MỤC LỤC
01. CHIA TAY
02. ÂN ĐIỂN LẠ LÙNG
03. BA NGƯỜI - BA PHÉP LẠ
04. TRẬN CHIẾN THUỘC VỀ
ĐỨC-GIÊ-HÔ-VA
05. GẶT LẤY HẬU QUẢ TỘI LỖI
06. THANH GƯƠM VÀ VƯƠNG MIỆN
07. NHẤN MẠNH VÀO ĐỨC TIN
08. CHÍN VỊ VUA - NĂM CUỘC MƯU SÁT
09. CÂU CHUYỆN VỀ VƯƠNG QUỐC
10. LẬP VUA - PHẦN I
11. LẬP VUA - PHẦN II
12. SẮP ĐẾN CHUNG KẾT
13. ĐẾN NGÀY CHUNG KẾT
1. CHIA TAY (IIVua 1:1-2:24)
Ê-li-sê (có nghĩa “ Đức
Chúa Trời là sự cứu rỗi”) là đầy tớ và là học trò của Ê-li trong 10 năm, nhưng
giờ đã đến lúc Đức Giê-hô-va gọi Ê-li, đầy tớ can đảm của Ngài về với Ngài.
Chúng ta thường nghĩ rằng họ là những người có tâm tính khác nhau, Ê-li là “con
trai” của sấm sét” và Ê-li-sê là người chữa lành dịu dàng. Điều nầy không có
nghĩa là Ê-li không bao giờ nhẹ nhàng hòa nhã hay Ê-li-sê không bao giờ nghiêm
khắc, vì Kinh Thánh cho thấy điều ngược lại. Nhưng nói chung, Ê-li đến như
Giăng Báp-tít, đặt cái búa kề rễ cây, trong khi
Ê-li-sê tiếp bước với chức vụ khá giống với chức vụ của Chúa Giê-xu (Mat 3:1-12 11:16-19).
Trong những sự kiện cuối cùng trong mối quan hệ thuộc linh nầy, chúng ta nhận
thấy 4 lẽ thật quan trọng được mặc khải về Đức Chúa
Trời của Y-sơ-ra-ên.
1. Đức Chúa Trời đoán
xét tội lỗi (IIVua 1:1-18)
Sau khi vua gian ác A-háp băng hà,
dân Mô-áp lợi dụng A-cha-xia, con trai và là người kế vị A-háp vi phạm hiệp ước
của một nước chư hầu ràng buộc họ với Y-sơ-ra-ên (c.1 IIVua
3:4-5). Nhiều năm trước, Đa-vít đã đánh thắng dân Mô-áp (IISa 8:2) và Giô-ram người kế vị của A-cha-xia sẽ
kết hợp với Giô-sa-phát, vua Giu-đa, để đánh lại dân Mô-áp (IIVua 3:6). Nhưng Đức Giê-hô-va là Chúa của tất cả
dân trên đất (Cong 17:24-28 Da 5:19,21 7:27) bản án
của Ngài xác định A-cha-xia là người gian ác (IVua
22:10,51-53),
nhưng khi Đức Giê-hô-va không cho phép cai trị thì chính Ngài sẽ cai trị (Thi 33:10-11).
Thờ thần tượng (IIVua 1:2-4). Một thập niên trước khi A-cha-xia gặp tại
nạn, Ê-li đã đại thắng trước thần Ba-anh (IVua 18:1-46), nhưng A-háp và Giê-sa-bên không
nhận ra lỗi lầm họ đã không thay đổi, cả gia đình của họ cũng như vậy (IVua 22:51-53). Khi A-cha-xia bị thương nặng do
ngã từ cửa sổ, ông lại quay sang nhờ cậy thần Ba-anh mà không nhờ cậy Giê-hô-va
Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. “Ba-anh” có nghĩa đơn giản là “chúa” và
“Ba-anh-Xê-bụt” có nghĩa là “chúa của loài sâu bọ”, một trong những danh mà các
kẻ thù của Chúa Giê-xu đã dùng để sỉ nhục Ngài (Mat
10:25).
Tại sao vua quyết định sai các sứ
giả đi 40 dặm đến Éc-rôn để cầu vấn thần Ba-anh? Thật sự Ê-li đã giết chết 450
tiên tri của Ba-anh (IVua 18:19,22,40), nhưng đó là
chuyện của 10 năm về trước. Chắc chắn những tiên tri khác của Ba-anh vẫn còn
hoạt động trong xứ. Ba mẹ của vua đã đãi ăn hàng trăm tiên tri nầy (18:19), và không khó cho vua A-cha-xia khi muốn
nhờ các tiên tri Ba-anh sang giúp đỡ. Có lẽ ông sai người đến Éc-rôn vì ông không muốn dân sự ở Sa-ma-ri biết tình trạng của ông
nghiêm trọng như thế nào. Đền thờ thần Ba-anh tại Éc-rôn rất nổi tiếng vì
Ba-anh là thần chính của của thành đó, và người ta không bất ngờ khi vua sai
người đến đó xin giúp đỡ. Lưu ý A-cha-xia xin các tiên tri của thần Ba-anh đoán
bệnh, không phải chữa bệnh.
Đức Chúa Trời luôn báo cho các đầy
tớ Ngài những điều mà người khác không biết gì (Gi
15:15 Am 3:7). “Thiên sứ của Đức
Giê-hô-va” nầy rất có thể là chính Đức Chúa Giê-xu của chúng ta một trong những
cách hiển hiện của Ngài trước khi Ngài giáng thế (Sa
16:7 18:1-33 21:17
22:11 48:16).
Khi các đầy tớ của Đức Chúa Trời đồng đi với Chúa, họ có thể tin nơi sự dẫn dắt
của Ngài khi họ cần. Đây chắc chắn là kinh nghiệm của Ê-li (c.15 IVua 17:3 18:1 21:18). Ê-li ngăn chặn những sứ giả của vua và
truyền cho họ một sứ điệp nhằm khiển trách và cảnh tỉnh vua. Tại sao ông ta
muốn nhờ thần hay chết ở Éc-rôn trong khi Đức Chúa Trời hằng sống của
Y-sơ-ra-ên đang sẳn sàng cho ông ta biết điều gì đang xảy ra? Ông ta chắc sẽ chết!
Tin xấu nầy được lập lại 3 lần: hai lần bởi Ê-li (c.4,16) và một lần bởi các sứ
giả (c.6). Thay vì là phát ngôn viên cho thần Ba-anh,
các sứ giả trở thành người rao truyền Lời Đức Chúa Trời cho vua.
Kiêu ngạo (IIVua 1:5-12). Chắc chắn các
sứ giả của vua không biết Ê-li là ai và không nhận ra ông cho đến khi họ trở về
cung điện! Ê-li là kẻ thù của A-háp (IVua 21:20)
và A-cha-xia là con trai của A-háp. Nên chắc chắn A-cha-xia đã nói điều gì đó
với các cận thần của mình về tiên tri nầy. Sự mô tả của các sứ giả về Ê-li nhắc
chúng ta nhớ đến Giăng Báp-tít, là người hầu việc trong “tâm thần quyền phép
Ê-li” (Lu 1:17 Mat
3:4). Giống như Giăng Báp-tít, Ê-li mặc áo lông lạc đà, là loại áo dành
cho người nghèo không như áo dài sang trọng của vua (11:7-10).
Lời thông báo rằng vua sẽ chết lẽ ra
làm A-cha-xia ăn năn tội lỗi mình và tìm kiếm Đức Giê-hô-va, nhưng không, ông
ta cố tìm cách hãm hại Ê-li. (Điều nầy nhắc chúng ta về sự kiện vua Hê-rốt tìm
cách bắt Giăng Báp-tít 14:1-12). A-cha-xia
biết rằng Ê-li là một kẻ thù đáng ghét nhất, nên ông ta sai một quan cai và 50
binh lính đến đưa Ê-li vào cung; nhưng ông đã đánh giá thấp quyền phép của tiên
tri Ê-li. Có phải A-cha-xia nghĩ rằng ông ta có thể giết chết tiên tri nầy và
như vậy làm vô hiệu lời tiên tri ấy? (Lời Chúa trong câu 15 gợi ý rằng vua đang
nghĩ đến chuyện giết chết Ê-li). Hay là vua đang hy vọng có thể khiến Ê-li thay
đổi được lời tiên tri ấy. Nhưng Ê-li nhận lệnh từ Vua trên muôn vua, không phải
từ vua của thế gian, nhất là vua đang thờ thần tượng và là con trai của những
kẻ giết người. Nhiều năm trước, Ê-li đã chạy trốn trong sợ hải khi nghe lời đe
dọa của Giê-sa-bên (IVua 19:1-21), nhưng lần
nầy ông vẫn đứng yên và đối diện với các binh lính mà không chút lo sợ.
Quan cai chắc chắn không dùng danh
xưng “người của Đức Chúa Trời” như một lời chúc tụng Ê-li hoặc như một lời xưng
nhận đức tin của mình, vì ai cũng biết “người của Đức Chúa Trời” là một từ đồng
nghĩa với từ “tiên tri”. Câu đáp lời của Ê-li có nghĩa là, “Vì ngươi gọi ta là
người của Đức Chúa Trời, hãy để ta chứng minh cho ngươi điều đó. Đức Chúa Trời
của ta sẽ xử ngươi theo như lời của ngươi nói”. Lửa từ trời thiêu đốt tất cả 51
người. Hình phạt nầy được lập lại khi nhóm 50 người thứ hai đến. Lưu ý rằng
quan cai thứ hai đã ra lệnh cho Ê-li “Hãy mau mau xuống,” đừng để vua của ta
chờ đợi nữa! Ký ức về cuộc thách thức trên Núi Cạt-mên chắc đã cảnh báo cho vua
và các binh lính của mình rằng Ê-li có thể gọi lửa từ trời (18:1-46).
Chúng ta không nên giải thích hai
lần Đức Chúa Trời thạnh nộ là bằng chứng cho sự bực tức về phía Ê-li và sự
không công bình về phía Đức Chúa Trời. Xét cho cùng, có phải các binh lính chỉ
đang làm nhiệm vụ của họ và vâng theo lệnh của chủ mình? Hai tình tiết về hình
phạt bằng lửa nầy là những sứ điệp rất ấn tượng từ Đức Giê-hô-va đó là vua và
dân sự phải ăn năn nếu không họ sẽ nếm hình phạt của Đức Chúa Trời. Dân sự đã
quên những bài học về Núi Cạt-mên, và hai hình phạt nầy nhắc họ nhớ rằng Đức
Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là “một đám lửa tiêu cháy” (Phu
4:24 9:3 He
12:29). Vua A-cha-xia là người kiêu ngạo, ông đã hy sinh hai quan cai và
100 người trong nỗ lực vô ích nhằm ngăn chặn cái chết của mình. Những người nầy
vô tội, là nạn nhân của ý thích bất chợt của vua, nhưng là những người có tội
vì đã sẳn sàng nghe theo bất cứ điều gì vua mình ra lệnh. Nếu họ làm theo cách
của quan cai thứ ba, họ cũng sẽ sống. [1]
Không vâng lời (IIVua 1 :13-18). Nhất quyết bắt Ê-li phải vâng theo lệnh của
mình, vua đã sai quan cai thứ ba cùng với toán lính đến gặp Ê-li, nhưng lần nầy
quan cai tỏ ra khôn ngoan và hạ mình. Không như vua và hai quan cai trước, ông
ta đầu phục Đức Giê-hô-va và đầy tớ của Ngài. Lời cầu xin của quan cai thứ ba
cho chính mình và cho lính đi theo mình là bằng chứng cho thấy ông đã nhận biết
quyền phép của Ê-li và ông sẽ không làm tổn hại đến đầy tớ của Đức Chúa Trời.
Lời Chúa trong câu 15 gợi ý rằng nguy hiểm đang nằm trong tay quan cai chứ
không phải trong tay vua. Có lẽ vua đã ra lệnh giết Ê-li trên đường đi đến cung
vua hoặc sau khi ông rời cung vua. Nếu vua phải chết, thì ít nhất ông cũng bắt
Ê-li phải chết theo!
Vua nằm trên giường khi
Ê-li ra mắt ông và lần thứ hai Ê-li nói rằng vua sẽ chết. Đức Giê-hô-va phải
lập lại sứ điệp của Ngài bao nhiêu lần với những tội nhân gian ác? Vua sẽ rời
khỏi thế gian mang theo câu nói “ngươi hẳn sẽ chết” còn văng vẳng bên tai, nhưng ông vẫn không vâng theo Lời Chúa. Một lần nữa
chúng ta được nhắc về thái độ của Hê-rốt đối với Giăng Báp-tít, vì Hê-rốt đã
nghe Giăng Báp-tít nhưng vẫn không ăn năn (Mac 6:20).
Sau hai năm làm vua, A-cha-xia đã băng hà, đúng như lời Ê-li tiên tri, em trai
ông Giô-ram lên kế vị. Lưu ý vua Giu- đa trong thời điểm đó cũng có tên là
Giô-ram (c.17). Để tránh nhầm lẫn, chúng ta sẽ gọi em trai A-cha-xia, vua
Y-sơ-ra-ên là Giô-ram, còn con trai Giô-sa-phát, vua Giu-đa là Giê-hô-ram
(Jehoram).
Trước khi qua phân đoạn khác, chúng
ta cần ghi nhớ rằng thế gian kiêu ngạo và không chịu ăn năn sẽ gánh chịu cơn
thạnh nộ của Đức Chúa Trời một ngày nào đó. Điều nầy sẽ xảy ra “khi Đức Chúa
Jêsus từ trời hiện đến với các thiên sứ của quyền phép Ngài, giữa ngọn lửa
hừng, báo thù những kẻ chẳng hề nhận biết Đức Chúa Trời, và không vâng phục Tin
lành của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta. Họ sẽ bị hình phạt hư mất đời đời, xa
cách mặt Chúa và sự vinh hiển của quyền phép Ngài” (IITe
1:7-9). Đức Chúa Trời “biểu hết thảy các người trong mọi nơi đều phải ăn
năn” (Cong 17:30) điều nầy có nghĩa là những
ai không ăn năn là những người chống nghịch Đức Chúa Trời. Phúc âm không chỉ là
sứ điệp để tin, nó còn là một mạng lệnh để vâng giữ.
2. Đức Chúa Trời muốn chúng ta ghi nhớ (IIVua 2:1-6)
Vua A-cha-xia chết nhưng
Ê-li không chết! Ông được cất lên thiên đàng trong cơn gió lốc, trên những con
ngựa lửa kéo một cổ xe bằng lửa. Giống như Hê-nóc, ông ta
đồng đi với Đức Chúa Trời và rồi thình lình biến mất với Ngài (Sa 5:21-24 He 11:5).
Cả hai người đã minh họa cho hình ảnh các thánh đồ được cất lên khi Chúa Giê-xu
trở lại (ITe 4:13-18). Nhưng trước khi Ê-li
giao việc lại cho Ê-li-sê, người kế nhiệm, hai người cùng đi từ Ginh-ganh đến
bên kia Giô-đanh. Đức Giê-hô-va có ít nhất 3 mục đích khi Ngài dẫn dắt hai đầy
tớ nầy cùng đi với nhau.
Nắm bắt hiện tại. Ê-li-sê biết rằng thầy mình sắp rời xa mình (c.1,3,5), ông muốn ở
bên cạnh thầy cho đến phút cuối cùng, nghe lời thầy khuyên nhũ và học hỏi từ
thầy. Có lẽ Ê-li muốn Ê-li-sê ở lại phía sau và để ông đi một mình, nhưng đây chỉ là thử thách
lòng tận hiến của Ê-li-sê. Khi Ê-li ném chiếc áo choàng trên Ê-li-sê và chọn
người trẻ ấy làm người kế nhiệm cho mình, Ê-li-sê đã hứa, “Tôi sẽ theo ông” (IVua 19:20), ông đã giữ lời hứa đó.
Suốt những năm hai người đi với
nhau, chắc chắn họ dần quí mến và hiểu nhau sâu sắc. “Loài người ở một mình thì
không tốt” (Sa 2:18) áp dụng cho những người
hầu việc Chúa cũng như trong hôn nhân. Môi-se và A-rôn cùng nỗ lực bên nhau,
Đa-vít và Giô-na-than cùng khích lệ nhau, Phao-lô ban đầu có Ba-na-ba đồng
hành, sau đó có Si-la và Lu-ca bạn đồng công thường xuyên với ông. Ngay cả Chúa
chúng ta đã sai môn đồ Ngài đi từng đôi một (Mac
6:7 Tr 4:9-12). Chúng ta không chỉ là
bạn đồng công với Chúa, mà còn với dân sự Ngài, vì vậy không nên tranh cạnh khi
cùng hầu việc cho cùng một Đức Chúa Trời (Gi
4:34-38 ICo 3:1-9).
Chúng ta không bao giờ biết lúc nào
bạn và những người cộng sự sẽ rời bỏ chúng ta. Đức Chúa Trời nói cho Ê-li-sê
biết Ê-li sẽ rời khỏi ông, nhưng chúng ta không biết khi nào chúng ta hay bạn
chúng ta về nước Chúa. Chúng sẽ đánh mất đi những cơ hội quí báu để biết về
nhau về Chúa và Lời Ngài nếu lãng phí thì giờ vào những chuyện vặt. Lòng tôi
thật vui mừng khi tôi tấy những Cơ Đốc Nhân trẻ nhận thức đúng giá trị của
“những thánh đồ lớn tuổi”, những người từng trải trong công việc hầu việc Chúa,
và biết học hỏi từ họ. Một ngày, “những dày dạn” nầy sẽ được gọi về nước Chúa
và chúng ta không còn cơ hội học hỏi từ họ nữa.
Hai người nầy đại diện cho hai thế
hệ khác nhau và có tính cách trái ngược nhau, nhưng họ có thể làm việc chung
với nhau. Thật đáng trách cho những người trong cùng một Hội Thánh lại chia rẽ
nhau vì không cùng ban ngành. Tôi nghe một mục sư trẻ nói rằng anh ta không
muốn Hội Thánh của anh ta có người nào trên 40 tuổi và tôi tự hỏi anh ta sẽ tìm
đâu ra những lời khuyên khôn ngoan thường đến từ những người trưởng thành. Tôi
tạ ơn Chúa vì những “Ê-li” trong cuộc đời tôi, luôn kiên nhẫn với tôi và dành
thời gian hướng dẫn tôi. Giờ đây tôi muốn chia sẻ
những ơn phước đó với người khác.
Chuẩn bị cho tương
lai. Tại Bê-tên,
Giê-ri-cô, và Ginh-ganh, hai người đã viếng thăm “các môn đồ của những tiên
tri” (c.5,7,15 IIVua 4:1,38-40 6:1,7 9:1 IVua 20:35), những bạn bè của những người tận tụy
được Đức Chúa Trời kêu gọi trong chức vụ nghiên cứu Kinh Thánh và dạy dỗ cho
dân sự. Sa-mu-ên đã lập một trong những “trường” nầy tại Ra-ma (ISa 7:17 28:3 10:5,10 19:20-23).
Những người nầy sẽ giống như những nhóm người cố vấn trong Hội Thánh chúng ta,
hoặc như những trường Kinh Thánh ngày nay. Công việc của Đức Chúa Trời luôn là
công việc được truyền từ thế hệ nầy cho thế hệ khác và chúng ta phải trung tín
vâng theo IITi 2:2 “Những điều con đã nghe
nơi ta ở trước mặt nhiều người chứng, hãy giao phó cho mấy người trung thành,
cũng có tài dạy dỗ kẻ khác”.
Những tiên trẻ tuổi biết rằng thầy
của họ sắp rời khỏi họ, nên những lần gặp mặt cuối cùng nầy gây nhiều xúc động.
Chúng ta có những “lời từ biệt” trong Kinh Thánh như của Môi-se (sách Phục
truyền), Giô-suê (Gios 23:1-24:33), Đa-vít (ISu 28:1-29:11), Chúa Giê-xu (Gi 13:1-16:33) và Phao-lô (Cong 20:17-38 IITimôthê), nhưng Kinh Thánh không cho chúng ta
biết Ê-li nói gì với những học trò yêu dấu của mình. Chắc chắn ông bảo họ phải
nghe lời Ê-li-sê giống như đã vâng theo lời ông, để giữ lòng trung thành với
Lời Đức Chúa Trời và làm mọi việc mà Ngài phán dặn khi họ tranh chiến với các
thần tượng trong xứ. Trách nhiệm của họ là phải kêu gọi dân sự quay về vâng
phục giao ước của Đức Chúa Trời (Phu 27:1-30:20)
để Ngài được đẹp lòng mà ban ơn và hàn gắn đất nước.
Trong suốt những năm tôi được đặc ân
hướng dẫn cho sinh viên trường Kinh Thánh, tôi thường nghe một vài em sinh viên
nói rằng, “Tại sao chúng ta đi học trường Kinh Thánh? Charles Spurgeon có học
đâu và cả Campell Morgan hay D.L. Moody cũng vậy!”. Tôi luôn trả lời, “Nếu có
em nào trong số các em là những Spurgeon, Morgan hay Moody, chúng tôi chắc chắn
sẽ phát hiện ra và cho phép em đó thôi học. Nhưng tôi xin nhắc các em rằng cả
Spurgeon và Moody đều đã lập trường Kinh Thánh, Campbell Morgan từng là hiệu
trưởng của một trường Kinh Thánh và đi dạy nhiều nơi. Cho nên hãy lo chăm chỉ
học đi”
Đức Chúa Trời có những cách khác
nhau để đào tạo các đầy tớ của Ngài, nhưng Ngài vẫn
mong chờ thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những lẽ thật quí báu mà
họ nhận được từ những người đi trước, “đạo đã truyền cho các thánh một lần đủ
rồi” (Giu 1:3)
Nhìn lại quá khứ. Ginh-ganh, Bê-tên,
Giê-ri-cô, và sông Giô-đanh là những nơi quan trọng trong lịch sử Do thái, mỗi
nơi mang theo mình một sứ điệp có ý nghĩa. Trước khi được cất lên trời. Ê-li
muốn thăm tất cả nơi đó lần cuối và dẫn Ê-li-sê đi theo. Đức Chúa Trời đời đời
của chúng ta không ngự những nơi đặc biệt nào đó, nhưng chúng ta, là những tạo
vật của thời gian và lịch sử, cần những điều
mắt thấy được để giúp ghi nhớ và hiểu hơn về những việc Đức Chúa Trời đã làm
cho dân sự Ngài. Quá khứ không phải là cái neo để giữ chúng ta lại nhưng là
bánh lái để dẫn dắt chúng ta, và Đức Chúa Trời có thể dùng “những ký ức xác
thực” nầy đề củng cố đức tin của chúng ta. Một thi sĩ người Anh, W. H. Auden đã
viết, “Con người là một tạo vật làm nên lịch sử; con người không thể lập lại
quá khứ cũng không lãng quên nó”. Chúng ta cần phải nhớ rằng Đức Chúa Trời đã
hành động trong quá khứ và truyền lại điều quí báu nầy cho con cái và cháu chắt
chúng ta (Thi 48:9 71:17-18
78:1-8,14 5:4). Đó là
một trong chủ đề chính trong lời trăn trối của Môi-se dành cho thế hệ mới sắp
bước vào Đất Hứa (Phu 4:9-10 6:4-9 11:19-21 29:29). Từ ”nhớ” được tìm thấy 14 lần trong sách
Phục truyền và từ “quên” được thấy ít nhất 9 lần.
Ginh-ganh (c.1) là nơi đầu tiên mà
dân Y-sơ-ra-ên đã đóng trại sau khi họ vượt qua sông Giô-đanh và bước vào Đất
Hứa (Gios 4:19-20). Chính tại đó những người
nam Do thái của thế hệ mới đã giữ phép cắt bì và chính thức trở thành “con của
giao ước” (5:2-9). Ginh-ganh là nơi của
những khởi đầu mới và Ê-li muốn người kế nhiệm ông phải ghi nhớ điều đó. Mỗi
thế hệ mới là một cơ hội cho Đức Chúa Trời dấy lên những người lãnh đạo mới,
mỗi lần dân sự Ngài ăn năn và trở lại với Ngài, Ngài có thể phục hồi và làm mới
họ. Trong thời gian đó, Ginh-ganh là trung tâm thờ lạy thần tượng (Os 4:15 9:15 12:11 Am 4:4 5:5), nhưng Ê-li không từ bỏ nó.
Từ Ginh-ganh hai người đi đến Bê-tên
(c.2-3), khoảng 15 dặm về phía tây Ginh-ganh. Áp-ra-ham và cả Gia-cốp đã thờ
phượng ở đó (Sa 12:8 13:3). Chính tại Bê-tên, Gia-cốp đã thấy thiên sứ lên xuống
trên một cái thang bắt từ đất đến trời. Ông còn nghe tiếng Chúa hứa sẽ ở cùng
ông và gìn giữ ông (28:11-19). Bê-tên có
nghĩa là “nhà của Đức Chúa Trời”, ở đó Gia-cốp thờ phượng Đức Chúa Trời và hứa
nguyện sẽ vâng phục Ngài. Nhiều năm sau, Gia-cốp trở lại Bê-tên, giống như
Áp-ra-ham (13:3) có sự bắt đầu mới trong sự
bước đi với Chúa (35:1-29). Vua Giê-rô-bô-am
đã dựng con bò vàng tại Bê-tên và khiến nó trở thành nơi thờ thần tượng (IVua 12:26-32 Am 3:14
4:4-6), nhưng Ê-li nhìn xa hơn tình trạng
thờ thần tượng hiện tại của nó để thấy lúc nó là một nơi phước hạnh và được
phục hồi.
Tại Bê-tên, các học trò nói với
Ê-li-sê về sự ra đi của thầy mình. Có lẽ họ nghĩ rằng mình biết một điều mà
chưa ai biết, một thái độ khá đặc biệt ở một số sinh viên. Cảnh tượng nầy lập
lại khi Ê-li và Ê-li-sê đến Giê-ri-cô (c.5). Trong cả hai thành nầy, Ê-li-sê
khéo léo cho các học viên tin rằng ông đã biết chuyện gì sắp xảy ra, nhưng việc
họ bàn tán chỉ làm buồn thêm cho cảnh chia tay. Cách tiếp cận của họ với việc
Đức Chúa Trời đang làm chỉ đơn thuần xuất phát từ tâm trí, nhưng đối với
Ê-li-sê, việc thầy mình ra đi gây cho ông sự buồn khổ trong lòng. Dấu hiệu của một
học viên chân chính của trường Kinh Thánh là có tấm lòng nóng cháy, không phải
một cái đầu hiểu biết nhiều (Lu 24:32 ICo 8:1).
Hai người đi về phía tây 15 dặm đến
Giê-ri-cô, chiến thắng đầu tiên của Giô-suê ở Đất Hứa diễn ra ở đây (Gios 5:13-6:17). Đây cũng là nơi A-can không vâng
lời và lấy đi những chiến lợi phẩm lẽ ra thuộc về một mình Đức Chúa Trời, tội
lỗi nầy làm Y-sơ-ra-ên thất bại ở A-hi (7:1-26).
Chắc chắn chiến thắng diệu kỳ tại Giê-ri-cô giúp cho Y-sơ-ra-ên biết được cách
thu phục xứ đó: nhận lệnh Đức Chúa Trời, vâng phục chúng bởi đức tin dù chúng
có vẻ ngu dại như thế nào; dâng mọi sự vinh quang cho một mình Đức Chúa Trời.
Hai lần Giô-suê không vâng theo cách thức nầy và ông đã kinh nghiệm sự thất bại
(7:1-26 9:1-27).
Giô-suê đã rủa sả những ai xây lại thành Giê-ri-cô (6:26),
nhưng trong thời trị vì của vua gian ác A-háp, thành ấy được xây lại (IVua 16:24). Giê-ri-cô sẽ nhắc Ê-li-sê nhớ đến
chiến thắng bởi đức tin, bi kịch của tội lỗi và sự oai nghiêm của Đức
Giê-hô-va, là Đấng đáng được mọi sự vinh hiển.
Ê-li và Ê-li-sê đi 5 dặm về phía
đông đến sông Giô-đanh, chắc chắn họ đang nhớ lại và bàn luận về khúc Kinh
Thánh Gios 1:1-4:24. Đức Giê-hô-va phân rẽ
Biển Đỏ để dân sự Ngài thoát ra khỏi Ê-díp-tô (Xu
12:1-15:27), và sau đó Ngài lại phân rẽ sông Giô-đanh để họ bước vào
vùng đất của họ. Tự do có ích gì khi bạn không nhận được cơ nghiệp của mình?
Khi dân sự bước theo sau hòm giao ước, Đức Giê-hô-va phân rẽ lòng sông và dân sự bước qua như đi trên đất khô! Để ghi nhớ phép lạ nầy,
Giô-suê xây một bia kỷ niệm ở giữa sông và một bia ở trên bờ. Không có gì quá
khó đối với Đức Chúa Trời, vì với Ngài, mọi chuyện điều có thể! Và Ê-li đã lập lại phép
lạ lớn đó!
Đây là lúc tốt nhất để điểm lại
những nét tương đồng giữa Môi-se và Ê-li. Cả hai đều phân rẽ nước, Môi-se với
Biển Đỏ (14:16,21,26) và Ê-li với sông Giô-đanh. Cả hai đều gọi lửa
từ trời (9:24 Le
9:24 Dan 11:1 16:35), cả hai đều thấy Đức Chúa Trời ban đồ ăn, Môi-se với
ma-na (Xu 16:1-36) và chim cút (Dan 11:1-35), còn Ê-li với dầu, bột cho người đàn bà
góa và cả đồ ăn cho riêng ông (IVua 17:1-6).
Trong xứ Ê-díp-tô, Môi-se cầu nguyện và Đức Chúa Trời khiến thời tiết thay đổi,
Ê-li cầu nguyện thì Đức Chúa Trời làm dừng cơn mưa và sau ba năm Ngài ban mưa
lại. Môi-se truyền dạy luật pháp cho dân Y-sơ-ra-ên và Ê-li đã kêu gọi họ ăn
năn trở về với Đức Chúa Trời hằng sống. Cả hai đều có liên quan đến núi
(Si-na-i và Cạt-mên) và cả hai đều có những hành trình đi qua đồng vắng. Cả hai
người đều có một kết cuộc thật đặc biệt: Đức Chúa Trời đã chôn Môi-se trong một
hang đá mà không ai có thể tìm thấy và Đức Chúa Trời mang Ê-li về trời bằng cơn
gió lốc. Cả Môi-se và Ê-li đều có mặt với Chúa Giê-xu trên Núi Hóa Hình (Mat 17:4 Mac 9:5
Lu 9:33). Ê-li là một tấm gương sáng cho các
tín hữu noi theo khi đến lúc phải rời xa thế giới nầy, hoặc là bởi cái chết
hoặc trong sự hoan hỉ của Hội Thánh. Ông không ngồi chờ và không làm gì, nhưng
ông đã đi viếng thăm ba trường tiên tri và chắc chắn đã dạy dỗ các sinh viên .
Ông không nói với người kế nhiệm mình rằng, “Ta sẽ bỏ ngươi lại” và nhấn mạnh
vào tính tiêu cực của nó, nhưng nói , “Ta sẽ đến Bê-tên – đến Giê-ri-cô – đến
Giô-đanh” và tiếp tục bận rộn cho đến lúc Đức Chúa Trời gọi ông về. Hơn nữa,
ông đã không hỏi người kế nhiệm mình cho ông điều gì, vì chúng ta không thể
mang gì từ đất về thiên đàng (ITi 6:7),
nhưng thay vì vậy ông muốn cho Ê-li-sê một đặc ân trước khi ra đi [2]
Một trong những đặc ân
lớn nhất mà chúng ta có thể để lại là một đầy tớ được chuẩn bị của Đức Chúa
Trời để sẳn sàng thay thế vị trí của chúng ta.
3. Đức Chúa Trời ban
thưởng cho người hầu việc Ngài (IIVua 2:7-12)
Khi Ê-li và Ê-li-sê đứng
gần mé sông Giô-đanh, 50 môn đồ của các tiên tri đứng cách xa đó quan sát hai
người. Họ biết rằng Ê-li sẽ ra đi trong hôm đó (c.3,5), nhưng họ không biết ông
đi như thế nào hoặc lúc nào Đức Chúa Trời sẽ gọi ông. Chắc chắn chỉ một mình
Ê-li-sê thật sự nhìn thấy cảnh Ê-li được cất lên trời (c.10), và sau khi tiên
tri ấy biến mất, 50 học viên nầy nghĩ rằng ông ta không thật sự lìa xa họ
(c.16-18). Họ đã chứng kiến Ê-li rẻ nước sông Giô-đanh và lấp nước lại, họ thấy
Ê-li làm phép lạ ấy nhiều lần, nhưng họ không thấy được điều mà Ê-li-sê thấy
khi cơn gió lốc đưa Ê-li lê trời. 50 người đó là những khán giả chỉ xem được
một phần, nhưng Ê-li-sê là người dự phần vào phép lạ đó và là người kế nhiệm
chức vụ của Ê-li.
Ê-li không cho người kế
nhiệm mình ba điều ước; ông chỉ yêu cầu người kế nhiệm nói ra điều gì mình ao ước nhất. Mọi lãnh đạo đều có những quyền ưu tiên
của mình, và Ê-li-sê có sẳn câu trả lời: ông ta muốn được thần của thầy ông cảm
động ông bội phần. Lời nầy không có ý xin Đức Thánh Linh trong ông nhiều hơn
bội phần, hay xin cho chức vụ của ông được lớn gấp hai lần chức vụ của Ê-li,
nhưng cho ông được Thánh linh thúc đẩy nhiều hơn. Lời cầu xin nầy dựa vào Phu 21:17, luật thừa kế của con trai đầu lòng. Dù
có nhiều “môn đồ của các tiên tri”, Ê-li-sê vẫn xem mình là “con trai đầu lòng”
của Ê-li, là người đáng được nhận phần gấp đôi như Môi-se đã qui định. Như một
con trai đầu lòng phục vụ cha mình, Ê-li-sê đã đồng đi với Ê-li và quan tâm đến
nhu cầu của Ê-li (IIVua 3:11 19:21), nhưng phần thừa kế mà ông muốn chỉ là được
thần của thầy cảm động ông gấp hai lần để khích lệ ông, giúp ông trung tín, có
đức tin nơi Đức Chúa Trời và vâng theo ý muốn Ngài. Khi nói lên điều nầy,
Ê-li-sê đang tiếp nhận chức vụ tiên tri mà Ê-li đã khởi sự và tuyên bố rằng với
sự giúp sức của Đức Chúa Trời, ông sẽ thi hành chức vụ ấy một cách hoàn hảo.
Ê-li thành thật nói với bạn mình
rằng đặc ân đó không tùy thuộc vào chính ông, vì chỉ có Đức Giê-hô-va có thể
làm được điều đó. Tuy nhiên nếu Đức Giê-hô-va cho Ê-li-sê nhìn thấy cảnh ông
được cất lên, thì đó là bằng chứng cho thấy lời cầu xin của ông được nhậm. Rồi chuyện đó đã xảy ra! Khi hai người đang bước đi và trò
chuyện với nhau, một cổ xe bằng lửa được kéo bởi những con ngựa lửa đáp
xuống ở giữa họ, và một cơn gió lốc đưa Ê-li đi khuất-và Ê-li-sê nhìn thấy việc đó xảy ra! Điều nầy
có nghĩa là lời cầu xin của ông được chấp nhận và Đức Giê-hô-va đã trang bị cho
ông để tiếp tục chức vụ của Ê-li. Ê-li chắc chắn là “tiên tri về lửa” vì Kinh
Thánh ghi lại ít nhất 3 lần ông đã gọi lửa từ trời (IVua
18:38 IIVua 1:10,12), nên thật hợp
lý khi Đức Chúa Trời sai ngựa lửa và xe lửa đến đưa đầy tớ của Ngài đi trong
vinh quang.
Phản ứng của Ê-li-sê là thái độ đau
buồn, như người con trai khóc khi mất đi người cha yêu dấu. Nhưng ông đã tỏ
lòng kính trọng đối với Ê-li khi ông gọi Ê-li là “xe và lính kỵ của
Y-sơ-ra-ên!” (c.12). Một người sánh ngang với cả một đội quân! Trong giao ước
của Ngài với Y-sơ-ra-ên, Đức Giê-hô-va hứa rằng nếu dân sự vâng lời Ngài, Ngài
sẽ giúp sức cho để 100 người Y-sơ-ra-ên có thể thắng 1000 người của quân thù (Le 26:6-8), Môi-se hứa rằng Đức Chúa Trời sẽ khiến
một người có thể đánh đuổi 1000 người và hai người có thể đánh đuổi 10.000
người (Phu 32:30). Một người bước đi với Đức
Chúa Trời sẽ như một đội quân.
4. Đức Chúa Trời xem
trọng đức tin (IIVua 2:13-25)
Ê-li đã ra đi và Ê-li-sê
không còn nhờ người giúp đỡ được nữa, nhưng Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên vẫn ở
trên ngôi của Ngài. Từ đó trở đi, đức tin của Ê-li-sê sẽ để ông tiếp xúc trực
tiếp với quyền năng của Đức Chúa Trời và giúp ông hoàn tất công việc của Đức
Chúa Trời đối với dân Y-sơ-ra-ên. Trong ba phép lạ được ghi lại ở đây, mỗi phép
lạ đều có những sứ điệp thuộc linh mà ngày nay chúng ta cần hiểu rõ.
Đi qua sông (IIVua
2:13-18). Tại sao Ê-li ra khỏi Đất hứa và đi đến bên
kia sông Giô-đanh? Có phải ông từ bỏ xứ mình và dân sự mình? Chắc chắn cơn gió
lốc của Đức Chúa Trời có thể đưa ông về trời dễ dàng lúc ở Bê-tên hoặc
Giê-ri-cô. Nói một cách nghiêm túc, Ê-li vẫn còn ở trong lãnh thổ của
Y-sơ-ra-ên khi ông đi qua sông, vì Ru-bên, Gát và nửa chi phái Ma-ma-se có đất
của họ ở bờ tây sông Giô-đanh. Nhưng có điều cần lưu ý hơn, khi Ê-li-sê qua bờ
tây sông Giô-đanh, Ê-li buộc ông phải tin cậy Đức Chúa Trời để qua sông trở lại
mà về xứ mình! Người kế nhiệm của Ê-li giờ không giống như Giô-suê: ông phải
tin Đức Chúa Trời có thể và sẽ phân rẽ nước cho ông. Những học viên đang đứng
xa quan sát giờ chắc ngạc nhiên lắm trước việc mà người lãnh đạo mới của họ sẽ
làm.
Khi nắm lấy áo tơi của
Ê-li, Ê-li-sê muốn nói rõ rằng ông đã nhận trách nhiệm của vị tiên tri vĩ đại
đi trước ông và tiếp tục chức vụ của ông ta. Qua việc dùng áo tơi phân rẽ nước
sông Giô-đanh, ông đang tuyên bố rằng đức tin của ông không đặt nơi người thầy đã ra đi nhưng nơi Đức Chúa Trời hằng sống. Chắc chắn
chúng ta phải tôn trọng những ký ức và những thành tựu của người thầy đã ra đi.
“Hãy nhớ những người dắt dẫn mình, đã truyền đạo Đức Chúa Trời cho mình;hãy
nghĩ xem sự cuối cùng đời họ là thể nào, và học đòi đức tin họ” (He 13:7). Nhưng quá nhiều người sáng lập quá cố và
những lãnh đạo quá cố vẫn còn có sức ảnh hưởng của họ từ trong phần mộ, những
người kế nhiệm của họ rất khó khăn để có những thay đổi cần thiết cho những
người đang sống. Ê-li-sê không mắc sai lầm nầy, vì ông cầu xin chính Đức Chúa
Trời của Ê-li giúp ông và Ngài xem trọng đức tin đó. Ê-li-sê không phải là một
bản sao vô tính của Ê-li, nhưng hai người có một điểm chung: họ đều tin nơi Đức
Chúa Trời chân thần và hằng sống. Đó là lý do 13:7
dạy chúng ta phải nhớ những người dẫn dắt mình và “học đòi đức tin họ”.
Phép lạ vượt qua sông Giô-đanh của
Ê-li-sê không chỉ bày tỏ quyền năng của Đức Chúa Trời và đức tin của đầy tớ
Ngài, mà là một lời tuyên bố cho các môn đồ của các tiên tri biết rằng Ê-li-sê
là người lãnh đạo mới của họ. Khi Đức Chúa Trời rẽ sông Giô-đanh cho dân
Y-sơ-ra-ên đi qua, Ngài dùng phép lạ đó để tạo uy tín cho Giô-suê và tuyên báo
bàn tay Ngài đang ở trên người lãnh đạo mới (Gios
3:7-8 4:14). A. W. Tozer từng nói rằng
“Không phải chỉ cần một lá phiếu là chọn được một người lãnh đạo”, và ông ta đã
đúng. Bất kể họ được đào tạo và chọn lựa như thế nào, những người lãnh đạo
thuộc linh chân chính phải cho dân sự mình tin chắc rằng mình đã được Đức Chúa
Trời chọn lựa bằng cách bày tỏ quyền năng của Đức Chúa Trời trong đời sống
mình. “Ấy vậy, các ngươi nhờ những trái nó mà nhận biết được” (Mat 7:20).
50 môn đồ của các tiên tri nhìn thấy
Ê-li-sê đi qua sông như đi trên đất khô, họ không do dự phục tùng ông và thừa
nhận quyền lãnh đạo của ông vì quyền năng của Đức Chúa Trời đã được thấy rõ
ràng trong chức vụ của ông.
Nhưng 50 học viên nầy không tin rằng
người lãnh đạo cũ của họ đã được cất lên trời; họ cần một bằng chứng xác thực.
Đức Chúa Trời đã công khai cho biết Ê-li-sê là người lãnh đạo mới của họ, thế
thì tại sao họ lại tìm kiếm Ê-li? Và tại sao Đức Giê-hô-va cất đầy tớ Ngài
trong cơn gió lốc chỉ để bỏ ông ta ở một nơi hoang vắng nào đó trong xứ? Đó có
phải là Đức Chúa Trời mà họ hầu việc? Hơn nữa, các học viên ấy không thể nào
tìm kiếm từng ngóc ngách của xứ, vậy thì tại sao họ tìm kiếm? Việc làm của họ
thật buồn cười và Ê-li-sê để họ tìm kiếm như vậy chỉ vì ông quá bực mình với
những câu hỏi lập đi lập lại của họ. Những người lãnh đạo mới không nên bực
mình vì sự quan tâm mà dân sự dành cho người lãnh đạo cũ. Khi những người tìm
kiếm nầy trở về gặp Ê-li-sê tại Giê-ri-cô, ít nhất ông ta cũng có quyền nói với họ rằng, “Ta đã bảo với các ngươi như vậy rồi!”
Chữa lành cho nước (IIVua 2:19-22). Ê-li-sê không chỉ có được lòng trung
thành của các môn đồ của những tiên tri, mà các lãnh đạo của Giê-ri-cô cũng
kính trọng ông và tìm kiếm sự giúp đỡ của ông. Chúng
ta không ngạc nhiên khi nước tại Giê-ri-cô độc hại, đất nó chai cằn vì thành
nầy đã bị rủa sả (Gios 6:26). Người Do thái trong
Cựu Ước nghĩ muối có liện quan đến giao ước của Đức Chúa Trời (Dan 18:19) và sự tinh khiết của một cá nhân trong
sự thờ phượng (Le 2:13) . Cụm từ “ăn muối”
có nghĩa là “hiếu khách”, như vậy muối ngụ ý đến tình bạn và sự trung thành
giữa con người với nhau và giữa Đức Chúa Trời với con người. Muối không tinh
lọc nước hay làm cho đất hết chai cứng; đó là công việc bởi tay Đức Chúa Trời.
Phép lạ nầy nhắc chúng ta về phép lạ ở Ma-ra (“đắng”) khi Môi-se ném một cây gỗ
xuống nước và nước hóa ra ngọt (Xu 15:22-26).
Tại Ma-ra, Đức Chúa Trời mặc khải cho dân sự Ngài biết Ngài là “
Giê-hô-va-Ra-pha - Đức Giê-hô-va chữa lành”.
Ngày nay nếu bạn đến thăm Giê-ri-cô,
hướng dẫn viên sẽ chỉ cho bạn thấy “suối nước của Ê-li-sê” và mời bạn uống thử
nước đó.
Một lần nữa chúng ta lại thấy một
phép lạ, nó nói về sự bắt đầu mới. Ê-li-sê đã đổ hết muối ra khỏi cái bình mới.
Phép lạ nầy là “một bài giảng sống động” nhằm nhắc dân sự nhớ rằng những ơn
lành của Đức Chúa Trời dành cho dân sự và họ phải trung thành với giao ước của Ngài.
Không vâng theo luật pháp của Đức Chúa Trời có nghĩa là đánh mất đi những phước
lành của Ngài (Phu 28:15).
