thể tuyên bố sự đặc biệt đó, nhưng ông hoàn hảo và trưởng thành
trong tính cách, “ngay thẳng” trong hạnh kiểm. Từ được dịch là “trọn vẹn” có
liên quan đến “tính chính trực” từ quan trọng khác trong sách Gióp (Giop 2:3 27:5 31:6). Người có tính chính trực là người trọn vẹn,
không có sự giả hình hoặc hai lòng. Khi đối diện với những lời tố cáo của bạn
bè và sự im lặng của Đức Chúa Trời, Gióp đã duy trì sự chính trực của mình, và
cuối cùng, Chúa đã bênh vực ông. Nền tảng tính cách của Gióp là việc ông kính
sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác. “Kính sợ Chúa ấy là sự khôn ngoan, và
tránh khỏi điều ác là sự thông sáng” (Ch 28:28).
Kính sợ Chúa nghĩa là tôn trọng địa vị của Ngài, lời Ngài phán và việc Ngài
làm. Đó không phải là sự sợ hãi khúm núm của một nô lệ trước người chủ, nhưng
là sự kính trọng yêu mến của đứa con trước người cha, sự kính trọng dẫn đến sự
vâng lời. Oswald Chambers đã nói: “Điều đáng chú ý về sự kính sợ Đức Chúa Trời
đó là khi bạn kính sợ Đức Chúa Trời, bạn không sợ điều gì khác, trái lại nếu
bạn không kính sợ Đức Chúa Trời, bạn sợ mọi điều khác.”Gia đình Gióp Gia đình Gióp được thịnh vượng (Giop 1:2). Những sự kiện trong sách Gióp đã xảy ra
suốt thời đại gia trưởng khi một gia đình đông con được xem là phước hạnh đến
từ Đức Chúa Trời (Sa 12:2 13:16 30:1).
Chắc hẳn con cái thường cùng nhau rất vui vẻ, hay gặp nhau tổ chức sinh nhật
của mình. Điều này cho thấy Gióp và vợ ông nuôi nấng các con rất tốt. Việc Gióp
thường dâng của lễ đặc biệt sau mỗi tiệc, chứng tỏ rằng những buổi liên hoan
của chúng là chính đáng. Qua đó cho thấy Gióp là người mộ đạo và muốn giữ gìn gia
đình trong sự tin kính Đức Chúa Trời.
Của cải vật chất của
Gióp Trong thời ấy, sự giàu
có được đánh giá chủ yếu dựa vào số lượng đất đai, súc vật và tôi tớ (Giop 1:3). Gióp có cả ba
thứ cách dư dật. Nhưng giàu có không làm cho ông xa cách Đức Chúa Trời. Ông
biết rằng Chúa đã ban cho ông sự giàu có này (Giop
1:21) và ông đã sử dụng của cải mình thật rời rộng vì ích lợi người khác
(Giop 4:1-4 29:12-17
31:16-32). Gióp có lẽ không có vấn đề gì khi
vâng theo điều Phao-lô đã viết trong ITi 6:6-19).
Các bạn hữu của Gióp Mặc dù đúng là ba bạn của ông đã gây tổn thương
sâu sắc và phạm sai lầm với ông (Giop 2:11), nhưng họ vẫn là bạn hữu của ông. Khi nghe ông gặp
tai họa, họ đã trải qua chặng đường dài để thăm viếng ông. Và họ ngồi yên lặng,
cảm thông với ông. Lỗi của họ là bằng suy nghĩ riêng, đã tìm cách giải thích
hoàn cảnh của Gióp và cho ông biết cách để thay đổi tình huống đó.
Henry Ford đã nói: “Bạn thân nhất
của tôi là người hay nói tốt về tôi”, còn đàng này các bạn của Gióp thì toàn kể
ra những điều xấu nhất của ông. Tuy nhiên, cuối cùng Gióp và các bạn ông đã
giải hòa (42:7-10). Và tôi thiết nghĩ rằng quan hệ của họ trở nên sâu sắc hơn
trước. Có được những người bạn thân thiết, chân thành thì quả là giàu có thật
sự.
2. Nghịch cảnh của Gióp (Giop1:6-19)
Vào một ngày kia, Gióp
bị lột sạch hết của cải. Hết người này tới người nọ đến đưa những tin tức khiếp
hãi, 500 đôi bò, 500 lừa cái và 3000 lạc đà đã kẻ thù tấn công cướp đi,7000
chiên bị sấm sét đánh chết, luôn cả 10 người
con của ông cũng bị chết bởi một cơn gió bão sập nhà. Vua Sa-lô-môn đã nói
đúng: “Hơn nữa, không ai biết khi nào giờ của mình sẽ đến, như cá mắc trong
lưới hiểm, hoặc như chim mắc trong bẫy dò, thì loài người cũng bị vấn vương bởi
thời tai họa giáng xuống thình lình” (Tr 9:12
NIV). Gióp biết điều gì đã xảy ra,
nhưng ông không biết vì sao nó xảy
ra, và đó là điểm then chốt của vấn đề. Vì tác giả đã cho phép chúng ta thăm
viếng cung điện trên trời và nghe Đức Chúa Trời nói chuyện với Sa-tan, cho nên
chúng ta biết được ai đã gây ra sự hủy diệt này và vì sao hắn được phép gây ra
điều đó. Nhưng nếu chúng ta không có sự hiểu biết như vậy, có lẽ chúng ta sẽ
chẳng khác nào các bạn của Gióp trong sự tiếp xúc và khiển trách Gióp về bi
kịch này.
Nhiều lẽ thật quan trọng nổi lên từ
bối cảnh này, trong đó nổi rõ nhất là lẽ thật: Đức
Chúa Trời luôn tể trị trong mọi sự. Ngài ngự trên ngôi nơi thiên
đàng, các thiên sứ làm theo ý muốn Ngài rồi thuật lại mọi tình hình với Ngài,
cả Sa-tan cũng không thể làm được gì đối với dân sự Đức Chúa Trời mà không có
sự cho phép của Ngài. “Đấng Toàn Năng” là một trong những danh hiệu chính dành
cho Đức Chúa Trời trong sách Gióp, từ này được sử dụng 31 lần. Từ đầu, tác giả
đã nhắc chúng ta rằng, dù cho điều gì xảy ra trong thế gian và trong đời sống
chúng ta, thì Đức Chúa Trời vẫn luôn ngự trên ngôi và điều khiển mọi sự.
Một lẽ thật thứ hai và nó có thể làm
bạn ngạc nhiên- đó là Sa-tan vẫn hay thường
xuyên lui tới trước ngôi trên trời của Đức Chúa Trời. Căn cứ vào tác
phẩm “Paradise Lost” của John Milton,
mà nhiều người đã có ý niệm sai lầm rằng Sa-tan đang cai trị thế giới này từ
địa ngục (“Thà cai trị ở địa ngục hơn hầu việc ở thiên đàng”). Nhưng Sa-tan sẽ
không bị quăng vào hồ lửa cho đến khi xảy ra kỳ phán xét cuối cùng (Kh 20:10). Hiện tại, nó đang được tự do đi lại trên đất (Giop 1:7
IPhi 5:8) và thậm chí nó cũng có thể bước
vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời ở trên trời.
Lẽ thật thứ ba này quan trọng nhất: Đức Chúa Trời không tìm thấy lỗi lầm gì nơi Gióp nhưng
Sa-tan thì thấy. Nhận định của Đức Chúa Trời trong Giop 1:8 lặp lại sự mô tả về Gióp trong câu 1,
nhưng Sa-tan chất vấn điều đó. Từ “Sa-tan” có nghĩa là “đối thủ, kẻ chống lại
luật pháp.” Đây là một bối cảnh tòa án, và Đức Chúa Trời với Sa-tan mỗi phía
đưa ra những quyết định khác nhau về Gióp. Khi bạn nghiên cứu sách Gióp hãy nhớ
rằng Đức Chúa Trời đã khẳng định về Gióp thế này: Gióp không hề có tội lỗi gì (Giop 1:8 2:3 42:7). Vậy, không có điều gì trong đời sống Gióp
buộc Đức Chúa Trời khiến ông phải chịu khổ cả. Nhưng Sa-tan lại bảo “Gióp có
tội !”, vì nó là kẻ hay kiện cáo dân sự Đức Chúa Trời và không thấy điều gì tốt
nơi họ (Xa 3:1-10 Kh
12:10).
Việc Sa-tan chống lại Gióp và tố cáo
ông quả là sự tấn công Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể lý giải như vầy: “Gióp
kính sợ Ngài là vì ông ta được Ngài trả công cho để làm như vậy. Ngài có lập
một giao kèo sẽ bảo vệ và làm cho ông ta thịnh vượng nếu ông biết vâng lời Ngài
và thờ phượng Ngài. Như vậy, hóa ra Ngài không phải là Đức Chúa Trời đáng được
thờ phượng! Ngài phải trả công cho con người thì mới được họ tôn kính.”
Ba bạn của Gióp nói rằng, sở dĩ Gióp
phải chịu khổ vì ông đã phạm tội, điều đó không đúng. Ê-li-hu bảo Đức Chúa Trời
trừng phạt Gióp để khiến ông trở nên người tốt hơn, và điều đó chỉ đúng một
phần nào. Nhưng lý do cơ bản về sự chịu khổ của Gióp là để làm câm nín những lời tố cáo báng bổ của Sa-tan và
chứng minh rằng người ta sẽ luôn kính sợ và tôn trọng Đức Chúa Trời cho dù họ
bị mất hết mọi sự. Đó là một cuộc
chiến ở các miền trên trời (Eph 6:12), nhưng
Gióp không biết điều đó. Đời sống của Gióp là một chiến trường, nơi mà thế lực
của Đức Chúa Trời và Sa-tan giao nhau trong cuộc chiến thuộc linh để quyết định
câu hỏi: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời có xứng được loài người thờ phượng hay
không?”
Giờ đây chúng ta có thể hiểu rõ hơn
vì sao Gióp không chịu khuất phục khi ông kháng cự lời khuyên của các bạn mình.
Họ muốn ông ăn năn những tội lỗi của ông để Đức Chúa Trời sẽ cất đi hoạn nạn và
khiến ông thịnh vượng trở lại. Gióp sẽ không “bịa ra” tội lỗi trong đời sống
mình chỉ để có thể ăn năn và “kiếm” sự chúc phước của Đức Chúa Trời. Làm như
vậy sẽ là đi nước cờ đúng dưới sự điều khiển của kẻ tố cáo! Ngược lại, Gióp bám
chắc vào sự chính trực của mình và ngợi khen Đức Chúa Trời dù ông không hiểu
Đức Chúa Trời đang làm điều gì. Quả là một thất bại đối với vua của sự tối tăm!
Một lẽ thật thứ tư nổi lên: Sa-tan có thể đụng đến dân sự Đức Chúa Trời chỉ khi nào
có sự cho phép của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời sử dụng điều đó vì ích lợi
của họ và vì vinh hiển danh Ngài. Philip Brooks đã nói: “Mục đích
của đời sống là gây dựng tính cách qua lẽ thật.” Đức Chúa Trời hành động trong
đời sống chúng ta để khiến chúng ta càng trở nên giống Chúa Giê-xu Christ (Ro 8:29), Ngài có thể sử dụng những sự tấn công
của ma quỉ để hoàn thiện chúng ta. Khi bạn đi trong đường lối của sự vâng lời
Chúa và bạn thấy mình đang lâm vào thử thách gay go nào đó, thì hãy tự nhủ rằng
không điều gì có thể đến với đời sống bạn mà ngoài ý muốn Đức Chúa Trời.
Một số sự kiện gọi là những bi kịch
trong đời sống của dân sự Đức Chúa Trời thật sự là những vũ khí của Ngài để làm
cho “kẻ thù và kẻ báo thù phải câm nín” (Thi 8:2).
Các thiên sứ quan sát Hội Thánh và biết những sự giải quyết của Đức Chúa Trời
đối với dân sự Ngài sẽ là thế nào (ICo 4:9 Eph 3:10). Cho đến khi chúng ta đến thiên đàng,
chúng ta mới có thể biết vì sao Đức Chúa Trời cho phép những điều đó xảy ra.
Trong khi đó, chúng ta hãy bước đi bởi đức tin và nói
cùng với Gióp: “Đáng ngợi khen danh Đức Giê-hô-va.”
3. Lòng trung thành của Gióp (Giop 1:20-22)
Các thiên binh trên trời
và nơi địa ngục đã quan sát xem Gióp
phản ứng trước sự mất mát của cải và con cái mình ra sao. Trong ngày xảy ra
những biến cố đó, ông biểu lộ sự đau khổ của mình một cách bình thường, vì Đức
Chúa Trời biết chúng ta là con người (ITe 4:13).
Xét cho cùng, cả Chúa Giê-xu cũng đã từng khóc (Gi
11:35). Nhưng sau đó Gióp đã thờ phượng Đức Chúa Trời và thốt ra lời
tuyên bố đức tin sâu sắc (Giop 1:21). Trước tiên, ông nhìn lại
sự ra đời của mình: “Tôi trần truồng lọt khỏi lòng
mẹ”. Mọi sự Gióp có đều do Đức Chúa Trời ban cho ông, và chính Đức Chúa Trời là
Đấng đã ban mọi điều ấy cho ông thì Ngài cũng có quyền cất hết chúng đi! Gióp
nhận biết rằng ông chỉ là một quản gia.
Sau đó, Gióp nhìn tới sự
chết của mình: “Tôi sẽ trần truồng trở về”. Ông sẽ không trở lại lòng mẹ, vì
điều đó không thể được. Nhưng ông sẽ đi đến “Đất Mẹ”, được chôn và trở về bụi
đất. (Sự liên hệ giữa “sự ra đời” và “Đất Mẹ” cũng được tìm thấy trong Thi 139:13-15). Những thứ mà ông đã có kể từ khi
ông ra đời cho tới lúc chết sẽ chẳng đi cùng ông vào thế giới sắp đến. Phao-lô
viết: “Vì chúng ta đã chẳng đem gì vào thế gian này, và chắc chắn chúng ta
không thể đem gì đi được” (ITi 6:7).
Cuối cùng, Gióp nhìn lên và thốt ra
một lời tuyên bố đức tin tuyệt vời: “Đức
Giê-hô-va đã ban cho, Đức Giê-hô-va lại cất đi, đáng ngợi khen danh Đức
Giê-hô-va!” (Giop 1:21). Thay vì
rủa sả Đức Chúa Trời theo như Sa-tan đã tính toán, Gióp lại ngợi khen Chúa! Bất
cứ ai cũng có thể nói: “Đức Giê-hô-va đã ban cho” hoặc “Đức Giê-hô-va đã cất
đi” nhưng phải có đức tin thật thì mới có thể nói được giữa cơn buồn rầu và đau
khổ rằng: “Đáng ngợi khen danh Đức Giê-hô-va!”
“Trong
mọi điều này Gióp không phạm tội, cũng chẳng buộc tội Đức Chúa Trời bằng sự
điên rồ" (Giop 1:22).
4. Nỗi khốn khổ của Gióp (Giop 2:1-13)
Trong phân đoạn này, bạn
nghe có bốn tiếng nói khác nhau:
Tiếng nói của kẻ kiện
cáo (Giop 2:1-8): Sa-tan
không dễ dàng chịu bỏ cuộc, vì nó đã quay lại nơi ngôi Đức Chúa Trời để kiện
cáo Gióp lần nữa. Như trong lần gặp mặt thứ nhất (Giop
1:8), chính Đức Chúa Trời nêu lên chủ đề về Gióp, tôi tớ của Ngài. Và
Sa-tan chấp nhận sự thách thức. Chúng ta có cảm tưởng rằng Đức Chúa Trời tin
rằng tôi tớ Ngài sẽ không thất bại qua cuộc thử nghiệm này. Sa-tan nói: “Mỗi
người đều có giá trị của mình. Gióp có thể xây dựng gia đình khác và khởi đầu
việc kinh doanh khác vì người vẫn có sức khỏe và sức mạnh. Hãy để tôi đụng vào
thân thể người và cất đi sức khỏe của người, Ngài sẽ sớm nghe người rủa sả Ngài
trước mặt Ngài cho xem!.”Với sự cho phép của Đức Chúa Trời (ICo 10:13) Sa-tan đã làm khổ Gióp bằng một căn
bệnh mà chúng ta không biết rõ. Không biết đó là bệnh gì nhưng nó có những
triệu chứng thật khủng khiếp: ngứa ngáy ghê gớm (Giop
2:8), mất ngủ (2:4), cơ thể lở loét
mưng mủ và vẩy nấm (2:5), ác mộng (2:13-14), hơi thở nặng mùi (19:17), sụt cân (19:20),
lạnh và sốt (21:6), tiêu chảy (30:27), da bị nám đen (21:30).
Khi ba bạn của ông nhìn thấy Gióp trong tình trạng đó, thoạt tiên họ không nhận
ra ông (2:12). Không phải mọi sự đau đớn thể
xác đều trực tiếp đến từ kẻ ác, dù có khi do nhiều thứ tà linh của Sa-tan có
thể gây ra như (giữa những điều khác), sự mù lòa(Mat
12:22), câm điếc (Mat 9:32-33), sự
biến dạng về thân thể (Lu 13:11-17), cơn đau
liên tục (IICo 12:7), sự điên loạn (Mat 8:28-34). Đôi khi sự đau đớn về thể chất là
kết quả tự nhiên của sự bất cẩn nơi chúng ta, và chúng ta không thể trách ai mà
hãy tự trách mình. Nhưng ngay cả trong trường hợp đó, Sa-tan cũng biết cách sử
dụng sự dại dột của chúng ta để đẩy mạnh mục đích của nó.
Diện mạo của Gióp trông quá gớm ghê
đến nỗi ông đã phải chạy trốn mọi người (Giop 19:13-20)
và ra ngoài thành, ngồi trên đống tro. Đó là nơi tập kết rác rưởi của thành phố
để đốt đi, nơi có những người bị cộng đồng xã hội chối bỏ sống nhờ ăn xin của
bố thí từ bất cứ ai đi qua. Tại đống tro, có những con chó giành ăn thức ăn
thừa, cũng có đủ các loại chất thãi dơ dáy từ thành dồn ra đó. Có một người
công dân đứng đầu của thành giờ đây đang sống trong
sự nghèo khổ, nhục nhã, hèn hạ biết bao!
Tiếng nói của người
trốn chạy (Giop 2:9-10) Nếu từng có một tín hữu thời Cựu Ước dự phần trong mối thông
công về những sự chịu khổ của Đấng Christ, thì đó chính là Gióp. Về phương diện
con người, mọi điều ông có thì giờ chỉ còn lại là vợ ông và ba bạn hữu của ông,
nhưng thậm chí họ cũng đang chống lại ông. Không có gì ngạc nhiên khi Gióp cảm
thấy Đức Chúa Trời đã từ bỏ ông! “Hãy rủa sả Đức Chúa Trời và chết đi!”,
chính là điều Sa-tan muốn Gióp làm và vợ Gióp đã đặt sự cám dỗ đó trước mặt
chồng mình. Vâng, Sa-tan có thể hành động qua những người thân yêu của chúng ta
(Mat 16:22-23 Cong
21:10-14) và cám dỗ chúng ta càng dữ dội hơn vì nó biết chúng ta yêu
thương họ. A-đam đã lắng nghe Ê-va (Sa 3:6,12) và Áp-ra-ham
đã nghe Sa-ra (Sa 16:1-2). Nhưng Gióp đã không nghe theo lời khuyên của vợ mình. Dĩ nhiên,
bà Gióp đã sai, nhưng công bình mà nói, chúng ta phải xem xét hoàn cảnh của bà.
Chỉ trong một lúc phải mất đi 10 đứa con, điều đó đủ hủy hoại bất cứ người mẹ
nào. Của cải gia đình đã mất, bà không còn là “phụ nữ đứng đầu” trong xứ. Chồng
bà, từng là người đàn ông cao trọng nhất ở Đông phương (Giop 1:3) giờ đây đang ngồi tại đống rác thành
phố, khổ sở vì một căn bệnh khủng khiếp. Bà còn lại
điều gì hơn là nhìn chồng mình hao mòn trong đau đớn và nhục nhã, bà mong rằng
Đức Chúa Trời đánh chết ông và chấm dứt điều đó lập tức. Có lẽ nếu Gióp rủa sả
Đức Chúa Trời, thì chắc Ngài sẽ làm vậy.
Trong giờ thử thách cam
go, câu hỏi đầu tiên của chúng ta không
nên là: “Làm cách nào để tôi có thể thoát ra khỏi tình trạng này?”
nhưng là “Tôi có thể rút ra được điều gì từ
chuyện này?”. Vợ của Gióp nghĩ bà đã giải quyết vấn đề, nhưng nếu Gióp làm theo
lời khuyên của bà, thì chỉ tổ khiến cho sự việc tồi
tệ hơn mà thôi. Đức tin là sống mà không cần phải toan định gì. Vâng lời Đức
Chúa Trời là bất chấp cảm xúc, hoàn cảnh hoặc hậu quả, là biết rằng Ngài đang
thực hiện kế hoạch hoàn hảo của Ngài theo cách Ngài muốn vào thời điểm Ngài
định. Hai điều Gióp sẽ không từ bỏ là đức tin ông đặt nơi Đức Chúa Trời và sự
chính trực của ông mà vợ ông đang muốn ông từ bỏ. Thậm chí nếu Đức Chúa Trời đã
cho phép ma quỉ bước vào đời sống ông thì ông cũng sẽ không chống nghịch
Đức Chúa Trời bằng cách tùy nghi hành động. Gióp chưa từng đọc “The Letters of Samuel Rutherford”, nhưng ông
đã làm theo lời khuyên của vị mục sư tin kính người Ê-cốt đó là người đã chịu
khổ nhiều: “Chính công việc của đức tin tuyên bố và thách thức sự nhân từ yêu
thương từ mọi trận đòn dữ dội nhất của Đức Chúa
Trời.” Gióp sẽ tin cậy Đức Chúa Trời thậm chí tranh luận với Ngài và không lãng
phí những sự chịu khổ của ông hoặc cơ hội ông có để nhận biết điều Đức Chúa
Trời muốn dành cho ông. Khi đời sống khó khăn thì chúng ta rất dễ bỏ cuộc, và
bỏ cuộc là điều tồi tệ nhất mà chúng ta có thể làm. Một giáo sư lịch sử đã nói:
“Nếu Columbus trở về, chắc sẽ không ai trách ông nhưng cũng sẽ không có ai nhớ
đến ông nữa.” Nếu bạn muốn được nhớ đến, đôi khi bạn phải chịu khổ. Cuối cùng,
vợ Gióp đã hòa giải với chồng mình và với Chúa, Chúa đã ban cho bà gia đình
khác (Giop 42:13). Chúng ta không biết bà đã học từ những sự chịu khổ của mình mức
độ nào, nhưng chúng ta có thể cho rằng đó là một từng trải tăng trưởng của bà.
Tiếng nói của những
người than khóc (Giop 2:11-13): Thuật ngữ “những người an ủi Gióp” là một nhóm từ quen thuộc để mô
tả những người mà sự giúp đỡ của họ chỉ khiến bạn cảm thấy tồi tệ hơn. Nhưng ba
người này có một số phẩm chất đáng khâm phục, mặc cho cái cách mà họ đã quấy
rầy Gióp.Thứ nhất, họ rất quan tâm đến Gióp nên họ đã vượt một quảng đường dài
đến thăm viếng ông. Khi họ tỏ lòng thương cảm ông, họ đã không ngồi trong nhà
tiện nghi hoặc phòng khách, nhưng họ ngồi với ông trên đống tro, giữa những thứ
rác rưởi. Vì sự đau khổ của ông quá lớn, cho nên họ không thể nói hết những gì
muốn nói với ông chỉ trong 7 ngày. (Dĩ nhiên, sau đó họ đã bổ khuyết cho
sự im lặng của họ). Thực tế, họ bày tỏ sự thương cảm Gióp giống như họ đang
than khóc cho cái chết của một người cao trọng vậy (Thi
50:10).
Cách tốt nhất để giúp những người
đang đau khổ, tổn thương là chỉ nên ở cùng họ, nói ít hoặc chẳng nói gì cả, để
họ biết bạn đang quan tâm họ. Đừng tìm cách giải thích mọi việc, vì thường thì
những lời giải thích lúc đó không bao giờ chữa lành được tấm lòng đang tan vỡ.
Nếu các bạn Gióp lắng nghe ông, tiếp nhận những cảm xúc của ông, và không tranh
cãi với ông, thì có lẽ họ đã giúp ông rất nhiều; tuy nhiên họ lại chọn trở
thành những luật sư kiện cáo thay vì làm những nhân chứng. Cuối cùng, Chúa đã
quở trách họ và họ phải xin sự tha thứ của Gióp (Giop
42:7-10).
Tiếng nói của người
chịu khổ (Giop 3:1-26): Sau 7 ngày
yên lặng chịu khổ, Gióp đã nói, không phải để rủa sả Đức Chúa Trời nhưng để rủa
sả ngày sanh của mình: “Tại sao tôi lại được sinh ra?”. Đây cũng là câu mà các
con cái Đức Chúa Trời kể cả tiên tri Giê-rê-mi khi gặp hoạn nạn, tổn thương
cũng đã từng thốt lên (Gie 20:14-18). Đây
hoàn toàn không giống câu nói: “Tôi ước mình
chết đi,” mà Gióp đã nói một vài lần bày tỏ ước muốn của mình (Giop 6:9 7:15-16
14:13). Gióp
chưa khi nào nói về sự cuối cùng của đời mình. “Lời ai oán về ngày
sinh” của Gióp không phải là một sự biện hộ cho hành động tự sát hoặc gọi là sự
“giết người vì nhân đạo.” Đó là sự kêu rêu của một
người vì đã chịu khổ quá cỡ đến nỗi ông ước gì mình chưa bao giờ được sinh ra
thì hơn. Khi bạn bị tổn thương, bạn có thể nói và làm nhiều điều mà sau đó bạn
sẽ phải hối hận. Sự chịu khổ của Gióp quá lớn đến nỗi ông quên những phước hạnh
mà ông và gia đình đã nhận hưởng nhiều năm. Nếu ông chưa từng được sinh ra, thì
chắc chắn ông sẽ không bao giờ được trở thành người cao trọng nhất ở Đông
phương! Nhưng nỗi đau khổ khiến chúng ta quên đi những niềm vui của quá khứ.
Trái lại, chúng ta tập trung vào sự tuyệt vọng về tương lai. Các bạn Gióp nghe
những lời của ông nhưng không cảm nhận được nỗi thống khổ của lòng ông,
và họ chọn cách sai lầm để giúp ông giải quyết những hoạn nạn của mình. Họ
tranh cãi với những lời ông nói thay vì giúp đỡ, đồng cảm với những cảm xúc của
ông.
Gióp rủa sả hai đêm: đêm của sự hoài
thai ông và đêm ông ra đời (Giop 3:1-13). Sự
hoài thai là một phước hạnh đến từ Đức Chúa Trời (Sa
30:1-2 Thi 139:13-16). Vì vậy, khi
chúng ta rủa sả một phước hạnh nào đó, tức là chúng ta đang nghi ngờ sự nhân từ
của Đức Chúa Trời. (Chú ý rằng Gióp đã nói một
con trẻ được hoài thai, không phải “một khối chất nguyên sinh” hay
“một vật.” Ông là một con người đến
từ sự hoài thai).Từ ngữ chìa khóa ở đây là sự
tối tăm. Khi một đứa bé được sinh ra, tức thì nó bước ra khỏi sự tối
tăm mà vào ánh sáng, nhưng giờ phút này Gióp chỉ muốn ở trong sự tối tăm mà
thôi. Thật ra, ông nghĩ rằng nếu ông ra đời mà bị chết thì còn tốt hơn! Sau đó
ông sẽ đi đến thế giới người chết (âm phủ) và không
phải đối diện với mọi sự đau khổ này.
Ông đã kết thúc sự rủa
sả của mình bằng 4 câu hỏi “Vì sao?” mà không ai ngoài Đức Chúa Trời có thể trả
lời được. Thật dễ dàng khi chúng ta khi đặt câu hỏi “Vì sao?”, nhưng thật khó
để chúng ta có câu trả lời đúng. Không có gì sai trật cả khi chúng ta hỏi như
vậy cho đến chừng nào chúng ta không có ý niệm rằng Đức Chúa Trời đang nợ chúng ta câu trả lời. Thậm chí Chúa Cứu Thế của chúng ta
cũng đã hỏi: “Sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Mat 27:46).
Nhưng nếu Chúa thật sự cho chúng ta biết những điều xảy ra như vậy, liệu điều
ấy có chấm dứt sự đau khổ của chúng ta hay chữa lành tấm lòng tan vỡ của chúng
ta lúc ấy chăng? Liệu việc đọc tia X có cất đi cơn đau của cái chân bị gãy
không? Chúng ta sống bởi những lời hứa
chứ không phải những lời giải thích. Vì vậy chúng ta không nên mất quá nhiều
thời gian để hỏi Đức Chúa Trời vì sao.
Nửa phần cuối của sự than vãn là sự
mô tả về thế giới người chết, nơi người Do Thái gọi là Âm phủ (Giop 3:13-26). Đó là nơi Gióp muốn ở! Cựu Ước
không cho chúng ta biết rõ một mặc khải trọn vẹn và cuối cùng về đời sống sau
sự chết. Điều đó phải đợi đến ngày Chúa Cứu Thế tái lâm (IITi 1:10). Gióp cho rằng Âm phủ là một nơi mờ tối
có những người lớn lẫn người nhỏ, kẻ hèn mọn lẫn kẻ cao sang vĩ đại thảy đều
cùng yên nghỉ với nhau, cùng thoát khỏi những gánh nặng và hoạn nạn của đời
sống trên đất. Gióp thà chết và có sự yên nghỉ như thế còn hơn là sống và mang
sự khốn khổ đến với mình. Xét cho cùng, ông đang ở trong sự tối tăm như thể sự
tối tăm của tương lai ông vậy (Giop 3:23),
do đó ông có thể như đang ở trong sự tối tăm của Âm phủ.
Gióp chia xẻ một bí mật
ở cuối lời than vãn của ông (Giop
2:25-26): trước khi mọi hoạn nạn của ông bắt
đầu ông có cảm giác và sợ hãi rằng có điều gì đó kinh khiếp lắm sắp xảy đến.
Phải chăng đó là một trực giác từ Chúa? Đôi khi dân sự Đức Chúa Trời có những
trực giác này, nó thôi thúc họ tìm kiếm mặt Đức Chúa Trời và cầu xin sự giúp đỡ
của Ngài. Có phải đó là điều Gióp đã làm? Chúng ta không biết, nhưng chúng ta
biết rằng ông là một người bị suy kiệt có những nỗi sợ hãi tồi tệ nhất mà giờ
đây mới được nhận ra.
Đáng buồn thay ba người bạn đã giữ lại lời than vãn của Gióp thay
vì lời tuyên bố đức tin của ông (Giop 1:21 2:10). Sau khi nghe ông rủa sả ngày sinh của mình,
họ cảm thấy cần phải quở trách ông và điều đó đưa đến
sự bênh vực của Đức Chúa Trời.
Giờ đây cuộc bàn luận
bắt đầu. Chẳng bao lâu nó sẽ trở nên một cuộc tranh luận, sau đó là một cuộc
tranh cãi, và Chúa sẽ phải can thiệp để đưa những vấn đề đi đúng hướng.
PHẦN CHUYỂN TIẾP
Bạn sẽ phải bỏ ra khá nhiều
thì giờ với ba bạn hữu của Gióp, vì vậy bạn nên làm quen với họ.
Cả ba người đều lớn tuổi (Giop 32:6),
lớn hơn Gióp (15:10), nhưng chúng tôi cho
rằng Ê-li-pha là lớn tuổi nhất. Ông
được kể tên trước hết (Giop 2:11), ông là
người mở lời đầu tiên, có vẻ như Chúa chấp nhận ông là thành viên lớn tuổi nhất
trong số ba người bạn của Gióp (Giop 42:7).
Ông có liên quan đến xứ Thê-man, một nơi được biết đến vì sự khôn ngoan của nó
(Gie 49:7). Ê-li-pha đặt nền tảng cho những
lời nói của ông trên hai điều: những quan sát về đời sống (tôi đã sống Giop 4:8 5:3,27 NASB) và một
từng trải cá nhân đáng sợ mà ông đã có vào một đêm (4:12-21).
Ê-li-pha đặt niềm tin lớn nơi truyền thống (15:18-19).
Đức Chúa Trời mà ông thờ phượng là Đấng ban luật pháp cứng rắn. Ông hỏi: “Ai từng
bị hư mất mà vô tội?” (4:7) và vô số thánh
tuận đạo có lẽ đã trả lời: “Chúng tôi!” (Còn Chúa Giê-xu Christ của chúng ta
thì sao?) Ê-li-pha có một thuyết thần học nghiêm khắc chẳng dành một chút gì
hay chỗ nào cho ân điển của Đức Chúa Trời cả.
Binh-đát chắc là người lớn tuổi thứ hai trong số ba người bạn của
Gióp, vì ông được kể tên thứ nhì và nói sau Ê-li-pha. Thật ra, Binh-đát là
người theo chủ nghĩa luật pháp. Câu nói để đời của ông là “Kìa, Đức Chúa Trời
sẽ chẳng từ bỏ người trọn vẹn, Ngài cũng sẽ không giúp đỡ kẻ làm ác.” (8:20). Ông có thể trích dẫn những châm ngôn xưa,
và như Ê-li-pha, ông có sự tôn trọng đối với truyền thống. Vì lý do nào đó,
Binh-đát chắc rằng con cái của Gióp đã chết vì họ cũng là tội nhân (c.4). Người
này dường như không có cảm xúc gì đối với người bạn đang bị đau khổ, tổn thương
của mình.
Sê-pha là người nhỏ tuổi nhất trong số ba người bạn của Gióp và
chắc chắn đó là một người có tính độc đoán. Ông nói như một hiệu trưởng nói với
nhóm sinh viên năm thứ nhất ngu dốt: “Hãy biết điều này!” (11:6 20:4) là
cách mở đầu của ông không có chút tình cảm gì cả. Ông không có lòng thương xót
và cho Gióp biết rằng Đức Chúa Trời ban cho ông ít hơn những gì ông xứng đáng
nhận lãnh vì tội lỗi mình (11:6). Lời nói
chính của ông là “Hãy biết rõ rằng từ đời
xưa…thì sự thắng hơn của kẻ ác là ngắn ngủi và sự vui mừng của kẻ đạo đức giả
chỉ một lúc mà thôi” (20:4-5).
Một cách khá lý thú, Sê-pha nói với Gióp chỉ hai lần. Ông quyết định rằng ông
không thể trả lời những lý lẽ của Gióp hoặc cảm thấy lãng phí thời gian để tìm
cách giúp Gióp.
Cả ba người đều nói một số điều tốt
và đúng cùng với một số điều dại dột. Nhưng họ không giúp gì được cho Gióp vì
quan điểm của họ quá hẹp hòi. Thuyết thần học của họ không sống động và sôi
nổi, nhưng là chết cứng và nghiêm khắc, Đức Chúa Trời mà họ tìm cách bảo vệ
thật nhỏ bé đến nỗi người ta hiểu được Ngài và lý giải thích được điều thuộc về
Ngài. Những người này minh họa thật đầy đủ nhận định của Dorothy Sayer, rằng
“không có điều gì mà bạn không thể chứng minh được nếu bạn có cái nhìn quá hạn
hẹp.” Tại sao ba người là bạn bè nhưng lại nói như vậy với Gióp? Sao họ giận dữ
đến thế? Có sự ngụ ý về câu trả lời trong lời nói của Gióp: Giờ đây các bạn
cũng đã chứng minh mình không giúp được gì, vì các bạn thấy được điều gì đó
kinh khiếp và sợ hãi (6:21 NIV) Ba người sợ rằng những tai họa tương tự rồi đây cũng có
thể sẽ đến với họ! Vì vậy, họ
phải bảo vệ tiền đề cơ bản của họ rằng Đức Chúa Trời ban thưởng người công bình
và phạt kẻ ác. Hễ họ còn được“công bình” bâu lâu, thì không tai họa nào có thể
xảy ra với họ trong đời này.
Sợ hãi và giận dữ thường đi chung
với nhau. Bằng cách duy trì sự chính trực của mình và từ chối nói rằng mình đã
phạm tội, Gióp đã phá hủy thuyết thần học của các bạn ông, cướp đi sự bình an
và lòng tin quyết của họ. Điều này đã khiến họ giận dữ. Đức Chúa Trời dùng Gióp
phá hủy thuyết thần học nông cạn của họ và thách thức họ đi sâu hơn vào tấm
lòng và tâm trí của Đức Chúa Trời. Nhưng than ôi, họ lại ưa thích những điều
thiển cận và an toàn hơn là những điều sâu sắc và mầu nhiệm.
Ê-li-pha, Binh-đát và Sô-pha có
nhiều môn đồ ngày nay. Bất cứ khi nào bạn gặp một người đang cảm thấy bắt buộc
phải giải thích mọi điều, người ấy có câu trả lời thích hợp cho mỗi câu hỏi và
có công thức thích hợp để giải quyết mọi vấn đề, thì ấy là lúc bạn đang trở lại
đống tro với ba bạn của Gióp. Khi điều đó xảy ra, bạn hãy nhớ đến những lời của
nhà tâm lý học người Thụy Sĩ, Paul Tournier: “Chúng ta gần như luôn mong mỏi có
một tôn giáo đơn giản, dể hiểu và dễ theo, một tôn giáo không có bí ẩn, không
có những vấn đề không giải quyết được, không có trở ngại, một tôn giáo sẽ cho
phép chúng ta thoát khỏi truyền thống khốn khổ của con người chúng ta; một tôn
giáo trong đó sự tiếp xúc với Thượng Đế sẽ cách ly chúng ta ra khỏi mọi sự cãi
cọ, mọi sự lưỡng lự và mọi đau khổ cùng mọi nghi ngờ. Tóm lại, đó là một tôn
giáo không có thập tự giá.” (trích từ Reflections New York: Harper &
Row, 1976, trang142).
Chúng ta không biết ba bạn của Gióp
sẽ giải thích thập tự giá ra sao với hai môn đồ ở Em-ma-út ! (Lu 24:13).
Giờ đây chúng ta hãy lắng nghe hồi
thứ nhất của những lời nói.
Giop 1-26; xem giải nghĩa Giop 1:1-2:1-13
“Sa-tan
rất hài lòng với tất cả những gì dân Sê-ba và dân Canh-đê cùng những cơn gió
của nó từ đồng vắng thổi đến đã làm giúp nó, đồng thời, nó rất vội mừng với
những cách tiếp xúc cùng các sự công kích gây ra tranh cãi như thế của
Ê-li-pha,Sô-pha, Binh-đát và Ê-li-hu. Ôi! Sự cãi vã thường đưa đến tai họa thật
khó lường!”
(Alexander Whyte)
2. CUỘC THẢO LUẬN BẮT ĐẦU (Giop 4:1-7:21)
Ba người bạn đã yên lặng trong 7
ngày (Giop 2:13) và Gióp ước ao họ cứ như
vậy (13:5). “Bấy giờ, Ê-li-pha, người
Thê-man đáp lời (Gióp)” Nhưng ông ta trả lời điều gì? Về nỗi đau trong lòng
Gióp ư? Không, ông đáp lại những lời từ môi miệng Gióp; đây là một sai lầm. Một
cố vấn hoặc người yên ủi khôn ngoan phải lắng nghe bằng tấm lòng và đáp ứng
những xúc cảm cũng như những lời nói. Bạn đừng chữa lành một tấm lòng tan vỡ
bằng lô-gic học, nhưng hãy chữa lành bằng tình yêu. Vâng, bạn phải nói về lẽ
thật nhưng hãy chắc chắn nói lẽ thật trong tình yêu (Eph
4:15).
1. Sự quở trách của Ê-li-pha (Giop 4:1-5:27)
Ê-li-pha mở lời (Giop 4:1-4): Lời mở đầu của Ê-li-pha dường như bắt
đầu khá tích cực, thậm chí nhẹ nhàng, nhưng nó chỉ là sự ngọt ngào để chuẩn bị
sự cay đắng tiếp theo sau cho Gióp. Ê-li-pha hỏi: Nếu có ai dám nói một lời với
ông, ông sẽ kiên nhẫn chăng? (c.2 NIV).
“Đừng khó chịu, Gióp!”, ông đang
nói. “Trong quá khứ, những lời của ông là sự giúp đỡ cho nhiều người, và chúng
tôi muốn giờ thì chúng là sự giúp đỡ cho ông!”
Đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh
của lời nói làm khích lệ con người trong những cuộc chiến của đời sống. Jame
Moffatt dịch Giop 4:4 là “Các lời nói ông đã
giữ con người trên đôi chân của họ.” Những lời nói đúng đắn, được nói đúng lúc
và với động cơ đúng đắn có thể thực hiện một thay đổi lớn lao trong đời sống
người khác. Lời nói của bạn có thể nuôi dưỡng những người yếu đuối và khích lệ
những người thất bại. Nhưng lời nói của bạn cũng có thể làm tổn thương những
người suy kiệt và thêm vào gánh nặng của họ mà thôi,
vì vậy hãy cẩn thận điều và cách bạn nói.
Ê-li-pha tố cáo (Giop 4:5-11): Sau đó Ê-li-pha đi vào lời tố cáo của mình. Rằng, Gióp có
thể “ban cho” nhưng ông không thể “nhận lãnh”! Ông có thể cho người khác biết
cách giải quyết những thử thách của họ, nhưng khi thử thách đến với đời sống
ông, ông không thể thực hành điều ông đã giảng dạy. Ê-li-pha hỏi: Sự tôn kính
của ông há chẳng phải là sự tin quyết của ông sao? Sự chính trực về những việc
làm của ông chẳng phải hy vọng của ông sao?” (Giop
4:6 NKJV). Ê-li-pha lý luận, nếu Gióp
sống đời tin kính, vậy ông có gì để sợ hãi, vì Đức Chúa Trời luôn luôn chúc phước người công bình và xét
đoán kẻ gian ác.
Đây là tiền đề cơ bản của ba người
bạn: Hãy làm điều gì ngay thẳng, mọi việc sẽ tốt đẹp đối với bạn. Còn nếu làm
điều gì sai trái, thì Đức Chúa Trời sẽ giáng sự xét đoán. Sự xét đoán đó đôi
khi có thể từ từ, giống như sự đến của một cơn bão hoặc sự tấn công của sư tử
(c.9-11). Nhưng bạn có thể chắc chắc rằng sự xét đoán đó sẽ đến, vì Đức Chúa Trời
là quan án công bình.
Đa số người ta sẽ đồng ý rằng cuối cùng Đức Chúa Trời chúc phước người công
bình, cho dân sự của Ngài và xét đoán kẻ ác. Nhưng đó không phải là vấn đề được
bàn luận trong sách Gióp. Không phải là cuối
cùng mà là ngay lập tức về
điều mà Gióp và ba bạn ông quan tâm, không chỉ là họ mà còn đối với cả Đa-vít,
A-sáp (Thi 37:1-40 73:1-25)
và tiên tri Giê-rê-mi cũng thế (Gie 12:1-6).
Ê-li-pha lý luận (Giop 4:12-5:17): Ê-li-pha trình
bày hai lý lẽ để chứng minh quan điểm của ông: kinh nghiệm (4:12-21), và sự quan sát (5:1-7).
Lý lẽ thư nhất dựa trên một kinh nghiệm kỳ quặc mà ông đã trải qua vào một đêm
nọ khi ông thấy “dị tượng” và nghe tiếng nói. Hai câu hỏi phải được trả lời:
Nội dung của sứ điệp là gì, phải chăng sứ điệp này là một mặc khải trực tiếp từ
Đức Chúa Trời?
Vì không có những dấu chấm câu trong
những cổ bản Hê-bơ-rơ của Cựu Ước, nên chúng ta luôn không biết chắc những
trích dẫn mở đầu và kết thúc ở đâu. Đa số các bản dịch tiếng Anh đều đánh giá 4:17-21 là nhận định đầy đủ về “linh hồn”, nhưng
một số sinh viên cảm thấy nhận định này được giới hạn đến câu 17, phần còn lại
là sự bình luận của Ê-li-pha. Cả hai phương diện, đó là một sứ điệp giống nhau:
đời người ngắn ngủi và tạm bợ, ông không bao giờ có thể tự mình trở nên đủ công
bình để làm đẹp lòng Đức Chúa Trời được.
Nhưng phải chăng nhận định này là một mặc khải trực tiếp từ Đức Chúa Trời?
Có lẽ không phải vậy, cả từng trải dường như không phù hợp với kiểu mẫu của Đức
Chúa Trời về việc bày tỏ lẽ thật. Ở một phương diện nào đó, nó thiếu quyền của
“Lời Đức Chúa Trời đến với tôi phán rằng” hoặc “Chúa phán như vậy”. Đức Chúa
Trời thường không “trốn tránh” con người và làm họ kinh hãi. Chúng ta không
biết chắc, nhưng có thể Ê-li-pha đã có giấc chiêm bao, suy gẫm về nó, dần dần
biến nó thành mặc khải.
Một điều chắc chắn là:
Ê-li-pha không cho biết cả câu chuyện về Đức Chúa Trời và loài người. Vâng,
loài người sống trong ngôi nhà bằng đất sét mà cuối cùng sẽ trở về với bụi đất,
đời người có thể bị gạt bỏ giống như đập một con bướm hoặc giật sập một căn
lều. Nhưng loài người đã được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời, và Đấng
dựng nên con người là Đức Chúa Trời của ân điển và sự thương xót, cũng là Đức
Chúa Trời của sự công bình.
Lý lẽ thứ hai của
Ê-li-pha dựa trên những quan sát cá nhân ông về đời sống (5:1-7). Ông đã thấy
những kẻ có tội thịnh vượng và châm rễ, nhưng rồi cuối cùng chỉ để bị hủy hoại
và tiêu biến đi mà thôi. Đây là sự mô tả không tế nhị cho lắm về hoàn cảnh của
Gióp. Chắc chắn nó đã làm tổn thương Gióp sâu sắc khi ông nghe rằng chính tội
lỗi của ông đã khiến con cái ông bị giết. Nhưng trong Thi thiên 73, A-sáp có
quan điểm hoàn toàn khác. Ông kết luận rằng Đức Chúa Trời cho phép kẻ ác thịnh
vượng trong đời này vì đó là “thiên đàng” duy nhất mà họ sẽ biết. Đức Chúa Trời
sẽ điều chỉnh mọi sự trong đời sau và bảo đảm rằng dân sự Ngài được ban thưởng
và kẻ ác bị trừng phạt. Vấn đề lý luận ở đây từ sự quan sát là, những quan sát
của chúng ta hết sức giới hạn. Hơn nữa, chúng ta không thể nhìn thấy lòng người
như Đức Chúa Trời thấy và xác định ai công bình trước mặt Ngài. Một số tội nhân
chịu sự xét đoán hầu như tức thời, trong khi những người khác trải qua đời sống
của họ trong sự thịnh vượng và chết trong sự bình an (Tr
8:10-14).Hoạn nạn không nẩy sinh từ đất như hạt giống. Nó là một phần sự
ra đời của con người, vì con người được sinh ra vốn đã là tội nhân (Giop 5:6-7). Ê-li-pha kết luận, nếu Gióp bị hoạn
nạn là do chính ông gây nên vì ông phạm tội nghịch với Đức Chúa Trời. Vì vậy,
Gióp phải ăn năn tội lỗi và cầu xin sự tha thứ của Đức Chúa Trời.
Ê-li-pha kêu gọi (Giop 5:8-17): Ê-li-pha kêu gọi Gióp hãy tìm kiếm Đức Chúa Trời và dâng mình cho
Ngài. Đức Chúa Trời là Đấng thường làm những sự lạ lùng và quan tâm tạo vật của
Ngài chắc chắn sẽ giúp đỡ ông, nếu ông hạ mình xưng nhận tội lỗi mình. Gióp
phải nhìn thấy những thử thách của ông như kỷ luật đến từ Đức Chúa Trời để
khiến ông trở nên người tốt hơn (c.17-18), một chủ đề mà sau đó sẽ được Ê-li-hu
xét đến. Chắn là Gióp đang trong bộ dạng rất tồi tệ đối với Đức Chúa Trời đến
nỗi Chúa phải cất đi của cải, gia đình và sức khỏe của ông hầu làm cho ông được
ngay thẳng! Và kỷ luật chẳng phải là một công cụ của tình yêu Đức Chúa Trời
sao?
Ê-li-pha xác tín (Giop 5:17-27): Ê-li-pha kết
thúc bài nói chuyện của ông bằng những lời xác tín. Chính Đức Chúa Trời là Đấng
làm cho thương tích cũng sẽ chữa lành (Phu 32:39
Os 6:1-2). Ngài sẽ giải cứu bạn khỏi hoạn
nạn, cứu bạn khỏi kẻ thù, ban cho bạn một đời sống trường thọ và hạnh phúc cùng
sự chết bình an. “Chúng tôi đã xem xét điều này, và nó đúng. Vậy hãy nghe và áp
dụng nó cho mình” (Giop 5:27 NIV). Nhưng đây là thuyết thần học của Sa-tan được nói bằng
những lời khác! “Gióp há kính sợ
Đức Chúa Trời luống công sao? …Lấy da đền da! Vâng, mọi điều một người có,
người ấy sẽ trao thế cho mạng sống mình” (Giop 1:9 2:4 NKJV). Ê-li-pha yêu cầu Gióp thực hiện một mặc cả với Đức
Chúa Trời. Hãy xưng tội lỗi ông và Đức Chúa Trời sẽ phục hồi mọi điều ông đã
mất. Nếu Gióp làm vậy, điều đó sẽ sỉ nhục Đức Giê-hô-va và bênh vực cho Sa-tan,
và Gióp đã không làm như vậy!