Phạt những kẻ nhạo
báng (IIVua 2:23-25). Sự
kiện nầy xảy ra tại Bê-tên, một trong những trung tâm thờ thần tượng (IVua 12:28-33 Am 7:13). Tiếng Hy-ba-lai dịch từ “trẻ con” thật
ra có nghĩa là “thanh niên” hoặc “người trẻ tuổi”. Nó chỉ những người từ 12
đến13 tuổi, ở độ tuổi biết phân biệt đúng sai và có thể tự mình đưa ra quyết
định. Đây không phải là đám trẻ con thích đùa nhưng là nhóm thanh niên đã biết
suy nghĩ đang nhạo báng Đức Chúa Trời và đầy tớ Ngài.
“Hãy lên!” ngụ ý sự cất lên trời của
Ê-li. 50 người nhìn thấy Ê-li đột nhiên biến mất, chắc chắn họ đã đi kể lại
chuyện đó và tin đồn lan khắp nơi. Những thanh niên ấy muốn khiêu khích, “Nếu ông
là người của Đức Chúa Trời sao lại còn ở đây mà không cất lên trời như Ê-li đi?
Chúng tôi rất mừng vì ông ta đã ra đi và chúng tôi cũng mong ông mau đi theo
ông ta!”. Một người trẻ tuổi gọi người lớn: “lão trọc” là một sự lăng mạ rất
nặng, và còn sỉ nhục nặng hơn khi cứ lập đi lập lại biệt danh ấy. Trong vòng
người Do thái, tóc bạc là “mão triều thiên vinh hiển” (Ch
17:31) nhưng hói đầu là điều rất hiếm thấy đối với họ và một số ít người
hói đầu đó bị xem là đáng hổ thẹn (Es 3:24).
Chúng ta thấy ở đây một nhóm thanh
niên bất kính và đám công đồ đang nhạo báng Đức Chúa Trời văng ra những lời mà
chúng có thể nghe được ở nhà hoặc nơi chợ. Vì hiểu biết Lời Đức Chúa Trời, nên
Ê-li-sê hiểu việc chúng đang làm là sự xúc phạm đến
giao ước của Đức Chúa Trời, nên ông đã xây lại và rủa sả chúng. (Một
trong lời cảnh cáo trong giao ước là Đức Chúa Trời sẽ sai thú hoang đến tấn
công người. Xem Le 26:21-22). Những người
trẻ tuổi nầy tỏ ra bất kính với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, với
Ê-li và với Ê-li-sê nên chúng bị trừng phạt. Hai con gấu cái đến cấu xé chúng
nhưng không giết chết chúng, từ đó về sau những vết sẹo của chúng nhắc người ta
nhớ rằng không thể nào xem thường Đức Chúa Trời mà không chịu trừng phạt.
Chúng ta thường thấy Đức Giê-hô-va
giáng hình phạt ngay thời điểm bắt đầu mới trong lịch sử Kinh Thánh, như thể
Đức Chúa Trời muốn cảnh cáo dân sự rằng sự bắt đầu mới không có nghĩa là những
luật lệ cũ đã được thay đổi. Sau khi đền tạm bắt đầu được sử dụng, Đức Chúa
Trời phạt chết Na-đáp và A-bi-hu vì đã “dâng lửa lạ” cho Đức Giê-hô-va (Le 10:1-20). Sau chiến thắng đầu tiên của
Y-sơ-ra-ên ở Đất Hứa, Đức Chúa Trời ra lệnh giết chết A-can vì tội giấu riêng
những chiến lợi phẩm thuộc về Đức Giê-hô-va (Gios
7:1-26). Lúc bắt đầu thời trị vì của Đa-vít tại Giê-ru-sa-lem, ông đã
sai người đem hòm giao ước về thành ấy và U-xa bị giết chết vì đã chạm tay vào
hòm (IISa 6:1-7). Khi A-na-nia và Sa-phi-ra
nói dối với các lãnh đạo của Hội thánh đầu tiên Đức Chúa Trời đã lấy đi mạng
sống của hai người (Cong 5:1-42). Giờ đây,
ngay buổi đầu trong chức vụ của Ê-li-sê, việc các thanh niện nầy bị gấu cắn xé
cảnh cáo rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Ê-li vẫn đang cai trị và vẫn nghiêm
túc gìn giữ giao ước Ngài.
Thái độ của những thanh niên nầy,
cũng là thái độ của những người trong xứ, là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của
Sam-na-ri và Giu-đa. “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng, vì có lòng
thương xót dân sự và đền của Ngài; nên hằng sai sứ giả đến cùng chúng; nhưng
chúng nhạo báng sứ giả của Đức Chúa Trời, khinh bỉ các lời phán Ngài, cười nhạo
những tiên tri của Ngài, cho đến nỗi cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va nổi lên
cùng dân sự Ngài, chẳng còn phương chữa được” (IISu
36:15-16).
Ê-li-sê ở bên cạnh Ê-li tại
Ginh-ganh, Bê-tên, Giê-ri-cô, và cùng đi quan sông Giô-đanh với ông ta, nhưng
giờ đây ông đi lên núi Cạt-mên, bối cảnh của chiến thắng lớn nhất của Ê-li.
Theo như những gì chúng ta biết thì Ê-li-sê không có mặt ở đó lúc Ê-li gọi lửa
tử trời. Có lẽ khi Ê-li-sê đến thăm nơi nầy là nơi đã có lập bàn thờ, ông suy
nghĩ đến những việc Đức Chúa Trời đã làm và ông được dựng mới trong tâm thần
mình. Chắc chắn ông đã tạ ơn Đức Chúa Trời vì được làm một phần trong di sản
tuyệt vời như vậy. Nhưng người ta không thể sống hoài trong quá khứ, nên ông
rời nơi thiêng liêng ấy và đi về hướng Sa-ma-ri, thủ đô của Vương quốc phía Bắc
và là quê hương của vua Giô-ram, con trai A-háp. Ở đây, ông ta sẽ bị hút vào
cuộc chiến liên quan đến dân Y-sơ-ra-ên, Giu-đa và Ê-đôm nghịch cùng Mô-áp, và
Ê-li-sê sẽ hiến kế cho ba vua ấy thắng trận.
2. ÂN ĐIỂN LẠ LÙNG (IIVua 3:1-4:44)
Từ ngày khởi đầu chức vụ
của mình, Ê-li-sê đã chứng tỏ mình là người làm phép lạ giống như Ê-li, thầy và
là người tiền nhiệm của mình, vì ông đã rẽ nước sông Giô-đanh, đi qua như đi
trên đất khô, và sau đó đã giải độc cho nước tại Giê-ri-cô.
Ngoại trừ hình phạt giáng trên những trai trẻ ngạo mạn (2:23-25), những phép lạ của Ê-li-sê đều là sự mặc khải về ân
điển và sự nhân từ của Đức Chúa Trời. Ê-li nhắc chúng ta nhớ đến Giăng Báp-tít
với cái búa, nai dê lúa, và phép báp-têm bằng lửa (Mat
3:1-12 Lu 1:17) nhưng Ê-li-sê nhắc
chúng ta nhớ đến Cứu Chúa, là Đấng có lòng thương xót đoàn dân đông và “đi từ
nơi nọ qua chỗ kia làm phước” (Cong 10:38).
Sáu phép lạ được ghi lại trong hai đoạn nầy chắc chắn phát lộ ân điển của Đức
Chúa Trời.
1. Ân điển đánh thắng
kẻ thù (IIVua 3:1-27)
Khi A-cha-xia băng hà,
Giô-ram em trai người làm vua Y-sơ-ra-ên (IIVua 1:17). Ông
cũng được gọi là Giê-hô-ram (Jehoram), nhưng vì đó cũng là tên của con trai
Giô-sa-phát và là người đồng nhiếp chính của dân Giu-đa, chúng ta phân biệt hai
người nầy bằng cách gọi vua Y-sơ-ra-ên là Giô-ram. Là con trai của A-háp và
Giê-sa-bên, vị vua mới nầy khó có thể là một người tin kính Chúa, nhưng ít nhất
ông cũng đã dẹp bỏ tượng thần Ba-anh (IVua 16:32-33)
và ông tỏ ra tôn trọng Ê-li-sê. Tuy nhiên, sự thờ thần Ba-anh và con bò vàng
cũng không bị loại trừ khỏi xứ trong suốt thời trị vì của ông, và tượng thần
Ba-anh mà Giô-ram đã dẹp bỏ lại được dựng lên và Giê-hu đã phải phá hủy nó (10:27).
Cuộc dấy nghịch tai
hại (IIVua 3:4-8 1:1). Xứ
Mô-áp đặc biệt thích hợp cho việc nuôi chiên, nhưng hàng năm phải cống nộp cho
Y-sơ-ra-ên 100.000 con chiên và lông của 100.000 con chiên quả là một vấn đề.
Sự băng hà của A-háp và thời gian trị vì chưa đến 2 năm của A-cha-xia tạo cơ
hội cho Mê-sa dấy nghịch. Khi Giô-ram, một người trẻ tuổi, lên kế vị ngai vàng
Y-sơ-ra-ên, dường như tạo điều kiện thuận lợi cho dân Mô-áp bẻ gãy ách cai trị
ấy. Nhưng Giô-ram không muốn mất khoảng thu nhập lớn đó, ông cũng không muốn
dân sự nghĩ ông là kẻ yếu kém, nên ông cho đến quân số và chuẩn bị chiến tranh.
Giê-hô-ram, bấy giờ là người đồng
nhiếp chính của Giu-đa, đã cưới em của Giô-ram là A-tha-li, nên có vẻ hợp lý
khi Giô-ram yêu cầu Giô-sa-phát hợp tác với mình trừng trị dân Mô-áp. Một năm
trước, người Mô-áp và Am-môn đã tuyên chiến với Giu-đa và Giô-sa-phát, với sự
giúp đỡ của Đức Chúa Trời dân Giu-đa đã thắng trận (IISu
20:1-37). Vì điều đó mà Giô-ram muốn những đồng minh nầy ở về phía ông!
Hai vua ấy quyết định không tấn công từ phía bắc vì biên giới phía bắc của Mô-áp
được củng cố rất vững chắc và dân Am-môn có thể quấy nhiễu, nhưng tiến hành tấn
công từ đâu đó ở cực nam của Biển Chết. Đội quân của Giô-ram sẽ tiến quân từ
phía nam qua Giu-đa và kéo theo quân của Giô-sa-phát vào cuộc, và sau đó cả hai đội quân đi ngang qua Ê-đôm và gia nhập
với đội quân của Ê-đôm tại biên giới dễ bị tấn công ở phía nam Mô-áp.
Một đội quân thiếu
thốn (IIVua 3:9-14). Đây
là một kế hoạch tốt. Đội quân của Giô-ram rời Sa-ma-ri và sau 3 ngày hành quân
đã gia nhập với đội quân của Giô-sa-phát ở Giu-đa, có thể tại Giê-ru-sa-lem.
Sau đó cả hai đội thẳng tiến đến miền nam Ê-đôm, một hành trình kéo dài trong 4
ngày. Như vậy sau 7 ngày hành quân, hai đội quân nầy đã đến được một trũng tại
cực nam Biển Chết, giữa các núi của Giu-đa và Mô-áp. Mọi việc diễn tiến tốt đẹp
nếu như không có sự cố thiếu nước. Các binh lính và súc vật đi theo đang chết
khát.
Quên rằng thần Ba-anh
của cha mình là thần mưa, vua Giô-ram đối phó với tình huống đó bằng cách trách cứ Đức Giê-hô-va vì hoàn cảnh khó khăn của
họ (c.10). Mặt khác, vua Giô-sa-phát đã đề nghị rằng họ nên cầu hỏi Đức Chúa
Trời để Ngài cho biết Ngài muốn họ làm gì. Ông đã cho A-háp lời khuyên tương tự
nhiều năm trước khi họ kết hợp với nhau đánh dân Sy-ri (IVua 22:1-54). Giô-ram không biết bất kỳ tiên tri nào của Đức
Giê-hô-va và thậm chí không biết có Ê-li-sê ở trong vùng ấy. Một trong những vị
quan của ông phải báo cho ông biết rằng tiên tri ấy đã gia nhập đoàn quân, chắc
chắn bởi sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời. Ngay thời khắc đó, Ê-li-sê là người quan
trọng nhất trong một lực lượng lớn với ba đội quân của ba nước kết hợp lại.
Ê-li-sê đã so sánh Ê-li với cả đội quân Y-sơ-ra-ên (2:12),
nhưng giờ đây Ê-li-sê có sức mạnh hơn 3 đội quân!
Chúng ta không biết Ê-li-sê ở đâu,
nhưng 3 vị vua nầy đã hạ mình và đi đến đó để xin người giúp đỡ. Khi
Giô-sa-phát hiệp với A-háp đánh sy-ri, tiên tri của Đức Chúa Trời quở trách ông
vì tội thỏa hiệp (IISu 19:1-4); nhưng giờ
đây, sự hiện diện của một hậu duệ Đa-vít là chìa khóa để đi đến thành công.
Ê-li-sê nói rõ rằng ông không giúp Giô-ram, con trai A-háp, nhưng giúp
Giô-sa-phát, con cháu Đa-vít. Một lần nữa, chính giao ước của Đức Chúa Trời với Đa-vít mở ra ân điển và sự giải cứu
của Đức Chúa Trời đối với dân sự Ngài. Lời đáp của Giô-ram vẫn mang hơi hướng
vô tín, “Đức Giê-hô-va đã gọi ba vua nầy đến đặng nộp vào tay Mô-áp”. Nhưng khi
đứng trước các vua, Ê-li-sê không hề sợ hãi giống như Ê-li thầy mình vậy.
Sự can thiệp của Đức
Chúa Trời (IIVua 3:15-27). Tiếng
đàn làm cho tâm và lòng nhà tiên tri bình tịnh giúp ông dễ dàng tương giao với
Đức Chúa Trời. Sau đó Ê-li-sê tiết lộ kế hoạch của Đức Chúa Trời. Các vua phải
ra lệnh cho quân lính mình đào những hầm hố trong trũng khô. Đức Chúa Trời ban
mưa xuống ở những ngọn núi đằng xa, nhưng quân Mô-áp không biết vì không có
tiếng dông hoặc gió nào. Mưa sẽ đem lại nguồn sống cho
họ và nước mưa ngập đầy các hầm hố đủ cho người và súc vật uống. Đức Chúa Trời
còn dùng những hố nước ấy để lừa và đánh bại quân Mô-áp. Ê-li-sê không giải
thích như thế nào. Sau đó Sau-lơ nói thêm rằng Đức Chúa Trời sẽ giúp cho 3 đội
quân đánh bại dân Mô-áp, nhưng đó phải là một chiến thắng trọn vẹn. Họ phải phá
sập tất cả các thành của Mô-áp và đem đá ném ra ngoài đồng. Họ cũng phải đốn
cây là bít các nguồn nước [3]. Nói cách khác, 3 đội quân nầy phải phá hủy mọi tài nguyên
của Mô-áp để nó không thể trổi dậy và đánh lại.
Các thầy tế lễ ở Giê-ru-sa-lem dâng của lễ sáng khi mưa ở các núi làm nước ngập
vào trũng. Nó ngập các hầm hố đã đào và tạo thành những cái hồ trên mặt đất;
binh lính và súc vật có thể uống nước thỏa thích. Nhưng
quân Mô-áp tập trụng ở biên giới không biết trời đã đổ mưa! Đức Chúa
Trời cho ánh sáng mặt trời phản chiếu trên mặt nước trong hồ, và nó trông giống
như máu. Quân Mô-áp tưởng lần rằng 3 đội quân đã tranh chiến và tàn sát lẫn
nhau.(Chuyện nầy đã xảy ra với đội quân của Mô-áp, Am-môn và Ê-đôm khi họ tấn
công vua Giô-sa-phát, IISu 20:22-30). Quá
tin vào sự vững mạnh của mình và cơ hội thu được chiến lợi phẩm dồi dào, dân
Mô-áp tấn công vào trại quân của ba vua và thất bại hoàn toàn.
3 đội quân đã vâng lệnh Đức Chúa
Trời đuổi theo quân Mô-áp phá hủy các thành và các nguồn tài nguyên thiên nhiên
của họ. Vua Mô-áp và quân đội của ông ta rút về Kiệt-Ha-rê-sết, thủ đô trong
thời bấy giờ, 3 đội quân tiếp tục bao vây nó nhưng
không thể xuyên thủng. Vua Mô-áp cố phá vòng vây chạy đến Ê-đôm, có lẽ để
thuyết phục các đồng minh trước đây giúp đỡ mình, nhưng kế hoạch đó không thành
công. Bước cuối cùng của ông là xây qua nhờ cậy thần Kê-móc và dâng chính thái
tử làm tế lễ cho thần ấy. Ông ta làm viêc đó cách công khai, trên vách thành,
kết quả là 3 đội quân đã bỏ về xứ mình.
Kết cuộc lạ thường (IIVua 3:27). Giô-ram trừng phạt được dân Mô-áp vì
đã vi phạm thỏa ước, nhưng kết thúc cuộc chiếc ấy là gì? Cụm từ “có cơn thạnh
nộ nổi phừng cùng Y-sơ-ra-ên” trong bản
dịch New English Bible viết là, “Dân
Y-sơ-ra-ên quá kinh hoàng trước cảnh tượng đó, họ dỡ trại và trở về xứ mình”.
Ghi chú ngoài lề có viết, “có cơn thạnh nộ nổi cùng
dân Y-sơ-ra-ên”.
Chúng ta không tin rằng
thần giả Kê-móc có thể làm gì đó để ngăn chặn 3 đội quân đang bao vây hay Giê-hô-va để cho
của tế lễ rất tàn ác của người ngoại ấy cướp đi sự vinh hiển khỏi danh Ngài.
“Ta là Đức Giê-hô-va: ấy là danh ta. Ta chẳng nhường sự vinh hiển ta cho một
đấng nào khác, cũng không nhường sự tôn trọng ta cho những tượng chạm!” (Es 42:8). Điều nầy cho chúng ta 3 khả năng. Có lẽ
của lễ đó kích động sự can đảm và nhiệt huyết của người Mô-áp để họ có thể tấn
công với một tinh thần hăng hái rất mới mẽ và đuổi được các kẻ thù. Hoặc có lẽ
dân Y-sơ-ra-ên quá ghê tởm của lễ đó, họ khăn gói trở về, và hai vua còn lại
cũng về theo họ. Luật pháp Môi-se cấm bắt con người làm của lễ (Le 20:1-5) và Giô-sa-phát cảm thấy mình có tội vì
sự bao vây của mình đã dẫn đến cái chết của thái tử. Nhưng 3 đội quân đã giết
chết nhiều người khi họ càn qua xứ Mô-áp, và chắc chắn họ không ân hận vì cái
chết của thái tử. Hơn nữa, sự nhấn mạnh là trên vua Y-sơ-ra-ên, không phải vua
Giu-đa, và Giô-ram, vua Y-sơ-ra-ên, sẽ không quá ghê sợ của lễ người. Ông xuất
thân từ một gia đình có nhiều kẻ sát nhân!
Nếu Đức Giê-hô-va nổi cơn thạnh nộ
Ngài đối với Y-sơ-ra-ên, tại sao như vậy? Có phải Ngài xét đoán một mình
Giô-ram và quân đội của ông ta (Y-sơ-ra-ên = Vương Quốc Phía Bắc) hay chung cả
Y-sơ-ra-ên và Giu-đa? Xuyên suốt khúc Kinh Thánh nầy “Y-sơ-ra-ên” chỉ Vương
Quốc Phía Bắc mà không phải các chi phái hợp nhất, nên Giô-ram và đội quân
Y-sơ-ra-ên chắc là mục tiêu. Hai lần vua Giô-ram hỏi Đức Giê-hô-va có thể và sẽ
làm được gì (c.10,13) và Ê-li-sê nói rõ rằng ông không quan tâm đến vua bội đạo
nầy (c.13-14). Tuy nhiên Giô-ram cùng được hưởng chung chiến thắng nhờ đức tin
của vua Giu-đa! Có lẽ Đức Giê-hô-va chỉ nổi cơn thạnh nộ Ngài cùng đội quân của
Y-sơ-ra-ên để dạy cho Giô-ram một bài học, như Ngài đã giáng cơn hạn hán và lửa
từ trời để dạy A-háp, cha người, một bài học. Khi
Y-sơ-ra-ên bỏ về xứ, hai vua kia cũng đi theo ông, và như vậy chấm dứt cuộc bao
vây. Kinh thành không bị tiêu diệt và vua Mô-áp và lực lượng của ông ta không
bị bắt cũng không bị giết, vì vậy đây là một chiến thắng không trọn vẹn. Tuy
nhiên, vì nhà Đa-vít, Đức Chúa Trời trong ân điển Ngài đã ban chiến thắng nầy
cho cả ba vua.
2. Ân điển trả nợ (IIVua 4:1-7)
[4] Từ cuộc chiến liên quốc gia, Ê-li-sê trở về
lo cho trường của các tiên tri, vì một lãnh đạo thuộc linh chân chính phải quan
tâm đến từng cá nhân. Ông theo gương Ê-li thầy mình chăm sóc
cho các gia đình (IVua 17:8-24). Sự kiện
người nữ nầy là người góa bụa và là mẹ của hai con trai cho thấy rằng các môn
đồ của những tiên tri không phải là những thầy tu độc thân. Ê-li-sê biết người
môn đồ đó và biết ông ta có tiếng là người tin kính Chúa. Cái chết của ông chắc
đã đặt dấu chấm hết cho tất cả những gì ông đã gặt hái được, và thời gian đó vợ
ông đã chịu nhiều vất vả để một mình nuôi dạy hai con trai khôn lớn. Ngay cả
những người dâng mình tập rèn trong chức vụ cũng có những khó khăn và thử thách
của mình.
Theo luật pháp Do thái, người chủ nợ
có thể bắt người mắc nợ và con cái của người đó về làm nô lệ, nhưng không được
đối đãi như những nô lệ (Xu 21:1-11 Le 25:29-31 Phu
15:1-11). Chồng chết, các con phải làm nô lệ quả thật làm trái tim của
người phụ nữ nầy tan nát, nhưng Đức Chúa Trời “bào chữa công bình cho người góa
bụa” (Phu 10:18 Thi
68:5 146:9)
và Ngài sai Ê-li-sê đến giúp đỡ bà. [5].
Đức Chúa Trời thường
bắt đầu với những gì chúng ta đã sẳn có. Môi-se có cây gậy trong tay, Đức Chúa
Trời dùng nó để làm thành những việc lớn (Xu 4:2).
Phi-e-rơ và các bạn mình có tay lưới (Lu 5:1-38),
một cậu bé có vài cái bánh và mấy con cá (Gi 6:1-71).
Tất cả những gì người đàn bà góa nầy có là một ít dầu trong bình, nhưng “ít trở
thành nhiều khi Đức Chúa Trời ở trong nó”. Những người lân cận của bà sẽ có
những bình để không, và bà mượn nó về châm dầu vào, khi bà bán dầu, bà có thể
trả luôn bình lại cho họ. Ê-li-sê dặn bà phải đóng cửa để không ai có thể nhìn
thấy phép lạ đang xảy ra trong nhà bà, chắc chắn bà cũng dặn kỷ các con phải
giấu kín mọi chuyện. Số dầu bà có được chỉ giới hạn trong số bình bà có, và
điều đó tùy thuộc vào đức tin của bà (IIVua 4:1-7).
“Theo như đức tin các ngươi, phải được thành vậy” (Mat
9:29). Khi bán dầu, bà có đủ tiền trả nợ, nuôi sống bà và hai con trai.
Không phải lúc nào Đức Giê-hô-va
cũng làm phép lạ kiểu nầy để giúp ta giải quyết những món nợ, nhưng Ngài đáp
ứng như cầu của chúng ta nếu chúng ta tin cậy và vâng lời Ngài. Nếu chúng ta
dâng mọi sự cho Ngài, Ngài có thể làm cho cái ít trở nên nhiều. Phép lạ nầy
cũng nhắc chúng ta về một phép lạ lớn hơn hết, sự buông tha tất cả món nợ của
chúng ta với Đức Chúa Trời qua đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu (Lu 7:36-50 Eph 1:7
Co 2:13). Ê-li-sê không cần bỏ ra bất cứ gì
cho Đức Chúa Trời để có tiền cho người đàn bà góa trả món nợ ấy, nhưng Chúa Cứu Thế Giê-xu phải bỏ cả mạng sống Ngài
để tha thứ tội lỗi chúng ta.
3. Ân điển đem đến sự
sống (IIVua 4:8-37)
Từ A-bên-Mê-hô-la, quê
hương của Ê-li-sê, đến Su-nem khoảng 20 dặm, và từ Su-nem đến núi Cạt-mên 25
dặm (c.25). Một người bình thường đi bộ một ngày được từ 15 đến 20 dặm, nên
Ê-li-sê thường dừng chân tại Su-nem mỗi khi ông đến núi Cạt-mên để cầu nguyện,
suy gẫm và tìm kiếm Đức Chúa Trời một cách tươi mới. Núi Cạt-mên là một nơi rất
đặc biệt bởi vì chức vụ của Ê-li-sê, có lẽ cũng có một trường đào tạo các tiên
tri ở đó.
Người nữ cao trọng (IIVua 4:8-10). Người phụ nữ khuyết danh nầy cao trọng trong
địa vị xã hội và sự giàu có. Nhưng bà cũng cao trọng trong nhận thức, vì bà
biết Ê-li-sê thường đi qua con đường đó trong những chuyến công vụ. Bà cũng
nhận biết Ê-li-sê là người của Đức Chúa Trời, bà muốn phục sự Đức Giê-hô-va
bằng cách phục vụ cho Ê-li-sê. Chúng ta có cảm tưởng rằng chồng của bà kém hơn
bà về nhận thức thuộc linh, nhưng ít nhất ông cũng không ngăn trở bà hiếu khách
với nhà truyền giáo lưu động nầy. Ông ta cho phép vợ xây một phòng trên mái nhà
và trang bị vào đó một cây đèn, một cái bàn và một cái ghế, [6] và một cái giường. Có thể nó rộng đủ để đi qua
đi lại (c.35) và có chỗ cho cả Ghê-ha-xi, tôi tớ của Ê-li-sê (c.13). Người nữ
nầy cũng nhận thấy nên lo bữa ăn cho hai thầy trò họ.
Trong những nhà trọ và
khách sạn ngày nay, lòng mến khách đối với dân sự của Đức Chúa Trời, đặc biệt với các tôi tớ của Đức Chúa Trời, đang trở thành một
nhiệm vụ bị xao lãng và một ơn phước bị bỏ qua. Tuy nhiên một trong những phẩm
chất của một trưởng lão là “hay tiếp khách” (ITi
3:2 Tit 1:8) và He 13:2 khuyên tất cả các tín hữu nên có đức tính nầy
(Sa 18:1-33). Chúng ta nên mở lòng và mở cửa
nhà mình cho người khác và đừng than phiền vì điều đó (IPhi
4:9).
Một đặc ân lớn (IIVua 4:11-17). Khi tiên tri Ê-li-sê và đầy tớ mình đang nghỉ
ngơi trong phòng cao thì Ê-li-sê có ý muốn làm một điều gì đó để đền ơn cho
người phụ nữ ấy vì lòng tốt của bà, Ê-li-sê bảo Ghê-ha-xi gọi bà và đến để nói
chuyện đó. Ê-li-sê truyền lời mình cho Ghê-ha-xi, có thể vì người phụ nữ ấy
nghĩ Ê-li-sê là một người có địa vị quá cao và bà không đáng được nói chuyện
với ông. Nhưng bà trả lời thật khiêm nhường và ngắn gọn, “Tôi vẫn ở giữa dân sự
tôi”. Bà không muốn Ê-li-sê nói đến sự cao trọng vì bà không muốn được đối xử
như người cao trọng. Bà phục vụ họ chỉ vì bà muốn phục sự Đức Chúa Trời.
Sau khi bà rời phòng
cao, Ghê-ha-xi tiết lộ rằng bà ta ao ước có một con trai. Chồng bà già rồi, có
lẽ vì vậy nên bà không thể có con; nhưng nếu Đức Chúa Trời có thể cho Áp-ra-ham
và Sa-ra có con,thì Ngài cũng có thể cho họ. Có thể chồng bà rồi sẽ qua đời
trước bà và bà sẽ phải ở một mình trong cảnh cô độc. Ê-li-sê đã hứa với bà như Đức Chúa Trời đã
hứa với Áp-ra-ham và Sa-ra (c.16 Sa 17:21 18:14). Người chồng với đức tin nhỏ bé có thể nhận
được biết bao ơn phước bởi sự tận hiến của người vợ
biết tin kính Chúa! Lời hứa ấy được thành tựu và bà sinh một con trai. Ân điển
đem đến sự sống ở những nơi đã từng không có sự sống.
Nổi đau lớn (IIVua 4:18-28). Đứa bé ấy còn rất nhỏ khi những biến cố nầy xảy ra, vì mẹ nó có
thể đặt nó trên đầu gối và bồng nó lên phòng cao của Ê-li-sê (c.20-21). Chúng
ta không biết do đâu cậu bé bị bệnh, nhưng có lẽ do sự nóng bức trong mùa gặt
đã làm nó nhiễm bệnh. Người mẹ ấy ra ngoài đồng bảo chồng mình chuẩn bị cho bà
một con lừa và một đầy tớ, nhưng bà không cho ông biết tin con đã chết. Việc bà chuẩn bị lên đường nói lên rằng đứa
bé vẫn bình an, có thể đang ngủ trưa. Chắc chắn bà sợ chồng mình biết tin và
vội đem chôn đứa bé, vì không ai muốn để xác chết trong nhà vào mùa gặt nóng
bức. Chồng bà không hiểu vì sao bà muốn đến tìm Ê-li-sê trong một ngày không
phải là ngày lễ đặc biệt, nhưng bà đáp rằng, “Mọi điều bình an”. Bà cũng nói
như vậy với Ghê-ha-xi (c.26)
Thái độ của Ghê-ha-xi khi thấy bà
đến tìm cho thấy sự tối tăm trong tính cách của ông, và điều đó còn được thấy
rõ hơn trong đoạn sau (c.27 Mat 15:23 19:13-15). Có lẽ bà và người đầy tớ của bà đã phá
giấc ngủ trưa của họ. Nhưng Ê-li-sê nhận biết rằng có một điều gì đó mà Đức
Chúa Trời đã không mặc khải cho ông. Ngay cả Chúa Giê-xu đôi khi cũng cần biết
thông tin (Mac 5:9 19:21
Gi 11:34). Dĩ nhiên bà đang cay đắng và tan
nát lòng, lời của bà như muốn trách cứ Ê-li-sê vì thảm kịch nầy. Bà đã không
cầu xin cho bà một con trai, và nếu như Ê-li-sê và Ghê-ha-xi không can thiệp
vào có lẽ bà không gặp phải tình cảnh đau buồn nầy.
Phép lạ lớn (IIVua 4:29-37). Bà và người đầy tớ mình chắc đã thúc lừa thật
nhanh chạy đến được núi Cạt-mên để có thể cùng Ê-li-sê và Ghê-ha-xi kịp trở về
nhà mình trong cùng một ngày; con lừa chắc rất mệt vì trải qua quảng đường xa
trong thời tiết nóng bức của mùa gặt. Tại sao Ê-li-sê sai Ghê-ha-xi đi trước?
Có thể vì ông ta
trẻ hơn và có thể chạy nhanh hơn để đến nơi sơm hơn. Điều quan trọng là phải có
người về canh giữ xác đứa bé để cha nó không phát hiện và đem nó đi chôn.
Ghê-ha-xi đặt cây gậy lên xác đứa trẻ, nhưng không có gì xảy ra. (Có phải do
điều đang kín giấu trong lòng ông ta?). Bà cỡi lừa chạy trước và Ê-li-sê theo
sau, nhưng Kinh Thánh không cho chúng ta biết rằng ông đã nhận được quyền phép
đặc biệt như Ê-li đã nhận được khi ông ta chạy trước xe ngựa của A-háp (IVua 18:46).
Một lần nữa, Ê-li-sê bí mật làm phép
lạ (IIVua 4:4 Lu
8:51). Trước hết, Ê-li-sê cầu nguyện và sau đó, theo gương của Ê-li (IVua 17:17-24), ông nằm trên xác đứa bé. Ông ngồi
dậy đi quanh phòng, chắc để cầu xin Chúa ban cho ông quyền phép, sau đó lại nằm
trên xác đứa bé lần nữa. Lần nầy đứa bé sống lại, nhảy mũi 7 lần và mở mắt. Kinh Thánh không giải thích ý nghĩa của việc nhảy
mũi, trừ phi đó là cách của Đức Chúa Trời để tống chất độc nào đó ra khỏi buồng
phổi của đứa bé. Bạn sẽ nghĩ rằng Ê-li-sê sẽ rất vui mừng và bồng đứa bé chạy
xuống nhà giao cho mẹ nó, nhưng không như vậy, ông đã bảo Ghê-ha-xi gọi mẹ nó
lên. [7]. (He 11:35).
Nhưng câu chuyện không
kết thúc ở đây (IIVua
8:1-6). Sau đó, khi Ê-li-sê tiên báo về nạn đói kém kéo dài 7 năm, ông
khuyên người phụ nữ ấy dọn đi nơi khác, và bà đi đến sống ở xứ Phi-li-tin. Khi
bà trở về quê hương mình để đòi lại ruộng đất, Ghê-ha-xi đang nói chuyện với
vua và thuật cho vua nghe về việc con trai bà được khiến cho sống lại, bà được
gọi đến cung vua! Vua ra lệnh cho các viên quan có liên quan trả lại tất cả
ruộng đất mà bà bị mất vì đã bỏ xứ mình ra đi. Sự chết của con trai bà đã trở
thành một ơn phước.
Chỉ có ân điển của Đức Chúa Trời có
thể chuyển đạt sự sống cho đứa trẻ đã chết, và chỉ ân điển Đức Chúa Trời có thể
chuyển đạt sự sống thuộc linh cho tội nhân hư mất (Gi
5:24 Eph 2:1-10). Chính Đức Chúa Trời
ban sự sống cho đứa bé, nhưng Ngài dùng Ê-li-sê như một phương tiện để thực
hiện. Với việc cứu vớt tội nhân cũng giống như vậy: Đức Chúa Trời cần những chứng nhân, những chiến sĩ cầu nguyện, những thánh
đồ có lòng quan tâm để đem sự sống đến cho họ. Charles Spurgeon, “Đức Thánh
Linh hành động qua những người biết hy sinh đời sống mình vì ích lợi của người
khác, dành cho họ những điều tốt đẹp và sự dạy dỗ, hoặc bất cứ điều gì để có
thể cứu được họ. Càng nhiều người như Ê-li-sê, chúng ta sẽ càng thấy nhiều tội
nhân được cứu” [8].
4.Ân điển giải trừ sự
rủa sả (IIVua 4:38-41)
Ê-li-sê đã đến thăm môn đồ của các
tiên tri tại Ginh-ganh trong thời gian đói kém (IIVua
8:1), ông sai Ghê-ha-xi, đầy tớ mình, nấu canh cho các tiên tri. Rau ở
đó rất khan hiếm nên một vài người phải đi ra ngoài đồng hái rau. Họ tìm và hái
được một loại dây leo, họ lấy vạt áo bọc đem về mà không biết đó là rau gì, chỉ
thấy nó có vẻ ăn được.
Nhờ đâu họ biết trong nồi canh có
độc? Vị đắng có thể là manh mối đầu tiên, một số người có triệu chứng đau bụng
và nôn mửa. Đã có sự chết trong nước ở Giê-ri-cô (2:19-22),
và giờ lại có sự chết trong nồi canh ở Ginh-ganh. Nhưng lúc nầy là kỳ đói kém
và thức ăn rất khan hiếm. Ê-li-sê đổ một ít bột vào nồi canh, và Đức Giê-hô-va
đã khử được chất độc trong nồi.
Theo sự hiểu biết của chúng ta,
trong vườn Ê-đen không có cây nào mang trong nó chất độc. Chúng sinh ra chông
gai sau khi A-đam phạm tội (Sa 3:17-19).
Ngày nay, có nhiều “sự chết ở trong nồi” vì chúng ta sống dưới sự rủa sả của
luật pháp về tội lỗi và sự chết, tội lỗi và sự chết đang cai trị thế gian nầy (Ro 5:14-21). Nhưng khi Chúa Giê-xu chết trên thập
tự giá, Ngài đã giải trừ sự rủa sả của luật pháp trên chúng ta (Ga 3:13), cho những ai tin cậy Chúa Cứu Thế, ân
điển đang cai trị (Ro 5:21) và họ đang “cai
trị trong sự sống” (Ro 5:17). Cái nọc của sự
chết đã được loại trừ (ICo 15:50-57)!
5. Ân điển làm no lòng
người đói khát (IIVua 4:42-44)
Ở vương quốc phía bắc
Y-sơ-ra-ên, không có đền thờ chính thức cho Đức Giê-hô-va, những thầy tế lễ và người Lê-vi trung tín đã rời bỏ
Y-sơ-ra-ên bội đạo để đến sống ở Giu-đa (IVua
12:26-32 IISu 11:13-17). Vì không có
nơi thờ phượng để dân sự đến dâng phần mưới và của tế lễ (Le 2:14 6:14-23
23:9-17 Phu
18:3-5), họ đã đem đến trường tiên tri gần nhất, nơi đó họ được dự phần
với những người trung thành với Luật Pháp Môi-se. Những của lễ đầu mùa như lúa,
bột làm bánh, bánh mì được môn đồ của các tiên trị ưa thích nhất, và chắc chắn
Đức Giê-hô-va đã xem trọng những người không chịu quỳ lạy con bò vàng tại Đan
và Bê-tên.
Có một trăm người đang đói ở đó, dù
những của lễ mà người đàn ông ấy đem dâng đã được Đức Giê-hô-va ban phước, họ
không thể nghĩ rằng nó đủ cho một trăm người ăn. Tình huống nầy tương tự tình
huống mà Chúa Giê-xu và các môn đồ Ngài gặp phải (Mat
14:13-21 15:29-33 những phân đoạn
tương đồng trong các sách Phúc Âm). Câu hỏi của Ghê-ha-xi, “Chi! Tôi phải phát
đồ nầy cho một trăm người sao?” (c.43) nghe giống như câu hỏi của Anh-rê về 5 cái
bánh và 2 con cá, “nhưng đông người dường nầy, thì ngần ấy có thấm vào đâu?” (Gi 6:9).
Nhưng Ê-li-sê biết rằng Đức
Giê-hô-va đang kiểm soát tình huống khó khăn nầy. Ông bảo đầy tớ mình phân phát
bánh và lúa, khi Ghê-ha-xi vâng lời, đồ ăn không chỉ đầy đủ cho mọi người mà
vẫn còn thừa lại. Lời Chúa đã phán ra và làm thành việc không thể làm được.
Khi Chúa Giê-xu nuôi năm ngàn người,
Ngài đã dùng phép lạ như một nền tảng để giảng sứ điệp cứu rỗi liên quan đến
Bánh hằng sống (6:25). Ê-li-sê không giảng,
nhưng phép lạ nầy nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Chúa Trời biết nhu cầu của chúng
ta và đáp ứng cho khi chúng ta tin cậy Ngài. Ngày nay chúng ta có tủ lạnh để
trữ thức ăn và đi chợ để mua thức ăn bất cứ khi nào chúng ta cần, có những tổ
chức từ thiện nhằm giúp người nghèo. Nhưng trong thời Ê-li-sê, người ta lo đồ
ăn từng ngày một. Đó là lý do Chúa Giê-xu dạy chúng ta cầu nguyện, “Xin cho chúng tôi hôm nay đồ ăn đủ ngày” (Mat 6:11). Trong suốt những năm tháng trốn trong
đồng vắng, Đa-vít đã sống nhờ vào sự cung ứng của Đức Chúa Trời, ông có thể
thốt lên rằng, “Trước tôi trẻ, rày đã già; Nhưng
chẳng hề thấy người công bình bị bỏ, hay là dòng dõi người đi ăn mày”
(Thi 37:25). Với sự giàu có của ân điển
Ngài, Đức Giê-hô-va đáp ứng mọi nhu cầu của chúng ta.
3. BA NGƯỜI – BA PHÉP
LẠ (IIVua 5:1-6:7)
Ê-li-sê là tiên tri làm
phép lạ, ông phục vụ và đáp ứng nhu cầu cho tất cả các hạng người. Trong phần
nầy, chúng ta sẽ thấy Ê-li-sê chữa lành cho quan tổng binh nổi tiếng, trừng
phạt người đầy tớ theo mình và giúp cho những học viên lười biếng trở lại với
công việc mình. Dường như giữa một quan tổng binh và lưỡi rìu bị mất có một
khoảng cách rất xa, nhưng cả hai đều quan trọng đối với Đức Chúa Trời và đầy tớ
của Ngài. Giống như Chúa Giê-xu khi Ngài thi hành chức vụ trên đất, Ê-li-sê đã
dành thời gian cho từng cá nhân và ông không bị chi phối bởi địa vị xã hội hay
điều kiện kinh tế của họ. “Lại hãy trao
mọi điều lo lắng mình cho Ngài, vì Ngài hay săn sóc anh em” (IPhi 5:7).
Nhưng cũng quan trọng
như những phép lạ trong phần nầy, chủ đề thánh chức còn quan trọng hơn. Chúa không
những ban cho Na-a-man một cuộc đời mới, Ngài cũng cho ông một mục đích mới trong cuộc sống, một chức vụ mới. Ông ta sẽ
trở về Sy-ri (A-ram) không chỉ là một quan tổng binh nữa, vì giờ đây ông là một
đại sứ của Đức Chúa Trời chân thần và hằng sống của Y-sơ-ra-ên. Na-a-man có
được mục đích mới cho cuộc đời mình, nhưng đáng tiếc Ghê-ha-xi đã đánh mất chức
vụ của ông ta vì tính kiêu ngạo và sự dối gạt của mình. Khi Ê-li-sê lấy lại
được lưỡi rìu bị rơi xuống nước, người học trò ấy đã lấy lại được “công cụ sắc
bén” của mình, và chức vụ đã được khôi phục cho anh ta.
1. Na-a-man - nhận lãnh
chức vụ (IIVua 5:1-19)
Tiên tri Ê-li được nhắc
đến 29 lần trong Tân Ước trong khi đó Ê-li-sê chỉ được nhắc một lần. “Trong đời
đấng tiên Ê-li-sê, dân Y-sơ-ra-ên cũng có nhiều
kẻ mắc tật phung; song không có ai lành sạch được, chỉ Na-a-man, người xứ Sy-ri
mà thôi” (Lu 4:27). Na-a-man là người Ngoại
bang và là quan tổng binh của một nước thù địch, nên không có gì bất ngờ khi
dân chúng ở Na-xa-rét đã oán giận Chúa, không nghe lời dạy của Ngài và chối bỏ
Ngài. Tại sao Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên chữa lành cho một người Ngoại bang
không thuộc về giao ước? Ông ta là một kẻ thù, đã bắt cóc các con gái Do thái,
là người bị bệnh phung lẽ ra phải bị cô lập cho đến
chết. Những người nầy không biết gì về ân điển tối thượng của Đức Chúa Trời.
Giống như Na-a-man, họ nổi giận, nhưng không giống Na-a-man, họ không biết hạ
mình và tin cậy Đức Giê-hô-va. Kinh nghiệm của Na-a-man với Ê-li-sê minh họa cho
chúng ta công việc bởi ân điển của Đức Chúa Trời để cứu rỗi tội nhân hư mất.
Na-a-man cần Đức
Giê-hô-va (IIVua 5:1-3). Vua
Sy-ri là Bên-Ha-đát II, với vai trò là quan tổng binh, Na-a-man là người đứng
thứ hai trong đất nước của mình. Nhưng với uy thế, quyền hạn và tài sản của
ông, ông là người bất hạnh vì dưới lớp quân phục sang trọng của ông là một cơ
thể bệnh phung. Qua câu 11 chúng ta thấy sự nhiễm bệnh có giới hạn ở một nơi,
nhưng bệnh phung có khuynh hướng lây lan và không thể ngăn chặn, cuối cùng nó
có thể gây chết người. Chỉ có quyền năng của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có
thể chữa lành cho ông.
Mặc dù Na-a-man không
nhận ra, nhưng Đức Giê-hô-va đã hành động thay ông
bằng cách ban cho ông chiến thắng trên dân A-si-ri. Giê-hô-va là Đức Chúa Trời
thộc về giao ước của dân Y-sơ-ra-ên, nhưng Ngài cũng là Đức Giê-hô-va của mọi
dân tộc và có thể sử dụng bất kỳ người nào, đã được cứu hoặc chưa được cứu, để
làm thành ý muốn của Ngài (Es 44:28 45:13 Exe 30:24-25).
Đức Giê-hô-va cũng đã làm một việc đầy nhân từ khi cho phép Na-a-man bắt một cô
gái Do thái về nhà làm tớ gái cho ông ta. Người con gái nầy là một nô lệ, nhưng
vì cô tin cậy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, cô đã được tự do. Hơn nữa, cô là
một chứng nhân khiêm nhường trước mặt bà chủ của mình. Nhưng lời nói của cô có
sức thuyết phục đến nổi bà chủ đã kể lại cho chồng và
ông ấy đã tâu lên với vua. Đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh của lời làm
chứng đơn sơ, vì Đức Chúa Trời có thể dùng lời nói của đứa trẻ và truyền
lời ấy đến tai vua.
Mặc dù Kinh Thánh không trực tiếp
nói rằng bệnh phung là hình ảnh của tội lỗi, nhưng khi đọc Le 13:1-59, chúng ta có thể thấy rõ những sự tương
đương. Giống như bệnh phung, tội lỗi lõm xuống sâu
hơn da (c.3), nó lây lan (c.7), nó ô uế (c.45), nó cô lập (c.46) và nó chỉ đáng
bị thiêu hủy trong lửa (c.52,57).
Tìm kiếm Đức Giê-hô-va (IIVua 5:4-10). Na-a-man không thể rời Sy-ri mà không được
vua cho phép, ông cũng cần một bức thư giới thiệu để ra được chính thức tiếp
kiến Giô-ram, vua của Y-sơ-ra-ên. Xét cho cùng, Sy-ri và Y-sơ-ra-ên là hai nước
thù địch, vì vậy việc quan tổng binh của Sy-ri đến Y-sơ-ra-ên có thể gây hiểu
lầm lớn. Cả Na-a-man và Bên-Ha-đát đều sai lầm khi cho rằng tiên tri sẽ làm
theo bất kỳ điều gì vua ra lệnh và rằng
cả vua và tiên tri sẽ thích đền ơn bằng những lễ vật quí giá. Vì lý do đó nên
Na-a-man đem theo 750 pao bạc và 150 pao vàng, cùng với nhiều vải vóc đắc tiền.
Đứa tớ gái không nói gì về vua và những lễ vật; cô ta chỉ nói về tiên tri
Ê-li-sê và những việc Đức Giê-hô-va có thể làm. Người không được cứu không biết
gì về Đức Giê-hô-va và chỉ phức tạp hóa những điều đơn giản (ICo 2:14). Chúng ta không được cứu nhờ đem dâng
những lễ vật cho Đức Chúa Trời, nhưng bởi đức tin để nhận được sự sống đời đời
mà Ngài ban cho (Eph 2:8-9 Gi 3:16,36 Ro 6:23).
Đây là cơ hội để vua Giô-ram làm
vinh hiển Đức Giê-hô-va và xây dựng mối giao hòa giữa Y-sơ-ra-ên và Sy-ri,
nhưng ông không thể lợi dụng được cơ hội đó. Mặc dù IIVua
3:11 cho biết Giô-ram và Ê-li-sê không thân thiết nhau, nhưng vua biết
Ê-li-sê là ai và những việc ông ta có thể làm. Ông ta cũng biết chắc rằng trách
nhiệm của Y-sơ-ra-ên là làm chứng về chúa cho các nước vô thần xung quanh (Es 42:6 49:6). Nhưng mối quan tâm của Giô-ram mang tính cá nhân và chính
trị, không mang tính thuộc linh, ông hiểu bức thư đó như một lời tuyên chiến. [9]. Với suy nghĩ đó, ông vội xé quần áo mình, một việc mà vua
ít khi làm; nhưng đầu óc vua đã mù quáng vì cớ vô tín, sự sợ hãi và ông không
hiểu những việc Đức Giê-hô-va đang hành động.
Tiên tri Ê-li-sê đang ở
tại nhà mình trong thành Sa-ma-ri, nhưng ông biết những gì vua nói và những việc vua làm trong cung, vì Đức Chúa Trời không giấu các đầy
tớ Ngài những điều mà họ cần biết (Am 3:7).
Lời của ông dành cho vua Giô-ram hẳn làm vua nổi giận, nhưng đồng thời Ê-li-sê
đang giải vây cho Giô-ram thoát khỏi sự sự lúng túng
và tình trạng phức tạp về chính trị có thể xảy ra. Vâng, có một vua trên ngôi,
nhưng trong Y-sơ-ra-ên còn có một tiên tri! Vua không giúp được gì, nhưng tiên
tri là ống dẫn để quyền năng Đức Chúa Trời phát lộ.
Ê-li-sê biết rằng
Na-a-man cần phải hạ mình trước khi ông được chữa lành. Quen với nghi thức
trong cung, vị quan tổng binh cao trọng nầy nghĩ rằng mình sẽ được công khai
tiếp đón và những lễ vật hậu hỉnh của ông sẽ được tiếp nhận với lòng cảm kích
sâu sắc, vì đó là cách các vua thường làm. Nhưng Ê-li-sê thậm chí không ra khỏi
nhà để đến tiếp rước người đó! Ê-li-sê đã sai sứ giả (có thể là Ghê-ha-xi?) đến
bảo ông ta đi đến sông Giô-đanh, cách đó 32 dặm, và ngâm mình xuống sông 7 lần.
Và sau đó ông ta sẽ được sạch bệnh phung.
Na-a-man đang tìm sự
giúp đỡ và giờ đây sự tìm kiếm của ông đã kết thúc.
Phản đối Đức Chúa Trời (IIVua 5:11-12).
Nếu Na-a-man bắt đầu hành trình của mình từ Đa-mách, thì ông đã đi hơn 100 dặm
đường để đến Sa-ma-ri, nên hơn 30 dặm nữa chắc không làm ông khó chịu. Nhưng vì
quan tổng binh ấy đã nổi giận. Nguyên nhân ông nổi giận là do tính kiêu ngạo
của ông. Ông đã nghĩ trong đầu mình về cách tiên tri sẽ chữa lành cho ông,
nhưng Đức Chúa Trời đã không làm theo cách đó. trước
khi tội nhân có thể nhận được ân điển của Đức Chúa Trời, họ phải đầu phục ý
muốn của Ngài, vì “Đức Chúa Trời chống cự kẻ kiêu ngạo, mà ban ơn cho kẻ khiêm
nhường” (IPhi 5:5 Ro
10:1-3). Tiến sĩ Donald Grey Barnhouse từng nói, “Mọi người đều có quyền
đi vào thiên đàng theo cách của Đức Chúa Trời hoặc đi vào địa ngục theo cách
của riêng họ.”
Đức Giê-hô-va hành động trên tính
kiêu ngạo của Na-a-man và có nhiều việc đã xảy ra. Vua Giô-ram không thể chữa
lành cho ông ta, tiên tri không đến cung vua, thậm chí còn không ra tiếp đón
ông ta, và ông ta phải ngâm mình dưới sông Giô-đanh dơ bẩn không chỉ một lần mà
đến bảy lần. Và ông lại là quan tổng binh, là người đứng thứ hai trong đất nước
Sy-ri! Nhà truyền giáo D.L. Moody đã nói khi giảng dạy phân đoạn nầy rằng, “Đó
là một vấn đề. Ông ta đã vạch ra cách riêng của mình để cho tiên tri theo đó mà
chữa lành cho ông, và điên tiết khi tiên tri không làm theo cách của ông”. Có
khác gì ngày nay không? Con người muốn được cứu khỏi tội bằng cách tham dự
những nghi thức tôn giáo, đi nhà thờ, dâng tiền cho Hội Thánh, thay đổi nếp
sống, làm việc lành, và nhiều việc khác thay vì tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu.
“Không phải cứu vì việc công bình chúng ta đã làm, nhưng cứ theo lòng thương
xót Ngài, bởi sự rửa về sự lại sanh và sự đổi mới của Đức Thánh Linh” (Tit 3:5).
Na-a-man có một vấn đề
khác: ông ta thích những con sông ở Đa-mách hơn con sông Giô-đanh đục ngầu nầy. [10]. Ông ta nghĩ sự chữa lành của ông sẽ nhờ vào
nước, nên dĩ nhiên nước sạch thì tốt hơn cho ông. Ông thà làm theo cách riêng
và đi về hơn 100 dặm còn hơn vâng theo cách của Đức Chúa Trời và đi tiếp 30
dặm! Ông ta đang ở gần sự cứu rỗi nhưng lại rất xa!
Tin cậy Đức Chúa Trời (IIVua 5:13-15a). Một lần nữa, Đức Giê-hô-va dùng các đầy tớ
để làm thành những mục đích của Ngài (c.2-3). Nếu Na-a-man không nghe theo lời
của tiên tri, có lẽ ông sẽ để ý đến lời khuyên của các đầy tớ đi theo ông. “Đức
Giê-hô-va phán: Bây giờ hãy đến, cho chúng ta biện luận cùng nhau” (Es 1:18). Ê-li-sê
không yêu cầu ông ta làm việc gì đó khó khăn hoặc không thể thực hiện được, vì
như vậy chỉ làm cho tính kiêu ngạo ông tăng lên.
Ê-li-sê muốn ông ta vâng theo một mệnh lệnh đơn giản và thực hiện một hành động
khiêm nhường, không có lý do gì để ông không phục tùng. Khi Na-a-man về Sy-ri
và kể lại câu chuyện của mình đến đoạn nầy, chắc chắc các bạn của ông ta sẽ
nói, “Ông làm cái quái gì vậy?” Đức tin mà không có sự vâng lời thì không phải
là đức tin.
Ông bước lên sau khi
ngâm mình dưới nước 7 lần, bệnh phung của ông được sạch và da ông trở nên như
da của trẻ con. Trong ngôn ngữ của Tân Ước, ông đã được sanh lại (Gi 3:3-8). “Quả
thật, ta nói cùng các ngươi, nếu các ngươi không đổi lại và nên như đứa trẻ,
thì chẳng được vào nước thiên đàng đâu” (Mat 18:3). Qua sự vâng lời của ông, ông đã bày tỏ
đức tin mình nơi lời hứa của Đức Chúa Trời, và Ngài làm
sạch bệnh phung cho ông. D.L. Moody lại nói, “Ông ta hết nổi giận và kiêu ngạo,
rồi ông ta được lành bệnh; đó là một trật tự chung cho những tội nhân chống
nghịch được cải đạo”. Na-a-man là một bằng chứng rõ rằng rằng Giê-hô-va Đức
Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là Đức Chúa Trời chân thật, hằng sống và Đức Chúa Trời
của cả thế gian. Ông đã từ bỏ các thần giả và thần tượng của Sy-ri, tin theo
Đức Giê-hô-va. Bằng chứng nầy là một bản cáo trạng chống lại và dân sự vua thờ
thần tượng của Y-sơ-ra-ên.
Phục sự Đức Giê-hô-va (IIVua 5:15b-19). Như mọi tân tín hữu khác, Na-a-man vẩn
cần phải học hỏi nhiều. Ông đã được cứu và được chữa lành nhờ tin cậy ân điển
của Đức Chúa Trời, giờ đây ông phải tăng trưởng trong ân điển, đức tin và học
cách sống làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, Đấng đã cứu ông. Thay vì vội vã về nhà báo tin vui, Na-a-man
trở lại nhà Ê-li-sê để tạ ơn Đức Chúa Trời và đầy tớ Ngài. (Lu 17:11-19). Có nghĩa là ông phải đi thêm 30 dặm
nữa, nhưng ông hẳn đã rất vui trong suốt hành trình đó. Đền ơn Ê-li-sê là việc
làm tự nhiên đối với Na-a-man, nhưng nếu Ê-li-sê chấp nhận những lễ vật đó, thì
ông sẽ tự cho mình có công trạng và cướp đi sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Đức
Chúa Trời cứu chúng ta “để khen ngợi sự vinh hiển của ân điển Ngài” (Eph 1:6,12,14). Ông cũng sẽ tạo cho Na-a-man, một người mới
cải đạo, có suy nghĩ rằng những lễ vật của ông ta đã góp phần trong sự cứu rỗi
của ông ta. Áp-ra-ham đã khước từ những lễ vật của vua Sô-đôm (Sa 14:17-24), Đa-ni-ên không nhận những của biếu
của vua (Da 5:17), Phi-e-rơ và Giăng từ chối
tiền của Si-môn (Cong 8:18-24).
Na-an-man bắt đầu tăng trưởng trong
sự hiểu biết Đức Chúa Trời, nhưng ông vẫn còn một hành trình dài để trải qua.
Ê-li-sê khước từ những lễ vật của ông, nhưng Na-a-man xin Ê-li-sê cho ông lấy
một ít đất về Sy-ri để dùng trong sự thờ phượng Đức Giê-hô-va. Trong những ngày
đó, dân chúng có suy nghĩ rằng các thần cửa một quốc gia ngự trong đất của quốc
gia đó, và nếu bạn ra khỏi xứ nào, thì bạn đã bỏ thần của xứ ấy lại phía sau.
Nhưng Na-a-man vừa xác nhận rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của cả thế gian
(c.15)! Nhưng việc lấy đất là một hành động dũng cảm, vì vua và các bạn của ông
ở quê nhà chắc chắn sẽ hỏi ông nó có ý nghĩa gì, ông sẽ phải nói cho họ về đức
tin của ông nơi Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên!
Trong lời thỉnh cầu thứ hai,
Na-a-man cho thấy một sự hiểu biết đặc biệt, vì ông biết rằng vua của ông sẽ
tiếp tục dùng ông trong vai trò quan tổng binh. Và như vậy ông thường phải theo
vua vào đền thờ của thần Rim-môn, thần của người Sy-ri ngang bằng với thần
Ba-anh. Bề ngoài Na-a-man sẽ tuân thủ theo nghi lễ nầy, nhưng ông muốn Ê-li-sê
biết rằng tấm lòng của ông không như vậy. Na-a-man đoán biết rằng sự lành bệnh
của ông, đời sống được thay đổi của ông sẽ có ảnh hưởng đến triểu đình và cuối
cùng sẽ làm cho vua cải đạo. Thay vì phê phán những
người làm việc trong các cơ quan nhà nước, chúng ta cần cầu nguyện cho họ vì họ
phải dối diện với nhiều quyết định rất khó khăn. [11].
Điều đáng lưu ý là
Ê-li-sê không trách mắng hay nhắc nhở ông nhưng chỉ nói, “Hãy đi bình yên”. Đây
là lời chúc thường gặp ở Do thái khi có một người chuẩn bị đi xa. Tiên tri
Ê-li-sê sẽ cầu nguyện cho ông và tin rằng Đức Chúa Trời sẽ dùng ông trong chức
vụ mới tại Sy-ri. Bệnh phung của Na-a-man đã được lành, ông vẫn còn vàng bạc mà
ông đã mang theo, ông đem đất của Y-sơ-ra-ên về, ông đã biết một Đức Chúa Trời
chân thật và hằng sống. Na-a-man sẽ là một nhân chứng trong xứ xở tăm tối của
ông – và người tớ gái của ông sẽ hợp sức với ông.
2. Ghê-ha-xi - đánh mất
chức vụ (IIVua 5:20-27)
Trong khi Na-a-man đang
cố sống theo lẽ thật và làm đẹp lòng Đức Chúa Trời, đầy tớ của Ê-li-sê đang dầm
mình trong sự dối gạt và những mong muốn bất khiết. “Ngươi
chớ tham…” là điều răn cuối cùng trong Mười Điều Răn (Xu
20:17), nhưng khi bạn vi phạm một điều răn nầy, bạn sẽ bị cám dỗ để phạm
9 điều răn còn lại. Người tham lam sẽ để cho của cải vật chất làm thần tượng
trong cuộc đời mình, sẽ làm chứng dối, trộm cắp, làm ô danh Đức Chúa Trời, bất
hiếu với cha mẹ, và thậm chí sẽ giết người. Ghê-ha-xi đang suy đồi trong đời
sống thuộc linh, và đây là đỉnh điểm. Ông đã đuổi người đàn bà có con trai đang
chết (IIVua 4:27), và ông không có quyền
phép gọi đứa bé sống lại (4:31). Giờ đây
tính tham lam của ông đang điều khiển ông, nó dẫn đến sự dối trá, cuối cùng nó
làm cho Ghê-ha-xi mắc bệnh phung. Căn bệnh ngoài da nầy biểu hiện cho sự mục
rữa bên trong.
Ông dối gạt chính mình (IIVua 5:20). Khi từ chối những lễ vật, Ê-li-sê đã không
“dễ dãi” với Na-a-man nhưng đã dạy cho tín hữu non trẻ nầy một bài học khó.
Ghê-ha-xi đang đánh giá tư cách của thầy mình như cách thế gian thường đánh
giá, mà không theo cách của Đức Chúa Trời. Giống
như các môn đồ của Chúa Giê-xu khi thấy Ma-ri xức dầu cho Ngài, đã nói, “Sao
xài phí …?” (Mac 14:3-9), trong trường hợp
của Ghê-ha-xi, ông nghĩ Ê-li-sê làm như vậy là lãng phí cơ hội làm giàu. Ong
tin rằng ông sẽ là người giàu hơn và hạnh phúc hơn nếu ông lấy một ít lễ vật
của Na-a-man và rằng ông có quyền làm điều đó. “Hãy
giữ cẩn thận chớ hà tiện gì hết; vì sự sống của người ta không phải cốt tại của
cải mình dư dật đâu” (Lu 12:15).
Chắc chắc Ghê-ha-xi biết Na-a-man
được lành bệnh và được cứu rỗi hoàn toàn nhờ ân điển của Đức Chúa Trời và việc
nhận các lễ vật đó có thể gây cho vị quan tổng binh ấy có suy nghĩ rằng ông có
thể tự cứu mình ở một phương diện nào đó. Rồi khi trở về Sy-ri, Na-a-man sẽ
phải kể lại chuyện lễ vật, điều nầy chỉ có thể làm yếu đi lời làm chứng của ông
ta. Áp-ra-ham khước từ của cải của vua Sô-đôm nên ông sẽ không làm tổn hại đến
lời làm chứng của ông trước mặt dân thành Sô-đôm, là những người cần biết Đức
Chúa Trời (Sa 14:1-24). Phi-e-rơ và Giăng
không nhận tiền bạc của vì sợ rằng họ tạo cho người Sa-ma-ri thành kiến rằng ân
tứ của Đức Chúa Trời có thể mua được bằng tiền (Cong
8:20). Sứ đồ Phao-lô còn không chịu nhận sự
giúp đỡ về tài chính của Hội Thánh Cô-rinh-tô vì sợ dân sự nghĩ rằng ông giống
như các triết gia lưu động khác, chỉ vì mục đích kiếm tiền. [12].
Ghê-ha-xi đã lấy danh
Chúa làm chơi khi ông nói, “Ta chỉ Đức Giê-hô-va hằng sống mà thề” (c.16,20),
khi ông có ác tưởng trong lòng và dự tính phạm tội. Chúng ta có suy nghĩ rằng
Ghê-ha-xi không kính sợ Đức Chúa Trời và tự ý dùng danh của Ngài một cách cẩu
thả. Nếu ông ta tôn kính danh của Đức Chúa Trời - điều răn thứ ba, Xu 20:7 – ông ta sẽ
không bị tính tham làm điều khiển.
Ông nói dối Na-a-man (IIVua 5:21-24). Đoàn tùy tùng của Na-a-man chưa đi quá xa nên
Ghê-ha-xi có thể đuổi theo và bắt kịp (4:26,29).
Na-a-man cho dừng xe và bước xuống đến đón đầy tớ của Ê-li-sê với vẻ kính
trọng. (Cong 8:31). Có lẽ Ê-li-sê nhắn nhủ
gì thêm với ông, hay cần gì ở ông. Thái độ tôn trọng như vậy của quan tổng binh
đối với một đầy tớ người Do thái cho thấy rằng Đức Chúa Trời đã thay đổi tấm
lòng của ông ta. Na-a-man chào ông, “Mọi việc đều
bình an chớ?” và Ghê-ha-xi đáo lại, “Mọi việc đều bình an”. Nhưng không phải
tất cả đều bình an! Khi tấm lòng của một con người đầy dẫy lòng tham lam
và môi miệng ông đầy sự đối trá, anh ta không thể hưởng được sự bình an, với ý
nghĩa là “yên ổn, thoải mái, trọn vẹn, thịnh vượng, an ninh”.
Khi thực hiện kế hoạch
của mình, Ghê-ha-xi không chỉ lấy danh Đức Chúa Trời làm chơi, ông ta còn sử
dụng công việc của Đức Chúa Trời như một “lớp áo che đầy tính tham lam” (ITe 2:1-6).
Mượn danh của Ê-li-sê, ông nói dối với Na-a-man khi hỏi xin một ít lễ vật cho
hai môn đồ của các tiên tri ở Bê-tên và Ginh-ganh. Nhưng trường tiên tri nầy
nằm ở vùng núi Ép-ra-im. Chúng ta không thể chê trách Na-a-man vì đã tin lời
Ghê-ha-xi, dù sao ông ta cũng là một tín hữu non trẻ
và thiếu kinh nghiệm trong nhận thức.” Chủ tôi sai tôi…” là một lời nói dối cố
tình, dù Ghê-ha-xi không nhận ra, nhưng chủ của ông ta biết hết những việc ông
ta đã làm. Na-a-man không chỉ cho Ghê-ha-xi nhiều hơn những gì ông ta xin,
Na-a-man còn sai hai đầy tớ mình mang đi cho ông ta. Khi ba người đi đến ngôn
đồi Sa-ma-ri (hoặc có thể là một ngọn đồi giữa Sa-ma-ri và họ). Ghê-ha-xi lấy
gói đồ và cho hai đầy tớ đi về, vì ông sợ có người nhận ra họ và nghi ngờ.
Ghê-ha-xi đang ở gần nhà thầy mình và ông ta phải cẩn thận để thầy không biết
việc ông ta đã làm.
Ông nói đối Ê-li-sê (IIVua 5:25-27). Như một người vô tội, Ghê-ha-xi đến đứng
trước mặt chủ mình và chờ lệnh; nhưng ông ta nhận biết mình đang gặp vấn đề!
Ghê-ha-xi quên rằng “Chẳng có vật nào được giấu kín
trước mặt Chúa, nhưng thảy đều trần trụi và lộ ra trước mắt Đấng mà chúng ta
phải thưa lại” (He 4:13). Đức Chúa Trời biết
việc Ghê-ha-xi đã làm và Ngài cũng cho đầy tớ của Ngài biết. Chi tiết nầy nhắc
chúng ta nhớ chuyện Giô-suê chất vấn A-can (Gios
7:1-26) và Phi-e-rơ chất vấn A-na-nia và Sa-phi-ra (Cong 5:1-42), tất cả những người nầy cũng đã tham
lam và nói dối vì nó.
Ê-li-sê không chỉ biết việc đầy tớ
mình làm, nhưng ông còn nhìn thấy tấm lòng của ông ta và biết tại sao ông ta
lại hành động như vậy. Ghê-ha-xi muốn trở nên giàu có với ruộng đất, các bầy
gia súc, quần áo đắc tiền và nhiều tôi tớ biết nghe lời. Ông không thích cực
nhọc bên cạnh tiên tri Ê-li-sê, ông muốn có tiện nghi và sự bảo đảm. Giàu có
không có gì là sai trái, nếu đó là ý muốn của Đức Chúa Trời cho đời sống bạn,
vì Áp-ra-ham, Y-sác và cả Đa-vít đều là những người rất giàu. Nhưng thật sai
trái khi chiếm của cải nhờ trò lừa gạt và để của cải làm thần tượng trong cuộc
đời mình. Ghê-ha-xi đã lợi dụng chức vụ Đức Chúa Trời giao phó như một phương
tiện để lừa gạt Na-a-man, và điều đó làm trái ý Đức Chúa Trời (ITe 2:1-6 IICo 2:17
4:2).
Đức Chúa Trời trừng phạt Ghê-ha-xi;
ông bị bệnh phụng và mỗi thế hệ con cháu của ông sẽ có ít nhất một người bị
bệnh phung. Tội tham lam đã phá hủy tấm lòng của ông, và giờ đây nó trở thành
bệnh phung ăn lan toàn cơ thể ông. Ghê-ha-xi ao ước để lại của cải cho con cháu
mình, nhưng ông chỉ để lại cho họ nỗi ô nhục và đau đớn. Ở Y-sơ-ra-ên, người
mắc bệnh phung không được phép xuất hiện nơi công cộng và sống bình thường như
bao người. Ghê-ha-xi không còn được làm đầy tớ của Ê-li-sê nữa; ông đã đánh mất
chức vụ của mình. “Đừng ham tiền bạc” là một trong những phẩm chất của tôi tớ
Đức Chúa Trời (ITi 3:3). Một trong những dấu
hiệu của ngày sau rốt là con người mê tham tiền bạc hơn là yêu nến Đức Chúa
Trời và người khác (IITi 3:1-5).
3. Những học viên -
được phục hồi chức vụ (IIVua
6:1-7)
Ê-li-sê không chỉ là một
nhà truyền giáo lưu động và một tiên tri làm phép lạ, ông còn là một nhà giám
thị của nhiều trường tiên tri, nơi đào tạo và động viên những người trẻ tuổi
được kêu gọi vào chức vụ. Chúng ta biết
có các trường ở Ginh-ganh, Bê-tên, Giê-ri-cô (2:1-5)
và ở Ra-ma, là quê hương của Sa-mu-ên (ISa 19:22-24),
nhưng có thể còn có những trường khác. Cả Ê-li và Ê-li-sê đều mong mõi thế hệ
sau hiểu biết Đức Giê-hô-va và Lời Ngài, và đây cũng là trách nhiệm của Hội
thánh ngày nay (IITi 2:2). D.L. Mooody và
Charles Spurgeon không có đặc ân được đào tạo chính thức trong chức vụ, nhưng
cả hai đều thành lập trường và vẫn đang đào tạo các đầy tớ của Đức Chúa Trời
ngày nay. Phục vụ cho thế hệ của chúng ta là tốt, nhưng chúng ta cũng đừng quên
những thế hệ sau mình.
Đoạn thuật nầy tiếp theo IIVua 4:44. Đức Chúa Trời ban ơn cho trường học ở
Giê-ri-cô và thấy cần mở rộng chỗ học của họ. Các học viên cùng học với nhau
thì tiên tri Ê-li-sê đến thăm, vì họ đã gặp mặt ông và ngồi trước mặt ông nghe
ông dạy dỗ (c.1). Họ cùng ăn chung với nhau (4:38-44),
nhưng họ về sống với gia đình riêng của mình (4:1-7).
Thật là một dấu hiện đáng mừng khi Đức Chúa Trời dấy lên một thế hệ mới để hầu
việc Ngài và khi những đầy tớ lão luyện của Đức Chúa Trời dành thời gian dạy dỗ
họ.
Nhưng sự phát triển mới sinh ra
những trở ngại mới, những cơ sở tại Giô-đanh cần được mở rộng. Các trường học
ngày nay sẽ vận động quyên góp, thuê kiến trúc sư và những nhà thầu xây dựng,
nhưng trong thời của Ê-li-sê, các học viên phải làm
những việc ấy. Không những vậy, hiệu trưởng của trường còn phải làm việc với họ
và động viên họ. Ê-li-sê có tấm lòng của một người chăn và sẳn sàng ở bên cạnh
bầy chiên của mình và chia xẻ gành nặng với họ.
Người Do thái không có
những cửa hàng bán công cụ lao động như chúng ta có ngày nay. Những công cụ
bằng sắt rất quí và hiếm, điều nầy giải thích tại sao các học viên phải mượn
rìu để đốn gỗ. (Khi tôi còn học trong trường, tôi cũng không có một dụng cụ nào). Không chỉ công cụ khan hiếm, chúng còn rất nặng nề và
không bền như những công cụ ngày nay. Thật ra, Môi-se đã có một luật đặc biệt
liên quan đến tai nạn do lưỡi rìu vô tình văng ra khỏi cán (Phu 19:4-5), nên sự cố ấy chắc rất thường xảy ra.
Nếu luật pháp về việc mượn con vật cũng áp dụng cho việc mượn dụng cụ (Xu 22:14-15), thì người học trò nghèo đó phải bồi
thường cho chủ nó cái lưỡi rìu đã mất, có thể điều đó đã làm cho anh ta lo
ngại. Không có rìu, anh ta không thể làm việc và sẽ làm bạn bè anh thêm cực
nhọc. Thật sự, lưỡi rìu bị mất đã gây ra một vấn đề lớn.
Người học trò nhanh mắt nhìn thấy
chỗ lưỡi rìu rơi xuống nước và thành thật kể lại sự rủi ro đó với Ê-li-sê. Sông
Giô-đanh không phải là dòng sông có nước trong nhất ở Đất Thánh (IIVua 5:12) và thật rất khó nhìn thấy lưỡi rìu nằm
dưới đáy sông. Tiên tri Ê-li-sê không lấy cây sào móc lưỡi rìu lên. Ông đã ném
một nhánh cây nhỏ xuống nước ngay chỗ lưỡi rìu đã
rớt, và Đức Giê-hô-va đã khiến cho lưỡi rìu sắt ấy nổi lên mặt nước và người
học trò ấy đã lấy nó lên dễ dàng. Đây là phép lạ đặc biệt của Đức Chúa Trời
quyền năng thông qua một đầy tớ có lòng thương xót.
Có một vài bài học thuộc
linh mà chúng ta có thể học được quan sự kiện nầy, và có lẽ bài học đầu tiên là bất cứ gì mà chúng ta
đã từng “vay mượn”. Phao-lô đã hỏi, “Ngươi há có điều chi mà chẳng
đã nhận lãnh sao?” (ICo 4:7), và Giăng
Báp-tít nói, “Ví chẳng từ trên trời ban cho, thì không một người nào có thể
lãnh chi được” (Gi 3:27). Bất cứ những ân
tứ, khả năng, của cải và cơ hội nào chúng ta có đều đến từ Đức Chúa Trời, chúng
ta sẽ phải kê khai chúng khi chúng ta gặp mặt Đức Chúa Trời.
Người học trò nầy mất công cụ quí
giá khi anh ta đang hầu việc Đức Chúa Trời.
Phục vụ với lòng trung thành là quan trọng, nhưng nó có thể là mối đe dọa, vì
chúng ta có thể mất điều gì đó thật giá trị khi chúng ta đang làm việc. Môi-se
đã mất kiên nhẫn và sự mềm mại khi ông lo liệu nước uống cho dân sự (Dan 20:1-3), Đa-vít mất bình tĩnh đối với người
lân cận mình (ISa 25:13), Đầy tớ của Đức
Chúa Trời phải bước đi thận trọng trước mặt Đức Giê-hô-va và đánh giá đúng
“những công cụ” của mình, kẻo e họ sẽ đánh mất điều mà vô cùng cần thiết đối
với họ.
Một tin vui đó là Đức Chúa Trời có thể phục hồi những gì chúng ta đánh mất
và đem chúng ta về với công việc mình. Nếu chúng ta đánh mất “công
cụ sắc bén” của mình, Ngài có thể tìm lại nó cho chúng ta và khiến chúng ta
được kết quả trong công việc phục sự Ngài. Điều quan trọng là phải biết bạn đã
mất nó, đã mất khi nào, ở đâu, và thành tâm xưng nhận với Đức Chúa Trời. Rồi hãy
trở lại với công việc!
Trong khi chúng ta đang nói về
chuyện những cái rìu, Tr 10:10 cho chúng ta
một lời khuyên hay, “Cái rìu lụt mà không mài lưỡi nó lại, ắt phải ráng sức
càng nhiều; nhưng sự khôn ngoan có ích đặng dẫn dắt”. Một câu nói có nghĩa
tương tự, “Don’t work harder work smarter (Đừng làm ráng sức hãy làm việc cách
khôn ngoan)”. Người khôn ngoan biết mài sắc công cụ của mình trước khi làm
việc. Nhưng khúc Kinh Thánh trong sách Các vua nầy còn nhắc chúng ta phải cẩn
thận tra chặt lưỡi rìu vào cán nó. Đừng làm việc
khi không có công cụ sắc bén và đừng để mất công cụ của mình.
4. TRẬN CHIẾN THUỘC VỀ
ĐỨC-GIÊ-HÔ-VA (IIVua 6:8-7:20)
Theo điểm của chúng ta,
Đức Giê-hô-va rất có lý khi chọn Ê-li, “con trai của sấm sét”, đương đầu với kẻ
thù xâm lược Y-sơ-ra-ên; nhưng Ngài đã chọn Ê-li-sê, người trai trẻ hiền lành. Ê-li-sê giống như “tiếng nói nhỏ nhẹ” theo sau tiếng
ồn ào của gió, động đất, và lửa (IVua 19:11-12),
giống như Chúa Giê-xu đến sau Giăng Báp-tít, người có cái rìu trong tay. Qua
lời công bố về sự ngay thẳng của Đức Chúa Trời và lời kêu gọi dân sự ăn năn,
Ê-li-sê và Giăng Báp-tít đều là những người dọn đường cho người kế nhiệm mình
trong chức vụ, vì nếu không có sự thuyết phục có thể sẽ không có sự biết đổi
thật sự.
Trong Kinh Thánh, người luôn đóng
vai chính trong vở kịch là Đức Giê-hô-va, không phải là nhà tiên tri. Qua những
gì ông nói và làm, cũng như qua những gì ông không làm, Ê-li-sê đã bày tỏ cho
vua Giô-ram và dân sự của ông ta thấy bản tánh của Đức Chúa Trời của
Y-sơ-ra-ên. Giê-hô-va không giống các thần tượng của các nước khác (Thi 115:1-18), vì chỉ
một mình Ngài là Đức Chúa Trời chân thần và hằng sống.
1. Đức Chúa Trời, Đấng
nhìn thấy (IIVua 6:8-14)
Mỗi khi dân Sy-ri có kế hoạch tấn
công vào biên giới, Đức Giê-hô-va đều báo cho Ê-li-sê biết để ông cảnh báo cho
vua. Thần Ba-anh không bao giờ làm được như vậy với vua Giô-ram, vì các thần
tượng, “…có mắt mà chẳng thấy” (Thi 115:5).
Đức Chúa Trời không chỉ nhìn thấy những hành động của con người, Ngài còn biết
tư tưởng (94:11 139:1-4)
và tấm lòng của họ (Ch 15:3,11 Gie 17:10 Cong 1:24).
Hầu hết dân sự ở vương quốc phía bắc Y-sơ-ra-ên đều không trung tín với Đức
Giê-hô-va, nhưng trong ơn nhân từ thương xót của Ngài, Ngài vẫn chăm sóc cho
họ. “Đấng gìn giữ Y-sơ-ra-ên; Không hề nhắm mắt,
cũng không buồn ngủ” (Thi 121:4).
Vua Sy-ri tin chắc rằng trong trại
quân của mình có một kẻ phản bội, vì người vô tín thường giải thích mọi việc
theo cái nhìn của thế gian. Những người thờ thần tượng trở nên giống các thần
mà họ thờ lạy (115:8) nên Bên-Ha-đát cũng
đui mù giống như thần Rim-môn của ông (IIVua 5:18).
Tuy nhiên, một trong những viên quan của Bên-Ha-đát biết chuyện gì đang xảy ra
và báo cho vua biết rằng tiên tri Ê-li-sê giữ vai trò “tình báo chính trị” và
biết hết những gì vua nói và làm ngay trong phòng ngủ mình.
Như vậy giải pháp hợp lý là phải trừ
khử Ê-li-sê. Một lần nữa bạn thấy sự ngu dốt của vua, vì nếu Ê-li-sê biết hết
kế hoạch tấn công của vua, thì chắc chắn Ê-li-sê cũng biết ý định nầy – và thật
ông đã biết! Những thám tử của Bên-Ha-đát tìm thấy Ê-li-sê tại Đô-than, cách đô
thị của Sa-ma-ri khoảng 12 dặm về phía bắc. Quê hương của Ê-li-sê ở
A-bên-mê-hô-la, nhưng trong chức vụ lưu động của ông, ông đã đi từ thành nầy
đến thành khác. Với cái nhìn của con người, ông ta sẽ được an toàn hơn nếu ở
trong thành Sa-ma-ri có tường bao bọc, nhưng ông không hề lo sợ, vì ông biết
Đức Chúa Trời luôn chăm sóc ông. Một đội quân lớn với ngựa, xe và bộ binh cùng
tập trung tấn công vào ban đêm cũng không làm Ê-li-sê lo lắng một chút nào. Đây
không phải và toàn bộ đội quân nhưng chỉ là một toán quân đông người như khi
tấn công vào biên giới (c.23 5:2 13:20 24:2).
Khi các đầy tớ của Đức Chúa Trời ở
trong ý muốn Đức Chúa Trời và thực hiện công việc của Ngài, họ rất quan trọng
cho đến khi công việc ấy được làm thành. Các môn đồ cố làm Chúa Giê-xu nản lòng
để không đi về Giu-đê, nhưng Ngài khẳng định với họ rằng Ngài đang thực hiện
theo “sự sắp xếp thánh” và vì vậy sẽ an toàn trọn vẹn (Gi
11:7-10). Chỉ khi “giờ đã đến” (13:1 17:1) các kẻ thù của Ngài có quyền bắt Ngài và
đóng đinh Ngài. Nếu mắt Đức Chúa Cha đoái xem con chim sẻ (Mat 10:29), thì chắc chắn Ngài cũng đang đoái xem
các con yêu dấu của Ngài.
2. Đức Chúa Trời, Đấng
che chở (IIVua 6:15-17)
Người đầy tớ nầy không
phải là Ghê-ha-xi, vì ông ta đã bị cách chức. Người trẻ tuổi nầy thức sớm, một
ưu điểm của anh ta, nhưng anh ta hãy còn yếu kém trong đức tin mình. Nhìn thấy
quân thù bao vây thành phố, anh ta lo lắng như bao người bình thường khác và
chạy đến nhờ Ê-li-sê giúp đỡ.
Một người phụ nữ đã nói
với nhà truyền giáo D. L. Moody rằng bà đã tìm thấy một lời hứa tuyệt vời đó là bà sẽ được
bình an trong cơn hoạn nạn, và bà trích dẫn Thi
56:3. “Trong ngày sợ hãi, tôi sẽ để lòng nhờ cậy nơi Chúa”. Moody bảo
ông có một lời hứa tuyệt hơn cho bà, và ông trích Es
12:2, “Nầy, Đức Chúa Trời là sự cứu rỗi
tôi; tôi sẽ tin cậy và không sợ hãi.” Chúng ta không biết những lời
hứa nào của Chúa xuất hiện trong trí và lòng của Ê-li-sê, vì chính đức tin nới
Lời Đức Chúa Trời sẽ đem lại sự bình an trong cơn giông bão. Có lẽ ông nhớ đến
lời của Đa-vít trong Thi 27:3, “Dầu một đạo
binh đóng đối cùng tôi, lòng tôi sẽ chẳng sợ; Dầu giặc giã dấy nghịch cùng tôi,
khi ấy tôi cũng có lòng tin cậy vững bền”. Hoặc lời của Môi-se trong Phu 20:3-4 đã xuất hiện trong trí ông, “…lòng các
ngươi chớ nhát, chớ sợ, chớ run rẩy, và chớ kinh khiếp vì chúng nó; bởi
Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi là Đấng cùng đi với các ngươi, đặng vì các
ngươi đánh kẻ thù nghịch và giải cứu cho”.
Ê-li-sê không bối rối trước kẻ thù;
ông chỉ lo cho người đấy tớ đang kinh hãi của mình. Nếu anh ta tiếp tục bước đi
và phục sự Đức Chúa Trời, người trai trẻ ấy phải đối diện với nhiều hoàn cảnh
khó khăn, nguy hiểm, và anh ta phải học biết tin cậy Đức Chúa Trời. Chúng ta có
thể sẽ cầu nguyện xin Chúa cho lòng anh ta được bìn an và tâm trí anh ta được
bình tịnh, nhưng Ê-li-sê cầu xin Chúa mở mắt cho anh ta. Người đầy tớ nầy đang
sống sống theo những gì anh ta thấy, không phải bởi đức tin và không thể nhìn
thấy đội binh thiên sứ hùng mạnh của Đức Chúa Trời đang bảo vệ quanh thành. Đức
tin có thể giúp chúng ta nhìn thấy được đội quân vô hình của Đức Chúa Trời (He 11:27) và tin chắc Ngài sẽ ban chiến thắng cho
chúng ta. Gia-cốp có một trải nghiệm tương tự trước khi ông gặp lại Ê-sau (Sa 32:1-32), và Chúa Giê-xu biết rằng nếu Cha Ngài
muốn thì đội binh thiên sứ sẽ đến giải cứu Ngài (Mat
26:53). “Các núi vây quanh Giê-ru-sa-lem
thể nào, Đức Giê-hô-va vây phủ dân sự Ngài thể ấy” (Thi 125:2). “Thiên
sứ Đức Giê-hô-va đóng lại chung quanh những kẻ kính sợ Ngài, và giải cứu họ”
(34:7). Các thiên sứ là đầy tớ của dân sự
Đức Chúa Trời (He 1:14), cho đến khi chúng
ta được cất lên trời, chúng ta sẽ không bao giờ biết các thiên sứ Ngài đã giúp
chúng ta nhiều bao nhiêu.
3. Đức Chúa Trời, Đấng
tỏ lòng thương xót (IIVua
6:18-23)
Ê-li-sê không cầu xin Chúa
ra lệnh cho đội binh thiên sứ tiêu diệt lực lượng của Bên-ha-đát. Như với các
nước ngày nay, thất bại chỉ làm cho họ nuôi chí trả thù càng hơn, và Bên-ha-đát
sẽ sai một lực lượng khác đến. Đức Chúa Trời cho Ê-li-sê một kế hoạch tốt hơn.
Ông vừa cầu xin Chúa mở mắt cho người đầy tớ của mình, nhưng lúc nầy ông xin
Chúa làm mù mắt các binh lính Sy-ri. Các binh lính ấy không hoàn toàn đui mù,
nếu không thì họ không thể đi theo Ê-li-sê, nhưng mắt họ bị che khuất theo cách
thấy mà không hiểu gì. Họ tưởng rằng mình đang được dẫn đến nhà của Ê-li-sê,
nhưng Ê-li-sê đang dẫn họ đến thành Sa-ma-ri!
Khi Ê-li-sê đi ra gặp
đội quân Sy-ri, ông đã nói dối họ (c.19)? Không phải vậy, vì ông không còn ở
Đô-than nữa mà thật đang đi đến Sa-ma-ri. Tiên tri Ê-li-sê thật sự đang cứu
mạng họ, vì nếu để cho vua Giô-ram, ông ta sẽ giết chết họ (c.21). Ê-li-sê
không dẫn đội quân đến gặp người mà họ cần gặp. Khi đội quân đến Sa-ma-ri, các lính
canh chắc rất bất ngờ khi thấy tiên tri Ê-li-sê dẫn đầu một đội quân, nhưng họ
nghe lời ông mở cửa thành và sau đó Đức Chúa Trời mở mắt cho đội quân. Tưởng
tượng xem quân Sy-ri sửng sốt thế nào khi thấy mình đang ở giữa thủ đô của
Y-sơ-ra-ên và sự nhân từ của dân Y-sơ-ra-ên.
Vua Giô-ram sẽ giết sạch những binh
lính Sy-ri nầy và qui chiến thắng về cho chính mình, nhưng Ê-li-sê ngăn lại.
Vua gọi Ê-li-sê một cách nhẹ nhàng là “Hỡi cha!” (câu 21), một từ mà đầy tớ
thường dùng để gọi chủ mình (IIVua 5:13),
nhưng sau đó, vua muốn lấy đầu của Ê-li-sê (c.32)!. Giống như vua gian ác
A-háp, cha mình, ông có thể giết người vô tội hôm nay và rồi tỏ ra “hiền lành”
trước Đức Giê-hô-va ngay hôm sau (IVua 21:1-29).
Người hai lòng làm gì cũng không kiên định (Gia 1:8)
Câu trả lời của Ê-li-sê khiếm vua
không thể làm chủ được tình thế. Giô-ram đánh bại kẻ thù nầy ngoài chiến trường
không? Không! Nếu ông đạnh bại được, ông có thể giết chết những tù binh của
mình; nhưng nếu ông không thể, người chiến thắng sẽ có toàn quyền quyết định
trên những tù binh họ bắt được. Những người nầy không phải là những tù binh, họ
là khách của Ê-li-sê, nên vua phải tiếp đãi họ. Giô-ram biết rằng đãi họ ăn
đồng có nghĩa là lập giao ước với họ (Sa 26:26-31),
nhưng ông đã nghe theo. Thật ra, vua đã làm hơn những gì Ê-li-sê yêu cầu; vua
bày một tiệc lớn cho các binh lính Sy-ri.
Sa-lô-môn có viết, “Nếu kẻ thù
nghịch con có đói, hãy cho nó ăn;Nếu có khát, hãy cho nó uống; Vì như vậy con
chất than cháy đỏ trên đầu nó, và Đức Giê-hô-va sẽ báo lại cho con” (Ch 25:21-22). Trong Ro
12:20-21, Phao-lô trích những lời nầy và áp dụng cho tín hữu ngày nay,
cũng xem thêm lời của Chúa Giê-xu trong Mat 5:43-48
và Lu 6:27-36. Vua Giô-ram muốn giết chết
người Sy-ri, nhưng Ê-li-sê “giết họ bằng lòng nhân từ”. Qua việc cùng ngồi ăn
uống chung với nhau, họ đã lập một giao ước hòa bình và quân Sy-ri sẽ không còn
xâm lấn Y-sơ-ra-ên nữa.
Cách nầy có đẩy lùi được những xung
đột ngày nay không? Chúng ta phải nhớ rằng Y-sơ-ra-ên là dân giao ước và Đức
Giê-hô-va đánh trận cho họ. Không có nước nào có thể đòi hỏi những đặc ân nầy.