Giop 5:1-27; xem giải nghĩa Giop 4:1-21
2. Sự đáp lời của Gióp (Giop 6:1-7:21)
Gióp đã đáp lời bằng hai
yêu cầu tha thiết. Thứ nhất, ông yêu cầu ba bạn rằng họ có thể bày tỏ sự hiểu
biết và cảm thông hơn (chương 6). Sau đó, ông kêu cầu Đức Chúa Trời xin Ngài
xem xét nghịch cảnh của ông và làm sáng tỏ những sự chịu khổ của ông trước khi
ông chết (chương 7).
Yêu cầu của Gióp đối
với các bạn ông (Giop 6:1-30): Cho đến
giờ, chỉ có Ê-li-pha nói, nhưng Gióp có thể cho biết rằng Binh-đát và Sô-pha đã
đồng ý với Ê-li-pha. Không một người bạn nào trong số họ đồng cảm với điều Gióp
trải qua về mặt thuộc thể và xúc cảm. Việc họ ngồi cùng nơi ông đang ngồi là
một chuyện, nhưng việc họ có cảm nhận điều ông đang cảm nhận hay không lại là
một chuyện hoàn toàn khác (Exe 3:15). Một đứa trẻ biết định nghĩa “sự cảm thông” là “nỗi đau của
bạn trong lòng tôi”, tính ra nó còn biết bày tỏ sự an ủi nhiều hơn ba người này
là đằng khác.
Trước hết, họ không cảm
nhận được sự
nặng nề về hoạn nạn của ông (Giop 6:1-3),
chẳng có gì phải ngạc nhiên khi nghe Gióp nói năng hằn học như thế! Các bạn của
ông chắc cũng sẽ nói năng giống y vậy nếu họ mang gánh nặng mà ông đã mang.
Gióp đã không có sự mặc khải đầy đủ về thiên đàng mà tín hữu ngày nay có, vì
vậy ông cảm thấy tương lai mình mờ mịt. Chúng ta có thể đọc IICo 4:16-18 và ghi vào lòng.
Các bạn ông cũng không hiểu được sự cay đắng về hoạn nạn của ông (Giop 6:4-7). Gióp cảm thấy ông như một mục tiêu mà
tại đó Đức Chúa Trời đang nhắm tới và bắn những mũi tên độc vào, và chất độc
đang làm cho linh hồn Gióp cay đắng. Rằng Đức Chúa Trời đã cho quân đội Ngài
dàn trận chỉ để nhắm bắn vào một người yếu đuối. Và các bạn của Gióp đang châm
thêm chất độc vào ông. Điều mà Gióp cần là những lời khích lệ nuôi dưỡng linh
hồn ông và ban cho ông sức lực, nhưng tất cả những gì các bạn hữu ông đã nuôi
dưỡng ông là những lời vô ích và nhạt nhẽo. Nếu lời than vãn của ông nghe như
tiếng kêu của con lừa hay tiếng rống của con bò, thì đó là vì giống như một con
vật đói khát, ông đang đói khát tình yêu và sự đồng cảm.
Gióp tìm cách làm cho họ cảm nhận
được sự tuyệt vọng về hoàn cảnh của ông (c.8-13). Hoạn nạn kéo dài và căng thẳng
có thể khiến một người cảm thấy bất lực không giải quyết nổi những vấn đề trong
đời sống, và điều này có thể dẫn đến tuyệt vọng. Nếu bạn không thể điều khiển
một số yếu tố tạo nên đời sống, làm sao bạn có thể hoạch định cho tương lai.
Gióp hỏi: “Sức lực nào tôi có, để tôi vẫn phải hy vọng? Có triển vọng nào để
tôi phải kiên nhẫn” (6:11 NIV). Nói cách khác: “Tôi đang chờ đợi điều gì? Cuộc sống
đang trở nên tồi tệ hơn!”.
Sự tuyệt vọng có thể dẫn
đến một cảm giác về sự vô dụng, và khi bạn cảm thấy vô dụng, bạn sẽ không muốn
sống nữa. Điều này giải thích lý do tại sao Gióp lại muốn Đức Chúa Trời cất
mạng sống của ông đi (Giop
3:20-23 6:8-9 7:15-16 10:18-19 14:13). Gióp không tự mình cố gắng làm điều này,
vì ông biết rằng tự sát là sai, nhưng ông cầu nguyện để Đức Chúa Trời có thể
cất ông ra khỏi sự khốn khổ của mình. Các bạn Gióp khỏe mạnh và đang sống thoải
mái dễ chịu nên họ không cảm biết được gánh nặng về việc mỗi buổi sáng thức dậy
trong sự chịu đựng đau khổ hết ngày này sang ngày khác như vậy. Sức mạnh của
Gióp đã mất và ông cảm thấy mình thật vô dụng (Giop
6:12-13).
Một cách can đảm, Gióp
đã chỉ ra sự vô hiệu về việc giúp đỡ của họ đối với ông (c.14-30). Họ đã không
có lòng thương cảm hoặc tìm cách đáp ứng được những
nhu cầu của ông. Họ giống như một con suối cạn trong sa mạc làm nản lòng những
lữ khách khát nước. Họ là “bạn” trong lúc ông thịnh vượng, nhưng khi hoạn nạn
đến, họ trở nghịch lại ông.
Gióp đưa ra hai yêu cầu
cho các bạn ông: “Hãy dạy dỗ tôi” (c.24) và “hãy ngó tôi” (c.28). Ông không cần
lời tố cáo, ông cần sự khai trí! Nhưng họ thậm chí không ngó mặt ông và nhìn
xem nghịch cảnh của ông. Về mặt thuộc thể, ba người đang ngồi với Gióp trên
đống tro, nhưng về mặt xúc cảm, họ giống như thầy tế lễ và người Lê-vi đang đi
ngang qua “phía bên kia” của ông mà.
Sự cầu xin của Gióp
trước Chúa (Giop 7:1-21):
Gióp đã sử dụng nhiều bức tranh sống động để mô tả sự phù phiếm của đời sống.
Ông cảm thấy giống như một người đàn ông bị gọi nhập ngũ trái với ý muốn (c.1
a, “thời gian bổ nhiệm” (KJV), giống như một người làm công (c.1b), hoặc một
người làm mướn chờ đợi tiền lương công nhật của mình (c.2). Ít nhất những người
này còn có điều gì đó để mong đợi, nhưng tương lai của Gióp thì vô vọng. Những
đêm ông bị mất ngủ, những ngày của ông trở nên vô bổ, phù phiếm (Phu 28:67) và Chúa dường
như không quan tâm.Sau đó ông tập trung vào sự
ngắn ngủi của đời sống. Thời gian trôi qua nhanh chóng, vì vậy, nếu Đức
Chúa Trời sắp làm điều gì, thì xin Ngài nên gấp rút! Đời sống của Gióp giống
như con thoi của thợ dệt (Giop 7:6), di
chuyển nhanh chóng với cuộn chỉ sắp hết. (Nhóm từ “cắt đứt tôi” trong 6:9 nghĩa là “cắt sự đan dệt khỏi khung cửi”, (Es 38:12). Đời sống giống như sự dệt vải, và Đức
Chúa Trời nhìn thấy toàn bộ kiểu mẫu và khi nào công việc được hoàn tất.Gióp
cũng nhìn thấy đời sống ông như hơi thở hoặc một đám mây, còn đây một thời gian
ngắn và rồi ra đi mãi mãi, không bao giờ trở lại (Giop
7:7-10 Gia 4:14). Đức Chúa Trời đang
đối xử với ông như đối với một quái vật nguy hiểm phải được canh chừng từng
phút (Giop 7:11-12). Chẳng ngạc nhiên gì khi
Gióp cay đắng với Đức Chúa Trời vì ông thấy Ngài luôn canh giữ ông. Việc Gióp
đề cập đến “Yam” (biển) và “Tammin” (cá voi), hai nhân vật thần thoại,
không có nghĩa là ông đang bày tỏ sự tán thành của mình đối với những sự dạy dỗ về các chuyện thần thoại Đông phương. Ông dùng hai nhân
vật nổi tiếng này chỉ để minh họa quan điểm của mình. Gióp không cách nào có
thể thoát khỏi Đức Chúa Trời, Đấng canh giữ loài người (c.20 NIV, NKJV). Nếu
Gióp đi ngủ, Đức Chúa Trời làm cho ông sợ hãi trong những giấc chiêm bao. Nếu
ông thức dậy, ông biết mắt Đức Chúa Trời dõi theo ông (10:14 13:27 31:4). Thậm chí việc ông nuốt nước bọt Đức Chúa
Trời cũng biết, vì sao Đức Chúa Trời lại thích chú ý quá nhiều vào một người
như thế? (Giop 7:17-18 Thi 8:4).Gióp kết thúc sự kêu cầu của ông bằng một
lời cầu xin tha thứ (Giop 7:20-21). “Nếu tôi
đã phạm tội, vậy xin hãy tha thứ cho tôi. Vì sao tôi
phải là một gánh nặng cho Chúa và cho chính tôi? Thời gian đang bay đi nhanh
chóng, vậy chúng ta hãy giải quyết mọi việc càng sớm càng tốt!” Đó không phải
là sự xưng tội, vì Gióp vẫn bảo vệ sự chính trực của mình, nhưng đó là cơ hội
để Đức Chúa Trời giải quyết những lãnh vực trong đời sống Gióp mà ông chẳng
biết đến (Thi 19:12-14).
Sau đó Gióp yên lặng. Ông đã trút
nỗi đau cùng sự thất vọng và yêu cầu các bạn sự thông hiểu và khích lệ. Liệu
ông sẽ nhận được điều đó chăng?
Chúng ta hãy tiếp tục lắng nghe Binh-đát
người Su-a trình bày một diễn thuyết thần học ngắn gọn về sự công bình của Đức
Chúa Trời.
Giop 7:1-21; xem giải nghĩa Giop 4:1-6:21
“Bạn
có thể là một tín đồ chính thống tương tự như ma quỉ và kẻ ác”.
(John Wesley)
3. CUỘC THẢO LUẬN TIẾP TỤC (Giop 8:1-10:22)
Khi cuộc thảo luận bắt
đầu, Binh-đát trình bày ba lý lẽ hợp lô-gic để chứng minh Gióp có tội. Và Gióp
phản đối bằng ba câu hỏi đau khổ để giúp các bạn ông có thể hiểu ông đang bối
rối và day dứt ra sao.
1. Ba lý lẽ lô-gic (Giop 8:1-22)
“Những lời của ông là cơn gió bão” (8:2 NIV). Bạn có thể tưởng tượng một nhà tư vấn
nói như thế với một cá nhân đau khổ và đang muốn chết? Binh-đát đã nói vậy,
thật ra ông đã sử dụng cùng một phương cách trong lần nói kế tiếp của mình (18:2). Gióp trút sự đau khổ của ông và chờ đợi sự
thông cảm, nhưng bạn ông đã nói rằng lời nói của Gióp chỉ là không khí quá nóng
mà thôi.
Có một lý do cho sự mở đầu của
Binh-đát: ông quá quan tâm về việc bảo vệ sự công bình của Đức Chúa Trời đến
nỗi ông quên những nhu cầu của bạn mình. “Đức Chúa Trời há phá vỡ sự xét đoán
ư? Hay Đấng Toàn Năng há phá vỡ sự công bình sao?” (8:3
NKJV). Binh-đát đã giảng một bài về sự công bình của Đức Chúa Trời, lời nói của
ông được lấy từ “mặc khải” của Ê-li-pha: “Loài người hay chết há công bình hơn
Đức Chúa Trời ư?” (4:17). Để bảo vệ sự công bình của Đức Chúa Trời, Binh-đát đã trình
bày 3 lý lẽ lô-gic.
Tính cách của Đức Chúa
Trời (Giop 8:1-7): Điều làm
Binh-đát tức giận đó là Gióp nghĩ rằng Đức Chúa Trời sẽ làm điều gì đó sai
trái. Lẽ nào Gióp quên điều Đức Chúa Trời đã làm cho tội nhân tại Cơn Nước Lụt,
hoặc điều Ngài đã làm cho Sô-đôm và Gô-mô-rơ? Ngài không phải là Đức Chúa Trời
thánh khiết, và chính bản chất Ngài không đòi hỏi Ngài làm điều đúng sao? Gióp
đang báng bổ Đức Chúa Trời bằng cách nghi vấn Ngài và tố cáo Ngài về việc làm
sai trái. Mặc dù thuyết thần học của Binh-đát là đúng Đức Chúa Trời công bình
nhưng sự ứng dụng của ông về thuyết thần học ấy là sai. Binh-đát chỉ nhìn vào
một khía cạnh bản chất của Đức Chúa Trời Sự thánh khiết và sự công bình của
Ngài và quên đi tình yêu, sự thương xót và sự nhân từ của Ngài. Vâng, “Đức Chúa Trời là sự sáng” (IGi 1:5), nhưng đừng quên rằng “Đức Chúa Trời là sự yêu thương” (IGi 4:8,16). Tình yêu của Ngài là tình yêu thánh khiết, và
sự thánh khiết của Ngài được thể hiện trong tình yêu, ngay cả khi Ngài xét đoán
tội lỗi.
Hai thuộc tính này của Đức Chúa Trời
được điều hòa ra sao? Tại thập tự giá! Khi Chúa Giê-xu chịu chết vì tội lỗi của
thế gian, sự công bình của Đức Chúa Trời được chứng minh, vì tội lỗi đã bị xét
đoán. Nhưng tình yêu của Đức Chúa Trời được bày tỏ, vì một Cứu Chúa đã được ban
cho. Tại đồi Gô-gô-tha, Đức Chúa Trời vừa là “công bình và là Đấng xưng công
bình” (Ro 3:24-26). Luật pháp Đức Chúa Trời
đã tuyên bố “linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết” (Exe
18:4,20
NKJV). Và Đức Chúa Trời đã tuân theo luật pháp của chính Ngài trong việc hy
sinh Con Ngài trên thập tự giá. Qua sự sống lại của Đấng Christ, ân điển của
Đức Chúa Trời đắc thắng tội lỗi và sự chết, tất cả những ai ăn năn tội lỗi mình
và tin Chúa Giê-xu Christ đều sẽ được cứu.
Trong thời Cựu Ước, những tín đồ
trông đợi thập tự giá và được cứu bởi đức tin nơi một Cứu Chúa chưa đến (Gi 8:56 Ro 3:25
He 11:1-40). Gióp là một tín đồ, vì vậy, tội
lỗi ông đã được Đức Chúa Trời giải quyết. Cho dù Gióp đã phạm tội với Đức Chúa
Trời trong việc lớn nào đó, Đức Chúa Trời sẽ đối xử với con cái Ngài trên cơ sở
của ân điển và sự thương xót chứ không phải sự công bình. Khi chúng ta xưng
nhận tội lỗi mình, Đức Chúa Trời tha thứ chúng ta vì Ngài thành tín đối với lời
hứa của Ngài và công bình đối với Con Ngài, Đấng đã chết cho những tội lỗi đó (IGi 1:9).
Chắc hẳn Gióp rất là đau đớn khi
nghe Binh-đát bảo con cái Gióp đã chết vì họ phạm tội (8:4).
Binh-đát tưởng rằng ông đang khích lệ Gióp: Có lẽ chúng không bị chết vì tội
lỗi của ông
nhưng vì chính tội lỗi của chúng. Giờ đây chúng không thể thay đổi điều
gì, nhưng ông có thể, vậy đừng chần chờ quá lâu!
Sự yêu cầu của Binh-đát trong câu
5-7 là sự lặp lại cách khác về thuyết thần học của Sa-tan. “Ông nói mình không
phạm tội, vậy hãy cầu xin Đức Chúa Trời phục hồi sự thịnh vượng của ông. Nếu
ông ngay thẳng trước mặt Đức Chúa Trời, Ngài sẽ làm những việc lớn cho ông. Sự
thịnh vượng không tốt hơn sự đau khổ sao?” Binh-đát không nhận ra rằng những
lời ông vừa nói sẽ trở thành sự thật, và kết cuộc về sau của Gióp sẽ vĩ đại hơn
lúc khởi đầu của Gióp. Tuy nhiên, Gióp sẽ đi đến bước cầu nguyện, không phải
cho chính ông, nhưng cho Binh-đát và những người bạn kia vì họ đã nói không đúng về Đức Chúa Trời (Giop 42:7-13).
Sự khôn ngoan của quá
khứ (8:8-10): Ê-li-pha đặt cơ
sở cho suy nghĩ của mình dựa trên sự quan sát và kinh nghiệm, nhưng Binh-đát là
người theo chủ nghĩa truyền thống tìm kiếm sự khôn
ngoan của quá khứ. “Tổ tiên nói gì về điều đó?” Là câu hỏi chính của ông. Chắc
chắn, chúng ta ngày nay có thể học từ quá khứ. George Santayana đã viết: “Những
ai không nhớ quá khứ đều bị lên án đã làm sống lại nó.” Nhưng quá khứ phải là một
bánh lái hướng dẫn chúng ta chứ không phải là một cái neo giữ chúng ta lại.
Triết gia Alfred North Whitehead đã nói: “Cách quá khứ tàn lụi là cách tương
lai hình thành.” Sự kiện mà điều gì đó được nói hoặc được viết hằng năm trước
không đảm bảo điều đó đúng. Là một người thích đọc những tác phẩm cổ điển, tôi
có ấn tượng với việc chúng chứa đựng quá nhiều sự điên rồ cũng như sự khôn
ngoan và chúng thường mâu thuẫn với nhau. Tiến sĩ Robert Hutchins, chủ bút của
tác phẩm “The Great Books of the Western World” đã viết trong lời mở đầu của ông: “Trong một
cuộc đàm thoại đã trôi qua 25 thế kỷ, mọi giáo điều và quan điểm đều xuất hiện.
Đây là những sai lầm lớn mà cũng là những chân lý tuyệt vời.” “Truyền thống” và
“chủ nghĩa truyền thống” là hai điều khác nhau. Sử gia Jeroslav Pelikan trình
bày sự khác biệt này một cách chính xác khi ông nói: “Truyền thống là đức tin
sống của người chết, chủ nghĩa truyền thống là đức tin chết của người sống.”
Đối với Binh-đát, quá khứ là một bãi đậu xe, nhưng Đức Chúa Trời muốn quá khứ
là một bệ phóng. Chúng ta đứng cùng
người xưa để chúng ta có thể bước đi với họ và tiến về những mục tiêu phía
trước mà chúng ta đang tìm kiếm. Điều này kể đến sự hiểu biết của chúng ta về
Đức Chúa Trời cũng như sự hiểu biết của chúng ta về con người và thế giới. Như
John Robinson đã nói với những những tín đồ Thanh Giáo (The Pilgrim Fathers)
khi họ đi đến thế giới mới: “Chúa có thêm lẽ thật để đột phá từ Lời Thánh của
Ngài.”
Binh-đát đã không trích
dẫn từ người xưa, ông biết rằng Gióp đã quen thuộc với quá khứ như ông. Nhưng
Binh-đát nói rõ rằng ông tôn trọng sự khôn ngoan của người xưa hơn những sự dạy
dỗ của những người cùng thời ông. Sự khôn ngoan được tích lũy qua bao thời đại
nhất định có giá trị hơn những lời của người “mới ra đời hôm qua.” Đời sống quá
ngắn ngủi để chúng ta học mọi điều họ có thể dạy chúng ta. Chúng ta là những
chiếc bóng thoáng qua, vì vậy chúng ta nên học sự khôn ngoan trong khi chúng ta
có cơ hội.
Chứng cớ trong thiên
nhiên (Giop 8:11-22):
Trong “bài thơ về sự khôn ngoan” này, Binh-đát có thể tóm tắt một số câu nói
của người xưa khi ông lý luận từ định luật về “nhân quả.” Nếu định luật này áp
dụng trong thiên nhiên, vậy tại sao lại không áp dụng trong đời sống con người?
Hãy lấy cây cói giấy làm ví dụ: Nếu
nó không có nước, nó sẽ khô héo rồi chết (c.11-13). Gióp đang khô héo và sắp
chết, vì vậy, phải có một nguyên nhân, rằng ông là kẻ giả hình, và hy vọng của
ông sẽ bị mất.
Binh-đát sau đó đi từ cây cỏ đến
loài nhện (c.14-15). Bạn có thể dựa vào mạng nhện và
được giữ an toàn không? Dĩ nhiên là không! Cho dù bạn tin tưởng ra sao, mạng
nhện vẫn sẽ rách. Sự tin tưởng của Gióp giống như thế: Đến kỳ, nó sẽ rách, và
ông sẽ ngã.
Ví dụ thứ ba đến từ khu
vườn: Nếu bạn nhổ một cây, cho dù nó có thể sum suê ra sao, thì cuối cùng nó
cũng sẽ chết (c.16-22). Điều gì đó đã xảy ra với “hệ thống gốc” của Gióp, và
ông đang tàn dần. Như vậy, tội lỗi là nguyên nhân, không ai nhổ một cây tốt và
phá hủy nó, vì vậy phải có cái gì đó sai trái với Gióp để Đức Chúa Trời nhổ gốc
ông như vậy. Đức Chúa Trời không chăm bón cỏ dại và ném bỏ cây tốt bao giờ!
Binh-đát khẳng định lại lời hứa hẹn trước đó của ông, rằng Đức Chúa Trời sẽ
phục hồi vận số của Gióp nếu ông chỉ thừa nhận tội lỗi mình và ngay thẳng với
Đức Chúa Trời. Đó lại thêm một lần nữa lời của ma quỉ được lặp lại!
2. Ba câu hỏi thật chua xót (Giop 9:1-35)
Từ thời điểm này, sự
nhấn mạnh trong cuộc bàn luận là về sự công bình của Đức Chúa Trời, và hình ảnh
quan trọng nhất trong tâm trí Gióp là hình ảnh về cuộc
xét xử hợp pháp. Ông muốn đem Đức Chúa Trời đến tòa án và có cơ hội
để chứng minh sự chính trực của mình. Hãy liếc qua
một số từ vựng biểu lộ điều này:
-Tranh biện (9:3
10:2)
-Bước vào sự kiện tụng -Đáp lời (9:3,16)
-Làm chứng tại tòa- Quan tòa (9:15)
-Một đối thủ về luật
pháp, nguyên cáo.- Định giờ (9:19)
-Gọi đến tòa- Người phân xử (9:33)
-Trọng tài, quan tòa-Biện luận
(13:3)
-Biện hộ một vụ kiện- Sắp đặt duyên cớ ta (9:18)
-Chuẩn bị vụ kiện của ta
-Bào chữa (9:19 23:6)
-Tranh tài trong tòa- Nghe tôi (31:35)
-Cho tôi một cuộc xử
kiện hợp pháp Kẻ cừu địch (9:35)
-Kẻ tố cáo tại tòa
Trong Gióp chương 9 và 10, Gióp đặt
ba câu hỏi: (1) “Làm sao tôi có thể công bình trước mặt Đức Chúa Trời?” (9:1-13), (2) Làm sao tôi có thể gặp Đức Chúa Trời
tại tòa? (9:14-35) và (3) Vì sao tôi được
sinh ra? (10:1-22). Bạn có thể thấy những
câu hỏi này có liên hệ với nhau ra sao. Gióp công bình, nhưng ông phải chứng
minh điều đó. Làm sao một người hay chết có thể chứng minh được mình công bình
trước mặt Đức Chúa Trời? Làm sao ông có thể đưa Đức
Chúa Trời đến tòa? Nhưng nếu Đức Chúa Trời không bước vào và làm chứng thay
Gióp, thì đâu là mục đích của mọi sự đau khổ này? Tại sao Gióp được sinh ra?
“Làm sao tôi có thể công bình trước mặt Đức
Chúa Trời?” (Giop 9:1-13): Đây
không phải là câu hỏi về sự cứu rỗi (“Làm sao tôi có thể được xưng công bình?”)
nhưng về sự chứng minh (“Làm sao tôi có thể được tuyên bố là vô tội?”). Nếu một
người tìm cách đưa Đức Chúa Trời đến tòa, người ấy sẽ không thể trả lời những
câu hỏi của Đức Chúa Trời một lần trong ngàn lần! Nhưng Gióp không còn biết
cách nào khác để thanh minh ông trước các bạn của ông.
Hầu hết phân đoạn này là một sự
tuyên bố tập trung về những thuộc tính của Đức Chúa Trời, đặc biệt là sự khôn
ngoan và quyền năng vô song của Ngài điều khiển trái đất và các từng trời. Liệu
có ai dám đến tòa với một đối thủ mạnh mẽ đủ để làm rung chuyển trái đất, làm
ra các vì sao, và bước đi trên các lượn sóng? (Es
44:24 Am 4:13). Nhưng Đức Chúa Trời
không chỉ vô song, mà Ngài còn vô hình. Gióp đã không thể nhìn thấy Ngài hoặc
ngăn trở ông đưa ra cho Ngài những lần mời gọi đến tòa. Đức Chúa Trời có thể
làm bất cứ điều gì Ngài muốn, và không ai có thể hỏi Ngài! Thậm chí quái vật Ra-háp (Giop 9:13
NIV), sinh vật huyền thoại khác, giống như Yam và Tammin,
7:12) cũng phải quì xuống trước quyền năng của Đức Chúa Trời.
“Làm sao tôi có thể gặp Đức Chúa Trời tại tòa?” (Giop
9:14-35): Để chứng minh mình công bình, Gióp đã phải đưa Đức Chúa Trời
đến tòa. Nhưng giả sử Đức Chúa Trời chấp nhận lời
mời, Gióp sẽ nói hoặc làm gì? Ông bàn luận điều này bằng cách hình dung ra
nhiều hoàn cảnh.
(1) “Nếu Đức Chúa Trời đến, tôi sẽ nói gì?” (c.14-19): Làm sao Gióp có thể trả lời sự thẩm
vấn của Đức Chúa Trời? Làm sao một người có thể cãi lẽ nổi với Đức Chúa Trời
hoặc trình bày duyên cớ mình trước Đức Chúa Trời? Nếu Đức Chúa Trời trả lời,
Gióp sẽ không tin đó thật sự là tiếng của Ngài. Và nếu Gióp nói điều sai trái,
Đức Chúa Trời chỉ càng làm ông khổ sở hơn. Cuối cùng khi Gióp đã gặp Đức Chúa
Trời (chương 38-41), Chúa hỏi ông 77 câu hỏi. Và Gióp đã không thể trả lời được
dù chỉ một câu! Đáp ứng duy nhất của ông là thừa nhận sự ngu dốt của mình và
ngậm miệng trong yên lặng.
(2) “Nếu tôi có thể tuyên bố sự vô tội của mình thì
sao?” (c.20-24): Không có gì
chắc chắn rằng Đức Chúa Trời sẽ giải thoát Gióp. Cả Ê-li-pha và Binh-đát đã
tuyên bố Đức Chúa Trời ban thưởng cho người công bình và xét đoán kẻ ác, nhưng
Gióp bảo đôi khi Đức Chúa Trời tiêu diệt người công bình lẫn với kẻ ác. Những
quan tòa gian ác thường kết án người công bình và giúp đỡ kẻ bất kính, và Đức
Chúa Trời rõ ràng chẳng làm gì về điều đó. Gióp đang tố cáo Đức Chúa Trời về sự
bất công không chỉ đối với Gióp và gia đình ông mà còn đối với những người vô
tội khác trong xứ.
(3) “Nếu tôi cố gắng vui mừng, điều đó sẽ có lợi
gì?” (c.25-31): Thời gian
sắp hết đối với Gióp, giống như những sứ giả của vua vội vàng đến nơi của họ,
như những chiếc thuyền nan ở Ê-díp-tô lướt nhanh trên sông, và như chim ưng từ
trời nhìn xuống. Có lẽ Gióp phải có một thái độ tích cực hơn đối với những tai
họa của ông, quên sự đau đớn của ông và mỉm cười (c.27). Nhưng điều đó sẽ thay
đổi gì chăng? Không! Ông sẽ vẫn có tội trước mặt Đức Chúa Trời, bị bạn hữu chối
bỏ, và ngồi trên đống tro trong sự bệnh hoạn và đau đớn. Thậm chí nếu ông tắm
rửa và thay quần áo như một hành động của sự ăn năn và tẩy uế công khai, ông sẽ
vẫn sợ hãi điều Đức Chúa Trời có thể làm. Gióp tin rằng Đức Chúa Trời chống lại
ông và bất cứ bước nào ông đi trên đất cũng sẽ bị vô hiệu hóa ở trên trời. Bị
cáo có thể mỉm cười và mang bề ngoài can đảm ở tại tòa, nhưng điều đó không
ngăn trở quan tòa phán, “Có tội!”.
(4) “Giá như tôi có một người biện hộ!” (c.32-35): Nếu Đức Chúa Trời là người, vậy Gióp đã có thể tiếp
xúc người ấy và bào chữa việc kiện của ông. Hoặc nếu có một người phân xử giữa Đức Chúa Trời và Gióp, người ấy có thể cất đi cái roi của sự
xét đoán và đem Gióp cùng Đức Chúa Trời lại với nhau. Nhưng Đức Chúa Trời không
phải là con người, và sẽ không có người trung gian nào cả! Đây là nơi mà Chúa
Giê-xu Christ bước vào bức tranh! Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời đã trở nên loài
người để bày tỏ Cha (Gi 14:7-11) và đem tội
nhân đến với Đức Chúa Trời (ITi 2:5-6 IPhi 3:18). Ngài là người phân xử mà Gióp đang cầu
xin hằng thế kỷ trước (Giop 16:21)
“Vì sao tôi được sinh ra?” (Giop
10:1-22): Lý lẽ của Gióp ở đây là Đức Chúa
Trời đã dựng nên ông và ban cho ông sự sống (10:3,8-12,18-19), nhưng Đức
Chúa Trời đã không đối xử với ông như một tạo vật của Ngài. Sau khi để thời
gian và nỗ lực tạo nên Gióp, Đức Chúa Trời đang tiêu diệt ông! Hơn nữa, Đức
Chúa Trời đang xét đoán Gióp mà không cho ông biết những sự buộc tội nào chống
lại ông (c.2). Không có gì phải ngạc nhiên gì khi Gióp mệt mỏi, cay đắng và bối
rối (c.1,15). Hãy chú ý rằng trong chương này Gióp nói trực tiếp với Đức Chúa
Trời chứ không phải nói với các bạn ông. Đức Chúa Trời không phải là người để
Ngài phải điều tra các sự việc và chiến đấu với thời gian (c.4-6). Đức Chúa
Trời hằng hữu và có thể dùng mọi thời gian Ngài cần, và Đức Chúa Trời Toàn Tri
nên không phải điều tra giống như một thám tử tư. Gióp trước đó đã khao khát có
một người phân xử, nhưng giờ đây ông cầu xin người giải cứu (10:7) để ông có thể thoát khỏi sự xét đoán. Đức
Chúa Trời là Đấng Canh Giữ thường trực, dõi theo mọi cử động của Gióp (c.14).
Ngài đang săn đuổi Gióp như một sư tử (c.16) và đang tấn công ông bằng quân đội
Ngài (c.17). Gióp đã bị bao vây, và không có lối ra.
Vì vậy câu hỏi của Gióp dường như có
lý: “Vậy tại sao Chúa đem tôi ra khỏi lòng mẹ?” (c.18 NIV). Sự tồn tại của Gióp
trên đất dường như không có mục đích đến nỗi ông nài xin Đức Chúa Trời ban cho
ông một ít giây phút bình an và hạnh phước trước khi đời ông kết thúc. Ông có
thể thấy đời sống mình đi qua nhanh chóng (Giop
7:6-7 9:25-26) và không có một giây
phút nào để lãng phí. Ông cầu nguyện, “Hãy để tôi yên, để tôi có thể có một chút yên ủi trước khi tôi đi đến thế giới của sự
tối tăm.”
Gióp không thể hiểu điều Đức Chúa
Trời đang làm, và quan trọng là ông không hiểu.
Nếu Gióp biết rằng Đức Chúa Trời đang sử dụng ông làm vũ khí để đánh bại
Sa-tan, ông đã có thể chỉ ngồi lại và tin cậy chờ đợi cuộc chiến kết thúc.
Nhưng khi Gióp quan sát chính ông và hoàn cảnh ông đang chịu, ông đã đặt câu
hỏi tương tự mà các môn đồ đã hỏi khi Ma-ri xức dầu cho Chúa Giê-xu: “Tại sao
lãng phí như vậy?” (Mac 14:4). Trước khi
chúng ta chỉ trích Gióp quá gay gắt, chúng ta hãy nhớ lại bao nhiêu lần chúng
ta đã tự đặt câu hỏi ấy khi có một đứa bé bị chết hoặc một thanh niên đầy hứa
hẹn bị chết trong một tai nạn nào đó.
Không có điều gì được
dâng cho Đấng Christ trong đức tin và tình yêu lại bị lãng phí cả. Mùi hương của dầu thơm Ma-ri đã
biến khỏi hiện trường hằng thế kỷ trước, nhưng y nghĩa về sự thờ phượng của bà
đã chúc phước cho các Cơ Đốc nhân trong mọi thời đại và tiếp tục như thế. Gióp đã bị phá sản và bệnh hoạn, mọi điều ông có thể dâng
cho Chúa là sự chịu khổ của ông bằng đức tin, nhưng đó chính là điều Đức Chúa
Trời muốn để làm cho ma quỉ phải câm họng. Khi William Whiting Borden chết ở Ai
Cập năm 1913 trong lúc trên đường đến khu vực chức vụ, một số người đã hỏi,
“Tại sao điều này bị lãng phí?” Nhưng Đức Chúa Trời vẫn đang sử dụng tiểu sử về
cuộc đời ngắn ngủi của ông để thách thức con người dâng hiến cho Đấng
Christ tất cả những gì của họ. Khi John và Betty Stam tuận đạo ở Trung Quốc năm
1934, có một số người đã hỏi: “Tại sao điều này bị lãng phí?” Nhưng tác phẩm “The Triumph of John and Betty Stam” của bà
Howard Taylor là một cuốn sách làm thay đổi đời sống nhiều người kể từ lúc nó
được xuất bản năm 1935. Bạn gái của tôi (giờ là vợ tôi) đã tặng cho tôi một bản copy sách ấy nhân ngày sinh nhật lần thứ 21 của tôi,
và sứ điệp của nó vẫn thu hút lòng tôi.
Khi năm nhà truyền đạo
tuận đạo ở Ecuador trong tay của những người da đỏ Auca, một số người gọi sự
kiện này là “một sự lãng phí bi thảm về nhân lực”. Nhưng Đức Chúa Trời đã nghĩ
khác, và câu chuyện về năm anh hùng đức tin này đã dạy dỗ cho Hội Thánh kể từ
đó.
Gióp đã hỏi “Vì sao tôi
được sinh ra?” Dưới ánh sáng của những mất mát và đau khổ của cá nhân ông, tất
cả dường như là một lãng phí như thế! Nhưng Đức Chúa Trời biết Ngài đang làm
điều gì lúc đó, và Ngài biết Ngài đang làm gì lúc này.
Gia-cơ đã viết: “Anh em đã nghe về sự
nhịn nhục của Gióp và thấy điều mà cuối cùng Chúa đã đem đến. Chúa đầy lòng
thương xót và nhân từ” (Gia 5:11
NIV). Nếu bạn nói điều đó với Gióp, ông có lẽ không tin, nhưng đó là điều luôn
luôn đúng.
Điều đó đúng với ông, đúng với chúng
ta ngày nay. Hãy tin như vậy!
Giop 10:1-22; xem giải nghĩa Giop 8:1-9:35
PHẦN CHUYỂN TIẾP
Từ Hê-bơ-rơ dịch là
“người phân xử” trong Giop
9:33 nghĩa là “hành động với tư cách trọng tài.” Người phân xử là người
có quyền hạn định ngày khi các bên cạnh tranh cùng đến để giải quyết cuộc tranh
chấp của họ. Ở Đông phương, người phân xử để tay mình trên đầu của những bên
tranh chấp để nhắc họ rằng người ấy là người có quyền hạn giải quyết vấn đề.
Gióp mong mỏi ai đó có thể làm điều này cho ông và Đức Chúa Trời. Gióp nghiêm
túc về việc muốn đối mặt với Đức Chúa Trời tại tòa, dù ông không có ai để đại
diện ông. “Ta ước ao biện luận (tranh biện chọ vụ kiện của ta) cùng Đức Chúa
Trời (13:3). Ta sẽ bênh vực những việc của
ta trước mặt Ngài (c.5). Kìa, ta đã sắp xếp việc cáo tụng ta (đã chuẩn bị vụ
kiện của ta) Ta biết rằng ta sẽ được xưng công bình” (c.18). Ông cảm thấy Đức
Chúa Trời đối xử với ông không công bằng. “Tôi kêu la nhưng không có sự công
bình” (19:7). Đức Chúa Trời đã đoạt lấy lý
của ông (27:2) và Gióp yêu cầu cần có một cơ
hội để được nghe trước ngôi của Đức Chúa Trời. Nhưng khi cơ hội đến, Gióp đã
không có gì để nói.
“Đó không phải lý do tôi chịu khổ để tôi muốn
biết, nhưng chính là tôi có chịu khổ vì cớ Ngài hay không.”
(Levi Yitzhak of
Berditcher)
4. NGƯỜI “EM ÚT” TỨC GIẬN (Giop 11:1-14:22)
Ba bạn của Gióp là những
người đã lớn tuổi, như vậy Sô-pha chắc là người nhỏ tuổi nhất vì ông nói sau
cùng. Lời nói đầu tiên của ông không dài, nhưng bày tỏ sự thù địch, cho thấy
Sô-pha rất giận dữ. Có thời điểm và nơi chốn thích hợp cho sự bày tỏ cơn giận
công bình (Eph
4:26), nhưng đống tro của Gióp không phải là nơi chốn này, và đó không
phải là lúc thích hợp. Cơn giận của con người không tạo nên sự công bình của
Đức Chúa Trời (Gia 1:20 NKJV). Điều Gióp cần
là bàn tay giúp đỡ, chứ không phải cái tát vào mặt.
Sô-pha nêu ba lời tố cáo chống lại
Gióp: rằng Gióp phạm tội (Giop 11:14), thiếu
hiểu biết về Đức Chúa Trời (c.5-12), và Gióp còn ương bướng trong việc không
chịu ăn năn (c.13-20). Trong lời đáp của mình, Gióp đáp lại cả ba lời tố cáo:
Ông khẳng định sự vĩ đại của Đức Chúa Trời (phân đoạn
12), sự vô tội của riêng ông (phân đoạn 13), nhưng ông không có hy vọng gì, vậy
tại sao ông phải ăn năn? (phân đoạn 14)
1. Ba lời tố cáo của Sô-pha (Giop 11:1-20)
Sau khi lắng nghe
Ê-li-pha và Binh-đát tố cáo Gióp, lẽ ra Sô-pha đã có đủ ý thức và sự thương xót
để sử dụng cách tiếp cận mới. Góp sẽ nắm chắc sự chính trực của ông cho dù Đức
Chúa Trời đã làm gì hoặc bạn ông đã nói gì, vì vậy tại sao lại tiếp tục cuộc
bàn luận theo hướng đó? Đáng buồn thay khi những người đến san sẻ sự giúp đỡ
lại đi tới chỗ tạo ra sự khốn khổ. “Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc” (Ro 11:1-4) là lời
khuyên tốt lành cần làm theo.
“Gióp có tội” (Giop
11:1-4): Giống như Binh-đát (8:2),
Sô-pha mở lời bằng cách gọi Gióp là “người già miệng.” Bi thảm thay khi ba
người bạn này cứ nhắm vào những lời nói của Gióp thay vì nhìn những cảm xúc
đằng sau những lời nói đó. Một châm ngôn Trung Quốc nói rằng: “Dù nói chuyện
mặt đối mặt, nhưng trong lòng người ta có một ngàn dặm ở giữa.” Điều đó thật
đúng làm sao tại đống tro của Gióp! Xét cho cùng, sự thông tin không giống như
sự giao thông. Sidney J.Harris nhắc chúng ta, “Sự thông tin là thông báo, sự
giao thông là bắt liên lạc.”
Lời nói của Gióp không chỉ là một
cơn gió, mà còn là lời huyên thuyên (“lời nói dối”) và lời nhạo báng (11:3). Điều Gióp đã nói về Đức Chúa Trời là không
đúng và chỉ có thể được so sánh với lời huyên thuyên của kẻ nhàn rỗi nói mà
không suy nghĩ. Và điều Gióp đã nói về chính ông là một lời nói dối công khai,
vì ông không được tinh sạch trước mặt Đức Chúa Trời.
Để duy trì sự chính trực của mình, Gióp đã đưa ra ấn tượng rằng ông vô tội, mà
dĩ nhiên là không đúng (6:30 9:20-21 10:7).
Gióp thiếu hiểu biết
về Đức Chúa Trời (Giop 11:5-12): Yêu cầu
của Sô-pha trong câu 5 được trả lời khi Đức Chúa Trời xuất hiện (38:1), nhưng chính Sô-pha và hai bạn ông sau đó đã
bị Đức Chúa Trời quở trách, chứ không phải Gióp! Gióp được Chúa khen ngợi vì
nói sự thật. Hãy cẩn thận về việc cầu xin Đức Chúa Trời cho người khác biết
điều họ cần biết, nếu bạn chưa sẵn sàng để Ngài tỏ cho bạn thấy điều bạn cần
biết. Sô-pha muốn Gióp thấu hiểu về chiều cao, bề sâu, bề rộng và bề dài của sự
khôn ngoan thiêng liêng của Đức Chúa Trời (11:8-9).
Khi nói điều này, Sô-pha ngụ ý rằng chính ông đã biết những kích cỡ vô hạn về
sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời và có thể dạy cho Gióp nếu ông lắng nghe. Thật
tệ hại khi Sô-pha đã không biết kích cỡ bao la về tình yêu của Đức Chúa Trời (Eph 3:17-19) và chia xẻ phần nào tình yêu đó với
Gióp. Khi Sô-pha nói rằng những sự sâu nhiệm về sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời
là “bội phần” (Giop 11:6), thì ông muốn nói
gì? Điều đó có thể nghĩa là sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời đầy đủ và trọn vẹn
(Es 40:2) hoặc Đức Chúa Trời có sự khôn
ngoan gấp hai theo suy nghĩ của Gióp, bản dịch Kinh Thánh NIV nói rằng sự khôn
ngoan thật có hai mặt (11:6). Có một mặt nhỏ
mà chúng ta thấy và mặt kia to lớn hơn mà chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể thấy
được mà thôi. Vì Đức Chúa Trời biết mọi sự, Ngài biết mọi điều về Gióp và có
thể phạt ông nhiều hơn. “Điều đó có thể tệ hơn!”,
chắc chắn không phải là sự yên ủi cho một người đã mất gia đình, của cải, sức
khỏe và rõ ràng đang bị treo trên sự sống. Bạn đừng đo lường sự đau khổ theo
cách định lượng như bạn đo lường sản phẩm ở siêu thị. Cách suồng sã mà bởi đó
các bạn Gióp đang nói về hoàn cảnh của ông cho thấy họ thiếu sự thông hiểu.
Kinh Talmud của Do Thái nói rằng: “Sự buồn phiền càng nhiều thì lưỡi của nó
càng bé.” Hai câu hỏi trong câu 7 mong đợi câu trả lời phủ định. Không ai có
thể dò xét những sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời hoặc dò được những giới hạn của
Đấng Toàn Năng (NIV). Dĩ nhiên, Gióp chưa bao giờ tuyên bố mình biết mọi điều
về Đức Chúa Trời, nhưng điều ông thực sự biết đã khích lệ ông nắm chắc sự chính
trực của mình và không bỏ cuộc.
Đức Chúa Trời không cần
giải thích với chúng ta. Ngài có thể bắt giữ và cầm tù bất cứ ai, Ngài thành
lập phiên tòa và tuyên án, không ai có thể nói một lời nào để chống đối (c.10 9:12). Đức
Chúa Trời biết ai khôn ngoan và ai ngu dại, ai tinh sạch và ai tội lỗi. Vì Đức
Chúa Trời đã gieo sự đoán phạt trên Gióp thì Gióp phải là người có tội.Sô-pha
kết thúc lời tố cáo này bằng cách trích dẫn một châm ngôn (11:12), mà chúng ta không dễ để xác định được ý
nghĩa của nó. Châm ngôn này có thể nói rằng cho dù một người ngu dốt thế nào
khi sinh ra, thậm chí câm lặng như con lừa rừng, thì vẫn có hy vọng cho người trở nên thông minh. Hoặc châm ngôn này có thể chỉ nói điều
ngược lại, như trong bản dịch NIV: “Nhưng một người ngu đần không thể trở nên
khôn ngoan hơn lừa con của một con lừa rừng có thể sinh ra làm người”. Còn bản
dịch NASB thì dịch thế này: “Và một thằng ngốc sẽ trở nên thông minh khi lừa
con của con lừa rừng được sinh làm người”. Xét về sự giận dữ và ngôn ngữ lăng
mạ của Sô-pha, dường như cả bản dịch NIV và NASB đều đúng.
Gióp ương bướng và
phải ăn năn (Giop 11:13-20): “Có hy
vọng!” Đó là lời khích lệ của Sô-pha đối với Gióp (c.18), và ông mô tả điều
Gióp có thể kinh nghiệm. Đức Chúa Trời sẽ chúc phước ông dư dật, và hoạn nạn
của ông sẽ qua. Gióp có thể ngẩng đầu lên, và những nỗi sợ hãi của ông sẽ mất
đi (c.15 10:15). Ông sẽ quên sự khốn khổ của
mình giống như nước đã chảy qua đập (11:16).
Đức Chúa Trời sẽ ban cho ông một đời sống trường thọ và đó sẽ là bình minh của
một ngày mới đối với ông (c.17). Ông sẽ ở trong sự sáng chứ không phải ở trong
sự tối tăm của Âm phủ (10:20-22). Và sự yên
ninh của Đức Chúa Trời sẽ chấm dứt mọi nỗi sợ hãi của ông (11:19-20).
Nhưng nếu Gióp muốn có
những phước hạnh này, ông phải đạt được chúng dựa trên những điều khoản của
Sô-pha. Vâng, có hy vọng, nhưng đó là
hy vọng với một điều kiện cặp theo: Gióp phải ăn năn và xưng nhận tội lỗi của
ông (c.13-14). Sô-pha đang xúi giục Gióp mặc cả
với Đức Chúa Trời để ông có thể thoát khỏi hoạn nạn của mình. Đây
chính xác là điều Sa-tan muốn Gióp làm! Sa-tan đã hỏi: Gióp há kính sợ Đức Chúa
Trời luống công sao? (1:9).
Sa-tan đã kiện cáo Gióp có một “đức tin thương mại” hứa hẹn sự thịnh vượng để
bù lại sự vâng phục. Nếu Gióp làm theo lời khuyên của Sô-pha, ông sẽ đi nước cờ
đúng trong tay kẻ thù.
Gióp không có loại “đức tin thương
mại” đưa đến những mặc cả với Đức Chúa Trời. Ông đã có một đức tin chắc chắn để
nói: Dẫu Chúa giết ta, ta vẫn sẽ tin cậy nơi Ngài (13:15).
Điều đó nghe không có vẻ như một người đang dễ dàng tìm cách để thoát khỏi
những khó khăn. C.H.Spurgeon đã nói: “Gióp không hiểu những lý do của Chúa,
nhưng ông đã tiếp tục tin cậy nơi sự nhân từ của
Ngài.” Đó là đức tin!
2. Ba điều khẳng định của Gióp (Giop 12:1-25)
Lời nói của Sô-pha là một lời ngắn
gọn, nhưng Gióp đã mất thời gian dài để đáp lại mỗi sự tố cáo của Sê-pha. Gióp
bắt đầu với lời tố cáo thứ hai của Sô-pha rằng Gióp không có sự hiểu biết về
Đức Chúa Trời (Giop 11:5-12). Gióp khẳng
định rằng ông có sự khôn ngoan và thông hiểu giống như họ (phân đoạn 12). Kế
đến, ông đáp lại lời tố cáo thứ nhất của Sô-pha rằng Gióp là một tội nhân (11:1-4). Một lần nữa, Gióp khẳng định sự chính
trực của ông (phân đoạn 13). Sau đó Gióp kết thúc lời mình bằng cách thách thức
quan điểm thứ ba của Sô-pha rằng vẫn có hy vọng (11:13-20).
Trong phân đoạn Kinh Thánh 14, Gióp thừa nhận hy vọng
của ông hầu như đã mất.
Sự vĩ đại của Đức Chúa
Trời (Giop 12:1-25): Trước
hết, Gióp thách thức lời tuyên bố của các bạn ông rằng họ có sự khôn ngoan hơn
ông. Thật, họ lớn tuổi hơn Gióp, nhưng tuổi tác không phải là điều đảm bảo về
sự khôn ngoan. Có những người dại khi còn trẻ, nhưng cũng có người đến già vẫn
chưa hết dại.