Nhưng nếu lòng nhân từ thay thế cho sự phân biệt chủng tộc và tôn giáo hình
thành từ lâu đời, cũng như thay cho tính kiêu ngạo và sự tham lam, thì sẽ không
bao giờ có chiến tranh và những vụ ném bom xảy ra. Nguyên tắc nầy cũng áp dụng
cho nạn ly hôn và bạo hành trong gia đình, những sự bất hòa và phá rối trong
xóm giềng, sự gây rối nơi công cộng, sự chia bè phái và xung đột trong cộng
đồng. “Phước cho những kẻ hay thương xót, vì sẽ
được thương xót!” (Mat 5:7).
4. Đức Chúa Trời, Đấng
gìn giữ giao ước Ngài (IIVua
6:24-33)
Những cuộc xâm lấn kết
thúc, nhưng Bên-ha-đát II quyết định gây chiến trở lại [13] Những
người lãnh đạo phải chứng tỏ mình trước dân sự mình, đánh thắng và cướp bóc các
nước láng giềng là một trong những cách chứng tỏ sức mạnh và sự khôn ngoan của
mình. Lần nầy ông sai toàn bộ lực lượng tấn công khi Giô-ram không đề phòng. Có
lẽ hòa bình trong thời gian dài khiến Giô-ram mất cảnh giác và cho rằng quân
Sy-ri không còn là mối đe dọa. Giô-ram không phải là người sắc sảo trong lãnh
vực chính trị.
Cuộc bao vây kéo dài rất lâu và dân
trong thành đang chết đói. Có lẽ tiên tri Ê-li-sê khuyên vua nên chờ đợi
(c.33), và hứa rằng Đức Giê-hô-va sẽ hành động, nhưng họ càng đợi, tình hình
càng tệ hơn. Nhưng phải nhớ rằng Đức Chúa Trời đã cảnh cáo nếu dân sự không gìn
giữ giao ước Ngài, Ngài sẽ trừng phạt họ. Trong số những hình phạt của Ngài có
sự thất bại trong chiến tranh (Le 26:17,25,33,36-39 Phu 28:25-26,49-52) đói kém (Le
26:26,29
Phu 28:17,48), và giờ đây Y-sơ-ra-ên đang chịu cả hai. Nếu
vua Giô-ram kêu gọi dân sự ông ăn năn và cầu nguyện, tình hình chắc đã thay đổi
(IISu 7:14). Dân
sự buộc phải ăn những đồ ăn không thánh sạch, như đầu con lừa và phân bồ câu,
họ phải mua những thứ nầy với giá rất đắt - hai pao bạc cho cái đầu lừa và 2
aoxơ bạc cho một ô phân bồ câu. [14].
Nhưng tệ hại hơn, dân chúng
đã ăn thịt cả con cái mình! Đây cũng là một hình phạt được
báo trước cho tội vi phạm giao ước của Đức Chúa Trời (Le
26:29 Phu 28:53-57). Vua Giô-ram gặp
hai người đàn bà khi ông đi trên tường thành quan sát thành phố. Một người kêu
xin ông giúp đỡ, và ông nghĩ bà cần đồ ăn và nước uống. Câu trả lời của Giô-ram
có ý oán trách Đức Chúa Trời hơn là quở trách tội lỗi của dân sự. Chỉ một mình
Đức Chúa Trời có thể làm đầy sân đạp lúa, bàn ép rượu và cung ứng đồ ăn thức
uống. Nhưng người đàn bà nầy không cần đồ ăn nước uống; bà đòi hỏi sự công
bình. Bạn của bà không giữ đúng thỏa thuận nhưng đã giấu con trai của bà ta!
Giô-ram quá kinh hoàng trước tình
trạng sa sút của đất nước, ông đã công khai xé áo dài mình, không phải vì buồn
khổ và ăn năn nhưng vì nổi giận đối với Đức Chúa Trời và Ê-li-sê (IIVua 5:7). Khi ông xé áo mình, ông phơi bày một
sự thật là ông đang mặc bao gai bên trong chiếc áo dài của vua, nhưng bao gai
thì có ích gì khi không có sự hạ mình và ăn năn từ trong lòng? Lời tiếp theo
của ông nói rõ rằng ông không chịu trách nhiệm gì trước tình trạng bị bao vây,
đói kém nầy và rằng ông muốn giết chết Ê-li-sê. Ông còn thốt ra lời thề mà ông
học được từ người mẹ gian ác của mình, bà Giê-sa-bên (c.31 IVua 19:2). A-háp, cha của Giô-ram gọi Ê-li-sê là
“kẻ làm rối-loạn Y-sơ-ra-ên” (18:17), lúc
nầy Giô-ram trách Ê-li-sê vì cảnh ngộ khó khăn của Sa-ma-ri. Vua sai một sứ giả
đến bắt Ê-li-sê và đem ông ra giết chết.
Nhưng tiên tri Ê-li-sê không lo lắng
hay sợ hãi, vì Đức Giê-hô-va luôn báo cho Ê-li-sê biết mọi điều ông cần biết.
Khi Ê-li-sê ngồi trong nhà với các trưởng lão trong xứ mình, là những người
lãnh đạo tìm đến với Ê-li-sê để được cố vấn và giúp đỡ, thì ông biết người được
lệnh bắt ông đang trên đường đi. Ông cũng biết rằng chính vua cũng hộ tống ông
ta để bảo đảm sự hành hình được thực hiện. Ê-li-sê đã nói rõ rằng ông không
thừa nhận quyền hạn của vua Y-sơ-ra-ên vì Giô-ram không thuộc dòng dõi của
Đa-vít (IIVua 3:14). Giô-ram là con của
A-háp, kẻ giết người, chính vua A-háp đã cùng vợ mình giết các tiên tri của Đức
Chúa Trời vì họ phản đối việc thờ phượng thần Ba-anh (IVua
18:4). Họ cũng giết Na-bốt, người làng giềng của họ để chiếm tài sản của
ông ta (IVua 21:1-29).
Ê-li-sê bảo các trưởng lão đóng chặt
cửa cho đến khi hai người ấy đến đứng bên ngoài. Việc đứng chờ ở cửa không giúp
gì cho sự nóng giận của vua, vua lên tiếng nói với Ê-li-sê, “Tai nạn nầy đến
bởi Đức Giê-hô-va. Vậy, ta còn trông cậy nơi Đức Giê-hô-va làm chi?” (c.33). Lẽ
ra vua nên nói, “Ta là nguyên nhân gây ra thảm cảnh nầy và ta ăn năn tội lỗi
mình! Hãy cầu nguyện cho ta!” Có một điều khoản trong giao ước dành cho sự ăn
năn và tha thứ (Phu 30:1-20) mà chỉ có hiệu
lực khi vua Giô-ram và dân sự ông biết tận dụng nó. Đức Giê-hô-va luôn giữ giao
ước Ngài, hoặc để ban ơn cho dạn sự Ngài hoặc để trừng phạt nếu họ không vâng
lời.
5. Đức Chúa Trời, Đấng
làm thành những lời hứa của Ngài (IIVua 7:1-20)
Ê-li-sê và các trưởng
lão cho vua cùng với người đi theo và sứ giả của vua vào nhà không? Họ đã cho
vào, nhưng Giô-ram là một người khẽ khàng khi cửa mở ra
không giống A-háp, cha ông, khi bị Ê-li buộc tội giết Na-bốt (IVua 21:17). Sứ điệp mà
Đức Giê-hô-va dành cho vị vua chống nghịch nầy là quân thù đang bao vây thành
và sự đói kém đang ở trong thành, vua vẫn không ăn năn.
Tin mừng từ Đức
Giê-hô-va (IIVua
7:1-2). Thật may mắn cho nước Y-sơ-ra-ên vì
tiên tri Ê-li-sê sống và làm việc giữa vòng họ! Suốt lịch sử Do thái, trong
những lúc khó khăn, các tiên tri đều nhận được sứ điệp từ Đức Chúa Trời cho dân
sự Ngài, dù họ có vâng theo hay không. Vua Giô-ram có thể đã nhờ thần
Ba-anh, nhưng không có kết quả. Đức Giê-hô-va đã phán qua “các tiên tri, là tôi
tớ Ngài” (21:10).
Giô-ram muốn điều gì đó xảy ra ngay
tức thì; ông không còn chờ được nữa. Nhưng Ê-li-sê đã mở đầu sứ điệp bằng câu
“ngày mai, tại giờ nầy”. Chuyện gì đã xảy ra? Đồ ăn với giá cắt cổ sẽ hạ giá
đột ngột. Bột lọc cho con người, lúa mạch cho loài vật chỉ mắc gấp đôi bình
thường. Quá rẻ so với giá mà người ta đã phải trả cho những đồ ăn không thánh
sạch.
Quan cai theo vua không tin vào lời Ê-li-sê và đã chế giễu ông. “Dầu cho Đức Giê-hô-va mở các
cửa sổ trên trời, điều đó há có được sao?” ông ta hỏi. Với tấm lòng khiêm hạ
đối với Đức Chúa Trời, Lời Ngài sẽ sinh
ra đức tin; nhưng với tấm lòng kiêu ngạo, Lời Chúa chỉ làm nó thên cứng cỏi.
Giống như mặt trời làm băng tan chảy, nhưng sẽ làm đất sét chai cứng. Sáng hôm
sau, tất cả những người trong thành chống lại quan cai nầy sẽ ý thức được sự
sống, nhưng ông ta nhận lãnh cái chết.
Tin mừng từ trại của
kẻ thù (IIVua 7:3-16).
Chuyện nầy xảy ra bên ngoài cổng thành Sa-ma-ri, nơi 4 người phung bị biệt lập
(Le 13:26). Không ai nói cho họ biết lời hứa
của Ê-li-sê về đồ ăn. Họ đã trò chuyện
với nhau về tình trạng khốn khó của mình và kết luận: nếu họ ở tại cửa thành,
họ sẽ chết đói, nhưng nếu họ đi về phía trại của quân thù, có thể họ xin được
chút gì đó để ăn. Dù cho quân Sy-ri có giết họ đi nữa, cũng còn tốt hơn là
đói khát mà chết dần chết mòn. Sợ người trong thành nhìn thấy, họ đợi đến trời
tối mới đi đến trại quân Sy-ri. Lúc đó có thể cả trại đều đi ngủ, họ sẽ chỉ
phải gặp một vài lính canh.
Nhưng không có ai ở đó! Đức
Giê-hô-va đã khiến cho họ nghe tiếng ồn ào như tiếng xe ngựa của một đạo quân
lớn đang kéo đến, quân Sy-ri đã bỏ trại mình chạy trốn về phía sông Giô-đanh
cách đó 25 dặm và đã vứt tứ tung những của cải của họ ở lại (c.15) Đức
Giê-hô-va đánh bại dân Mô-áp với một phép lạ mà họ thấy bằng mắt (IIVua 3:20-23) giờ đây Ngài đánh bại quân Sy-ri
bằng phép lạ mà họ nghe được. Họ nghĩ quân Ê-díp-tô và
Hê-tít đang kéo đến tiêu diệt họ. [15]. Bốn người phung đã làm một việc mà bất kỳ
người đói nào cũng làm: họ ăn no và cướp của cải giấu đi.
Tuy nhiên, khi đêm
xuống, họ dừng lại tiếp tục bàn bạc và xem xét tình hình. Tại sao cả thành đang
chết đói, mẹ phải ăn thịt con, trong khi 4 người bệnh tật nầy lại ích kỷ hưởng
thụ những của cải dư thừa trong khu trại bị bỏ hoang nầy? Hơn nữa, đến sáng hôm
sau, cả thành sẽ phát hiện ra kẻ thù họ đã bỏ trốn, họ sẽ thắc mắc tại sao 4
người phung không thông báo cho họ biết. Khi sự thật được phơi bày, 4 người nầy
sẽ bị trừng trị vì tội không báo tin vui. [16].
Trong đêm đó họ tìm
đường quay về thành và đến gần người lính canh. Vì 4 người nầy sống ngay ngoài
cổng thành, những lính canh chắc biết rõ họ. Những người phung báo tin vui cho
lính canh và anh ta báo cho những đồng nghiệp khác, một người trong số họ chạy đến báo tin cho
vua. Một lần nữa, vua tỏ ra vô tín và bi quan (3:10,13), ông nói rằng
tất cả điều đó chỉ là một âm mưu, kẻ thù đang trốn đâu đó chỉ để dụ dân chúng
ra khỏi thành và họ sẽ tấn công vào. Đó là cách Giô-suê đánh bại thành A-hi (Gios 8:1-35). Vua nghi ngờ tin báo của 4 người
phung giống như đã bác bỏ lời của Ê-li-sê vậy. Nếu ông tin Lời Đức Chúa Trời,
ông sẽ tin lời của 4 người phung.
Một trong những viên quan của vua đã
khôn ngoan bày kế cho vua. Vua nghe theo sai một vài người cỡi ngựa đi khảo sát
tình hình. Nếu tất cả là một âm mưu và họ bị giết, thì dân chúng sẽ không ra
khỏi thành, vì vậy họ sẽ không bị mất gì. Viên quan nầy cần 5 con ngựa nhưng
vua chỉ tìm được cho ông 2 xe, mỗi xe 2 con ngựa. Sau đó họ theo lối thoát đi
ra sông Giô-đanh, khoảng 25 dặm đường, và thấy trên đường nhiều quần áo và đồ
đạc mà dân Sy-ri bỏ lại trên đường tháo chạy.
Các thám tử trở về thành báo tin vui
rằng quân Sy-ri đã chạy trốn và trại của họ đang bỏ
không. Thật là một ngày vui mừng khi dân sự lại tìm được đồ để ăn và bánh trong
thành mình, không kể những đồ quí có thể đổi thành tiền mặt. Nhưng bài học
chính không phải là Đức Chúa Trời giải cứu dân sự Ngài dù họ không xứng đáng, nhưng đó là Đức Chúa Trời làm thành lời hứa
mà Ngài phán với tiên tri Ê-li-sê. Chú ý cụm từ “lời Đức Giê-hô-va” được
nhấn mạnh trong câu 16-18.
Chúa Giê-xu đã hứa sẽ trở lại, nhưng
trong những ngày sau rốt, dân sự nghi ngờ và thậm chí phủ nhận lời hứa đó. Làm
trọn những lời mà Phi-e-rơ viết trong IIPhi 3:1-18,
những kẻ nhạo báng bấy giờ sẽ xuất hiện và hỏi, “Chớ nào lời hứa về sự Chúa đến
ở đâu?” Hội Thánh giống như 4 người bệnh phung: Chúng ta biết tin mừng về sự
cứu rỗi và chúng ta không nên giữ nó cho riêng mình.
Nếu người ta không tin Lời Chúa, họ sẽ không sẳn sàng cho ngày Chúa trở lại;
nhưng nếu chúng ta không loan báo cho họ sứ điệp đó, họ không thể nào chuẩn bị
đón Chúa trở lại. Chúng ta sẽ nói gì khi chúng ta gặp mặt Ngài?
Tin buồn cho viên quan
của vua (IIVua 7:17-20).
Dường như viên quan nầy dần dần chấp nhận thái độ vô tín và bi quan của vua. Đối với ông, giá cả không thể nào hạ xuống
thấp chỉ trong một ngày, và không thể nào bột lọc và lúa mạnh có sẳn cho dân chúng một cách nhanh chóng như vậy. Nhưng
Đức Chúa Trời đã làm được! Chính những con người tưởng chừng sẽ chết đói đã
xông ra ngoài cổng thành. Họ làm ông ta ngã nhào, giẫm lên ông ta và ông ta
chết. Lời Chúa còn sống động nhưng người phủ nhận Lời Ngài bị giẫm chết.
Chúa Giê-xu đã nói, “Trời đất sẽ qua, nhưng lời ta nói chẳng bao giờ qua đi” (Mat 24:35).
5. GẶT LẤY HẬU QUẢ CỦA
TỘI LỖI (IIVua 8:1-9:37 IISu 21:1-22:9)
Ê-li-pha đã nói một điều
ngu ngốc với Gióp, người bạn đang đau khổ của mình, nhưng ông cũng nói đến một
vài nguyên tắc đời đời, một trong số đó là “Theo điều tôi đã thấy, ai cày sự gian ác, và gieo điều khuấy rối, thì lại gặt lấy nó” (Giop 4:8). Sa-lô-môn lập lại lẽ thật nầy trong Ch 22:8, “Kẻ nào gieo sự bất công sẽ gặt điều tai
họa;” và tiên tri Ô-sê nói về nó một cách sinh động, “Vì chúng nó đã gieo gió
và sẽ gặt bão lốc” (Os 8:7). Giê-rô-bô-am,
Ôm-ri và A-háp đã dẫn vương quốc phía bắc Y-sơ-ra-ên vào sự thờ lạy thần tượng,
Giê-hô-ra là người cưới con gái của A-háp, đã đem thần Ba-anh vào vương quốc
Giu-đa. Cả hai nước đều chống nghịch Đức Giê-hô-va và bị ô uế vì tội thờ thần tượng,
nhưng đây là lúc sự đoán phạt sẽ xảy đến trên triều đại của A-háp, cái ngày mà
Ê-li đã tiên báo (IVua 21:21,29)
1. Sự cao cả của Đức
Chúa Trời (IIVua 8:1-6)
Rõ ràng sự kiện nầy phải
xảy ra trước khi Na-a-man được chữa lành (IIVua 5:1-27),
vì vua sẽ không nghênh tiếp người bệnh phung bước vào cung, mà sau sự kiện đó
Ghê-ha-xi đã là một người phung (5:27). Tác
giả sách II Các vua không viết theo trật tự thời gian, chúng ta không chắc
Ghê-ha-xi đang kể chuyện của thầy mình cho vua nào nghe. Có lẽ sự kiện nầy xảy
ra vào những ngày đầu trong thời trị vì của vua Giô-ram. Phần nầy nhắc chúng ta
sự cao cả của Đức Giê-hô-va. Những sự kiện sau đó cho thấy tình trạng tội lỗi
của dân sự, nhưng phần nầy nhắc chúng ta rằng Đức
Chúa Trời thật vĩ đại và sẽ làm thành những mục đích của Ngài dù con người phạm
tội, hoặc nặng hoặc nhẹ.
Đức Chúa Trời cai trị
thiên nhiên (IIVua 8:1-2).
Chúng ta được giới thiệu người đàn bà Su-nem giàu có và gia đình của bà trong 4:8-37. Đức Chúa Trời thường dùng nạn đói kém để
trừng phạt dân sự Ngài khi họ không vâng lời và để nhắc họ nhớ những điều khoản
trong giao ước của Ngài (Phu 28:17,48). Nạn đói kém
nầy có thể là nạn được đề cập trong 4:38.
Tiên tri báo trước cho người đàn bà ấy về nạn đói kém để bà và gia đình lánh
nạn sang Phi-li-tin kiều ngụ ở đó một thời gian. Nhờ biết trước nạn đói kém, bà
có thể tìm được một chỗ tạm trú ở Phi-li-tin trước những người Y-sơ-ra-ên khác.
Lưu ý chồng bà không được nhắc đến ở đây; nhưng vì ông già hơn bà (4:14), có lẽ ông đã qua đời.
Nạn đói kém xảy ra vì Đức Chúa Trời
đã cho nó xảy ra, Ngài có thể ra lệnh cho nó vì Ngài là Chúa của tất cả. “Ngài
khiến cơn đói kém giáng trong xứ, và cất hết cả lương thực” (Thi 105:16). Trong buổi sáng thế, Đức Chúa Trời
phán và mọi tạo vật được dựng nên (Sa 1:1-31),
ngày nay Đức Chúa Trời phán và mọi tạo vật phải vâng theo ý nuốn của Ngài (Thi 148:1-14). Trong khoảng thời gian bị trừng
phạt và khốn khổ, nếu dân sự của Đức Chúa Trời cầu nguyện và ăn năn tội lỗi
mình, Đức Chúa Trời sẽ giải cứu họ (IISu 7:14).
Khi dân sự quên Lời Đức Chúa Trời, Ngài có thể phán
quan tạo vật của Ngài và nhắc họ nhớ ai đang cai trị họ.
Đức Chúa Trời cai trị
sự sống và sự chết (IIVua
8:3-5). Khúc Kinh Thánh thuật lại những phép lạ xảy ra trong cuộc đời
của người đàn bà Su-nem mặc khải quyền phép đáng kinh sợ của Đức Chúa Trời. Bà
chưa có con và chồng bà đã già, nhưng giống như trường hợp của Áp-ra-ham và
Sa-ra (Sa 17:1-27), Đức Giê-hô-va đã ban cho
họ một đời sống mới, bà đã mang thai và sinh một con trai. Nhưng đứa bé ấy bị
bệnh và chết, rồi Đức Giê-hô-va đã gọi cậu bé sống lại. Đức Chúa Trời cho chúng
ta được sống động trên thế gian (Thi 66:9),
“Trong tay Ngài cầm hồn của mọi vật sống, và hơi
thở của cả loài người” (Giop 12:10).
“Vì tại trong Ngài, chúng ta được sống, động, và
có” (Cong 17:28). Những nạn đói
nhắc chúng ta rằng chỉ một mình Đức Chúa Trời có thể làm cho thiên nhiên sinh
kết quả, sự chết nhắc chúng ta rằng chỉ một mình Đức Chúa Trời ban sự sống và
có quyền cất đi sự sống. “Chẳng có ai cai trị được sanh khí để cầm sanh khí
lại; lại chẳng ai có quyền về ngày chết” (Tr 8:8).
Đức Chúa Trời trong ơn
thần hựu cai trị mọi sự trên đất (IIVua 8:5-6). Ngay giây phút Ghê-ha-xi thuật lại
phép lạ đứa trẻ sống lại, mẹ của đứa trẻ đang gặp khó khăn! Trở về quê bà thấy
rằng kẻ lạ đang chiếm đoạt đất đai của bà và hoa lợi của nó trong 7 năm bà vắng
mặt. Trong thời đó, dân chúng thường đến gặp trực tiếp vua khi họ gặp những vấn
đề tương tự, vua sẽ quyết đinh nên phân xử thế nào. Việc Ghê-ha-xi đứng ra làm
chứng giúp vua dễ dàng xét xử. Nhiều năm trước, khi
con trai bà chết, người mẹ ấy không biết rằng sẽ có một ngày chuyện buồn đó
giúp bà giữ được tài sản mình.
Từ “thần hựu” trong
tiếng Anh là “providence”, nó xuất xứ từ 2 từ La-tinh, pro
và video, hai từ này cùng có nghĩa là “thấy trước, biết trước”. Đức Chúa
Trời không chỉ biết chuyện gì sẽ xảy ra; Ngài còn định trước chuyện gì sẽ xảy
ra trong tương lai và thực hiện ý định Ngài một cách hoàn hảo. Có lẽ một từ
chính xác hơn là “prearrangement” (sắp đặt trước). Không cách nào thần hựu của
Đức Chúa Trời can thiệp vào quyền chọn lựa của chúng ta hoặc trách nhiệm
của chúng ta đối với sự chọn lựa của mình và hậu quả của nó. (ISu 29:11 Giop 41:11
Thi 95:3-5 135:6
139:13-18 Da
4:35 Gia 4:13-15).
Tình tiết đáng vui mừng xảy ra trong
cung vua nầy mặc khải cho chúng ta bản tánh của Đức Chúa Trời và chuẩn bị chúng
ta đối diến với những sự kiện rắc rối xảy ra tiếp theo. Ha-xa-ên sẽ giết
Ben-ha-đát và trở thành vua của Sy-ri. Giê-hu sẽ quét qua xứ và giết vua, các
hoàng tử và những thầy tế lễ ngoại đạo khi ông xóa sổ nhà A-háp và sự thờ lạy
thần Ba-anh. Hoàng hậu Giê-sa-bên gian ác và Hoàng thái hậu A-tha-li đều sẽ
chết và trả giá cho những việc làm gian ác của họ. Một thời điểm rối ren trong
lịch sử! Tuy vậy, Đức Giê-hô-va vẫn trên ngôi của Ngài, trừng trị tội lỗi và
làm thành Lời Ngài. Dù lịch sử thế nào đi chăng nữa, Đức Chúa Trời vẫn nắm
quyền kiểm soát. Ngài biết mọi sự và có thể làm mọi sự. Ngài có ở khắp mọi nơi,
thực hiện ý muốn của Ngài. Ngài là Đức Chúa Trời thánh khiết, Đấng nhẫn nhịn
với tội lỗi nhưng trừng phạt những ai không vâng lời Ngài. Thế gian của chúng
ta đang dao động (He 12:25-29), nhưng Đức
Chúa Trời của chúng ta là chốn để chúng ta nương cậy
mà làm những việc phải lẽ.
2. Sự gian ác của lòng
người (IIVua 8:7-15)
Khi Đức Giê-hô-va gặp
tiên tri Ê-li trên Núi Hô-rếp (IVua
19:8-18), Ngài ban cho ông nhiệm mạng ba trong một: xức dầu cho Ha-xa-ên
làm vua Sy-ri, cho Giê-hu làm vua Y-sơ-ra-ên, và cho Ê-li-sê làm tiên tri kế
nhiệm ông (19:15-16). Trước khi về trời,
Ê-li đã làm trọn được một phần trong nhiệm mạng đó, xức dầu cho Ê-li-sê (19:19-21), nên chúng ta đoán rằng Ê-li-sê sẽ lãnh
trách nhiệm làm thành 2 phần còn lại. Giê-hu sẽ trở thành cây roi được Đức Chúa
Trời xức dầu để trừng phạt đất nước của các con cháu
gian ác và tôn giáo sai lạc của A-háp.
Sứ mệnh của Ê-li-sê (IIVua 8:7-13). Ê-li-sê cần phải có đức tin và lòng can đảm
để đi đến Đa-mách. Dù sao, ông cũng từng nhiều
lần ngăn trở Sy-ti tấn công các thành biên giới của Y-sơ-ra-ên (IIVua 6:9-12) ông từng sỉ nhục đội quân Sy-ri khi
dẫn họ đến Sa-ma-ri và dân Do thái đã có thể cướp bóc trại quân của họ (7:1). Nhưng Ê-li-sê cũng đã chữa lành bệnh phung
cho Na-a-man, là một người Sy-ri (5:1), khi
Ê-li-sê dẫn đoàn quân Sy-ri vào thành Sa-ma-ri, ông đã tỏ lòng nhân từ khoan
dung đối với họ và cứu mang sống họ.
Việc Bên-Ha-đát vua Sy-ri lâm bệnh
và muốn được Đức Giê-hô-va giúp đỡ làm cho sự đến của Ê-li-sê càng có ý nghĩa
hơn. Một vị vua ngoại bang vô thần đang cần tiên tri của Đức Giê-hô-va giúp đỡ.
Hơn nữa, Bên-ha-đát đã sai Ha-xa-ên, một trong những quan lớn trong triều đến
gặp Ê-li-sê và tặng lễ vật quí giá cho người. Những lễ vật nầy giống như “của
hối lộ” và vua hy vọng rằng sự rời rộng của ông sẽ khiến Ê-li-sê cho ông một
câu trả lời tốt đẹp. Nhưng giống như thầy mình, Ê-li-sê không nhận những lễ vật
đó (5:14-16). Gọi vua Sy-ri là “con trai
ông” khi nói chuyện với Ê-li-sê, Ha-xa-ên muốn tỏ lòng tôn kính Ê-li-sê nhiều
hơn (6:21). Sau đó ông đã hỏi đến vấn đề
chính: vua Sy-ri có được khỏi bệnh không?
Dường như Ê-li-sê cố tình trả lời
không rõ ràng, vì bản tiếng hy-ba-lai có thể được hiểu là, “Vua chắc sẽ lành
bệnh” hoặc “Vua chắc sẽ không lành bệnh” (xem chú thích ngoài lề của bàn NIV).
Tiên tri có lẽ muốn nói rằng, “Căn bệnh đó sẽ không làm vua chết, nhưng vua sẽ
chết vì một lý do khác”. Nói cách khác, căn bệnh không làm chết người, nhưng
vua sắp phải chết. Là một quan lớn bên cạnh vua, Ha-xa-ên muốn đem tin vui về
cho vua, nên ông không nói ra vế sau của thông điệp. Ê-li-sê không nói đối với
Ha-xa-ên. Câu hỏi của Ha-xa-ên, “Vua có lành bệnh không?” là câu hỏi
“có-không”. Không, bệnh sẽ không giết chết vua, nhưng có một điều khác nào đó
sẽ giết chết ông. Tuy nhiên, Ê-li-sê không cho biết, “điều khác” đó là gì và
khi nào nó xảy ra.
Ê-li-sê nhìn chăm vào Ha-xa-ên, như
thể đọc được tâm trí và tấm lòng của ông ta, sau đó tiên tri cất tiếng khóc.
Đức Giê-hô-va cho Ê-li-sê thấy bạo lực và máu đổ mà Ha-xa-ên gây ra, những hành
động tàn bạo nầy không xa lạ gì trong những cuộc chiến ngày xưa (15:16 Os 13:16 Am 1:3-5). Câu trả lời của Ha-xa-ên cho thấy rằng
ông nhận biết thân phận thấp kém của mình trong chính
quyền và tự hỏi phải nhờ vào đâu ông có quyền làm những việc đó. [17]. Khi tự nhận mình là
“một con chó”, ông ta không muốn ám chỉ bản tính xấu xa “Nhưng kẻ tôi tớ ông là
ai, chẳng qua là một con chó đó thôi; sao làm nổi công sự lớn dường ấy?” nhưng
đúng ra ông ta là người tầm thường, một đầy tớ hèn mọn của vua, một người không
có quyền hạn lớn như vậy. Câu trả lời của Ê-li-sê làm ông ta kinh ngạc:
Ha-xa-ên sẽ có mọi quyền hạn mà ông ta muốn vì ông ta sẽ là vua của Sy-ri. Kinh
Thánh không chép, nhưng có thể đây là lúc Ê-li-sê xức dầu thánh cho Ha-xa-ên.
Nếu đúng như vậy, Ha-xa-ên là vua duy nhất của yse, Vương Quốc phía Bắc, được
xức dầu của Đức Giê-hô-va.
Trước khi Ê-li-sê tuyên
bố Ha-xa-ên sẽ được làm vua, Ê-li-sê có lẽ đã nhìn thấy âm mưu giết vua trong
lòng Ha-xa-ên. Hay, lời của tiên tri đã kích động lòng Ha-xa-ên? Dù thế nào đi
nữa, Ê-li-sê cũng không trách Ha-xa-ên vì những gì Ha-xa-ên quyết định thực
hiện. Ha-xa-ên chấp nhận việc mình sẽ làm vua kế vị, nhưng ông không hỏi bằng
cách nào ông được làm vua. Ê-li-sê nói rõ rằng vua đương nhiệm sẽ chết, nhưng
không vì căn bệnh của mình. Ha-xa-ên có thể lý luận, “Nếu vua sẽ chết, thì tại sao phải chờ đợi
thêm? Tại sao không lấy mạng vua và làm vua sớm khi nào tốt khi ấy?” Khi lòng
người nuôi ý tưởng gian ác, nó có thể có mọi cách biện hộ cho mình. “Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa:
ai có thể biết được?” (Gie 17:9).
3. Sự thoả hiệp ngu dại
(IIVua 8:16-29) (IISu 21:1-20)
Tác giả lại xây qua nói
về Giu-đa, vương quốc phía nam và cho chúng ta biết vua Giô-ram (để tránh nhầm
lẫn ta gọi là Giê-hô-ram) đã làm cho dân sự bội đạo và gánh chịu sự trừng phạt
của Đức Chúa Trời. Trong vòng 5 năm, Giê-hô-ram cùng nhiếp chính với Cha mình,
Giô-sa-phát, khi Giô-sa-phát băng hà, Giê-hô-ram lên ngôi. Giê-hô-ram đã cưới A-tha-li, con gái A-háp,
Giô-sa-phát đã hiệp với A-háp đánh dân Mô-áp tại Ra-mốt Ga-la-át (IVua 22:1-54). Nói cách khác, bức tường ngăn cách
giữa triều đại Đa-vít ở Giu-đa và con cháu A-háp ở Y-sơ-ra-ên dần dần sụp đổ. Tương lai của kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời
dựa vào sự tồn tại của triều đại Đa-vít, như vậy Giê-hô-ram đang nằm trong tay
của kẻ thù. Vì thoả hiệp với vua gian ác của Y-sơ-ra-ên, Giê-hô-ram không làm
đẹp lòng Đức Chúa Trời là làn đất nước suy yếu.
Một vương triều kinh
hoàng (IIVua 8:16-22). Khi
được làm vua, Giê-hô-ram theo gương Giê-sa-bên và giết chết hết các anh em mình
và tất cả những ai đe dọa đến quyền lực của ông ta (IISu 21:1-7). Cha của
ông dành cho mỗi người con mình một thành kiên cố để cai quản, và Giê-hô-ram
không muốn họ liên kết chống lại ông. Thay vì kêu gọi các anh cùng cầu nguyện
và thờ phượng Đức Chúa Trời tại đền thờ, tìm kiếm ơn phước Ngài, ông đã theo
cách của A-háp và Giê-sa-bên và dùng guơm để cai trị dân sự. Giê-hô-ram muốn
gạt các anh mình sang một bên để họ không thể chống đối chính sách thờ thần
Ba-anh của ông. Giê-sa-bên đã thắng một lần nữa.
Đức Chúa Trời có thể tiêu diệt vua
và nước của vua, nhưng vì Đa-vít, Ngài đã giữ triều đại ấy tồn tại (c.19 IVua 11:36 15:4
Thi 89:29-37 132:17).
Nhưng Đức Giê-hô-va làm cho Giu-đa gặp nhiều thất bại, kể cả cuộc nổi dậy của
dân Ê-đôm và Líp-na (c.20-22 IISu 21:8-11).
Đa-vít đã từng đánh bại Ê-đôm (IISa 8:13-14 IVua 11:15-17) nhưng giờ đây họ được tự do và có
vua của riêng mình. Lực lượng của Giô-ram đã xâm lấn
Ê-đôm nhưng lại bị quân Ê-đôm bao vây và may mắn phá được vòng vây để thoát
thân.
Lời cảnh cáo (IISu 21:12-15). Chúng ta đã biết rằng tác giả II
Các vua không viết theo trật tự thời gian, và đây là một ví dụ. Tình tiết Ê-li
được cất lên trờ được ghi lại trong IIVua 2:11,
nhưng vua Giê-hô-ram của Giu-đa, con trai Giô-sa-phát, được đề cập trong 1:17. Điều nầy có nghĩa là Ê-li còn sống và thi
hành chức vụ trong những năm đầu thời trị vì của Giê-hô-ram. Chúng ta không
biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua kể từ khi Giô-ram, vua Y-sơ-ra-ên lên ngôi
cho đến những sự kiện được ghi lại trong 2:1-24,
trong đó có sự cất lên trời của Ê-li. Viết thư nầy
cho vua Giu-đa có lẽ là một trong những nhiệm vụ cuối cùng của Ê-li. [18].
Tiên tri nhắc Giê-hô-ram
nhớ 3 vị vua vĩ đại của Giu-đa: Đa-vít, người đã lập vượng triều, A-sa, vị vua
tin kính Chúa đã thanh trừ xứ xở gian ác (IVua 15:9-24 IISu 14:1-16:14) và
Giô-sa-phát, cha của Giê-hô-ram. [19]. Thay vì theo gương ba vị vua nầy, Giê-hô-ram đã bắt chước A-háp.
Kết quả, dân sự đã theo gương xấu của ông ta và không khó khăn để ông ta làm
cho sự thờ phượng thần Ba-anh trở nên phổ biến ở Giu-đa, là nơi phải thờ phượng
một mình Giê-hô-va mà không có sự thỏa hiệp nào.
Giê-hô-ram không chỉ thờ
thần tượng, ông còn giết người; ông đã giết chính các anh em mình; nên đã đến
lúc Đức Giê-hô-va bắt ông ta phải gặt những gì ông ta đã gieo. Kẻ thù sẽ xâm
lấn và cướp phà nước Giu-đa, chiếm đoạt của cải, vợ con của Giê-hô-ram. Sau đó,
vua sẽ bị đau đớn vì một căn bệnh nan y và cuối cùng đã chết. Cả hai điều được
tiên báo nầy đều trở thành sự thật. Dân Phi-li-tin và Ả-rập đã xâm chiến
Giu-đa, cướp cung điện với những kho của cải của nó, bắt vợ và các con trai của
Giê-hô-ram , trừ đứa con nhỏ A-ha-xia, còn được biết là Giô-a-cha. Vua bị bệnh
gan và ruột rất nặng và qua đời sau đó 2 năm. Nhưng dân chúng không đau buồn vì
cái chết của ông ta, họ cũng không tổ chức lễ tang theo truyền thông hoàng gia
để tôn vinh ông. Có lẽ điều sỉ nhục nhất là xác của ông không được chôn trong
lăng của hoàng gia, dù được chôn ở trong thành Đa-vít. [20].
Sự thỏa hiệp của
Giê-hô-ram có đáng bỏ công không? Dĩ nhiên không! “Có một con đường coi dường
chánh đáng cho loài người;Nhưng cuối cùng nó thành ra cái nẻo sự chết” (Ch 16:25).
Thật tiếc thay
A-cha-xia, con trai ông, đã theo gương ông, A-cha-xia nầy cũng là hậu duệ của
nhà A-háp, vì mẹ ông, A-tha-li là con gái của A-háp. [21]. A-cha-xia hiệp với cậu
mình, Vua Giô-ram, để chiếm Ra-mốt Ga-la-át khỏi tay Ha-xa-ên, vua Sy-ri,và ở đó
Giô-ram đã bị thương. Ông đến cung điện của mình tai Gít-rê-ên để dưỡng thương,
và vua A-cha-xia đến đó tăm viếng và động viên cậu của mình. Tại sao tác giả
viết lại những chi tiết có vẻ rất bình thường nầy? Để chúng ta biết rằng Đức
Giê-hô-va đang tập trung lại những người sẽ bị giết chết vì tỗi lỗi của chính mình. “Việc A-cha-xia đi đến cùng Giô-ram bởi ý Đức
Chúa Trời, và gây cho người bị bại hoại”(IISu 22:7).
Vua Giu-đa và vua Y-sơ-ra-ên cùng có mặt ở một nơi sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho
Giê-hu vâng theo mạng lệnh của Đức Giê-hô-va.
4. Cơ hội bất ngờ (IIVua 9:1-13)
Bối cảnh chuyển sang
Ra-mốt Ga-la-át, nơi Giu-đa và Y-sơ-ra-ên tập trung lực lượng để chiến lại
thành từ tay người Sy-ri. Một trong những quan tổng binh chủ chốt của
Y-sơ-ra-ên là Giê-hu, con trai của Giô-sa-phát, nhưng không phải Giô-sa-phát
từng làm vua Giu-đa và là cha của Giê-hô-ram.
Giê-hu không hề hay biết tiên tri Ê-li-sê đã sai một học trò trẻ tuổi của các
tiên tri đến xức dầu cho ông làm vua Y-sơ-ra-ên. Đây là nhiệm vụ mà Đức Chúa
Trời giao cho Ê-li (IVua 19:15-16) Thay vì
tự mình ra chiến trường, Ê-li-sê đã khôn ngoan giao cho một người trẻ tuổi
quyền xức dầu cho Giê-hu nơi riêng tư. Ê-li-sê khuyên người học trò nầy sau khi
xong phận sự phải trốn khỏi chỗ đó càng nhanh càng tốt, vì sẽ có một trận chiến
lớn xảy ra ở đó.
Giê-hu đang họp với các quan tướng
khác khi người học trò ấy đến xin được gặp riêng ông. Họ đi vào phòng riêng và
người học trò đã xức dầu lập Giê-hu làm vua mới cho Y-sơ-ra-ên. Điều gây chú ý
là người học trò đã gọi dân Y-sơ-ra-ên là “dân sự của Đức Giê-hô-va” (IIVua 9:6). Dù Y-sơ-ra-ên và Giu-đa là hai nước
riêng biệt và đều không vâng theo giao ước, dân sự hai nước vẫn còn là tuyển
dân của Đức Chúa Trời và là con cháu Áp-ra-ham. Những giao ước của Đức Chúa
Trời với Áp-ra-ham (Sa 12:1-3) với Đa-vít (IISa 7:1-29) vẫn còn hiệu lực. Dân sự đã xây bỏ
Đức Chúa Trời, nhưng Ngài không lìa bỏ họ.
Người học trò không chỉ xức dầu cho
Giê-hu, anh ta còn giải thích cho Giê-hu nhiệm vụ mà Đức Chúa Trời muốn Giê-hu
thực hiện. Nhiệm vụ chính của Giê-hu là quét sạch nhà A-háp ở Y-sơ-ra-ên và thi
hành ánh phạt của Đức Chúa Trời trên họ vì những người vô tội đã bị họ giết
chết. Người học trò ấy còn nhắc đến những tội ác của Giê-sa-bên và án phạt dành
cho bà ta, và đề cập những lời mà tiên tri Ê-li nói khi ông đối mặt với A-háp (IVua 21:21-24). Có lẽ các con cháu của A-háp đã
quên lời tiên tri nầy, nhưng Đức Chúa Trời không quên, và đã đến lúc lời ấy
được ứgn nghiệm. Đức Chúa Trời đã diệt trừ nhà Giê-rô-bô-am và Ba-ê-sa thế nào
(15:25-16:7), Ngài sẽ dùng Giê-hu tiêu diệt
nhà A-háp y như vậy.
Các quan tướng đang họp lại hôm ấy
chắc rắt thắc mắc về người học trò ấy; anh ta là ai và tại sao nói chuyện với
Giê-hu cách bí mật như vậy. Có phải anh ta về từ mặt trận? Có thay đổi gì trong
kế hoạch chiến đấu không? Khi người học trò ấy rời khỏi đó và chạy vội đi, các
quan tướng nghĩ rằng anh ta chắc đã mất trí. Có nhiều đầy tớ của Đức Chúa Trời
bị người ta cho là điên rồ, kể cả Phao-lô (Cong
26:24 IICo 5:13) và Chúa Giê-xu (Mac 3:20-21,31-35 Gi 10:20).
Thật ra, thế gian hư mất nầy đang điên rồ và dân sự của Đức Chúa Trời là những
người tỉnh táo.
Có phải Giê-hu khiêm nhường vì đã
không tuyên bố ngay rằng mình là vua? Các quan tướng phải dò hỏi ông, khi họ
biết được sự thật, họ đã tán thành và công khai thừa nhận nó. trong phạm vi
Kinh Thánh cho biết, Giê-hu là vua Y-sơ-ra-ên duy nhất được xức dầu bởi đầy tớ
được xức dầu của Đức Chúa Trời. Cơ hội của Giê-hu đến rất bất ngờ, nhưng ông
chấp nhận nó bởi đức tin và ngay tức khắc bắt tay vào hầu việc Chúa. Một câu
ngạn ngữ Trung Hoa nói rằng, “Cơ hội không dễ nắm bắt. Khi nó trôi qua, ta
không thể nào bắt kịp”. Là vua thứ mưới của Y-sơ-ra-ên, Giê-hu bắt đầu một
triều đại mới và trị vị khoảng 28 năm (IIVua 10:36).
5. Sự đoán phạt chớp
nhoáng của Đức Chúa Trời (IIVua 9:14-37) (IISu 22:1-9)
Đây là tình huống khi
Giê-hu bắt đầu chiến dịch của mình. A-cha-xia đang trị vì ở Giu-đa và nghe theo
lời khuyên của người mẹ gian ác của mình và những lãnh đạo trong nhà A-háp tại
Y-sơ-ra-ên. Ba-anh là thần của ông và ông không hề quan tâm đết luật pháp của
Đức Giê-hô-va. A-cha-xia đi đến Gít-rê-ên thăm vua Giô-ram đang dưỡng thương
sau trận chiến tại Ra-mốt Ga-la-át và không biết rằng Đức Chúa Trời ban cho
Y-sơ-ra-ên một vị vua mới. Giê-hu muốn kẻ thù mình bất ngờ, nên ông và các quan
tướng của mình không truyền ra tin ông đã được làm vua.
Cái chết của Giô-ram (IIVua 9:16-26). Gít-rê- ên cách Ra-mốt Ga-la-át khoảng 45
dặm, nhưng Giê-hu có tài cỡi ngựa rất nhanh và lính của ông cũng quen tiến quân
với tốc độ báo động trong thời đó. Từ “bình an” được lập lại 8 lần trong phân
đoạn nầy (c.17-19,22,31), nhưng tình thế thật là một sự tuyên chiến. Không hề
chùn bước, Giê-hu tiếp hai sứ giả và ra lệnh cho họ nhập chung với đoàn quân
của mình, và họ đã nghe theo. Tuy nhiên, khi hai sứ giả đều không trở về,
Giô-ram bắt đầu nghi ngờ và ra lệnh thắng xe cho ông để dễ bề trốn thoát.
Giô-ram và A-cha-xia mỗi
người một xe kéo ra đón đầu Giê-hu. Có lẽ hai vị vua nầy hy vọng rằng Giê-hu
đem tin vui từ mặt trận về. Câu hỏi của Giô-ram, “Hỡi Giê-hu, bình an chăng?”
hoặc có nghĩa là “Có phải chúng ta thắng trận tại Ra-mốt chăng?” hoặc “Công
việc của người ổn thoả không?” Nếu là vế sau, nó gợi ý rằng Giê-hu có thể đang
lơi lõng nhiệm vụ mình trong quân đội, và Giô-ram đang nghi ngờ ông có ý đinh
soán ngôi. Câu trả lời của Giê-hu. [22]. liền cho vua biết tình hình đang rất căng thẳng, và vua đã tìm
cách chạy trốn. Giô-ram cấp báo để A-cha-xia nhanh chân chạy thoát, nhưng sau
đó A-cha-xia cũng bị đuổi kịp, còn Giô-ram bỏ mạng vì một mũi tên chính xác của
Giê-hu. Những vết thương của Giô-ram vừa hồi phục, nên ông ta không thể mặc áo
giáp. Ý Chúa sắp đặt, ông đã chết trên miếng
đất của Na-bốt mà A-háp và Giê-sa-bên đã chiếm đoạt sau khi giết chết Na-bốt và
các con trai của Na-bốt. Như vậy Đức Giê-hô-va đã làm thành lời tiên tri mà
Ngài phán cho Ê-li (IVua 21:18-24).Giê-hu
không chỉ giết chết vua Y-sơ-ra-ên, ông còn giết tất cả các hoàng tử (IISu 22:8).
Cái chết của A-cha-xia (IIVua 9:27-29
IISu 22:1-9). Những phân đoạn Kinh Thánh thuật lại cái chết của A-cha-xia trong
IIVua 9:27-29 và IISu
22:7-9 khó tương đồng với nhau, nhưng chúng ta nghĩ ra một viễn cảnh.
A-cha-xia đã bị thương khi ông ta chạy trốn khỏi Gít-rê-ên (c.27). Ông chạy đến
Bet-hag-gan, sau đó rẽ theo hướng tây bắc đến dốc Gu-rơ và thẳng tiến Mê-ghi-đô
tìm chỗ trốn Giê-hu. Người của Giê-hu bắt kịp và giết ông ta chết tại
Mê-ghi-đô. Các đầy tớ của A-cha-xia đem xác ông về Giê-ru-sa-lem và chôn xác ông chung với các vua, vì ông là một hậu
duệ của Đa-vít. Nếu ông không thỏa hiệp, thờ phượng thần Ba-anh, và nghe theo
lời khuyên của A-tha-li, mẹ mình, ông sẽ tránh được sự nhục nhã và thất bại
nầy.
Cái chết của
Giê-sa-bên (c.30-37). Không lâu sau
Giê-sa-bên và những người trong cung nghe tin Giê-hu đang ở Gít-rê-ên, ông ta
làm vua và đã giết chết Giô-ram, con trai bà. Bà giồi phấn, “trang điểm đầu”,
đứng nơi cửa sổ, đợi Giê-hu lộ diện. Khi bà thấy Giê-hu bước ra cửa thành, bà
gọi, “Hỡi Xim-ri, kẻ giết chúa mình! Bình an chăng?” (c.31). Khoảng 50 năm trước, Xim-ri đã giết chết vua Ê-la chiếm ngôi vua và sau đó
tiếp tục tiêu diệt cả nhà Ba-ê-sa (IVua 16:8-20).
Vì Xim-ri chỉ trị vì được 7 ngày và chết do tự vẫn, Giê-sa-bên đang muốn cảnh
cáo Giê-hu rằng quyền lực của ông sẽ non yếu và sớm kết thúc. Bà cũng muốn gợi
ý rằng Giê-hu nên thiết lập liên minh với bà để củng cố ngôi vị của mình.
Nhưng Giê-hu biết nhiệm vụ của ông
được Đức Chúa Trời ủy thác. Khi ông muốn thấy lòng trung thành của những người
trong cung, có vài người hưởng ứng, và họ đã ném Giê-sa-bên qua cửa sổ. Giê-hu
cỡi ngựa giẫm trên xác bà cho đến khi ông biết chắc rằng bà đã chết. Vì bấy giờ
ông là vua, Giê-hu đi vào cung và ra lệnh dọn đồ ăn. Khi Giê-hu đang ăn tối,
ông nhớ rằng dù là người gian ác, nhưng Giê-sa-bên là một hoàng hậu, con gái
của Ết-ba-anh, vua dân Si-đôn (16:29-31);
nên ông ra lệnh đem chôn xác bà. Nhưng đã quá trễ. Mùi máu người bốc lên kéo lũ
chó hoang đến cắn xé xác của bà, để lại hộp sọ, hai chân, và hai bàn tay. Cảnh
tượng thật kinh khủng, nhưng đó là điều tiên tri Ê-li đã tiên báo (21:21-24). Lời của Đức Chúa Trời không bao giờ qua
đi nhưng làm thành mục đích của Ngài trên đất (Es
55:10-11).
6. THANH GƯƠM VÀ VƯƠNG
MIỆN (IIVua 10:1-11:21 IISu 22:10-23:21)
Nghiên cứu hai chương
nầy chúng ta có cảm giác như đang đọc báo buổi sáng hay xem tin tức buổi trưa
trên tivi vậy. Bạn sẽ gặp hai người lãnh đạo: Giê-hu, một quan tổng binh trong
quân đội và giờ đây là người cai trị Y-sơ-ra-ên, vương quốc phía bắc; và
Giê-hô-gia-đa, thầy tế lễ cả trong đền thờ Giê-ru-sa-lem ở VƯơng Quốc Phía Nam.
Khi hai người nầy, bạn sẽ nhận ra một điều là những lực lượng tốt và xấu đang tồn tại trong thế giới của họ cũng
đang tồn tại trong thế giới của chúng ta ngày nay.
Bạn cũng nhận ra sự khác nhau giữa
những lãnh đạo được thúc đẩy bởi tham vọng ích kỷ và những lãnh đạo được thúc
đẩy bởi sự hết lòng vì Chúa. Giê-hu tự hào vì “lòng sốt sắng đối với Đức
Giê-hô-va” của ông (IIVua 10:16), nhưng
“lòng sốt sắn” là một lớp áo giả hình che giấu tính tự cao và cơn nóng giận
thật sự đang thúc đẩy ông. Đức Chúa Trời giao cho Giê-hu một nhiệm vụ quan
trọng, nhưng vua đã vượt quá giới hạn cho phép. Đức Giê-hô-va khen ngợi Giê-hu
vì những gì ông ta làm được (10:30), nhưng
Ngài cũng trừng trị ông ta vì tính kiêu ngạo và thoả hiệp. Nói đúng ra, nếu
không vì tinh thần can đảm phục vụ Chúa của thầy tế lễ cả Giê-hô-gia-đa và vợ của
ông, Giô-sê-ba, triều đại của Đa-vít đã đi đến chỗ kết thúc. Tương lai của lời
hứa Đức Chúa Trời lập với Đa-vít, về kế hoạch cứu rỗi
của Ngài, được bao bọc trong một bé sơ sinh có tên Giô-ách.
Chúng ta hãy nhận diện
những lực lượng nào đang hành động trong thời đó, những lực lượng ấy cũng đang
hành độnt trong thời đại chúng ta ngày nay.
1. Sự sợ hãi và lời nói
nước đôi (IIVua 10:1-10)
Nhiều năm trước, Ê-li đã tiên báo rằng dòng dõi của vua gian ác A-háp
sẽ bị tận diệt không còn một ai (IVua 21:20-29).
Đức Giê-hô-va giao nhiệm vụ nầy cho Giê-hu khi Ngài xức dầu cho ông làm vua
Y-sơ-ra-ên (IIVua 9:6-10). Dù dân tộc bị
chia cắt thành hai nước riêng biệt, dân Do thái vẫn là dân giao ước của Đức
Chúa Trời và các vua của họ không thể làm bất cứ gì mà các vua ấy muốn. A-háp
và Giê-sa-bên đưa thần Ba-anh vào thờ lạy trong xứ Y-sơ-ra-ên, và khi
Giê-hô-ram, vua Giu-đa cưới A-tha-li, con gái của A-háp, ông đã ủng hộ việc thờ
lạy thần Ba-anh ở Giu-đa (8:16-18). Bởi cuộc
hôn nhân tai hại nầy, Giê-hô-ram không chỉ làm Giu-đa suy đồi vì thờ thần
tượng, mà còn làm dòng dõi Đa-vít hư mất và gây nguy hại cho sự ứng nghiệm
những lời hứa về Đấng Mê-si-a.
Giê-hu đã giết chết Giô-ram, vua
Y-sơ-ra-ên và A-cha-xia, vua Giu-đa (9:14-29)
và ông cũng đã giết Giê-sa-bên, vợ gian ác của A-háp (9:30-37).
Bấy giờ Giê-hu đang thi hành nhiệm vụ “đánh giết” để tìm và giết hết con cháu
của A-háp. Thách thức đầu tiên của ông là nắm được quyền kiểm soát thủ đô
Sa-ma-ri nơi các con trai của A-háp đang được bảo vệ và dành sẳn ghế trong bộ
máy chính quyền. Giê-hu biết rằng lực lượng của ông không dễ gì chiếm được
thành có tường bao quanh như thành Sa-ma-ri, nhưng là một nhà chiến lược sắc
sảo, ông biết cáh để kẻ thù mình phải đấu hàng. Một khi ông chiếm được Sa-ma-ri, những thành phố lớn trong xứ cũng sẽ đầu hàng.
Sa-ma-ri tiếp nhận vai
trò lãnh đạo của Giê-hu (IIVua 10:1-5). Giê-hu đang ở Giê-sa-bên (9:30) cách bắc Sa-ma-ri khoảng 25 dặm, và từ đó,
ông liên lạc với các lãnh đạo ở Sa-ma-ri – những viên quan trong cung, tướng
lãnh trong quân đội và những học sĩ và các giám hộ của các hoàng tử. Giê-hu
biết nếu ông có thể đe doạ những lãnh đạo đáng kính nầy, ông có thể chiếm được
thành mà không cần chiến tranh. Thử thách đầu tiên của ông là bảo họ chọn trong
những con cháu của A-háp một người, lập người đó lên ngôi vua và sau đó ra sức
bảo vệ vua ấy. Đây có thể là một đề nghị rằng vị vua mới đó hoặc người được
chọn đó sẽ chiến đấu với Giê-hu một chọi một, và ai thắng sẽ được tất cả (ISa 17:8 IISa 2:9).
Giê-hu còn chỉ ra những thuận lợi
của họ: họ đang ở trong thành có tường bao bọc và họ còn có áo giáp và vũ khí
cũng như chiến xa và ngựa. Giê-hu đang dùng một xảo thuật mà những cuộc cách
mạng đã dùng thành công trong nhiều thế kỷ: lập một kế hoạch táo bạo và làm cho
trí tưởng tượng của các lãnh đạo khiến lòng họ lo sợ. Adoft Hitlerđã viết, “Sự
bối rối trong tâm trí, sự mâu thuẩn trong cảm giác, sự hoang mang và do sự: đây
là những vũ khí của chúng ta.” Có ba nhóm lãnh đạo khác nhau phải thống nhất
trong quyết định nầy, và họ biết rằng Giê-hu đã giết hai vị vua và diệt trừ
Giê-sa-bên. Hơn nữa, ông dường như bất bại, vì không ai cản trở bước tiến của
ông ta. Thông điệp mà họ gởi đến cho Giê-hu ở Gít-rê-ên là lời xin hàng cách vô
điều kiện. Họ hứa làm bất cứ gì Giê-hu yêu cầu và họ đồng ý không chọn vua mới cho mình. Tóm lại, họ cấhp nhận
Giê-hu làm vua của họ.
Sa-ma-ri nghe theo
lệnh của Giê-hu (IIVua 10:6-10). Bấy
giờ Giê-hu tỏ ra mình là người hay nói nước đôi. Ông chấp thuận sự đầu hàng của
họ và ra lệnh cho họ “cắt đầu” 70 con cháu của A-háp và đem đến Gít-rê-ên. Điều
nầy có nghĩa là “dẫn tất cả những lãnh đạo trong nhóm ấy đến với ta và chúng ta
sẽ thảo lận vấn đề”. Nó có thể có nghĩa là, “hãy chém đầu tất cả 70 người đó và
đem đầu họ đến cho ta”. Các lãnh đạo hiểu theo nghĩa thứ hai, nên họ liền giết
chết con cháu A-háp và sai sứ giả đem đầu của những người đó đến Gít-rê-ên. Họ
đến đó vào ban đêm và Giê-hu bảo các sứ giả chất các đầu lâu ấy thành đống ở
lối vào thành, chắc chắn để cảnh cáo dân Gít-rê-ên rằng đừng nên cản trở
Giê-hu.
Nhưng sáng hôm sau, Giê-hu
lại tỏ mình là một nhà chính trị bậc thầy khi phủi tay trước mọi tội lỗi! Ông
thừa nhận mình đã giết Giô-ram, vua Y-sơ-ra-ên, nhưng vì ông không rời
Gít-rê-ên nửa bước, nên ông không thể giết 70 người nầy. Sau đó ông nhắc họ về
lời hứa rằng tất cả con cháu của A-háp sẽ bị tận diệt, nên trách nhiệm đặt trên
Đức Giê-hô-va và tiên tri Ê-li. Trong một câu nói ngắn gọn, Giê-hu đã phủi tay
trước vụ thảm sát ấy và liên kết mình với Đức Chúa Trời và tiên tri Ê-li!
Giê-hu đã làm cái việc
mà ngày nay gọi là “nói nước đôi”. Các loại thuế được họi là “sự tăng thu nhập”
và những ổ gà trên mặt đường chỉ là “những thiếu sót nhỏ”. Người ta không còn
nghèo khổ nữa, nhưng họ chỉ “hơi túng quẫn” . Những thầy thuốc cho người mẹ sắp
sinh uống lầm thuốc rồi làm chết cả mẹ và con. Họ gọi thảm kịch ấy là “sự rủi
ro”. Những người nghèo bây giờ chỉ là “những người ít tiền” và binh lính không
phải đi giêt kẻ thù, họ “đi làm nghĩa vụ”. Đa-vít đã đúng khi viết, “Chúng đều dùng lời dối trá mà nói lẫn nhau, lấy môi dua
nịnh và hai lòng, mà trò chuyện nhau” (Thi
12:2).
2. Tham vọng ích kỷ (IIVua 10:11-17)
Thánh chức của Giê-hu đã
trở thành một chiến dịch vì lợi ích cá nhân, bị thúc đẩy bởi tham vọng ích kỷ
của ông ta. Tiểu thyết gia Joseph Conrad đã viết trong lời tựa cho quyển Some
Reminiscence, “Tất cả những tham vọng đều hợp pháp trừ phi chúng giày đạp trên
những nổi thống khổ và sự nhẹ dạ của con người”. Tham vọng hợp pháp dùng lẽ
thật và dựa trên quá khứ, trong khi tham vọng không hợp pháp dùng lời dối trá
và huỷ hoại quá khứ. Những kẻ độc tài tiêu diệt kẻ thù mình để được an toàn,
nhưng khi làm như vậy, họ đã phá huỷ quá khứ và thông tin và sự trợ giúp mà họ
cần để bước vào tương lai. Cách ngôn Đức có câu, “Mọi con cá chình đều ao ước
trở thành con cá với”, và Giê-hu đang tiến trên con đường đó.
Ông vượt quá giới hạn (IIVua 10:11-14). Để chứng tỏ mình có ý muốn vâng theo Đức Chúa
Trời và thanh trừ nhà A-háp, Giê-hu đã tiến hành giết hết con cháu của A-háp mà
ông ta thấy ở Gít-rê-ên. Nhưng ông không dừng lại ở đó; ông đã vượt quá thánh
chức của mình và đã giết những người bạn thân của A-háp, những quan trưởng, và
những thầy tế lễ phục sự trong cung vua. Cuộc thảm sát trên qui mô lớn này dựa
vào “tội kết giao”. Đức Giê-hô-va muốn xoá sổ nhà A-háp để không còn một ai có thể chiếm lại ngôi vua, nhưng Giê-hu giết chết các bạn của
A-háp, các quan chức và các thầy tế lễ là việc hoàn toàn không cần thiết. Thật
vậy, sau nầy Giê-hu đã gặp vấn đề lớn với dân Sy-ri (IIVua
10:22-23) và có thể sử dụng sự khôn ngoan và kinh nghiệm của những quan
chức mà ông ta đã giết chết. Qua sự tàn sát những lãnh đạo cũ, Giê-hu đã tiêu
diệt những nguồn nhân lực rất quan trọng với tài năng và sự khôn ngoan về mặt
chính trị.
Sau đó ông ta rời Gít-rê-ên và đi
đến Sa-ma-ri để công bố vương quyền của mình. Trên đường đi, ông gặp một nhóm
người đang đến Giê-ru-sa-lem để tham vua A-cha-xia, ngn bà con của họ. Họ không
biết rằng vua A-cha-xia, vua Giô-ram và hoàn ghậu Giê-sa-bên đã bị Giê-hu giết
chết và hiện tại Giê-hu đang nắm quyền. Vì A-cha-xia là con rễ của nhà A-háp (8:18), có lẽ cũng hợp lý khi Giê-hu nghĩ rằng bất
kỳ người nào có liên quan với A-cha-xia là kẻ thù của ông, nên ông đã giết chết
42 người họ. Nhưng những người nầy không có quan hệ huyết thống với A-háp; họ
là con cháu Đa-vít! Giê-hu bấy giờ đang tấn công vào triề đại! (IISu 22:8).
Ông thu nhận một người
bạn (IIVua 10:15-17).
Giê-hu gặp một đồng minh, Giô-na-đáp người Rê-cáp, và sử dụng người ấy
để làm cho những tham vọng của chính mình đánh trân trọng hơn. Người Rê-cáp là
một dân tộc thuộc người Kê-nít, con cháu của Hô-báp, anh em vợ của Môi-se (Cac 4:11). Họ được
đồng nhất với chi phái Giu-đa (1:16) nhưng
họ vững lòng và vâng giữ những truyền thống mà các tổ phụ của họ để lại (Gie 35:1-19). Họ được
người Do thái kính trọng, nhưng, là dân du mục và sống trong lều, người Rê-cáp
tách biệt với nếp sống thành thị và những chính sách của dân Do thái.
Giô-na-đáp là loại người
mà Giê-hu cần để cho chiến dịch của ông ta trở nên đáng tin cậy. Khi Giô-na-đáp
nắm tay Giê-hu và bước lên xe, ông đã thừa nhận rằng ông hế tlòng ủng hộ cho
vua. Chắc chắn Giô-na-đáp không tán thành việc thờ lạy thần Ba-anh và vui mừng
khi nghe nói nhà A-háp bị diệt trừ. Tuy nhiên, khi ông ta gặp Giê-hu,
Giô-na-đáp không biết những độgn lực đang thúc đẩy vua và những cách làm tàn
nhẫn mà ông đang sử dụng.
Người lãnh đạo tham vọng
nào cũng cần một người đáng kính bên cạnh để giúp “giới thiệu” những chính sách
và kế hoạch của ông cho công chúng. Giê-hu đã giết nhiều người vô tội, giờ đây
ông ta còn “lợi dụng” một người vô tội để biến tội lỗi mình trở thành một công việc của Đức Giê-hô-va, thật quá tồi tệ! Nhưng đây lại là
cách mà nhiều nhà lãnh đạo vô liêm sĩ thường làm. Câu phát biểu của Giê-hu “xem
lòng sốt sắng tôi đối với Đức Giê-hô-va” (c.16) nhắc chúng ta nhớ lời của Ê-li
khi ông chạy khỏi Gít-rê-ên đến trốn trong hàng đá (IVua
19:10,14).
Tiếng Hy-bá-lai có thể được dịch là “ganh tị” hoặc “sốt sắng”.
Khi Giê-hu và Giô-na-đáp đến
Sa-ma-ri cùng với đoàn tuỳ tùng, Giê-hu xưng mình là vua và dân sự tôn phục ông. Giê-hu đã đe doạ những quan chức trong thành,
nên họ không chống đối gì khi ông đi qua cổng thành. Các quan chức trong thành
giao cho Giê-hu những người bà con còn lại của A-háp, và Giê-hu đã giết tất cả.
3. Sự dối trá (IIVua 10:18-28)
Giê-hu hoàn tất việc trừ
khử nhà A-háp khỏi dân sự, như vậy không còn một người nào trong dòng dõi A-háp
có thể gây trở ngại cho ngai vàng của ông. Nhưng vấn đề thờ thần Ba-anh trong
xứ thì thế nào? Đó là trách nhiệm tiếp theo và ông quyết định dùng sự dối trá
làm vũ khí chính cho mình.
Là vua của Y-sơ-ra-ên,
Giê-hu phải xử lý những người thờ thần Ba-anh qua một trong
ba cách. Ông có thể đuổi họ ra khỏi xứ, hoặc có thể vâng theo Phu 13:1-18 và giết chết họ. Ông có thể làm cho họ
thay đổi, mặc dù sẽ dễ dàng cho họ “ cải đạo” nếu để gươm kề cổ họ. Ông cũng có
thể ra lệnh phá huỷ các đền thờ của thần Ba-anh. Giê-hu được sự ủng hộ như đã
hứa của những người lãnh đạo ở Sa-ma-ri (câu 5), vậy tại sao ông lại nói dối
dân sự và sau đó đã giết chết họ? Đầy tớ của Đức Chúa Trời không được phép “làm
sự dữ cho được sự lành” (Ro 3:8 ITe 2:3), nhưng đó lại là cách Giê-hu đã làm. Ông
có quyền giết chết những người thờ thần tượng theo luật pháp Môi-se; nhưng tại
sao ông nói dối với họ trước khi giết họ?
Ông đã nói dối họ về chính mình, nói
rằng ông phụng sự thần Ba-anh nhiều hơn A-háp từng phụng sự. Ông cũng nói dối
về sự thờ phượng trong đền thờ thần Ba-anh. Tuy nhiên, đây có lẽ là một trường
hợp khác Giê-hu “nói nước đôi”, vì có một “một của tế lễ lớn” cho Ba-anh tức là
mạng sống của các tiên tri và những người thờ thần tượng trong đền thờ của
Ba-anh! Giê-hu là một nhà quân sự, cuộc đời ông dành để vạch ra những chiến
lược và những cuộc chinh phạt, không giống như Đa-vít, ông không thể đem theo
mình đức tin và mục đích làm vinh hiển Đức Chúa Trời trong những cuộc chiến của
mình. Giê-hu có lẽ là một người khát máu và thích nổi trội hơn các kẻ thù mình,
và chúng ta không bao giờ thấy ông tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời trong bất kỳ
nổ lực nào của ông.
Trước nhất, ông triệu tập các tiên
tri, các đầy tớ và những thầy tê lễ của Ba-anh và ra lệnh cho họ báo tin về một
tế lễ lớn cho thần Ba-anh. Đến từ vua thông qua các lãnh đạo tôn giáo, thông
báo ấy rất quan trọng và đáng tin cậy. Giê-hu sai sứ giả đi khắp xứ báo tin cho
những người thờ thần Ba-anh tham dự buổi dâng tế lễ lớn tại Sa-ma-ri. Đền thờ
của Ba-anh ở Sa-ma-ri được A-háp xây tại Gít-rê-ên (IVua
16:31-32), nên Giê-hu tiêu diệt “nhà A-háp” trong hai nghĩa: “nhà” theo
nghĩa tự nhiên hoặc còn gọi là dòng dõi và nhà là đền thờ mà ông xây cho thần
Ba-anh.
Khi dân chúng có mặt trong đền thờ,
Giê-hu kiểm tra để bảo đảm rằng không có người nào thờ phượng Đức Giê-hô-va lẫn
trong đám người thờ thần Ba-anh. Ong bảo những người thờ Ba-anh mặc lễ phục, và
ông cùng Giô-na-đáp dặn các thầy tế lễ không được phép cho bất kỳ ai ra khỏi đó
(c.23). Giê-hu làm cho dân chúng tin rằng ông muốn có một “buổi thờ phượng
trang trọng” để dâng của lễ lớn. Khi những người thờ thần Ba-anh đứng hết trong
đến thờ, Giê-hu sai 80 binh lính từ ngoài ùa vào giết chết tất cả ngay sau khi
dâng của lễ xong.
Trong bản tiếng Anh, từ “he” ở câu
25 có thể chỉ Giê-hu (như bản tiếng Việt đã dịch) hay chỉ một thầy tế lễ của
Ba-anh? Bản NASB và NIV đều cho là Giê-hu, nhưng không biết cách bố trí đền thờ
của họ như thế nào và không biết thứ tự buổi thờ phương của họ ra sao, thật khó
xáx định chính xác “he” nầy chỉ về ai. Làm sao vua đang đứng tại bàn thờ và có
thể lẻn ra ngoài ra lệnh mà không bị nghi ngờ? Có thể Giê-hu đã đem các con vật
đếm làm tế lễ hôn đó, nếu như vậy, ông ta đã “dâng tế lễ cho thần Ba-anh” dù có
dừng trước bàn thờ hay không. Các binh lính giết tất cả những người thờ thần
Ba-anh trong đền thờ và ném xác họ ra ngoài. Sau đó binh lính trở vào đền đập
phá hết các tượng thần Ba-anh. Nơi thờ lạy thần Ba-anh đã trở thành nhà vệ sinh
công cộng.
Kế hoạch của Giê-hu được thực hiện
và trong một ngày ông đã xóa sạch sự thờ thần tương
Ba-anh trong xứ. Khi nói dối với dân sự, ông tiêu diệt được nhiều người thờ
thần Ba-anh hơn là đi tìm giết từng người một, nhưng đáng tiếc hành động đầu
tiên ngay sau khi ra mắt dân chúng ở Sa-ma-ri với cương vị là vua lại là một
hành động dối trá. Sau nầy ai còn tin ông nữa?
4. Sự thỏa hiệp (IIVua 10:29-36)
Khi mọi chuyện lắng lại,
Giê-hu đã trị vị 28 năm, một thời gian khá dài; nhưng ông đã theo gương xấu của
Giê-rô-bô-am và thờ tượng bò vàng tại Đan và Bê-tên. Bò con được cho là những
biều tượng cho Giê-hô-va, nhưng nó cũng chỉ là những thần tương. Dù ông có lòng
sốt sắng cho Đức Giê-hô-va, nhưng trong lòng ông ta, Giê-hu là người thờ thần
tượng; ông đã danh Đức Chúa Trời để che lấp những tội lỗi của mình. Với nhiệm
vụ mang tín tôn giáo, Giê-hu đã thống nhất được dân tộc và được dân chúng tôn
trọng. Giê-hu là một nhà chính trị tài giỏi.
Đức Giê-hô-va khen ngợi
về những việc Giê-hu đã làm và thưởng cho ông bằng một triều đại lâu dài nhất
trong lịch sử của Vươgn Quốc phía Bắc hơn 100 năm. Nối tiếp ông có các vua
Giê-hô-a-cha, Giô-ách, Giê-rô-bô-am II và
Xa-cha-ri, tất cả những vua nầy đều không tốt. Nhưng tiên tri Ô-sê đã công bố
rằng Đức Giê-hô-va không đẹp lòng vì Giê-hu đã giết nhiều người vô tội (Os 1:4 2:21).
Giê-hu thiết lập triều đại của mình bằng cách giết vua Giô-ram tại Gít-rê-ên (IIVua 9:15), và vì điều nầy Đức Chúa Trời sẽ trừng
phạt ông. “Gít-rê-ên” có nghĩa là “Đức Chúa Trời làm tản lạc” và Ngài sẽ làm
tản lạc Vương Quốc phía Bắc khi cho phép dân A-si-ri đánh chiếm họ năm 722 T.C.
Chắt của Giê-hu, Xa-cha-ri trì vì chỉ trong 6 tháng và bị Sa-lum ám sát, Sa-lum chiếm ngôi nhưng chỉ trị vì được một thánh. Một triều đại
bắt đầu bằng một vụ giết người và kết thúc cũng bằng một vụ giết người.
Trong cuộc đời của
Giê-hu, Đức Giê-hô-va đã trừng phạt ông ta. Ngài cho phép dân Sy-ri (A-ram),
một kẻ thù lâu đời của Y-sơ-ra-ên chiếm được phần lãnh thổ của các chi phái
phía tây sông Giô-đanh. Có kẻ thù sống ngay bên kia sông Giô-đanh, dân
Y-sơ-ra-ên chắc gặp nhiều phiền phức. Giê-hu là một binh sĩ tài giỏi nhưng ông
phải là người sáng lập giỏi, người ta chỉ nhớ đến ông vì những người ông đã
giết chết. Ông có thể triệu tập nhóm người có tài để giúp ông tạo lòng tin
trong xứ, nhưng ông giải quyết bằng cách nghe theo đám đông và thờ tượng bò con
vàng.
5. Sự trả thù (IIVua 11:1-2) (IISu 22:10)
Chúng ta lại nói về
vương quốc Giu-đa ở phía nam, nơi đó ngai vàng đang bỏ trống vì Giê-hu đã giết
vua A-cha-xia ở gần Gít-rê-ên (IIVua 9:27-28). Hoàng thái hậu A-tha-li, con gái
của A-háp, thừa cơ hội đó đã chiếm ngôi, trị vì được 6 năm. Là người sáng lập
ra sự thờ phụng thần Ba-anh ở Giu-đa, bà không muốn nhìn thấy nhà Đa-vít tiếp
tục kế vị. Bà tìm cách giết tất cả hoàng tử, nhưng một người còn sống sót. Nhà
Đa-vít nhanh chóng bị tiêu diệt. Khi Giê-rô-bô-am làm vua Giu-đa, ông đã giết
tất cả anh em mình và một số hoàng từ của Y-sơ-ra-ên để họ không thể lật đổ ông
(IISu 21:4), và quân xâm lược Ả-rập đã giết
các con trai lớn của Giê-rô-bô-am (22:1).
Giê-hu đã giết một số con cháu của Đa-vít (22:8),
và giờ đây A-tha-li ra lệnh giết hết “dòng dõi vua”. Sa-tan chắc chắn vận hết
công lực để ngăn cản Đấng Mê-si-a như đã hứa sinh ra trong dòng dõi Đa-vít tại
Bết-lê-hem!
A-tha-li đang trả thù vì tất cả
những gì Giê-hu đã làm cho nhà A-háp và những người thờ lạy thần Ba-anh ở
Y-sơ-ra-ên. Lấy ác trả thiện là ma quỉ, lấy thiện trả ác là thánh, lấy ác trả
ác và thiện trả thiện là con người. Trong thế gian nầy ở đâu có xung đột, bạn
sẽ luôn thấy lòng oán giận và sự trả thù. Như những người thường đọ sức tay đôi
để bảo vệ danh dự của mình, các nước cũng đánh nhau để bảo vệ danh dự của họ.
Nhưng khi giết hết “dòng dõi vua”, A-tha-li đang chống nghịch Giê-hô-va Đức
Chúa Trời, Đấng đã hứa với Đa-vít rằng từ ông sẽ có một người ngồi trên ngôi ở
Giê-ru-sa-lem.
Hầu hết chúng ta không hành động quá
đáng như vậy để trả đũa kẻ thù mình, nhưng sự trả thù không phải là chuyện hiếm
thấy trong vòng dân sự Đức Chúa Trời. Trong luật pháp, Môi-se căn dặn dân sự
không được trả thù (Le 19:18), và Sa-lô-môn
cũng khuyên tương tự (Ch 20:22 24:29). Chúa Giê-xu đã phản đối sự trả thù cá nhân
(Mat 5:38-48), Phao-lô cũng vậy (Ro 12:17-21) và Phi-e-rơ (IPhi
3:8-9). Lên kế hoạch trả thù và tiến hành trả thù gây tổn thương cho
người trả thù nhiều hơn cho người bị trả thù. Nhiều tác giả nổi tiếng viết về
“sự trả thù ngọt ngào”, nhưng kinh nghiệm cho thấy rằng trả thù rất cay đắng.
Một câu châm ngôn Do thái có nói, “Sự trả thù, dù nhỏ nhất, sẽ đầu độc linh
hồn”. Nếu bạn có ý định trả đũa kẻ thù mình, hãy suy nghĩ lại, vì trả đũa kẻ
thù là một sự rất xa xỉ.
6. Đức tin và sự can
đảm (IIVua 11:2-12) (IISu 22:11-23:11)
Trong khi A-tha-li gian
ác giết những người kế vị ngôi Đa-vít, những người trung tín còn sót lại trong
Giu-đa chắc đang tự hỏi Đức Chúa Trời đang ở đâu và Ngài đang làm gì. Tại sao
Ngài lập giao ước với Đa-vít mà không giữ nó? Sao Ngài để cho bà hoàng thái hậu
nầy làm những việc gian ác và gây nguy hiểm cho tương lai của dòng dõi Đấng
Mê-sia? Nhưng Đức Chúa Trời vẫn ngự trên ngôi và các tôi tớ Ngài chuẩn bị hành
động. Trong một thế giới mà dường như sự gia dối và tham vọng ích kỷ đang cai
trị, vẫn còn có những người như Giê-hô-gia-đa và Giô-sê-ba; họ tin Lới Đức Chúa
Trời và can đảm làm theo ý muốn Ngài.
Sự bảo vệ (IIVua 11:2-3 IISu 22:11-12).
Giê-hô-gia-đa là thầy tế lễ cả và Giô-sê-ba, vợ người, là một công chúa, con
gái của vua Giê-hô-ram và là chị của vua A-cha-xia, người bị giê-hu giết chết.
Một người tin kính Chúa như vậy lại xuất thân từ gia đình ấy là một phép lạ của
ân điển Đức Chúa Trời. Biết kế hoạch của A-tha-li, thầy tế lễ và vợ mình bắt
trộm hoàng từ Giô-ách, lúc đó mới một tuổi, và giấu hoàng tử trong phòng cùng
với vú nuôi, ban đầu ở trong một căn phòng cũ kỹ và
sau đó là trong phòng của đến thờ. Khi Giô-ách lớn hơn, cậu bé hoà nhập và chơi
chung với những trẻ em khác trong khuôn viên đền thờ và không ai nhận ra câu bé
Giô-ách ấy là người kế vị ngôi vua [23].
Sự trình diện (IIVua 11:4-12 IISu
23:1-11). Giê-hô-gia-đa, Giô-sê-ba và người vú nuôi kiên nhẫn chơ đợi
thời cơ mà Đức Chúa Trời quyết định, vì đức tin và sự kiên nhẫn luôn đi chung
với nhau (He 6:12). “Ai tin sẽ chẳng gấp
rút” (Es 28:16). Trong ơn thần hựu của Ngài,
Đức Giê-hô-va đã gìn giữ đứa trẻ cũng như 3 người biết Ngài là ai và Ngài đang
ở đâu; vì nếu hoàng thái hậu A-tha-li biết việc họ làm, bà ta sẽ giết họ chung
với hoàng tử.
Trong thời gian 6 năm chờ đợi đó,
thầy tế lễ cả ấy suy nghĩ và cầu nguyện vả Đức Giê-hô-va chỉ cho ông cách để
lật đổ A-tha-li khỏi ngai vàng và đưa Giô-ách lên thay. Trước hết, ông gọi 5
quan cai của những người coi sóc đền thờ đến, rồi đưa hoàng tử ra cho họ gặp
mặt và bảo họ thề sẽ vâng theo lệnh của ông và giữ bí mật việc nầy. Sau khi
vạch ra kế hoạch, ông sai họ đi khắp nước Giu-đa để truyền lệnh cho tất cả
người lê-vi sống xa Giê-ru-sa-lem và các trưởng tộc trong các gia đình Do thái
phải đến Giê-ru-sa-lem trong một ngày lễ Sa-bát đặc biệt. Họ tập trung tại đền
thờ như đang thờ phượng Đức Giê-hô-va.
Kế hoạch của Giê-hô-gia-đa thật đơn
giản nhưng hiệu quả. Mỗi quan cai chỉ huy nhóm 100 người. Hai nhóm canh gác
thường ngày sẽ được thay thế trong ngày Sa-bát, nhưng trong ngày Sa-bát đặc
biệt nầy họ vẫn làm nhiệm vụ và bảo vệ vua. Nhóm thứ ba sẽ canh gác cung vua
nơi A-tha-li đang sống, như vậy để bà tưởng rằng mình đang được an toàn. Nhóm
thứ tư có nhiệm vụ canh cửa Su-rơ, lối đi từ khuôn viên cung điện đến khu vực
đền thờ. Nhóm thứ năm tập trung tại cửa phía sau nhà của lính canh. Không một
ai có mặt tại đền thờ có thể nghi ngờ rằng có chuyện lớn sắp xảy ra. Họ thấy
những lính canh đi tời đi lui như thường nhật, và điều khác thường là người đến
đền thờ đông hơn moi khi.
Cả vua Đa-vít cũng liên quan trong
kế hoạch nầy! Tầy tế lễ cả phân phát cho những lính canh vũ khí mà Đa-vít đã
thu được trong những trận thắng của mình, và với vũ khí ấy lính cacnh đang bảo
vệ người thừa tự của Đa-vít. Chính Đa-vít đã mua miếng đất để xây đền thờ nầy (IISa 24:18) và chính Đa-vít đã cung cấp của cải
cho Sa-lô-môn để xây nên đền thờ nầy. Một số của cải xuất từ kho tàng riêng của
Đa-vít, phần còn lại là những chiến lợi phẩm thu được từ những cuộc chiến mà
ông đánh trận cho Đức Giê-hô-va (ISu 28:1-29:30).
Ông đã viết nhiều bài ca cho người lê-vi hát trong giờ thờ phượng, và giờ đây
ông đang trang bị vũ khí để bảo vệ triều đại của mình. Đa-vít không chỉ phục vụ
cho thời đại của mình (Cong 13:36) mà còn
cho mọi thời đại tiếp theo sau. Đây là tấm gương cho chúng ta noi theo.
Khi mọi người ổn đinh vị
trí,Giê-hô-gia-đa dẫn vua 7 tuổi ra trình diện mọi người. Giê-hô-gia-đa đội
vương miện trên đầu Giô-ách và trao cho Giô-ách bản sao luật pháp của Đức Chúa
Trời mà vua phải vâng theo (Phu 17:14-20 31:26). Thầy tế lễ cả xức dầu cho Giô-ách và dân
sự vui mừng chào đón vua của mình. Đức Chúa Trời đã giữ lời hứa Ngài và đã lập
một trong con cháu Đa-vít lên ngôi Giu-đa.
7. Sự vâng lời (IIVua 11:13-21) (IISu 23:12-21)
Đức Chúa Trời đã bảo vệ vị vua trẻ
và giúp Giê-hô-gia-đa và các quan cai có thể đưa vua ra trình diện trước dân
chúng, nhưng công việc chưa dừng lại ở đó.
Sự hành hình A-tha-li (IIVua
11:13-16 IISu 23:12-15). Tiếng tung
hô “Vua vạn tuế!” làm A-tha-li bàng hoàng và bà chạy vội ra khỏi cung để xem
chuyện gì xảy ra. Điều đầu tiên bà phát hiện là mình đang bị mắc bẫy. Có nhiều
lính canh xung quanh cung điện và từ cung điện đến khu vực điền thờ, nên không
có cơ hội để bà trốn thoát hoặc để binh lính của bà đến giải cứu bà. Bà vội vã
đến sân đền thờ và thấy vị vua trẻ đứng gần cây trụ ở cửa hiên (IVua 7:21), xung quanh có các quan cai bảo vệ. Bà
cũng thấy ở đó những thẩy tế lễ, người Lê-vi, binh lính, và cả “dân sự của xứ”,
đó là tất cả những cư dân mà của cải, sứ clực và tầm ảnh hưởng của họ giữ vai
trò rất quan trọng đối với đất nước.
Thật ngược đời khi là la lên “Phản
nguỵ! Phản nguỵ!” trong khi chính bà là người tạo phản. Giô-ách là hậu duệ của
Đa-vít và có quyền lên ngôi, trong khi A-tha-li đã đoạt ngôi và không bất cứ
quyền hạn gì với nó. Giê-hô-gia-đa cho 5 quan cai kéo bà ra khỏi khu vực đền
thờ và ra lện cho các lính canh được quyền giết chết những kẻ nào theo bà. Khi họ đến khuôn viên cung điện, gần Cửa Ngựa, họ đã giết bà
bằng gươm.
Lòng tận tụy của dân
sự (IIVua 11:17 IISu 23:16). Giê-hô-gia-đa đả trao bản giao ước
thành cho vua mới (cầu), nhưng cần cho cả dân sự và vua xác nhận lòng trung
thành với nhau và với Đức Chúa Trời. Y-sơ-ra-ên là một thể chế thần quyền và
Đức Chúa Trời là Vua của họ. Vua cai trị họ là đại diện của Đức Chúa Trời, dân
sự phải vâng phục vua như họ vân gphục Đức Chúa Trời, vì luật pháp của
Y-sơ-ra-ên là luật pháp của Đức Chúa Trời. Y-sơ-ra-ên là dân giao ước, vì tại
núi Sa-na-i, các tổ phụ của họ đã thề vâng phục Đức Chúa Trời và Lời Ngài (Xu 18:1-19:25). Không
nước nào trên thế gian có mối thông công giao ước với Đức Chúa Trời giống như
vậy (Thi 147:19-20).
Diệt trừ sự thờ lạy
thần Ba-anh (IIVua 11:18-21 IISu 23:17). Giê-hu đã
làm ở Sa-ma-ri thể nào, Giê-hô-gia-đa cũng làm như vậy ở Giê-ru-sa-lem: ông và
dân sự phá huỷ đền thờ Ba-anh và giết các thầy tế lễ của Ba-anh trước bàn thờ
của thần Ba-anh [24] Chắc chắn họ cũng giết
những người hướng dẫn trong buổi thờ phượng thần Ba-anh. Họ còn phá đền thờ và
đập hết các hình tượng trong nó. Vì A-tha-li và Giê-hô-ram, người chồng thoả
hiệp của bà, và con trai họ là A-cha-xia, mà nước Giu-đa đã bị tiêm nhiễm thói
thờ thần tượng ít nhất trong 15 năm, và giờ đây sự tiêm nhiễm ấy bị vạch trần
và xóa sạch.
Sự phục hồi vương
triều Đa-vít (IIVua 11:19-21 IISu 23:20-21). Đám đông
vui mừng hộ tống vua từ đền thờ về cung điện, và họ đặt vua lên ngai vàng.
Sa-tan nổ lực diệt trừ dòng dõi Đa-vít nhưng nó đã thất bại, và lời hứa về Đấng
Mê-si-a vẫn còn hiệu lực. Dân sự đã làm theo ý Đức Chúa Trời và vâng phục Lời
Ngài, và đây là lần đầu tiên trong nhiều năm qua, sự công bình và bình an ngự
trị trong xứ.
Sắp xếp các chức việc
trong đền thờ (IIVua 11:18b IISu 23:18-19). Qua IIVua
12:1-21 chúng ta thấy rằng đền thờ của Đức Giê-hô-va bị bỏ bê và sỉ nhục
trong thời A-tha-li nắm quyền. Giê-hô-gia-đa lập tức bắt tay vào cứu chữa tình
trạng nầy theo như thứ tự mà Đa-vít đã làm (ISu
23:1-26:32) và sắp đặt những thầy tế lễ và
người Lê-vi vào từng vị trí thích hợp. Điều quan trọng là họ giữ việc dâng của
lễ mỗi ngày cho Đức Giê-hô-va và dâng lời ca ngợi Ngài. Cũng cần phải cho người
canh gác các cửa đền thờ để không có người ô uế nào được bước vào đền
thờ và làm vẩn đục những người thờ phượng khác. Sự
phục hưng đơn giản là sự vâng theo Lời Đức Chúa Trời và làm theo những gì Ngài
phán dặn cho các tổ phụ chúng ta. Chúng ta không cần những điều mới
lạ trong hiện tại, chúng ta cần những điều thực tế trong quá khứ.
Khi Đức Chúa Trời bắt đầu khôi phục
sự thờ phượng chân chính tại Giê-ru-sa-lem và Giu-đa,
Ngài bắt đầu ở cặp vợ chồng tận tâm với người-Thầy tế lễ cả Giê-hô-gia-đa và
Giô-sê-ba, vợ người. Họ thu nhận người vú nuôi để chăm sóc cho Giô-ách, và Đức
Chúa Trời bảo vệ 4 người họ trong 6 năm. Sau đó Giê-hô-gia-đa tuyển một thêm 5
quan cai, và 5 người nầy đã tập trung được 500 binh lính của họ. Những thầy tế
lễ sống rải rác, người Lê-vi, dân sự trong xứ đã hiệp làm một vì sự vinh hiển
của Đức Giê-hô-va và một lòng vâng theo Lời Ngài. Tội lỗi được thanh trừ, ý
muốn Đức Chúa Trời được thành tựu và danh Đức Giê-hô-va được cả sáng!
Đức Chúa Trời có thể làm
lúc ấy, Ngài cũng có thể làm ngày hôm nay nhưng chúng ta phải tin rằng Ngài có
cách của Ngài.