Kế đến, Gióp quở trách họ vì quá vô
cảm đối với ông và biến ông thành trò cười. Ông cảm thấy mình công bình và ngay
thẳng, là cách Đức Chúa Trời đã mô tả ông (Giop 1:1,8 2:3). Các bạn là người ở trong sự nhàn hạ không có
mối quan tâm đối với người đang trợt ngã. “Các bạn nói Đức Chúa Trời đang trừng
phạt tôi vì tội lỗi của tôi. Vậy tại sao Ngài không trừng phạt kẻ cướp và những
người khác chọc giận Đức Chúa Trời?” (12:5-6).
Sô-pha tuyên bố rằng sự khôn ngoan không thể đến gần con người (11:7-9), nhưng Gióp nói rằng các sinh vật của Đức
Chúa Trời có thể dạy họ điều họ cần biết (12:7-11
Sa 1:26-28). Ngay cả những tạo vật “câm
lặng” cũng biết rằng tay Đức Chúa Trời đã dựng nên mọi sự và giữ cho mọi sự tiếp
diễn. Thật ra, chính hơi thở mà họ đang sử dụng để tố cáo Gióp cũng là món quà
Đức Chúa Trời đã ban cho họ, Và Ngài có thể cất bỏ nó mà không cần sự đồng ý
của họ. Đức Chúa Trời đã ban cho loài người khả năng để nếm và đánh giá thức
ăn, thế Ngài sẽ không cho họ khả năng quan trọng hơn để đánh giá lời nói và
định mức lẽ thật sao? (Giop 12:11). Trong
câu 12-25, Gióp mô tả sự khôn ngoan và quyền năng của Đức Chúa Trời. Câu 12 có
lẽ đề cập đến Đức Chúa Trời, “Đấng Thượng Cổ” và “Đấng Sống Trường Thọ.” Những
danh xưng này là sự quở trách đối với các bạn Gióp - những người nghĩ rằng kinh
nghiệm của họ đã dạy họ nhiều điều!
Gióp chỉ ra rằng Đức Chúa Trời tể
trị hoàn toàn trong những việc Ngài làm với thiên nhiên (c.14-15) và với con
người (c.16-25). Điều Ngài phá hủy không thể được xây dựng lại, và những gì
Ngài đóng thì không ai có thể mở được (Kh 3:6-8).
Ngài có thể giáng hạn hán hoặc lũ lụt, và không ai có thể cản trở Ngài (12:15), Ngài có sự khôn ngoan để biết điều gì phải
làm, và Ngài có quyền năng để thực hiện điều đó (c.13,16).Trong sự tể trị của
Ngài trên loài người, cho dù thân phận họ ra sao, Đức Chúa Trời vẫn toàn quyền
kiểm soát. Lý lẽ của Gióp là điều mà mọi hạng người kinh nghiệm được từ những
khó khăn trong đời sống, vì Đức Chúa Trời có thể làm điều Ngài muốn. Ngài không
tây vị một ai và không bị gây ấn tượng bởi cấp bậc, của cải hay địa vị xã hội
của một người nào.
Ví dụ, nếu đó là ý muốn Đức Chúa
Trời, thì các mưu sĩ của vua sẽ mất quyền lực và của cải, các quan xét sẽ trở
nên bối rối và điên dại. Thật ra, chính các vua sẽ mất vương miện (một biểu
tượng của vương quyền) và các thầy tế lễ (“các hoàng tử”, c.19 KJV), sẽ bị cách
chức và bị làm phu tù. Những người khôn ngoan như các mưu sĩ và trưởng lão sẽ
bị câm nín (c.20), và các hoàng tử (những người quyền quý) cùng những kẻ mạnh
bạo (c.21) sẽ mất sự tôn trọng và sức lực của họ.
Nhưng Đức Chúa Trời có quyền cai trị
tối cao trên các quốc gia cũng như trên các cá nhân (c.23-25 Da 2:20-22 Cong
17:24-28). Ngài có thể mở rộng một quốc gia hoặc hủy diệt nó, ban tự do
hoặc ban ách nô lệ. Tất cả những gì phải làm là Ngài cất sự khôn ngoan khỏi
những quan trưởng, và ban sự hủy diệt cho quốc gia là chắc chắn. Người kiêu
ngạo không thích nghe sứ điệp này. Kể từ thời thành Hê-nóc (Sa 4:16-18) và Tháp Ba-bên (11:1-9), loài người đã tìm cách xây dựng và điều
khiển mọi việc mà không cần Đức Chúa Trời. Và kết cuộc luôn bị thất bại và bị
đoán phạt.
3. Sự chính trực của Gióp (13:1-28)
Trong phần bênh vực này
của mình, trước hết Gióp trình bày sự thất vọng của ông về ba bạn ông (c.1-12),
kế đến là sự tuyên bố đức tin của ông
nơi Chúa (c.13-17) và cuối cùng là sự ước ao
của ông rằng Đức Chúa Trời đến với ông và làm cho
vấn đề được giải quyết một lần đủ cả (c.18-28).
(1)Sự thất vọng (c.1-12): Các bạn của Gióp không phải là sự khích lệ đối với ông.
Họ có thái độ của quan tòa, cho rằng mình biết Đức Chúa Trời rõ hơn Gióp. Họ
không đồng cảm với ông trong nỗi khổ và sự đau đớn của ông. Gióp gọi họ là “kẻ
đúc rèn lời dối trá,” “thầy thuốc không ra gì” và “kẻ bảo vệ Đức Chúa Trời cách
dối trá.”
Từ “thợ rèn” trong câu 4
cũng có nghĩa là “người quét vôi trắng.” Họ tô phết nước vôi giả dối lên cuộc bàn luận để tránh vấn đề khó khăn trong khi duy trì
những ý niệm truyền thống của họ (Thi 119:69).
Họ ở trên bề mặt của những sự việc và không bao giờ đi sâu vào lẽ thật của Đức
Chúa Trời hoặc những xúc cảm của Gióp. Sự cố vấn hời hợt sẽ chẳng giúp ích gì
được bao nhiêu, nếu muốn giúp đỡ người khác, chúng ta cần có sự sâu nhiệm,
nhưng điều này đỏi hỏi tình thương, sự can đảm và tính kiên nhẫn. Là thầy
thuốc, sự chẩn đoán của họ sai lầm nên phương pháp điều trị của họ vô ích (Gie 6:14 8:11).
Và là “người bảo vệ Đức Chúa Trời”, họ nên im lặng thì tốt hơn, vì họ không
biết mình đang nói về điều gì. Họ có một quan điểm về Đức Chúa Trời nghiêm khắc
và hẹp hòi như thế, một cái nhìn thành kiến về Gióp như thế, đến nỗi toàn bộ
“vụ kiện” của họ là một sự bịa đặt những điều dối trá. Họ sẽ làm gì khi Đức
Chúa Trời chuyển hướng và tra xét họ? (Ro 14:1-13).
“Châm ngôn của các ngươi là châm ngôn tro bụi, những thành lũy của các ngươi là
thành lũy đất sét” (Giop 13:12 NIV). Điều mà
ba người bạn nghĩ đó là những nhận định sâu sắc về lẽ thật chỉ là tro bụi tung
lên từ những đám lửa cổ xưa, những chiếc bình đất sẽ rơi xuống. Một cố vấn tốt
cần có nhiều điều cần hơn một trí nhớ tốt. Người ấy cũng cần sự khôn ngoan để
biết cách áp dụng lẽ thật cho những nhu cầu của con người ngày nay.
(2) Sự tuyên bố (c.13-17): Đây là một trong những sự tuyên bố tuyệt vời nhất về
đức tin được tìm thấy hơn bất cứ nơi đâu trong Kinh Thánh, nhưng nó phải được
hiểu trong bối cảnh của nó. Gióp nói: “Ta sẽ đem vụ kiện của ta trực tiếp đến
Đức Chúa Trời, và chứng minh sự chính trực của ta. Ta biết ta đang nắm giữ mạng
sống ta trong tay để đến gần Đức Chúa Trời, vì Ngài có thể giết ta. Nhưng nếu
Ngài không giết ta, đó là chứng cớ ta không phải là kẻ giả hình mà các ngươi
nói.” Sau đó, Gióp sẽ thề nguyện và thách thức Đức Chúa Trời giáng sự xét đoán
(Gióp 27). Đến gần Đức Chúa Trời một cách cá nhân là hành động tuyệt vời của
đức tin (Xu
33:20 Cac 13:22-23) nhưng Gióp biết
chắc về sự chính trực của ông đến nỗi ông sẽ sử dụng những cơ hội của mình. Xét
cho cùng, nếu ông không làm gì cả, ông sẽ chết. Và nếu ông bị Đức Chúa Trời
chối bỏ, ông cũng sẽ chết. Nhưng luôn có khả năng là Đức Chúa Trời sẽ chứng
minh ông ngay thẳng.
(3)Sự ao ước (c.18-28): Những lời ao ước này đã được nói với Đức Chúa Trời.
Gióp đã “chuẩn bị vụ kiện của ông” (c.18 NIV) và chắc chắn rằng ông sẽ thắng
kiện. Gióp có hai điều ao ước: Rằng Đức Chúa Trời sẽ cất bàn tay quở phạt của
Ngài và cho Gióp sự giải vây, và rằng Đức Chúa Trời sẽ đến với Gióp bằng cách
mà Ngài sẽ không làm ông kinh hãi. Gióp đang đề nghị Đức Chúa Trời gặp ông tại
tòa để họ có thể nói về “vụ kiện” của Đức Chúa Trời chống lại Gióp và “vụ kiện”
của Gióp chống lại Đức Chúa Trời. Trong câu 22, Gióp để Đức Chúa Trời chọn lựa
nói trước! Tại sao Gióp muốn gặp Đức Chúa Trời ở tòa? Để Đức Chúa Trời có thể
tuyên bố “vụ kiện” của Ngài nghịch cùng Gióp một lần đủ cả và để Gióp biết
những tội lỗi trong đời sống ông đã gây cho ông khổ sở quá nhiều là những tội
lỗi gì. Gióp hỏi: “Tại sao Đức Chúa Trời chú ý tôi quá nhiều? Ngài đối xử tôi
như kẻ thù, nhưng tôi chỉ là một chiếc lá yếu ớt trong cơn gió, như rơm rác
không giá trị gì. Tôi là một mảnh gỗ mục và là một cái áo bị mối mọt ăn, nhưng
Chúa đối xử tôi như một tù binh và canh gác tôi từng phút.” Gióp cảm thấy thời
gian đã đến để giải quyết vấn đề, cho dù điều đó có nghĩa là cũng có thể xảy
đến sự mất mạng của chính ông trong tiến trình này.
4. Sự tuyệt vọng của Gióp (Giop 14:1-22)
Sô-pha đã bảo đảm với Gióp rằng có
hy vọng cho ông nếu ông chỉ nhận biết tội lỗi mình và ăn năn (Giop 11:13-20). Nhưng Sô-pha không ở trong hoàn
cảnh của Gióp! Theo quan điểm của Gióp, tương lai ông thật ảm đạm. Trong các
câu 1-12, Gióp sử dụng nhiều hình ảnh để minh họa tình trạng tuyệt vọng của con
người trên thế gian này. Ông giống như một bông hoa sớm bị cắt, một cái bóng từ
từ biến mất, một kẻ làm mướn mãn thời gian mình và rồi bị thay thế. Đức Chúa
Trời biết những giới hạn của các ngày trong đời người chúng ta (7:1 14:5 Thi 139:16). Một kẻ tự sát có thể dại dột thúc đẩy
ngày chết của mình mau đến, nhưng không ai sẽ đi quá những giới hạn mà Đức Chúa
Trời đã định cho đời mình.
Vì con người chỉ là một bông hoa,
một cái bóng và là một đầy tớ, tại sao Đức Chúa Trời phải chú ý đến con người?
Vì đời sống quá ngắn ngủi, tại sao Đức Chúa Trời lại làm cho số ít ngày của con
người đầy dẫy sự khốn khổ và đau đớn? Gióp cầu nguyện: “Vậy xin hãy xây mắt
khỏi người và để người được yên” (Giop 14:6
NIV). “Hãy để tôi có chút bình an trước khi đời sống ngắn ngủi của tôi chấm
dứt!” (lời diễn ý).
Hình ảnh mạnh mẽ nhất của Gióp là
hình ảnh về cái cây (c.7-12). Nếu đốn nó thì phần gốc còn lại vẫn luôn có khả
năng tiếp tục mọc lên. Cây có hy vọng, nhưng con người không có hy vọng. Khi
con người chết, con người chẳng để lại gốc nào đàng sau. Con người giống như
nước bay hơi hoặc thấm vào đất, không bao giờ có thể thu lại được (c.11 IISa 14:14). Con người có thể nằm xuống trong sự
chết, không có gì đảm bảo rằng con người sẽ được đánh thức trở lại.
Các tín hữu đầu tiên như Gióp đã
không có sự mặc khải về đời sống tương lai như ngày nay chúng ta có trong Đấng
Christ (IITi 1:10). Những đoạn trong Cựu Ước
ngụ ý về sự sống lại trong tương lai (Thi 16:9-11
17:15 Es 26:19
Da 12:2), nhưng Gióp không có sách nào để
đọc và suy gẫm. Nếu một người chết, người ấy sẽ sống lại chăng? (Giop 14:14). Gióp đã đặt câu hỏi quan trọng này
nhưng không trả lời nó. Sau này, Gióp sẽ có một nhận định tuyệt vời về sự sống
lại trong tương lai (19:25-26), nhưng vào
thời điểm này ông đang dao động giữa sự tuyệt vọng và hy vọng. Trong 14:13 Gióp cầu xin Đức Chúa Trời hãy ban chính
Ngài làm đấng nhắc nhở để đem Gióp trở lại từ Âm phủ, địa phận của người chết.
Gióp có lẽ không nghĩ đến sự sống lại, nhưng nghĩ đến sự trở lại ngắn ngủi để
Đức Chúa Trời có thể bào chữa cho ông trước những kẻ kiện cáo ông. Dĩ nhiên,
tín đồ ngày nay được Thánh Linh ấn chứng đến ngày cứu chuộc (Eph 1:13-14). Và Đức Chúa Trời sẽ không quên con
cái của Ngài lúc sống lại (ICo 15:50-58).
Gióp nhắc Đức Chúa Trời rằng ông là
công việc của tay Đức Chúa Trời (Giop 14:15),
một lý lẽ được ông sử dụng trước đó (Giop 10:3).
Dường như đối với Gióp, thay vì chăm sóc tạo vật của Ngài, Đức Chúa Trời lại
chỉ đang làm công việc mãi lo ghi chép về tội lỗi của ông mà thôi. Gióp hy vọng
gì khi Đức Chúa Trời đang điều tra ông và lập vụ kiện chống lại ông? Thay vì
bôi xóa tội lỗi Gióp, Đức Chúa Trời đang che giấu chúng và thậm chí không cho
Gióp biết những tội lỗi đó là gì!
Gióp than vãn: “Chúa hủy sự hy vọng
của loài người” (14:19) và ông sử dụng hai
minh họa để tạo quan điểm của mình. Loài người có vẻ giống như một quả núi kiên
cố, nhưng nước dần dần ăn mòn đi, và cuối cùng núi cũng sập. Hoặc có một trận
động đất bất ngờ có thể di chuyển đá từ nơi này sang nơi khác và thay đổi núi.
Sự chết có thể đến từ từ hoặc thình lình, nhưng nó sẽ đến. Và loài người đi đến
một thế giới nơi người chẳng biết gì về việc gia đình mình đang làm. Gióp mong
mỏi sự giải thoát đó khỏi cơn buồn rầu và nỗi đau đớn. Khi con người đang trải
qua nỗi buồn phiền và sự đau đớn cùng cực, họ dễ dàng cảm giác rằng tương lai
họ thật vô vọng và Đức Chúa Trời đã từ bỏ họ. Bác sĩ tâm thần nổi tiếng người
Mỹ Karl Menninger đã gọi hy vọng là “vũ khi chủ yếu chống lại sự thúc đẩy tự
sát.” Người tuyệt vọng cảm thấy cuộc đời không đáng sống vì họ không có gì để
mong đợi ngoài đau khổ và thất bại. Họ kết luận rằng họ thà chết còn hơn sống
mà làm gánh nặng cho bản thân và người khác.Triết gia người Đức Friedrich
Nietzsche đã gọi hy vọng là “điều tồi tệ nhất trong mọi điều ác, vì nó kéo dài
những đau khổ của con người.” Nhưng cá nhân nào tin nơi Chúa Giê-xu Christ đều
dự phần trong một “hy vọng sống” trở nên kỳ diệu hơn mỗi ngày (IPhi 1:3). Những hy vọng chết tàn lụi vì chúng
không có rễ sâu, nhưng “hy vọng sống” của chúng ta trở nên tốt đẹp hơn vì nó
được châm rễ trong Đấng Christ hằng sống và Lời Hằng Sống của Ngài. Niềm tin
xác tín về sự sống lại và đời sống trong sự vinh hiển cùng với Đấng Christ là
một động lực mạnh mẽ để giúp chúng ta cứ bước đi dù khi đường đi đầy gian truân
thử thách (ICo 15:58). Charles L.Allen đã
viết: “Khi bạn nói về một hoàn cảnh hay một con người nào đó đã trở nên vô
vọng, tức là bạn đang đóng sập cửa lại trước mặt Đức Chúa Trời.” Gióp chưa đóng
sập cửa, nhưng ông sắp làm điều ấy, và các bạn ông chẳng giúp ông gì cả!“Giờ
đây xin Đức Chúa Trời của hy vọng làm cho anh em đầy dẫy mọi sự vui mừng và
bình an trong đức tin, hầu cho anh em có thể dư dật sự hy vọng bởi quyền phép
Đức Thánh Linh” (Ro 15:13 NASB).
Giop 13:1-28; xem giải nghĩa Giop 11:1-12:25
Giop 14:1-22; xem giải nghĩa 11:1-12:25
“Thật
hiếm khi chúng ta đo lường người lân cận mình bằng chính cái cân mà chúng ta đã
dùng đo lường chính mình.”
(Thomas à Kempis)
5. CUỘC THẢO LUẬN BIẾN THÀNH CUỘC TRANH LUẬN (Giop 15:1-17:16)
Suốt hồi thứ hai của bài
diễn thuyết, đám lửa trở nên nóng hơn khi ba người bạn tập trung nhiều vào việc
chứng minh Gióp sai trái hơn là bày tỏ sự giúp đỡ Gióp. Xét cho cùng, sự bình
tịnh của tâm trí họ đang lâm nguy. Và họ không có ý đầu hàng. Nếu Gióp không
phải là tội nhân đang bị Đức Chúa Trời trừng phạt, vậy sự hiểu biết của ba
người bạn về Đức Chúa Trời là sai. Nhưng điều đó có nghĩa là họ không có sự bảo
vệ nào chống lại việc tự làm khổ mình! Nếu sự vâng phục không phải là một bảo
đảm về sức khỏe và của cải, vậy điều đã xảy đến với Gióp có thể cũng sẽ xảy đến
với họ. Đức Chúa Trời hãy ngăn cấm!
Một người dí dỏm vô danh
nọ có lần đã mô tả nhà thần học là “một người ở trong căn phòng tối, tìm kiếm
một con mèo mun không có ở đó và tìm thấy nó!” Nhưng một nhà thần học thật bước
đi trong ánh sáng mặc khải của Đức Chúa Trời qua Lời Ngài, qua lịch sử và qua
sự sáng tạo, thì người ấy sẽ rất khiêm nhường tiếp nhận lẽ thật với bất cứ giá
nào.
Ba bạn của Gióp không
phải là những nhà thần học thật vì họ chỉ nhìn thấy một mặt của bức tranh là
phần họ muốn thấy. Triết gia Eric Hoffer vốn là một ngư dân ở bờ biển, đã viết:
“Ít nhất thì chúng ta cũng phải có sự hiểu biết chính xác những điều liên quan
mà chúng ta đang lưu tâm đến nhiều nhất.” Và đó cũng là những điều chúng ta sợ
nhất!
1.Ê-li-pha: hai lời cảnh cáo (Giop 15:1-35)
Trong bài diễn thuyết
đầu tiên (Giop
4:1-5:27), Ê-li-pha đã bày tỏ chút tử tế đối với Gióp, nhưng bạn sẽ
chẳng tìm thấy sự kiên nhẫn hay tử tế nào nữa trong lần nói chuyện thứ hai này.
Bạn cũng không tìm thấy bất cứ ý kiến nào mới. Ê-li-pha
chỉ lặp lại lý thuyết trước đó của ông rằng loài người là tội nhân và Đức Chúa
Trời phải trừng phạt tội nhân (5:17-19).
Ông đưa ra hai lời cảnh cáo Gióp.
Rằng, Gióp thiếu sự
khôn ngoan (Giop 15:1-16): Ê-li-pha hiểu điều này thế nào? Một mặt nào đó, ông đã lắng nghe
những lời của Gióp (c.1-6) và thấy chúng chỉ
là gió. Những tư tưởng của Gióp chỉ là “những quan điểm trống rỗng” và “những
lời vô ích” (c.2-3 NIV). Những lời của Gióp đến từ cái bụng đầy gió nóng của sa
mạc (Gion 4:8) chứ không phải từ một tâm trí đầy sự khôn ngoan thật. Ê-li-pha
đang sử dụng những chiến thuật cũ nhất để tranh luận nếu bạn không thể bẻ bác
được những lý lẽ của đối phương, thì hãy công kích những lời của người ấy và
khiến chúng trở nên có vẻ như một đám “khí nóng.”
Samuel Johnson là “Nga
hoàng văn chương” của nước Anh thế kỷ 18, một người thích ngồi hàng giờ cùng
bạn bè và thảo luận bất cứ chủ đề nào. Nhưng Johnson luôn luôn thắng lý dù ông
đúng hay sai. Nhà thơ kiêm nhà soạn kịch Oliver Goldsmith đã nói: “Không có lý
lẽ đối với Johnson, vì nếu súng lục của ông ta không phát ra lửa, thì ông ta
cũng sẽ đánh bạn ngã bằng báng súng!” Ê-li-pha giống như vậy.
Ê-li-pha không chỉ nghe
những lời của Gióp, ông còn nhìn thấy những lời ấy dẫn đến đâu (Giop 15:4).
Nhưng thậm chí ông đã phá hủy sự mộ đạo và ngăn trở sự dâng hiến cho Đức Chúa
Trời (c.4 NIV). Nếu mọi người tin như Gióp đã tin
rằng Đức Chúa Trời không phải lúc nào cũng trừng phạt kẻ ác và ban thưởng người
tin kính vậy con người sẽ có động cơ nào để vâng lời Đức Chúa Trời? Tôn giáo sẽ
không có giá trị chi cả! Nhưng đây là
thuyết thần học của ma quỉ, và chính vì vậy mà Đức Chúa Trời đang sử dụng Gióp
để bẻ bác lại nó! Nếu con người
hầu việc Đức Chúa Trời chỉ vì điều nhận được từ việc đó, vậy họ không hầu việc Đức Chúa Trời gì cả, họ chỉ đang hầu việc bản thân bằng
cách khiến Đức Chúa Trời trở thành đầy tớ của họ. “Tôn giáo” của họ chỉ là một
hệ thống mộ đạo để đề cao sự ích kỷ chứ không nhằm mục đích qui vinh hiển về
cho Đức Chúa Trời.
Khi Đức Chúa Trời kêu
gọi Y-sơ-ra-ên và lập giao ước Ngài với họ, động cơ để vâng lời của dân sự là
nỗi sợ hãi trừng phạt. Nếu họ vâng theo luật pháp, Đức Chúa Trời sẽ chúc phước
cho họ. Nếu họ bất tuân, Ngài sẽ trừng phạt họ. Nhưng đây là suốt thời thơ ấu của dân tộc, khi Đức Chúa Trời đối xử
với họ như với con cái. Con cái hiểu phần thưởng và sự trừng phạt rõ hơn họ
hiểu luân lý và đạo đức. Nhưng khi thế hệ mới sắp bước vào Ca-na-an, Môi-se cho
họ một động cơ cao hơn để vâng lời: sự yêu mến của họ đối với Đức Chúa Trời (Phu 6:4-5 7:7 10:12-16 11:1,13,22 19:9). Họ không còn là trẻ con, và Đức Chúa Trời
không cần làm họ sợ (hoặc “hối lộ” họ) trong sự vâng lời Ngài. Tình yêu là sự
làm trọn luật pháp (Ro 13:8-10) và là động
cơ cao nhất của sự vâng phục (Gi 14:15).
Theo Êli-pha thì những lời của Gióp cho thấy Gióp có
một tấm lòng gian ác (Giop 15:5-6). “Những tội lỗi của ông đang cho
miệng ông biết điều phải nói” (c.5, TLB Mat
12:34-37). Gióp đang khẳng định sự vô tội của ông, nhưng Ê-li-pha lại
giải thích lời của Gióp là sự chứng minh cho tội lỗi mình! Có hy vọng gì cho
Gióp khi các bạn ông thậm chí không tin cả điều ông đang nói?
Gióp thiếu sự khôn ngoan vì ông thiếu kinh nghiệm (Giop
15:7-10). Tại thời điểm này, Ê-li-pha quay sang với sự chế nhạo, một
chứng cớ nữa cho thấy ông không còn chút thông minh nào để nói nữa. Đây là một
mưu mẹo khác của cuộc tranh luận: khi bạn không thể bẻ bác lời người nói thì
hãy chế nhạo người nói. Gióp chưa bao giờ tuyên bố rằng ông là người đầu tiên
Đức Chúa Trời dựng nên, rằng ông là bạn mật thiết của Đức Chúa Trời, hay Đức
Chúa Trời đã ban cho ông độc quyền về sự khôn ngoan. Gióp biết rằng các bạn lớn
tuổi hơn ông, nhưng tuổi tác không phải là một bảo đảm về sự khôn ngoan (32:9 Thi 119:97-104).
Theo Ê-li-pha, thái độ của Gióp sai
trái vì ông đã từ chối sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời (Giop
15:11-16). Ê-li-pha nhìn thấy bản thân ông và các bạn ông như những sứ
giả của Đức Chúa Trời, được sai đi để đem đến cho Gióp sự yên ủi ông cần. Những
lời của họ “được nói êm dịu” (c.11, NIV), nhưng lời nói của Gióp được nói trong
sự giận dữ. Ba người bạn đang hầu việc Đức Chúa Trời, còn Gióp đang chống đối
Ngài.
Kế đến, Ê-li-pha lặp lại sứ điệp mà
ông đã trình bày trong lần diễn thuyết thứ nhất của mình (c.14-1-6 4:17-19), Gióp đã từ chối tiếp nhận nó lần thứ
nhất, nhưng có lẽ giờ đây sẽ tiếp nhận nó để ông đau khổ hơn. Nếu từng trời
không tinh sạch trước mặt Đức Chúa Trời, các thiên sứ trên trời cũng vậy, thì
một người đơn thuần làm sao có thể tuyên bố mình vô tội? Loài người được sinh
ra với một bản chất tội lỗi và có một sự khao khát về tội lỗi và Gióp không
phải là sự ngoại lệ. Mọi điều này dọn đường cho lời cảnh cáo thứ hai của
Ê-li-pha.
Đức Chúa Trời xét đoán
kẻ ác (Giop 15:17-35): Trong
lần diễn thuyết thứ nhất, Ê-li-pha mô tả những phước hạnh của người tin kính (5:17-26). Nhưng giờ đây ông mô tả những hoạn nạn
của kẻ bất kính. Ê-li-pha cẩn thận nhắc nhở Gióp rằng đây không phải là những
tư tưởng của mình ông, nhưng các bậc tiền nhân đều đồng ý với ông. Nếu Gióp
chối bỏ điều Ê-li-pha nói, tứ là ông đang quay lưng với sự khôn ngoan của tổ
phụ họ. Ê-li-pha là người tìm thấy sức mạnh vĩ đại trong truyền thống và ông
quên rằng “truyền thống là người hướng dẫn chứ không phải một cai ngục.”
(W.S.Maugham).
Khi bạn đọc sự mô tả này về kẻ ác,
bạn sẽ nhận thấy Ê-li-pha đang nói về Gióp. Rằng, Gióp ở trong sự đau đớn, tối
tăm, hoạn nạn, thống khổ và sợ hãi. Ông đang coi thường Đức Chúa Trời, dám
thách thức Đức Chúa Trời gặp ông và chứng minh ông có tội. Lửa đã hủy diệt bầy
chiên của Gióp (Giop 1:16 15:30,34), những kẻ cướp đã cướp đi bầy lạc đà của ông (1:17 15:21),
ông đã mất tất cả của cải (c.29). Và nhà của con trai cả của ông đã bị gió hủy
hoại, đem đi tất cả các con của ông (1:19 15:28). Ê-li-pha chẳng tế nhị gì trong cách tiếp
xúc của ông, mọi người đều biết ông đang nói về Gióp.
Nhưng trong những lời cuối của mình
(c.34-35), Ê-li-pha đã đưa ra cú đánh hiểm hóc nhất: Ông gọi Gióp là kẻ giả
hình và bất kính, ông trách mắng Gióp về những bi kịch đã xảy đến với Gióp cùng
gia đình. Gióp đã âm thầm “thụ thai” tội lỗi, và giờ đây tội lỗi đã sanh ra
hoạn nạn và sự chết (Gia 1:14-15 Es 59:4 Thi 7:14).
“Tử cung của họ thai dựng nên mưu gian” là cách diễn dịch Giop 15:35 theo bản NIV, và từ được dịch là “tử
cung” này giống như chữ “bụng” trong câu 1. Theo Ê-li-pha, nếu bạn chụp Gióp
bằng tia X, tất cả những gì bạn thấy sẽ là khí nóng và tội lỗi! “Kẻ giả hình”
là một từ chính trong từ vựng của ba người bạn Gióp. Binh-đát đã gợi ý rằng
Gióp là một kẻ giả hình (8:13) và Sô-pha lẫn
Ê-li-pha cũng sẽ nêu lên chủ đề này (20:5 34:30 36:13).
Dĩ nhiên, Gióp phủ nhận lời tố cáo này (13:16
17:8 27:8)
và lý luận rằng Đức Chúa Trời và các bạn ông cũng không thể chứng minh nó đúng.
Vấn đề nhận định của
Ê-li-pha về sự xét đoán kẻ ác đó là không phải lúc nào nó cũng đúng trong đời này. Nhiều kẻ ác trải qua đời sống rõ ràng là sung
sướng và thành công, trong khi nhiều người tin kính lại hay phải nếm trải hoạn
nạn và sự thất bại hầu đến. Đúng là cuối cùng
kẻ ác chịu khổ và người tin kính được phước, nhưng trong thực tế, tình hình đôi
khi ngược lại (Thi 73:1-28 Gie 12:1-4). Hơn nữa, Đức Chúa Trời chiếu ánh sáng
mặt trời trên kẻ xấu lẫn người tốt, ban mưa trên người công bình cùng kẻ gian
ác (Mat 5:45). Ngài nhẫn nhục đối với tội
nhân (IIPhi 3:9) và chờ đợi sự nhân từ Ngài
dẫn họ đến sự ăn năn (Ro 2:4 Lu 15:17-19).
Sự xét đoán lớn nhất mà Đức Chúa
Trời có thể giáng cho kẻ ác trong đời này sẽ là Ngài cứ để cho họ làm theo ý riêng của họ. “Họ sẽ có phần thưởng của mình” (Mat 6:2,5,16). Thiên đàng duy nhất mà kẻ bất kính sẽ biết là
sự hưởng thụ mà họ đã có trên đất trong đời này, và Đức Chúa Trời sẵn sàng để
họ có điều đó. Hoạn nạn duy nhất mà người tin kính sẽ trải qua là trong đời
này, vì trên thiên đàng sẽ không có đau khổ hay nước mắt. Hơn nữa, hoạn nạn mà
dân sự Đức Chúa Trời kinh qua giờ đây đang diễn ra vì cớ họ và ngày nào
đó sẽ dẫn đến sự vinh hiển (IPhi 1:6-8 5:10 IICo 4:16-18
Ro 8:18). Ê-li-pha và các bạn ông đều đang ở
trong tình trạng bối rối.
2.Gióp: ba lời đề nghị (Giop 16:1-22)
Phản ứng của Gióp là thốt ra ba lời
đề nghị chân thành. Thứ nhất, yêu cầu các bạn ông thông cảm (Giop 16:1-14), kế đến, cầu xin Đức Chúa Trời ban
sự công bình (c.15-22) và cuối cùng, nài xin Đức Chúa Trời chấm dứt đời sống
ông và giải thoát ông khỏi hoạn nạn (17:1-16).
Yêu cầu được thông cảm (Giop 16:1-14): Các bạn của
Gióp vẫn không đồng cảm với hoàn cảnh của ông. Họ không cảm nhận sự thống khổ
hay sự bối rối của ông. Gióp gọi họ là những con suối lừa dối (6:15) và là những thầy thuốc không ra gì (13:4 NIV) còn giờ đây ông gọi họ là những kẻ an ủi
bực bội (16:2). Tất cả những nỗ lực của họ
để an ủi ông chỉ làm cho ông thêm khốn khổ mà thôi, như câu châm ngôn nói: “Bạn
bè kiểu đó quá cha kẻ thù!”
Gióp bảo đảm với họ rằng, nếu họ ở trong hoàn cảnh của ông, ông sẽ đối xử với họ bằng sự
cảm thông sâu sắc hơn chứ không như điều họ đã bày tỏ đối với ông. Thay vì tuôn
ra những lời nói dài dòng, ông sẽ cho họ những lời an ủi, ông sẽ lắng nghe bằng
tấm lòng mình và tìm cách giúp đỡ họ, mang lấy những gánh nặng của họ. Đôi khi
chúng ta phải trải qua sự hiểu lầm của những người bạn thiếu cảm thông để học
cách giúp đỡ người khác. Đây là một kinh nghiệm mới đối với Gióp, và ông đang
tìm cách tận dụng nó. Tuy nhiên, dù Gióp nói hay im lặng, ông vẫn là một người
đang đau khổ (c.6). Trong lời kêu gọi của ông về sự cảm thông yêu thương, Gióp
cho các bạn ông biết ông đang nhận điều gì từ tay Đức Chúa Trời (c.7-14). Gióp
trở nên mệt nỏi, gia đình ông tan nát, ông cằn cỗi và yếu đuối. Con người và
Đức Chúa Trời đều tấn công ông. Gióp cảm giác như Đức Chúa Trời đã vẽ một mục
tiêu trên lưng ông và trao cho mọi người cả cung tên lẫn mũi tên! Không có sự
giải vây Đức Chúa Trời cứ tấn công ông như một quân nhân nghiêm khắc. “Tôi
không tấn công Đức Chúa Trời nhưng Ngài đã tấn công tôi!” Đức Chúa Trời là kẻ
thù của ông (16:9 13:24) và không có điều
gì Gióp có thể làm sẽ đem lại sự hòa hoãn, Nếu Gióp nhìn lên, Đức Chúa Trời
chống lại ông. Nếu ông nhìn quanh, bạn hữu ông chống lại ông. Ông có thể hướng
về đâu bây giờ? Cầu xin sự công bình (Giop 16:15-22):
Gióp đã phản ứng ra sao với những sự tấn công của Đức Chúa Trời? Ông đã mặc bao
gai, khóc trong sự hạ mình và ăn năn, giấu mặt
trong bụi đất. Mặc cho những lời tố cáo của Ê-li-pha (15:4-6),
Gióp biết ông ngay thẳng trước mặt Đức Chúa Trời và Ngài sẽ nghe lời cầu nguyện
của ông (16:17).
Gióp bị vướng vào tình trạng tiến
thoái lưỡng nan. Nỗi khổ của ông quá lớn đến nỗi ông ao ước được chết, nhưng
ông không muốn chết trước khi ông có thể bào chữa cho chính mình hoặc nhìn thấy
Đức Chúa Trời bào chữa cho ông. Điều này giải thích lý do ông kêu than trong
câu 18: “Ôi, đất, chớ lấp huyết ta, và hãy
để tiếng kêu than của ta không có nơi ngơi nghỉ!” (NKJV). Người xưa tin rằng
huyết của những nạn nhân vô tội kêu than đến Đức Chúa Trời về sự công bình (Sa 4:8-15) và linh hồn của người chết không yên
nghỉ cho đến khi những xác chết được chôn cất thích đáng (Es 26:21). Thậm chí nếu Gióp chết, ông sẽ không
yên nghỉ cho đến khi ông được Chúa chứng minh là công bình. Sự kêu cầu được lặp
đi lặp lại của Gióp cốt là để nhận được một sự xét xử công bình trước Chúa (Giop 9:1-4,14-16,19-20,28-35 10:2 13:6-8,19). Ông đã than van việc ông không có người bào
chữa để đại diện cho ông trước ngôi Đức Chúa Trời (9:33).
Không người nào trong số các bạn ông sẽ binh vực ông, vì vậy hy vọng duy nhất
của ông là Đức Chúa Trời trên trời sẽ bênh vực và làm chứng cho sự chính trực
của ông (16:19). Nhưng Gióp ao ước ai đó cầu
xin Đức Chúa Trời thay ông (c.21). Cơ Đốc nhân có Đấng cầu thay ở trên trời là
Chúa Giê-xu Christ (IGi 2:1-2), là Thầy Tế
lễ Thượng phẩm, là Đấng Trung Bảo ban ân điển đắc thắng cho chúng ta khi chúng
ta đối diện cám dỗ và thử thách (He 2:17-18 4:14-16). Nếu chúng ta thất bại, Ngài là Đấng cầu
thay, tha thứ và phục hồi khi chúng ta xưng nhận tội lỗi cùng Ngài (IGi 1:5-2:2).
Dĩ nhiên, Gióp cần một “luật sư” để
biện hộ vụ kiện của ông trước mặt Đức Chúa Trời và thuyết phục Ngài rằng ông vô
tội. Một khi Gióp đã thắng vụ kiện của ông, thì Đức Chúa Trời sẽ bào chữa cho
ông trước những người bạn đang chỉ trích ông, và phục hồi danh dự cho ông. Dân
sự Đức Chúa Trời không cần người trung gian đó vì Cha và Con hiệp nhất hoàn
toàn trong tình yêu dành cho chúng ta và có kế hoạch cho đời sống chúng ta.
Chúa Giê-xu Christ mãi mãi sống để thực hiện sự cầu thay cho dân Ngài (Ro 8:31-39 He 7:25)
và để hoàn thiện họ trong ý muốn Đức Chúa Trời (13:20-21).
Chúng ta đến trước ngôi ơn phước, không phải ngôi xét
đoán, và chúng ta có sự tin quyết rằng Cha yêu thương sẽ làm điều tốt nhất cho
chúng ta.
Cầu xin được chết (Giop 17:1-16): Một lý do Gióp muốn Đấng cầu thay
trên trời hành động nhanh chóng, đó là vì ông cảm thấy sự chết rất gần, là hành
trình không bao giờ trở lại (Giop 16:22
NIV). Khi con người quá đau khổ đến nỗi linh hồn tan vỡ (17:1 NIV NASB) khiến họ thua “trận” và muốn được
chết. Các bạn của Gióp chống lại ông, và sẽ đi đến tòa để “bảo lãnh” cho ông
(c.3-5). Con người đã đối xử với Gióp như thể ông là cặn bã của đất (c.6). Thân
thể ông chỉ là cái bóng của những gì đã tồn tại
(c.7), và mọi kế hoạch của ông đã tiêu tan (c.11). Các bạn ông sẽ không thay
đổi ý định và đến bênh vực ông (c.10). Thật ra, họ sẽ không thành thật đối diện
với hoàn cảnh của ông, nhưng họ cứ cho ông biết rằng ánh sáng sẽ sớm hiện ra
cho ông (c.12). Vậy chúng ta có lấy làm ngạc nhiên khi Gióp thấy sự chết là
giải pháp duy nhất cho ông chăng?
Tuy nhiên, không khi nào
Gióp nghĩ đến việc tự hủy diệt sự sống của mình hay nhờ ai làm điều đó. Đời
sống là một món quà quí giá thiêng liêng từ Đức Chúa Trời, chỉ có Đức Chúa Trời
mới có thể ban cho và cất nó đi. Một mặt Gióp muốn sống lâu để thấy mình được
bào chữa, nhưng mặt khác, ông không biết mình có thể chịu đựng đến đâu! Một khi
đã vào địa phận của người chết, ông không thể được bào chữa trên đất nếu Đức
Chúa Trời không đem ông trở lại.
Gióp mô tả Âm phủ như
nhà của ông, nơi ông sẽ nằm xuống trong sự tối tăm và yên nghỉ (c.3). Vì ông
không có gia đình, ông sẽ chọn cái huyệt (hoặc “sự thối nát”) làm cha mình và
sâu bọ cắn xé làm mẹ hoặc chị em mình. Chúng sẽ cho ông sự yên ủi hơn các bạn
ông!
Nhưng sẽ có hy vọng gì
nơi phần mộ? Gióp có thể đem theo hy vọng cùng với ông đến Âm phủ chăng?
Phao-lô trả lời câu hỏi: “Nếu chúng ta chỉ có hy vọng trong Đấng Christ về đời
này mà thôi, thì trong cả mọi người, chúng ta là kẻ khốn nạn hơn hết. Nhưng bây giờ, Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại, và trở nên trái
đầu mùa của những kẻ ngủ” (ICo 15:19-20
NKJV). Hy vọng của chúng ta không hề qua đi, cũng không bị chôn vùi trở nên hư
nát vì hy vọng của chúng ta là “niềm hy vọng sống” nhờ bời Đấng Christ đã đắc
thắng sự chết và phần mộ! Cơ đốc Nhân ngày nay tuy có gặp phải sự sầu não, nhưng
chắc chắn họ không sầu não “như những người không có sự trông cậy”. (I Te 4:13)
Đức chúa Trời không đáp lời cầu xin
được chết của Gióp bởi vì Ngài có điều tốt hơn dành
cho ông. Chúa nhìn thấy hết cả tình trạng khốn khổ, ngã lòng và cay đắng của
Gióp, Ngài cũng thấy ông vẫn còn có đức tin nơi Ngài. Khi tôi còn là một mục sư
trẻ tuổi, tôi có nghe được một người nọ sống rất thánh thiện và từng trải nói
rằng: “Tôi sống lâu là nhờ tôi không được Chúa đáp lời cầu nguyện”. Lúc đó, tôi
rất ngạc nhiên khi nghe như vậy; nhưng giờ đây tôi nhận thấy chính bản thân tôi
cũng đã được sống thêm nhiều năm và tôi hiểu ra được ý của lời vị thánh đồ kia
muốn nói gì. Trong bóng đêm thất vọng và trong nhà tù đau đớn, chúng ta
thường hay nói ra những lời để rồi về sau phải hối hận; nhưng Đức Chúa Trời
luôn luôn hiểu hết mọi điều, và bởi lòng yêu thương, Ngài sẽ xây tai điếc về
phía những lời mà chúng ta đã nói đó, nhưng đồng thời Ngài hướng mắt nhìn về
phía có các vết thương của chúng ta.
Giá như mà người diễn
thuyết kế tiếp đã bày tỏ được sự cảm thông của mình với người đang bị đau đớn
tổn thương này nhỉ! Nhưng Binh-đát lại chính là người gây sợ hãi cho Gióp nhiều
nhất bằng tài dí dỏm của ông và bằng các hình ảnh sống động mô tả về sự chết
được tìm thấy tại những chỗ nào đó trong Kinh Thánh.
Giop 17:1-16; xem giải nghĩa Giop 15:1-16:22
PHẦN CHUYỂN TIẾP
Cách tốt nhất để giúp đỡ
những người nản lòng và bị tổn thương là lắng nghe bằng tấm lòng của bạn chứ
không phải chỉ bằng đôi tai. Không
phải ở điều họ nói, nhưng lý do họ
nói mới là điều quan trọng. Hãy để họ biết rằng bạn hiểu nỗi đau của
họ bằng cách phản chiếu lại nỗi niềm của họ bằng
những từ ngữ khác đúng y như những gì họ đã nói với bạn. Đừng lý
luận hay tìm cách thuyết phục họ bằng lý lẽ lô-gic. Sau này sẽ có thời gian cho
điều đó, nhưng ngay lúc ấy, hãy kiên nhẫn tiếp nhận cảm xúc của họ thậm chí là
những lời cay đắng của họ nghịch với Đức Chúa Trời và hãy xây dựng những chiếc
cầu chứ không phải những bức tường.
Trong cuốn sách của mình nói về cái
chết của người vợ “A Grief Observed”,
C.S. Lewis đã viết từ kinh nghiệm đau đớn của chính ông: “Hãy nói với tôi về
chân lý của tôn giáo, và tôi sẽ lắng nghe cách vui
mừng. Hãy nói với tôi về nhiệm vụ của tôn giáo và tôi sẽ ngoan ngoãn nghe theo.
Nhưng đừng nói với tôi về sự an ủi của tôn giáo, nếu không tôi sẽ nghi ngờ bạn
không hiểu” (trang 23).
Có sự an ủi thật trong
đức tin của chúng ta, nhưng nó không bị pha chế thành những liều thuốc thích
hợp giống như thuốc ho vậy. Nó có thể được
chia xẻ chỉ bởi những ai cảm biết được cảm giác của người đang lúc bị sa xuống
vực sâu thăm thẳm mà lại cảm thấy như thể Đức Chúa Trời đã lìa bỏ họ vậy.Nếu
bạn muốn trở nên một người yên ủi thì quả thật bạn
phải trả giá, và không phải ai cũng sẵn sàng trả giá. Phao-lô đã viết về điều
này trong IICo 1:3-11
John Henry Jowett nói:
“Đức Chúa Trời yên ủi chúng ta không phải để làm cho chúng ta dễ chịu, nhưng để
khiến chúng ta trở nên những người yên ủi.” Sự yên ủi của
Đức Chúa Trời không bao giờ được ban cho, nhưng nó luôn được cho vay. Đức Chúa Trời mong chúng ta chia xẻ nó với người khác.
“Sự
chết là cuộc mạo hiểm lớn mà bên cạnh nó những cuộc đổ bộ lên mặt trăng và
những chuyến du hành vũ trụ trở nên mờ nhạt một cách vô nghĩa”.
(Joseph Bayly)
6. CÓ PHẢI KẺ THÙ ĐÍCH THỰC MUỐN DẤY LÊN CHĂNG? (Giop 18:1-19:29)
Binh-đát mở đầu lần diễn
thuyết thứ hai của ông bằng những lời tương tự ông
đã sử dụng trong lần diễn thuyết thứ nhất: “Cho đến chừng nào?” (Giop 18:2 8:2)
và Gióp đã nói điều tương tự khi ông đáp lời (19:2).
Những người bạn đã trở nên mất kiên nhẫn với nhau vì cuộc nói chuyện của họ
dường như không đi đến đâu. George Bernard Shaw ví sánh cuộc nói chuyện thông
thường với “một cái máy hát có nửa tá đĩa thu bạn chẳng bao lâu sẽ chán ngấy
tất cả.”
Binh-đát khiển trách Gióp về sự bế
tắc và khuyên Gióp: “Hãy biết điều rồi chúng tôi có thể nói” (18:2 NIV). Binh-đát chưa bao giờ nhận ra rằng ông
và hai bạn ông đang chơi lặp lại những giai điệu giống nhau: (1) Đức Chúa Trời
là công bình, (2) Đức Chúa Trời trừng phạt kẻ ác và chúc phước người công bình,
(3) vì Gióp chịu khổ, ông phải là kẻ ác, (4) nếu ông từ bỏ tội lỗi, Đức Chúa
Trời sẽ lại chúc phước cho ông. Họ lại đang đi lòng vòng!
Binh-đát nói rằng Gióp không biết
điều, cũng không tỏ lòng tôn trọng bạn bè. Ông đang đối xử với các bạn mình như
thú vật ngu đần thay vì như những người khôn ngoan thật sự (c.3). Gióp cũng cáu
kỉnh bày tỏ sự giận dữ thay vì sự khiêm nhường (c.4). Binh-đát hỏi: “Phải chăng
Đức Chúa Trời được đề nghị sắp xếp lại cả thế gian chỉ vì ông? Ngài phải tàn
phá đất bằng chiến tranh hoặc thậm chí giáng một trận động đất chỉ vì ông ư?”
Ê-li-pha không phải là người duy nhất biết cách sử dụng lời chế nhạo!
Tuy nhiên, Binh-đát định sử dụng một
vũ khí mạnh hơn cả lời chế nhạo nữa. Vũ khí của ông là sự sợ hãi. Nếu ba người bạn không thể cãi lẽ
với Gióp, hoặc làm Gióp hổ thẹn trong sự ăn năn, thì có lẽ họ nên làm Gióp sợ
hãi bằng cách mô tả điều gì xảy ra khi kẻ ác chết.
Trước khi chúng ta nghiên cứu lời
nói đáng sợ của Binh-đát, chúng ta nên chú ý rằng sự sợ hãi là cảm xúc bình
thường của con người và không có gì sai trái khi nói về nó cả. Chúng ta sử dụng
sự sợ hãi về bệnh hoạn, thương tích hay sự chết để dạy con cái rửa tay, tránh
xa đường dây điện và nhìn cẩn thận trước khi băng qua đường. Sự sợ hãi cái chết
khích lệ chúng ta có sự kiểm tra tổng quát hằng năm về sức khỏe.
Sự sợ hãi cái chết (và sự xét đoán
tiếp theo) là một động cơ chính đáng để tin cậy Chúa Giê-xu Christ và được cứu.
Chúa Giê-xu phán: “Nhưng thà sợ Đấng có thể hủy diệt cả linh hồn và thân thể
trong địa ngục” (Mat 10:28 NKJV). Chúa Giê-xu
đã rao giảng một sứ điệp nhân từ về tình yêu, nhưng Ngài cũng rao giảng sứ điệp
nghiêm khắc về sự xét đoán. Phao-lô viết: “Vì vậy, biết sự đáng sợ của Chúa,
chúng tôi thuyết phục người ta” (IICo 5:11).
Khi Jonathan Edwards giảng bài giảng của mình: “Tội Nhân Trong Tay Đức Chúa
Trời Đang Nổi Cơn Thịnh Nộ”, ông đã không vi phạm bất cứ nguyên tắc nào về tâm
lý hay Kinh Thánh. Những xúc cảm của người không tin phải được khuấy động trước
khi tâm trí họ có thể được chỉ dẫn và ý chí họ được thách thức.
Tuy nhiên Binh-đát đã phạm hai sai
lầm khi ông đưa ra lời nói này về những nỗi kinh khiếp của sự chết. Trước hết,
ông rao giảng nó cho không đúng đối tượng vì Gióp đã là một tín đồ (Giop 1:1,8). Thứ hai, ông rao giảng với động cơ sai lầm, vì
không có tình yêu trong lòng ông. Tiến sĩ R.W.Dale, một mục sư người Anh, có
lần đã hỏi nhà truyền giáo D.L. Moody rằng ông đã từng sử dụng “yếu tố về sự
kinh khiếp” trong sự rao giảng của ông hay không. Moody đáp ông thường giảng
một bài giảng về thiên đàng và một bài giảng về địa ngục trong mỗi chiến dịch
của ông, nhưng “lòng người phải rất dịu dàng” khi rao giảng về số phận của kẻ
hư mất. Mà Binh-đát thì lại không có tấm lòng dịu
dàng đó.
1. Những nỗi kinh khiếp về sự chết (Giop 18:5-21)
Trong bài nói chuyện
này, Binh-đát vẽ ra 4 bức tranh sinh động về sự chết của kẻ ác.
Ánh sáng tắt (Giop 18:5-6): Ánh sáng có liên hệ với sự sống
tương tự như sự tối tăm liên hệ với sự chết. Vì Đức Chúa Trời là tác giả của sự
sống, chỉ có Ngài mới có thể “thắp sáng ngọn đèn của chúng ta”, vì “Ngài ban
cho mọi sự sống, hơi sống và muôn vật” và “trong Ngài chúng ta được sống động
và có” (Cong 17:25,28 NKJV). Bức
tranh ở đây mô tả về một ngọn đèn treo trong căn lều và có lửa cháy âm ỉ trong
nồi lửa. Thình lình, đèn tắt, rồi tia sáng cuối cùng của lửa biến mất, căn lều
chìm trong sự tối tăm hoàn toàn (Ch 13:9 24:20).
Giống như ngọn lửa của đèn hoặc tia
lửa trong đống than, đời sống là một điều quí báu nhưng tinh tế. Nó không cần
một ngọn gió mạnh mới thổi tắt, “chỉ còn một bước cách tôi và sự chết mà thôi”
(ISa 20:3). Ông trùm báo chí Mỹ là William
Randolph Hearst đã không bao giờ cho phép ai đề cập đến sự chết trước mặt ông.
Nhưng vào ngày 14 tháng 8 năm 1951, ngọn lửa đời ông đã tắt. “Linh hồn của con
người là ngọn đèn của Đức Giê-hô-va” (Ch 20:27)
và Đức Chúa Trời có thể thổi tắt ngọn đèn đó bất cứ lúc nào Ngài muốn.
Một lữ khách bị mắc
bẫy (Giop 18:7-10): Sợ hãi, người đàn ông rời khỏi trại mình và bắt đầu đi xuống
đường, tìm một nơi an toàn. Nhưng con đường trở nên nơi nguy hiểm nhất, vì nó
bị giăng bẫy. Binh-đát sử dụng 6 từ khác nhau để mô tả những hiểm họa mà con
người đối diện khi họ tìm cách chạy xa khỏi sự chết:
- Một
tấm lưới - giăng ngang con đường để bắt giữ
ông.
- Một
bẫy giăng - phủ trên cái hố sâu.
- Một
bẫy sập - một “cái bẫy” có dây thòng lọng
bật lên khi bị chạm tới, ông bị bắt giữ ở phần ống cổ chân.
- Một kẻ
cướp - bất kỳ mối nguy hiểm nào.
- Một
bẫy dò - có thòng lọng giấu dưới đất.
- Một
cái bẫy nào đó bất kỳ - bất
cứ thiết bị nào dùng để bắt mồi.
Những thiết bị này được
sử dụng để bắt chim và thú chứ không phải bắt người, nhưng kẻ ác giống như con
thú vì hắn đã để Đức Chúa Trời ra khỏi đời sống mình.
Dù kẻ lữ hành có túc trí
đa mưu đến đâu thì người vẫn có thể không tránh khỏi mắc bẫy. Và càng cố gắng,
người càng trở nên yếu đuối hơn (Giop 18:7). Sự tối tăm
và giận dữ vây lấy người khiến người mất hết hy vọng.
Một phạm nhân bị truy
sát (Giop 18:11-15): Sự chết là “vua của sự kinh khiếp” (c.14), quyết định bắt
giữ phạm nhân dù hắn trốn ở đâu. Nếu phạm nhân bỏ trốn đang chạy trên đường,
thoát khỏi bẫy, thần chết sẽ lại sai một số bọn tay chân tùy tùng giúp đỡ hắn
đuổi bắt kẻ ấy. Sự kinh khiếp làm người sợ hãi, thiên tai ăn mòn sức mạnh
người, tai họa chờ người vấp ngã (c.11-12 NIV).
Phạm nhân sợ hãi trở nên
yếu đuối dần nhưng vẫn cố gắng tiếp tục đi. Nếu người lại liều mình chạy trốn
nữa, thì những kẻ đuổi bắt người sẽ cố sức tìm cho ra người, bắt lại và lôi
người đến nộp cho vua của sự kinh khiếp. Họ lấy mọi thứ ra khỏi lều của người,
đốt lều rồi rải diêm sinh trên đống tro. Như vậy, kết thúc cuộc đời kẻ phạm
nhân ấy chỉ còn lại lửa và diêm sinh!
Một cây bị bứng gốc (Giop 18:16-21): Đôi khi sự chết không kịch tính và
bất ngờ như bắt giữ một phạm nhân. Sự chết có thể đến từ từ, giống như sự chết
dần của một cái cây. Gốc khô đi, các nhánh bắt đầu héo, và những nhánh chết lần
lượt bị chặt bỏ. Chẳng bao lâu, cây hoàn toàn chết, và con người đốn nó xuống.
Sự chết của cây minh họa sự tuyệt tự của một gia đình, một “dòng họ”. Không chỉ
bản thân kẻ ác bị cắt bỏ, mà tất cả các nhánh cũng bị chặt. Nó chẳng để lại con
cháu nào để nối danh nó. (Hãy nhớ, tất cả các con cái của Gióp đều đã bị giết
chết bởi cơn gió lớn). Ở phương Đông, sự tuyệt tự của một gia đình bị xem như
một bi kịch lớn.
Gióp dùng hình ảnh một cây xanh minh
hoạ cho niềm hy vọng được hồi sinh (14:7-11),
nhưng Binh-đát không đồng ý như vậy. Theo Binh-đát, một khi cây đó đã bị đốn
xuống rồi thì thế là hết; như vậy kẻ ác sẽ không có chút hy vọng gì cho tương
lai cả.
Mặc dù Binh-đát đang nói với không
đúng đối tượng và động cơ để nói thì sai lầm, tuy nhiên, điều ông nói về sự
chết phải được hiểu cách nghiêm túc. Sự chết là kẻ thù mà tất cả những ai chưa
chuẩn bị để chết đều sợ hãi (ICo 15:26) và
cách duy nhất để chuẩn bị là tin nhận Chúa Giê-xu Christ (Gi 5:24).
Đối với Cơ Đốc nhân, sự chết nghĩa
là trở về nhà với Cha trên trời (Gi 14:1-6),
nằm ngủ trên đất và thức dậy trên trời (Cong 7:60
Phi 1:21-23), bước vào sự yên nghỉ (Kh 14:13), và đi vào ánh sáng rực rỡ hơn (Ch 14:18). Không bức tranh nào mà Binh-đát đã sử
dụng sẽ được ứng dụng cho những ai đã tin nơi Chúa để được sự cứu rỗi.
2.Những thử thách cuộc đời (Giop 19:1-29)
Khi Binh-đát mô tả xong
những nỗi kinh khiếp của sự chết, Gióp đáp lại bằng cách mô tả những thử thách của đời sống chính
ông. Ông nói với các bạn mình, “Tôi không phải chết để
kinh nghiệm những thử thách. Tôi đang kinh nghiệm chúng
ngay bây giờ, và các bạn dường như không quan tâm đến điều này thì phải.”
Những lời lăng mạ (Giop 19:1-4): Lời nói của chúng ta sẽ làm tổn
thương người khác hoặc chữa lành họ. Chúng ta sẽ thêm gánh nặng cho họ hoặc
mang gánh nặng của họ bằng sự can đảm. Các bạn Gióp đã giày vò ông bằng lời nói
của họ, họ khiến ông cảm thấy mình vô giá trị và vô
vọng khi đối diện với mọi đau khổ của mình. Chúng ta cần phải nhạy cảm biết bao
trước những nhu cầu và những cuộc chiến đấu của người khác! Cho dù con người
cần sự khiển trách, chúng ta cũng hãy làm điều đó trong tình yêu. Và lời nói
chúng ta phải động viên họ chứ không phải khiến họ yếu đuối thêm!
Gióp nói trong 19:4 “Dẫu ta đã
phạm tội, đó là tội của ta chứ không phải của các ngươi. Đức Chúa Trời và ta có
thể nghĩ ra mọi việc, vậy hãy để ta yên”. Từ Gióp sử dụng “một tội lỗi không cố
ý” là “erred”. Gióp vẫn bênh vực sự chính trực của mình và tuyên bố rằng ông đã
không phạm tội lỗi nào để đáng phải nhận mọi đau khổ mà ông đã chịu.
Binh-đát đã trình bày 4 hình ảnh đáng sợ về sự chết, vì vậy Gióp chống trả lại bằng 7 hình
ảnh sinh động về những thử thách của đời ông, điều ông đang kinh nghiệm ngay
lúc ấy.
Ông cảm thấy mình giống như con vật bị mắc bẫy
(19:6). Gióp thấy mình bị bắt giữ trong
lưới của Đức Chúa Trời, không phải vì những tội lỗi của ông nhưng vì Đức Chúa
Trời đã gài bẫy ông. Binh-đát mô tả 6 loại bẫy sẽ bắt giữ một phạm nhân chạy
trốn (18:7-10) nhưng Gióp không đặt mình vào
bức tranh đó. Ông đã không chạy trốn khỏi Đức Chúa Trời, ông cũng không phạm
tội. Chính Đức Chúa Trời đã bất ngờ bắt ông vì những lý do mà Gióp không hiểu.
Ông cảm thấy mình giống như
một phạm nhân tại tòa (19:7). Đức Chúa Trời đã ngược đãi ông bằng cách
bắt giữ và đem ông vào sự xét đoán. Nhưng ông đã làm gì nên tội? Vì sao những
sự buộc tội không được đọc trước ông? Vì sao ông không được phép có sự binh
vực, chống đỡ nào? “Dù tôi kêu cầu sự giúp đỡ, không có sự công bình” (c.7
NIV). Xuyên suốt cả nội dung sách, Gióp cầu xin sự công bình và kêu la, xin có
được một người bào chữa, biện hộ thay để bênh vực ông trước mặt Đức Chúa Trời.
Có điều Gióp không nhận ra, đó là chính ông là người phải đứng ra bào chữa,
bênh vực cho Đức Chúa Trời ! Bởi đức tin và sự cầu chịu đựng của Gióp đã
chứng minh Sa-tan sai và qui vinh hiển về cho Chúa.
Gióp thấy mình giống như một lữ khách bị chặn đường (19:8). Sa-tan lằm bằm, kiện cáo rằng Đức Chúa Trời
đã “dựng hàng rào” quanh Gióp và gia đình ông để họ được bảo vệ khỏi hoạn nạn (1:9-12). Giờ đây Gióp đang phàn nàn vì Đức Chúa
Trời đã chặn đường và ông không thể đi được. Gióp không thể thấy điều gì ở phía
trước vì Đức Chúa Trời đã che phủ con đường bằng sự tối tăm.
Có những lúc Đức Chúa Trời để cho
con cái Ngài kinh nghiệm sự tối tăm trong ngõ cụt, nơi họ không có đường để tẻ
tách. Khi điều này xảy ra, hãy chờ đợi Chúa ban cho bạn ánh sáng vào đúng
thời điểm của Ngài. Đừng cố gắng tạo ra ánh sáng của riêng bạn hoặc mượn
ánh sáng của người khác. Hãy làm theo lời khuyên khôn ngoan của Ê-sai, “Ai trong
các ngươi kính sợ Đức Giê-hô-va? Ai vâng theo tiếng của tôi tớ Ngài? Ai bước đi
trong sự tối tăm và không có sự sáng? Hãy tin cậy danh Đức Giê-hô-va và nương
nhờ Đức Chúa Trời mình” (Es 50:10 NKJV).
Tiến sĩ Bob Jones thường nói: “Dù ở
trong sự tối tăm, nhưng đừng bao giờ nghi ngờ điều mà Đức Chúa Trời đã dạy bạn
trong sự sáng.” Thật ra, điều Đức Chúa Trời dạy chúng ta trong sự sáng sẽ trở
nên ý nghĩa hơn trong sự tối tăm.
Oswald Chambers đã viết: “Ôi! Khó mà
diễn tả hết được bằng lời “những bí ẩn của bóng đêm”!
Không phải những ngày đầy nắng rực rỡ huy hoàng, tràn ngập tự do và sự sáng mà
chính là các đêm của những ngày ấy, là những đêm có Thánh Linh Chúa hiện diện,
được bàn tay Đức Chúa Trời che phủ, được ẩn giấu trong hốc đá tối tại một nơi
nào đó dễ gây chán nản lòng người, đã để lại trong tâm hồn chúng ta những dấu
ấn đời đời không phai mờ; và Chúa thường để vẻ đẹp huy hoàng kia của Ngài chiếu
sáng chỉ để cho chúng ta ngắm nhìn, thưởng ngoạn mà thôi.”
Hoạn nạn của Gióp khiến
ông cảm thấy mình giống như một vị vua bị truất ngôi (Giop
19:9). Trước khi những tai họa của ông đến, Gióp là người đứng đầu trong
xứ Út-xơ và là người cao trọng nhất ở Đông phương (1:3
29:1-25), nhưng giờ đây tất cả vinh dự và
quyền hạn đó đã mất. Đức Chúa Trời đã cất khỏi ông áo
choàng cùng vương miện của vua và giờ đây ông là người thấp hèn nhất thay vì là
ngôi sao sang nhất. Quả là nhục nhã biết chừng nào!
Bức tranh thứ năm của
ông mô tả về một công trình kiến
trúc bị tàn phá (Giop 19:10). Nó có thể
là một bức tường hoặc một tòa nhà bị “quân đoàn ” của Đức Chúa Trời bất ngờ đột
kích xuống và để lại quang cảnh điêu tàn. Có lẽ Gióp đã nhìn lại những công
việc kinh doanh hoặc các công việc gia đình của ông, hoặc có thể ông đã ngẫm
nghĩ về thân thể gầy còm của mình. Nhưng dù ở biến cố nào chăng nữa, thì những
gì đã từng cường thịnh và ích lợi, giờ đây đều trở nên vô ích cả vì bị tàn phá
hết rồi. Binh-đát đã nói về một lều trại bị tàn phá (18:15)
và Gióp biết điều này có nghĩa gì.
Trong bức tranh thứ sáu,
Gióp mượn hình ảnh một cây bị bứng gốc (19:10 18:16).
Gióp đã sử dụng cây như một bức tranh về sự hy vọng (14:7),
nhưng giờ đây ông thấy nó tựa hồ như một biểu tượng
của hy vọng đã bị đánh mất. Nhưng trong sách Gióp chương 14, ông nói về một cây
bị đốn bỏ, còn ở đây là cây đã bị bứng gốc. Và không có gốc rễ thì hiển nhiên cây không thể sống được.
Bức tranh cuối cùng của
Gióp là bức tranh về một thành phố bị bao
vây (19:11-12). Đức
Chúa Trời đã tuyên chiến với Gióp (13:24) và
đối xử với ông như một kẻ thù. Quân đoàn của Ngài đã tấn công và bắt đầu cuộc
bao vây lâu dài, gay go. Hãy tưởng tượng một đội quân đông đảo xây một đồi dốc
chỉ để tấn công một cái lều. Một lần nữa, Gióp không thể hiểu vì sao Đức Chúa Trời đã giáng quá nhiều hoạn nạn trên ông. Tại sao
người ta lại sử dụng một quả bom nguyên tử chỉ để phá hủy một chiếc lều?
Sự cô lập (Giop 19:13-22): Gióp tiếp tục giải thích hoạn nạn
của ông đã ảnh hưởng ra sao đến mối liên hệ của ông với con người. Ông phải
nhận ra rằng nỗi đau đớn cực độ và kéo dài thường cô lập những người chịu khổ với
con người và hoàn cảnh quanh họ. Khi người ta thật sự bị tổn thương, họ có thể
có xu hướng rút lui hoặc gây ấn tượng rằng người khác thật sự không hiểu điều
mình đang trải qua. Gióp cảm thấy bị xa lánh khỏi những người còn lại trong gia
đình ông, khỏi bạn hữu ông và thậm chí khỏi những tôi tớ của ông
Nhưng sự xa lánh này còn nhiều hơn
cả nỗi đau đớn của Gióp. Giờ đây ông bị phá sản và bệnh hoạn, sống ở đống rác
thành phố, và không ai muốn bầu bạn với ông. Hơn nữa, người ta tin rằng Gióp là
một tội nhân chịu sự xét đoán của Đức Chúa Trời, vậy tại ai dám làm bạn với ông
ta nữa? Bộ dạng của ông trông thật ghê tởm khiến người ta tránh nhìn ông. Ông
bị đối xử như một kẻ phong cùi, một người bị ruồng bỏ mà gia đình và bạn hữu
không cần đến nữa!
Một chứng cớ về sự thương xót của
Chúa chúng ta là cách Ngài tự hòa đồng với những kẻ bị ruồng bỏ. Ngài ăn với
“người thâu thuế và kẻ có tội”(Mat 9:9-13),
rờ đến người phung (Mat 8:1-4), nhận món quà
từ các kỹ nữ (Lu 7:36-50) và thậm chí chịu
chết giữa hai tội phạm (23:32-33). Chúa
Giê-xu đã nếm biết thế nào là “bị người ta khinh dể và chán bỏ, từng trải sự
buồn bực và quen với sự thống khổ” (Es 53:3).
Là môn đồ của Ngài, thật quan trọng biết bao khi chúng ta có lòng thương cảm
với người khác như vậy. Thật dễ để hòa đồng với những người chúng ta biết và
thích khi họ trải qua thử thách, nhưng chúng ta có xu hướng phớt lờ người cô
thế, nghèo khổ và làm lơ trước những hoạn nạn của họ.
Nhận định của Gióp trong 19:20 đã trở thành châm ngôn quen thuộc nhưng dễ
bị hiểu lầm: “Tôi được thoát ra bằng da của răng tôi.” Câu này thường được
trích dẫn, “tôi đã thoát bởi da của răng tôi”, nghĩa là “tôi chỉ thoát ra một
cách trơ trụi.” (Nếu có da trên răng chúng ta, nó sẽ dày ra sao?) Nhưng bản văn
Hê-bơ-rơ nói “bằng” chứ không phải “bởi” và những người bình giải không nhất
trí về ý nghĩa này.
Một số người gợi ý rằng Gióp muốn
nói “cho đến giờ tôi chẳng còn gì ngoài lợi răng còn lại của tôi!” Nhưng lợi
răng thường không được đề cập như “da của răng.” Những người khác cho rằng ông
muốn nói “Nếu có da trên răng tôi đó là cách tôi gần với sự chết!” Hoặc “thân
thể tôi quá gầy mòn đến nỗi tất cả những gì của tôi còn lại thì chỉ là da của
răng tôi mà thôi!” (Dĩ nhiên, ông đang cường điều hoá sự việc). Nhưng cho dù
Gióp đang nghĩ đến bất cứ điều gì đi chăng nữa, thì rõ ràng hình ảnh này cho
chúng ta thấy ở đây có một phép lạ: Gióp vẫn còn sống.
Gióp kết thúc phần bênh vực của ông
bằng cách yêu cầu các bạn ông hãy tỏ lòng thương cảm ông (c.21-22 6:14). Đức Chúa Trời đã chống lại ông, gia đình
cùng bạn hữu đã bỏ rơi ông, tất cả những gì ông còn lại là ba người bạn thân
thiết, thế mà giờ đây họ cũng đang rượt đuổi ông như những dã thú đuổi theo con
mồi của chúng. Họ không dừng lại và tìm cách giúp đỡ ông sao? Tại sao họ có
những tấm lòng chai cứng, vô cảm như vậy?
Sự thấu hiểu (Giop 19:23-29): Vì sao Gióp muốn những lời của ông
mãi được ghi lại? Ông nghĩ rằng mình sắp chết trước khi được Đức Chúa Trời bào
chữa, và ông muốn người ta ghi nhớ ông đã chịu khổ thể nào và ông đã nói những
gì. Binh-đát cảnh cáo ông: “Kỷ niệm hắn (một kẻ ác) sẽ diệt khỏi đất” (18:17) và Gióp muốn sự
ghi chép của ông được tồn tại.
Đến thời điểm này, Gióp
thốt ra một nhận định nữa cùng với những nhận định đức tin của ông nhấn mạnh
nhiều đến sự bày tỏ nỗi thống khổ và đau đớn mà ông đang
trải qua như được ghi nhận trong sách này. Thật ý nghĩa khi Gióp sẽ đi từ chiều
sâu tuyệt vọng đến chiều cao đức tin, rồi trở lại chiều sâu kia lần nữa. Đây là kinh nghiệm thông thường của những người từng trải
các hoạn nạn lớn. Bầu trời sẽ tối
tăm và bão tố, một tia sáng bất ngờ sẽ chiếu qua và sau đó bão tố sẽ quay trở
lại.
Mặc cho một số người giảng thuyết
nói gì, thì cũng chỉ có rất ít người có thể duy trì một mức độ cao thường trực
về đức tin và có lòng can đảm trong những lúc đau
đớn, bị thử thách cực độ. John Henry Jewett có lần được biết là “người rao
giảng cao trọng nhất trong giới nói tiếng Anh”, đã viết cho một người bạn: “Tôi
mong bạn sẽ không nghĩ tôi là một thánh nhân như thế. Bạn có vẻ hình dung rằng
tôi không có những thăng trầm, nhưng chỉ là một sự căng duỗi đều đặn và cao
ngất về thành tích thuộc linh với niềm vui và sự bình thản không bị phá vỡ.
Tuyệt nhiên là không! Tôi rất thường gặp khốn khổ, và những lúc ấy đối với tôi
mọi sự có vẻ tối tăm vô cùng” (John
H.Jewett, Arthur Porrit, trang 290).
Trong Giop 19:25-27
Gióp bày tỏ sự tin quyết rằng dù chết, ông vẫn sẽ tin cậy Đấng Cứu Chuộc ông
một ngày nào đó sẽ thực sự đoán xét trên đất. Hơn nữa, Gióp khẳng định rằng ông
mong mình được sống lại và nhìn thấy Đấng Cứu Chuộc của ông! Sau khi da tôi đã
bị hủy diệt, nhưng bằng xác thịt tôi, tôi sẽ nhìn thấy Đức Chúa Trời” (c.26
NIV). Đó là đức tin khẳng định có sự sống lại của thân thể con người.
Từ vựng Hê-bơ-rơ được dịch là “Đấng
Cứu Chuộc” trong câu 25 đề cập đến người bà con có thẩm quyền chuộc lại sản
nghiệp cho ai đó, là người thân thích gần có thể trả thù cho huyết của người
anh em mình đã đổ(Phu 19:6-12), là người có
quyền đòi lại, phục hồi tài sản của người anh em (Le
25:23-24,39-55)
và giải phóng người anh em mình khỏi ách nô lệ (Le
25:25). Người chuộc bà con cũng có thể đi đến tòa thay cho một người
thân thích bị ngược đãi (Ch 23:10-11). Trong
sách Ru-tơ, Bô-ô là người chuộc bà con, có khả năng sẵn sàng chuộc lại Ru-tơ và
cho nàng một đời sống mới trong một xứ sở mới.
Trước đó, Gióp nói ông có nhu cần
một người phân xử (Giop 9:33-34) và một Đấng
Cầu Thay trên trời (16:19). Giờ đây ông đi
đến một bước xa hơn: Đấng Cứu Chuộc ông ngày nào đó sẽ bào chữa cho ông, và
Gióp sẽ ở đó để chứng kiến điều ấy. Khi bạn xem xét Đức Chúa Trời đã chẳng bày
tỏ bao nhiêu về sự sống tương lai thể nào trong thời Gióp, thì những lời này ắt
trở nên một lời chứng đáng chú ý về đức tin. Và khi bạn thêm vào điều này việc
các bạn của Gióp làm nản lòng ông và hoạn nạn cực độ của chính ông, thì sự làm
chứng đó của Gióp càng trở nên tuyệt vời hơn.
Dĩ nhiên, người chuộc bà con này là
Chúa Giê-xu Christ. Ngài đã tự mặc lấy bản chất con
người để Ngài có thể bày tỏ Đức Chúa Trời cho chúng ta, kinh nghiệm mọi điều chúng
ta trải qua, chết vì tội lỗi chúng ta và trở về trời để đại diện cho chúng ta
trước mặt Cha. Ngài sẵn sàng cứu
chuộc và có khả năng cứu chuộc chúng
ta. Một ngày nào đó, Ngài sẽ đứng trên đất thực hiện sự đoán xét đoán và bào
chữa cho con dân Ngài.
Gióp kết thúc bài diễn
thuyết của ông bằng một lời cảnh cáo đối với 3 người bạn hay chỉ trích ông (19:28-29). Họ cũng sẽ
đứng tại ngôi xét đoán của Đức Chúa Trời, vì vậy họ nên sẵn sàng. Họ đã tố cáo
Gióp là một tội nhân, chứ họ không phải cũng là tội nhân sao? Họ nói rằng Đức
Chúa Trời đang xét đoán Gióp vì những tội lỗi của ông, chứ Ngài cũng sẽ không
xét đoán họ ư? Ngày nào đó, họ sẽ phải trả lời với Đức Chúa Trời về cách họ đã
nói về Gióp, vì vậy họ nên cẩn thận. Lời nói của Gióp nhắc chúng ta về lời
khuyên của Phao-lô trong Ro 14:10-13 và lời
cảnh cáo của Chúa chúng ta trong Mat 7:1-5
Abraham Lincoln có lần đã nói: “Người có quyền phê bình người khác là người phải có tấm
lòng cứu giúp.”
Bạn có đủ khả năng ấy
chăng?
“Sự
giúp đỡ chân thật nhất của chúng ta dành cho một người đau khổ không phải là
chúng ta sẽ cất đi gánh nặng khỏi người ấy, mà là giúp cho người phát huy hết
sức mạnh của người để người có thể mang nổi gánh nặng đó.”
(Phillips Brooks).
7. TẤT CẢ ĐỀU TÙY THUỘC VÀO QUAN ĐIỂM CỦA BẠN (Giop 20:1-21:34)
Đến lượt Sô-pha nói,
nhưng ông không có gì mới cả. Đó là câu chuyện cũ không thay đổi: Đức Chúa Trời
trừng phạt kẻ ác, vì vậy Gióp phải ngay thẳng
với Đức Chúa Trời. Câu nói chính của ông là Giop
20:5 “sự chiến thắng của kẻ ác là ngắn ngủi, và sự vui mừng của kẻ giả
hình chỉ một lúc mà thôi”. Chủ đề này đã được Binh-đát và Ê-li-pha bàn luận (Giop 8:11-19 15:20-35),
nhưng Sô-pha bị quấy rầy bởi bài nói chuyện sau cùng của Gióp đến nỗi ông cảm
thấy mình phải nói: “Tôi đã nghe lời trách móc làm hổ thẹn tôi, và sự thông
hiểu của tôi truyền cảm hứng cho tôi đáp lời” (Giop
20:3 NIV). Sô-pha cảm thấy bị Gióp làm nhục và ông quyết định bảo vệ mình.
1. Số phận khủng khiếp của kẻ ác (Giop 20:4-29)
Sô-pha đưa ra ba sự khẳng định để
chứng minh rằng số phận của kẻ ác thật sự đáng sợ: đời sống họ ngắn ngủi (20:4-11), sự vui thú của họ tạm bợ (c.12-19) và sự
chết của họ đau đớn (c.20-29).
Đời sống họ ngắn ngủi (Giop 20:4-11): Sô-pha
tuyên bố rằng từ buổi ban đầu của lịch sử loài người, sự chiến thắng (“sự vui
vẻ”) của kẻ ác vốn ngắn ngủi. Chúng ta không biết ông có thông tin này ở đâu,
vì Chúa đã chờ 120 năm trước khi giáng xuống Cơn Nước Lụt (Sa 6:3) và Đức Chúa Trời đã cho dân Ca-na-an độc
ác ít nhất 4 thế kỷ trước khi Ngài đoán phạt họ (Sa
15:13-16).
Đa số những người trong Kinh Thánh
suy nghĩ về vấn đề điều ác trong thế gian đã bắt đầu từ một tiền đề khác kẻ ác
vui hưởng đời sống lâu dài và sự tự do vì thoát khỏi hoạn nạn, trong khi người
công bình chịu khổ nhiều và chết trẻ (Thi 37:73
Gie 12:1-4). Sô-pha cố tình vẽ phác ra nhiều
dữ kiện để chứng minh cho quan điểm của ông.
Theo Sô-pha, kẻ ác càng trèo cao
trong sự thành công của mình, hắn càng ngã sâu hơn
khi sự đoán phạt dành cho hắn xảy đến. Khi hắn vấp ngã, hắn sẽ lọt xuống hầm
như phân của chính hắn, và người ta sẽ hỏi “Hắn ở đâu?” (Giop 20:6-7). Hắn sẽ biến mất như một giấc mơ bị
quên lãng hoặc như một dị tượng ban đêm không thể nhớ lại (c.8).
Không chỉ con người và tên tuổi của
kẻ ác biến mất, mà của cải kẻ ác cũng sẽ như vậy. Sau sự chết của hắn, sự thật
về tội lỗi của hắn sẽ được phơi bày, và con cái hắn phải sử dụng gia tài để trả
lại cho những người mà cha chúng đã cướp bóc. Kẻ ác
vẫn ở trong “sức lực đang thì” khi hắn chết (c.11 NIV) nhưng giờ đây hắn nằm
bất động trong mồ. Theo Sô-pha, kẻ ác chết trẻ khi họ ít ngờ đến nhất.
Khi bạn nghiên cứu lịch
sử thiêng liêng và thế tục, bạn khám phá rằng khi kẻ ác hoặc người công bình
chết rồi thì chẳng ai trong họ phải chịu sự thống trị của bất cứ quyền lực mạnh
mẽ cứng rắn nào nữa cả. Nói chung, những người bác bỏ luật pháp Đức Chúa Trời
dễ bị tổn thương hơn đối với những vấn đề có thể dẫn đến chết sớm. Sự chung chạ
tình dục, việc sử dụng thuốc ngủ (kể cả rượu và
thuốc lá) và một lối sống liều lĩnh đều có thể giúp rút ngắn đời sống của một
người, nhưng không có gì bảo đảm rằng điều này
sẽ xảy ra. Thật đáng kinh ngạc khi một số kẻ bất kính sống đến già.
Có lẽ đây bởi lòng thương xót nên Đức Chúa Trời đã ban cho họ thời gian để ăn
năn.
Sô-pha không nói về
những hậu quả tự nhiên của đời sống gian ác, nhưng nói về sự xét đoán của Đức
Chúa Trời trên tội nhân. Sô-pha và hai bạn của ông chắc chắn rằng Gióp là một
kẻ giả hình, rằng đời sống ngoan đạo này chỉ là bề ngoài để che đậy tội lỗi kín
giấu của ông. Trong bài nói chuyện thứ hai của mình, thậm chí Ê-li-pha đã kể
tên một số tội lỗi Gióp đã phạm! (22:5-9). Nhưng không
phải lúc nào Đức Chúa Trời cũng xét đoán kẻ giả hình tức thời, và sự chết của
người trẻ tuổi không phải là chứng cớ để kết luận ấy là kẻ giả hình.
Robert Murray Mc Cheyne,
một mục sư tin kính thuộc hội trưởng lão Ê-cốt, đã chết khi ông mới 29 tuổi, và
nhà truyền giáo William Whiting Borden (Borden of Yale) chỉ mới 25 tuổi khi qua
đời tại Ai Cập. David Brainerd, nhà truyền giáo thánh thiện đến truyền giáo cho
thổ dân da Đỏ, đã qua đời ở tuổi 29! Theo Sô-pha thì những người này chắc đã
phạm tội lỗi kín giấu nào đó cho nên họ đã bị Đức Chúa Trời cất đi lúc họ còn
trẻ tuổi như vậy.
Sự vui thú của họ là
tạm bợ (Giop 20:12-19): Sô-pha
dùng việc ăn như hình ảnh cơ bản ở
đây. Kẻ ác vui thích tội lỗi như người ta thưởng thức đồ ăn, giữ nó trong miệng
là nơi họ có thể “nếm nó” trước khi nuốt. Thật ra, kẻ ác rất thích tội lỗi
nhưng hắn không thể tự mình nuốt nó! Cuối cùng thức ăn ngon trong miệng trở
thành chất độc ngấm vào cơ thể khiến hắn trở nên bệnh hoạn và nôn ra mọi thứ.
Trong khi vui thích với tội lỗi mình, hắn không chú ý rằng hắn đã bị một con
rắn độc cắn và chắc chắn hắn sẽ chết. Nói cách khác, tội lỗi mang theo nó sự
vui thích và trừng phạt. Nếu bạn muốn cái này, bạn cũng phải chấp nhận cái kia.
Những vui thú của tội lỗi chỉ dành cho một mùa! (He
11:25).
Nhưng sự đoán xét của Đức Chúa Trời
có liên quan nhiều hơn: kẻ ác không chỉ bệnh hoạn vì tội lỗi mình, nhưng hắn
không hưởng những phước hạnh hằng ngày của đời sống (Giop
20:17). “Nó sẽ chẳng thấy sông và dòng
chảy mật cùng mỡ sữa” (NKJV). Xứ Ca-na-an là “một xứ đượm sữa và mật” (Xu 3:8 Le 20:24).
Sữa và mật là những sản phẩm chính, không phải thứ xa xỉ, và “xứ đượm sữa và
mật” sẽ mầu mỡ, có thể ích lợi cho dân sự. Nhưng kẻ ác đã mất vị giác của hắn
đối với những thức ăn cơ bản, khiến không điều gì làm thỏa mãn hắn hơn nữa. Vị
giác của hắn đối với tội lỗi đã làm tiêu tan sự vui hưởng của hắn về những phước hạnh cơ bản của đời sống.
Khi sử dụng hình ảnh về việc ăn, Sô-pha đã nêu
hai quan điểm: Những gì mà kẻ ác nuốt sẽ khiến hắn bệnh hoạn, cất đi sự khao
khát của hắn về những điều tốt đẹp của đời sống. Ông nêu quan điểm thứ ba trong
Giop 20:18-19:
kẻ ác sẽ không thể vui hưởng (nuốt xuống) một số điều mà hắn đã lao khổ để có
được. Vì hắn có được là do phạm tội, của cải đó sẽ không làm hắn thỏa mãn.
Điều này chắc chắn đã
được phản ánh trong đời sống của nhiều người chối bỏ Đấng Christ và dấn thân
vào những thú vui tội lỗi. Càng đam mê, họ càng khao khát, và càng để được thỏa
mãn những khao khát đó thì họ lại càng ít vui hưởng. Mà càng ít vui hưởng, họ
lại càng phải phạm tội để làm sống lại những xúc cảm cũ. Càng phạm tội, họ càng
mất hết khả năng vui hưởng bất cứ điều gì. Để thay đổi hình ảnh, họ đã “thổi
mọi ngòi nổ của mình”, và cỗ máy của đời sống họ không còn thực hiện chức năng
như trước.
Sự chết của họ đau đớn (Giop 20:20-29): Không phải sự
giàu có của kẻ ác sẽ có thể ngăn trở được sự chết đến với hắn (Giop 20:20 Thi 49:1-20).
Mặc dù đang hưởng thụ sự thịnh vượng của mình, kẻ ác rồi sẽ kinh nghiệm tai
họa, sự khốn khổ và cơn giận phừng của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ “trút
thạnh nộ Ngài trên hắn” (Giop 20:23 NIV), kẻ
ác sẽ tìm cách chạy trốn, nhưng Đức Chúa Trời sẽ xông đến hắn bằng gươm, bắn
hắn bằng mũi tên đồng và hắn bị tên xuyên ngay lưng.
Vào thời điểm này của bài diễn
thuyết, Sô-pha bắt đầu có vẻ giống Binh-đát (chương 18). Ông mô tả kẻ ác tìm
cách thoát khỏi sự đoán phạt của Đức Chúa Trời. Những mũi tên lao tới trước khi
hắn chạy qua sự tối tăm, và lửa ập xuống quanh hắn. Sau đó một cơn nước lụt bắt
kịp hắn và tiêu hủy mọi thứ. Nhưng đó không phải là chấm hết, kẻ ác cuối cùng
sẽ bị lôi vào trong tòa, nơi trời và đất làm chứng nghịch cùng hắn và nhận ra
hắn có tội (20:27).
2. Kết thúc của kẻ ác (Giop 21:2-34)
Sau khi nài xin sự thông
cảm của họ một lần nữa (Giop
21:1-6), Gióp đáp lại những nhận định của Sô-pha và phản bác lại mỗi
nhận định đó. Gióp xác định rằng theo quan điểm của ông, có vẻ như kẻ ác trường
thọ (c.7-16), họ thường không bị giáng tai họa (c.17-21) và sự chết của kẻ ác
không khác gì sự chết của những người khác (c.22-34). Từ quan điểm này đến quan
điểm khác, Gióp sử dụng lời nói của Sô-pha và phân tích nó thành nhiều phần.
Nhưng trước tiên, hãy lắng nghe lời
Gióp yêu cầu các bạn ông cố gắng hiểu ông có cảm xúc ra sao. “Nếu các bạn thật
sự muốn an ủi tôi, chỉ hãy yên lặng và lắng nghe” (c.2 diễn ý). Triết gia Hy
Lạp Zeno đã nói: “Lý do vì sao chúng ta có hai tai và chỉ một cái miệng, là để
chúng ta có thể lắng nghe nhiều hơn và nói ít hơn.” Những người bạn nghĩ lời
nói của họ sẽ khích lệ Gióp, nhưng ông nói rằng sự yên lặng của họ sẽ khích lệ
ông nhiều hơn (13:3).
Gióp chỉ ra rằng lời than phiền của
ông không phải nghịch với con người nhưng nghịch với Đức Chúa Trời. Con người
đã không gây ra những khốn khổ cho ông, và con người không thể cất chúng đi.
Nếu ông mất kiên nhẫn, đó là vì Đức Chúa Trời đã không trả lời ông (c.3). Đức
Chúa Trời càng trì hoãn, hoàn cảnh Gióp càng trở nên tồi tệ. “Hãy nhìn tôi và
lấy làm lạ, khá lấy tay bụm miệng mình” (c.5 NIV).
Khi Gióp suy gẫm điều
ông sắp nói, nó khuấy động ông sâu sắc (c.6). Đây không phải lời nói thoát ra
khỏi “đỉnh đầu của ông”, vì nó phải liên quan đến những sự kiện cơ bản về sự
sống và sự chết. Nếu các bạn Gióp ở vào hoàn cảnh ông, họ sẽ thấy mọi việc khác
đi và cũng nói những điều khác đi.
Đời sống kẻ ác có thể
lâu dài (Giop 21:7-16): Tương
phản với câu nói của Sô-pha (20:5), Gióp
nói: “Vì sao kẻ gian ác vẫn sống, tiếp tục, cũng trở nên rất quyền thế ” (21:7 NASB). Họ có sự an toàn mọi phía: con cái và
gia đình họ yên ổn (c.8-9,11-12), công việc kinh doanh của họ phát đạt (c.10)
và họ có đời sống trường thọ để vui hưởng sự thịnh vượng của mình (câu 13). Họ
cũng có nhiều con cháu thừa hưởng của cải của gia đình và vui hưởng nó. Sự chết
của kẻ ác bất thình lình, họ không trì hoãn được cơn hấp hối và ước mong sự
giải thoát. Dĩ nhiên, hoàn cảnh của Gióp chỉ là ngược lại: gia đình ông bị tan
nát, của cải tiêu mất, ông đang đau khổ vô cùng khi
chờ đợi cái chết đến từ từ.
Nhưng điều đáng buồn nhất về kẻ ác
là cách họ để Đức Chúa Trời ra khỏi đời sống họ mà
họ vẫn thịnh vượng: “Hãy lìa xa chúng tôi! Hãy để chúng tôi yên!” Họ
không muốn cầu nguyện với Chúa, vâng lời Ngài, hoặc tin
tưởng nơi Ngài để được thành công. Đây là triết lý của đa số người chưa
được cứu ngày nay, bạn có thể gọi đó là “thuyết vô thần thực dụng” (Thi 10:1-18). Đức Chúa Trời không có trong tư
tưởng họ, chứ đừng nói gì đến việc Ngài có ở trong kế hoạch của họ hay không (Gia 4:13-17). Họ thấy mình tự đủ khả năng khi làm
điều gì họ muốn, và họ làm điều đó theo “cách của họ.” Chúa Giê-xu đã mô tả một
con người như vậy trong Lu 12:13-21
Gióp nhanh chóng nói rằng đây không
phải là triết lý của ông về đời sống. “Nhưng tôi từ chối đề cập đến những người
như vậy” (Giop 21:16 TLB). Kẻ ác sử dụng uy
tín để được của cải, nhưng Gióp nhận biết rằng mọi sự đến từ Đức Chúa Trời (1:21). Vậy, làm sao ba bạn của Gióp có thể xếp
loại ông thuộc kẻ ác?
Trước khi xem xét quan điểm thứ hai
của Gióp, chúng ta phải đối diện với sự thật đáng lo ngại rằng có quá nhiều
người tự xưng là Cơ Đốc nhân nhưng lại hết lòng ao ước, thèm muốn lối sống của
người giàu và người nổi tiếng. Trong một cuốn sách của mình, Tiến sĩ Kenneth
Chafin nói về một mục sư và một chấp sự đã thăm viếng các tín hữu tương lai và
dừng chân lại tại một ngôi nhà ngoại ô xinh đẹp. Bãi cỏ trông giống như được
cắt tỉa rất công phu, chiếc xe hơi đắt giá đậu cạnh đường xe chạy. Hơn thế, mục
sư và vị chấp sự kia có thể nhìn thấy người đàn ông trong căn nhà ngồi thảnh
thơi ở phòng khách rộng rãi, xem TV. Mọi điều đang chứng minh sự sung túc của
chủ nhân. Vị chấp sự quay sang hỏi ông mục sư: “Chúng ta dành cho người này loại
tin tức tốt lành nào?”
Trong hơn 40 năm chức vụ, tôi đã
tiến hành làm lễ cho nhiều lễ cưới và quan sát nhiều
cặp vợ chồng Cơ Đốc trẻ bắt đầu gia đình mới của họ. Thật là vui mừng khi nhìn
thấy những gia đình nơi các cặp vợ chồng đặt những ưu tiên đúng đắn và chống
lại cám dỗ “theo đáng đông” sống vì những của cải vật chất. Đáng tiếc, một số
người đã đánh mất quan điểm thuộc linh và thành công trong đời này mà không
nhận biết Chúa. Ôi, đã có sẵn phần thưởng dành cho họ rồi.
Phải chăng kẻ ác
thường không nếm trải tai họa? (Giop
21:17-21): Binh-đát khẳng định: “Thật ánh
sáng của kẻ ác sẽ tắt đi” (18:5)
nhưng Gióp hỏi: “Điều đó há thường xảy ra sao? Bạn có thật sự thường thấy cơn
giận của Đức Chúa Trời bày tỏ nghịch cùng những kẻ bất kính ở thế gian không?
Họ thường như rơm trước gió, như trấu bị bão quét đi sao?” (Giop 21:18 NIV). Kẻ ác dường như được yên ổn trong
đời này, trong khi người công bình thì hay phải chịu khổ (Thi 73:1-28).
Nhưng nếu Đức Chúa Trời không xét
đoán kẻ ác, Ngài sẽ xét đoán con cái họ (Giop 21:19).
Sô-pha đã lý luận quan điểm đó (20:10) và
Ê-li-pha cũng vậy (5:4). Dĩ nhiên, cả hai
người đều nhắm vào Gióp, người đã mất tất cả con cái mình. Gióp hỏi: “Nhưng đó
là loại xét đoán nào? Nếu một người sống trong tội lỗi, hãy để người ấy chịu
khổ vì tội lỗi mình. Sau khi người ấy chết, tại sao người ấy phải quan tâm về
điều xảy ra cho gia đình mình? Nơi Âm phủ, người đó sẽ chẳng bao giờ biết điều
gì đang xảy ra trên đất.”
Kinh Thánh cho biết rõ rằng những
người cha không bị trừng phạt vì tội lỗi của con cái hoặc con cái vì tội lỗi
của cha (Gie 31:29-30 Exe 18:1). Chắc chắn cha mẹ có thể bị đau đớn vô
cùng bởi tội lỗi của con cái họ, và con cái có thể chịu khổ vì những hậu quả tội lỗi của cha mẹ chúng, nhưng sự xét
đoán của Đức Chúa Trời luôn công bình (Phu 24:16).
Ba người bạn thật ác mồm ác miệng khi gợi ý rằng tội lỗi của Gióp đã gây ra sự
chết của con cái ông.
Sô-pha nói đời sống của kẻ ác ngắn
ngủi, nhưng Gióp bẻ bác ông bằng cách khẳng định kẻ ác thường sống lâu. Sô-pha
tuyên bố những thú vui của kẻ ác tạm bợ vì sự xét đoán của Đức Chúa Trời thình lình ập xuống họ, nhưng Gióp hỏi: “Các bạn thường
thấy điều đó xảy ra sao?” Giờ đây Gióp trả lời lý lẽ thứ ba của Sô-pha cho rằng
sự chết của kẻ ác sẽ đầy đau đớn.
Kẻ ác chết giống như
bao người khác mà thôi (Giop 21:22-34): Sự sống
và sự chết ở trong tay Đức Chúa Trời, vì vậy con người đơn thuần là gì mà phải
dạy Đức Chúa Trời hay tuyên bố mình có thể giải thích
đường lối của Đức Chúa Trời? (c.22). Đức Chúa Trời sẽ hỏi Gióp một câu hỏi
tương tự khi cuối cùng Ngài xuất hiện và cho Gióp cơ hội đã chờ đợi lâu để bênh
vực mình. Thay vì Gióp chất vấn Đức Chúa Trời, chính Đức Chúa Trời sẽ chất vấn
Gióp và hạ thấp Gióp bằng những câu hỏi của Ngài!
Sự quan sát cho Gióp
biết rằng một số người đã chết khi họ ở trong sự sung túc của đời sống và rõ
ràng ở trong sự giàu có trội hẳn, trong khi những người khác thì chết trong sự
bệnh tật đau đớn và kéo dài. Một số người hưởng
đời sống hạnh phúc và trường thọ trong khi những người khác trải qua những ngày
trong đau khổ, nhưng sự chết đều giống nhau đối
với tất cả mọi người. Nói một cách chính xác, không có điều gì như
là “sự chết lúc thơ ấu” hay “sự chết bi thảm” hoặc “sự chết bất ngờ” vì sự chết là sự chết cho dù nó đến khi nào hoặc ra sao.
Người giàu chết, kẻ nghèo chết, tín đồ chết, người vô tín chết, và “họ nằm cạnh
nhau trong bụi đất, giòi sâu che lấp họ” (c.26 NIV). Dĩ nhiên, Gióp đang nói về
khía cạnh thuộc thể của sự chết chứ
không phải về khía cạnh thuộc linh.
Khi sự chết đến, nó hiển nhiên tạo một thay đổi lớn trong sự sống kế tiếp dù con người có đức tin nơi
Chúa Giê-xu Christ hay không (He 9:27).