7. NHẤN MẠNH VÀO ĐỨC
TIN (IIVua 12:1-13:25 IISu 24:1-27)
Có một nguyên tắt được nhiều người
biết đến đó là điều người ta tin sẽ quyết định cách người ta cư xử. Ê-va tin
lời nói dối của ma quỉ rằng bà sẽ không chết; bà ăn trái cấm, và cuối củng đã
chết. Với cái nhìn của mình, A-đam tin rằng mình nên bắt chước vợ, nên ông ta
đã cầm lấy trái cấm và ăn nó; và ông đã nhấn cả nhân loại vào tội lỗi và sự
chết (Sa 3:1-24 Ro
5:12-21 ITi 2:14). Khi chúng ta tin
lẽ thật, Đức Chúa Trời ủng hộ chúng ta, nhưng khi chúng ta tin nơi sự dối trá,
ma quỉ sẽ chống lại chúng ta. Khi Chúa Giê-xu bị ma quỉ cám dỗ, Ngài đối chiếu
lời dối trá của Sa-tan với lẽ thật của Đức Chúa Trời và nói rằng, “có lời chép
rằng” (Mat 4:1-11). Ba vị vua được nhắc đến trong hai đoạn nầy minh hoạ cho những
loại đức tin khác nhau, mà dân sự Đức Chúa Trời ngày nay không nên có loại nào
trong số đó.
1. Giô-ách - đức tin
nông cạn (IIVua 12:1-21)
Trong thí dụ về người
gieo giống (Mat
13:1-9 18-23), Chúa Giê-xu giải thích rằng, theo quan điểm thuộc linh,
có 4 loại tấm lòng, và chúng đáp ứng hạt giống là Lời Đức Chúa Trời theo 4 cách
khác nhau. Khi người có tấm lòng khô cằn nghe lời Chúa, hạt giống không thể len
vào, nên Sa-tan lấy nó đi. Người có tấm lòng nông cạn nhận lãnh Lời Chúa nhưng không có chỗ cho nó bám rễ, nên mầm mọc lên
nhưng không sống được lâu. Cây không thể mọc và sinh bông trái nếu nó không bám
rễ. Những người có tấm lòng chật hẹp nhận hạt giống nhưng mầm của nó chết ngạt
vì cỏ dại um tùm mà lẽ ra phải bị nhổ đi. Người có tấm lòng sinh bông trái là
người lương thiện, biết ăn năn, hiểu Lời Đức Chúa Trời và bám chặt Lời Ngài
bằng đức tin. Khi nói về đức tin, Giô-ách là người có đức tin nông cạn. Chúng
ta cùng xem qua những giai đoạn trong trải nghiệm thuộc linh của Giô-ách.
Vâng phục (IIVua 12:1-3 IISu 24:1-3). Giô-ách lên
ngôi vua khi mới được 7 tuổi (IIVua 11:4),
và cai trị một thời gian dài 40 năm. Dĩ nhiên một đứa trẻ 7 tuổi không thể nào
cai trị cả một đất nước, nên thầy tế lễ cả Giê-hô-gia-đa làm người giám sát và
cố vấn cho vua. Giô-ách là một học trò chăm chỉ, và suốt những năm được
Giê-hô-gia-đa dạy bảo, vua vâng phục Đức Giê-hô-va. Khi vua trưởng thành và kết
hôn, chính Giê-hô-gia-đa đã cưới cho Giô-ách hai người vợ. Cả Đa-vít và
Sa-lô-môn đều đã gặp nhiều vấn đề phức tạp vì có quá nhiều người vợ thiếu khôn
ngoan, nên thầy tế lễ cả chỉ cho Giô-ách cưới hai vợ. Điều quan trọng là
Giô-ách đã xây dựng lại dòng dõi Đa-vít, vì nhà Đa-vít gần như bị tiêu diệt hết
bởi Giê-hô-ram (IISu 21:4), Giê-hu (IIVua 10:12-14), quân A-rập xâm lược (IISu 22:1), và Hoàng hậu A-tha-li (IIVua 11:1).
Điều duy nhất mà Giô-ách và
Giê-hô-gia-đa không làm là dẹp những nơi cao ở Giu-đa, các điện thờ ở địa
phương mà dân sự đến thờ phượng Đức Giê-hô-va. Họ phải di đến đền thờ để thờ
phượng (Phu 12:1-32), nhưng trong những ngày
tăm tối dưới sự cai trị của A-tha-li, đền thờ bị bỏ bê và gần như đổ nát. Tuy
nhiên, Giê-hô-gia-đa và vua Giô-ách sẽ hướng dẫn dân sự sửa chữa đền thờ để họ
có một nơi tốt thờ phượng Đức Giê-hô-va. Những người tin kính ở Giu-đa chắc
chắn rất vui mừng khi có một hậu duệ biết vâng lời của Đa-vít lên ngôi. Điều họ
không biết là đức tin của Giô-ách rất nông cạn, ông vâng lời Đức Chúa Trời chỉ
vì muốn làm vui lòng Giê-hô-gia-đa. Giô-ách là một môn đồ xuất sắc nhưng không
phải là một lãnh đạo giỏi. Khi Giê-hô-gia-đa qua đời, Giô-ách đã đi theo con
được mình và không vâng phục Đức Giê-hô-va nữa.
Tranh chiến (IIVua 12:4-16 IISu 24:4-14). Rõ ràng
dân Giu-đa thấy Giê-hô-gia-đa tin kính đứng đằng sau ngai vàng, và điều nầy đã
cho họ có cảm giác an ninh. Nhưng khi vua trưởng thành trong tuổi tác và kinh
nghiệm, vua chắc chắn rất bất mãn vì sự sắp đặt nầy. Người trẻ tuổi thường muốn
tự do và tự ý quyết định, và mong muốn nầy ắt hẳn rất mãnh liệt trong Giô-ách
bởi quyền lực mà ông đang nắm giữ. Nhưng với sự điều hành của Giê-hô-gia-đa,
Giô-ách có thể nói như vua Đa-vít, “Ngày nay hãy còn yếu, dẫu rằng ta đã chịu
xức dầu lập làm vua” (IISa 3:39).
Thật không dễ dàng cố vấn cho vị vua
trẻ và biết khi nào cần nới lỏng và xiết chặt dây cương. Ba mẹ biết điều nầy
khi nuôi dạy con mình từ khi chúng còn nhỏ cho đến lúc trưởng thành. Có lẽ
Giê-hô-gia-đa nhận quá nhiều trách nhiệm và không giao
nhiệm vụ cho Giô-ách dần dần. Nói cách khác, có lẽ Giê-hô-gia-đa nắm dây cương
lâu như vậy vì ông nhận thấy sữ yếu kém trong tư cách của Giô-ách và muốn dành
thời gian cho Giô-ách sửa chữa. Có thể đây chỉ là “vấn đề phát sinh”. Dù bất cứ
chuyện gì xảy ra, vua quyết định thoát khỏi sự điều khiển của thầy tế lễ cả và
bắt đầu khẳng định quyền hành của mình. Sự tu sửa đền thờ là trọng điểm trong
kế hoạch đòi tự do của Giô-ách.
Chắn chắn Giô-ách và Giê-hô-gia-đa
đã bàn luận với nhau về nhu cầu tu sửa đền thờ, nhưng vì lý do nào đó, thầy tế
lễ cả nầy không nhiệt tình xúc tiến công việc ấy. Tuổi già có thể là một yếu
tố. Chúng ta không biết Giô-ách bao nhiêu tuổi khi Giê-hô-gia-đa truyền lệnh
sung những khoảng dâng cho đền thờ vào quỹ xây sửa đền thờ (c.4-5). Khoảng dâng
nầy bao gồm tiền thu được từ cuộc tu bộ (Xu
30:11-16 Dan 2:32), tiền khấn nguyện
của cá nhân (Le 22:18-23 27:1), và tiền từ những của lễ chuộc sự mắc lỗi
(c.17 Le 5:14-6:17). Nhưng kế hoạch nầy
không thành, có lẽ vì các thầy tế lễ đã lấy những nguồn tài chính nầy làm quỹ
mà họ cần để duy trì các tổ chức trong đền thờ và để đáp ứng nhu cầu riêng của
họ. Về vấn đề tu bộ, các thầy tế lễ và người Lêvi có lẽ vẫn nhớ cuộc tu bộ của
Đa-vít đã làm cho cả xứ bị trừng phạt (ISu 22:1-19).
Kinh Thánh không cho chúng ta biết
Giô-ách phải chờ đợi bao lâu để Giê-hô-gia-đa hành động, nhưng khi ông được 30
tuổi và trị vì 23 năm, vua đã quyết định tự mình hành động. Ông triệu tập
Giê-hô-gia-đa và thận trọng khiển trách các thầy tế lễ vì không làm tròn công
việc. Ông cũng nói với thầy tế lễ cả rằng chính ông sẽ
trực tiếp lo việc xây lại đền thờ. Các thầy tế lễ có thể giữ khoảng tiền của họ
theo đúng Luật Pháp Môi-se, vì nguồn quỹ cho dự án xây dựng nầy sẽ là những
khoảng dâng tự nguyện từ dân chúng. Giê-hô-gia-đa cho những thầy tế lễ và người
Lê-vi, những người đang vui mừng, biết rằng thu nhập của họ sẽ không được dùng
trong việc khác và rằng họ không phải lo gì cho việc tu sửa đền thờ nữa. Từng
trải qua những chương trình xây dựng đền thờ, tôi có thể thông cảm với họ!
Sự sắp xếp rất đơn giản
và nó được thực hiện. Giô-hô-gia-đa chuẩn bị một thùng lạc
hiến lớn, đặt nó trong đền thờ gần bàn thờ cạnh lối vào, và kêu gọi dân sự đóng
góp cho việc tu sửa đền thờ. Dĩ nhiên có người canh gác để mắt đến hộp tiền đó.
Khi người ta thấy dự án nầy được vua giám sát và được giao cho các tín hữu thực
hiện, người ta sẽ được khích lệ và dâng nhiều hơn. Họ biết rằng tiềnho dâng vào
sẽ được trực tiếp dùng vào việc tu sửa đền thờ, không phải được dùng vào những
việc khác, nên họ gân rời rộng. Vua Giô-si-ađã bắt chước theo cách nầy khi ông
tu sửa đền thờ khoảng gần 200 năm sau đó (IIVua
22:1-7).
Tuy nhiên, Giô-ách không loại các
thầy tế lễ ra khỏi dự án nầy, vì việc đếm tiền và phân phối tiền là trách nhiệm
của những đại diện của vua và thầy tế lễ cả (c.10). Dù ông không biết, nhưng
Giô-ách đang làm theo nguyên tắc về con người của Phao-lô và đảm bảo mọi việc
được tiến hành công khai và thẳng thắn (IICo
8:16-24). Những nhân công phải trung thực và ngay thẳng để không ai dùng
tiền sai mục đích và phí phạm, một điều gây khó khăn cho những người kiểm tra
sổ sách. Dự án duy nhất mà họ tính là thay thế những đồ dùng bằng vàng và bạc
trong đền thờ (IISu 24:7), nhưng đủ tiền để
dùng cho nhu cầu đó (24:14).
Những tín đồ ngày nay biết rằng Đức
Giê-hô-va không ở trong những toà nhà thờ hay trong bất kỳ công trình kiến trúc
nào (Gi 4:23-24 Cong
7:48-50 17:24), nhưng điều nầy không
có nghĩa là cung hiến những công trình xây dựng để làm nơi thờ phượng Đức Chúa
Trời và làm vinh hiển danh Ngài là việc làm sai trái. Những Hội thánh đầu tiên
không có nhà thờ riêng nhưng nhóm họp tại nhà và những nơi công cộng gần nhất
như đền thờ ở Giê-ru-sa-lem. Một số thánh đồ ngày nay chống đối việc xây dựng
đền thờ và cho rằng việc ấy rất lãng phí, trong khi những người khác lại tôn
sùng ngôi nhà thờ của mình và làm cho trật tự ưu tiên của họ bị đảo lộn.
Campbell Morgan nêu bật vấn đề nầy trong lời nhắc
nhở:
Trong khi nhà của Đức
Chúa Trời ngày nay không còn mang tính vật chất nhưng mang tính thuộc linh, vật
chất vẫn còn là một biểu tượng rất thật của thuộc linh. Khi Hội thánh Đức Chúa
Trời được xây dựng tuỳ tiện không chú ý đến chỗ nào nhóm họp, chỗ nào thờ
phượng và chỗ nào sinh hoạt, đó là bằng chứng cho thấy đời sống của nó đang
trong thời kỳ suy tàn. [25].
Tôi nhớ có một tối Chúa
nhật tôi đang giảng cho một Hội thánh đang nhóm hiệp trong một nhà thờ hư nát đến nỗi nó gây cảm giác ngượng ngùng cho các
tín đồ và cả những khách mời mà họ dẫn đến. Tôi không biết nhà riêng của tín đồ
ở đó như thế nào, có nhà ai tồi tàn như vậy không (Ag
1:1-6). Tôi hỏi một trong các lãnh đạo Hội thánh tại sao họ không tu sửa
nhà thờ, và anh ta trả lời với giọng nói mỉa mai, “À, hầu hết ngân sách của
chúng tôi được đổ vào những hội truyền giáo ở nước ngoài. Và ông biết những nhà
truyền giáo đã làm gì với số tiền chúng tôi dâng vào không? Họ sửa chữa những
ngôi nhà thờ của họ!” Đó không phải là vấn đề cho quê nhà hay cho nước ngoài,
nhưng là vấn đề về sự cân đối. Như tiến sĩ Oswald J. Smith từng nói, “Ánh sáng
chiếu ra xa nhất sẽ chiếu sáng nhất ở nhà mình”. Một chủ tịch hội truyền giáo ở
nước ngoài nói với tôi, “Tôi mất đến 10 năm để biết rằng Cong 1:8 không dùng từ hoặc nhưng dùng từ và.
Đức Chúa Trời không đánh đổ mọi thứ ở quê nhà để xây dựng cho nước ngoài”. Thật có phước cho những người biếi cân đối!
Sự từ bỏ (IIVua 12:17-18 IISu 24:15-22). Giê-hô-gia-đa
đã qua đời ở tuổi 130. Ông được dân chúng yêu quí và được chôn chung trong lăng
mộ của các vua (24:15-16). Nhưng khi
Giê-hô-gia-đa không còn, vua Giô-ách đã bộc lộ con người thật của mình và chối
bỏ đức tin. Sự bội đạo của ông không phải là lỗi của Giê-hô-gia-đa, vì thầy tế
lễ cả nầy đã trung tín dạy Lời Chúa cho Giô-ách. Vấn đề là đức tin của Giô-ách
nông cạn và ông ta muốn làm vui lòng những người lãnh đạo trong nước, “các quan
trưởng Giu-đa”, là những người đến thăm Giô-ách và yêu cầu ông nhân nhượng hơn trong
vấn đề tôn giáo (24:17-18). Ông đã nhẹ dạ nghe theo họ, và một lần nữa sự thờ thần
tượng lại du nhập vào Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
Sự bội đạo của Giô-ách
là tội cố ý chống nghịch Đức Chúa Trời, vì vua biết Luật pháp Môi-se dạy gì về
sự thờ lạy thần tượng. Nhưng nó cũng là tội
vô ơn đối với tất cả những gì Giê-hô-gia-đa đã làm cho ông. Giê-hô-gia-đa và vợ đã cứu mạng sống vua! Thầy
tế lễ cả nầy đã dạy vua lẽ thật của Lời Đức Chúa Trời và luôn bên cạnh vua từ
những ngày vua tập tành cai trị đất nước. Nhưng vua không bao giờ để lẽ thật ấy
vào trong lòng mình và cho nó đâm rễ. Tấm lòng ông là
miếng đất nông và ông vâng luật pháp của Đức Chúa Trời chỉ vì có người giám sát
đang theo dõi ông. Ông còn lấy của cải của đềnthờ mà ông sửa chữa để mua chuộc
vua ngoại bang!
Giô-ách là một bài học cảnh giác cho
chúng ta ngày nay. Biết lẽ thật của Đức Chúa Trời thôi không đủ; chúng ta phải
tận tâm vâng phục lẽ thật đó (Eph 6:6). Lẽ
thật trong trí có thể sinh ra sự vâng lời, nhưng lẽ thật trong lòng và sự vâng
phục từ lòng sẽ sinh ra bản tánh tin kính. Lời Đức Chúa Trời và ý muốn của Ngài
phải được tiếp nhận - ăn sâu vào trong lòng (Thi
119:9-11) nếu không chúng ta không thể nào tặng trưởng phẩm chất Cơ Đốc
phù hợp. Trước khi bổn phận và sự rèn thử trở thành niềm vui, chúng ta chỉ là
những đầy tớ miễn cưỡng, vâng phục Đức Chúa Trời chỉ vì chúng ta phải làm chứ
không phải vì chúng ta muốn làm. Giê-hô-gia-đa là một “cột trụ” mà vua dựa vào.
Khi chỗ dựa ấy không còn, vua sa ngã.
Trong suốt hơn 50 năm chức vụ, tôi
thường chứng kiến “thảm kịch của Giô-ách”. Một người vợ tin kính qua đời và
người chồng liền bỏ sự nhóm lại và bắt đầu cuộc sống
rất đời. Các con trai và con gái họ bỏ học và dần dần chối bỏ đức tin vì ba và
mẽ không ở bêncạnh để khuyên răn và dạy bảo. Tôi biết một vài người lạnh đạo Cơ
Đốc “dùng” các con họ trong chức vụ, nhưng khi chúng bắt đầu cuộc sống độc lập,
chúng xây lưng với ba mẹ chúng và Đức Chúa Trời. Một khởi đầu tốt không đảm bảo
cho một kết cuộc tốt. Vua Giô-ách có sự ủng hộ bên cạnh để sống tin kính, nhưng
ông không tận dụng những cơ hội của mình để đặt để lẽ thật của Đức Chúa Trời
trong lòng. Khi Đức Giê-hô-va sai tiên tri đến cảnh tỉnh ông, ông không chịu
nghe. Ong còn âm mưu với các quan tướng của mình để khiến Xa-cha-ri, con trai
Giê-hô-gia-đa, bị ném đá đến chết với tội dám quở trách vua vì tội lỗi của vua. [26].Giô-ách đã giết con
trai của người đã cứu mạng mình!
Sự khốn khổ (IIVua 12:19-21 IISu 24:23-27). Khi vua
Giu-đa thờ thần tượng và giết người, Đức Giê-hô-va bắt đầu trừng phạt ông. Đầu
tiên Đức Chúa Trời sai các tiên tri đến cảnh cáo Giô-ách, nhưng ông không nghe.
Sau đó Ngài sai dân Sy-ri, kẻ thù lâu đời của Giu-đa, tranh chiến với Giu-đa [27], và Giô-ách
bị thương nặng trên chiến trường. Cuối cùng Giô-ách phải lấy của cải của đền
thờ để hối lộ cho Ha-xa-ên để ông ta không tấn công Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên,
Giô-ách không hồi phục vết thương, vì hai trong số những quan tướng của ông đã
ám sát ông vì ông đã ra lệnh giết chết Xa-cha-ri, con trai Giê-hô-gia-đa. [28]. 24:26 cho
chúng ta biết rằng hai người nầy là các con trai của hai người đàn bà ngoại
bang, một người Mô-áp và một người Am-môn. Dân Mô-áp và Am-môn là con cháu của
Lót qua mối quan hệ loạn luân với hai con gái ông (Sa
19:30-48). Người ta chôn Giô-ách ở Giê-ru-sa-lem nhưng không phải trong
lăng mộ của các vua mà thầy tế lễ cả Giê-hô-gia-đa đã được chôn (IISu 24:25,26).
Giô-ách có một khởi đầu tốt đẹp
nhưng có kết thúc đáng buồn chính vì ông từ bỏ đường lối của Đức Giê-hô-va.
Chúng ta không biết tiên tri Ê-xê-chi-ên có nghĩ đến Giô-ách hay không khi ông
viết câu Kinh Thánh trong Exe 18:24-32.
2. Giô-a-cha - Đức tin
dao động (IIVua 13:1-9)
Đoạn Kinh Thánh nầy chuyển bối cảnh sang Y-sơ-ra-ên với thời trị vì của contrai
Giê-hu là Giô-a-cha. Không có gì ngạc nhiên khi ông chọn Giê-rô-bô-am làm tấm
gương cho mình, vì cha của ông cũng tương tự như vậy (IIVua
10:29). Giô-a-cha thờ tượng bò vàng thay vì thờ Đức Chúa Trời hằng sống,
nhưng khi ông thấy mình gặp khó khăn, ông đã xây lại nhờ Đức Giê-hô-va cứu
giúp.
Dân Y-sơ-ra-ên không bất ngờ khi Đức
Giê-hô-va sai quân Sy-ri đến tấn công họ, vì dân sự biết rõ những điều khoản
trong giao ước của Đức Chúa Trời đã lập với họ trước khi họ vào đất hứa
Ca-na-an. Nếu họ vâng lời Chúa, Ngài sẽ giúp họ đánh thắng các kẻ thù, nhưng
nếu họ không vâng theo Chúa, Ngài sẽ khiến họ thất bại trước kẻ thù (Le 26:17,25,33,36-39 Phu 28:25-26,49-52). Dân sự
vẫn tin lời dối trá của Sa-tan, “Ngươi chẳng chết đâu” (Sa 3:4). Kẻ thù dụ dỗ, “Hãy làm bất cứ những gì ngươi thích, vì
tội lỗi không gây ra hậu quả nghiêm trọng gì đâu”. Nhưng hoặc trừng phạt, hoặc
ban thưởng, Đức Chúa Trời luôn làm đúng theo Lời Ngài phán ra.
Tình hình trở nên khó khăn đến nỗi
Giô-a-cha phải kêu cầu Đức Chúa Trời giúp đỡ, y như cách Y-sơ-ra-ên thường làm
trong thời các quan xét (Cac 2:10-23). Đức
Chúa Trời trong sự nhân từ Ngài đã nghe và nhậm lời cầu xin của vua và hứa sẽ
sai người đến giải cứu nhưng chỉ sau khi Giô-a-cha không còn nữa (c.22).
Ha-xa-ên qua đời và con trai ông là Bên-Ha-đát lên thay, vua mới nầy không mạnh
như cha mình, nên Y-sơ-ra-ên đã thoát được sự kìm kẹp của Sy-ri. Những sử gia
không thống nhất với nhau về vấn đề ai là người giải cứu nầy. Một số người cho
rằng đó là dân A-si-ri, vì họ đã tấn công Sy-ri trong thời Bên-Ha-đát và làm
suy yếu sức mạnh của ông ta. Những người khác thì nghĩ rằng người giải cứu nầy
là một hoặc cả hai người kế vị của Giô-a-cha, Giô-ách (c.25) và Giê-rô-bô-am II
(IIVua 14:25-27). Câu “Y-sơ-ra-ên được ở lại
trong trại mình” (c.5) có nghĩa là “họ sống trong hoà bình và không phải tìm
chỗ ẩn núp trong các thành có tường bao bọc”.
Có phải ơn phước mà Đức Chúa Trời
hứa ban đã làm vua thay đổi? Có thể không, vì ông không dẹp bỏ các thần tượng
ra khỏi xứ mình (c.6 IVua 16:33) cũng không
khuyên dân sự trở về với Đức Giê-hô-va. Đức tin dao động không sâu sắc cũng
không tồn tại được lâu dài. Một khi người ta thấy được hy vọng phía trước và
nỗi đau của họ được xoa dịu, họ liền quên Đức Chúa Trời và trở về với con đường
cũ của mình cho đến khi khó khăn khác xảy đến. Dân Sy-ri bỏ Giô-a-cha lại với
một đội quân tan rã, đang xấu hổ hơn là đáng khích lệ. Nhưng Đức Chúa Trời đã
hứa rằng nếu dân sự Ngài tin cậy Ngài và vâng theo Lời Ngài, các kẻ thù của họ
sẽ phải tan tác trước họ (Phu 28:7 32:30 Le 26:8).
Nhưng đức tin dao động thật không
đáng tin cậy. Rất nhiều lần tôi nghe những bệnh nhân nằm viện nói, “Mục sư ơi,
nếu Đức Chúa Trời chữa lành cho tôi và đem tôi khỏi đây, tôi sẽ là một Cơ Đốc
Nhân tốt nhất mà ông từng gặp”. Đức Chúa Trời chữa lành cho họ và cho họ về
nhà, nhưng tôi không bao giờ gặp mặt họ lần nào trong nhà thờ. Đúng vậy, có
những kiểu “tin Chúa trong khó khăn” và “tin Chúa khi hấp hối”, và chúng ta
không muốn làm nản lòng những người muốn quay về với Đức Chúa Trời trong những
lúc khốn khó. Sử gia người Anh, William Camden đã viết, ”Giữa những lúc nguy
khốn, tôi cầu xin cứu giúp, tôi tìm kiếm ơn lành.”
Nhưng đã bao nhiêu lần chúng ta kêu
cầu Chúa trong hoạn nạn và quên Ngài khi đã bình an? Người nào dựa vào đức tin
hay dao động nên lưu ý những lời cảnh tỉnh trong Ch
1:24-33 Es 55:6-7,và đừng nên nghĩ
rằng vì Đức Chúa Trời nghe và cứu giúp họ, thì tất nhên họ sẽ được lên thiên
đàng.
3. Giô-ách (vua
Y-sơ-ra-ên) - đức tin ngu muội (IIVua 13:10-25)
Vì lý do nào đó mà cái chết của Giô-ách được đề cập hai lần, một lần trước
khi sử gia thuật lại cuộc đời của ông (c.12-13) và lần thứ hai ở cuối câu
chuyện (IIVua 14:15-16). Chiến thắng của ông
trước A-ma-xia, vua Giu-đa, cũng được đề cập trước khi nó được mô tả chi tiết
hơn (14:8-14 IISu
25:1-28). Nhưng điều quan trọng nhất về Giô-ách là ông đủ hiểu biết để
đến thăm Tiên tri Ê-li-sê và được ông chúc phước. Chúng ta cũng xem qua 5 sự
kiện về Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên.
Ông theo gương xấu (IIVua 13:10-13). Giống như cha mình, ông đã theo gương xấu của
Giô-rô-bô-am I, vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên. Điều nầy có nghĩa là ông đã thờ
tượng bò con vàng. Và, giống như cha mình, ông trở về với Đức Giê-hô-va chỉ khi
ông gặp khó khăn. Dân Sy-ri vẫn đang nắm quyền kiểm soát và tiên tri Ê-li-sê
đang bệnh nặng sắp về với Chúa.
Ông có một quyết định
khôn ngoan (IIVua 13:14).
Chúng ta không được biết gì về Ê-li-sê từ IIVua 9:1, khi ông sai một môn đồ của các
tiên tri đền xức dầu cho Giê-hu làm vua Y-sơ-ra-ên.
Như vậy có nghĩa là hơn 40 năm im lặng kể từ lần cuối Ê-li-sê được nhắc đến,
tuy nhiên Ê-li-sê vẫn thi hành chức vụ trong xứ và Đức Giê-hô-va đồng hành với
ông. Giờ đây ông đã già và sắp qua đời, và vua Y-sơ-ra-ên đến thăm ông. Ít nhất
chúng ta cũng có lòng tin nơi Giô-ách khi ông ta viếng thăm tiên tri và tìm
kiếm sự giúp đỡ của ông. Ê-li-sê có nói cho Giô-a-cha rằng Đức Chúa Trời sẽ sai
đến một người giải cứu (c.4-5) không? Giô-ách con trai ông có phải là người
giải cứu đó? Chỉ một mình Ê-li-sê biết kế hoạch của Đức Chúa Trời và vua đã
khôn ngoan khi đến viếng thăm ông.
Thật đáng tiếc khi không
đánh giá đúng giá trị của người lãnh đạo thuộc linh nhưng tán dương họ sau khi
họ qua đời. Người Pha-ri-si thà xây mồ đẹp cho người chết hơn là tỏ lòng biết
ơn người đang sống (Mat
23:29-32). Những đầy tớ trung thành của Đức Chúa Trời không bao giờ “bỏ
cuộc” dù cho họ có thể từ bỏ năng khiếu cả đời của mình và xây lưng khỏi những
hoạt động công khai. Ngay trên giường hấp hối, Ê-li-sê vẫn đang phục sự Đức
Chúa Trời và dân sự Ngài. Miễn là Đức Chúa Trời ban cho chúng ta sức lực và sự
khôn ngoan, chúng ta sẽ hầu việc Ngài hết sức mình trong đường lối mà Ngài mở ra
cho chúng ta. Tôi thật biết ơn vì “những tôi tớ dày dạn” luôn cố vấn và khuyến
khích tôi, và những ký ức về cuộc đời và chức vụ của họ vẫn là một ơn phước đối
với tôi (He 13:7-8).
Vua tỏ lòng kính trọng tiên tri và
còn xưng hô với ông bằng chính từ mà Ê-li-sê dùng để xưgn hô với Ê-li trước khi
Ê-li được cất lên trời (IIVua 2:12). Ê-li-sê
giống như một người cha của dân tộc và còn quan trọng hơn tất cả các đội quân
của họ! Ê-li-sê biết rằng Giô-ách đang gặp khó khăn vì quân Sy-ri và đã dùng
tất cả sức lực còn lại của mình để giúp vua. Thật, Giô-ách là vị vua thỏa hiệp,
không vâng lời Đức Chúa Trời, nhưng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời nhân từ, thương
xót, chậm giận, đầy dẫy ân huệ và thành thực” (Xu
34:6). Ngài hứa giải cứu dân sự Ngài và Ngài sẽ giữ lời. Nhưng Ê-li-sê
cho Giô-ách biết lời hứa của Đức Chúa Trời sẽ được
thành tựu khi vua biết thể hiện một đức tin khôn ngoan.
Ông phạm một lỗi lớn (IIVua 13:15-19). Vua Giô-ách không phải là người có đức tin,
nhưn ông có thể nghe theo những chỉ dẫn. Tuy nhiên, ông thiếu nhận thức và sự
khôn ngoan thuộc linh mà con người phải có khi sống trong thế gian nầy và bước
đi bằng đức tin. Khi tiên tri Ê-li-sê đặt tay mình trên tay vua, đây là dấu
hiệu cho thấy ông đang truyền sức mạnh từ
Đức Chúa Trời cho vua. Khi Ê-li-sê bảo vua giương cung bắn về vùng đất người
Sy-ri đang kiểm soát, ông muốn nói đến sự chiến thắng trên kẻ thù đó (Phu 32:42 Thi 120:4).
Rất có thể vua hiểu rõ điều nầy vì Ê-li-sê cho ông biết một lời hứa rõ ràng về
sự chiến thắng.
Nhưng khi Ê-li-sê bảo vua lấy mũi
tên đập xuống đất, ông ta không có sự am hiểu thuộc linh mà ông cần để thực
hiện trọn việc ấy. Nếu ông ta là người trung tín thờ phượng Đức Chúa Trời hằng
sống, ông ta sẽ hiểu lẽ thật nhưng ông mù quáng giống như những thần tượng hay
chết mà ông ta đã thờ lạy (115:3-8) Bắn một
mũi tên bảo đảm sự chiến thắng, nhưng số lần ông đập mũi tên xuống đất là số
lần Đức Chúa Trời ban cho ông chiến thắng. Vì Giô-ách có một đức tin ngu muội,
ông đã tự giới hạn mình để rồi chỉ thắng quân Sy-ri ba lần.
Dù đang bệnh nặng, tiên tri Ê-li-sê
đã nổi giận với vua vì sự ngu dốt và vô tín của vua. Giô-ách đã đánh mất cơ hội
tiêu diệt hoàn toàn các kẻ thù mình! “Theo như đức tin các ngươi, phải được
thành vậy” (Mat 9:29) Chỉ biết và vâng theo
ý muốn Đức Chúa Trời thôi chưa đủ, chúng ta còn phải hiểu ý muốn và đường lối
của Ngài (Eph 5:17 Thi
103:7). Những điều răn và việc làm của Đức Chúa Trời mặc khải cho chúng
ta bản tánh của Đức Chúa Trời nếu đôi mắt thuộc linh chúng ta mở ra (Eph 1:17-20). Đây là cách chúng ta hiểu được đường
lối của Đức Chúa Trời và biết cách hầu việc Ngài tốt hơn, và đây là cách Đức
Chúa Trời làm đức tin chúng ta lớn mạnh.
Ông nhận được sự khích
lệ lớn (IIVua 13:20-21). Khi
Ê-li-sê qua đời, vua lo lắng vì sợ lời hứa của ông sẽ chết theo ông. Để động
viên vua, Đức Giê-hô-va đã làm một phép lạ sau khi Ê-li-sê quan đời. Người Do
thái không ướp xác như người Ê-díp-tô. Họ chỉ tắm cho xác và bọc nó trong vải
liệm chung với hương liệu. Một ngày kia, khi quân Mô-áp tiến đến, đoàn quân gặp
phải một đám tang chắn lối. Thấy quân Mô-áp, tang quyến liền liệng xác chết vào
mồ của Ê-li-sê và bỏ chạy. Nhưng Đức Chúa Trời nhân dịp đó để khiến người chết
ấy sống lại! Chắc chắn phép lạ nầy được truyền miệng trong dân chúng và có thể
vua được nghe người chúng kiến tận mắt kể lại. Phép lạ nầy muốn nói với vua
rằng dù tiên tri Ê-li-sê đã chết, Giê-hô-va vẫn là Đức Chúa Trời hằng sống và
là Đức Chúa Trời quyền năng. Lời hứa của Ngài chắc chắn thành tựu.
Tiên tri Ê-li không bao giờ chết
nhưng được cất lên trời (IIVua 2:11-12),
nhưng tiên tri Ê-li-sê đã chết và được chôn. Tuy nhiên Ê-li-sê đã làm phép lạ
dù đã chết. Đức Chúa Trời có những kế hoạch khác nhau cho mỗi tôi tớ Ngài và
việc của chúng ta không phải là đi so sánh người này với người khác hoặc nghi
ngờ việc làm của Đức Chúa Trời (Gi 21:19-23).
Ông chiến thắng ba
trận (IIVua 13:22-25).
Quân Sy-ri quyết tâm tiêu diệt Y-sơ-ra-ên và biến nó thành một phần trong đế
quốc của họ, nhưng Đức Giê-hô-va có những chương trình khác. Giao ước Ngài với
các tổ phụ (Sa
12:1-3) và ân điển Ngài dành cho con cháu họ đã khiến Ngài đoán xem sự
đau đờn của Y-sơ-ra-ên và giải cứu họ khỏi các kẻ thù. Chỉ khi dân sự phạm tội
quá mức đến nỗi họ báng bổ danh Đức Giê-hô-va và làm ô uế đất của Ngài, thì Đức
Chúa Trời cho phép cả Y-sơ-ra-ên và Giu-đa thất trận và làm nô lệ cho kẻ thù.
Năm 722, quân A-si-ri chiếm vương quốc Y-sơ-ra-ên ở phía bắc, và năm 586,
Giê-ru-sa-lem sụp đổ dưới tay người Ba-by-lôn. Dân
Giu-đa trở về xứ mình sau 70 năm lưu đày, nhưng Y-sơ-ra-ên vẫn còn bị đồng hoá
trong đế quốc A-si-ri.
Vua Giô-ách thắng ba
trận lớn trước quân Sy-ri, và điều nầy đủ để ông có thể lấy lại các thành đã bị
Ha-xa-ên và Bên-Ha-đát chiếm, và sau đó Giê-rô-bô-am II lấy lại được toàn bộ
xứ. Đức Giê-hô-va giúp Giô-ách nâng cao sức mạnh quân sự của mình (c.7) và thắng
hơng quân Sy-ri dưới sự lãnh đạo của Bên-Ha-đát III. Lời hứa của Đức Chúa Trời
trở thành sự thật và dân sự của Đức Chúa Trời được dung thứ. Suốt thời trị vì
của Giô-ách và Giê-rô-bô-am II, nước Y-sơ-ra-ên đạt đến đỉnh điểm của nó và
trong xứ được thành vượng. Nhưng, với tất cả những thành tựu và sự giàu có của
nó, nó vẫn là xứ đầy dẫy thần tượng và tội lỗi. Suốt thời trị vì của
Giê-rô-bô-am II, tiên tri Ô-sê và A-mốt chăn dắt dân Y-sơ-ra-ên. Khi chúng ta
đọc các sách của họ, chúng ta sẽ thấy tình trạng thật của đất nước.
8. CHÍN VỊ VUA – NĂM
CUỘC MƯU SÁT (IIVua 14:1-15:38 IISu 25:1-27:9)
“Lịch sử chính trị đầy
sự gian ác và bệnh hoạn, nên không phải là một đề tài nghiên cứu thích hợp cho thanh niên” lời của nhà thơ W. H. Auden. Edward
Gibbon, tác giả quyển The Decline and Fall of
the Roman Empire, định nghĩa lịch sử “không gì hơn một quyển sách
ghi lại những tội ác, những hành động ngu dại, và
những bất hạnh của nhân loại”. [29].
Lịch sử được ghi nhận
trong 5 đoạn nầy có vẻ nhất trí với Anden và Gibbon, vì trong nó đầy dẫy những
âm mưu, sự chém giết, sự suy đồi đạo đức và sự chống nghịch luật pháp Đức Chúa
Trời. Y-sơ-ra-ên ngày xưa không khác gì với xã hội ngày nay. Không một vua nào
của Y-sơ-ra-ên khuyên dân sự mình ăn năn và tìm kiếm Đức Chúa Trời; và ở Giu-đa,
A-ma-xia và A-xa-ria đều chạy theo tham vọng mình, và điều đó làm Đức Chúa Trời
giận và trừng phạt dân sự. Khi Giê-rô-bô-am II trở thành vua Y-sơ-ra-ên năm 782
T.C., dân sự mới nhận ra một chút ít rằng trong 60 năm, vương quốc của họ sẽ
không còn nữa. Khi chúng ta theo dõi 9 vị vua nầy, chúng ta có thể biết được ý
muốn và đường lối của Đức Chúa Trời cũng như cái giá kinh khủng của tội lỗi.
1. A-ma-xia, vua kiêu
ngạo (IIVua 14:1-20) (IISu 25:1-28)
A-ma-xia là vua thứ chin
của Giu-đa [30]. và là con trai của Giô-ách, vị vua lên ngôi khi còn nhỏ và về sau
đã xây bỏ Đức Chúa Trời, giết tiên tri của Đức Chúa Trời, và cuối cùng bị ám sát (24:15-16).
A-ma-xia đã có một khởi đầu tuyệt với, nhưng về sau ông từ bỏ Đức Chúa Trời và
cũng bị ám sát (14:17-20) [31]. Ông đã xử tử những người đã giết vua cha mình,
và vâng theo Phu 24:16, ông chỉ giết
người người có liên quan không giết hết gia đình họ [32]. Ông tiếp tục vâng theo Lời Đức Chúa Trời, cuộc
đời và vương triều của ông chắc đã có nhiều khác biệt. Chúng ta cùng xem một
vài tội lỗi của ông.
Vô tín (IIVua 14:7 IISu
25:5-13). A-ma-xia quyết định tấn công Ê-đôm và chiếm lại những vùng
lãnh thổ đã bị mất (IIVua 8:20-22). Kế hoạch
không tồi, nhưng cách ông thực hiện có sự sai sót nhất định. Ông kiểm tra quân
số mình và đếm được 300.000 quân, thay vì tin cậy Đức Chúa Trời sử dụng lính
của mình, ông đã mướn 100.000 lính đánh thuê từ Y-sơ-ra-ên để tăng cường lực
lượng. Đức tin của ông đặt nơi số lượng quân lính không phải nơi Đức Chúa Trời
(Thi 20:7), nhưng tệ hơn nữa là những binh
lính mà ông mướn là những người Y-sơ-ra-ên bội đạo, một dân tộc thờ tượng bò
con vàng. Đức Chúa Trời sai một tiên tri đến quở trách vua và cảnh cáo rằng Đức
Chúa Trời không ở củng nước Y-sơ-ra-ên, nên các lính thuê nầy chỉ mang về thất
bại. “Còn nếu vua muốn đi, thì hãy đi đi, khá làm cho mình mạnh mẽ mà chinh
chiến đi; Đức Chúa Trời sẽ khiến vua ngã trước mặt quân thù; vì Đức Chúa Trời
có quyền giúp cho thắng và cũng có quyền làm cho sa bại” (IISu 25:8). Tiên tri nầy nói giọng mỉa mai nhưng ông
đã nêu rõ ý chính của mình.
Một trong những chủ đề lập đi lập
lại trong lịch sử Y-sơ-ra-ên là tội lỗi của họ vì liên minh với các dân ngoại
đạo bở họ không tin nơi Đức Chúa Trời. Sa-lô-môn đã cưới những người vợ ngoại
đạo và bởi đó lập giao ước với các c láng giềng, nhưng những người vợ nầy đã
dẫn dụ ông thờ lạy thần tượng (IVua 1:1-53).
Vua A-háp cưới Giê-sa-bên, một công chúa nước Phê-ni-xi và là người thờ thần
Ba-anh (16:30-33), và việc nầy đã đưa thần
Ba-anh vào thờ lạy trong nước. Vua Giô-sa-phát liên kết với A-háp tấn công
Sy-ri và suýt chết. Giô-sa-phát cũng giao dịch mua bán với vua A-cha-xia, nhưng
Đức Giê-hô-va đã đánh vỡ tàu của Giô-sa-phát để bẻ gãy mối quan hệ đó. “Chớ
mang ách chung với kẻ chẳng tin” (IICo 6:14)
là lời nhắc nhở mà chúng ta phải lưu tâm và làm theo. Để phát lộ quyền năng và
ân điển của Đức Chúa Trời và làm thành ý muốn của Ngài, chúng ta phải khác với
thế gian không phải bắt chước thế gian và hợp nhất với thế gian.
Theo IISu
25:2, A-ma-xia không hết lòng trong mối tương giao của ông với Đức
Giê-hô-va, và điều nầy được bộc lộc trong cách ông tranh luận với tiên tri về ý
muốn của Đức Chúa Trời (IIVua 25:9). Vua
không muốn trả các lính thuê về vì như vậy xem như ông mất không 100 ta-lâng
bạc cho vua Y-sơ-ra-ên. Số lượng nầy tương đương với 4 tấn bạc. A-ma-xia đang
“toan tính thiệt hơn”, điều chỉnh thứ tự ưu tiên của mình, và hy vọng ông có
thể thay đổi được ý định của Đức Chúa Trời. Tiên tri đối đáp khôn ngoan rằng
Đức Chúa Trời có thể ban cho vua nhiều hơn nếu vua chỉ tin cậy một mình Ngài và
vâng phục ý muốn Ngài (Mat 6:33).
Nếu chúng ta tìm kiếm ý
muốn Đức Giê-hô-va trước
khi chúng ta vội vã không vâng lời, chúng
ta sẽ tránh được nhiều rắc rối; nhưng dù sau đó chúng ta thay đổi quyết định và
vâng theo Chúa, thì thường vẫn có hậu quả đáng buồn ma chúng ta phải chịu.
Những binh lính trở về Y-sơ-ra-ên trong giận dữ vì bị đối xử như vậy. Tại sao
họ nổi giận? Thứ nhất, họ đánh mất cơ hội làm lợi cho mình từ những chiến lợi
phẩm. Hơn nữa, vua Giu-đa là ai nói rằng Đức Chúa Trời xem trọng quân đội
Giu-đa hơn quân đội của Sa-ma-ri? Lính đánh thuê trở về quê hương với hai tay
trắng là một điều đáng xấu hổ, và chưa bao giờ xảy ra! Làm thế nào họ có thể
giải thích với vua và người thân ở quê nhà rằng đội quân của họ bị khước từ? Để
giải toả cơn giận ấy họ quyết định tấn công vào một số thành ở vùng biên giới
phía bắc Giu-đa. Họ đã giết chết hàng ngàn người và cướp bóc của cải ở đó như
một sự đền bù (IIVua 25:13) [33].
Vì cuối cùng vua
A-ma-xia đã vâng theo lời Đức Chúa Trời, quân đội của vua đã đánh bại dân Ê-đôm. Họ giết chết mưới ngàn người trong trũng Muối,
nơi Đa-vít từng thắng một trận lớn (ISu 18:12),
Sau đó họ tiêu diệt mưới ngàn tù nhân chiến tranh bằng cách ném họ xuống từ các
đỉnh cao của thành Sê-la (Petra), là một thành cắt ngang một ngọn núi (Obad.
1-4). Quá khấn khởi với chiến công của mình, vua đã đặt tên lại cho thành nầy
là “Giốc-then” có nghĩa là “Đức Chúa Trời tiêu diệt” (IIVua
14:7).