Nhiều người kể cả Cơ Đốc nhân ngại
nói về sự chết nói chung hoặc sự chết của chính họ nói riêng. Họ có tiền bảo hiểm
cho thời kỳ nằm viện và cho nhân mạng, nhưng họ thích tránh đề tài này và hành
động như thể sự chết không xảy đến. Nhà xã hội học Ernest Backer đã viết: “Ý
niệm về sự chết, sự sợ hãi nó, ám ảnh loài người không giống như bất cứ loại
nào khác. Đó là dây cót chính của hoạt động loài người hoạt động được sắp đặt
trên qui mô lớn để tránh định mệnh của sự chết, để khắc phục nó bằng cách phủ
nhận cách nào đó rằng nó là số phận cuối cùng dành cho con người” (The Denial of Death, NXB Free Press, trang 9).
Gióp cho các bạn ông
biết: “Nầy, tôi biết ý tưởng các bạn” (Giop 21:27). Ông có thể cho biết rằng lời nói của
ông đã không thuyết phục họ và ông biết ngay điều gì sắp nói khi ông nói xong,
chính xác là điều họ đã nói trước đó! Trong câu 28, ông trích dẫn hai nhận định
của họ mà ông đã bác lại (18:13-21 20:20-29) nhưng ông mong được nghe những nhận định
tương tự một lần nữa.
Gióp hỏi các bạn ông rằng họ đã từng
điều tra hoàn cảnh ở những nơi khác ngoài xứ sở họ chưa? Như Dorothy Sayers đã
viết: “Không điều gì mà bạn không thể chứng minh được nếu quan điểm của bạn chỉ
giới hạn vừa đủ.” Gióp hỏi họ: “Các bạn chẳng hề hỏi khách qua đường sao?” (21:29 NIV). Những người qua đường thường không ở
trong quan điểm cục bộ nhưng có kinh nghiệm phóng khoáng trong mọi việc của đời
sống. Với sự khôn ngoan của mình, ba bạn Gióp có thể vẫn rất thiển cận trong
quan điểm của họ vì họ chưa nhìn thấy đời sống ra sao ở những nơi khác. Nếu các
bạn Gióp hỏi thăm những người thường qua lại, họ sẽ biết rằng tại nhiều nơi
trên thế giới, kẻ ác dường như thoát khỏi những tai họa đã ập xuống người công
bình.
Sau đó Gióp đã trở nên rất riêng tư
và hỏi các bạn mình: “Nếu các bạn thật sự tin rằng kẻ ác bị định cho một sự
chết sớm, bạn có bao giờ cảnh cáo họ? Bạn có bao giờ lên án họ trước mặt họ?”
(c.31 diễn nghĩa). Nếu các bạn ông trả lời: “Không, chúng tôi chưa bao giờ nói
với kẻ ác về tương lai họ” thì Gióp có thể nói: “Vậy tại sao các bạn cảnh cáo một người công bình về tương lai người ấy? Sao
bạn lại có thể trở nên mâu thuẫn như thế?”
Những lời cuối của Gióp trong 21:34 cho ba người bạn biết rằng ông không có lòng
tin những gì họ nói. Sự an ủi của họ là vô ích (“vô nghĩa”,NIV) và những câu
trả lời của họ chỉ là sự lừa dối. Từ Hê-bơ-rơ được dịch là “sự lừa dối” nghĩa
là “sự cố tình vi phạm luật pháp Đức Chúa Trời, một hành động của sự giả dối.”
Nó thường được dịch là “sự xúc phạm”. Khi ba người bạn tấn công Gióp, họ đang
phá hủy đức tin và xúc phạm Đức Chúa Trời. Thay vì giúp đỡ Gióp, họ đang dẫn
ông đi sai lạc.
Tôi có một người bạn hằng ngày cầu
nguyện: “Lạy Chúa, xin giúp con hôm nay không thêm vào gánh nặng của bất cứ
ai.”
Thật tệ khi Binh-đát, Sô-pha và
Ê-li-pha đã không cầu nguyện như thế!
Có lẽ tất cả chúng ta phải bắt đầu
cầu nguyện như vậy!
PHẦN CHUYỂN TIẾP
Nếu bạn muốn làm một sự
an ủi cho những người bị tổn thương, hãy tìm cách nhìn xem mọi việc bằng đôi
mắt của họ. Hãy khiêm nhường đủ để thừa nhận rằng có thể có những quan điểm
khác. Ba bạn của Gióp đã có một kinh nghiệm thiển cận về đời sống. Họ nắm chắc
những giả thuyết độc đoán và không lay động. Trong bức thư gửi cho một số người
đã bất đồng ý kiến với mình, Oliver Cromwell đã viết: “Tôi van nài các bạn,
trong sự thương xót của Đấng Christ, hãy nghĩ rằng có khả năng các bạn có thể
sai lầm”.
Ai đó đã định nghĩa
những người cuồng tín là “những người không thể thay đổi ý kiến của họ và sẽ
không thay đổi đề tài.” Samuel Johnson có lần đã nói về một người, “người đó
chỉ có một ý kiến, và điều ấy thật là sai lầm.”
Luôn có điều gì đó mới
mẻ để học biết về Đức Chúa Trời, Kinh Thánh, con người và đời sống. Chúng ta
hãy là những người học tốt và cũng là những người lắng nghe tốt!
“Đức
Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng Cứu Rỗi, đôi khi là một Đức Chúa Trời ẩn mình,
nhưng không bao giờ là một Đức Chúa Trời vắng mặt, có lúc Ngài ở trong bóng
tối, nhưng không bao giờ ở xa.” (Matthew
Henry).
8. THỨ TỰ TẠI TÒA! (Giop 22:1-24:25)
Những gì lẽ ra phải là
một cuộc bàn luận đầy khích lệ giữa vòng những người bạn, thì đến giờ đã trở
nên một cuộc tranh luận đầy giận dữ và đau đớn. Thay vì tìm cách làm êm xuôi
mọi việc, Ê-li-pha đã gánh lấy chức vụ của luật sư kiện tụng và biến cuộc tranh
luận thành một cuộc xét xử. Ba người chống lại một người khi Gióp ngồi trên
đống tro và lắng nghe các bạn ông nói dối về ông. Theo kinh Talmud Do Thái thì
“cái lưỡi vu cáo sẽ giết ba người: người bị vu cáo, kẻ vu cáo và người nghe lời
vu cáo.” Tại đống tro ở Út-xơ, sự chết đang vây quanh!
1. Ba lời vu cáo (Giop 22:1-30)
Giống như mọi luật sư được ủy quyền
thụ lý bất kỳ, Ê-li-pha có vụ kiện rõ ràng trong tay và bản tóm tắt đã được chuẩn
bị. Ông đưa ra ba lời tố cáo gay gắt chống lại Gióp: Gióp là tội nhân (22:1-11), đang che giấu tội lỗi mình (22:12-20), phải xưng tội mình và ăn năn trước khi
Đức Chúa Trời có thể giúp ông (22:21-30).
Gióp là một tội nhân (Giop 22:1-11): Ê-li-pha không thể không ném vào
Gióp một lời chua cay đầy mỉa mai. “Có phải vì lòng mộ đạo của ông mà Ngài (Đức
Chúa Trời) quở trách ông và đem đến những lời buộc tội chống lại ông?” (c.4
NIV). Các tòa án không xét xử người ta vì sự công bình của họ nhưng vì sự vô luật
pháp của họ! Vì vậy do Đức Chúa Trời đã giáng những sự xét đoán khủng khiếp
trên Gióp, cho nên, chắc chắn là do ông có phạm tội.
“Sự dữ của ông há chẳng phải lớn sao? Các tội ác ông há chẳng phải vô cùng ư?”
(c.5 NIV). Nhưng Ê-li-pha đã bỏ qua quan điểm mà Gióp đã nêu ra: “Vì
sao Đức Chúa Trời giáng sự xét đoán trước khi
Ngài bắt giữ tôi, đọc bản cáo trạng, và chỉ đạo cuộc xét xử?” Tất cả dường như thật bất công.
Ê-li-pha trước hết tố cáo Gióp về tội kiêu ngạo (c.1-3). Gióp đang hành động như
thể tính cách và hạnh kiểm của ông rất quan trọng đối với Đức Chúa Trời và ích
lợi cho Ngài trên phương diện nào đó. Thuyết thần học của Ê-li-pha tập trung
quanh một Đức Chúa Trời ở xa là quan án của thế gian chứ không phải Bạn của tội
nhân.
Nhưng đúng là tính cách và hạnh kiểm
của Gióp rất quan trọng đối với Đức Chúa Trời, vì Đức
Chúa Trời đang sử dụng Gióp để làm ma quỉ phải câm họng. Gióp và ba
bạn của ông cũng không biết kế hoạch tiềm ẩn của Đức Chúa Trời, nhưng Gióp có
đức tin để tin rằng Đức Chúa Trời đang hoàn thành mục đích nào đó trong đời
sống ông và ngày nào đó Ngài sẽ bào chữa cho ông. Hơn nữa, tính cách và hành vi
của dân sự Đức Chúa Trời có tầm quan trọng
đối với Chúa, vì dân sự Ngài đem đến cho Ngài hoặc sự vui mừng, hoặc sự buồn
rầu (ITe 4:1 He
11:5 Sa 6:5-6 Thi 37:23). Ngài không phải là một Đức Chúa Trời thụ động, ở
xa, không đồng cảm với dân sự Ngài, nhưng là Đức Chúa Trời, Đấng yêu mến họ khi
họ yêu mến Ngài (Thi 18:19 Es 63:9 He 4:14-16).
Là con cái Đức Chúa Trời, chúng ta
phải noi theo gương của Chúa Giê-xu, Đấng đã phán: “Ta hằng làm điều đẹp lòng
Ngài” (Gi 8:29). Sau đó Cha sẽ có thể phán
về chúng ta như Ngài đã phán về Chúa Giê-xu: “Nầy là Con yêu dấu của ta, đẹp
lòng ta mọi đàng” (Mat 3:17).
Cùng với sự kiêu ngạo, Ê-li-pha tố
cáo Gióp về tội tham lam (Giop 22:6). Ông là người tham lam khi lạm dụng
người ta để có được nhiều của cải hơn. Ông đã lợi dụng quyền thế và thanh danh
của mình (câu 8) để đe dọa người ta và cướp bóc họ. Trong luật pháp Môi-se, một
chủ nợ có thể lấy vật thế chấp của con nợ nhưng không phải bất cứ cái gì làm
tổn hại đến công việc, sức khỏe hay phẩm giá của người ấy với tư cách một con
người (Xu 22:25-27 Phu
24:10-13), Ê-li-pha tố cáo Gióp lấy của cầm cố, thế chấp từ anh em của
ông khi không cần thiết, và ông đã để người ta trần
truồng vì ông cầm giữ áo xống họ cho đến khi họ đã trả nợ xong!
Thậm chí, Ê-li-pha đã
không sống trong địa phận của Gióp, vậy làm sao ông biết cách Gióp đối xử với
người khác trong những vụ giải quyết công việc làm ăn? Phải chăng một số kẻ thù
của Gióp đã rêu rao đồn đại những câu chuyện này cho Ê-li-pha nghe? Nếu vậy, lẽ
ra ông phải điều tra những lời buộc tội trước khi tuyên bố chúng công khai.
Toàn bộ sự việc là bịa đặt hoàn toàn, một âm mưu kém hiệu quả để làm mất uy tín
một người tin kính vốn hay giúp đỡ nhiều người
(Giop 29:11-17).
Gióp bị luận tội thứ ba là tội không có lòng
thương xót và trắc ẩn (22:7-9)
tức là tội sự xao lãng, thiếu quan tâm người khác. Chẳng ngạc nhiên gì khi Chúa
không đáp lại những lời cầu nguyện của Gióp! “Ai bưng tai không khứng nghe
tiếng kêu la của người nghèo khổ, cũng sẽ tự kêu la mà không được nghe” (Ch 21:13). Gióp đã quay lưng với người mệt mỏi,
đói khát, góa phụ và cô nhi, thay vì chia xẻ với họ từ những nguồn giàu có của
ông. Vì sự bày tỏ lòng hiếu khách là một trong những luật đầu tiên của phương
Đông, như vậy tội lỗi của Gióp thật đáng ghê tởm.
Suốt Kinh Thánh, Đức Chúa Trời bày
tỏ mối quan tâm lớn đối với người nghèo, đặc biệt là góa phụ và cô nhi, đồng
thời Ngài cũng bày tỏ cơn giận dữ đối với những kẻ áp bức người nghèo và bóc
lột họ (Xu 22:22 Phu
24:17 26:12). Các tiên tri đã lên án
các quan trưởng một cách gay gắt, cả người thuộc giới chính trị và tôn giáo, là
những người đã áp bức kẻ thiếu thốn và cướp của kẻ nghèo (Es 1:17 Gie 7:6
22:1-4 Am 4:1
5:11 8:4-10).
Chúa Giê-xu có mối quan tâm đặc biệt đối với người nghèo (Lu 4:16-19 Mat 11:5)
và Hội Thánh đầu tiên đã noi theo gương của Ngài (Ga
2:10 Gia 1:27 2:1-9 Cong 6:1 ITi 5:1-16). Hội Thánh
ngày nay cần noi theo gương ấy!
Ê-li-pha củng cố quan
điểm thứ nhất của mình bằng chứng cớ mà bất cứ ai cũng có thể thấy. Gióp đang
chịu những thử thách lớn, là những kết quả của nhiều tội lỗi của ông (Giop 22:10-11). Nếu không, tại sao ông ở trong sự tối tăm, nguy hiểm và ở
nơi vực sâu của sự hoạn nạn? Chính bàn tay của Đức Chúa Trời chỉ ra rằng Gióp
là một kẻ bất kính.
Những người đứng quanh
lắng nghe cuộc tranh luận chắc bị sốc ghê lắm khi họ nghe những lời tố cáo này
nghịch với Gióp, người lân cận của họ. Họ chắc đã nhìn nhau và hỏi: “Sao lại có
thể như thế nhỉ? Sao chúng ta đã không biết gì về sự gian ác của Gióp cả ?”
Quan điểm kế tiếp của Ê-li-pha trả lời cho câu hỏi của họ.
Gióp đang che giấu
những tỗi lỗi mình (Giop 22:12-20): Nói cách
khác, Gióp là một kẻ giả hình, nhận định đã được nêu ra hoặc được ngụ ý hơn một
lần kể từ khi cuộc đấu khẩu bắt đầu. Binh-đát nói: “Sự hy vọng của kẻ giả hình
sẽ hư mất” (8:13). Ê-li-pha thì bảo: “Vì hội
của những kẻ giả hình sẽ hoang vu” (Giop 15:34).
Và Sô-pha khẳng định: “Sự vui mừng của kẻ giả hình chỉ một lúc mà thôi” (20:5).
Một kẻ giả hình không
phải là người không đạt đến những mục tiêu thuộc linh ao ước của mình, vì tất
cả chúng ta đều thất bại theo cách này hay cách khác. Một kẻ
giả hình là một người không tìm cách đạt đến mục tiêu nào cả, nhưng hắn khiến người ta nghĩ rằng hắn có mục tiêu.
Sự xưng nhận và thực hành của hắn không bao giờ gặp nhau. Mục sư Stephen
Charnock thuộc Hội Thánh Thanh giáo, đã nói: “Thật là một điều đáng buồn khi
làm Cơ Đốc nhân tại những bữa ăn tối, là những kẻ ngoại đạo trong các công sở
của chúng ta, và là ma quỉ trong buồng riêng của chúng ta.”
Ê-li-pha khuyên Gióp hãy nhìn lên (Giop
22:12-14). Ê-li-pha muốn Gióp nhìn lên Chúa để nhận ra rằng không ai có
thể che giấu bất cứ điều gì khỏi Đức Chúa Trời. Một kẻ giả hình an ủi chính
mình trong tội lỗi của hắn bằng cách nói: “Chúa không biết và không quan tâm” (Thi 10:1-22). Nhưng Đức Chúa Trời thấy và biết mọi
sự, kẻ giả hình không thể che giấu tội lỗi mình khỏi Chúa. Đức Chúa Trời có thể
không xét đoán tức thời, nhưng cuối cùng sự xét đoán sẽ ập xuống.
Kế đến Ê-li-pha khuyên Gióp
hãy nhìn lại (Giop
22:15-18) để nhớ những gì đã xảy ra cho tội nhân trong quá khứ. Gióp đã
nói rõ rằng ông không có liên hệ gì với “mưu chước của kẻ ác” (21:16), nhưng Ê-li-pha tố cáo ông đã bước đi trên
chính con đường đó (22:15). Lịch sử cho thấy
rằng những kẻ giả hình có thể che giấu tội lỗi họ trong một thời gian, nhưng
rồi những tội lỗi của họ cũng sẽ tìm thấy họ. Đức Chúa Trời không chỉ nhẫn nhục
với họ, nhưng Ngài còn nhân từ đối với họ và làm đầy dẫy nhà họ các vật tốt
(c.18). Sự kiện Gióp là một người rất giàu có là chứng cớ về sự nhân từ của Đức
Chúa Trời chứ không phải bởi sự công bình của Gióp.
Gióp thật đáng thương thay! Cho dù
ông quẹo con đường nào hay cố gắng thế nào để cãi lẽ với những kẻ tố cáo mình,
thì ông cũng chỉ đang lãng phí thời gian và nghị lực của mình mà thôi. Trước
tiên họ nói rằng Đức Chúa Trời chúc phước cho người công bình và trừng phạt kẻ
ác, còn giờ đây Ê-li-pha tuyên bố Đức Chúa Trời chúc phước cho kẻ giả hình và
làm đầy dẫy nhà hắn những vật tốt!
Bi kịch của sự giả hình không chỉ là
Đức Chúa Trời giáng sự xét đoán, mà còn là sự giả hình đem đến sự xét đoán của
chính nó. Nó phá hủy tính cách, và khi tính cách mất đi, như khi “muối đã mất
vị của nó” (Mat 5:13), thì thử hỏi con người
còn lại gì?
Người ta thường nói rằng phần thưởng
cao nhất cho đời sống trung tín không phải là những gì bạn có được vì nó nhưng
là bạn trở nên như thế nào bởi nó. Giám mục Brooke Westcott đã nói: “Những cơ
hội lớn không tạo nên những anh hùng hay những kẻ hèn nhát; Chúng chỉ làm lộ ra
trước mắt con người, một cách yên lặng và tinh tế, khi chúng ta thức hay ngủ,
chúng ta trở nên mạnh mẽ hay chúng ta trở nên yếu đuối, và ít nhất một số cơn
khủng hoảng xảy ra sẽ cho thấy chúng ta đã trở nên ra
sao.”
Gióp phải ăn năn về
tội lỗi mình (Giop 22:21-30): Ê-li-pha
đã thành thật trong lời yêu cầu của ông đối với Gióp, cũng như Sô-pha đã thành
thật khi ông yêu cầu Gióp trở lại với Đức Chúa Trời (11:13-20).
“Hãy đầu phục Đức Chúa Trời và hòa thuận với Ngài. Bằng cách này sự thịnh vượng
sẽ đến với ông” (22:21 NIV). Từ được dịch là
“sự thịnh vượng” nghĩa là “Thứ gì cũng tốt đẹp cả.” Dĩ nhiên, một kẻ giả hình
phải trở lại với Đức Chúa Trời, không phải để thoát khỏi hoạn nạn và phục hồi
sự giàu có của mình, nhưng để làm đẹp lòng và qui vinh hiển về cho Đức Chúa
Trời trong việc xây dựng lại tính cách và sự hầu việc.
“Đầu phục Đức Chúa Trời” nghĩa là
gì? Nghĩa là ngừng chiến đấu với Đức Chúa Trời và chấp nhận mọi điều khoản hòa
bình của Ngài (Gia 4:1-10). Nó cũng có nghĩa
là lắng nghe lời Ngài và vâng theo điều Đức Chúa Trời phán (Giop 22:22). Một tội nhân phải từ bỏ tội lỗi (câu
23) khiến Đức Chúa Trời trở nên của quý báu lớn nhất của đời mình (c.25), người
ấy phải cầu nguyện và tìm kiếm mặt Đức Chúa Trời (c.27).
Đức Chúa Trời hứa điều gì với những
người ăn năn và trở lại với Ngài? Ngài sẽ phục hồi họ (c.23) và khiến chính
Ngài trở nên quí báu đối với họ (c.25) để mọi sự vui mừng của họ sẽ ở trong
Chúa chứ không phải ở nơi của cải hay vui thú trần tục (c.6). Đức Chúa Trời sẽ
trả lời sự cầu nguyện của họ và giúp họ có thể làm theo ý muốn Ngài (c.27) khi
Ngài cho họ lời chỉ dẫn và sự sáng (c.28). Vì họ được phục hồi mối thông công
với Đức Chúa Trời, họ có thể giúp những người khác đã sa ngã (c.29-30).
Ê-li-pha nói ra một số điều tuyệt
vời trong lời yêu cầu này, nhưng ông nói những điều ấy với không đúng đối
tượng. Khi chúng ta đi đến cuối sách, chúng ta sẽ khám phá rằng chính Ê-li-pha
và hai bạn ông là những người ở ngoài mối thông công với Đức Chúa Trời. Họ sẽ
cần đến Gióp để cầu thay cho họ hầu họ có thể được phục hồi (42:7-10).
Nếu bạn là Gióp, bạn sẽ đáp ứng ra
sao với lời yêu cầu đó?
2. Ba lời than vãn cay đắng (Giop 23:1-17)
Thay vì cãi lẽ với các
bạn mình, hoặc dàn xếp, thanh minh cho sự chính trực của mình bằng cách nhượng
bộ lời yêu cầu của Ê-li-pha, Gióp phớt lờ họ hoàn toàn với Chúa cùng việc nói
về Ngài. Gióp đã cho biết rõ rằng cuộc tranh luận của ông không phải với họ
nhưng với Đức Chúa Trời, ông nhấn mạnh sự việc này trong bài nói chuyện của
ông.
Chúng ta có thể diễn ý Giop 23:2 thành: “Sự
than vãn của tôi hôm nay là cay đắng và tôi phải giữ một tay đè nặng trên chính
tôi để tránh không làm gì ngoài việc rên siết”. Ba
bạn của Gióp không hiểu ông cần kỷ luật đến mức độ nào chỉ để có thể nói chuyện
với họ. Thay vì đầu hàng nỗi đau đớn của mình và chẳng làm gì ngoài sự rên
siết, Gióp tìm cách khắc phục sự đau đớn của ông và không đầu hàng sự tự thương
hại. Lần sau khi bạn thăm viếng ai trong nỗi đau đớn, hãy nhớ rằng sự đau khổ
rút cạn nghị lực của con người và tạo nên những đòi hỏi lớn chế ngự trên cả sức
mạnh và sự kiên nhẫn của người ấy.
Gióp nói rằng ông có ba
lời than vãn về Chúa:
“Đức Chúa Trời đang ẩn trốn tôi ” (Giop 23:1-12): “Ôi, chớ chi tôi biết nơi nào tôi có thể tìm thấy Ngài,
hầu cho tôi có thể đi đến chỗ ngồi của Ngài (ngôi)!” (c.3). Đây là lời cầu xin khác để được gặp Đức Chúa Trời tại
tòa và có một cuộc xét xử công bình. Gióp đã được chuẩn bị để tuyên bố vụ kiện
của ông, trình bày những lý lẽ của mình và được Đức Chúa Trời đưa ra lời tuyên
án. Gióp tin rằng, mặc dù có đại quyền của Đức Chúa Trời với tư cách Đấng ban
luật pháp, ông vẫn sẽ thắng vụ kiện của mình vì ông là người ngay thẳng, vì Đức
Chúa Trời không thể kết án người có lòng ngay thẳng. “Tại đó một người ngay
thẳng có thể trình vụ kiện mình trước Ngài, và tôi sẽ được thoát mãi mãi khỏi
quan án của tôi” (c.7 NIV).
Nhưng bằng cách nào một
người bình thường lại đi tìm Đức Chúa Trời? Nếu Gióp đi đến phía trước, phía
sau (đông hoặc tây), bên trái hay bên phải (bắc hay nam), ông cũng không thể
nhìn thấy Đức Chúa Trời hoặc thậm chí cũng chẳng thể bắt gặp cái nhìn thoáng nhanh của Ngài. Nhưng có một điều cắc chắn là,
Đức Chúa Trời luôn hiện diện khắp mọi nơi (Thi
139:7-12), và Gióp muốn một cuộc gặp gỡ
riêng tư với Đức Chúa Trời. Ông có những câu hỏi để hỏi và những lý lẽ để
trình bày!
Đức Chúa Trời biết Gióp
ở đâu (Giop
23:10) Đang ở trong lò thử thách! Nhưng đó là một lò lửa bởi sự chỉ định
của Đức Chúa Trời, không phải vì tội của Gióp, và Đức Chúa Trời sẽ sử dụng sự
đau khổ của Gióp để tinh luyện ông, khiến ông trở nên người tốt hơn. Đây không
phải là sự trả lời duy nhất cho câu hỏi: “Tại sao người công bình chịu khổ?”
Nhưng đó là một trong những câu trả lời tốt nhất, và nó có thể đem đến cho
người chịu khổ sự khích lệ lớn.
Kinh Thánh thường sử dụng hình ảnh
về một lò lửa để mô tả công việc tinh luyện của Đức Chúa Trời qua hoạn nạn.
“Nầy ta đã luyện ngươi, dầu không như bạc, ta đã thử ngươi trong lò hoạn nạn” (Es 48:10 NIV). Hoạn nạn của Y-sơ-ra-ên ở Ê-díp-tô
giống như tình trạng của sắt trong lò luyện nấu chảy (Phu
4:20) và sự tôi luyện sau đó của nó cũng là một “kinh nghiệm lò lửa”.
“Đức Chúa Trời ơi, vì Ngài đã thử thách chúng tôi, Ngài đã luyện chúng tôi như
bạc” (Thi 66:10 NIV). Hình ảnh này được sử
dụng trong IPhi 1:6-7; 4:12 nói về những tín đồ trải qua sự bắt bớ.
Khi Đức Chúa Trời đặt dân sự Ngài
trong lò lửa, Ngài để mắt nơi đồng hồ và tay Ngài nơi máy điều nhiệt. Ngài biết
phải đến bao lâu và mức độ nào. Chúng ta có thể nghi vấn vì sao Ngài làm điều
này, điều khác,… nhưng những câu hỏi của chúng ta là những chứng cớ duy nhất của
sự vô tín. Giop 23:10 là câu trả lời: “Nhưng
Ngài biết con đường tôi đi, khi Ngài đã thử thách
tôi, tôi sẽ ra như vàng” (NKJV). Vàng không sợ lửa. Lò lửa chỉ có
thể khiến vàng trở nên tinh khiết và chói ngời hơn.
Thật quan trọng để chú ý rằng đời
sống của Gióp làm đẹp lòng Đức Chúa Trời trước
khi ông bước vào lò lửa (c.11-12). Ê-li-pha đã cảnh cáo Gióp hãy
tiếp nhận lời Đức Chúa Trời và vâng theo (22:22)
nhưng Gióp đã làm điều ấy trước rồi. Lời Đức Chúa Trời là sự hướng dẫn của ông khi ông bước đi con đường
sự sống, và ông cẩn thận sẽ không đi bất cứ đường vòng nào khác. Nhưng còn hơn
thế nữa, Lời Đức Chúa Trời là lương thực
của ông, đối với ông còn quan trọng hơn những bữa ăn hàng ngày của ông. Giống
như Giê-rê-mi (Gie 15:16) và Chúa Giê-xu (Mat 4:4 Gi 4:31-34),
Gióp tìm thấy Lời Đức Chúa Trời là lương thực duy nhất làm thỏa mãn con người
bên trong của ông (Thi 1:2 119:103 IPhi 2:1-3).
Một số người đi vào lò
lửa hoạn nạn, và nó đốt cháy họ, những người khác vào đó được từng trải tinh
luyện. Điều gì tạo nên sự khác nhau như
vậy? Chủ yếu là ở thái độ của họ đối với Lời Đức
Chúa Trời và ý muốn Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta được nuôi dưỡng bởi
Lời Chúa và đầu phục ý muốn Ngài, thì những từng trải về lò lửa, đau đớn như có
thể, sẽ tinh luyện chúng ta và khiến chúng ta trở nên tốt hơn. Nhưng nếu chúng
ta chống lại ý muốn Đức Chúa Trời và không sống bởi lẽ thật của Ngài, thì từng
trải về lò lửa chỉ sẽ đốt cháy chúng ta, khiến chúng ta
trở nên cay đắng hơn.
Gióp có lời than vãn thứ
hai:
“Đức Chúa Trời đang làm tôi sợ hãi ”(Giop 23:13-17): “Nhưng Ngài đứng một mình, và ai
có thể chống đối Ngài. Ngài làm điều gì Ngài muốn” (c.13 NIV). Gióp không có
thần nào khác để đến nhờ giúp đỡ, và không có con đường nào để chống đối Đức
Chúa Trời hay làm thay đổi ý Ngài. Đức Chúa Trời vận hành vũ trụ bằng sắc lệnh,
không phải bằng sự nhất trí hay giống như việc bỏ phiếu bầu cử dân chủ. Những
tư tưởng và đường lối của Ngài cao hơn của chúng ta, nhưng Ngài biết điều gì
tốt nhất, và chúng ta phải chấp nhận ý muốn Ngài và vui mừng trong ý muốn ấy (Es 55:8-11).
Những ai chống nghịch hay phủ nhận
quyền tối cao của Đức Chúa Trời thì có nghĩa là người đó đã đánh mất đi sự bình
an và lòng can đảm của chính mình. Charles H. Spurgeon đã nói, “Không có sự
thay thế nào về Đức Chúa Trời đáng yên ủi đối với con cái Ngài hơn học thuyết
về quyền tể trị tối cao thiêng liêng của Ngài. Đồng thời, đó cũng là học thuyết
mà người thế gian rất ghét”. Vì sao vậy? Vì lòng người kiêu ngạo và không muốn
đầu phục Đức Chúa Trời Toàn Năng. Con người muốn “làm việc của mình” và “làm nó
theo cách của mình” hơn là tìm thấy sự vui mừng trong việc làm theo ý muốn Đức
Chúa Trời.
Nếu học thuyết này là nguồn sức mạnh
như thế, vậy tại sao Gióp quá sợ hãi khi ông nghĩ về quyền tối cao của Đức Chúa
Trời? Đó là vì ông chịu khổ quá nhiều và không biết Đức Chúa Trời Toàn Năng sẽ
giáng cho ông điều gì tiếp theo. Đầu phục Đức Chúa Trời khi bạn có thể thấy mặt
Ngài và nghe tiếng Ngài qua Lời Ngài là một chuyện. Nhưng khi giống như Gióp,
bạn đang ở trong sự tối tăm và đau đớn, thì bạn sẽ thật dễ dàng “vấp ngã” và
trở nên sợ hãi. “Ngài thi hành sắc lệnh Ngài chống lại tôi, và Ngài vẫn còn để
dành nhiều kế hoạch như thế ” (Giop 23:14
NIV). Liệu điều gì sẽ xảy ra kế tiếp đây?
Nhưng Giop
23:14 phải được so sánh với Gie 29:11,
Chúa phán: “Vì ta biết những kế hoạch ta dành cho các ngươi, những kế hoạch để
làm các ngươi thịnh vượng chứ không phải để làm hại các ngươi, những kế hoạch
để ban cho các ngươi hy vọng và một tương lai” (NIV). Tương lai là bạn của bạn khi Chúa Giê-xu Christ là Chúa
của bạn, và bạn không cần phải sợ hãi. Nhà tâm lý học Rollo May
viết: “Cách hữu hiệu nhất để bảo đảm giá trị của tương lai là đương đầu với
hiện tại một cách can đảm trong tinh thần xây dựng.” Và cách tốt nhất để làm
được điều đó là đầu phục Chúa và nhận ra rằng
Ngài đang tể trị. “Ha-lê-lu-gia! Vì Chúa là Đức Chúa Trời Đấng Toàn tri đã cai
trị” (Kh 19:6).
“Đức Chúa Trời làm tôi bối rối” (Giop
24:1-25): Toàn bộ phân đoạn Kinh Thánh này tập trung vào những điều có
vẻ như là sự bất công mà Đức Chúa Trời cho phép xảy ra trong thế gian này. Gióp
mở đầu bài diễn thuyết của ông bằng cách hỏi: “Vì sao
Đức Chúa Trời không có những ngày cụ thể để mở tòa án? Khi ấy tôi có thể tham
dự và nói cho Ngài biết điều tôi nghĩ về cách Ngài đang vận hành thế giới!”
Gióp bắt đầu bằng những sự bất công trong xứ sở (c.1-11) và sau
đó đi đến những tội ác trong thành
(c.12-17). Ông kết thúc bài nói chuyện bằng lời rủa sả trên kẻ ác (c.18-25).
Nếu Đức Chúa Trời không xét đoán họ thì Gióp sẽ xét đoán!
(1) Những
sự bất công trong xứ (c.1-11): Phần
lớn, không có bức tường hay hàng rào nào ngăn cách những nông trại, mỗi gia
đình có mảnh đất nhỏ của mình và người ta tôn trọng các mộc giới (“những cục đá
ranh giới”, NIV Phu 19:14 Ch 22:28 23:10).
Đức Chúa Trời hứa rủa sả những ai dời các mộc giới và ăn cắp bất động sản (Phu 27:17) nhưng kẻ ác đã làm như vậy.
Nhưng họ không dừng tại đó. Họ không
chỉ giành lấy đất, mà còn cướp súc vật của người ta đến ăn cỏ trên phần đất của
nhà họ nữa! Họ đoạt lấy bầy chiên, lừa và bò của các góa phụ và cô nhi khiến
những người này rơi vào trong sự nghèo khổ. Giop
24:5-11 cho thấy một trong những bức tranh sinh động nhất về nghịch cảnh
của người nghèo được tìm thấy bất cứ nơi đâu trong Kinh Thánh. Hãy xem họ cắt
cỏ để có thức ăn như thú hoang trong sa mạc (c.5-6), bị lạnh cóng vì họ không
có quần áo (c.7), bị mưa làm ướt dầm vì họ không có nhà để ở (c.8), khóc lóc vì
con cái họ đã bị cướp khỏi tay họ cho đến khi họ trả hết nợ (c.9) và bị buộc
phải làm việc cho người giàu nhưng không được phép ăn bất cứ thực phẩm nào mà
họ thu hoạch (c.10-11). Trong khi đó,thậm chí ngay cả con bò mà vẫn còn được ăn
lúa trong lúc làm việc! (Phu 25:4).
Gióp nói với các bạn ông: “Nào, nếu
Đức Chúa Trời xét đoán kẻ ác, tại sao Ngài không đoán phạt những kẻ đã đối xử
với người nghèo quá bất công và tàn nhẫn như thế?”
(2) Những
tội ác trong thành (c.12-17): Gióp
bắt đầu với những kẻ giết người
(c.12-14). Ông nghe tiếng thở than của những người bị thương và thấy sự chết
của người vô tội. Trung bình, có 60 người Mỹ bị giết hại mỗi ngày, tổng số gần
22.000 người bị giết hằng năm. Việc ấy giống như quét sạch một thành phố quanh
khu vực Fair-banks, Alaska hoặc El Cerrito, California hay Augusta, Maine,… Một
số kẻ giết người này chẳng bao giờ bị nhận diện, bị bắt hay bị kết án, Gióp
nói: “Nhưng Đức Chúa Trời không buộc tội ai về sự phạm pháp” (c.12 NIV). Gióp
chưa bao giờ giết ai nhưng các bạn của ông nói ông phải chịu sự xét đoán của
Đức Chúa Trời.
Trong câu 15, Gióp đề cập đến những tội lỗi tình dục, là tình trạng chắc
chắn lan tràn trong một số khu vực của thành phố chúng ta hiện nay. Kẻ ngoại
tình và kẻ hiếp dâm chờ đợi bóng tối trước khi họ trốn ra để thỏa mãn những dục
vọng của mình. Kẻ trộm cũng đang chờ
đợi bóng tối, là kẻ đột nhập vào các ngôi nhà (c.16-17). Gióp nói: “Có tội ác
trong thành và Đức Chúa Trời dường như không làm gì về điều đó.”
(3) Lời
rủa sả trên kẻ ác (c.18-25): Phân
đoạn này có thể được xem như một sự mô tả, cho biết điều sẽ xảy ra với kẻ ác
(KJV, NIV, NASB), hoặc nó có thể được giải thích như một sự tố cáo, lời rủa sả trên kẻ ác, những kẻ
dường như thoát khỏi sự xét đoán.
Lời nguyền rủa của Gióp có thể được
tóm tắt như vầy: “Nguyện kẻ ác biến mất như bọt trên nước hay như tuyết tan
trong sức nóng mặt trời (c.18-19). Nguyện chúng nó bị mọi người quên lãng, thậm
chí là mẹ của chúng cũng quên khi chúng bị mục rữa trong mồ (c.20). Nguyện vợ
của chúng son sẻ và không sinh nở cho chúng người thừa kế (c.21). Nguyện cảm
giác về sự an toàn và thành công của chúng biến mất nhanh chóng khi chúng bị hạ
xuống, bị cắt như lúa trong mùa gặt.” (c.22-24).
Gióp nói với ba người chỉ trích ông
rằng: “Nào, nếu tôi nói điều gì không đúng, hãy chứng minh rằng tôi đã sai”
(c.25). Nhưng họ không làm điều đó được.
Gióp phải bị lên án vì nhìn thấy
hoạn nạn của người khác bên cạnh hoạn nạn của chính mình và vì bày tỏ sự giận
dữ thánh khiết chống lại tội lỗi và sự bất công. Rất thường, hoạn nạn cá nhân
có thể khiến chúng ta ích kỷ và thậm chí làm chúng ta mù lòa trước những nhu
cầu của người khác, nhưng Gióp quan tâm rằng Đức Chúa Trời giúp đỡ những người
khác đang bị tổn thương. Ba bạn của ông đang xử lý vấn đề về hoạn nạn theo kiểu
quá trừu tượng, và Gióp tìm cách để họ nhìn thấy những
người bị tổn thương chứ không chỉ là những vấn đề về thần học. Chúa
Giê-xu có vấn đề tương tự với luật sư người Do Thái, là người muốn bàn luận
“tình láng giềng”, nhưng không khám phá người láng giềng của mình là ai để tìm
cách giúp đỡ người ấy (Lu 10:25-37).
Những bất công trong xã hội gây ra
nhiều nỗi đau đớn trong đời sống con người, và chúng ta chắc chắn phải làm mọi
việc có thể để ủng hộ luật pháp và đề cao sự công bình. Nhưng những người làm
luật và những người thi hành luật chỉ là loài người và không thể giải quyết mọi
việc hoàn hảo. Một ngày nào đó trong những ngày này, Chúa Giê-xu Christ sẽ tái
lâm, đoán phạt kẻ ác, và thiết lập vương quốc công bình của Ngài. Cho tới khi
Ngài đến, chúng ta sẽ phải chấp nhận thực tế về điều ác trong thế gian này và
cứ tiếp tục cầu nguyện: “Dầu vậy, kính lạy Đức Chúa Giê-xu, xin hãy đến!” (Kh 22:20).
Giop 24:1-25; xem giải nghĩa Giop 22:1-23:17
“Mỗi
năm lại khiến tôi run sợ vì dám đương đầu với những người nói về những điều
thuộc linh”. (Giám mục Brooke F.Westcott)
9. MỘT TIẾNG THÌ THẦM YẾU ỚT THAY! (Giop 25:1-28:28)
(Giop 25:1-6) Bài diễn thuyết của Binh-đát trong Gióp chương 25 là phần ngắn
nhất trong sách và tập trung vào quyền năng (c.1-3), sự công bình của Đức Chúa
Trời (c.4-6). Thật bối rối khi thấy các bạn của Gióp nói một cách thật hiểu
biết về Đức Chúa Trời ra sao, cuối cùng, Đức Chúa Trời bày tỏ rằng họ thật sự
không biết mình nói về điều gì. Rất thường, những ai nói nhiều nhất về Đức Chúa
Trời thì lại biết ít nhất về Ngài.
Quyền năng của Đức Chúa Trời cố hữu trong bản chất của Ngài (c.1-3).
Ngài có tất cả quyền thống trị, sự đáng sợ (“kinh khiếp”), ngự trị tối cao trên
các từng trời. Ngài điều khiển mọi sự và nhìn thấy điều gì đang hoạt động ở mọi
nơi. Thiên binh của Ngài chờ lệnh Ngài và sẵn sàng vâng phục ý muốn Ngài. Ai có
thể chống lại Ngài?
Sự công bình của Đức Chúa Trời hành động theo bản chất thánh khiết của
Ngài (c.4-6) vì “Đức Chúa Trời là sự sáng, trong Ngài
chẳng có sự tối tăm đâu” (IGi 1:5).
Vì Đức Chúa Trời thánh khiết và công bình, làm sao con người thuần túy có thể
tuyên bố mình công bình trước mặt Ngài? (Hãy nhớ, Gióp đang nắm giữ sự chính
trực của ông và từ chối xưng nhận rằng tội lỗi của
ông đã đem đến sự xét đoán của Đức Chúa Trời trên ông). Vì loài người được sinh
ra bởi người nữ cho nên, vừa khi được sinh ra đã mang bản chất tội lỗi (Thi 51:5). Ở Đông phương, mặt trăng và các ngôi
sao chiếu sáng tuyệt vời, nhưng ngay cả chúng cũng không tinh sạch trước mặt
Đức Chúa Trời. Làm sao một người thuần túy có thể tuyên bố mình công bình trước
mặt Đức Chúa Trời được, bởi vì loài người chỉ là một con giòi bọ và một con
sâu? (Giop 4:17-18 8:20
9:2). Giờ đây,
chúng ta hãy lắng nghe lời đáp của Gióp.
1. Gióp nhận biết quyền năng của Đức Chúa Trời (Giop 26:1-14)
Trước khi ca tụng đại quyền của Đức Chúa Trời trong vũ trụ, Gióp khiển trách
Binh-đát vì chẳng bày tỏ sự giúp đỡ ông (Giop
26:1-4). Gióp chẳng còn sức lực, nhưng Binh-đát đã không làm cho ông
mạnh mẽ hơn. Theo các bạn ông, Gióp không có sự khôn ngoan, nhưng Binh-đát đã
không chia xẻ một chút khôn ngoan hay sâu sắc nào cho ông cả. “Ai đã giúp ngươi
thốt ra những lời này? Và linh hồn của ai đã nói từ miệng của ngươi?” (c.4
NIV). Nếu những lời của Binh-đát đến từ Đức Chúa Trời, vậy chúng đã làm cho
Gióp trở nên tốt, vì Gióp đã kêu xin Đức Chúa Trời phán với ông. Kết luận là
những lời của Binh-đát đến từ Binh-đát, đó là lý do chúng chẳng làm lợi ích gì
cho Gióp.
Kế đến, Gióp ca tụng sự vĩ đại của
Đức Chúa Trời (c.5-13). Đức Chúa Trời nhìn thấy mọi sự, thậm chí thấy cả địa
phận của người chết (c.5-6). Gióp sử dụng ba tên gọi khác nhau chỉ về nơi chốn
của người chết: nước, âm phủ và “vực sâu” (A-ba-đôn, Kh
9:11). Nếu Đức Chúa Trời thấy điều gì đang hoạt động trong thế giới
người chết, thì chắc chắn Ngài biết hết điều gì đang xảy ra trong thế giới
người sống!
Đức Chúa Trời không chỉ nhìn thấy
mọi sự, nhưng Ngài đã dựng nên mọi sự và điều khiển chúng (Giop 26:7-13). Gióp bắt đầu bài ca ngợi của ông
bằng một nhận định về quyền năng của Đức Chúa Trời
trên các từng trời (c.7-9) và ông mô
tả trái đất bằng một cách chính xác về khoa học rất đáng chú ý (c.7). Đức Chúa
Trời cũng điều khiển mây và mưa nữa.
Sau đó Gióp chuyển sự chú ý của ông
đến trái đất (c.10-11) và ngợi khen
Đức Chúa Trời đã đánh dấu chân trời nơi mặt trời mọc và lặn. Ngài là Đức Chúa Trời, Đấng điều khiển ngày và đêm, đất và nước. “Những trụ
của trời” là một nhóm từ đầy thi vị chỉ về núi non. Chúng nằm trên đất, nhưng
chúng dường như chống đỡ các tầng trời. Tất cả những gì Đức Chúa Trời phải làm
là phán ra, và các núi run rẩy (9:6).
Khổ thơ cuối trong bài
ca của Gióp tập trung vào quyền năng
của Đức Chúa Trời trên biển (26:12-13). Đức Chúa Trời có thể khuấy động biển
hoặc làm nó yên lặng như Ngài muốn, và Ngài có quyền năng trên các sinh vật
trên biển (“Ra-háp” và “con rắn lướt qua”, NIV). Ngài có thể thổi đi những đám
mây bão và làm trong sáng bầu trời sau cơn bão.
Ba người bạn chắc đã lắng nghe một
cách thiếu kiên nhẫn vì họ đã biết những điều Gióp đang nói đến, nhưng họ đã không rút ra được kết luận đúng đắn từ những điều
đó. Vì họ đã thấy công việc của tay Đức Chúa Trời trong thiên nhiên,
họ nghĩ mình biết tất cả về Đức Chúa Trời, và do đó
họ có thể giải thích Đức Chúa Trời cho Gióp.
Gióp nói rằng điều ngược
lại mới là đúng. “Kìa, đây là các biên giới của đường lối Ngài, chúng ta nghe
một tiếng nói về Ngài yếu ớt làm sao! Nhưng tiếng sấm mạnh mẽ của Ngài, ai có
thể hiểu được?” (c.14 NASB). Điều chúng ta thấy về Đức Chúa Trời trong sự sáng
tạo chỉ là các biên giới của đường lối Ngài và điều chúng ta nghe chỉ là một
tiếng thì thầm của quyền năng Ngài! Bạn có thể đọc “Cuốn Sách Về Thiên Nhiên”
một cách cẩn thận và vẫn có nhiều điều để học biết về Đức Chúa Trời. Biết một
số sự kiện về sự sáng tạo của Đức Chúa Trời không giống như biết những lẽ thật
về Đức Chúa Trời của sự sáng tạo.
Nhà văn thuộc linh người
Anh ở thế kỷ thứ 14, Richard Rolle đã nói: “Gióp thật sự biết Đức Chúa Trời một
cách hoàn hảo đến nỗi thấy Ngài không thể hiểu được và không có khả năng để
được biết.” Càng học biết về Đức Chúa Trời, chúng ta càng khám phá biết bao
điều khác nữa! Hãy coi chừng những người tuyên bố biết tất cả về Đức Chúa Trời,
vì sự tuyên bố của họ là chứng cớ họ không biết Đức Chúa Trời và cũng không
biết chính mình.
2. Gióp chất vấn sự công bình của Đức Chúa Trời (Giop 27:1-23)
Binh-đát cho biết rõ
rằng Đức Chúa Trời thánh khiết, không người nào có thể được gọi là công bình
trước mặt Ngài (Giop
25:4-6). Hệ luận cho mệnh đề này đó là Đức Chúa Trời buộc phải trừng
phạt con người vì tội lỗi của họ. Nếu không, Ngài sẽ
không phải là Đức Chúa Trời công bình. Nếu Gióp chịu khổ, điều chứng minh là
Gióp đang phạm tội.
Gióp lập lời thề (Giop 27:1-6): Một lần nữa, Gióp đứng vững trong
việc khẳng định sự chính trực của mình (10:1-7
13:13-19 19:23-27
23:2-7), nhưng lần này, ông đưa ra một lời
thề: “Với tư cách Đức Chúa Trời sống” (27:2).
Giữa vòng dân Đông phương thời bấy giờ, lập một lời thề là vấn đề nghiêm túc.
Nó giống như mời Đức Chúa Trời giết bạn nếu bạn thất hứa. Gióp biết chắc về
chính mình đến nỗi ông sẵn sàng sử dụng cơ hội đó.
Gióp cũng lập lại lời buộc tội rằng
Đức Chúa Trời không đối xử với ông cách công bằng Ngài
đã phủ nhận sự công bình của tôi (27:2 NIV). Gióp đề nghị Đức Chúa Trời tuyên bố
những lời buộc tội chống lại ông, nhưng các từng trời yên lặng. Gióp đã cầu xin
một người phân xử để đem ông và Đức Chúa Trời lại gần nhau, nhưng không có
người phân xử nào được đưa đến.
Vì vậy, Gióp tuyên bố rằng, bao lâu ông còn sống, ông sẽ bênh vực mình và duy trì sự chính
trực của mình. Ông sẽ không nói dối chỉ để làm hài lòng các bạn ông, hay để
“hối lộ” Đức Chúa Trời trong việc phục hồi sự thịnh vượng cho ông (Sa-tan có lẽ
sẽ vui mừng về điều đó). Gióp đã phải sống bằng lương tâm của ông (“lòng”, c.6)
cho dù các bạn ông nói gì hoặc Đức Chúa Trời làm gì đối với ông.
Gióp thốt ra lời rủa
sả (Giop 27:7-10): Ở phương
Đông, những người bị tố cáo chỉ khẳng định sự vô tội của mình thì chưa đủ, họ
cũng cảm thấy buộc phải cần sự thạnh nộ của Đức Chúa Trời giáng trên người nào
đã nói họ có tội. Những lời của Gióp nhắc chúng ta về “những Thi Thiên rủa sả”
(Thi 58:1-11 69:1-36
137:1-9…) trong đó chúng là lời cầu nguyện
xin Đức Chúa Trời giáng sự đoán phạt trên kẻ thù mình.
Ai là kẻ thù của Gióp? Đó là bất cứ
ai đồng ý với ba người bạn của Gióp rằng ông phạm tội và đáng bị Đức Chúa Trời
trừng phạt. Trong khi cuộc đàm thoại này đang tiếp diễn, có lẽ nhiều người đã
vây quanh đống tro và lắng nghe cuộc tranh luận. Và có lẽ đa số họ đứng về phía
Binh-đát, Sô-pha và Ê-li-pha. Gióp có thể nhìn thấy những người đứng xem gật
đầu đồng ý với các bạn ông và ông biết mình đã bị áp đảo.
Những lời của Gióp có vẻ độc ác đối
với chúng ta, đặc biệt trong ánh sáng của những điều chúng ta được dạy dỗ về sự
tha thứ cho kẻ thù mình bởi Chúa Giê-xu Christ (Mat
5:38-48) và Phao-lô (Ro 12:17-21).
Nhưng Gióp đã sống trong thời trước khi luật Môi-se được ban ra, chứ đừng kể
đến Bài Giảng Trên Núi, và chúng ta không nên mong ông biểu lộ loại tinh thần
được nhìn thấy qua Chúa Giê-xu (Lu 23:34) và
Ê-tiên (Cong 7:60).
Tuy nhiên, trong ánh
sáng của Đức Chúa Trời, thì Gióp đã đúng. Đức Chúa Trời đã hai lần tuyên bố trước tòa
trên trời rằng Gióp là “một người không chỗ trách và ngay thẳng, kính sợ Đức
Chúa Trời và lánh khỏi điều ác” (Giop 1:8 2:3 NKJV). Vì vậy, kẻ thù của Gióp đã sai, và Gióp
có quyền cầu xin Đức Chúa Trời bênh vực ông. Thật ra, Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất có thể chứng minh Gióp
đúng và kẻ thù của ông là sai. Vậy Gióp còn có thể hướng về nơi nào
khác để được giúp đỡ ngoài Chúa?
Ba người bạn nhiều lần
cảnh cáo Gióp về số phận khủng khiếp của kẻ ác, vì vậy Gióp ném những lời của
họ trở lại với họ. “Nguyện kẻ thù tôi giống như kẻ ác, những kẻ dấy nghịch tôi
giống như những kẻ bất công” (27:7
NIV). Gióp thấy những kẻ thù của ông kinh nghiệm tai
họa lớn, kêu cầu Đức Chúa Trời để được giúp đỡ nhưng không được sự trả
lời, và rồi bất thình lình bị sự chết kết liễu. Nhưng đó không phải chính là sự
xét đoán mà các bạn của Gióp đã tiên đoán cho ông và
có lẽ hy vọng nó sẽ đến sao?
Binh-đát khẳng định Đức Chúa Trời
công bình và Ngài sẽ trừng phạt những ai bất tuân Ngài. Nhưng điều này không có
nghĩa là mọi người chịu khổ đều đang bị trừng phạt vì tội lỗi của mình. Đôi khi
chúng ta chịu khổ vì tội lỗi của người khác (chẳng hạn như Giô-sép) hoặc vì Đức
Chúa Trời đang ngăn chúng ta khỏi tội lỗi (chẳng hạn trường hợp của Phao-lô
trong II Cô-rinh-tô đoạn 12). Chúa Giê-xu đã chịu
khổ, không phải vì chính tội lỗi của Ngài,vì Ngài không có tội, nhưng vì tội
lỗi của cả thế gian (IPhi 2:22-24 3:18) và bởi sự thương
khó cùng sự chết của Ngài, tội nhân có thể tin và nhận được sự sống đời đời.
Gióp dạy một bài học (Giop 27:11-23): Gióp nói: “Tôi sẽ dạy các bạn về quyền năng của Đức Chúa Trời”
(Giop 27:11 NIV) và ông mô tả sự đoán phạt
của Đức Chúa Trời đối với kẻ ác. Vào ngày mà Đức Chúa Trời bênh vực Gióp, đây
là điều sẽ xảy đến cho kẻ thù ông.
Họ sẽ chết, và những góa phụ của họ
sẽ không than khóc vì họ một sự sỉ nhục khủng khiếp trong thế giới Đông phương.
Con cái họ sẽ bị giết bởi gươm và tai họa, và nếu có ai sống sót, chúng sẽ phải
trải qua phần đời còn lại để ăn xin mà sống. Kẻ ác sẽ nằm xuống trong sự giàu
có nhưng sẽ phải thức dậy trong sự nghèo nàn. Bạc và quần áo đắt giá của họ sẽ
mất, nhà họ sẽ bị hủy diệt như kén tằm (hoặc mạng nhện), hay như những lều tạm
của người canh gác trên cánh đồng. Sự chết của kẻ ác sẽ không bình an. Những sự
kinh khiếp sẽ đến vào ban đêm giống như một cơn nước lụt mang hắn đi. Cho dù kẻ
ác tìm cách chạy trốn, bão tố sẽ đuổi theo và tiêu
diệt họ.
Bạn có thể nhận ra trong
sự mô tả này nhiều hình ảnh mà các bạn của Gióp đã sử dụng trong những bài diễn
thuyết về “sự xét đoán” của họ chống lại ông. Gióp làm điều này cách cố ý để
nhắc họ rằng họ nên cẩn thận về điều họ
nói, kẻo họ đã tuyên bố sự trừng phạt của chính
mình. “Đừng xét đoán để các ngươi
khỏi bị xét đoán. Vì với sự xét đoán nào mà các ngươi xét đoán, các ngươi sẽ bị
xét đoán, và với sự đo lường mà các ngươi sử dụng, nó sẽ được đo lường lại cho
các ngươi” (Mat 7:1-2 NKJV).
Kinh Thánh ghi lại nhiều trường hợp
mà sự xét đoán do kẻ thù vạch ra rốt cuộc đổ lại trên chính họ. Pha-ra-ôn đã ra
lệnh nhận nước những con trai Hê-bơ-rơ mới sinh và chính đạo quân của ông đã bị
nhận chìm trong Biển Đỏ (Xu 1:15-22 14:23-31). Ha-man đã dựng một cây mộc hình làm giá
treo cổ cho Mạc-đô-chê, nhưng các con trai của Ha-man và chính hắn đã bị treo
lên đó (Et 7:10 9:26).
Các kẻ thù của Đa-ni-ên tìm cách làm cho ông bị tiêu diệt nhưng chúng và gia
đình chúng đã bị toi mạng trong hang sư tử thay cho Đa-ni-ên (Da 6:24 Ch 11:8).
Các học giả không nhất trí về cách
giải thích của Giop 27:23, bản dịch Kinh
Thánh NASB ghi rằng: “Người sẽ vỗ tay về hắn và sẽ huýt gió đuổi hắn khỏi chỗ
của hắn.” Đa số các bản dịch nhất trí với câu ấy, nhưng từ “người ta”
không có trong bản văn gốc. Nó đơn giản ghi “Người vỗ tay nghịch với hắn.”
“Người” là ai? Elmer B.Smick trong “The
Expositor’s Bible Commentary” gợi ý rằng đó có thể là Đức Chúa Trời
và câu 23 phải được tiếp nối với câu 13 nơi
mô tả Đức Chúa Trời là chủ ngữ của câu (cuốn 4, trang 972). Ông dịch câu 23: Ngài vỗ tay nghịch với chúng và huýt gió đuổi chúng khỏi
chỗ ở của chúng (thiên đàng).
Nhưng dù là Đức Chúa Trời hay con người, thì chắc chắn sẽ có niềm vui mừng về
sự hủy diệt kẻ ác.
3. Gióp tìm kiếm sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời (Giop 28:1-28)
“Còn sự khôn ngoan sẽ
tìm được ở đâu?” (Giop
28:12). “Vậy thì sự khôn ngoan ở đâu đến? Sự
thông sáng ở tại nơi nào?” (c.20 NIV). Gióp đặt những câu hỏi này vì ông đã mệt
mỏi bởi những luận điệu cũ và những lời nói tầm thường mà các bạn của ông đang
bày tỏ bằng tên gọi là “sự khôn ngoan.” Các bạn ông chắc rằng những lời
nói của họ là vàng ròng, nhưng Gióp kết luận chúng là hàng mã và là thứ vô giá
trị. Ba người có tri thức nhưng thiếu
sự khôn ngoan.
Charles Spurgeon đã nói: “Sự khôn
ngoan là cách sử dụng đúng đắn về tri thức. Hiểu biết không phải là khôn ngoan.
Nhiều người biết rất nhiều, nhưng chưa chắc khôn ngoan, cũng không có người dại
trí thức và người dại bình dân.”
Trong bài thơ nói về sự
khôn ngoan, Gióp đưa ra ba câu trả lời cho câu hỏi của ông: “Sự khôn ngoan sẽ
tìm được ở đâu?”
Bạn không thể đào ra
sự khôn ngoan (Giop 28:1-11): Gióp đưa
chúng ta đi sâu vào lòng đất nơi những người can đảm đang đào vàng, sắt, đồng
và đá quí. Kim loại quý và đá quí thường được sử dụng trong Kinh Thánh làm
những biểu tượng về sự khôn ngoan (Ch 2:1-10
3:13-15 8:10-21
ICo 3:12-23). Một khi bạn tìm được nó, bạn
phải “luyện” nó trong lò lửa “đúc” nó cho việc sử dụng thực tiễn. Phao-lô nói
rằng đối nghịch với sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời là sự khôn ngoan của loài
người “gỗ, cỏ khô, rơm rạ” những vật liệu không đẹp, bền hoặc giá trị (ICo 3:12). Bạn có thể tìm thấy gỗ, cỏ khô và rơm
rạ trên bề mặt của đất, nhưng nếu bạn muốn của báu thật, bạn phải đào xới sâu
xuống dưới lòng đất.
Gióp mô tả cách con người làm việc
cực nhọc và đối diện với hiểm họa lớn để tìm thấy của cải vật chất. Họ đào hầm
xuyên qua đá cứng và liều mạng để làm giàu. Vì
sao con người sẽ không đặt nhiều nỗ lực đó vào việc tìm đạt cho được sự khôn
ngoan của Đức Chúa Trời? Lời Đức
Chúa Trời giống như một hầm mỏ sâu, đầy dẫy những châu báu quý giá, nhưng tín
đồ phải dùng nỗ lực mới khám phá được của cải ấy. Cần phải cẩn thận đọc và
nghiên cứu, cầu nguyện, suy gẫm và vâng theo để đào được những châu báu của Lời
Đức Chúa Trời, và Thánh Linh Đức Chúa Trời sẵn sàng giúp đỡ chúng ta. Tại sao
chúng ta quá lơ đễnh khi của cải lớn lao này đang nằm thật gần tầm tay chúng
ta?
Dù con người có thể đào sâu vào lòng
đất và tìm thấy nhiều của cải, dù con người có thể đi đến những nơi mà chim
trời và thú rừng không dám đi, dù con người thậm chí có thể tìm thấy những
nguồn sống lớn tìm ẩn, nhưng con người vẫn không
thể tìm thấy được sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời chỉ bằng những nỗ lực con
người. Cần phải có nhiều thứ khác nữa hơn cả sự can đảm và sự thông
minh bẩm sinh, nó đòi hỏi tính khiêm nhường và nhận thức thuộc linh.
Việc một người thành
công cách đáng khâm phục trong một lãnh vực nào đó của đời sống không có nghĩa
là người ấy có đủ khả năng để nói về những lãnh vực khác của đời sống. Các nhà
quảng cáo sử dụng những vận động viên để bán dao cạo và xe hơi, hoặc sử dụng
các nam nữ diễn viên điện ảnh để bán thuốc. Khi các khoa học gia nổi tiếng
(những người chưa bao giờ nghiên cứu Kinh Thánh), nói cách hùng hồn về những
điều thuộc linh, ý kiến của họ vẫn có giá trị giống y như bất cứ nhà thần học
nào khác không chuyên môn và không có kinh nghiệm.
Bạn không thể mua sự
khôn ngoan (Giop 28:12-19):
Xã hội ngày nay nghĩ rằng bất cứ điều gì cũng có thể
đạt được hoặc hoàn thành được nếu bạn có đủ tiền. Các cơ quan chính quyền yêu
cầu được chi một phần lớn ngân sách hằng năm để họ có thể làm công việc tốt hơn
trong công việc chống tội ác, chấm dứt sự ô nhiễm, cung cấp việc làm và xây
dựng một môi trường tốt hơn. Mặc dù một số tiền nào đó là cần thiết để tồn tại
trong xã hội hiện đại, nhưng tiền không phải là thứ làm được tất cả như thế gian
thường nói. Thật là thú vị khi hưởng được những thứ mà tiền bạc có thể mua được
(ITi 6:17) nếu
bạn không đánh mất những gì mà tiền bạc không thể mua được.
Trong những câu này, Gióp đề cập đến
vàng 5 lần, bạc 1 lần, kể tên 7 loại đá quí khác nhau, nhưng không có thứ gì
trong số những châu báu nói riêng hay tất cả chúng nói chung, có thể mua được
sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời. Vấn đề thật sự đó là loài người không hiểu giá trị của sự khôn ngoan và nghĩ
mình có thể mua được nó với giá rẻ (Giop
28:13). “Sự khôn ngoan quý báu hơn châu
ngọc và tất cả những thứ con có thể ao ước không thể sánh với nó” (Ch 3:15 NKJV). Sự khôn ngoan thật rất đắt giá. Nó
không được tiếp nhận một cách tự động chỉ nhờ việc bạn lắng nghe một băng
cát-sét, tham dự một hội thảo chuyên đề, hay nghe một diễn giả năng động nào đó.
Sự khôn ngoan chỉ đến
từ Đức Chúa Trời (Giop 28:20-28) Hãy bay lên cao như loài chim, và bạn sẽ không tìm thấy sự
khôn ngoan ở đó. Hãy xuống vực sâu như A-ba-đôn, và sự chết lẫn sự khôn ngoan
đều không có ở đó. Chỉ có Đức Chúa Trời biết nơi nào để tìm thấy sự khôn ngoan,
vì Đức Chúa Trời nhìn thấy mọi sự. (Ngài không cần đào sâu trong lòng đất để
thấy cái gì ở đó!). Đức Chúa Trời có sự khôn ngoan để điều chỉnh áp lực của gió
và đo lường lượng nước trong không khí. Nếu những tỉ lệ này bị thay đổi, những
xáo trộn trong thiên nhiên có thể xảy đến nguy hại biết dường nào! Đức Chúa
Trời biết cách điều khiển mưa và hướng dẫn bão tố khi nó quét qua trái đất.
Những tia chớp và luồng sấm sét có thể dường như bất thường đối với chúng ta
nhưng Đức Chúa Trời điều khiển cả chúng nó nữa!
Gióp trả lời câu hỏi: Sự khôn ngoan ở đâu? trong (Giop
28:28). “Kìa, sự kính sợ Đức Chúa Trời,
ấy là sự khôn ngoan và tránh khỏi điều ác là sự thông sáng” (Thi 110:10 Ch 1:7
9:10). Đây là sự mô tả của Đức Chúa Trời về
Gióp (Giop 1:8 2:3).
Vì vậy, mặc cho các bạn nói gì về mình, Gióp vẫn
cứ là một người khôn ngoan.
“Sự kính sợ Đức Chúa Trời là gì?” Đó
là sự tôn kính, yêu mến đối với Đức Chúa Trời, đối với bản chất của Ngài, Lời
Ngài phán và việc Ngài làm (Ma 2:5-6). Không
phải sự kính sợ làm tê liệt, nhưng là điều làm mạnh mẽ. Khi bạn kính sợ Chúa,
bạn vâng theo những điều răn của Ngài (Gios 24:14).
Bạn trung thành với Ngài và dâng cho Ngài sự hầu việc bằng cả tấm lòng (IISu 19:9). Giống như Gióp, khi bạn kính sợ Chúa,
bạn lánh xa điều ác (Ch 3:7-8). “Sự kính sợ
Chúa” là sự kính sợ đắc thắng sợ hãi (Thi 112) vì nếu bạn kính sợ Đức Chúa
Trời, bạn không cần sợ bất cứ ai khác (Mat 10:26-31).
Vì vậy, bước đầu tiên tiến đến sự
khôn ngoan thật là một thái độ kính sợ và tôn trọng đối với Đức Chúa Trời, nó
cũng đòi hỏi một thái độ khiêm nhường đối với chính mình. Sự kiêu ngạo cá nhân là rào cản lớn nhất đối với sự khôn
ngoan thuộc linh. “Sự kiêu ngạo đến,
thì sự sỉ nhục đến, nhưng sự khôn ngoan ở với người khiêm nhường” (Ch 11:2 NKJV).
Bước kế tiếp là cầu xin Đức Chúa
Trời ban cho sự khôn ngoan (Gia 1:5) và
chuyên cần sử dụng phương tiện Ngài ban cho chúng ta để bảo vệ sự khôn ngoan,
đặc biệt là nhận biết và làm theo lời Đức Chúa Trời (Mat
7:21-29). Chỉ nghiên cứu thì chưa đủ, chúng ta cũng phải vâng theo điều
Đức Chúa Trời bảo chúng ta làm (Gi 7:17).
Khi chúng ta bước đi bởi đức tin, chúng ta khám phá sự khôn ngoan của Đức Chúa
Trời trong những việc hằng ngày của đời sống. Sự khôn ngoan thuộc linh không
mang tính trừu tượng, nó rất riêng tư và rất thực tế.
Khi chúng ta thông công với các tín
hữu khác trong Hội Thánh và chia xẻ với nhau, chúng ta có thể học sự khôn
ngoan. Đọc những cuốn sách hay nhất cũng có thể giúp chúng ta tăng trưởng trong
sự khôn ngoan và thông hiểu. Điều quan trọng nhất đó là chúng ta tập trung vào
Đấng Christ, vì Ngài là sự khôn ngoan của chúng ta (ICo
1:24) và trong Ngài giấu kín “mọi sự quý báu về khôn ngoan và tri thức”
(Co 2:3). Chúng ta cũng phải nhận biết rõ
Đấng Christ và càng trở nên giống Ngài, chúng ta sẽ càng bước đi trong sự khôn
ngoan và hiểu được ý muốn của Chúa. Chúng ta phải để Thánh Linh mở đôi mắt của
lòng mình hầu chúng ta có thể thấy Đức Chúa Trời qua Lời Ngài và hiểu nhiều hơn
về những của cải chúng ta có trong Đấng Christ (Eph
1:15-23).
Bài nói chuyện của Gióp vẫn chưa
chấm dứt. Trong ba phân đoạn Kinh Thánh kế tiếp, Gióp sẽ nhìn lại đời sống ông
và sau đó thách thức Đức Chúa Trời bào chữa cho ông
hoặc xét đoán ông. Điều đó sẽ kết thúc cuộc tranh luận và đưa đến hai
người tham gia mới: Ê-li-hu và Chúa.
“Hễ
chừng nào chúng ta còn muốn trở nên khác đi với điều Đức Chúa Trời muốn ở chúng
ta vào thời điểm đó, thì chúng ta lại càng đang tự làm khổ mình một cách vô ích
mà thôi.”
(Gerhart Tersteegen)
10. “TÔI XIN NGỪNG VỤ KIỆN CỦA MÌNH!” (Giop 29:1-31:40)
Gióp và các bạn ông đã
chia xẻ ba vòng về những bài diễn thuyết, và giờ đây Gióp cảm thấy đến lúc ông
phải tóm tắt lại sự bênh vực của mình. Nhóm từ “Hơn nữa, Gióp tiếp tục câu
chuyện của mình (bài thuyết giảng)” (Giop 29:1) gợi ý rằng Gióp có lẽ đã tạm nghỉ và
chờ đến lượt Sô-pha nói, nhưng Sô-pha yên lặng. Có lẽ Sô-pha cảm thấy thật lãng
phí thời gian để tranh cãi với Gióp về bất cứ điều nào nữa.
Trong ba phân đoạn Kinh Thánh này,
Gióp nhớ lại những phước hạnh trong quá khứ (29:1-25),
than vãn về hoạn nạn của hiện tại (30:1-31)
và thách thức Đức Chúa Trời bào chữa cho ông trong tương lai (31:1-40). Ông đưa bài diễn thuyết lên đến đỉnh
điểm bằng 16 nhận định. “Nếu tôi…” và đặt mình dưới lời thề, thách thức Đức
Chúa Trời hoặc kết án, hoặc bênh vực ông. Điều đó như thể Gióp muốn nói: “Chúng
ta đã nói nhiều quá rồi! Tôi thật sự không quan tâm điều mà các bạn suy nghĩ,
vì Đức Chúa Trời là quan án của tôi, và tôi ngừng vụ
kiện của mình với Ngài. Nào, hãy để Ngài giải quyết vấn đề cách này hay cách
khác, chỉ một lần là đủ rồi.”
1. Gióp nhìn lại những niềm vui của đời sống (Giop 29:1-25)
Gióp mở đầu sự bênh vực
của ông bằng cách nói rằng ông ước ao mình chưa bao giờ được sinh ra (phân đoạn
3). Giờ đây, ông kết thúc sự bênh vực mình bằng cách nhớ lại những phước hạnh
mà ông và gia đình ông đã vui hưởng trước khi ông gặp cơn khủng hoảng. Đây là điều nhắc nhở ích lợi giúp chúng ta có cái nhìn đời sống
cách quân bình. Vâng, Đức Chúa Trời để chúng ta trải qua những khó khăn và buồn
rầu, nhưng Ngài cũng gửi đến những chiến thắng và niềm vui. “Chúng ta sẽ lãnh lấy sự phước nơi tay Đức Chúa Trời và
chúng ta sẽ không lãnh lấy tai họa sao?” (2:10).
Charles H.Spurgeon đã nói rằng có quá nhiều người viết những phước hạnh của họ
trên cát nhưng khắc những sự buồn rầu của mình trên đá hoa cương.
“Ôi,
ước gì tôi được như những tháng đã qua, như trong các ngày mà Đức Chúa Trời gìn
giữ tôi!” (29:2). Khi chúng ta
nếm trải những thử thách, thật tự nhiên để chúng ta ao ước “những ngày tốt đẹp
đã qua”, nhưng sự mong ước của chúng ta sẽ không thay đổi hoàn cảnh của chúng
ta. Ai đó đã định nghĩa “những ngày tốt đẹp đã qua” là “sự kết hợp một ký ức
xấu và một sự hình dung tốt.” Tuy nhiên, trong trường hợp của Gióp, ký ức của ông
rất chính xác và “những ngày tốt đẹp đã qua” thật sự là tốt đẹp.
Có một vai trò trong ký ức nếu chúng
ta biết sử dụng nó cách đúng đắn. Môi-se đã khuyên Y-sơ-ra-ên nhớ lại cái cách
Đức Chúa Trời đã dẫn dắt và chăm sóc họ ra sao (Phu
8:2). Thật ra, từ “nhớ” được tìm thấy 14 lần trong Phục Truyền và từ
“quên” 9 lần. Trong những ngày thất vọng, thật tốt lành để “nhớ lại các năm về
tay hữu của Đấng Chí Cao (Thi 77:10-11 42:6). Nhưng quá khứ phải là một bánh lái hướng
dẫn chúng ta chứ không phải cái neo giữ chúng ta lại. Nếu chúng ta tìm cách sao
lục ngày hôm nay những gì chúng ta kinh nghiệm ngày hôm qua, thì chúng ta có
thể tìm thấy chính mình nơi vết xe đổ là điều sẽ cướp đi sự trưởng thành của
chúng ta.
Thật ý nghĩa khi Gióp đề
cập đến niềm vui mừng số một của ông như sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong gia đình ông (Giop 29:2-6). Đức Chúa Trời gìn giữ ông và chia xẻ
“tình thiết hữu” của Ngài với ông (c.4 NIV). Ánh sáng của Đức Chúa Trời soi
trên Gióp, và sự hiện diện của Đức Chúa Trời ở cùng ông với con cái ông. Đức
Chúa Trời là nguồn của mọi sự giàu có và thành công của Gióp, khi con đường của
ông “được tẩm ướt bằng sữa và hòn đá phun ra suối dầu ô-liu” (câu 6, NIV).
(Sô-pha có hứa với Gióp về “mật và sữa” nếu ông ăn năn. (20:17 Phu 32:13-14
33:24).
Có sự chú ý đặc biệt sâu sắc trong
nhận định mở đầu này: Gióp ước ao trở lại buổi sơ khai của đời sống (Giop 29:4). Mặc dù đây là một ao ước tự nhiên, nó
cũng là một ao ước nguy hiểm. Nếu chúng ta tập trung quá nhiều vào những vinh
quang của quá khứ đến nỗi chúng ta bỏ qua những cơ hội của hiện tại, chúng ta
có thể đi đến chỗ không được chuẩn bị để gặp tương lai. Tương lai đó sẽ đến dù
chúng ta có thích nó hay không. Một số ít người nôn nóng mong đợi tuổi già và
những vấn đề đặc biệt, nhưng chúng ta không thể tránh được điều đó. Một sự thật
được chứng minh rằng những ai có nhiều sinh nhật nhất thì sống lâu nhất và
những ai sống lâu nhất sẽ trở nên già nhất, và người
già cuối cùng rồi cũng chết.
Bạn có nhớ những lời nói
đùa “không bao giờ chết” ? Những người trượt tuyết già không bao giờ chết: họ
chỉ đi xuống dốc đồi. Những thợ làm bánh già không bao giờ chết, họ chỉ không
nổi lên. Những cầu thủ bóng đá già không bao giờ chết, họ chỉ dò dẫm ở xa.
Những người chơi gôn già không bao giờ chết, họ chỉ trượt cú đánh của mình.
Chúng ta có thể nghĩ mình không bao giờ chết, nhưng chúng ta sẽ chết, trừ khi
Chúa tái lâm cất chúng ta lên trời. Điều này nghĩa là chúng ta phải chuẩn bị
cho tuổi già và sự chết. Thật vô ích để nhìn lại bằng sự hối tiếc, chính đức
tin nhìn về phía trước bằng sự vui mừng.
Henri Amiel đã viết:
“Biết cách để trở nên già là công việc tinh thông của sự khôn ngoan, và là một
trong những chương khó nhất trong nghệ thuật sống vĩ đại.”
Kế đến Gióp liệt kê sự
vui mừng về
sự tôn trọng của những người khác (c.3-11). Điều Đức Chúa Trời đã
ban cho ông, Gióp chia xẻ với người khác. Ê-li-pha đã tố cáo Gióp bóc lột người
nghèo và kẻ túng thiếu (22:5-9), nhưng Gióp
phủ nhận điều đó. Những câu này mô tả chức vụ của một người có lòng thương xót
đã đem đến sự giúp đỡ và niềm hạnh phúc cho nhiều người. Gióp đã làm mạnh mẽ
những người công bình và ngay thẳng trong thành (29:14
Es 59:17) khi ông giúp đỡ những người tàn
tật, chu cấp cho người túng thiếu và thậm chí bảo vệ khách lạ. Nhưng Gióp không
dừng lại với việc giúp đỡ người túng thiếu , ông cũng đương đầu với kẻ ác và
phá vỡ quyền lực của họ (Giop 29:17). Gióp
ví sánh kẻ ác với dã thú sẵn sàng cắn xé kẻ yếu đuối, nhưng ông đã đến và giành
lấy các nạn nhân từ chính hàm của chúng.
Sự tin quyết về tương
lai (c.18-20) là nguồn vui
khác của Gióp trước khi những tai họa đến trên ông. Đức Chúa Trời đã chúc phước
Gióp và Gióp chia xẻ những phước hạnh đó với người khác, vì vậy ông có mọi lý
do để tin rằng đời sống sẽ tiếp diễn như thế nhiều năm. Ông tin rằng mình sẽ
xanh tươi và đầy sức sống, sống đến tuổi
già, chết trong sự bình an vinh hiển. Ông nhìn thấy mình là cây bén rễ sâu sẽ
tiếp tục ra trái (c.19 Thi 92:12-14). Vì con
cái được mô tả như những mũi tên (Thi 127:3-5),
câu 29:20 gợi ý rằng Gióp mong duy trì sức
mạnh thuộc thể của ông và sinh được nhiều con cái.
Nguồn vui sau cùng của
ông là đặc
quyền nói những lời yên ủi và giúp đỡ (c.21-25).
Ông thật sự là một Ba-na-ba của Cựu Ước, “con trai của sự yên ủi” (Cong 4:36 NKJV) có lời
nói được tôn trọng và cảm kích, khi ông nói, nó dịu dàng và tươi mát như mưa.
Khi ông cười, nó soi sáng cả hoàn cảnh và cho người ta niềm hy vọng. Sự tán
thành của Gióp giống như bình mình của một ngày mới. Ông là một lãnh đạo giúp
người bối rối thực hiện những quyết định khôn ngoan, cho người than khóc sự yên
ủi và hy vọng mới mẻ.
Vâng, Gióp đã vui hưởng
một đời sống giàu có và đáng giá, nhưng giờ đây tất cả những điều đó đã mất.
2. Gióp nhìn quanh sự xét đoán của Đức Chúa Trời (Giop 30:1-31)
Từ quá khứ đầy vui vẻ,
Gióp bất ngờ bị đẩy vào hiện tại buồn thảm và thất vọng. Bạn hầu như có thể
nghe ông rên siết với những lời đầu tiên, nhưng bây giờ (Giop
30:1,9,16). Gióp đủ khôn
ngoan để biết rằng ông phải đối diện với sự thật của hiện tại và không thể nào
trốn vào ký ức của quá khứ được. Những người không chịu thấu hiểu bằng đời sống
thực tế thì sẽ ở trong hiểm họa đánh mất cảm giác với hiện thực, và chẳng bao
lâu họ sẽ đánh mất xúc giác của chính mình.
Bác sĩ thần kinh William Glasser
viết: “Trong nỗ lực thực hiện những nhu cầu của mình nhưng không có kết quả,
thì việc các bệnh nhân chọn có thái độ hành vi cư xử nào không quan trọng, bởi
vì hết thảy họ đều có một đặc điểm chung: Họ phủ
nhận tất cả hiện thực của thế giới quanh họ” (Realty Therapy (Phép chữa bịnh hiện thực)
trang 6). Bằng cách từ chối sống trong quá khứ và bằng cách thành thật đối diện
với hiện thực, Gióp thực hiện một bước phi thường trong sự trưởng thành và
chính trực. Trong lời than van của mình, Gióp so sánh hoàn cảnh hiện tại của
ông với quá khứ và bày tỏ mọi sự đã bị thay đổi bởi sự xét đoán của Đức Chúa
Trời ra sao. Năm “lời than vãn” của ông tương đương
với những niềm vui ông đã kể ra trong phân đoạn 29:
-“Tôi không có sự tôn trọng” (30:1-15 29:7-11)
-“Tôi không có phước hạnh” (30:16-23 29:2-6)
-“Tôi không có sự giúp đỡ” (30:24-25 29:12-17)
-“Tôi không có tương lai” (30:26-28 29:18-20)
-“Tôi không có chức vụ” (30:29-31 29:21-25).
“Tôi không có sự tôn trọng” (Giop
30:1-15): Những người trẻ tuổi đã từng nhường bước cho Gióp (Giop 29:8) thì giờ đây nhạo báng ông và thậm chí
khạc nhổ trước mặt ông (30:1,9-10). Nhưng phần
tồi tệ nhất của từng trải này đó là những kẻ trẻ tuổi này là con trai của những
người hèn hạ mà Gióp ví sánh những người cha của chúng với những con lừa đi
hoang trong sa mạc. Ông gọi chúng là “con cái của những kẻ ngu xuẩn”, “con cái
của những kẻ hèn hạ” (c.8). Họ là những người bị
ruồng bỏ khỏi xã hội, phải rày đây mai đó trong đồng vắng để kiếm thức ăn và
nhiên liệu cho đống lửa của họ. Cùng một thời điểm đó, Gióp là người cao trọng
nhất Đông phương, và giờ đây ông là bài ca của đám tiện dân (c.9).
Những người này không
xứng đáng ngang hàng với ông mà giờ đây họ đang công khai chế giễu ông. Điều gì
đã tạo nên sự thay đổi này? Giờ đây Gióp là một người bị ruồng bỏ giống như họ.
Khi cung của Gióp được làm mới lại trong tay (ông)
một biểu tượng của sinh lực và sự thành công (29:20)
thì những người này đã kính trọng ông. Nhưng Đức Chúa Trời đã “làm chùng (dùn)”
dây cung của ông và khiến ông khổ sở, vì vậy những kẻ chống nghịch này đặt qua
một bên sự thận trọng của mình và coi thường ông (30:11)
trong khi trước đây họ đã kính trọng Gióp. Đó không phải là vì họ tôn trọng
tính cách và sự chính trực của ông, nhưng là tôn trọng địa vị đối với sự giàu
có của ông, và họ hy vọng được ích lợi từ đặc ân của ông mà thôi. Tình bạn của họ hay thay đổi và sự kính trọng của họ là giả
hình.
Vì đám tiện dân này đã
“ném sự thận trọng” (c.11 NIV), cho nên họ làm cho đời sống trở nên khổ sở đối
với Gióp. Gióp mô tả họ như một đội quân tàn nhẫn, xây dựng những dốc bao vây,
đặt bẫy cho chân ông, phá sập những hàng rào của ông và tấn công ông (c.12-14).
Họ cũng giống như một cơn bão làm Gióp sợ hãi, thổi đi mọi phẩm cách của ông,
hủy diệt sự an toàn của ông như ngọn gió thổi đám mây đi qua (c.15).
Gióp trải qua những sự
chịu khổ giống với những sự chịu khổ của Chúa
Giê-xu Christ chúng ta. Những kẻ hèn hạ nhất đã vu cáo Ngài (Mat 26:59-64), tát Ngài (c.67) và chế nhạo Ngài
trong khi Ngài đang chịu thương khó (Lu 23:35-39).
Gióp không biết điều đó, nhưng ông được Đức Chúa Trời tôn cao để dự phần trong
“sự thông công thương khó của Ngài” (Phi 3:10).
Mặc dù ngồi trong đống tro, nhưng Gióp như thể đã được đề cao nhất!
“Tôi không có phước hạnh” (Giop 30:16-23): Gióp than thở: “Và bây giờ các ngày gian nan đã hãm bắt
tôi” (c.16). Thật là tương phản với những ngày của sữa và dầu! (29:6). Thay vì làm phong phú Gióp bằng sự chúc
phước, Đức Chúa Trời đang cướp đi của ông những niềm vui căn bản của đời sống.
Ban ngày, Gióp chịu đựng hoạn nạn không thể chịu đựng nổi, ban đêm, Đức Chúa
Trời còn vật lộn với ông nữa, khiến quần áo ông giống như áo xống của người
điên, và Chúa đã ném ông xuống bùn (30:16-19
NIV). Mỗi đêm, Đức Chúa Trời vật lộn với Gióp, và Gióp bị thua.
Gióp đã cầu nguyện với Đức Chúa
Trời, thậm chí ông đã đứng lên kêu xin sự giải cứu, nhưng lời cầu nguyện của
ông không được trả lời (c.20). Bàn tay Đức Chúa Trời thay vì đem đến sự giúp
đỡ, thì giờ đây lại tấn công Gióp một cách không thương tiếc và ném tung ông
lên như một chiếc lông trong cơn bão tố (c.21-22). Gióp nài xin được sống,
nhưng dường như ông không thể tránh khỏi sự chết (11:23).
“Tôi không có sự giúp đỡ” (Giop
30:24-25): Gióp đã trung tín giúp đỡ người khác khi họ bị túng cùng (29:12-17), nhưng giờ đây không ai muốn giúp đỡ ông
cả. Họ sẽ không khóc với ông hoặc đụng đến ông. Ông bị đối xử như một người
phung hủi có thể làm ô uế họ, hoặc giống như người bị kết án mà Đức Chúa Trời
có thể phá hủy bất cứ lúc nào. Thật không khôn ngoan
để đến quá gần.
Những người mà Gióp đã
giúp đỡ giờ họ đang ở đâu? Chắc chắn một số họ có lẽ muốn bày tỏ sự cảm kích
của mình bằng cách khích lệ ân nhân của họ trong lúc người cần thiết. Nhưng
không ai đến giúp đỡ ông. Mark Twain đã viết: “Nếu bạn nhặt được một con chó
đói và khiến nó trở nên mập mạp, nó sẽ không cắn bạn. Đây là sự khác nhau chủ
yếu giữa một con chó và con người.”
Động cơ của chúng ta để
giúp đỡ người khác chắc chắn không phải là để buộc họ phục vụ chúng ta (Lu 14:12-14). Chúng ta
giúp đỡ người khác vì chúng ta yêu Đấng Christ và muốn qui vinh hiển về cho
Ngài (Mat 5:16) và vì chúng ta cảm thông với
những nhu cầu của họ và muốn giúp đỡ họ (Ro 12:15
Lu 10:25-37). Bác
sĩ truyền giáo Wilfred Grenfell đã nói: “Sự phục vụ của chúng ta dành cho người
khác thật sự là tiền thuê chúng ta trả cho chỗ ở của mình trên đất này.”
“Tôi không có tương lai” (Giop
30:26-28): Suốt những ngày thịnh vượng của mình, Gióp mong hưởng một đời
sống lâu dài dễ chịu và một cái chết bình an (29:18-20)
nhưng giờ đây điều đó đã thay đổi tất cả. Ông tìm kiếm điều tốt lành, nhưng Đức
Chúa Trời giáng tai họa, ông tìm kiếm sự sáng, nhưng Đức Chúa Trời giáng sự tối
tăm. Thay cho sự an nhàn và bình yên, ông đã phải nếm biết sự xáo trộn nội tâm.
“Sự nổi sóng bên trong tôi không bao giờ ngưng, những ngày hoạn nạn đối đầu với
tôi” (30:27 NIV).
Nhà viết tiểu luận người
Anh, William Hazlitt đã viết: “Hy vọng là tài sản quý nhất, không ai hoàn toàn
khốn khổ trừ những người không có hy vọng, và một số người bị suy sụp sức khoẻ
và sa sút tinh thần xuống thấp đến mức tồi tệ.” Gióp khốn khổ, và thậm chí Chúa
dường như không quan tâm. Thân thể Gióp yếu đuối và lên cơn sốt, da của ông bị
sạm đen vì bệnh hoạn.
“Tôi không có chức vụ” (Giop
30:29-31): Trong quá khứ, những lời nói của Gióp đã đem lại sự yên ủi và
hy vọng cho nhiều người (29:21-25), nhưng
giờ đây những lời nói của ông giống như tiếng tru của chó rừng và tiếng rú của
con cú, con đà điểu (Mi 1:8). Vì hy vọng của
ông đã chết, bài ca của Gióp là một bài hát truy điệu. Tiếng đàn hạc và tiếng
sáo của ông đã bị chuyển sang âm giai thứ. Làm sao ông có thể nói những lời yên
ủi với người khác khi chính ông ở trong hố sâu của sự nản lòng? Trước đó ông đã
hỏi trong cuộc tranh luận: “Và sự hy vọng của tôi giờ ở đâu? Về sự hy vọng của
tôi, ai sẽ thấy nó?” (Giop 17:15).
3. Gióp nhìn về sự công bình của Đức Chúa Trời ở phía trước (Giop 31:1-40)
Phân đoạn Kinh Thánh này
ghi lại sự bênh vực sau cùng của Gióp. Nó giống như một đơn kiện pháp lý, trong
đó Gióp đặt mình dưới lời thề trước mặt Đức Chúa Trời và yêu cầu sự xét đoán ập
xuống nếu Đức Chúa Trời có thể chứng minh ông sai
(Giop 31:35-37). Hy vọng duy nhất của Gióp là
Đức Chúa Trời sẽ nghe tiếng kêu cầu của ông, bênh vực tên tuổi ông. Ông có thể
chết trong sự bình an nếu ông biết rằng những kẻ thù của ông đã bị câm họng và
thanh danh của ông được phục hồi. Trong câu 16, nhận
định “nếu tôi…”, Gióp xét lại đời sống cùng những mối quan hệ của ông và cầu
xin Đức Chúa Trời giáng sự xét đoán. Gióp nói khi ông lập lời thề chính thức và
ký vào đơn kiện: “Giờ đây tôi ký vào lời bênh vực của tôi. Tôi ngừng vự kiện
của mình!”.
Trong các câu 33-37,
Gióp cầu xin Đức Chúa Trời (“đối thủ của tôi” = quan án) ban cho ông ba điều:
một cuộc xử kiện, một sự trả lời cho những sự buộc tội của ông và một đơn kiện
chứng minh sự vô tội của ông. Nếu Đức Chúa Trời không thể làm những điều này,
vậy Gióp vui lòng để Đức Chúa Trời giáng những sự rủa sả kể cả theo như lời thề
của Gióp. Gióp được chuẩn bị để trình bày cho Đức Chúa Trời về mọi bước của
ông, nếu đó là điều cần có để đem vụ kiện đến chỗ kết thúc. Gióp không có gì để
giấu giếm, ông không phải là một kẻ giả hình, khúm núm vì sợ người ta (c.33-34).
Con người Gióp (Giop 31:1-12): Gióp đề cập ba
tội lỗi cụ thể có thể khiến bất cứ người nào cũng có thể vấp ngã: Sự tham muốn
(c.1-4), sự lừa dối (c.5-8) và sự gian dâm (c.9-12).
(1) Sự tham muốn là bước đầu tiên hướng đến tội lỗi, tội lỗi là bước đầu tiên
hướng đến sự chết (Gia 1:13-16). Nhìn thấy và khâm phục một
người đầy sức quyến rũ là một việc, nhưng nhìn
với mục đích tham muốn trong lòng hoàn toàn là việc khác. Chúa Giê-xu phán:
“Bất cứ ai ngó một người đàn bà để ấp ủ đam mê tình dục với người, thì trong
lòng đã phạm tội tà dâm cùng người rồi” (Mat 5:28
WUEST) Mặc dù tội lỗi trong lòng không gây tàn phá như tội lỗi thật sự đã phạm,
nhưng đó là bước đầu tiên để hướng đến hành động và bạn không bao giờ biết một
sự tưởng tượng bị ô nhiễm sẽ dẫn bạn đi đến đâu. Hơn nữa, Đức Chúa Trời ở trên
cao nhìn xuống và thấy những hành động của bạn cùng những “tư tưởng và ý định
trong lòng” (He 4:12-13). Và Ngài sẽ xét
đoán cả hai điều đó. “Đó chẳng phải là sự hư hại cho kẻ ác, tai họa cho những
kẻ làm sai sao?” (Giop 31:3 NIV).
(2) Sự lừa dối là tội lỗi thứ hai mà Gióp phủ nhận (c.5-8). Ông chưa bao giờ sử
dụng sự lừa dối trong những giao dịch buôn bán của ông để kiếm cho được nhiều
tiền.
Thật tế, ông thậm chí
cũng không bước đi với những kẻ đã làm những việc ấy. Chiếc cân của ông trung
thực (Le
19:35-37 Ch 11:1) và ông không sợ khi
Đức Chúa Trời cân ông! (Da 5:27). Lòng ông
không tham lam, tay ông cũng không ô uế vì ông đã không lấy những gì không phải
của mình. Nếu ông phạm tội tham lam và lừa dối, vậy
ông sẽ sẵn sàng để những vụ mùa kế tiếp của ông cho người khác gặt lấy.
(3) Sự gian dâm (Giop
31:9-12) bắt đầu với sự tham muốn trong lòng (c.1) dẫn đến những mưu đồ
ngấm ngầm để thỏa mản những ham muốn tội lỗi. Gióp chưa bao giờ lén nhìn vợ
người lân cận. Nếu ông có phạm tội, ông sẵn sàng để vợ của ông trở thành nô lệ
và tình nhân của người đàn ông khác. Sự gian dâm là một tội ác ghê tởm, đem đến
những hậu quả xấu hổ và đau đớn trong đời sống này và sự xét đoán trong đời sau
(Ch 6:27-29 Eph
5:3-7 He 13:4).
Gióp là ông chủ tốt (Giop 31:13-15): Gióp quá thận
trọng trong sự tự xét mình kể cả trong việc ông đối xử với các tôi tớ. Đa số
các ông chủ thời bấy giờ phớt lờ khía cạnh này của đời sống. Gióp đã đối xử với
các tôi tớ ông cách rộng lượng và giải quyết những bất bình của họ cách công
bằng vì ông biết rằng đến một ngày nào đó ông sẽ phải khai trình với Đức Chúa
Trời (c.14 Eph 6:9). Ông biết rằng ông được
tạo dựng bởi chính Đức Chúa Trời, Đấng tạo dựng họ và ông được sinh ra cũng bởi Ngài.
Gióp là người láng
giềng tử tế (Giop 31:16-23,29-32): Trong sự
đáp lại những lời tố cáo sai lầm của Ê-li-pha (22:6-9),
Gióp đã cho biết ông quan tâm người túng thiếu và người nghèo ra sao (29:12-17), nhưng giờ đây ông lặp lại điều đó như
một phần của lời thề mình. Ông không khoe khoang, ông chỉ đang bênh vực mình
trước con người, tìm kiếm sự bào chữa của Đức Chúa Trời. Nếu ông đã giơ tay lên
tại phiên tòa chống lại bất cứ người nào, thì ông tin rằng Đức Chúa Trời sẽ rút
cánh tay đó khỏi khớp của nó.
Gióp đã quan tâm đến
những nhu cầu của góa phụ, cô nhi, người nghèo. Ông chu cấp cho họ lương thực,
quần áo và đến bênh vực họ ở tòa. Ông đã đối xử với họ như những thành viên
trong gia đình ông, chăm sóc họ cho đến khi họ có thể tự chăm sóc mình. Đức
Chúa Trời đã ban cho Gióp sự giàu có, Đức Chúa Trời có thể cất nó đi khỏi ông
nếu ông không chia xẻ nó cho người khác (31:23). Nhưng Gióp cũng là người láng giềng tốt
đối với kẻ thù của ông (c.29-31) và với những khách lạ đi qua thành (c.32). Vì
Gióp là một trưởng tộc giàu có và quyền thế, chẳng ngạc nhiên gì khi có nhiều
người ghen tị, ganh ghét ông, nhưng Gióp tử tế với họ. Ông không hả hê về những
bất hạnh của họ (Xu 23:4-5 Ch 24:17-18 Mat
5:43-47) hoặc cầu xin Đức Chúa Trời rủa sả họ (Ro
12:17-21).
Gióp cũng rộng rãi với
khách lạ, cho họ thực phẩm để ăn và một nơi để nghỉ qua đêm. Không tôi tớ nào
của Gióp có thể tố cáo ông chủ của họ là keo kiệt
(Giop 31:31 NIV). Nhà ông rộng mở cho tất cả, và ông rời rộng với những quà tặng của
mình.
Gióp là người chân
thành thờ phượng (Giop 31:24-28): Gióp đã
thờ phượng Đức Chúa Trời bằng một tấm lòng chân thật. Ông không tôn thờ của cải
hay nhờ cậy nó để được an toàn, ông cũng không dùng uy tín để có nó (Phu 8:17-18). Ê-li-pha đã tố cáo Gióp xem vàng bạc
là thần tượng của ông (Giop 22:24-25), nhưng
Gióp phủ nhận điều đó. Ông đã không tôn thờ vàng bạc, cũng không thờ phượng
những thiên thể và bí mật “ném cho chúng một cái hôn kính trọng” (IVua 19:18 NIV). Nếu Gióp đã phạm một tội lỗi như
thế, con người có thể không nhìn thấy, nhưng Đức Chúa Trời nhìn thấy và sẽ xét
đoán Gióp vì đã bất trung với Ngài.
Gióp là một quản gia
đầy trách nhiệm (Giop 31:38-40):
Trong các câu 35-37, Gióp đã hoàn tất “yêu cầu chính thức” về một vụ xử kiện và
đã ký tên vào đơn. Sau đó ông nhờ một lĩnh vực nữa cần được kiểm soát: chức
quản gia của ông về đất đai mà Đức Chúa Trời đã ban cho ông. Gióp đối xử với
đất như thể nó là một con người. Nếu ông đã ngược đãi nó, nó sẽ kêu la chống
lại ông và khóc lóc trong đau đớn (c.38). Nếu những thửa ruộng của Gióp bị bắt
làm việc quá sức và bị trả lương thấp, vậy Đức Chúa Trời sẽ có mọi lý do để cho
Gióp một vụ mùa đầy cỏ dại thay cho lúa mì và lúa mạch.
Hãy xét lại lời thề của Gióp và bạn
sẽ khám phá rằng ông đã cầu xin Đức Chúa Trời giáng
một số sự đoán phạt khủng khiếp xuống cho ông nếu ông phạm bất cứ tội nào trong
những tội lỗi này, người khác sẽ ăn mùa thu hoạch của ông, trừ diệt mùa màng
của ông (c.8), và vợ ông trở thành nô lệ và người tình của kẻ khác (c.10), cánh
tay ông sẽ rơi khỏi vai ông (c.22). Vụ mùa của ông sẽ là cỏ dại và cây gai
(c.40). Ông cho biết rõ rằng ông sẵn sàng đối diện với sự xét đoán công bình
của Đức Chúa Trời (c.14,23,28) cùng với những sự xét đoán khác.
Khi những lời của Gióp
chấm dứt, mọi người ngồi trong yên lặng, không biết điều gì sẽ xảy ra tiếp
theo. Đức Chúa Trời sẽ lập tức giáng sự đoán phạt và chứng minh Gióp có tội
chăng? Hay Ngài sẽ chấp nhận thách thức của Gióp, xuất hiện trước ông, và ban
cho Gióp cơ hội tự bênh vực mình? Có lẽ Đức Chúa Trời sẽ phán ra từ trời và trả
lời những câu hỏi của Gióp.