Thờ thần tượng (IISu 25:14-16). Andrew Bonar, người Xcốt-len nói, “Chúng ta phải cảnh giác sau
thắng lợi giống như trước khi bước vào trận chiến”, đây là lời nhắc mà vua
A-ma-xia cần phải lưu ý. Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho đầy tớ Ngài một
chiến thắng vang dội trứơc kẻ thù hùng mạnh ở trong một địa điểm khó khăn, nhưng A-ma-xia đem những thần tượng của kẻ chiến bại về
Giu-đa (IISu 25:14-16)! Chắc chắn
vua Giu-đa không nghĩ rằng việc lấy đi những thần tượng nầy sẽ làm tê liệt
dânÊ-đôm và ngăn chặn những cuộc chiến trong tương lai! Mọi người Do thái đều
được dạy rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời chân thần và hằng sống
duy nhất, và như vậy các thần tượng của các nước là hư không (Phu 6:4-5 Thi 115:1-18).
Thờ lạy thần tượng là vi phạm đến Luật pháp Môi-se (Xu
20:1-6), và việc thờ những thần tượng của kẻ chiến bại thật quá vô lý.
Xét cho cùng, các thần tượng ấy đã làm gì được cho người Ê-đôm? Tuy nhiên
A-ma-xia bắt đầu thờ các thần của Ê-đôm, dâng của lễ cho họ và cầu vấn họ.
Khi Đức Giê-hô-va sai sứ giả Ngài
đến cảnh cáo vua, A-ma-xia đã ngắt lời và doạ giết chết tiên tri nếu ông còn
dám mở miệng. Nhưng tiên tri nói một lời cuối: Đức Chúa Trời sẽ diệt trừ vua vì
tội lỗi vua. Thật ra, Đức Chúa Trời sẽ để cho vua tự diệt mình! Hình phạt lớn
nhất mà Đức Chúa Trời có thể giáng trên con người là cho họ tự ý đi theo con đường riêng của mình.
Kiêu ngạo (IIVua 14:8-14 IISu
25:17-24). A-ma-xia đánh thắng dân Ê-đôm vì đã vâng theo Đức Chúa
Trời, nhưng sau đó Ê-đôm đã đánh bại A-ma-xia khi ông đem các thần tượng của họ
về xứ mình. Tự hào vì chiến thắng mà không để ý gì đến tội lỗi mình, vua
A-ma-xia tìm các nước khác để tiếp tục chinh phục và ông quyết định thách thức
Giô-ách, vua Y-sơ-ra-ên. Ông không chỉ bỏ ngoài tay lời cảnh cáo của tiên tri
mà Đức Chúa Trời sai đến, ông còn quên luôn lời của Sa-lô-môn, tổ phụ mình,
”Trước khi sự bại hoại, lòng người vẫn tự cao; Song sự khiêm nhượng đi trước sự
tôn trọng” (Ch 18:12). Ngay cả vua Giô-ách
cũng cảnh cáo ông rằng sự kiêu ngạo của ông sẽ huỷ diệt ông (IIVua 14:10), nhưng A-ma-xia nhất định tíen đánh
Y-sơ-ra-ên và muốn trở thành vua của một nước thống nhất.
Câu trả lời của Giô-ách (14:9 IISu 25:18)
nhắc chúng ta nhớ câu chuyện mà Giô-tham đã kể (Cac
9:7-20), và cả hai đều đối diện với tính kiêu ngạo và sự trừng phạt. Vấn
đề của A-ma-xia là kiêu ngạo: ông tự thấy mình là cây tùng vững chãi, trong khi
thực tế ông chỉ là một cây dại yếu ớt dẽ dàng bị thú rừng giày xéo. Người thật
sự hạ mình nhìn nhận mọi việc như Đức Chúa Trời nhìn nhận và không sống trong
những ảo tưởng của nó. Kiêu ngạo làm mù tâm trí, bóp méo tầm nhìn và như vậy
thổi phồng cái tôi mà người ta không thể nói ra lẽ thật từ sự tưởng tượng.
Không nghe theo lời cảnh cáo thứ hai
của Đức Chúa Trời, A-ma-xia tiến quân xâm chiếm Y-sơ-ra-ên và quân đội của ông
đã thất bại hoàn toàn ở đó. Ông bị bắt dẫn đi đoạn đường 50 dăm từ
Giê-ru-sa-lem xuống cung điện và đến nhà tù. Quân Y-sơ-ra-ên chiếm Giu-đa và
phá huỷ 600 feet tường thành Giê-ru-sa-lem, và bỏ lại thành ấy trong cảnh suy
yếu để dành cho những cuộc tấn công sau nầy. Họ cũng cướp các kho tàng của cung
điện và của đền thờ Đức Chúa Trời, và họ còn bắt các lãnh đạo làm con tin. Vua
A-ma-xia bị lưu đày đến Sa-ma-ri khoảng 15 năm (IIVua
14:17) và sau đó trở về Giê-ru-sa-lem cùng nhiếp chính với con trai mình
(14:21 IISu 26:1,3). Nhưng sự thờ
lạy thần tượng của ông đã gây rắc rối cho các lãnh đạo và họ lập mưu ám xác
ông. A-ma-xia trốn đến La-ki rồi bị bắt và giết chết ở đó (IIVua 14:18-20 IISu
25:27).
A-ma-xia là một hình ảnh buồn của
lịch sử Do thái. Ông có được nhiều cơ hội và kinh nghiệm nhiều về sự giúp đỡ
của Đức Chúa Trời, nhưng ông là người hai lòng, không toàn tâm toàn ý hầu việc
Đức Chúa Trời. Ông tự có chương trình riêng và không để thời gian tìm kiếm ý
muốn Đức Chúa Trời. “Sự kiêu ngạo đi trước, sự
bại hoại theo sau, và tánh tự cao đi trước sự sa ngã” (Ch 16:18).
2. Giê-rô-bô-am, vua
thịnh vượng (IIVua 14:23-29)
Đến đây Kinh Thánh
chuyển hướng sang Y-sơ-ra-ên và vua Giê-rô-bô-am II. Vua có triều đại lâu nhất
của Y-sơ-ra-ên, 41 năm. Ông không phải là vị vua tốt khi nói về những vấ đề
thuộc linh, nhưng ông đã làm cho đất nước hưng thịnh và đánh đuổi được nhiều kẻ
thù. Ngày xưa, người dân bình thường không quan tâm đến tính cách của những
người lãnh đạo đất nước miễn là dân chúng có cái ăn, có tiền trong túi, và
không sợ bị kẻ thù xâm lược.
Nhờ những chiến thắng
của A-si-ri trên Sy-ri, cả Y-sơ-ra-ên và Giu-đa được thoát khỏi sự kìm kẹp của kẻ thù lâu đời và
cả hai có cơ hội nguồn tái chánh và nhân lực của mình vào những công trình xây
dựng thay vì vào những cuộc chiến. Y-sơ-ra-ên có thể đuổi quân Sy-ri ra khỏi
các đơn vị đóng quân dọc biên giới và cũng lấy lại được phần lãnh thổ bị mất
vào tay Sy-ri. Nước Y-sơ-ra-ên lại có được diện tích như thời Sa-lô-môn
(c.25,28 IVua 8:65). Đức Giê-hô-va cho họ
được thành công như vậy không phải vì dân sự hay vua của họ xứng đáng, nhưng vì
Ngài thương xót dân sự Ngài đang phải chịu sự cai trị của người Sy-ri (IIVua 14:26 2:23-25).
Nhưng sự hưng thịnh của Y-sơ-ra-ên
chỉ là một lớp áo che giấu những tội lỗi và tội ác ghê tởm trong mắt Đức Chúa
Trời. Các tiên tri A-mốt (Am 1:1) và Ô-sê (Os 1:1) thi hành chức vụ trong thời Giê-rô-bô-am
và cảnh cáo rằng sự trừn gphạt sắp xảy đến cho dân sự. Sự trừng phạt thật đã
xảy đến vào năm 722 T.C., khi quân A-si-ri xâm lược Y-sơ-ra-ên, bắt nhiều người
Do thái đi lưu đày và đen người Ngoại bang từ các nước khác vào sống trà trộn
chung với dân Y-sơ-ra-ên. Việc làm nầy đã sinh ra một chủng tộc hổn tạp, nửa
Y-sơ-ra-ên nửa Ngoại bang, cũng như một tôn giáo ngoại lai có đền thờ và hội
đồng tế lễ riêng của nó đặt trên núi Gerizim (Gi
4:20-22). Sau thời gian bị lưu đày đến Ba-by-lôn, dân Do thái chính
thống, là những người trở về Giu-đa, sẽ không có quan hệ gì với người Sa-ma-ri
(Exo 4:1-4 Ne
2:19-20 Gi 4:9).
Những tội lỗi của người thịnh vượng
nầy là gì? Trước hết, người giàu luôn muốn giàu hơn bằn gmồ hôi nước mắt của
người nghèo. Những địa chủ giàu có ít khi nào quan tâm đến những đầy tớ của
mình, và các quan toà không vâng theo luật pháp và thường thiên vị kẻ giàu, đối
xử bất công với người nghèo. Ở giữa sự tham nhũng suy đồi đó, những người lãnh
đạo sinh hoạt tôn giáo, tham gia các buổi thờ phượng, và dâng của lễ (Am 2:1-8 4:1-5).
Trong khi người giàu và vợ con họ sống xa hoa, người nghèo bị chà đạp và bị
cướp đi quyền công dân của họ (6:1-7 Os 12:8). Những người “mộ đạo” chờ đợi “ngày Đức
Giê-hô-va”, và nghĩ rằng biến cố quan trọng ấy sẽ càng đem vinh quang về cho
Y-sơ-ra-ên (Am 5:18-27). Dân sự không biết
thật ra “ngày Đức Giê-hô-va” có nghĩa là sự đoán phạt thành sẽ giáng trên đất
nước, vì sự đoán phạt của Đức Chúa Trời sẽ bắt đầu ở chính dân sự của Ngài (IPhi 4:17). Y-sơ-ra-ên bị dẫn dụ vào con đường thờ
thấn tượng, vì vậy đạo đức họ suy đồi và đời sống họ tha hoá (Os 6:4 7:8 9:9 11:7 13:2) [34]. Giê-rô-bô-am II cai trị từ 793 đến 753, và
năm 722 T.C. dân A-si-ri xâm lược Y-sơ-ra-ên và đặt dấu chấm hết cho nước
Y-sơ-ra-ên.
Nhà văn và nhà soạn kịch
người Anh, Oliver Goldsmith nói trong bài thơ The Deserted Village của
mình
Ill fares the land, to
hast’ning ills a prey,
Where weath
accumulates, and the men decay…
(Đất xấu không làm lòng
người trở nên xấu; Nhưng nơi nào có sự dư dật, con người lại suy đồi…)
3. Ô-xia (A-xa-ria),
vua nổi danh (IIVua 15:1-7) (IISu 26:1-23)
Tên A-xa-ria có nghĩa là “Giê-hô-va
hằng giúp đỡ”, nhưng khi ông lên ngôi năm 16 tuổi, ông lấy tên là Ô-xia, có
nghĩa là “Giê-hô-va là sức mạnh”. Dân sự lập ông làm vua sau khi cha ông là
A-ma-xia bị bắt đến Sa-ma-ri sau khi dại dột gây chiến với Giô-ách, vua
Y-sơ-ra-ên (IIVua 14:13).
Suốt 15 năm cha mình bị cầm tù ở
Sa-ma-ri, Ô-xia cai trị Y-sơ-ra-ên và tin kiếm ý múon của Đức Chúa Trời. Sau
khi vua cha băng hà, Ô-xia tiếp tục ngồi trên ngôi cho đến khi ông dại dột muốn
làm thầy tế lễ và Đức Chúa Trời giáng bệnh phung trên ông để trừng phạt ông.
Theo ghi nhận Ô-xia là vua Giu-đa trong 52 năm (IISu
26:3), kể cả thời gian đồng nhiếp chính với A-ma-xia, cha ông (15 năm)
và với Giô-tham, con trai ông (khoảng 10 năm).
Từ ngày đầu mới lên ngôi, Ô-xia tỏ
ra là người trung tín thờ phượng Đức Giê-hô-va, dù ông không nổ lực dẹp bỏ
những “nơi cao”, những ngôi đền mà dân sự đã thờ phượng. Họ phải đến đền thờ
với những lễ vật và của lễ dâng cho Đức Giê-hô-va, nhưng sẽ thuận lợi hơn khi
đến một ngôi đền gần nhà. Một số nơi cao vẫn còn dành cho các thần tượng của
dân ngoại, như thần Ba-anh (IISu 27:2), và
mãi cho đến thời của Ê-xê-chia và Giô-si-anhững nơi cao ấy mới được dẹp bỏ (31:1 IIVua 23:1-36).
Những thành tựu của Ô
-xia (IIVua 14:22 IISu 26:2,6-15). Ô-xia rất thành công về mặt quân sự. Ông
lấy lại phần đất từ Ê-đôm đến Ê-lát, dù sau đó nó bị mất vào tay Sy-ri và
Y-sơ-ra-ên (IIVua 16:5-6 IISu 28:17). Việc chiếm được Ê-lát giúp nước
Giu-đa mở rộng về phía biển, và điều nầy giúp ích nhiều trong sự buôn bán với
các nước khác. Ô-xia có Xa-cha-ri làm cố vấn và muốn làm đep lòng Đức Chúa
Trời. “Người tìm kiếm bao lâu, thì Đức Chúa Trời khiến cho người đặng may mắn
bấy lâu” (26:5).
Đức Chúa Trời làm quân đội ông thêm
hùng mạnh để chiếm xứ Phi-li-tin, A-rập và Am-môn. Sau khi đánh bại Phi-li-tin,
Ô-xia phá huỷ các bức tường bao bọc các thành của họ. Chiến thắng nầy đã giúp
đất nước mở thêm ra gần biển hơn. Để giữ quyền kiểm soát trên những lãnh thổ vừa
chiếm được, Ô-xia xây các thành ở Phi-li-tin và cho binh lính và các quan chức
Do thái đến đó trấn giữ. Sau khi chinh phục Am-môn, danh tiếng của Ô-xia càng
nổi lên. Nhưng những chiến công với các nước ngoại bang không làm ông quên kiến
thiết nước nhà. Ong xây các tháp canh trên các vách tường Giê-ru-sa-lem và sửa
lại những chỗ hư hỏng mà quân Y-sơ-ra-ên đã gây ra (IIVua
14:13). Ông có một đội quân được huấn luyện
tốt và trang bị cho họ nhiều vũ khí và áo giáp cần thiết, [35]. và ông cũng khuyến
khích chế tạo những cái máy bắn tên và đá (IISu
26:11-15).
Nhưng Ô-xia không chỉ là một người
lính tài giỏi và người kiến thiết chu đáo; ông cũng là người có lòng với nghề
nông. Ong cải thiện đất bằng cách cho xây những hồ chứa nước và phân bổ người
chăn bầy, người làm ruộng là kẻ trông nho. Ông xây những tháp canh giữa đồng và
cho người canh gác để bảo vệ dân chúng và tài sản của họ. “Ai lao động trên đất
ấy là những người được chọn của Đức Chúa Trời”, Thomas Jefferson đã viết trong
quyển Notes on the State of Virginia.
Dù là một người lính, một nhà xây dựng, và một quốc vương, Ô-xia là người của
ruông đồng. Ong sẽ đồng ý với câu nói của Booker T. Washington,” Cày ruộng và
làm thơ đều có giá trị như nhau”.
Sự kiêu ngạo của Ô-xia (IIVua 15:5 IISu
26:16-21). Thất đáng tiếc, Ô-xia đã bắt chước cha mình và để cho những
thành tựu của mình khiến mình tự cao. A-ma-xia muốn nổi danh như một quan tổng
binh vĩ đại, nhưng Ô-xia muốn được vửa làm vua vừa làm thầy tế lễ. Trong cơ cấu
tổ chức thời Cựu Ước, Đức Giê-hô-va phân biệt vua với thầy tế lễ, và trong khi
thầy tế lễ có thể trở thành một tiên tri (như Ê-xê-chi-ên, Xa-cha-ri. Giăng
Báp-tít), nhưng không co 1tiên tri hoặc vua nào có thể trở thành thầy tế lễ.
Chỉ trong Chúa Cứu Thế Giê-xu chúng ta mới thấy được cả các chức tiên tri ,
thầy tế lễ, và nhà vua kết hợp với nhau, và chức tế lễ của Ngài “tùy theo ban
Mên-chi-xê-đéc” (Thi 110:4 Sa 14:18-20 He
5:1-7:28). Với Ô-xia, tham chức tế lễ là sự ngu dại, vì ông biết Luật
pháp Môi-se; và cố tâm theo đuổi nó bằng quyền lực là sự kiêu ngạo, vì ông biết
kết quả của những kẻ nổ lực giành lấy những gì đúng lý không thuộc về mình (Le 10:1-20 Dan 12:1-16
16:1-49).
“Song khi người được trở nên cường
thạnh, lòng bèn kiêu ngạo, đến nỗi làm điều ác” (IISu
26:16). Chắc chắn Ô-xia là vua có danh tiếng (26:15)
nhưng với những gì Đức Chúa Trời làm cho ông lẽ ra phải ông nên hạ mình chứ
không kiêu ngạo. Ô-xia nên nói như Đa-vít, “Lạy Chúa Giê-hô-va, tôi là ai, họ
hàng tôi là gì, mà Chúa đã đem tôi đến nơi nầy?” (IISa
7:18). Nhưng ông tự tin rằng mình xư`người đáng để vừa làm thầy tế lễ và
vừa làm vua. Ong biết rằng thầy tế lễ cả thường dâng hương trên bàn thờ dát
vàng mỗi sáng và mỗi chiều (Xu 30:7-8), nên
ông đem hương vào bên trong đền thờ, nơi chỉ có thầy tế lễ mới được phép vào (Dan 16:40 18:7).
Thầy tế lễ A-xa-ria và 80 người khác
đứng chặn đường không cho vua Ô-xia vào bên trong đền thờ. Họ phải can đảm lắm
mới dám cản đường vua, nhưng đồng minh đầu tiên của họ là Đức Giê-hô-va. Chắc
họ từng được vua kính nể, nhưng họ có một mong muốn duy nhất là vâng phục và
làm vinh hiển Đức Giê-hô-va. Vua nổi giận cùng các thầy tế lễ vì sự can ngăn
của họ. Từ Hy-ba-lai có nghĩa là “nổi giận” trong IISu
26:19 ngụ ý “nổi cơn thịnh nộ”.
Nếu vua rời đền thở ngay lập tức và
ăn năn những tội của mình. Đức Giê-hô-va chắc đã tha thứ cho ông, nhưng Ô-xia
cứng lòng và nhất quyết làm theo ý mình. Ngay lúc đó Đức Giê-hô-va can thiệp và
khiến bệnh phung xuất hiện trên trán ông và các thầy tế lễ đều nhìn thấy. Họ
biết rằng người phung phải bị cách ly ngoài trại, không được ở trong đền thờ (Le 13:45-46), và họ vội vàng buộc vua phải ra khỏi
đền thánh. Vua ô-xia không thể nhìn thấy phung nổi lên trên trán mình, nên có
lẽ lúc nầy nó đã lan xuốn gnh chỗ khác trong cơ thể ông và ông biết mình đã bị
nhiễm bệnh. Luật pháp qui định rằng những người nào tuỳ tiện vào đền thánh sẽ
phải chết (Dan 18:7), nhưng Đức Chúa Trời
nhân từ đã giáng bệnh phung trên vua và tha mạng sống cho ông, “tình trạng dở
sống dở chết”.
Mắc bệnh phung, vua không thể xuất
hiện trước công chúng hay sống trong cung điện. Ông bị cách ly trong một ngôi
nhà biệt lập, trong thời gian đó con trai ông là Giô-tham cai trị như một người
đồng nhiếp chính. Khi Ô-xia băng hà, ông được chôn trong nghĩa trang của hoàng
gia, nhưng chắc chắn không được chôn chung trong lăng mộ của các vua. Ông có
một khởi đầu hết sức tốt đep, nhưng có kết thúc bi thảm, và điều nầy cảnh tỉnh
chúng ta rằng chúng ta phải cảnh giác và cầu xin Đức Giê-hô-va giúp đỡ để sống
tốt cho Chúa đến trọn đời. Một khỏi đâu tốt không đảm bảo được cho một kết cuộc
tốt, và tham vọng bất khiết đã huỷ hoại nhiều đầy tớ của Đức Chúa Trời. Người
lính Ô-xia đã gục ngã trước tính kiêu ngạo của mình; nhà kiến thiết Ô-xia đã
phá huỷ chức vụ của ông; và nhà nông Ô-xia đã gặt trái đắng từ những gì mình đã
gieo. Ông là bài học cảnh cáo cho tất cả những ai đang nuôi trong mình những
tham vọng bất khiết để tự tiện bước vào những vị trí mà Đức Chúa Trời không
dành cho họ (Thi 131).
4. Năm vị vua xấu xa (IIVua 15:8-31)
Từ Giê-rô-bô-am II, vua
đầu tiên của Y-sơ-ra-ên, đến Ô-sê, vua cuối cùng của Y-sơ-ra-ên, không có vua
nào được gọi là “tốt”. Tuy nhiên, nước Giu-đa cũng không hơn gì, vì trong số 20
vua cai trị sau khi đất nước bị chia cắt, chỉ có 8 vua được gọi là “tốt” [36] Trong phần nầy của sách
II Các vua, chúng ta sẽ gặp 5 vị vua của Y-sơ-ra-ên, sẽ biết bản tính xấu xa và
những việc làm gian ác của họ. 4 vua trong số đó bị ám sát! Sa-lum chỉ cai trị
được một thánh, Xa-cha-ri được 6 tháng, và Phê-ca-hia được khoảng 2 năm.
Mê-na-hem, vua gian ác nhất, cai trị được khoảng 10 năm, và Phê-ca được 12 năm.
Khi Vương Quốc phía Bắc sa chân vào chỗ huỷ diệt, các vua của nó đã đẩy ngày
đoán phạt của Đức Chúa Trời càng nhanh đến. Đức Chúa Trời thường ban cho một
đất nước những người lãnh đạo mà nó đáng nhận được.
Xa-cha-ri (IIVua 15:8-12). Có 19 người trong Kinh Thánh có tên là
Xa-cha-ri; người nầy là con trai của Giê-rô-bô-am II, vua vĩ đại cuối cùng của
nước Y-sơ-ra-ên ở phía bắc. Xa-cha-ri không
có tài chính trị như cha mình và ông quyết định theo gương xấu của người cùng
tên với cha mình, Giê-rô-bô-am I. Xa-cha-ri là chắt của Giê-hu và vì vậy là
người cuối cùng của triều đại đó. Đức Chúa Trời hứa với Giê-hu rằng con cháu
ông sẽ cai trị trên ngôi trong 4 đời (IIVua 10:30)
và lời hứa nầy đã thành hiện thực. Xa-cha-ri là vua, không phải vì tính lương
thiện, tài năng hay sự nổi tiếng, nhưng vì ông được may mắn sinh ra trong một
gia đình của vua. Chỉ có hai điều được ghi lại về ông: ông gian ác trong mặt
Đức Chúa Trời, và bị Sa-lum ám sát nơi công khai, và sau đó Sa-lum chiếm ngôi
vua. Xa-cha-ri lên ngôi chỉ được 6 tháng, và cái chết
của ông đã kết thúc triều đại Giê-hu.
Sa-lum (IIVua 15:13-15). Chúng ta biết rất ít về người nầy. Ong đã tổ
chức mưu sát Xa-cha-ri; ông cai trị chỉ được 1 tháng; và ông là nạn nhân của
một âm mưu lật đổ và ám sát khác. “Ai đào hầm sẽ té xuống đó; Kẻ nào lăn đá, đá
sẽ trở đè lại nó” (Ch
26:27). Sa-lum bị Mê-na-hem giết chết; Mê-na-hem là một trong quan tổng
binh của Sa-lum tại Tiệt-sa, thủ đô ban đầu của Sa-ma-ri (IVua 14:17 15:21,33). Nếu Sa-lum
có con cháu, chúng sẽ không thể chấp nhận việc đó. Về
Sa-lum có gì để tự hào?
Mê-na-hem (IIVua 15:6-22) Vì ông là người được dân chúng kính sợ và có
quân đội riêng, Mê-na-hem cai trị được khoảng 10 năm và chết tự nhiên. Vì dân ở
Típ-sắc (một thành không thể xác định) không thừa nhận vương quyền của ông, ông đã tiến đánh thành ấy và giết chết những
kẻ thù của ông. Ông là người tàn bạo, bắt chước theo tập tục của người Sy-ri,
mổ bụng những người đàn bà có nghén (c.16 IIVua
8:12, điều nầy đã được tiên tri Ô-sê cảnh báo (Os
13:16). Khi quân A-si-ri xâm lược xứ. Mê-na-hem thu thuế tất cả những
người giàu mỗi người năm mươi siếc-lơ bạc và nộp cống cho vua A-si-ri
(Tiếc-la-Phi-lê-se) 37 tấn bạc. Quân A-si-ri rút lui nhưng 20 năm sau họ trở
lại và chiếm toàn bộ xứ. Trong trường hợp đó, chắc
chắn Đa-vít đã tin cậy Đức Chúa Trời và chiến đấu với A-si-ri và giành chiến
thắng; nhưng chính sách của Mê-na-hem là thoả hiệp và giảng hoà.
Phê-ca-hia (IIVua 15:23-26). Con trai của mê-na-hem lên kế vị ngai vàng
nhưng chỉ trị vì được 2 năm. Cha ông ừtn glà một quan tổng binh và đã ám sát
vua Sa-lum, và Phê-ni-ca lại bị giết chết ngay trong cung điện bởi Phê-ca, cũng
là một quan tổng binh, và rồi phê-ca nầy lên làm vua. Chi tiết Phê-ca được 50
người từ Ga-la-át hỗ trợcho thấy ông từng là một chỉ huy quân đội ở phía tây
sông Giô-đanh. [37] Rất có thể Phê-ca-hia và
Phê-ca không thống nhất với nhau về chính sách mà Y-sơ-ra-ên phải theo liên
quan đến dân A-si-ri, Phê-ca-hia, giống như Mê-na-hem cha mình, muốn làm dân
A-si-ri hài lòng và cống nộp cho họ bất cứ gì họ muốn, trong khi Phê-ca, một
nhà quân sự, cứng rắn với dân A-si-ri và có thiện ý với dân Sy-ri.
Phê-ca (IIVua 15:27-31). Nhờ sự bảo vệ của quân đội mình Phê-ca có thể
cai trị 20 năm. Khi một nhà quân sự kế vị, rất khó lật đổ được ông ta. Dù
Mê-na-hem luôn làm vừa lòng dân A-si-ri, họ vẫn xâm lược Y-sơ-ra-ên với 4 chiến dịch (738,734,733 và 732) không chỉ thu phục được
nhiều thành phố quan trọng mà còn chiếm được nhiều phần lãnh thổ từ Ha-mát đến
Nép-ta-li ở phương bắc đến Ga-la-át và Ga-li-lê. Dân A-si-ri cũng chiếm luôn
Phi-li-tin đến nam dãi Ga-za, và Đa-mách ở Sy-ri. Nhiều người Do thái và
Phi-li-tin bị lưu đày đến A-si-ri. Phê-ca bị Ô-sê, con của Ê-la, giết chết;
Ô-sê là người ủng hộ A-si-ri trong quan điểm chính trị. Chúng ta sẽ biết nhiều
hơn về Ô-sê trong IIVua 17:1-41. Ông cai trị
khoảng 9 năm và có thể đã bị lưu đày đếnA-si-ri và quan đời ở đó (17:1 18:10-11) [38]
5. Giô-tham, vị vua đạo
đức (IIVua 15:32-38) (IISu 27:1-9)
Giô-tham, con trai
Ô-xia, lên ngôi khi được 25 tuổi và cai trị trong 16 năm (27:1). Ông
đồng nhiếp chính với cha sau khi Ô-xia mắc bệnh phung vì tội bước vào bên trong
đền thánh. Giô-tham được xem là vua tốt, dù A-cha con trai ông là vua xấu xa.
Thật ra, từ Giô-tham, vua thứ 11 của Giu-đa, đến Xê-đê-kia, vua thứ 20 và là
vua cuối cùng của Giu-đa, chỉ có Giô-tham, Ê-xê-chia và Giô-si-acó thể được gọi
là các vua tốt. Đó là 3 trong số 10 vị vua. Đức Giê-hô-va giữ cho ngọn đèn
Đa-vít chiếu sáng ở Giê-ru-sa-lem trong những năm đó, nhưng có lúc Ngài phải
phó dân sự Ngài vào tay ba-bylôn để trừng phạt họ vì những tội lỗi họ đã phạm.
Giống như Ô-xia, Giô-tham vừa là nhà xây dựng vừa là một chiến binh. Ông cho
sửa lại các tường thành Giê-ru-sa-lem và Cữa Thượng của đền thờ. Ông cũng xây
các thành ở các ngọn núi thuộc vùng Giu-đê và những đồm luỹ và tháp canh trong
những khu vực rừng rậm. Quân đội của ông đối mặt với quân Y-sơ-ra-ên và Sy-ri,
và ông đã đại thắng trước dân Am-môn và bắt họ phải cống nộp hàng năm gần 4 tấn
bạc và 62 giạ lúa mạch và cũng chừng ấy lúa mì (27:5).
“Vậy, Giô-tham trở nên cường thạnh, bởi vì người đi đường chánh đáng trước mặt
Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời mình” (27:6).
Chúng ta không biết ông còn làm được bao nhiêu điều tốt nữa nếu ông được sống
lâu hơn.
Trong lịch sử Do thái chúng ta
thường bắt gặp người cha tin kính sinh ra đứa con bất kính và người cha bất
kính lại sinh được đứa con tin kính. Vua tốt Giô-sa-phát sinh ra vua xấu
Giô-ram, nhưng vua bất kính Giô-ách lại giao đất nước cho đứa con trai
(A-ma-xia), cháu nội (Ô-xia), và cháu cố (Giô-tham), là những người tin kính.
Tuy nhiên, con trai của Giô-tham là A-cha không phải là vua tốt và tin kính
Chúa, nhưng ông đã sinh ra vua tốt Ê-xê-chia; Ê-xê-chia nầy sinh ra Ma-na-se,
lại là vua gian ác hơn hết – và ông có thời gian cai trị dài 55 năm! Tiên tri
Ê-xê-chi-ên ở Ba-by-lôn đã đối diện với tình huống nầy trong đoạn 18 của lời
tiên tri của ông.
Đức Chúa Trời tể trị trong những ân
tứ Ngài ban cho các cá nhân và các nước. Đức Giê-hô-va nhẫn nhịn dân sự Ngài
suốt trong những ngày gian ác và khó khăn, và Ngài thành tín giữ những lời hứa
của Ngài với Đa-vít. Nhưng thời gian đó đã qua. Sau khi A-cha qua đời, chỉ
Ê-xê-chia và Giô-si-atôn trọng Lời Đức Chúa Trời và vâng phục ý muốn Ngài.
Nhưng dù con người nhiều lần phạm tội và thất bại, Đức Giê-hô-va vẫn bảo vệ
những người tin kính còn sót lại trong đất nước, và từ những dân sót đó, Đấng
Mê-si-a sẽ bước vào thế gian.
“Từ
trước vô cùng Ngài đã thông biết những việc đó” (Cong 15:18).
9. CÂU CHUYỆN VỀ HAI
VƯƠNG QUỐC (IIVua 16:1-17:41 IISu 28:1-27)
Một câu châm ngôn của người
Anh nói, “Hãy lưu ý bạn là ai, từ đâu đến, bạn làm gì và sẽ đi đâu.” Hai điều
đầu tiên cần lưu ý thật dễ trả lời đối với Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, vì cả hai nước
nầy đều nói, “Chúng tôi là tuyển dân của Đức Chúa Trời, con cháu của tổ phụ
Áp-ra-ham”. Đến ý thứ 3, cả hai vua sẽ phải thừa nhận, “Chúng tôi đã làm theo những gì người tiền nhiệm gian ác của chúng tôi đã làm”. Vua
A-cha của Giu-đa không theo gương tốt của Đa-vít, Ô-sê, vua Y-sơ-ra-ên, mà bắt
chước các vua xấu xa đi trước. Họ có quyền tự do quyết định, nhưng họ không thể tự thay đổi hậu quả của những quyết
định đó”, điều nầy dẫn chúng ta đến ý thứ 4, “Bạn sẽ đi đâu?”. Đối
với cả hai vua, câu trả lời của Đức Chúa Trời rất rõ: “Ngươi và dân sự ngươi đang tiến nhanh đến sự đoán phạt và đổ nát”. Những lời của
Sa-lô-môn sắp được chứng minh trong cả hai nước: “Sự công bình làm cho nước cao
trọng; song tội lỗi là sự hổ thẹn cho các dân tộc” (Ch 14:34).
1. Giu-đa, một nước
thoả hiệp (IIVua 16:1-20) (IISu 28:1-27)
A-cha là con trai của
Giô-tham, vị vua tốt, và là cha của Ê-xê-chia, một vị vua rất tốt, nhưng chính
ông không phải là một người tốt và tin kính Chúa. Thay vì tìm kiếm và làm thao
ý muốn của Đức Chúa Trời, A-cha bắt chước các vua gian ác của Y-sơ-ra-ên và cả
những tấp tục của dân ngoại bang A-si-ri [39]. Ông còn làm theo những cách thờ phượng kinh
khủng của dâng ngoại và đem dâng chính con trai mình làm của lễ (23:3 viết từ “con cái” ở
số nhiều) cho thần ngoại bang, Ba-anh hoặc Mô-lóc, một tập tục bị Luật pháp
Môi-se ngăn cấm (Le 18:21 Phu 18:10). Mỗi con trai Do thái phải được chuộc
bằng một của lễ và vì vậy thuộc về Đức Giê-hô-va (Xu
13:1-22 Dan 18:14-16). Làm sao con
trai thuộc về Đức Chúa Trời lại bị làm tế lễ cho thần tượng? Nhưng A-cha là
người thoả hiệp cả trong các sinh hoạt tôn giáo và
mối quan hệ chính trị của ông.
Thoả hiệp chính trị (IIVua 16:5-9 IISu 28:5-21).
Phê-ca, vua Y-sơ-ra-ên, và Rê-xin, vua Sy-ri, muốn A-cha hiệp với họ chống
lại A-si-ri, nhưng A-cha từ chối vì ông là người ủng hộ A-si-ri. Thật ra, ông
nhờ cậy A-sa-ri thay vì tin Đức Giê-hô-va. Để trả thù, Sy-ri và Y-sơ-ra-ên lên
kế hoạch lật đổ A-cha khỏi ngai vàng và đem một vua bù nhìn khác lên thay,
nhưng Đức Giê-hô-va bảo vệ ngai Đa-vít, dù A-cha không đáng được như vậy (Về
toàn bộ câu chuyện nầy, xin đọc Es 7:1-9:20).
Theo IISu
28:5-8, chính Đức Giê-hô-va đã sai hai vua nầy chống nghịch Giu-đa, để
trừng phạt A-cha vì tội lỗi của ông ta. Phê-ca và Rê-xin gây nhiều thiệt hại
cho Giu-đa nhưng họ không thể chiếm được Giê-ru-sa-lem. Một trong các con trai
A-cha bị giết chết, cùng với hai quan chức quan trọng khác. Những kẻ thù xâm lược đã giết hàng ngàn binh lính và bắt hàng ngàn tù
binh về Sa-ma-ri. Gần như Y-sơ-ra-ên đang nuốt chửng Giu-đa!
Đức Giê-hô-va dấy lên
một tiên trong Y-sơ-ra-ên [40]. Để
cảnh cáo quân Sa-ma-ri rằng việc bặt người Giu-đa làm phu tù như vậy là vi phạm
luật pháp của Đức Chúa Trời và Ngài sẽ trừng phạt họ. Dù thế nào thì dân Giu-đa
và dân Sa-ma-ri đều có chung một dòng dõi, dòng dõi
của Áp-ra-ham. Tiên tri Ô-bết (không phải là người trong IIVua 15:8) chỉ ra 3 lỗi mà quân Y-sơ-ra-ên đã vi
phạm. Thứ nhất, họ đã nổi giận với dân Giu-đa và tuỳ tiện bắt và giết chết họ.
Thứ hai, họ bắt các anh chị em mình làm nô lệ và điều nầy đã đi ngược với luật
pháp Đức Chúa Trời (Le 25:39). Khi làm như
vậy, họ tỏ ra không kính sợ Đức Chúa Trời và như vậy buộc Ngài phải trừng phạt
họ (IISu 28:9-11). Đúng, Đức Chúa Trời đã
nổi giận với Giu-đa (28:9,25), nhưng có
nguy cơ Ngài sẽ nổi giận với Y-sơ-ra-ên vì cách họ đối đãi với Giu-đa (28:11-13). Sau sứ điệp của Ô-bết, một số lãnh đạo
của Y-sơ-ra-ên đã dừng lại và xác nhận lời tiên tri nói và khuyên quân lính
không phạm tội nghịch cùng Đức Chúa Trời và các anh chị em của họ.
Một điều đặc biệt đã xảy ra: dân sự
chấp nhận sứ điệp của Đức Chúa Trời, ăn năn, và thay đổi cách cư xử đối với những
tù nhân. Dân Y-sơ-ra-ên không chỉ cho họ đồ ăn, áo mặc và săn sóc người bị
thương và suy nhược, mà họ còn trả lại những của cải đã cướp được từ Giu-đa.
Đây là một ví dụ của “người Sa-ma-ri nhân lành” trên cấp độ quốc gia (Lu 10:25-37), và nó nhắc chúng ta nhớ sự nhân từ
của của Ê-li-sê đối với các binh lính Sy-ri đến bắt ông (IIVua 6:15-23). Khi các tù nhân (cùng với những
của cải) được trở về Giu-đa, họ lành nhân chứng sống về ân điển và sự tốt lành
của Đức Giê-hô-va, nhưng không thấy chép rằng A-cha đã hướng dẫn dân sự thờ
phượng, ngợi khen và tạ ơn Đức Giê-hô-va.
Sự kiện nầy còn mang một thông điệp
khác cho người Giu-đa: sẽ đến lúc dân Ba-by-lôn xâm lược xứ và bắt hàng ngàn
người lưu đày đến Ba-by-lôn. Kinh nghiệm nầy với Y-sơ-ra-ên có gì đó giống như
“một sự diễn tập” đối với dân Giu-đa, nhưng Ba-by-lôn không đối đãi với họ như
Y-sơ-ra-ên đã làm. Hầu hết những những bị lưu đày đến Ba-by-lôn đều đã chết tại
đó, và sau 70 năm, chỉ một nhóm người yếu đuối còn sót lại sẽ trở về xây sửa
đền thờ và nổ lực dựng lại đất nước.
Đức Giê-hô-va vẫn trừng phạt các
nước ngày nay như Ngài đã làm ngày xưa không? Dĩ nhiên dân Do thái thuộc về dân
giao ước, dù giờ đây nó bị chia cắt thành hai nước; và họ có bổn phân phải vâng
giữ giao ước của Đức Giê-hô-va. Nhưng về các nước không có mối quan hệ giao ước
với Đức Giê-hô-va thì sao? Tiên tri A-mốt nói rõ rằng Đức Chúa Trời biết tội
lỗi của các dân ngoại và bắt họ phải chịu trách nhiệm (Am
1:1-2:16). Đức Chúa Trời không bao giờ ban luật pháp Ngài với các dân
ngoại (Thi 147:19-20), nhưng những điều
khoản của luật pháp đó được ghi khắc trong lòng của tất cả loài người (Ro 2:12-16), vì vậy người Ngoại bang không biết
vâng lời là phạm tội trước mặt Đức Chúa Trời. Khi bạn đọc Cựu Ước, bạn thấy Đức
Chúa Trời trừng phạt Sô-đôm và Gô-mô-rơ (Sa
18:1-19:38), Ê-díp-tô (Xu 1:1-14:31),
các nước Ngoại bang ở trong và xung quanh Ca-na-an ( Dan
31:1-32:42 Gios 1:1-12:24), và cả
Ba-by-lôn (Gie 50:1-51:64). Tuy nhiên, vì
dân Do thái biết Đức Chúa Trời chân thần và hằng sống và họ còn có chứng nhân
của luật pháp Ngài, họ càng chịu trách nhiệm nhiều hơn. Thật buồn cho
Y-sơ-ra-ên bội đạo và Giu-đa không thể là ánh sáng cho các nước, giờ đây họ tỏ
ra quan tâm đến việc vâng theo sứ điệp của Đức Chúa Trời. Giu-đa có đền thờ,
luật pháp, và chức tế lễ, nhưng họ không có Đức Giê-hô-va. “Nước nào có
Giê-hô-va làm Đức Chúa Trời mình, dân tộc nào được Ngài chọn làm cơ nghiệp mình
có phước thay!” (Thi 33:12).
Thoả hiệp tôn giáo (IIVua 16:10-18 IISu 28:22-25). Không
những Y-sơ-ra-ên và Sy-ri tấn công Giu-đa, Đức Chúa Trời còn đem Ê-đôm và
Phi-li-tin chống nghịch Giê-ru-sa-lem. A-cha sai sứ giả đến cần viện vua
A-si-ri. Lời lẽ trong thư của ông đầy xu nịnh và tâng bốc mà ngày nay chúng ta
sẽ gọi là “bợ đỡ”. Ông tự nhận mình là “tôi tớ”, là “con trai” của Tiếc-la-Phi-lê-se,
một thái độ chưa từng thấy ở dòng dõi Đa-vít đối cùng vua ngoại bang. Để tâng
bốc vua A-si-ri hơn, A-cha lấy của cải của đền thờ, cung điện và của các hoàng tử để dâng cho vua A-si-ri. Thật sự A-cha đã biến
Giu-đa thành một nước chư hầu chịu dưới sự kiểm soát và bảo vệ của A-si-ri.
A-cha không có đức tin sống động nơi Đức Giê-hô-va và đặt lòng tin của mình nơi
quân đội của A-si-ri, và vì điều nầy ông đã phải trả giá rất đắt. Đúng là
A-si-ri đã đánh bại Sy-ri, nhưng sau đó tiếc-la-Phi-lê-se triệu tập “con trai”
và là “đầy tớ” của ông đến Đa-mách để khai trình và nhận lệnh. Qua những ngày
đó, các nước rất e ngại các vua Giu-đa và quân đội của họ!
Vua Ô-xia đã cố tình xen
vào việc của đền thờ và Đức Giê-hô-va đã phạt ông bệnh phung, nhưng thầy tế lễ
U-ri lại làm theo tất cả những gì vua ra lệnh, dù như vậy là bất tuân luật pháp
Môi-se. Chúng ta không biết chắc việc bắt chước kiểu bàn thờ của dân ngoại hoàn
toàn là ý của A-cha hay là lệnh của vua A-si-ri. Có lẽ Tiếc-la-Phi-lê-se muốn
bàn thờ nầy được đặt trong đền thờ của người Do thái để nhắc vua và cả dân
Diu-đa nhớ rằng giờ đây họ phải chịu phục dưới quyền lực của A-si-ri. A-cha
không hết lòng thờ phượng Đức Giê-hô-va, vì chắc chắn bàn thờ nầy được dựng lên
chỉ để thoả mãn tính kiêu ngạo của ông. Ông sẽ có một bàn thờ của vua giống như
bàn thờ ở Đa-mách! Cuối cùng bàn thờ theo ý của Đức Chúa Trời bị đẩy sang một
bên.
Tất cả điều nầy là một
bức tranh mô tả những gì thường xảy ra
trong cộng đồng Cơ Đốc ngày nay: một vài người nhìn thấy có điều gì đó ngoài
thế gian “phù hợp” với công việc của Đức Chúa Trời, và Hội thánh bắt đầu băt
chước thế gian. Môi-se được lệnh phải dựng đền tạm theo lời Đức Chúa Trời chỉ
dẫn ông trên núi (Xu 25:40 26:30 He 8:5)
và cũng như vậy đền thờ phải được xây theo những kế hoạch mà Đức Chúa Trời vẽ
ra cho Đa-vít (IISu 28:11,12,19). Người Do
thái không bầu ra một ban xây dựng và trưng cầu ý kiến cho dự án. Nhưng ngày
nay, Hội thánh trở nên giống thế gian đến nổi thật khó phân biệt được họ. A.W.Tozer đã viết,
Ngoài một số tội lỗi
gớm ghiếc, ngày nay những tội của thế gian không ăn năn lại được phần đông
những Cơ Đốc Nhân “được tái sanh” chấp nhận. Những Cơ Đốc Nhân trẻ chọn cho
mình những mẫu thần tượng đáng ghê tởm và cố bắt chước cho càng giống họ càng
tốt. Những lãnh đạo tôn giáo chấp nhận những kỷ sảo quảng cáo, nói khoát, lừa
phỉnh và phóng đại không biết xấu hổ ngày nay được đem vào như một thủ tục bình
thường trong nhà thờ. Xu hướng đạo đức không phải là xu hướng của Tân Ước nhưng
là xu hướng của Hoollywood và Broadway. [41].
A-cha nghĩ rằng Đức Giê-hô-va sẽ đẹp lòng với những của lễ được dâng trên bàn thờ
mới lộng lẫy nầy, nhưng ông đã sai. Đức Giê-hô-va không muốn của lễ; Ngài cần
sự vâng lời (ISa 15:22-23) và A-cha thờ
phượng các thần của dân ngoại (IISu 28:23).