Gióp đã thách thức Đức
Chúa Trời vì ông tin quyết Đức Chúa Trời sẽ bênh vực ông. Ba bạn của Gióp chắc
rằng Đức Chúa Trời sẽ kết án ông.
Đức Chúa Trời sẽ làm gì? Câu trả lời
có thể làm bạn ngạc nhiên đấy!
“Một
người tự đắc tự phụ có thể trở nên kiêu ngạo và tưởng tượng mình làm vui lòng
mọi người khi trong thực tế người ấy là một mối gây thiệt hại chung”
(Benedict
Spinoza).
11. Ê-LI-HU CÓ NHỮNG CÂU TRẢ LỜI (Giop 32:1-33:33)
Gióp yên lặng. Ông chấm
dứt sự bênh vực mình và đưa ra lời thề rằng ông không phạm những tội mà ông đã
bị các bạn mình tố cáo. Gióp thách thức Đức Chúa Trời bênh vực ông hoặc tuyên
án ông. Cuộc xét xử kéo dài đủ và đã đến lúc để Quan Án hành động.
Ba bạn của Gióp yên
lặng, thất kinh khi Gióp đã dám nói cách dạn dĩ
với Đức Chúa Trời và nói về Đức Chúa Trời. Họ chắc chắn rằng sự
đoán phạt của Đức Chúa Trời dành cho Gióp là việc
tiếp theo trong lịch công tác của Ngài.
Đức Chúa Trời yên lặng. Không có ngọn lửa nào từ trời,
không có tiếng nói nào phán ra trong cơn thịnh nộ thiêng liêng. Sự yên lặng là chứng cớ hùng hồn của Đức Chúa Trời đối với ba
người bạn này, rằng họ đã sai trong những điều họ nói về Gióp và về Đức Chúa
Trời. Đó cũng là chứng cớ của Đức Chúa Trời đối với Gióp rằng Đức Chúa Trời của
cõi vũ trụ không bị các tạo vật của Ngài sai khiến. Đức Chúa Trời không xuất
hiện chỉ vì ai đó nghĩ rằng đã đến lúc dành cho thử thách cuối cùng.
Ở khu vực nổi tiếng
“Speaker’s Corner” trong công viên Hyde tại Luân đôn, một người lên án Cơ Đốc
giáo đã đưa ra lời thách thức nầy: “Nếu có Đức Chúa Trời, tôi sẽ cho Ngài năm
phút để đánh chết tôi!” Anh ta nhìn đồng hồ và chờ đợi. Sau năm phút, anh ta
mỉm cười và nói: “Các bạn ơi, điều đó chứng minh rằng không có Đức Chúa Trời
nào cả!”
Một Cơ Đốc nhân trong
đám đông gọi anh ta: “Anh tưởng mình có thể làm cạn kiệt sự kiên nhẫn của Đức
Chúa Trời Toàn Năng trong vòng năm phút sao?”
Tuy nhiên, trong đám
đông vây quanh đám tro, một người đã không yên lặng. Đó là Ê-li-hu, một người
vô danh đến nỗi gia phả đầy đủ của ông phải được trình bày để người ta có thể
nhận diện ông (Giop
32:2 1:1) hay ba bạn của ông (2:11) cũng không cần loại nhận diện chi tiết đó để
người khác biết họ.
Ê-li-hu trình bày một diễn thuyết
dài 6 phhân đoạn trong Kinh Thánh của chúng ta trong đó ông giải thích tính
cách Đức Chúa Trời và áp dụng lẽ thật này cho hoàn cảnh của Gióp. Xin tóm tắt
bài diện thuyết của ông như sau:
1.Đức Chúa Trời đang phán qua tôi (Giop 32:1-22 chú ý câu 8)
2.Đức Chúa Trời nhân từ ((Giop 33:1-33 chú ý câu 24)
3.Đức Chúa Trời công bình (Giop 34:1-35:16, chú ý 34:10-12)
4.Đức Chúa Trời vĩ đại ((Giop 36:1-37:24 chú ý 36:5,26)
Mặc dù Ê-li-hu đã nói một số điều
tương tự như những người diễn thuyết khác, nhưng mục đích của ông khác với họ.
Ông không tìm cách chứng minh Gióp là một tội nhân, nhưng chứng minh rằng quan
điểm của Gióp về Đức Chúa Trời là sai lầm. Ê-li-hu giới thiệu một lẽ thật mới
trong cuộc tranh luận: rằng Đức Chúa Trời giáng hoạn nạn, không nhất thiết để
trừng phạt chúng ta vì tội lỗi của chúng ta, nhưng để giữ chúng ta khỏi phạm
tội (33:18,24) và khiến chúng ta trở nên những con người tốt
hơn (36:1-15). Phao-lô có lẽ sẽ đồng ý với
quan điểm đầu tiên này (IICo 12:7-10)và tác
giả thư tín Hê-bơ-rơ sẽ đồng ý với quan điểm thứ hai (He
12:1-11).
Chúng ta hãy xem xét hai lời khẳng
định đầu tiên của Ê-li-hu về Đức Chúa Trời.
1. Đức Chúa Trời đang phán qua tôi (Giop 32:1-22)
Ê-li-hu nhấn mạnh rằng
ông đã kiên nhẫn chờ đợi trước khi nói, và ông đưa ra hai lý do. Thứ nhất, ông
nhỏ tuổi hơn Gióp và ba người bạn. Và người tuổi
trẻ phải tôn trọng tuổi tác với kinh nghiệm của người lớn hơn (Giop 32:4,6-7). Đó sẽ là một sự vi phạm khủng khiếp về phép
xã giao nếu Ê-li-hu ngắt lời những người lớn tuổi hơn mình.
Lý do thứ hai của ông là
vì ông muốn nghe toàn bộ cuộc tranh luận với mọi lý lẽ trước khi ông có thể lên
tiếng (c.11 Ch
18:13). Việc Ê-li-hu trích dẫn từ những lời nói của họ chỉ ra rằng ông
đã lắng nghe cẩn thận và nhớ điều mà mỗi người đã nói (Giop
32:12). Giống như nhiều “nhà thần học trẻ tuổi”, Ê-li-hu có một chút
tính tự phụ của tuổi trẻ thể hiện trong những lời nói của ông (“Hãy nghe điều
tôi biết”, câu 6,10,17 Giop 33:1-3) nhưng
phần lớn, ông là một người trẻ tuổi chân thật, thật sự nghĩ mình có thể giúp
Gióp tìm thấy những câu trả lời cho các câu hỏi của Gióp.
Sau khi đã tự giới thiệu mình trong
cuộc tranh luận, Ê-li-hu đưa ra 4 lý do giải thích vì sao thật quan trọng để
ông nói và họ cần phải lắng nghe. Xét cho cùng, ông “chẳng là ai”, nhưng ông cứ
thuyết phục họ tin rằng điều ông phải nói là đáng để nghe.
Ông phẫn nộ (Giop 32:1-3,5): Bốn
lần trong những câu này, chúng ta được cho biết rằng Ê-li-hu rất giận dữ. Ông
giận ba bạn vì đã không bẻ bác được Gióp, và ông giận Gióp vì xưng mình công
bình hơn Đức Chúa Trời. Gióp đã tuyên bố rằng Đức Chúa Trời sai, và ba người
bạn không thể chứng minh rằng Gióp sai! Binh-đát, Sô-pha và Ê-li-pha đã thua
kiện (c.15), và đang chờ đợi Đức Chúa Trời đến để xử lý Gióp cách trực tiếp
(c.12-13). Ê-li-hu thấy ghét sự thất bại của họ.
Aristotle viết: “Thật dễ dàng để nổi cơn thịnh nộ bất cứ ai cũng có thể làm điều đó. Nhưng
nổi giận với đúng người, đúng phạm vi, đúng lúc và với đúng mục tiêu, đúng cách
điều đó không phải dễ và không phải mọi người đều có thể làm được!”
Ông được thần cảm (Giop 32:8-10): Tuổi tác phải đem lại sự khôn ngoan
nhưng không có gì đảm bảo rằng nó luôn đúng như vậy (Ch
16:31). Than ôi, có những người trẻ dại dột thì đến già cũng còn dại! Là
một người nhỏ tuổi hơn, Ê-li-hu không thể tuyên bố có điều gì đó tốt hơn: Sự
hiểu biết sâu sắc về Thần của Đức Chúa Trời, Đức Thánh Linh đã chỉ dẫn cho tâm
thần của Ê-li-hu (ICo 2:11) và bày tỏ những
lẽ thật của Đức Chúa Trời cho ông. Ê-li-hu không cần sự khôn ngoan đến bằng
kinh nghiệm, vì ông đã được Đức Chúa Trời dạy dỗ (Thi
119:97-100).
Điều này giải thích vì sao Ê-li-hu
liên tục kêu gọi Gióp và các bạn ông lắng nghe ông (Giop
32:10 33:1,31,33 34:2,10,16 37:14). Nó cũng giải thích vì sao ông nhấn mạnh
nhóm từ “ý tưởng tôi” (32:6,10,17 “điều tôi
biết” trong NIV), “các lời tôi nói” (Giop 33:1-3).
Không phải ngày nào bạn cũng có thể được nghe một người nào đó được Đức Chúa
Trời thần cảm nói, vì vậy bạn nên lắng nghe!
Ông không thiên vị (Giop 32:14,21-22): “Vả, Gióp không có tranh luận với tôi;Vậy,
tôi sẽ chẳng dùng lời các anh mà đáp lại người” (c.14 NKJV). Ê-li-hu nói rõ
rằng ông không có lý do gì để chia phe vì Gióp và bất cứ ai trong ba người bạn
đã không tấn công ông trực tiếp. Ê-li-hu cũng nói rằng ông sẽ tránh sửa mới lại
những lý luận tương tự mà họ đã sử dụng, dù ông không thực hiện được lời hứa đó
hoàn toàn.
Ê-li-hu có thể không thiên vị ai,
nhưng ông không trung lập tí nào. Ông quá giận dữ về điều đó! Ông hứa chỉ giải
quyết những vấn đề, nhưng một số điều ông nói trong cơn giận dữ của mình mang
tính cá nhân hơn tính triết học. Nhưng ông đã giữ lời hứa và không xu nịnh bất
cứ ai (c.21-22). Khi bạn đọc bài diễn thuyết của ông, bạn sẽ để ý rằng 6 lần
ông nói với Gióp bằng tên (33:1 34:5,7,35,36 35:16) điều
gì đó mà ngay cả ba người bạn thân nhất của Gióp đã không làm trong những bài
diễn thuyết của họ. Ở phương Đông, một người trẻ tuổi nói với những người lớn
hơn mình theo cách tương tự như vậy là bất thường.
Ông bị thúc ép (Giop 32:16-20): Ê-li-hu đã chờ
đợi một thời gian lâu để có cơ hội nói, và trong khi ông chờ đợi, áp lực bên
trong ông đã gia tăng đến điểm bùng nổ. Ông đầy những lời nói như bầu da đầy
rượu. Khi rượu mới lên men, nó tạo ra khí thổi căng bầu da, và nếu da cũ và
khô, nó sẽ vỡ tung (Mat 9:17). Nếu có ai gợi
ý rằng Ê-li-hu “đầy khí”, ông có lẽ sẽ bị xúc phạm, vì đối với ông, chính Thần
của Đức Chúa Trời thúc ép ông nói. Ê-li-hu có một sự ủy thác từ Đức Chúa Trời
để nói với mọi người điều ông biết. Ông chẳng hề biết rằng, khi Đức Chúa Trời
hiện ra, Ngài sẽ hoàn toàn không để ý đến Ê-li-hu và tất cả những gì ông đã
nói.
2. Đức Chúa Trời nhân từ (Giop 33:1-33)
Đây là một bài diễn
thuyết đáng chú ý vì nó đưa vào cuộc tranh luận một cái nhìn sâu sắc mới về mục
đích của hoạn nạn. Các bạn của Gióp đã lý luận rằng hoạn nạn của ông là chứng
cớ Đức Chúa Trời đang trừng phạt ông vì tội lỗi của ông. Nhưng giờ đây Ê-li-hu
lý luận rằng đôi khi Đức Chúa Trời cho phép chúng ta chịu khổ để giữ chúng ta khỏi tội
lỗi. Nói cách khác, hoạn nạn có thể mang tính phòng ngừa chứ không phải mang tính trừng phạt (xem từng trải của Phao-lô được ghi
lại trong IICo 12:7-10). Đức Chúa Trời làm
tất cả mọi điều có thể để giữ chúng ta khỏi phạm tội và đi vào hố của sự chết,
và đây là chứng cớ về ân điển của Ngài
(Giop 33:24).
Trước khi đi vào lý luận của mình,
Ê-li-hu bảo đảm với Gióp rằng những lời nói của ông
là chân thật và được Thần Đức Chúa Trời ban cho, vì vậy Gióp không có lý do gì
để sợ (c.1-7). Ê-li-hu đã không tuyên bố có bất cứ “lợi thế” nào với Đức Chúa
Trời, ông được dựng nên bằng đất sét giống như Gióp. Ông hứa không độc đoán
trong cách nói của mình và ông mời Gióp tự do đáp lại. Ê-li-hu không muốn đây
là một đoạn độc thoại, nhưng đó chính xác là điều trở nên như vậy. Hoặc Gióp bị
yên lặng bởi điều Ê-li-hu nói, hoặc Ê-li-hu dừng đủ lâu để Gióp nói (c.31,33)
hoặc Gióp không nghĩ điều đó đáng để hưởng ứng.
Sau khi bảo đảm với Gióp
những lời nói của mình sẽ giúp ích chứ không gây tổn thương, rồi Ê-li-hu tiếp
tục trích dẫn điều Gióp đã nói về chính mình (c.8-11). Những lời của Gióp sẽ
tạo nên tiền đề cho lý luận của Ê-li-hu.
Trước hết, Ê-li-hu nói
rằng Gióp đã tuyên bố ông vô tội (c.9) mà không phải là điều Gióp đã nói. Việc Gióp
tuyên bố vô tội và sự giải thích của Sô-pha, không phải tuyên bố của Gióp (11:4). Gióp đã nói rằng ông không nói dối (6:30), rằng ông không phải là kẻ ác (10:7), rằng ông công bình và ngay thẳng (12:4) và ông đã không bất tuân Đức Chúa Trời (23:11-12), nhưng ông không bao giờ nói mình không
có tội. Ông kiên định duy trì sự chính trực của mình (2:3
27:4-5) nhưng ông chưa bao giờ nói mình toàn
vẹn. Thật ra, ông phủ nhận sự toàn vẹn (9:20-21).
Tiền đề cơ bản của Ê-li-hu yếu ớt vì ông nhầm lẫn những lời của Sô-pha với
những lời của Gióp. Có thể nghe như thể Gióp đang tuyên bố vô tội, nhưng ông chỉ nói rằng ông không chỗ trách, là một điều hoàn toàn khác.
Thứ hai, Ê-li-hu trích dẫn Gióp nói
rằng Đức Chúa Trời bất công và đối xử với ông như kẻ thù (33:10-11). Trích dẫn này là đúng (13:24,27 16:9 19:7,11). Trong những bài diễn thuyết của mình, Gióp đã
nhiều lần hỏi Đức Chúa Trời vì sao Ngài tấn công ông và vì sao Ngài không cho
ông một vụ xử kiện công bằng. Mối quan tâm lớn của Ê-li-hu không phải là để
tranh luận điều Gióp đã nói về bản thân, nhưng để bẻ bác điều Gióp đã nói về
Đức Chúa Trời.
“Nhà thần học trẻ” này biết cái gì
đó về cách nói giữa công chúng, vì phân đoạn Giop 33 là một diễn văn mẫu. Trước
hết, ông xác định luận đề của mình trong câu 12-14. Đức Chúa Trời vĩ đại hơn
con người và phán với ông bằng những cách mà ông có thể không phải lúc nào cũng
nhận ra. Sau đó ông mô tả ba cách khác nhau mà Đức Chúa Trời có thể phán với
con người: chiêm bao và dị tượng (c.15-18), hoạn nạn (c.19-22) và chức vụ của
thiên sứ trung gian (c.23-33).
Từ “hầm (huyệt)” được sử dụng 5 lần
trong các câu 14-33. Mục đích của Đức Chúa Trời trong sự kỷ luật là để cứu con
người khỏi sự chết (Gia 5:19-20) bằng cách phá vỡ sự kiêu ngạo của họ và đem họ trở lại vị trí vâng
phục (Giop 33:17-18). Đức Chúa Trời tìm cách giữ họ khỏi cái huyệt (câu 18) nhưng
tội nhân chống nghịch thường đến gần
cái huyệt (c.22), rồi sa xuống huyệt (c.24), và ở
trong huyệt (c.28). Khi dường như quá trễ, Đấng Trung Bảo đem họ trở về từ cái
huyệt (c.30) và họ được cứu. “Đức Chúa Trời làm mọi việc này cho con người hai
lần, thậm chí ba lần đặng khiến linh hồn người trở lại khỏi cái huyệt, để ánh
sáng sự sống có thể chiếu trên người” (c.29-30 NIV). Đức Chúa Trời “không muốn
cho người nào chết mất” (IIPhi 3:9).
Chiêm bao và dị tượng (Giop 33:15-18): Trong thời Kinh Thánh, Đức Chúa
Trời đôi khi phán với con người qua những chiêm bao và dị tượng. Ngày nay Đức
Thánh Linh hướng dẫn chúng ta chủ yếu qua Lời Ngài (He
1:1-2). Nếu tội nhân có những dị tượng hoặc chiêm bao kinh khiếp, điều
đó có thể khiến họ sợ hãi và giữ họ khỏi phạm tội lỗi họ đã hoạch định. Chính
Gióp đã trải qua những chiêm bao kinh khiếp (Giop
7:13-14) và Ê-li-hu đã có một dị tượng ban đêm không thể quên (Giop 4:12,21). Đức Chúa Trời ban chiêm bao và dị tượng để
“mở tai con người”, khiến họ lắng nghe Lời Đức Chúa Trời và vâng theo. Nếu họ không hạ mình, họ có thể sa xuống huyệt của sự
chết.
Một người đàn ông đã
chặn một khách lạ trên đường phố New York và nói: “Anh có thể chia xẻ một chiêm
bao với tôi không? Tôi đang trên đường đến với bác sĩ thần kinh của tôi, và tôi
không ngủ đã một tuần rồi. Tôi hết sức cần một chiêm bao để nói cho ông ấy
biết!”
Không phải mọi giấc
chiêm bao đều có ý nghĩa tiềm ẩn, và không phải mọi giấc chiêm bao đều đến từ
Đức Chúa Trời với những sứ điệp đặc biệt trong đó. Có nhiều cơn ác mộng đã xuất
hiện bởi sự kiêng ăn không đúng đắn! Những người vạch kế hoạch đời sống mình
quanh những điều họ học từ “sách về chiêm bao” đang tìm cầu sự bối rối hơn là
sự hướng dẫn. Đức Chúa Trời có thể sử dụng những giấc chiêm bao để khuấy động
sự tin tưởng của một tội nhân kiêu ngạo, nhưng đây không phải là phương cách
thông thường của Ngài hôm nay.
Hoạn nạn (Giop 33:19-22): Trong “The Problem of Pain”,
C.S.Lewis nói: “Đức Chúa Trời thì thầm với chúng ta
trong những thú vui của chúng ta, phán trong lương tâm chúng ta, nhưng quát
tháo trong sự đau đớn của chúng ta. Đó là loa phóng thanh của Ngài để
khuấy động một rhế giới điếc.” Đức Chúa Trời đôi khi sử dụng sự đau đớn để cảnh
cáo chúng ta, hạ thấp chúng ta và đem chúng ta đến vị trí vâng phục (He 12:1-11). Ê-li-hu mô tả một người bệnh hoạn,
khổ sở trên giường mình, hao mòn vì không có sự ngon miệng. (Đây là một bức
tranh về Gióp chăng? (Giop 6:7 7:3-6 16:8 17:7 19:20).
Nhưng người này đang chịu đau khổ bởi vì Đức Chúa Trời muốn thu hút sự chú ý
của người và giữ cho người khỏi vi phạm luật pháp Đức Chúa Trời.
Thật là một sai lầm để nói rằng mọi
hoạn nạn đều đến từ Đức Chúa Trời, vì chúng ta cũng có thể tự gây ra cho mình
hoạn nạn nào đó. Lái xe bất cẩn có thể dẫn đến một tai nạn khiến nhiều người
đau khổ. Ăn uống không đúng cách có thể làm cơ thể khó chịu và gây cho những cơ
quan bị lạm dụng phản kháng bằng cơn đau. Có thú vui trong tội lỗi (He 11:25) nhưng thường thì tội lỗi gây ra hoạn
nạn. “Con đường kẻ phạm tội là gay go”(Ch 13:15).
Nếu con người phủ nhận luật pháp Đức Chúa Trời thì chắc chắn họ sẽ phải trả giá
cho việc đó.
Chúng ta cũng không nên nói rằng mọi
hoạn nạn là sự trừng phạt tội lỗi. Ê-li-hu lý luận
đôi khi Đức Chúa Trời cho phép hoạn nạn để
ngăn con người phạm tội và đi đến huyệt. Đức Chúa Trời đã ban cho Phao-lô một “cái giằm xóc vào thịt” để ngăn ông
không được kiêu ngạo, và Phao-lô đã biết cảm tạ Đức Chúa Trời về điều đó
(IICo 12:7-10). Ê-li-hu hy vọng rằng Gióp sẽ
đầu phục Đức Chúa Trời, chấp nhận hoàn cảnh đau đớn của mình, và sẽ nhận lãnh
từ đó những phước hạnh mà Đức Chúa Trời đã dành sẵn cho ông.
Không ai muốn bệnh hoạn,
mọi người đều cầu xin sự chữa lành. Nhưng nhà thần học giáo đoàn Anh quốc P.T.
Forsyth đã nói: “Cầu xin điều ngược lại của sự đau đớn là một điều tuyệt vời
hơn sự cất bỏ nó đi.” Đó là điều Phao-lô đã học biết cách hành động với cái
giằm xóc trong thịt của ông. Bởi ân điển Đức Chúa Trời, những gì có thể là vũ
khí đánh ngã ông, đã trở thành công cụ gây dựng ông! Nếu ông thất lạc sứ giả
của sự đau đớn đó, Phao-lô có thể trở nên kiêu ngạo về những thành tích thuộc
linh của ông, và sự kiêu ngạo đó có thể dẫn ông vào tội lỗi nặng nề hơn.
Ê-li-hu đã trình bày hai
cách Đức Chúa Trời phán với con người để ngăn họ khỏi cái huyệt dị tượng với
chiêm bao, và bệnh tật với đau đớn. Giờ đây ông trình bày cách thứ ba.
Chức vụ của thiên sứ
trung gian (Giop 33:23-33): Sách
Gióp mở đầu bằng sự mô tả về tòa án trên trời của Đức Chúa Trời nơi các thiên
sứ (“các con trai của Đức Chúa Trời”) báo cáo nhiệm vụ (1:6,22
2:1-13 33:1-33).
Ê-li-pha đề cập các thiên sứ trong Giop 4:18
và có thể cả trong 5:1 (“các đấng thánh”),
và các thiên sứ cũng được đề cập trong 38:7
khi họ vui mừng về sự sáng tạo thế giới. Ngoại trừ phân đoạn hiện tại này, đây
là những đề cập duy nhất đến các thiên sứ trong sách.
Ê-li-hu vẽ ra một bức tranh khủng
khiếp. Tội nhân bị cảnh cáo bởi chiêm bao với dị tượng, và bị quở phạt bởi bệnh
tật và hoạn nạn. Ông đang vẽ gần đến phần mộ, và “những kẻ hủy diệt” (“những sứ
giả của sự chết”, NIV) sắp bắt giữ hắn (33:22).
Sau đó một sứ giả đặc biệt thình lình đứng dậy (“một trong một ngàn”) và biện
hộ cho vụ kiện của người. Sứ giả này có một chức vụ với hai ý nghĩa: Vị ấy nói
cho người chịu khổ biết điều gì người ấy phải làm (c.3) và cầu thay với Đức
Chúa Trời để người được phục hồi.
Có vẻ như thiên sứ trung gian này là
Thiên Sứ của Đức Giê-hô-va, Chúa Giê-xu Christ của chúng ta, Đấng Trung Bảo đã
phó sự sống Ngài làm giá chuộc cho tội nhân (ITi
2:5 Mac 10:45). Là Thiên sứ của Đức
Giê-hô-va, Con Đức Chúa Trời đã thăm viếng trái đất trong thời Cựu Ước để rao
ra những sứ điệp đặc biệt và thực hiện những nhiệm vụ quan trọng (Sa 16:9 22:11 Xu 3:2 Cac 6:11).
Nhưng Ê-li-hu thấy Thiên Sứ này không chỉ là Đấng Trung Bảo giữa Đức Chúa Trời
và loài người, mà còn là Đấng Ban giá chuộc cho tội nhân.
Đây là “Đấng Trung
Bảo” trên trời mà Gióp đã cầu xin suốt cuộc tranh luận!. Gióp
muốn có một “người phân xử” để đem ông và Đức Chúa Trời lại với nhau vì một
cuộc xử kiện (Giop 9:33), một “nhân chứng”
trên trời để biện hộ vụ kiện của ông trước mặt Đức Chúa Trời (16:19), một “Đấng cứu chuộc” sẽ bênh vực ông ngay
cả sau khi ông chết (Giop 19:25). Chức vụ
của Thiên Sứ này hoàn toàn là hành động của ân điển Đức Chúa Trời (33:24). “Hãy cứu nó khỏi bị sa xuống cái hầm, Ta
đã tìm thấy một giá cứu chuộc cho nó rồi” (câu 24, NIV). Điều đó nghe có vẻ
giống như Chúa Giê-xu Christ vừa là Đấng Trung Bảo vừa là Giá Chuộc cho chúng
ta (ITi 2:5-6).
Ý niệm về “giá chuộc” được hình
thành trong cơ cấu thuyết thần học của Kinh Thánh. Theo tiếng Hê-bơ-rơ nghĩa là
“chuộc tội lỗi bằng cách đưa ra một vật thay thế.” Tội nhân bị kết án không thể
được tự do bằng cách trả một giá rẻ nào đó như là tiền bạc (Thi 49:7-9), việc thiện, hay những ý định tốt
lành. Đó phải là một giá chuộc mà Đức Chúa Trời sẽ chấp nhận, và Đức Chúa Trời
yêu cầu phải có sự đổ huyết (Le 16:1-17:16).
Gióp đã yêu cầu ba bạn ông chuộc tội ông vì ông biết họ không thể làm được (Giop 6:21-23). Chỉ Đức Chúa Trời mới có thể ban
giá chuộc tội, và Ngài đã thực hiện. Nếu Đức Chúa Trời đã ban một giá chuộc cho
tội nhân hư mất sắp sa xuống hố, thế thì họ dại
dột biết bao khi không tiếp nhận điều đó!
Ê-li-hu hứa với Gióp rằng Đức Chúa
Trời sẽ biến đổi triệt để hoàn cảnh của ông nếu ông hạ
mình xuống. Đó sẽ giống như một “sự sinh mới” (33:25
Gi 3:3). Ông sẽ một lần nữa vui hưởng sự cầu
nguyện và mối thông công với Đức Chúa Trời (Giop
33:26). Ông sẽ xưng nhận tội lỗi mình và thừa
nhận rằng Đức Chúa Trời đã trừng phạt ông ít hơn ông đáng lãnh nhận (c.27).
Gióp sẽ ra khỏi sự tối tăm để vào trong sự sáng, và vui mừng làm chứng về sự
cứu chuộc của Đức Chúa Trời (c.28).
Trong Giop
33:31-33 gợi ý rằng Ê-li-hu muốn Gióp đáp lời,
nhưng đồng thời Ê-li-hu lại muốn Gióp yên lặng! Ê-li-hu được đổ đầy tới
miệng bằng chủ đề của ông và không muốn ngừng nói. Nhưng Gióp không đáp lại vì ông đang chờ đợi Đức Chúa Trời phán. Gióp
đã sẵn sàng bắt đầu vụ kiện của mình và thách đấu. Điều Ê-li-hu nghĩ về ông
hoặc nói với ông chẳng tạo thay đổi gì đối với Gióp.
Gióp đã mang vụ kiện của ông đến một
tòa án cao hơn nhiều, và khi Ê-li-hu nói xong, Quan Án sẽ xuất hiện.
“Vậy
thì, Đức Chúa Trời mà tôi thờ phượng là gì?... Ngài hay ẩn mình khỏi chúng tôi
nhưng lại hiện diện giữa vòng chúng tôi thường xuyên nhất, đẹp đẽ nhất, mạnh mẽ
nhất và Ngài mãi mãi hiện hữu, tuy nhiên chúng tôi tài nào hiểu nổi Ngài.”
(Thánh Augustine).
12. Ê-LI-HU GIẢI THÍCH VÀ BÊNH VỰC ĐỨC CHÚA TRỜI (Giop 34:1-37:24)
Thuyết thần học (“khoa
học về Đức Chúa Trời”) từng được gọi là “nữ hoàng của các khoa học” vì nó đề
cập đến tri thức quan trọng nhất mà chúng ta có thể có, tri thức về Đức Chúa
Trời. Thuyết thần học là một khoa học cần thiết, nhưng nó cũng là một môn khoa học khó hiểu, vì đó là nỗ lực của chúng
ta để hiểu biết Đấng không thể biết được (Ro
11:33-36). Đức Chúa Trời đã bày tỏ chính Ngài
trong sự sáng tạo, trong sự định liệu, trong Lời Ngài, và cao nhất là trong Con
Ngài, nhưng sự hiểu biết của chúng ta về những gì Đức Chúa Trời đã bày tỏ có
thể không phải lúc nào cũng rõ ràng.
A.W.Tozer đã viết: “Bản
chất của việc thờ thần tượng là sự nuôi
dưỡng những tư tưởng về Đức Chúa Trời mà không xứng đáng cho Ngài” (The Knowledge of the Holy, Harper & Row,
trang 11). Vì vậy, bất cứ ai cố gắng giải thích và bênh vực Đấng Toàn Năng phải
có một tấm lòng khiêm nhường của một người thờ phượng, vì “tri thức sanh kiêu
căng, nhưng tình yêu thương gây dựng” (I Co 8:1
NIV).
Khi bạn đọc những bài diễn thuyết
của Ê-li-hu, bạn có cảm tưởng rằng không phải ông không tăng trưởng thuộc linh
mà là ông đang căng phồng lên. Bạn cũng có cảm tưởng rằng tâm trí của những
người lắng nghe ông đi lang thang, vì ông cứ kêu gọi họ lắng nghe cẩn thận (Giop 33:1,31,33 34:2,10,16). Trong hai
phần ba còn lại ở bài diễn thuyết của mình, Ê-li-hu giải thích và bênh vực sự công bình của Đức Chúa Trời (Giop 34,35) và
sự vĩ đại của Đức Chúa Trời (Giop
36-37).
1. Đức Chúa Trời công bình (Giop 34:1-35:16)
(Giop
34:1-37). Ê-li-hu đã hứa không sử dụng sự tâng bốc (Giop 32:21) nhưng ông đã đi đến gần điều đó trong 34:2 khi ông nói với thính giả của mình với tư
cách “những người khôn ngoan” và “những người học thức” (NIV). Thật ra, ông
đang tâng bốc chính mình, vì nếu “những người khôn ngoan học thức” này sẵn sàng
lắng nghe ông, họ chắc phải nghĩ rằng ông có học thức và khôn ngoan hơn họ!
Trích dẫn những lời của Gióp (c.3 12:11),
Ê-li-hu kêu gọi họ sử dụng sự sáng suốt khi họ “nếm những lời của ông, để ông
và họ có thể học với nhau điều tốt lành” (34:4
NIV). Ê-li-hu ví sánh việc ông nói với sự thưởng thức một bữa ăn ngon và bổ
dưỡng.
Ê-li-hu liệt kê hai lời
than vãn của Gióp để thảo luận: “Đức Chúa Trời bất công” (c.5-6), và “không ích
lợi gì trong sự hầu việc Đức Chúa Trời” (c.7-9). Ông trả lời cho điều than vãn
thứ nhất trong câu 10-37 và cho điều than vãn thứ hai trong (Giop 35:1-16).
“Đức Chúa Trời bất công” (Giop 34:5-6,10-37): Sự bất công của Đức Chúa Trời là một trong những chủ đề
chính ở những bài diễn thuyết của Gióp. Ông cảm thấy mình đang bị đối xử như
một tội nhân, nhưng Đức Chúa Trời sẽ không “đến tòa” và cho Gióp biết ông đã
làm sai điều gì (9:2,17-20 19:6-7 27:2), Ê-li-hu nhớ lại Gióp đã nói rằng ông vô tội
và bị phủ nhận sự công bình (34:5 10:7 6:29) và
rằng Đức Chúa Trời đang bắn những mũi tên vào ông (34:6
6:4).
Ê-li-hu trình bày ba lý
lẽ để chứng minh rằng không có sự bất công với Đức Chúa
Trời. Trước hết, nếu Đức Chúa Trời bất công, thì
Ngài không phải là Đức Chúa Trời (34:10-15),
“Đức Chúa Trời chẳng hề hành ác, và Đấng Toàn
Năng chẳng hề phạm sự bất công” (c.10). “Không thể nghĩ rằng Đức
Chúa Trời sẽ làm sai, rằng Đấng Toàn Năng sẽ làm trái sự công bình” (c.12 NIV).
Áp-ra-ham đã hỏi: “Đấng xét đoán toàn thế gian, há lại không làm sự công bình
sao?” (Sa 18:25) và câu trả lời rõ ràng là:
Đúng vậy!
Nếu Đức Chúa Trời thật sự là Đức
Chúa Trời, vậy Ngài trọn vẹn, và nếu Ngài trọn vẹn, vậy Ngài không thể làm sai.
Một Đức Chúa Trời bất công sẽ không thể hiểu được như một vòng tròn vuông hay
tam giác tròn. Theo Ê-li-hu, điều dường như là sự bất công đối với chúng ta thì
thật sự là sự công bình: Đức Chúa Trời đang trả cho tội nhân những điều họ làm
(Giop 34:11). Thật ra, Đức Chúa Trời công
bình đến nỗi Ngài đã định rằng chính tội lỗi sẽ
trừng phạt kẻ làm ác (Thi 7:15 9:15-16 35:8),
vậy, không có cách nào để thoát khỏi sự công bình của Đức Chúa Trời.
Ê-li-hu nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời
tối cao, và Đức Chúa Trời tối cao thì không thể bị luật nào buộc tội hoặc bị
tòa án nào phán xét. Vua không thể làm gì sai, Đức Chúa Trời không do ai chỉ
định lên ngôi, nên không thể truất phế Ngài khỏi đó (34:13).
Nói rằng Đức Chúa Trời bất công là cho rằng Ngài không phải là Đức Chúa Trời,
do dó không có quyền để ngự trên ngôi. Nhưng Đức Chúa Trời cai trị chính hơi
thở của chúng ta và có thể cất đi sự sống của chúng ta trong giây lát (c.14-15 Cong 17:28). “Ấy là
nhờ sự nhân từ Đức Giê-hô-va mà chúng ta chưa tuyệt. Vì sự thương xót của Ngài
chẳng dứt” (Ca 3:22).
Sách Gióp ca ngợi quyền tể trị tối
cao của Đức Chúa Trời. Ngay từ chương đầu tiên, rõ ràng là có Đức Chúa Trời tể
trị, vì ngay cả Sa-tan cũng được bảo điều gì nó có thể và không thể làm. Suốt
cuộc tranh luận, dường như Đức Chúa Trời vắng mặt, nhưng Ngài biết Gióp cảm
thấy ra sao và Gióp với các bạn ông nói điều gì, 31 lần trong sách Gióp, Đức
Chúa Trời được gọi là “Đấng Toàn Năng”. Ê-li-hu đúng về mục tiêu: Đức Chúa Trời
tối cao và không thể làm sai.
Lý luận thứ hai của ông đó là: nếu Đức Chúa Trời bất công, thì không thể có chính thể
công bình nào trên đất (Giop 34:16-20).
Là một trưởng lão được kính trọng, Gióp đã tham gia trong chính quyền địa
phương và đã giúp đem đến sự công bằng cho những người bị khốn khổ (29:7-17). Nhưng mọi chính thể của loài người đều
do Đức Chúa Trời thiết lập (Sa 9:1-7 Ro 13:1-7). Vì vậy nếu loài người hay chết có thể
thi hành sự công bình trên đất, tại sao Đức Chúa Trời thánh khiết và tối cao
lại không thể thi hành sự công bình trên trời? Ngài có thể truất ngôi các vua
và cất bỏ những người quyền quý, và Ngài không tỏ ra sự thiên vị nào (Da 4:25,32,35). Nếu Đức Chúa Trời, Đấng cai trị thế gian là
bất công, thì không thể có trật tự hay sự hài hòa nào, và mọi sự sẽ sụp đổ.
Tuy nhiên, Ê-li-hu đã
phạm sai lầm lớn trong việc lựa chọn và chỉ nhấn mạnh thuộc tính thiêng liêng,
sự công bình của Đức Chúa Trời. Vì Đức Chúa Trời cũng đầy lòng yêu thương nhân
từ, (Binh-đát đã phạm sai lầm tương tự trong những bài diễn thuyết của mình).
Trong sự khôn ngoan của Ngài, Đức Chúa Trời nghĩ ra một kế
hoạch cứu chuộc thỏa mãn sự công bình và tình yêu của Ngài (Ro 3:21-31). Bởi thập tự giá, Đức Chúa Trời có thể
cứu chuộc tội nhân mà vẫn đề cao sự công bình của Ngài và giữ vững thánh luật của Ngài.
Lý lẽ thứ ba của Ê-li-hu là nếu Đức Chúa Trời bất
công, vậy Ngài không nên biết điều gì đang tiếp diễn trên thế giới (Giop 34:21-30). Nhưng Đức Chúa Trời toàn tri và
thấy mọi sự! Một quan án loài người với những hạn chế của mình, nghe một vụ
kiện và thực hiện quyết định tốt nhất mà người ấy có thể làm, và đôi khi người
ấy sai. Nhưng Đức Chúa Trời nhìn thấy mọi bước chúng ta đi, và không nơi nào
chúng ta có thể trốn khỏi Ngài (Thi 139:7-12).
Gióp muốn Đức Chúa Trời gặp ông ở tòa để ông có thể trình bày vụ kiện của mình,
nhưng Gióp có thể nói cho Đức Chúa Trời biết điều gì mà Ngài không biết? “Đức
Chúa Trời chẳng cần tra xét loài người thêm nữa, đặng họ phải đến trước mặt
Ngài vì sự phán xét” (Giop 34:23 NIV). Không
giống như các quan chức loài người, Đức Chúa Trời không buộc phải chỉ đạo một
cuộc điều tra và thu thập chứng cứ, Ngài biết mọi việc và có thể xét đoán bằng
sự khôn ngoan trọn vẹn.
Một trong những lời than vãn của
Gióp là Đức Chúa Trời yên lặng và ẩn mặt Ngài khỏi ông (Giop 9:11 23:19) nhưng
Ê-li-hu có câu trả lời cho điều đó: “Nhưng nếu Ngài cứ yên lặng, ai có thể lên
án Ngài? Nếu Ngài ẩn mặt Ngài, ai có thể thấy Ngài?” (34:29 NIV). Trong phân đoạn 24, Gióp tố cáo Đức
Chúa Trời bỏ qua những tội lỗi của loài người, nhưng ông có quyền gì để xét
đoán Quan Án? Đức Chúa Trời đã chờ 4 thế kỷ trước khi xét đoán các dân tộc gian
ác ở Ca-na-an (Sa 15:13-16) và 120 năm trước
khi giáng cơn nước lụt (Sa 6:3). Tội nhân
phải biết ơn rằng Đức Chúa Trời ban cho họ thời gian để ăn năn (IIPhi 3:9).
Đức Chúa Trời cai trị trên các dân
tộc và các cá nhân (Giop 34:29), nhưng Ngài
không chịu trách nhiệm về tội lỗi của họ. Vì Ngài ban cho họ sự tự do để thực
hiện những quyết định. Họ cũng có sự tự do để từ bỏ tội lỗi mình và tin cậy Đức
Chúa Trời. Bởi điều này, Ê-li-hu kết thúc phần diễn thuyết của ông bằng một lời
yêu cầu Gióp rằng Gióp hãy xưng nhận tội lỗi mình và ăn năn (c.31-33). Ông
khuyên: “Hãy cầu xin Đức Chúa Trời dạy ông điều ông không biết và hứa không
phạm tội như vậy nữa” (c.32). Đức Chúa Trời ban thưởng cho chúng ta theo những
điều khoản của Ngài, không phải theo điều khoản của chúng ta, và một trong
những yêu cầu của Ngài là chúng ta phải ăn năn và từ bỏ tội lỗi của mình.
Ê-li-hu ngừng lại và cho Gióp có cơ
hội để nói (c.33), nhưng Gióp chẳng nói gì. Điều này có thể đã làm cho Ê-li-hu
tức giận hơn nữa vì ông đã kết thúc phần nói chuyện này với một lời tố cáo thậm
tệ chống lại Gióp. Ông đã nói rằng Gióp thiếu hiểu biết và không sâu sắc, rằng
ông đã chống nghịch và nói kiêu ngạo với Đức Chúa Trời. Hành động vỗ tay ngày
nay là một dấu hiệu của sự tán thành, nhưng vào thời đó, nó là một cử chỉ nhạo
báng và khinh miệt (27:23 Ca 2:15). Ê-li-hu kết luận rằng thậm chí Gióp cần được thử thách hơn nữa! (Giop 34:36). Có lẽ điều đó
sẽ đem ông đến với ý thức của mình.
Sau khi giải quyết lời than vãn thứ
nhất của Gióp, Ê-li-hu đi đến lời than vãn thứ hai.
“Không
có ích lợi gì trong sự hầu việc Đức Chúa Trời” (Giop 34:7-9 35:1-16):
Một lần nữa, Ê-li-hu tìm cách ném những lời của Gióp trở lại mặt ông: “Tôi vô
tội” (10:7 12:4
27:6) và “Tôi đã được gì bằng cách vâng phục
Đức Chúa Trời?” (9:29-31 21:15). Gióp đã nói lời nhận định đầu tiên, nhưng
nhận định thứ hai không phải là trích dẫn chính xác những lời nói của ông. Gióp chưa bao giờ mặc cả với Đức Chúa Trời như Sa-tan đã
nói ông sẽ như thế (1:9,21 2:9-10).
Ê-li-hu bàn luận chủ đề này (Giop 22) và đi đến kết luận rằng sự mộ đạo hay sự
bất chính của loài người cũng không thể tạo bất cứ thay đổi nào đối với tính
cách của Đức Chúa Trời. Nhưng Ê-li-hu cảm thấy thật quan trọng để đề cập chủ đề
này lần nữa.
Ê-li-hu yêu cầu những
người nghe ông nhìn lên các tầng trời và xem những đám mây cao hơn thể nào, và
rồi hình dung ngôi Đức Chúa Trời cao hơn đất thể nào
(35:5-7). Những tội lỗi hoặc việc thiện của
một người trên đất có thể nào sử dụng sức mạnh như thế để chúng sẽ đi cả khoảng
cách đó và thay đổi Đấng Toàn Năng trên trời!
Sau đó Ê-li-hu yêu cầu họ xem xét xã
hội loài người (c.8-16). Những tội lỗi hoặc việc thiện của chúng ta có thể ảnh
hưởng đến những người quanh ta (c.8), nhưng Đức Chúa Trời không bị ảnh hưởng
bởi chúng. Chắc chắn Đức Chúa Trời buồn rầu về tội lỗi của loài người (Sa 6:6), và vui mừng trong sự vâng phục của những
người trung tín (Thi 37:23), nhưng những
việc thiện của chúng ta không thể hối lộ Ngài, và những hành động xấu của chúng
ta không thể đe dọa Ngài. Tính cách của Đức Chúa Trời không thay đổi dù con
người vâng lời hay bất tuân. Đức Chúa Trời không thể thay đổi để tốt hơn, vì
Ngài trọn vẹn, và Ngài không thể thay đổi để xấu hơn vì Ngài thánh khiết.
Đức Chúa Trời chăm sóc loài chim và
loài thú, và chúng nhờ cậy Ngài (Giop 35:11 Mat 6:25-34), nhưng loài người được dựng nên theo
hình ảnh Đức Chúa Trời không kêu cầu Ngài cho đến chừng nào họ ở dưới gánh nặng
khủng khiếp của sự áp chế (Giop 35:9). Họ
quên Đức Chúa Trời cho đến khi hoạn nạn xảy ra. Nhưng Đức Chúa Trời biết rằng
những lời cầu nguyện của họ không thành tâm, vì vậy Ngài không đáp lời họ
(c.12-13). Điều này giải thích vì sao những lời cầu nguyện của Gióp đã không
được trả lời: Lòng ông không ngay thẳng với Đức Chúa Trời (c.14).
Nhưng nếu Đức Chúa Trời không cất bỏ
gánh nặng, Ngài có thể ban cho người chịu khổ có lòng tin cậy “những bài ca
trong đêm” (c.10 Thi 42:8 77:6). Charles Spurgeon đã nói: “Bất cứ người nào
cũng có thể hát ban ngày. Thật dễ để hát khi chúng ta có thể đọc những ghi chép
bằng ánh sáng ban ngày; nhưng người có thể ca hát khi không có tia ánh sáng để
đọc là người ca hát tài tình.” Chúa đã ban “những bài ca trong đêm” cho Phao-lô
và Si-la trong ngục ở thành Phi-líp (Cong 16:25).
Nếu Đức Chúa Trời thấy không thích hợp để cất bỏ những gánh nặng của chúng ta,
Ngài luôn ban sức mạnh cho chúng ta để chúng ta có thể mang chúng và một bài ca
để hát lên trong khi làm điều đó!
Ê-li-hu bác bỏ lời than vãn của Gióp
rằng Gióp không thể nhìn thấy Đức Chúa Trời. Điều quan trọng là Đức Chúa Trời nhìn thấy Gióp và biết rõ hết sự kiện tụng của
Gióp (Giop 35:14). Hoàn cảnh của Gióp sẽ
không được thay đổi bởi lời nói trống rỗng và nhiều lời của ông (c.16), vì vậy
một việc dành cho Gióp là chờ đợi và tin cậy (c.4).
Đức Chúa Trời nhân từ (Giop 33:1-33) và Đức Chúa Trời công bình (Giop 34:1-35:16), nhưng Đức Chúa Trời cũng vĩ đại
và toàn năng (Giop 36:1-37:24) và Ê-li-hu
nghĩ rằng Gióp cần phải nhận biết Đức Chúa Trời vĩ đại ra sao.
Giop 35:1-16; xem giải nghĩa Giop 34:1-37
2. Đức Chúa Trời vĩ đại (Giop 36:1-33)
“Kìa,
Đức Chúa Trời có quyền năng” (Giop 36:5),
“Kìa, Đức Chúa Trời được tán tụng bởi quyền năng
Ngài” (c.22), “kìa, Đức Chúa Trời vĩ đại” (c.26). Trong hai chương này,
Ê-li-hu tán tụng sự vĩ đại của Đức Chúa Trời trong mục
đích đầy thương xót của Ngài đối với con người (c.1-25) và qua quyền năng mạnh mẽ của Ngài trong thiên nhiên
(36:26-37:13). Ông kết luận bài diễn thuyết
của mình bằng cách đưa ra lời yêu cầu cuối cùng rằng Gióp hãy kính sợ Chúa và
ăn năn (c.14-24).
Mục đích thương xót
của Đức Chúa Trời đối với con người (Giop 36:1-25): Sự lên mặt ta đây tự cho mình là quan trọng của Ê-li-hu
đạt đến những độ cao mới khi ông giới thiệu phần cuối cùng trong bài diễn
thuyết của mình (c.1-4). Những người lắng nghe ông chắc rất bồn chồn, sốt ruột,
nếu không tại sao ông phải nói: “Xin hãy nhịn tôi một chút nữa?” (c.2).
Nhận định “tôi sẽ đem đến từ xa sự hiểu biết của tôi” (c.3) gợi ý rằng ông khoe khoang về sự hiểu biết rộng rãi của mình hoặc về việc
có sự hiểu hiết trực tiếp từ trời. Và gọi ông là “người trọn vẹn về tri thức”
(c.4 NIV) hầu như không phải là chứng cớ về tính khiêm nhường!
(1) Sự giải thích (c.5-15): Quả thực, Đức Chúa Trời vĩ đại và
quyền năng không có nghĩa là Ngài phớt lờ con người hoặc không có sự quan tâm
đối với từng cá nhân. “Đức Chúa Trời quyền năng nhưng không khinh bỉ loài người,
Ngài quyền năng và vững chắc trong mục đích của Ngài” (c.5 NIV). Mục đích đó là
gì? Để trừng phạt kẻ ác và giúp người khốn khổ (“nghèo”, c.6,15 KJV). Ê-li-hu
so sánh cách Đức Chúa Trời giải quyết đối với kẻ ác kiêu ngạo và đối với người
công bình khốn khổ. “Ngài chẳng hề để kẻ ác sống, nhưng tỏ sự công bình cho kẻ
khổ nạn” (c.6 NASB).
Gióp nghĩ rằng Đức Chúa Trời phớt lờ
ông, nhưng Đức Chúa Trời để mắt trên người công bình (c.7; IPhi 3:12) và cuối cùng biến đổi hoàn cảnh của họ.
Ngài nâng họ lên từ đống tro đến ngôi vua (Lu
1:52-53) và giải phóng họ khỏi xiềng xích của họ (Giop 36:7-8). Ngài quở phạt chúng ta với mục đích
Ngài có thể sửa đổi chúng ta và dạy dỗ chúng ta con đường ngay thẳng để sống.
Nếu chúng chịu học tập vâng theo, Ngài sẽ chúc phước cho chúng ta càng thêm.
Nhưng nếu chống nghịch Ngài, chúng ta chắc chắn sẽ phải nhận lấy sự hủy diệt
(c.9-12).
Đáp ứng của tấm lòng là chìa khóa.
Những kẻ giả hình (“có lòng bất kính”, NIV) chỉ chất lên sự thạnh nộ khi họ
khiến chính mình cứng cỏi nghịch với Đức Chúa Trời. Cho dù Đức Chúa Trời kỷ
luật họ mức độ nào, họ cũng chối từ kêu cầu sự giúp đỡ. Nhưng người có lòng
khiêm nhường nhận lấy sứ điệp của Đức Chúa Trời (“Ngài phán với họ trong sự
hoạn nạn”, c.15 NIV) và từ bỏ tội lỗi mình. Nhóm từ “những kẻ ô uế” trong câu
14 đề cập đến những kẻ tà dâm đồng tính ở các điện thờ thần tượng khác nhau (Phu 23:17). Ê-li-hu chọn hình ảnh này như một bức
tranh về độ sâu của sự nhục nhã và tội lỗi, kẻ ác không chỉ chết trẻ (Giop 36:14 20:5,11) nhưng họ còn chết trong nhục nhã.
(2) Sự ứng dụng (c.16-25): Gióp phải thực hiện một quyết định, “Ngài (Đức Chúa Trời) đang dụ ông khỏi lối hoạn nạn để đến
một nơi khoảng khoát” (c.16 NIV Thi 18:19).
Bàn của Gióp đã chất đầy hoạn nạn khi nó có thể chất đầy những thức ăn ngon nhất.
Gióp sẽ đáp ứng ra sao?
Ê-li-hu nhìn thấy nhiều hiểm họa
phía trước dành cho Gióp và tìm cách cảnh cáo ông. Hiểm họa thứ nhất đó là Gióp
có thể tìm kiếm “đường tắt” để thoát ra khỏi hoạn nạn và do đó bỏ lỡ sứ điệp
Đức Chúa Trời đã dành cho ông. Có thể Gióp đồng ý để ai đó “mua ông” nhưng
không có khoản tiền nào đủ để làm điều đó (Giop
36:18-19). Tạp chí Wall Street nói về điều này rất hay: “Tiền là một
phẩm vật có thể được sử dụng như một hộ chiếu toàn cầu đến mọi nơi trừ thiên
đàng, và như một người cung cấp toàn bộ về mọi thứ trừ hạnh phúc.”
Hiểm họa thứ hai đó là Gióp có thể
nghĩ đến việc ông sẽ tự kết liễu đời mình (c.20). “Đêm” và “sự tối tăm” là
những hình ảnh về sự chết, và Gióp thường bày tỏ một ao ước được chết (3:1-9,20-23 7:21 10:18-22). Nhiều người chịu khổ đã phạm tội tự sát
để thoát khỏi hoàn cảnh vô vọng của họ, nhưng không
có hiểm họa như thế để Gióp sẽ đi con đường này. Gióp là một người có đức tin
và sẽ không đi vào sự hiện diện của Đức Chúa Trời mà chưa được mời.
Ê-li-hu nhìn thấy một hiểm
họa thứ ba, rằng Gióp có thể từ bỏ mọi hy vọng và hướng về một đời sống tội lỗi (36:21). Trong chức
vụ mục sư của tôi, tôi đã khuyên những người quá cay đắng với Đức Chúa Trời đến
nỗi họ từ bỏ xưng nhận đức tin và trở lại với thế gian. Họ nói: “Nếu đời sống
tiếp tục gay go thế này, vậy chúng tôi chỉ có thể vui chơi trong khi còn có
thể.” Họ quên rằng không thể có sự vui mừng thật nếu không có Đức Chúa Trời, và
tội lỗi đó cuối cùng sẽ đem lại mùa gặt của chính nó về sự đau khổ và phiền não
mà thôi.
Cuối cùng, Ê-li-hu kêu gọi Gióp nắm
lấy một khải tượng mới về sự vĩ đại của Đức Chúa Trời và bắt đầu ngợi khen Ngài
(c.22-25). Đức Chúa Trời muốn dạy dỗ chúng ta qua những hoạn nạn của chúng ta
(c.22), và một chứng cớ mà chúng ta đang học những
bài học của mình, đó là chúng ta ngợi khen và cảm tạ Ngài, thậm chí cảm tạ về
những thử thách. “Hãy ngợi khen Ngài về những công việc quyền năng của Ngài mà
bởi đó Ngài quá nổi danh” (c.24 TLB), “Sự ngợi khen thay đổi mọi sự”
cũng như “sự cầu nguyện thay đổi mọi sự.”
Quyền năng mạnh mẽ của
Đức Chúa Trời trong thiên nhiên (Giop 36:26-37:24): “Kìa, Đức Chúa Trời vĩ đại, và chúng ta không biết được
Ngài” (36:26). Đây là chủ đề của phần cuối
cùng trong bài diễn thuyết của Ê-li-hu, và ông minh họa nó bằng những công việc
của Đức Chúa Trời trong thiên nhiên, đặc biệt là việc Đức Chúa Trời điều khiển
thế giới của Ngài suốt mùa tiết, tháng năm,…
(1) Mùa thu (Giop
36:27-37:5): Ở phương Đông, sau cái nóng và hạn hán của mùa hè, cả đất
đai và con người chào đón những cơn mưa vào mùa thu. Thật thú vị để khám phá sự
sâu sắc của Ê-li-hu trong “chu kỳ nước” của thiên nhiên (sự bay hơi, sự tụ hơi,
sự kết tủa) và nhu cầu về điện (tia chớp) để giúp mọi hoạt động có “hệ thống”.
Với đầu óc của một khoa học gia
nhưng có tấm lòng của một thi sĩ, Ê-li-hu mô tả cơn bão. Ông bắt đầu bằng sự
hình thành các đám mây (36:26-29), kế đến là
sự phát điện bằng tia chớp (c.30-32) và sau đó là tiếng sấm (36:33-37:5). Đối với Ê-li-hu, tia chớp là vũ khí
của Đức Chúa Trời (36:32) và sấm là tiếng
nói của Đức Chúa Trời (37:2,4-5). Ở phương
Đông, bạn có thể thấy một cơn bão kéo dài hằng dặm và với một sự quan sát rất
lý thú hấp dẫn khi nó đến gần.
Đáp ứng của Ê-li-hu đến
với tuồng kịch về cơn bão ra sao? Trước hết, cơn bão nhắc nhở ông về quyền tể
trị tối cao của Đức Chúa Trời và sự nhân từ Ngài.
“Đây là cách Ngài cai trị các dân tộc và ban cho lương thực dư dật” (36:31 NIV). Nó cũng khơi dậy trong ông một cảm
giác khiếp sợ về quyền năng mạnh mẽ của Đức Chúa Trời (37:1).
Đa-vít đã ghi lại kinh nghiệm tương tự trong Thi
thiên 29.
(2) Mùa đông (c.6-10): Tại thời điểm nào đó, những cơn mưa mùa thu trở thành
băng và tuyết trong mùa đông. Những người làm việc phải ngưng công việc lao
động của họ, và các thú hoang rút vào nơi che chở trong hang của chúng. Đức
Chúa Trời thở trên mặt nước, và chúng đông lại. Điều mà nhà khí tượng học gọi
là “hiện tượng thời tiết”, Ê-li-hu gọi là công việc kỳ diệu của Đức Chúa Trời
Toàn năng. Isaac Watts đồng ý với Ê-li-hu khi ông viết:
Tôi ngợi ca sự nhân từ
của Chúa
Đã làm đầy dẫy đất lương
thực
Ngài tạo thành các tạo
vật bằng Lời Ngài
Và rồi tuyên bố chúng
tốt lành
Không thực vật hoặc bông
hoa nào ở dưới thấp
Mà không khiến những
vinh hiển của Ngài được biết đến
Và những đám mây nổi lên
rồi những cơn bão thổi đi
Bởi mệnh lệnh từ ngôi
của Ngài
(3) Mùa xuân (c.11-13): Cuối cùng những cơn gió ấm áp hơn bắt đầu thổi, tuyết
và băng tan chảy, và những đám mây mưa xuất hiện trở lại. Ê-li-hu biết rằng gió
đóng vai trò quan trọng nhất trong thời tiết của thế gian. Không ai có thể tiên đoán chính xác gió sẽ làm gì (Gi 3:8), nhưng Đức Chúa Trời hoàn toàn tể trị trên
chúng (Thi 148:8). “Chu kỳ nước” hoạt động
một cách hiệu quả: những đám mây đầy nước, tia chớp lóe sáng, mưa đổ xuống. Đôi
khi Đức Chúa Trời giáng những cơn bão để kỷ luật (Giop
37:13 Sa 6:1-8:22 Xu 9:13-26 ISa
12:16-19) nhưng đa phần mưa là món quà của tình yêu và sự thương xót của
Ngài (Giop 37:13).
(4) Mùa hạ (c.14-18;): Giờ đây những đám mây “treo thăng bằng” (c.16 NIV) và
mọi vật yên tĩnh. Mặt trời mùa hạ đốt nóng không khí, gió nam (“gió nóng”) thổi
từ sa mạc, và con người bắt đầu “đổ mồ hôi trong quần áo (của họ)” (c.17 NIV),
Bầu trời giống như một tấm gương đồng và không ai cảm thấy thích làm bất cứ
việc gì ngoài nghỉ ngơi.
Nhưng Ê-li-hu hành động
nhiều hơn là rao ra một bài diễn thuyết đầy tính thơ và khoa học về bốn mùa.
Ông muốn Gióp xem xét sự vĩ đại của Đức Chúa Trời
và những kỳ diệu của thiên nhiên, và nhận ra
Gióp thật sự chẳng biết bao nhiêu về Đức Chúa Trời và hành động của Ngài trên
thế giới này. Ê-li-hu hỏi Gióp ba câu hỏi tu từ về mây, tia chớp,
gió và bầu trời không có mưa. Ông hỏi: “Ông có thể giải thích những điều này
không? Ông có thể điều khiển chúng không?”
Điều này dẫn Ê-li-hu đến sự đột phá
sau cùng: “Nếu ông không thể giải thích cho chúng tôi những việc hằng ngày của
thiên nhiên, vậy làm sao ông sẽ chuẩn bị một vụ kiện ở tòa để bênh vực mình
trước mặt Đức Chúa Trời?” Ê-li-hu còn cảnh cáo Gióp rằng hành động thách thức
Đức Chúa Trời có thể dẫn đến việc Gióp bị nuốt bởi sự đoán phạt của Đức Chúa
Trời (c.20). Câu 21-22 mô tả “sự chiếu sáng lòa sau cơn mưa” (IISa 23:4), bầu trời xanh, mặt trời rực rỡ, “sự
chói lòa” và “sự oai nghiêm đáng sợ” của Đức Chúa Trời (NIV). Ê-li-hu nói:
“Thậm chí ông không thể nhìn được mặt trời mà ông lại muốn gặp Đức Chúa Trời
mặt đối mặt!”
Những lời cuối Ê-li-hu nhắc chúng ta
rằng, cho dù chúng ta không thể hiểu Đức Chúa Trời cách đầy đủ, nhưng chúng ta
phải biết rằng Ngài vĩ đại và công bình, và Ngài không làm con người đau khổ vô
cớ. Đáp ứng cá nhân của chúng ta phải là gì? “Vì vậy, hãy kính sợ Ngài!” Gióp
đã đi đến kết luận tương tự sau khi suy gẫm những công việc của Đức Chúa Trời
trên thế giới (Giop 28:24-28).
Có thể rằng trong khi Ê-li-hu nói, một cơn bão thật sự đang nổi lên từ
xa, và khi ông chấm dứt, cơn bão ngừng lại và
Đức Chúa Trời đã ở trong cơn bão!
Giờ đây Gióp sẽ nhận được điều ông
đã cầu xin: một cuộc gặp gỡ trực tiếp với Đức Chúa Trời. Ông có sẵn sàng chưa? Chúng ta sẵn sàng chưa?
Giop 37:1-24; xem giải nghĩa Giop 34:1-36:33
PHẦN CHUYỂN TIẾP
Với mọi sự dài dòng và
thiếu khiêm nhường của mình, Ê-li-hu thật đã nói một số điều tốt lành mà Gióp
cần nghe. Việc Ê-li-hu sử dụng những câu hỏi tu từ
trong Giop 37:14-18 chuẩn bị cho Gióp một
chuỗi những câu hỏi mà Đức Giê-hô-va sẽ hỏi ông trong (Giop 38-41).
Không giống như ba người bạn kia,
Ê-li-hu đã đánh giá vấn đề của Gióp một cách chính xác: những hành động
của Gióp có thể đúng ông không phải là tội nhân mà ba bạn ông đã mô tả nhưng
những thái độ của ông là sai. Gióp không phải là “thánh” như Gióp nhìn
thấy chính mình. Gióp đang tiến dần đến một thái độ thách thức, tự xem mình là
công bình mà chẳng lành mạnh chút nào. Đức Chúa Trời đã vạch trần và phá hủy
thái độ “biết tất cả” này khi Ngài hiện ra trước Gióp và chất vấn ông.
Vì vậy, cho dù Đức Chúa Trời đã
không nói gì về Ê-li-hu, người này đã có một chức vụ ích lợi cho Gióp. Đáng
tiếc, Gióp đã không chấp nhận nó.
“Tôi
đã có một triệu câu hỏi để hỏi Đức Chúa Trời, nhưng khi tôi gặp Ngài,chúng đều
biến khỏi tâm trí tôi, và dường như đó là chuyện bình thường.”
(Christopher Morley).
13. CUỘC KHẢO THÍ CUỐI CÙNG (Giop 38:1-42:17)
Cơn bão mà Ê-li-hu đã mô
tả cuối cùng ngừng lại, và Đức Chúa Trời đã phán với Gióp từ cơn bão. Sự trả
lời cho những vấn đề của Gióp không phải là sự giải thích về Đức Chúa Trời, như ba bạn và
Ê-li-hu đã trình bày, nhưng là một sự mặc khải
về Đức Chúa Trời. Bốn người đã tuyên bố và bảo vệ sự vĩ đại của Đức Chúa Trời
nhưng đã không thuyết phục được Gióp. Khi Đức Chúa Trời bày tỏ sự oai nghiêm và
sự vĩ đại của Ngài, điều đó hạ thấp Gióp và đem ông đến vị trí vâng phục lặng
lẽ trước mặt Ngài. Đó là một bước ngoặc.
Nhà tâm lý học Thụy Sĩ, Tiến sĩ Paul
Tournier đã viết trong “Guilt and Grace”
(Harper & Row, trang 86): “Vì sự trả lời của Đức Chúa Trời không phải là
một ý niệm, một lời đề nghị, giống như kết luận của
một định lý, mà là chính Ngài. Ngài mặc khải chính Ngài cho Gióp, khiến Gióp
tìm thấy sự liên hệ cá nhân với Đức Chúa Trời.”
Chúng ta thích Đức Chúa
Trời phán với mình trong ánh sáng mặt trời, nhưng
đôi khi Ngài phải phán từ cơn bão tố. Đây là cách Ngài đã phán với Y-sơ-ra-ên
trên núi Si-nai (Xu 19:16-19 He 12:18) và với Ê-li mấy thế kỷ sau đó (IVua 19:8-11). Ê-xê-chi-ên đã nhìn thấy vinh hiển
của Đức Chúa Trời trong một cơn bão và nghe tiếng Đức Chúa Trời phán với ông (Exe 1:1-2:10). Việc kinh nghiệm sự bày tỏ uy nghi
này về quyền năng của Đức Chúa Trời khiến Gióp rất xúc cảm với thông điệp Đức
Chúa Trời dành cho ông.
Cuộc nói chuyện của Đức Chúa Trời
với Gióp tập trung vào những công việc Ngài trong thiên nhiên và bao gồm 77 câu
hỏi được đặt rải rác với sự bình luận thiêng liêng liên quan đến những câu hỏi.
Toàn bộ mục đích của sự thẩm vấn này là để Gióp nhận ra sự bất xứng và giới hạn
của chính ông để gặp Đức Chúa Trời như một người ngang hàng và bảo vệ duyên cớ
của ông.
Gióp đã thách thức Đức Chúa Trời:
“Vậy hãy gọi tôi, thì tôi sẽ trả lời, hoặc hãy để tôi nói và Ngài trả lời” (Giop 13:22 NIV). Đức Chúa Trời giờ đây đã đáp ứng
với thách thức của Gióp.
Sự phán truyền của Đức Chúa Trời có
thể được tóm tắt trong ba câu hỏi:
1.”Ngươi có thể giải thích sự sáng
tạo của ta không?” (38:1-38)
2.”Ngươi có thể quan sát hết sự sáng
tạo của ta không?” (38:39-39:30). Lời đáp của Gióp lần thứ nhất trong (Giop 40:1-5)
3.”Ngươi có thể chinh phục sự sáng
tạo của ta không?” (40:6-41:25). Lời đáp thứ hai của Gióp trong (42:1-6).
Câu hỏi thứ nhất đề cập quyền năng
và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời trong việc hình thành vũ trụ. Câu hỏi thứ
hai đề cập sự quan tâm lo liệu của Ngài đối với những tạo vật của Ngài, và câu hỏi thứ ba tập trung vào hai tạo vật (có lẽ là con hà mã
và con cá sấu), phủ nhận khả năng của con người không thể chinh phục nổi chúng.
Khi Gióp ăn năn về tội đã tự cho mình là công bình, Đức Chúa Trời liền phục hồi
ông (c.7-17).
Giờ đây Đức Chúa Trời
được gọi là Đức Giê-hô-va, nghĩa là Giê-hô-va Đức Chúa Trời, một danh xưng mà
(ngoại trừ 12:9) đã không được sử dụng trong Gióp từ hai phân đoạn đầu.
Trong những bài diễn thuyết của mình, những người này đã gọi Ngài là Đức Chúa
Trời và “Đấng Toàn Năng” chứ không phải Đức Giê-hô-va. Đây là danh mà Đức Chúa
Trời bày tỏ cho Y-sơ-ra-ên trong những thế kỷ sau đó (Xu
3:13), là danh nói về sự tự hữu của Ngài (TA LÀ ĐẤNG TỰ HỮU) và
mối liên hệ theo giao ước riêng tư của Ngài với dân sự Ngài.
1. Ngươi có thể giải thích sự sáng tạo của Ta không? (Giop 38:1-38)
Gióp chắc rằng những bài
diễn thuyết của ông đầy dẫy sự khôn ngoan và hiểu biết, nhưng câu hỏi đầu tiên
của Đức Chúa Trời chấm dứt ảo tưởng đó: “Kẻ nầy là
ai mà làm mờ ám mưu định của ta bằng những lời không tri thức?” (Giop 38:2 NIV). Bản dịch The Living Bible diễn giải câu ấy là: “Tại sao
ngươi sử dụng sự ngu dốt của mình để phủ nhận ý định ta?” (TLB). Đức Chúa Trời
đã không chất vấn sự chính trực hay sự thành thật của Gióp, Ngài chỉ chất vấn
khả năng của Gióp để giải thích những đường lối Ngài trên thế giới. Gióp đã nói
lẽ thật về Đức Chúa Trời (42:7), nhưng những
bài diễn thuyết của ông thiếu sự khiêm nhường. Gióp nghĩ ông biết về Đức Chúa
Trời, nhưng ông đã không nhận ra ông không biết
về Đức Chúa Trời bao nhiêu! Sự
nhận biết mình ngu dốt là bước đầu tiên hướng chúng ta đến với sự khôn ngoan
thật.
Đức Chúa Trời bắt đầu với sự sáng tạo trái đất
(38:4-7) và so sánh Ngài với một thợ xây
quan sát vị trí, đánh dấu kích thước, đổ nền, đặt đá móng và xây dựng kiến
trúc. Sự sáng tạo kỳ diệu đến nỗi những ngôi sao cùng hòa thanh ca hát với các
thiên sứ (1:6 2:1) reo lên vì vui mừng, nhưng
Gióp đã không có mặt ở hiện trường! Vậy, làm sao ông có thể tuyên bố
ông là người biết quá nhiều về những công việc của Đức Chúa Trời?
Từ đầu, Đức Chúa Trời đã hoạch định
mọi thứ. Sự sáng tạo của Ngài là một khu vườn có vẻ đẹp
hân hoan, nhưng tội lỗi đã biến sự sáng tạo thành một chiến trường xấu xí và
thảm hại. Loài người vì sự ích kỷ của mình đang hoang phí những nguồn thiên
nhiên, làm ô nhiễm đất, không khí, nước và không gian bên ngoài, và tàn phá sự
sáng tạo của Đức Chúa Trời đến nỗi các khoa học gia không biết hành tinh của
chúng ta sẽ nuôi dưỡng sự sống tồn tại trong bao lâu nữa mà chúng ta có thể
biết. M.Gandhi đã đúng khi ông nói: “Khả năng của thế giới vốn chỉ dành cho nhu
cầu của con người chứ không phải cho sự tham lam của họ.”
Sau đó Chúa xem xét về biển (38:8-11). Hình ảnh ở đây không phải là sự xây dựng nhưng là sự sinh ra: Biển được “liên kết nhau” trong sự
bí mật (c.8 Thi 139:13) và rồi xuất hiện đột
ngột như một em bé trồi ra khỏi tử cung. Chúng được mặc bằng mây và sự tối tăm,
và những giới hạn của chúng do Đức Chúa Trời bố trí. Đức Chúa Trời hỏi Gióp “Ai
đã làm mọi điều này?” và Gióp biết câu trả lời.
Khía cạnh kế tiếp của sự sáng tạo mà
Đức Chúa Trời đề cập là mặt trời (Giop 38:12-15). Ở đây Đức Chúa Trời mô tả Ngài như
một vị tướng truyền lịnh cho những quân đoàn của Ngài (thiên binh). Gióp có bao
giờ sai khiến được mặt trời mọc và xua tan sự tối tăm chưa? Khi ánh sáng trải
qua thế giới, nó bày tỏ những chi tiết của phong cảnh, giống như sự đóng dấu
trên đất sét hay sự trải ra một chiếc áo đẹp được đem ra từ trong tủ tối tăm.
Nhưng ánh sáng cũng ngăn chặn những việc ác được thực hiện trong sự tối tăm (Gi 3:19-21) và ngăn trở tội phạm tấn công nạn nhân.
Bảy câu hỏi kế tiếp (Giop 38:16,24) có liên hệ
đến những kích thước bao la của sự sáng tạo.
Đứa trẻ bình thường ngày nay biết về độ cao và độ sâu của vũ trụ nhiều hơn Gióp
cùng với ba bạn ông có thể tưởng tượng. Gióp đã từng đi bộ xuống độ sâu của
biển và thăm viếng “các cửa Âm phủ chưa? Ông có biết mình phải đi xuống bao xa
để tìm thấy đáy đại dương chưa? (Độ sâu nhất đo được ở Thái Bình Dương cho đến
nay là 35.810 feet hoặc 6,78 dặm). Và về phần độ dài của không gian, chiếc phi
thuyền không gian Voyager 2 đã mất 12 năm mới đi được 4,4 tỉ đặm, và vào năm
1989 mới vượt qua được chừng 3.000 dặm giữa đám mây mênh mông của đại dương!
Trong các câu 19-21, Đức Chúa Trời
đã hỏi Gióp rằng ông có thể tính toán chiều dài phương Đông và phương Tây hay
không, hoặc có phải chân trời quá nhiều đến nỗi ông không tài nào đếm xuể
chăng. Sau đó Đức Chúa Trời chất vấn Gióp có hiểu độ cao nơi tuyết và mưa đá
được tồn trữ cho đến khi Đức Chúa Trời cần chúng (c.22-23 Xu 9:18-26 Gios 10:11)
hoặc những nơi Đức Chúa Trời giữ tia chớp và gió của Ngài hay không (Giop 38:24). Chắc chắn, những lời ấy của Đức Chúa
Trời chứa đầy sự mỉa mai, nhưng đó là điều Gióp cần để làm thoát đi sự kiêu
ngạo của ông và dẫn ông đến với việc quỳ gối ăn năn tội.
Gióp biết về mưa ở mức độ nào? (c.25-28): Ông có biết cách
sắp đặt tiến trình của nó để đất có nước nó cần? Ông có thể giải thích vì sao
Đức Chúa Trời ban mưa cho những nơi không ai sống
chăng? Sau đó Đức Chúa Trời chuyển từ cơn mưa mùa xuân và mùa thu sang mưa đá và sương móc của mùa đông (c.29-30).
Nếu Gióp không biết mưa “được sinh ra” thế nào, ông có hiểu băng đá “ra đời”
thế nào không?
Vào lúc này, Gióp có lẽ ước mong
được tạm dừng lại ở đây, nhưng Chúa vẫn tiếp tục. Ngài
hướng sự chú ý của Gióp về các tầng trời nhóm thất tinh, chòm sao Orion ngựa
săn, các chòm sao khác nhau (“Mazzaroth”, NIV) và Sao Gấu (“Đại giác tinh” với
những sao con của nó). Gióp có hiểu các luật điều khiển những sự vận hành của
chúng, và ông có thể điều khiển những ngôi sao với những hành tinh này và khiến
chúng xuất hiện đúng các mùa của chúng không? Con người có thể nghiên cứu các
từng trời, nhưng con người không thể điều khiển chúng.
Câu hỏi: “Ngươi có thể
lập chủ quyền nó dưới đất chăng?” (c.33) được dịch trong bản dịch NASB là: “Hay
ngươi có thể ấn định sự thống trị chúng khắp đất chăng?” Còn bản dịch NIV viết:
“Ngươi có thể lập chủ quyền của Đức Chúa Trời khắp đất không?” Riêng bản The
Living Bible ghi rằng: “Ngươi có biết …các từng trời ảnh hưởng đến đất thế nào
không?” Phải chăng có một gợi ý ở đây rằng các ngôi sao và các hành tinh có ảnh
hưởng trực tiếp tới những sự kiện trên đất như những người ủng hộ thuật chiêm
tinh tồn tại? Không phải thế! Nhận định này có thể được diễn giải như sau:
“Gióp, nếu ngươi hiểu quá nhiều về các thiên thể do một số người nghĩ để ảnh
hưởng đến đất, vậy, tại sao ngươi không sử dụng quyền hạn đó để thay đổi hoàn
cảnh của ngươi?” Chúa đang phán bằng “sự mỉa mai thánh” chứ không phải bày tỏ
lẽ thật sâu sắc nào đó.
Trong các câu 34-38,
Chúa kéo sự chú ý của Gióp vào những đám mây. Vì Gióp biết các luật của tầng
trời, ông có thể ra lệnh cho những đám mây đổ mưa chăng? Tia chớp có phải là
tôi tớ của ông, báo cáo lại nhiệm vụ của chúng cho ông biết chăng? Gióp có thể
kiểm soát những đám mây và “lật ngược chúng” như những chiếc bình để khiến mưa
đổ xuống chăng?
Sáng tạo ra mọi vật là
một việc; duy trì chúng vì ích lợi của con người hoàn toàn là việc khác. Chúa
đi tiếp vào một chuỗi câu hỏi về sự hoạt động chu cấp của Ngài trên thế giới.
Ngài đi từ thế giới vô tri đến thế giới có sự sống.
2. “Ngươi có thể quan sát sự sáng tạo của Ta không?” (Giop 39:1-30)
Chúa đem đến trước sự
tưởng tượng của Gióp một cuộc diễu hành của 6 con thú (sư tử cái, dê, nai cái,
lừa rừng, bò rừng và ngựa) và 5 loài chim (quạ, đà điểu, cò, diều hâu và đại
bàng).
Sự định liệu của Đức
Chúa Trời chắc chắn đáng chú ý (104).
Trong sự khôn ngoan và quyền năng Ngài, Đức Chúa Trời giám sát toàn bộ vũ trụ
và chắc rằng các tạo vật của Ngài luôn được Ngài chăm sóc. “Chúa sè tay ra, làm
cho thỏa nguyện mọi loài sống” (Thi 145:16
NKJV). Loài người chúng ta có một thời kỳ khó khăn giữ cho bộ máy sự sống hoạt
động một cách thành công, nhưng Đức Chúa Trời vận
hành cả vũ trụ bằng sự chính xác đến nỗi chúng ta đã thành lập được cả những
định luật khoa học của chúng ta về sự sáng tạo của Ngài.
Gióp có biết cách nuôi
những sư tử con hoặc những quạ con không? (Giop 39:1-3). Thậm chí ông có biết chúng đói
không? Ông có thể tìm thấy thức ăn cho chúng ở đâu? Những con quạ sẽ biết cách
tìm thấy thịt sống do những sư tử để lại vì Đức Chúa Trời dạy các loài chim
(thậm chí là những con quạ ô uế) biết cách tìm kiếm thức ăn cho mình.
Kế đến Đức Chúa Trời đi từ chủ đề về
sự chết đến chủ đề về sự ra đời. Gióp có biết thời kỳ thai nghén đối với dê và
nai, và những con nhỏ của chúng.ra đời cách nào không? (Giop 39:1-4). Những con vật nhỏ lớn lên cách an toàn thế nào,
con thú mẹ làm sao biết khi nào chúng sẵn sàng để rời
hang ổ của chúng? Những người chăn chiên và nhà nông giúp đỡ cho những con vật
của họ suốt thời kỳ mang thai và sinh nở, nhưng loài thú hoang sinh con một
mình.
Con lừa hoang (c.5-8)
cũng được biết như lừa
rừng, đi lang thang tự do trong đồng vắng và không bao giờ chịu
thuần hóa. Nó tồn tại mà không cần sự giúp đỡ của con
người, vì Đức Chúa Trời đã dạy nó cách tự chăm sóc mình. Con bò hoang (bò rừng)
là “kẻ thui thủi” khác trong vương quốc loài vật (c.9-12), từ chối đầu phục
quyền hành của con người. Bạn không thể giữ nó trong chuồng của mình, cột nó
vào chiếc cày của bạn, hoặc ép nó làm công việc đập lúa.
Chúa hỏi: “Nào, Gióp,
nếu ngươi không thể thành công với những con vật này, làm sao ngươi mong thành
công khi ngươi gặp ta tại tòa? Ngươi nghĩ mình mạnh mẽ thế nào?”
Rồi Chúa chuyển sang sự
mô tả về loài chim, con cò (“con công, KJV) và con đà điểu (c.13-18). Đức Chúa
Trời không hỏi Gióp câu hỏi nào trong đoạn này, Ngài chỉ nhắc ông về bộ xương
kỳ dị với hành vi của đà điểu và gợi ý rằng có lẽ Gióp có thể giải thích nó.
Con công có đôi cánh đẹp
và có ích, nhưng tất cả những gì con công có thể làm với đôi cánh của nó là
quạt vào không khí! Tại sao Đức Chúa Trời khiến một con chim không thể bay
nhưng có thể chạy nhanh hơn con ngựa? Tại sao Ngài khiến một con chim đặt ổ nó
trong một nơi đã bị tấn công, nơi mà trứng của nó có thể bị hủy hoại hoặc bị ăn
bởi một con thú ăn thịt sống? Không giống đa số các loài chim, tại sao nó dường
như cẩu thả đối với con nhỏ của mình?
Con ngựa được kể đến
tiếp theo thứ tự (c.19-25), một con vật được thán phục rất nhiều và được đánh
giá cao về sức mạnh với sự can đảm. Đây là sự mô tả về một con ngựa chiến,
không phải con ngựa đồng, và bạn có thể hình dung nó nhảy dựng lên, giậm chân
xuống đất và nôn nóng lao vào chiến trường. Khi nó nghe tiếng kèn, nó không thể
đứng yên, nhưng chạy rất nhanh đến nỗi nó dường như “ăn sạch đất.” Chính Đức
Chúa Trời, không phải Gióp, đã tạo nên con ngựa có sức mạnh và khả năng nó cần
để đối diện với nguy hiểm và phục vụ một cách hiệu quả trên chiến trường.
Cuộc diễu hành kết thúc
với hai loài chim, diều hâu và đại bàng (c.26-30). Ai đã cho những loài chim
bản năng để di trú và sự hiểu biết để xây tổ? Không phải Gióp! Đại bàng xây tổ
chúng trên các vách đá, nhưng Đức Chúa Trời cho chúng thị giác sắc bén để chúng
có thể nhìn thấy con mồi từ xa, bổ nhào xuống và chụp lấy. Đại bàng cũng có thể
tìm thấy xác chết để nhờ đó nuôi sống chúng và con nhỏ của chúng, vì Đức Chúa
Trời đã tạo dựng chúng cách đó.
3. Lời đáp thứ nhất của Gióp (Giop 40:1-5)
Đức Chúa Trời sử dụng
ngôn ngữ phản ánh ao ước của Gióp, đem Đức Chúa Trời đến tòa và tranh cãi vụ
kiện của mình. “Kẻ tìm lỗi sẽ tranh cãi với Đấng Toàn năng sao? Hãy để kẻ quở
trách Đức Chúa Trời trả lời điều đo” (Giop 40:2 NASB). Đức Chúa Trời đã trình bày vụ
kiện của Ngài. Giờ đây Ngài cho Gióp cơ hội trình bày vụ kiện của ông. Nhưng
Gióp không có vụ kiện nào nữa để trình bày! Những lời đầu tiên của ông là:
“Nầy, tôi hèn hạ!” nghĩa là “tôi vô nghĩa và không xứng đáng. Tôi không có
quyền gì để tranh cãi với Đức Chúa Trời.” Gióp đã bảo các bạn ông che miệng họ
(21:5) và những người khác đã che miệng họ
khi Gióp xuất hiện (29:9). Nhưng giờ đây
Gióp phải đặt tay ông lên miệng để không nói điều gì không nên nói (Ch 30:32 Ro 3:19).
Cho đến khi nào chúng ta bị câm lặng trước mặt
Đức Chúa Trời, Ngài mới có thể làm cho chúng ta điều cần phải làm.
Bao lâu chúng ta còn ra sức tự bảo vệ mình và tranh luận với Đức Chúa Trời, thì
Ngài sẽ không thể làm gì cho chúng ta và trong chúng ta để thực hiện kế hoạch
của Ngài qua chúng ta.
Nhưng Gióp không hoàn toàn bị đánh
sập và ông chưa ở vào vị trí của sự ăn năn thành tâm.
Ông yên lặng nhưng chưa đầu phục, vì vậy, Đức Chúa Trời tiếp tục sự phán dạy
của Ngài.
4. “Ngươi có thể chinh phục sự sáng tạo của Ta không?” (Giop 40:6-28)
Thay vì đối đầu với Gióp
lần nữa bằng khả năng rộng lớn về sự sáng tạo của Ngài, giờ này Đức Chúa Trời
chỉ chọn ra hai tạo vật và bảo Gióp xem xét chúng. Điều đó như thể Đức Chúa
Trời đang nói: “Nếu để ngươi giải quyết toàn bộ vũ trụ của ta thì thật quá lớn,
quá nhiều cho ngươi. Tuy nhiên ở đây có hai sản phẩm tốt nhất của ta. Ngươi có
thể làm gì với chúng?”
Vấn đề giờ đây không phải là quyền năng
của Đức Chúa Trời nhưng là sự công bình
của Đức Chúa Trời (40:8). Gióp đã nói rằng
Đức Chúa Trời bất công trong cách Ngài đối xử với ông (Giop
6:29-31 24:1-17). Trong Giop 40:9-14 Đức Chúa Trời hỏi: “Gióp, ngươi có
sức mạnh và cơn thạnh nộ thánh khiết cần có để xét đoán tội nhân không? Nếu
vậy, thì hãy bắt đầu xét đoán chúng! Hãy hạ xuống những tội nhân kiêu ngạo và
chà nát kẻ ác! Hãy chôn chúng! Ngươi tuyên bố rằng ngươi có thể làm một việc
tốt hơn ta có thể làm về việc đem sự công bình đến cho thế gian, vậy ta sẽ để
ngươi làm điều đó!”
Tuy nhiên, trước khi Đức
Chúa Trời thả lỏng Gióp trên những tội nhân của thế gian, Ngài bảo ông mặc vào
những chiếc áo choàng uy nghi của mình và “thực hành” trên hai tạo vật tốt nhất
của Ngài, là con hà mã (c.15-24) và con cá sấu (41:1-34). Nếu Gióp thành
công trong việc chinh phục chúng, vậy ông sẽ đủ tư cách để thi hành sự phán xét
chống lại thế giới tội lỗi.
Con hà mã (Giop 40:15-24): Đa số các sinh
viên đồng ý rằng con vật được mô tả là con hà mã, dù một số người thích cho đó
là con voi hay con trâu nước hơn. Từ “con vật kếch sù”
là một cách viết khác theo tiếng Hê-bơ-rơ nghĩa là “con thú siêu hạng.” Người
chơi trò đi săn thú lớn ngày nay với những vũ khí hiện đại của mình có thể sẽ
không bị cản trở bởi kích thước hay sức mạnh của con hà mã, nhưng con thú này
đã là một kẻ thù kinh khủng trong thời cung tên và giáo mác.
Đức Chúa Trời nhắc Gióp
rằng Ngài là Đấng Tạo Hóa của con hà mã và cả con người (c.15), nhưng Ngài đã
dựng nên mỗi loài cách khác nhau Con hà mã ăn cỏ nên mạnh mẽ và vĩ đại; Gióp ăn
các loại thức ăn khác nhau nên yếu đuối và không thể chiến đấu với con hà mã.
Con hà mã có một thân thể mạnh mẽ, với những bắp thịt chắc khỏe và những chiếc
xương như những móc sắt, trong khi thân thể con người (nói cách so sánh) yếu
đuối và dễ bị tổn hại. Con hà mã đi dạo trên sông, ẩn dưới nước và sống bằng
những thực vật nằm dọc các ngọn đồi, trong khi con người phải lao động để kiếm
đồ ăn hàng ngày của mình. Một con sông nổi sóng không làm con hà mã sợ hãi, và
những người đi săn không làm nó náo động. Trong thời của Gióp, không thể bắt
được con hà mã, nhưng dễ dàng biết bao để bắt một người!
Chúa hỏi Gióp: “Nào,
Gióp, ngươi có thể bắt và chinh phục sinh vật to lớn này không? Nếu vậy, thì ta
sẽ tin rằng ngươi có quyền năng và sự khôn ngoan để xét đoán thế gian cách công
bình.”
Con cá sấu (Giop 41:1-34): Từ “thủy quái” là cách viết khác
theo tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “len lỏi, quằn quại”. Người ta đã sử dụng từ
này để mô tả những “quái vật biển” được cho rằng sống ở vùng Địa Trung Hải. Thi 104:25-26 có thể đề cập đến con cá voi hoặc cá
heo. Người Do Thái đã sử dụng từ này để mô tả kẻ thù của họ (Es 27:1), đặc biệt là Ê-díp-tô (Thi 74:13-14). Trong Kh
12:9 đề cập đến Sa-tan như là “con rắn xưa.” Trong khoa thần thoại, thủy
quái là một quái vật có nhiều đầu cai trị sông nước và không sợ ai.
Chúa hỏi: “Ngươi có thể bắt được
thủy quái không? Và nếu ngươi có thể, ngươi sẽ làm gì với nó?” (Giop 41:1-11). Nào, bạn có thể làm gì với con cá
sấu bị bắt? Bạn không thể thuần hoá nó thành một con vật yêu quý, cho dù nó
dường như sẵn sàng tán thành (c.6). Nếu bạn tìm cách huấn luyện nó, bạn sẽ
nhanh chóng bỏ cuộc và không bao giờ làm lại lần nữa!
(c.8-9). Đức Chúa Trời rút ra một kết luận thực tiễn: “Nếu ngươi không thể đến
nắm chặt con cá sấu, làm sao ngươi sẽ có thể đứng trước mặt ta?” (c.10-11).
Trong các câu 12-24, Đức
Chúa Trời đưa ra sự mô tả đầy thi vị về tay chân mạnh mẽ của sinh vật to lớn
này, những chiếc răng hung dữ và những cái hàm mạnh mẽ, lớp phủ ngoài vững chãi
(câu 12-17). Khi cá sấu khuấy tung sông nước và thổi nước, mặt trời phản chiếu
từ hơi nước, nó giống như lửa với khói từ miệng của một con rồng (c.18-21). Áo
giáp của nó cứng chắc đến nỗi nó có thể đi bất cứ nơi đâu mà không sợ hãi
(c.22-24).
Chương này kết thúc bằng
một mô tả về sự giận dữ và can đảm của loài thủy quái (c.25-34). Người ta chạy
trốn nó trong sợ hãi (c.25), nhưng nó không chạy trốn con người. Trong câu
26-29, Đức Chúa Trời kể ra 8 vũ khí khác nhau mà thủy quái cười nhạo và xem như
những mảnh rơm rạ hay củi mục. Tương tự sinh vật này chẳng sợ gì quanh nó, thì nó cũng chẳng sợ gì bên dưới nó cả, vì phía dưới của nó được bảo
vệ bằng một lớp bao phủ như những mảnh gốm nhọn (c.30). Nó không sợ kẻ thù nào trên đất hay dưới nước (c.31-32), vì nó làm
nước sủi bọt như những thành phần trong bình pha chế thuốc. Và khi nó bơi qua
biển, làn sóng giống như tóc bạc của một người già!
Giop 41:1-25; xem giải nghĩa Giop 38:1-40:28
5. Lời đáp thứ hai của Gióp (Giop 42:1-17)
Gióp biết ông đã bị đánh
bại, ông không còn cách nào để có thể cãi lẽ vụ kiện mình với Đức Chúa Trời.
Trích dẫn Lời Đức Chúa Trời (Giop
42:3-4), cho thấy Gióp hạ mình trước Chúa và nhận biết quyền năng cùng
sự công bình của Ngài trong việc thi hành những kế
hoạch của Ngài (c.2). Kế đến, Gióp thừa nhận rằng những lời của ông là sai, và
ông đã nói những điều mình không hiểu (c.3). Gióp rút lại những lời tố cáo của
ông rằng Đức Chúa Trời bất công và không đối xử với ông công bằng. Ông nhận ra
rằng bất cứ điều gì Đức Chúa Trời làm đều đúng cả và con người phải chấp nhận
bằng đức tin.
Gióp nói với Đức Chúa
Trời “Tôi không thể trả lời những câu hỏi của Ngài! Tất cả những gì tôi có thể
làm là xưng nhận sự kiêu ngạo của tôi, hạ mình và ăn năn.” Trước đó, sự hiểu
biết của Gióp về Đức Chúa Trời chỉ gián tiếp và rất bâng quơ hời hợt, nhưng
điều đó đã thay đổi. Giờ đây, Gióp đã gặp Đức Chúa Trời cách cá nhân và thấy
mình chỉ là “bụi và tro” mà thôi (c.6 2:8,12 Sa 18:27).
Charles Spurgeon đã nói: “Cách cửa ăn năn mở ra dẫn vào đại sảnh của sự vui
mừng”; và điều đó thật đúng đối với Gióp. Ở đỉnh điểm của sách, tội nhân Gióp trở thành Gióp tôi tớ của Đức Chúa Trời (Giop 42:7-9).
Bốn lần trong những câu này Đức Chúa Trời đã gọi Gióp bằng danh hiệu “tôi tớ
Ta” là danh hiệu đặc biệt của thời Cựu Ước, (1:8
2:3). Gióp đã hầu việc Đức Chúa Trời ra sao?
Bằng cách chịu đựng hoạn nạn mà không rủa sả Đức Chúa Trời và bởi đó làm cho ma
quỉ câm họng! Hoạn nạn trong ý muốn Đức Chúa Trời là một chức vụ mà Đức Chúa
Trời ban cho một số người được chọn.
Nhưng tôi tớ Gióp cũng đã trở thành
Gióp người cầu thay. Đức Chúa Trời nổi giận với ba bạn của Gióp vì họ đã
không nói sự thật về ông (42:7) và họ phải
được làm hòa với Gióp để ông có thể cầu thay cho họ. Gióp đã trở thành người phân xử giữa Đức Chúa Trời và ba bạn của ông!
Bằng cách tha thứ cho các bạn mình và cầu thay cho họ, Gióp đã đem lại phước
hạnh cho chính đời sống mình (c.10). Chúng ta chỉ làm chính mình tổn thương khi
chúng ta chối từ tha thứ cho người khác.
Gióp kết thúc với kết
quả phước hạnh gấp đôi so với trước khi ông gặp thử thách. Ông đã có đến 20
người con, 10 người ở cùng Đức Chúa Trời và 10 người đang ở với ông. (Ông và vợ
mình cũng đã hòa thuận với nhau). Những người bạn và bà con đem tiền bạc đến
cho ông, tạo thành một “ngân quỹ phục hồi” mà Gióp chắc đã sử dụng cho việc mua
những người chăn súc vật. Và cuối cùng, Gióp đã có số súc vật nhiều gấp đôi
trước dó. Một lần nữa ông lại trở thành người giàu
có, nếu công thức “gấp hai” cũng áp dụng cho tuổi tác của ông, thì ông phải 70
tuổi khi chuyện bắt đầu (Thi 90:10) và Đức
Chúa Trời đã cho Gióp sống nhiều năm, đến gấp hai lần như thế (Giop 42:16).
Ở phương Đông, cha mẹ
đặc biệt tự hào về những đứa con gái xinh đẹp và Gióp đã có ba con gái trong số
đó: Giê-mi-ma (“chim bồ câu”), Kê-xia (“hương thơm”) và Kê-ren Ha-búc (“hộp
phấn diệp”). Giê-mi-ma có sự yên lặng, Kê-xia có hương thơm, và Kê-ren Ha-búc
có mỹ phẩm!
Được qua đời khi “tuổi
cao tác lớn” là đích đến của mọi người. Nó có nghĩa hơn một đời sống trường
thọ. Tức là một đời sống giàu có và đầy đủ lại có
kết thúc tốt đẹp. Áp-ra-ham và Y-sác đã qua đời theo cách như vậy (Sa 25:8 35:9)
và Vua Đa-vít cũng thế (ISu 29:28).
ĐOẠN KẾT
Chúng ta không cần phải
giải nghĩa sai phân đoạn cuối cùng của sách Gióp và kết luận rằng mọi hoạn nạn
sẽ kết thúc với mọi vấn đề được giải quyết, mọi cảm xúc cứng cỏi được tha thứ
và mọi người sẽ “sống hạnh phúc mãi mãi sau đó” không phải lúc nào cũng xảy ra y như vậy! Phân đoạn Kinh Thánh này bảo đảm với chúng ta
rằng, cho dù điều gì xảy ra với chúng ta, thì
chính Đức Chúa Trời vẫn là Đấng luôn luôn viết chương cuối cùng. Vì
vậy, chúng ta không phải sợ hãi. Chúng ta có thể tin cậy Đức Chúa Trời làm điều
đúng đắn, cho dù hoàn cảnh chúng ta có thể thê thảm, đau đớn ra sao.
Nhưng phước hạnh lớn nhất của Gióp
không phải là việc lấy lại sức khỏe và sự giàu có của ông hay việc gây dựng lại
gia đình và nhóm bạn hữu của ông. Phước hạnh lớn nhất của ông là được nhận biết về Đức Chúa Trời rõ ràng hơn và hiểu được
hành động của Ngài cách sâu sắc. Như Gia-cơ đã viết: “Anh em đã nghe
về sự kiên nhẫn của Gióp và thấy mục đích của Chúa, rằng Chúa rất thương xót và
nhân từ” (Gia 5:11 NKJV). Và He 12:11 nhắc nhở chúng ta: “Giờ đây, không có sự
sửa phạt nào dường như vui mừng đối với hiện tại, nhưng đầy buồn bã, tuy nhiên,
về sau nó sinh ra bông trái bình an của sự công bình cho những kẻ đã chịu luyện
tập bởi nó” (NKJV).
G. Campbell Morgan đã viết: “Trong
toàn bộ câu chuyện về Gióp, chúng ta thấy được sự kiên nhẫn của Đức Chúa Trời
và sự chịu đựng của con người. Khi những điều này diễn ra trong mối liên hệ với
nhau thì chắc chắn sẽ dẫn đến kết quả như trên. Đó là sự ra khỏi lửa như vàng ròng,
là việc tiếp nhận mão triều thiên của sự sống” (The
Answer of Jesus to Gob, Baker, trang 117).
Dù Đức Chúa Trời cho phép xảy ra bất
cứ điều gì trong đời sống chúng ta đi chăng nữa, thì Ngài vẫn luôn luôn có “cú hậu” của Ngài. Ngài sẽ viết chương
cuối cùng và điều đó khiến nó trở thành vô giá!
Vì vậy, HÃY KIÊN NHẪN!



April 10, 2016 at 5:39 AM