Không có lửa từ trời thiêu các của lễ trên bàn thờ của dân ngoại (Le 9:24), vì Đức Giê-hô-va khước từ nó. Những vật
trang trí lạ mắt trong nhà thờ ngày nay có thể làm giáo dân thích thú và hoan
nghênh, nhưng chúng không khai trí cho hội chúng và tôn vinh Đức Chúa Trời. Nhà
thờ trở thành một rạp hát, sự thờ phượng thành ra buổi trình diễn, bài giảng là
một tiết mục biểu diễn, và hội chúng trở thành khán giả. Tất cả những điều nầy
không làm vinh hiển Đức Chúa Trời nhưng làm hài lòng người ta.
Nhưng thay bàn thờ của Đức Chúa Trời
thànhbàn thờ của người ngoại chỉ là bước khởi đầu. Vua A-cha còn “dời” biển
bằng đồng và 10 táng đồng dùng để kê mưới cái chậu rửa các của lễ (ISu 28:17 IVua 7:23-40).
Ông ta cần nhiều kim loại quí giá cho mục đích riêng của mình, nên ông lấy của
Đức Chúa Trời. Nhưng để làm vui lòng vua A-sa-ri. A-cha đã dời lối vào cho
riêng ông trong đền thờ và đặt những bệ cho ngai của ông trong đền thờ. Lúc bấy
giờ Tiêc-la-Phi-lê-se đang điều khiển, không phải vua A-cha.
Tuy nhiên, vua không bao giờ có thể
thay đổi cách bố trí đền thờ theo ý mình nếu không có sự hợp tác của thầy tế lễ
cả U-ri (IIVua 16:10,11,15,16). Khi vua Ô-xia chống lại Lời Đức Chúa Trời và
bước vào đền thờ, thầy tế lễ cả A-xa-ria cùng 80 thầy tế lễ khác đã bắt ông ta
dừng lại được (IISu 16:16); nhưng U-ra và
các thầy tế lễ của ông đã thoả hiệp, không vâng theo Luật pháp của Môi-se và
nhượng bộ vua. Khi thoả hiệp được lần đầu, sẽ có lần thứ hai và hơn nữa; vì
những người yếu đuối như U-ri đã cho những lãnh đạo mình tuỳ tiện hành động,
cái ác có cơ hội chiến thắng. A-cha không chỉ thay chỗ bàn thờ và lấy đi miếng
trám bằng kim loại khỏi các vật dụng, ông còn lấy tất cả chén, đóng của đền
thờ, và lập các bàn thờ ngoài đường phố Giê-ru-sa-lem (28:24-25).
“Anh em há chẳng biết rằng một chút men làm cho
cả đống bột dậy lên sao?” (ICo 5:6
Ga 5:9). Một khi chúng ta để cho thế gian
xâm nhập vào mối thông công trong Hội thánh, nó sẽ bành trướng, làm ô uế mối
thông công đó và cuối cùng biến mất. Mãi cho đến khi con trai ông là Ê-xê-chia
lên ngôi, đền thờ mà A-cha là ô uế mới được mở cửa trở lại cho sự thờ phượng
Đức Chúa Trời (IISu 29:1-29).
Khi A-cha băng hà, ông được chôn ở
Giê-ru-sa-lem nhưng không được chôn chung trong các lăng mộ của các vua (IIVua 16:19-20 IISu
28:26-27). Về mặt nầy, ông đi chung với Giô-ram (21:20), Giô-ách (24:25) và
Ô-xia (26:23), còn có Ma-na-se sẽ cùng với
họ (33:20). Sự vô tín và bất trung của A-cha
đã gây nhiều thiệt hại cho nước Giu-đa, và Ê-xê-chia, con trai ông, đã sửa chữa
được một vài thứ.
2. Y-sơ-ra-ên, một nước
bị đánh chiếm (IIVua 16:1-20) (IIVua 17:1-41 18:9-12)
Ô-sê là vua cuối cùng
của vương quốc phía bắc Y-sơ-ra-ên, vì trong thời của ông (722 T.C.), quân
A-si-ri xâm chiếm xứ, bắt nhiều người đi lưu đày và đưa người Ngoại bang thuộc
các nước A-si-ri từng chinh phục vào sống ở Y-sơ-ra-ên. Nước Y-sơ-ra-ên trở
thanh nước Sa-ma-ri, lấy tên của thủ đô, và dân cư của nó không còn là dân Do
thái thuần chủng nhưng là dân pha tạp giữa nhiều dân tộc.
Đức Chúa Trời đã ban
nhiều ơn phước cho dân sự Ngài, nhưng giờ đây những ơn phước đó đã rơi vào tay
của A-si-ri và Ba-by-lôn. Dân Do thái có một Đức Chúa Trời hằng sống, nhưng họ
thay Ngài bằng những thần tượng hay chết. Xứ xở giàu có của họ bị các nước thù
địch chiếm giữ, dân sự bị lưu đày, và cuối cùng Giê-ru-sa-lem và đền thờ cũng
bị phá huỷ (586 T.C). Đức Chúa Trời trong sự nhân từ của Ngài vẫn gìn giữ số
dân trung tín còn sót lại để ngọn đuốc luôn chiếu sáng và Ngài có thể làm trọn
những lời Ngài đã hứa với dân sự Ngài.
Y-sơ-ra-ên mất người
lãnh đạo (IIVua 17:1-5).
Ô-sê đã ám sát Phê-ca và chiếm ngôi (15:29-31).
Tiếc-la-Phi-lê-se đã qua đời và bấy giờ Sanh-ma-na-sa V làm vua A-si-ri, và
Ô-sê phục tùng và nộp cống cho vua A-si-ri ấy. Tuy nhiên, Ô-sê bí mật kết ước
với Ê-díp-tô để chiêu mộ họ đánh trận cho Y-sơ-ra-ên
và giúp Y-sơ-ra-ên bẻ gãy sự kìm kẹp của A-si-ri. [42]. Ngay cả khi
Áp-ra-ham lánh sang Ê-díp-tô vì cơn đói kém, ông và vợ ông chỉ chuốc lấy phiền phức
(Sa 12:10), những lãnh đạo khác của Do thái
cũng nhờ Ê-díp-tô giúp đỡ nhưng vô ích. (26:2
Dan 14:1-4 Phu
17:16 Es 30:1-2 31:1). Các tín đồ ngay nay cũng vậy, họ xây sang
nhờ thế gian giúp đỡ thay vì chờ đợi Đức Giê-hô-va và tin cậy Ngài. Khi
Sanh-ma-na-sa phát hiện được âm mưu đó, ông đã bắt
giam Ô-sê và ngai vàng của Y-sơ-ra-ên phải bỏ trống. [43].
Vào năm 725, Sanh-ma-na-sa tiến hành vây hãm Sa-ma-ri. Nhưng sau đó
ông băng hà (hoặc bị giết chết) và quan tổng binh của ông, Sa-gôn lên thay.
Cuộc bao vây nầy kéo dài 3 năm, và năm 722, thành Sa-ma-ri đành phải đầu hàng.
A-si-ri đã chiếm được các chi phái ở bờ tây sông Giô-đanh rồi (ISu 5:24-26), nên giờ đây họ chiếm được toàn bộ
đất nước ngoại trừ Giu-đa,và Giu-đa rồi cũng rơi vào tay Ba-by-lôn.
Y-sơ-ra-ên mất đất (IIVua 17:6 IIVua 18:9-12). Như
chúng ta đã biết, chính sách của A-si-ri là bắt dân Y-sơ-ra-ên đi lưu đày và thay
vào đó là những tù binh của các nước khác. [44]. Giao ước của Đức Chúa
Trời với dân sự Ngài nói rõ rằng sự không vâng lời của họ sẽ khiến họ thất bại
trong chiến tranh (Phu
28:25,49-50,52), bị đàn áp và
làm nô lệ (28:29,33,48,68) và bị giam cầm (28:36,43,63-68) và tất cả
điếu đó đã xảy ra cho Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Đất của họ thuộc về Đức Chúa Trời (Le 25:2,23,38) và dân sự là “quản gia” của Ngài. Không chỉ
đất thuộc về Đức Chúa Trời, con người cũng thuộc về Ngài (25:55). Họ sẽ có được đất và hưởng những ơn phước
của nó miễn là họ gìn giữ những điều khoản trong giao
ước của Ngài, nhưng sự bất tuân nhiều lần của họ đã khiến cho đất của họ bị
trừng phạt. Đó chính xác là những gì đã xảy ra. Vì tội lỗi của dân sự trong
suốt thờ các quan xét, 7 nước khác nhau đã xâm chiếm xứ, cướp sản vật, bắt dân
sự làm nô lệ ngay trên đất nước của chính mình. Sau khi đất nước chia cắt,
Y-sơ-ra-ên bị A-si-ri chiếm đóng và Giu-đa rơi vào tay Ba-by-lôn. Đức Chúa Trời
luôn giữ những điều khoản trong giao ước của Ngài.
Y-sơ-ra-ên không vâng
giữ luật pháp (IIVua 17:7-17).
Những câu Kinh Thánh nầy giống như một bảng cáo trạng mà bị cáo của nó là nước
Y-sơ-ra-ên ở phía bắc. Luập pháp là một đặc ân Đức Chúa Trời ban cho dân Do
thái, vâng giữ luật pháp tức làm theo ý muốn của Ngài, họ sẽ được Đức Chúa Trời
ban phước và bảo vệ. Nhưng họ đã quên Đức Chúa Trời đã giải cứu họ khỏi
Ê-díp-tô và cho họ được tự do thể nào. Họ quên rằng luập pháp Môi-se dạy họ
không được thờ thần tượng mà phải phá hủy các thần tượng, đền miễu và những nơi
cao (Phu 7:7,13). Y-sơ-ra-ên bắt đầu thờ các thần tượng nơi bí
mật (c.9), nhưng dần dần việc đó trở nên công khai, và Giê-hô-va được xem như
một trong số nhiều các thần đó. Đức Giê-hô-va sai các tiên tri khuyên bảo và
cảnh cáo dân sự, nhưng ít ai chịu quan tâm.
Như các tổ phụ của họ, dân Do thái
cứng cổ và cứng lòng; họ không vâng theo Đức Chúa Trời (Phu 9:6,13 10:12-22 Ne 9:16,17,29 Thi 106:1-48).
Vì chúng ta có xu hướng giống chúa mà mình thờ phượng (115:8),
dân sự đã trở nên “hư không” (rỗng tuyếch, vô ích) vì họ thờ các thần hư không
(c.5). Thật vậy, họ đã xây sang các thần tượng và làm tượng bò con vàng trong
khi Môi-se trò chuyện với Đức Chúa Trời trên núi Si-na-i (Xu 32:1-35). Sau khi đất nước bị chia cắt, vua
Giê-rô-bô-am làm 2 tượng bò vàng cho dân chúng thờ lạy (IVua 12:25). Thường thường, chính con cái là người phải chịu
khổ vì tội lỗi của cha mẹ chúng, vì những người cha Do thái đã đưa con trai và con gái mình qua lửa để dâng cho các thần
ngoại bang.
Y-sơ-ra-ên oán giận
Đức Chúa Trời của họ (IIVua 17:18-33). Cơn giận của Đức Giê-hô-va là cơn giận thánh; không nên so sánh
cơn giận của Ngài với tính nóng giận của một con trẻ. Đức Chúa Trời đã nín chịu
dân sự Ngài quá lâu và Ngài ban ơn dư dật để đem họ trở về với Ngài, nhưng họ
cứng lòng không chịu. Cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời xuất phát từ tình yêu
thương, sự đau lòng. Chính là sự đau lòng của người cha khi muốn điều tốt nhất
cho con cái mình, nhưng họ thích đi theo ý riêng. Những câu Kinh Thánh nầy cho
chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời đã chia cắt dân sự Ngài thành hai nước
Y-sơ-ra-ên và Giu-đa vì Ngài muốn bảo vệ triều đại Đa-vít trước sự thờ thần
tượng trong Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, tôn giáo giả hình và do con người nghĩ ra
của Giê-rô-bô-am đã tiêm nhiễn vào Giu-đa, và chỉ bởi ân điển của Đức Chúa Trời
số dân sót trung tín được gìn giữ.
Cụm từ “kính sợ Đức
Giê-hô-va” có nghĩa là “thờ phựơng Đức Giê-hô-va theo Luật pháp Môi-se”
(c.25,28,32,34). Sự pha trôn tôn giáo giữa nhiểu dân tộc đã sinh ra một thuyết
mà chúng ta ngày nay gọi là ”Đa nguyên luận”. Thứ nhất, dân Do thái không thờ
phương Đức Chúa Trời, và Ngài trừng phạt họ
vì sự bất tín của họ (c.25). Dân Do thái thờ Đức Giê-hô-va chung với các thần của các người khác. Đức
Chúa Trời không chia xẻ sự thờ phượng với các thần giả khác, vì vậy dĩ nhiên
Đức Chúa Trời nổi giận. Mọi dân trên đất phải ăn năn, xây bỏ các thần giả và trở về củng Đức Giê-hô-va; nhưng thay vì vậy, dân sự của
Đức Chúa Trời chấp nhận các thần giả của các nước khác.
Vua A-si-ri tin rằng mỗi
vị thần có liên hệ với một xứ xở mà dân tộc đó xuất thân, và như vậy, những cư
dân mới không biết cách thờ phượng Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Họ không thể
nào học tập người Y-sơ-ra-ên còn để lại vì những người đó đang thờ tượng bò
vàng từ thờ Giê-rô-bô-am. Vua A-si-ri bắt một trong các thầy tế lễ Do thái gởi
về Y-sơ-ra-ên dạy cho người ta biết cách thờ phượng “thần của xứ”. Nhưng thầy
tế lễ nầy đi đến Bê-tên, nơi có đền thờ tượng bò con vàng! Chúng ta không rõ
thầy tế lễ nầy ta biết bao nhiêu về đức tin thật của người Do thái và ông ta đã
dạy những gì, nhưng tình hình dường như không chút sáng sủa.
Ngày nay nhiều người
hoan nghênh “liên hiệp các tôn giáo trên thế giới” nhưng Đức Giê-hô-va ghê tởm
nó. Trong chế độ quân chủ, chúng ta học chấp nhận “đa nguyên luận”, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta tán thành nó hoặc tin
rằng tất cả tôn giáo đều ngang hàng nhau. Ơ Mỹ, tất cả tôn giáo để bình đẳng
trước luật pháp và có thể tự do sinh hoạt tôn giáo, nhưng Cơ Đốc Nhân vẫn tin
rằng “Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào
khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu” (Cong 4:12). Chúa Giê-xu không chấp nhận tôn giáo
của người Sa-ma-ri vì “sự cứu sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến” (Gi 4:19-24). Những người Do thái được ở lại xứ
mình đã tự chọn cho mình những thầy tế lễ và bỏ qua những tiêu chuẩn được Đức
Chúa Trời thiết lập qua Môi-se (c.32). Dân chúng lập ra những cơ cấu tổ chức tôn giáo và hội nhập với cơ cấu mới trong tín
nguỡng của những người láng giềng mới xung quanh họ. Có một kiều gì đó chung
cho mọi người, không kể ban tin gì và thờ phượng như thế nào, miễn là bạn có
tôn giáo (c.29-33). Ban có thấy điều nầy quen thuộc không?
Y-sơ-ra-ên không thuộc
bài học của mình (IIVua 17:34-41). Người ta thường nói rằng
một điều chúng ta học được từ lịch sử đó là chúng ta đừng học theo lịch sử. Dù
Đức Chúa Trời có dùng cách gì để trừng phạt và cảnh tỉnh họ, dân sự vẫn thờ
phượng Đức Chúa Trời chung với các thần khác, và làm theo ý riêng của mình. Họ
quên lịch sử của họ không dân sự Đức Chúa Trời được giải phóng khỏi ách nô lệ
của người Ê-díp-tô. Họ quên những luật pháp và giao ướccủa Đức Chúa Trời, đặc
biệt những điều răn của Ngài về sự thờ thần tượng
(Xu 20:1-6). Giống nhiều Cơ Đốc Nhân tự xưng
ngày nay, dân Y-sơ-ra-ên thờ phượng Chúa khi nào họ thấy vui, nhưng họ cũng
dành sự tôn kính cho các thần giả của các dân tộc khác nữa.
Cuối cùng điều gì đã xảy ra cho 10
chi phái không biết vâng lời nầy? Chúng ta nghe nói về “mười chi phái lạc mất
của Y-sơ-ra-ên”, nhưng Kinh Thánh không bao giờ dùng cụm từ nầy. Nhiều người
trong 10 chi phái đó đã đồng hoá với các dân được người A-si-ri đem vào xứ, và
việc ấy đã sinh ra dân Sa-ma-ri. Nhưng trong Kinh Thánh không có bằng chứng cho
thấy 10 chi Y-sơ-ra-ên “lạc mất”. Từ lâu trước khi A-si-ri chiếm được Vương
Quốc Phía Bắc, những người tín kính Chúa trong 10 chi phái ấy đã chuyển đến
Giu-đa và vẫn giữ lòng trung kiên với Đức Giê-hô-va ( IVua
12:1-33 16:20 IISu 11:5-16 19:4-10). Vua
Ê-xê-chia tin kính đã mời những tín đồ chân chính đến Giu-đa và thờ phượng Đức
Chúa Trời theo như Kinh Thánh dạy, và nhiều người đã đáp ứng lời mới đó (30:1-14,25-27). Những cải cách của Giô-si-ac1o những ảnh
hưởng lớn đếnng Do thái (34:1-7,33 35:17-19).
Dù Chúa Giê-xu có nói, “những con
chiên lạc mất của nhà Y-sơ-ra-ên” (Mat 10:5-6),
Tân Ước không biết gì về “chi phái lạc mất của Y-sơ-ra-ên”. (4:12-16 Lu 2:36-38)
Phao-lô nói về “mười hai chi phái chúng tôi” (Cong
26:7) và Gia-cơ viết thư “cho mười hai chi phái ở tan lạc” (Gia 1:1). Nếu chúng ta hiểu Kh 7:1-8 theo nghĩa đen, thì trong những ngày sau
rốt, Đức Giê-hô-va sẽ tìm được dân sự từ những chi phái Y-sơ-ra-ên.
Sứ điệp chính của đoạn Kinh Thánh bi
kịch nầy đó là sự thờ phượng thần tượng dẫn đến những
hành vi suy đồi, những hành vi suy đồi đó kéo theo sự xử phạt của Đức Chúa
Trời. Những lãnh đạo không vâng lời và thoả hiệp cả các vua và những thầy tế lễ
không thể nào dạy người ta Lời Đức Chúa Trời, và mỗi thế hệ mới sinh ra, dân
tộc càng đi xa khỏi Đức Chúa Trời. Rồi đến một ngày, cơn giận Đức Chúa Trời
giáng trên dân sự Ngài, và đó là lúc kết thúc một thể chế chính trị được biết
với cái tên Y-sơ-ra-ên, Vương Quốc Phía Bắc.
IIVua 17:1-41; xem giải nghĩa IIVua 16:1-20
10. LẬP VUA –PHẦN I (IIVua 18:1-20:11 IISu 29:1-31:21 32:24-26 Es 38:1-22)
Tên Ê-xê-chia có nghĩa là “Đức Giê-hô-va làm mạnh dạn” và suốt 29 năm
trị vì của mình (715-687), Vua Ê-xê-chia cần sức lực của Đức Chúa Trời để làm
thành mọi nhiệm vụ cuảa mình. Giống như A-sa (IVua
15:11), Giô-sa-phát (22:43), và
Giô-si-a (IIVua 22:2), ông học theo gương
Đa-vít, có nghĩa là dù Ê-xê-chia không phải là người hoàn hảo, nhưng ông cố hết
sức vâng phục Đức Giê-hô-va và làm dẹp lòng Ngài. Ông là một trong rất ít vị
vua dẹp hết được những nơi cao và xoá sổ được sự thờ lạy thần tượng trên các
ngọn đồi. Ông đã khôi phục sự thờ phượng trong đền thờ và khuyến khích dân sự
cả Giu-đa và Y-sơ-ra-ên đến đền thờ Giê-ru-sa-lem thờ phượng Đức Chúa Trời.
Chúa đã dặn rằng phải có một trung tân thờ phượng và nơi đó chính là
Giê-ru-sa-lem (Phu 12:1-32).
Những sự kiện diễn ra trong cuộc đời
Ê-xê-chia không được Kinh Thánh ghi lại theo trật tự thời gian. Hầu hết những
học giả đều nhất trí rằng những sự kiện được chép trong Es 38:1-22 39:1-8 về bệnh
tật của ông và việc ông tiếp các đại sứ Ba-by-lôn xảy ra trước khi quân A-si-ri
xâm lược (36:1-37:38). Chúng ta sẽ xét đến
điều nầy khi chúng ta nghiên cứu về cuộc đời và chức vụ của Ê-xê-chia và cố
gắng kết hợp các sách Các vua, Sử ký và Êsai.
1. Ê-xê-chia, nhà cải
cách (IIVua 18:4) (IISu 29:3-31:21)
Lưu ý rằng II Các vua chỉ có một câu
mô tả những cải cách của Ê-xê-chia (IIVua 18:4),
trong khi II Sử ký dành 3 đoạn để nói về phần đời quan trọng nầy của ông. Tuy
nhiên, II Các vua đề cập việc vua Ê-xê-chia huỷ con rắn đồng là Môi-se đã làm
như thế nào (Dan 21:5-9), nhưng trong Sử ký
không nhắc đến chuyện nầy. Con rắn là một di tích mang tính tôn giáo, nó đạt
đến vị trí của một thần tượng. “Nê-hu-tan” có nghĩa là “một miếng đồng, một vật
bằng đồng”. Với bản tính con người, người ta dễ muốn tôn sùng những di tích
mang tính tôn giáo dù chúng không có quyền lực gì. Ê-xê-chia là người có đức tin;
ông tin cậy Đức Chúa Trời hằng sống và vâng theo luạt pháp của Ngài, và ông
không muốn dân sự thờ lạy một hình ảnh chết và vô dụng.
Ông dọn sạch đền thờ (IISu 29:3-19). Ê-xê-chia không chần chừ khi
đưa Giu-đa trở về thờ phượng Đức Chúa Trời chân thần và hằng sống. A-cha, cha
của ông, đã làm ô uế và cuối cùng đóng cửa đền thờ, rồi bãi bỏ chúc vụ của
người Lê-vi (28:24). Ê-xê-chia ra lệnh cho
các thầy tế lễ thanh tẩy chính mình để dọn đền thờ và khôi phục sự thờ phượng
mà Đức Giê-hô-va phán truyền quan Môi-se.
Dân Y-sơ-ra-ên ở phía bắc đã bỏ sự
thờ phượng trong đền thờ và vì vậy họ bị mất nước, và A-cha làm ô uế và bỏ
hoang đền thờ nên dân Giu-đa phải chịu trừng phạt, bị Sy-ri,Ê-đôm và Phi-li-tin
xâm lược. Sự thờ phượng trong đền thờ như là trung tâm đầu não của dân Do thái,
nếu việc đó sai trật, mọi việc khác cũng sẽ sai trật.
Nhưng Ê-xê-chia không chỉ quan tâm
đến kế hoạch thanh tẩy đền thờ, vì ông có dự định tái cung hiến đền thờ và còn
muốn dân sự bước vào giao ước của Đức Giê-hô-va (c.10). 14 người lãnh đạo được
nêu tên trong câu 12-14 là những người làm gương và mở đường cho sự khởi đầu
mới cho chức vụ trong đền thờ. Nếu các lãnh đạo thuộc linh không ngay thẳng với
Đức Chúa Trời, làm sao Ngài có thể ban phước cho dân sự? Tất cả 3 dòng dõi
người Lê-vi có những người đại diện, Ma-hát và Giô-ên từ dòng Kê-hát, Kích và
A-xa-ria từ dòng Ma-ra-ri, Giô-a và Ê-đen từ dòng Ghẹt-sôn (Dan 3:1-4:49). Chi tộc Ê-lít-sa-phan thuộc dòng
Kê-hát (3:30) và có tiếng tốt vì sự trung
tín hầu việc của họ. Họ có Shim-ri và Giê-i-ên làm đại diện. Những người được
kể tên sau đây nằm trong ban nhạc như A-sáp (từ Ghẹt-sôn), Hê-man (từ Kê-hát)
hoặc Giê-đu-thun (từ Mê-ra-ri), những người có tài đánh đàn, ca hát và hướng
dẫn buổi thờ phượng. Vua Ê-xê-chia biết rằng phải có âm nhạc và sự ca ngợi
trong sự thờ phượng nếu không Đức Chúa Trời không đep lòng. Những người hướng
dẫn hoặc những giúp đỡ họ phải thanh tẩy chính mình trước mặt Đức Giê-hô-va để
Ngài có thể sử dụng họ thanh tẩy đền thờ.
Vào ngày mùng một tháng giêng, họ
bắt tay sửa sang đền thờ, bắt đầu từ Nơi Chí Thánh và Nơi Thánh. Họ thu gom rác
cùng những mãnh tượng vỡ ném chúng xuống trũng Xết-rôn, và thiêu huỷ chúng. Sau
khi thanh tẩy bên trong đền thờ họ tiếp tục lau dọn hành lang. Họ đã dọn sạch
bàn thờ ngoại giáo mà A-cha lập, và đặt bàn thờ của Đức Giê-hô-va thật đúng chỗ
(IIVua 16:10). Người Lê-vi cũng lau rửa
những khí dụng dùng trong các nghi lễ và đặt chúng vào chỗ thích hợp. Mất 16
ngày để công việc của họ hoàn tất, như vậy họ đã bỏ qua ngày Lễ Vượt Qua, vì lễ
ấy nhằm ngày 14 tháng giêng. Tuy nhiên, Ê-xê-chia đã tổ chức lễ Vượt Qua trong
suốt tháng 2 (đoạn 30)
Nếu chúng ta muốn làm phục sinh công
việc của Đức Chúa Trời, chúng ta phải bắt đầu từ việc thanh tẩy. Qua nhiều năm,
những cá nhân và Hội thánh có thể dần dần tích tụ nhiều “rác” trong khi xao
lãng những yếu tố cần thiết trong sự thờ phượng. Không cần phải làm việc gì mới
mẽ để chúng ta kinh nghiệm ơn phước mới từ Thiên Chúa, nhưng chúng ta chỉ cần
trở lại “những việc củ” và làm chúng cho thật tốt. Nếu chúng ta xưng tội lỗi
mình (IISu 7:14), thắp đèn, dâng hương (một
hình ảnh của sự cầu nguyện, Thi 141:1-2), và
dâng chính cuộc đời mình làm của lễ sống (c.7 Ro
12:1-2). Đức Giê-hô-va sẽ thấy và nghe và sẽ
ban phước cho chúng ta.
Ông cung hiến đền thờ (IISu 29:20-36). Vua và các quan chức trong thành gặp nhau tại
đền thờ và dâng các của lễ cho Đức Giê-hô-va. Họ dâng các của lễ cho đất nước
(Giu-đa và Y-sơ-ra-ên), đền thờ, và người Giu-đa nói riêng. Những của lễ chuộc
tội được dâng lên để chuộc tội cho dân sự, và các
tiên tri cả Y-sơ-ra-ên và Giu-đa (c.24 “cả Y-sơ-ra-ên”). Các của lễ thiêu tượng
trưng cho sự tận hiến cho Đức Giê-hô-va. Khi các của lễ được dâng cho Đức
Giê-hô-va, ban nhạc cất tiếng đàn và hát để ngơi khen Đức Chúa Trời, theo sự
dạy dỗ của Đa-vít, dùng những bài hát của Đa-vít, chơi những nhạc cụ của Đa-vít
(c.25-27,30 ISu 23:5-6)
Nhưng đây không phải một buổi cung
hiến đền thờ chỉ được tổ chức cho vua và những người lãnh đạo, vì hội chúng đã
thanh tẩy chính cuộc đời họ và đặt chúng lên bàn thờ dâng cho Chúa (c.28-36).
Họ đem đến rất nhiều của lễ, có đến ba ngàn con chiên được dâng làm của lễ
thiêu. Phần của lễ thù ân được những người đến thờ phượng giữ lại để cùng ăm
chung với gia đình như một bửa tiệc thông công. Ê-xê-chia đã noi gương
Sa-lô-môn khi ông cugn hiến đền thờ hơn 200 năm trước (IVua
8:62). Đây là thời gian rất vui vẻ của vua và dân sự. Hãy nhớ rằng có
nhiều người tin kính Chúa từ nước bội đạo Y-sơ-ra-ên phương bắc (giờ là
Sa-ma-ri) đã lánh sang Giu-đa để họ có thể thờ phượng Đức Giê-hô-va theo Luật
pháp Môi-se, nên lễ cung hiến nầy có mặt tất cả các chi phái.
Ông tổ chức lễ Vượt
Qua (IISu 30:1-27). Mỗi
năm ba lần, người Do thái phải đến Giê-ru-sa-lem để dự các lễ quan trọng, lễ
Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần, và lễ Lều Tạm (Xu 23:14-17
34:22-24). Đối với Cơ Đốc Nhân ngày nay, lễ
Vượt Qua nói về sự chết của Chúa Cứu Thế,Chiên Con của Đức Chúa Trời, Đấng đã
chịu chết vì chúng ta (ICo 5:7 Gi 1:29). Vào lễ Ngũ Tuần, Đức Thánh Linh đã giáng
trên Hội thánh đầu tiên (Cong 2:1-42) và lễ
Lều Tạm nói về vương quốc tương lai khi Chúa Giê-xu cai trị và chúng ta sẽ đồng
cai trị với Ngài (Xa 14:1-21). Lễ Vượt Qua
kỷ niệm sự giải cứu dân Do thái khỏi ách nô lệ của Ê-díp-tô; vì vậy nó là một
lễ của cả dân tộc. Vì lý do nầy mà Ê-xê-chia đã mời dân Do thái từ cả Giu-đa và
Y-sơ-ra-ên (Sa-ma-ri) đến Giê-ru-sa-lem dự lễ. Luật pháp Môi-se có một điều
khoản cho phép tổ chức lễ Vượt Qua vào tháng 2 (Dan
9:6-13), và Ê-xê-chia đã tận dụng điều khoản nầy. Đền thờ cả các thầy tế
và người Lê-vi đều chưa sẳn sàng cho lễ vào tháng giêng (c.1-3).
Điểm nhấn mạnh trong lời mời là “cả
Y-sơ-ra-ên” (c.5-6) và không chỉ có dân Giu-đa. Từ thời Sa-lô-môn, đã không có
lễ Vượt Qua nào cho cả dân tộc,và Ê-xê-chia muốn thống nhất dân tộc về mặt
thuộc linh dù họ đang bị chia cắt về mặt chính trị. Vương Quốc Phía Bắc
(Sa-ma-ri) chịu dưới sự cai trị của A-si-ri và dân Do thái sót lại đang sống ở
đó đã thờ lạy những thần tượng của các nước Ngoại bang. Họ cần phải trở về với
Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp (c.6). Dân Do thái có chugn một
tổ phụ và chung một sự thờ phượng, và phải đến lúc đặt Đức Chúa Trời lên trên
hết, quên đi những khác biệt và những ký ức đã qua. Từ được lập đi lập lại “trở
lại” cho thấy được tấm lòng của Ê-xê-chia (c.6,9). Nếu cả dân tộc trở lại ăn
năn với Đức Chúa Trời, Ngài sẽ lại ban phước cho họ. Ê-xê-chia dựa vào lời của
Sa-lô-môn trong IISu 7:14 để viết lên lời
mời của mình.
Tiếc thay, dân sót đang chịu dưới sự
cai trị của A-si-ri cứng đầu ý như các tổ phụ của họ khi Đức Chúa Trời đối mặt
với họ trong đồng vắng. Đây là một cơ hội để có một khởi đầu mới và làm vinh
hiển Đức Giê-hô-va bằng cách tìm kiếm ơn thương xót, ân điển và lòng nhân từ
của Ngài (c.9), nhưng hầu hết những người ở ngoài Giu-đa đều khước từ lời mời
đó. Họ chế giễu Ê-xê-chia và trêu chọc các sứ giả của ông, nhưng qua việc làm
đó, họ đã khước từ ơn phước của Đức Giê-hô-va dành cho họ. Tuy nhiên, có một số
người đã can đảm không nghe theo gia đình và bạn bè và đi đến Giê-ru-sa-lem để
dự lễ, trong số đó có những người đến từ các chi phái phía bắc như A-se, Ma-na-se,
và Sa-bu-lôn. Họ trải qua một quảng đường rất xa để đến Giê-ru-sa-lem với tấm
lòng khiêm hạ, và tìm kiếm ơn phước của Đức Giê-hô-va. Đức Chúa Trời ban cho
những người đến thờ phượng ở đó có đồng một lòng và đồng một ý để cho chính Đức
Giê-hô-va là trung tâm của sự kiện mà không phải là kế hoạch chính trị nào đó.
Kỳ lễ ấy được mô tả trong 30:13-27. Dân sự đã dẹp các bàn thờ mà vua A-cha
đã lập ở Giê-ru-sa-lem (c.14) vì có thể sẽ không có sự thờ phượng cách thống
nhất nếu họ không gặp nhau tại một bàn thờ được chuẩn bị sẳn ở sân đền thờ.
Thật nghịch lý khi dân sự nhiệt tình thờ phượng Đức Giê-hô-va, trong khi các
thầy tế lễ và người Lê-vi không thánh sạch và vì vậy không thể phục sự tại bàn
thờ! Nhưng họ cứu chữa được tình hình và đem của lễ thiêu để được dâng cho Chúa
hàng ngày (Xu 29:38-43 Dan 28:1-8). Trong suốt thời trị vì của vua A-cha,
sự thờ phượng trong đền thờ bị gián đoạn, và các thầy tế lễ cho tự phép mình
sống không xứng đáng với chức vụ hầu việc nơi bàn thờ; nhưng giữa thời gian
Ê-xê-chia lên ngôi và lễ Vượt Qua, họ đã có thời gian dọn mình.
Nhưng nhiều người bình thường trong
cộng đồng lớn ấy cũng không thánh sạch (Xu 12:14-16
13:6-10), có lẽ vì họ vội vã rời khỏi nhà
hoặc họ bị dính dơ trên được đến Giê-ru-sa-lem (Dan
9:9-10). Nhưng Ê-xê-chia biết rằng Đức Chúa Trời quan tâm đến tấm lòng
của người đến thờ phượng Ngài, và không phải những chi tiết của buổi lễ, và ông
cầu xin Chúa thanh tẩy và cấhp nhận họ (ISa
15:22-23 Es 1:1-17 Os 6:6 Mi 6:6-8
Mac 12:32-33). Đức Chúa Trời nhậm lời cầu
nguyện của ông, vì Ngài cần tấm lòng, không cần nghi thức tôn giáo. Nếu có bất
kỳ người theo chủ nghĩa hợp pháp nào trong hội chúng, họ chắc rát khó chịu,
nhưng thái độ của họ không làm mất đi ơn phước của Đức Chúa Trời. (Lu 18:9-14 Thi
51:10-11,15-16).
Nếu dân sự Đức Chúa Trời ngày nay dọn lòng mình để thờ phương Ngài giống như họ
chưng diện quần áo, Đức Giê-hô-va sẽ ban ơn dư dật cho Hội Thánh Ngài.
Quá phước hạnh và vui mừng, nên
Ê-xê-chia và dân sự quyết định kéo dài kỳ lễ một tuần nữa, và vua đã dâng nhiều
của lễ và như vậy chu cấp đồ ăn cho dân sư. tấm gương của vua thúc đẩy các lãnh
đạo Giu-đa đem thêm của lễ đến và mọi người đều được ăn no. Sự dâng hiến rời
rộng nầy xuất phát từ sự thờ phượng Đức Chúa Trời cách tự nhiên và tấm lòng
biết ơn Ngài. Khi Sa-lô-môn khánh thành đền thờ, ông cũng giữ chân hội chúng
thêm một tuần sau (IVua 7:8-9)
Ông tiến cử và tổ chức
các ban trong đền thờ (IISu 31:1-21). Trước khi
tuần thứ hai kết thúc và dân sự trở về nhà mình, các thầy tế lễ chúc phước cho
dân sự theo ý lời phán dặn của Đức Chúa Trời trong Dan
6:22-27 và họ rời Giê-ru-sa-lem với đầy dẫy những ơn phước của Đức
Giê-hô-va. Họ mang theo những ơn phước ấy về nhà, rồi tiếp tục vâng theo Đức
Chúa Trời thiêu huỷ những thần tượng ở Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im và Ma-na-se.
Có lòng phấn khởi ngợi khen Đức Chúa Trời trong hai tuần của kỳ lễ trọng thể ấy
là một chuyện, nhưng khi trở về nhà vẫn tiếp tục sống trong ơn phước của người
đã được gặp Chúa là một chuyện khác.
Vua Ê-xê-chia biết rằng những ơn
phước của lễ Vượt Qua sẽ không còn mãi nếu dân sự không được thường xuyên dự
phần thờ phượng Chúa tại đền thờ. Thật tuyệt vời khi có những ngày lễ Giáng
sinh long trọng hoặc một vài ngày lễ lớn nào đó, nhưng bạn không thể sống được
khi một năm chỉ được ăn vài lần. Vì lý do đó, Ê-xê-chia đã làm theo lời dạy của
Đa-vít (ISu 23:26) và tổ chức các phần việc
trong đền thờ cho các thầy tế lễ và người Lê-vi. Ông đã làm gương tốt qua việc
đều đặn dâng các của lễ trong bầy của mình hàng ngày và hàng tháng. Vua
Ê-xê-chia đã tìm kiến Đức Giê-hô-va và làm mọi sự cho Ngài bằng tất cả tấm lòng
mình (c.21)
Sau khi phân việc và tổ chức các ban
ngành trong đền thờ, Ê-xê-chia cũng nhắc nhở dân sự trung tín dân phần mười cho
đền thờ để cung ứng cho các thầy tế lễ và người Lê-vi (c.4 Dan 18:8-32 Phu 12:1-19
14:22-29). Ông cũng xây các nhà kho trong
đền thờ để thâu trử những của lễ và chọn ra những người có uy tín để quản lý
việc phân phát đồ ăn. Các thầy tế lễ, người Lê-vi và gia đình họ sống nhờ vào
những của dâng đó (Ne 13:1-14). Vua đặc biệt
quan tâm đến những đứa trẻ mới dứt sữa (c.16,18). Ông không muốn bất kỳ tôi tớ
nào của Đức Chúa Trời hoặc gia đình của họ phải thiếu ăn.
Vào tháng 3 (Tháng Năm/ tháng Sáu),
là tháng thu hoạch lúa, dân sự đem lúa dâng cho đền thờ và các thầy tế lễ và
người Lê-vi trữ vào kho. Suốt tháng 7 (Tháng Chín/tháng Mười), là mua thu hoạch
nho, những trái nho và rượu nho tiếp tục được đem vào kho của đề thờ. Giống như
những của dâng dùng để dựng đền tạm (Xu 36:5-7)
và xây đền thờ (ISu 9:1-20), của dâng phần
muời và những của dâng khác được đem đến đần thờ mới rất nhiều, vưỡt quá sự
mong đỡi của vua. Người hết lòng thờ phượng Chúa luôn
là người dâng hiến rời rộng, nhất là khi những người lãnh đạo của họ làm gương
tốt, và Giu-đa không là ngoại lệ.
2. Ê-xê-chia, nhà
thương thuyết (IIVua 18:7-16)
Giu-đa là nước chư hầu
của A-si-ri từ thờiA-cha, cha của Ê-xê-chia (IIVua 16:7-18). Khi Sa-gôn, vua A-si-ri, tử trận,
và San-chê-ríp lên ngôi, đây là cơ hội để Ê-xê-chia cỡi bỏ cái ách đó.
San-chê-ríp bận quan tâm đến những vấn đề khác trong nước mình, nên Ê-xê-chia
không nộp triều cống hàng năm. Giu-đa đã thắng dân Phi-li-tin, nên nước nầy
đang thấy mình đủ mạnh. Trong năm 722 T.C., A-sa-ri
tấn công Y-sơ-ra-ên và chiếm thành Sa-ma-ri, và điều nầy có nghĩa là quân đội
A-si-ri lúc bấy giờ đang đóng quân sát Giu-đa.
Vào năm 715 T.C.,
San-chê-ríp xâm lược Giu-đa và tiến thẳng đến Giê-ru-sa-lem. [45]. Đức tin của Ê-xê-chia không đủ mạnh, ông quá
nhún nhường trước vua A-sa-ri và nộp đủ cống mà ông đã nợ 7 tấn bạc và một tấn
vàng. Một phần của cải đó lấy từ kho riêng của vua, nhưng thật thất vọng khi phần còn lại vua đã lấy từ kho của
đền thờ. Ông đã học theo cha mình (16:8).
Vua Đa-vít không thương thuyết với các kẻ thù mình hoặc tìm cách mua chuộc họ;
ông ta tấn công và đánh bại họ. Dĩ nhiên, San-chê-ríp rút quân khỏi Giu-đa,
nhưng ông ta nuôi ý đồ quay trở lại.
3. Ê-xê-chia, người
chịu khổ (IIVua 18:7-16) (IIVua 20:1-11 IISu 32:24-26 Es 28:1-8)
Theo các sử gia, đây là
sự kiện quan trọng tiếp theo trong cuộc đời Ê-xê-chia. Nó xảy ra 15 năm trước khi
ông băng hà năm 687 T.C., như vậy sự kiện vua bệnh và được chữa lành, và sự
viếng thăm của các đại sứ A-si-ri, xảy ra năm 702 T.C.. Một năm sau, A-sa-ri
trở lại tấn công Giê-ru-sa-lem
Có phải căn bệnh của
Ê-xê-chia là một hình phạt mà Đức Chúa
Trời giáng trên ông vì đã thoả hiệp với A-si-ri? Câu Kinh Thánh IISu 32:24 cho chúng ta biết rằng vua đã bắt đầu
kiêu ngạo và đó là cách Đức Chúa Trời hạ ông xuống. Sự kiện tiên tri Ê-sai đến
thăm ông với một sứ điệp trọng thể cho thấy kinh nghiệm nầy thật sự quan trọng
như thế nào, vì vua sắp phải chết. “Hãy trối lại cho nhà ngươi” liên quan nhiều
đến việc chon người kế vị. Ê-xê-chia lên ngôi lúc 25 tuổi (IIVua 18:2) và băgn hà năm 687. Ma-na-se, con trai
ông, lên ngôi năm 687 ở tuổi 22, vậy Ma-na-se sinh năm 709 và khi tiên tri
Ê-sai đến thăm Ê-xê-chia và báo rằng ông sắp chết thì Ma-na-se được 7 tuổi.
Giô-ách lên ngôi lúc 7 tuổi (11:4), nhưng ông có Giê-hô-gia-đa, thầy tế lễ tin kính, bên cạnh cố
vấn. Rõ ràng ngôi Đa-vít đang trong nguy biến.
Phản ứng của Ê-xê-chia
là quay mặt vô vách và cầu nguyện với Đức Chúa Trời [46]. Nếu câu nói của ông trong 20:3 và Es 38:2 nghe như một lời
kiêu ngạo, hãy nhớ rằng Ê-xê-chia chỉ đang đòi hỏi lời hứa trong IISu 6:16-17. Lời hứa nầy là một phần trong giao
ước ân điền của Đức Giê-hô-va với Đa-vít và con cháu Đa-vít (IISa 7:1-17), và Ê-xê-chia chỉ đang nhắc Đức Chúa
Trời rằng ông đã trung tín vâng theo Luật pháp của Ngài. Nói cách khác, với tư
cách là một hậu duệ trung tín của Đa-vít, ông “đáng” được sống. Thông điệp của
Đức Chúa Trời cho vua qua Ê-sai nhấn mạnh tầm quan trọng của vua Đa-vít và sự
tồn tại của con cháu Đa-vít trên ngôi Giê-ru-sa-lem.
Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện
của Ê-xê-chia và bảo tiên tri Ê-sai đến gặp Ê-xê-chia đề báo tin ông ta sẽ được
chữa lành và nói cho ông ta biết hai lời hứa lớn của Đức Chúa Trời dành cho ông ta. Thứ nhất, vua sẽ được lành và 3 ngày
nữa có thễ đến dự buổi thơ phượng trong đền thờ; và thứ hai, nếu A-si-ri quay
trở lại, Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ và giải cứu thành Giê-ru-sa-lem. Lưu ý, Ê-xê-chia
bị bệnh trước khi quân của San-chê-ríp xâm lược lần thứ hai. Để cho vua tin
chắc nới những lời hứa nầy, Đức Chúa Trời ban cho ông một dấu lạ: bóng giọi
trên trắc ảnh A-cha (một đồng hồ mặt trời lớn) lui lại mười độ. Khi mặt trời
lặn, bòng sẽ dài hơn theo tự nhiên, nhưng bất thìn lình, bóng trở nên ngăn hơn.
Có phải Đức Chúa Trời giữ cho trái đất ngừng quay hay chỉ vì cái bóng lùi lại?
Đức Chúa Trời không giải thích phép lạ của Ngài và đối với chúng ta, thật không
khôn ngoan khi thay Ngài giải thích nó.
Đức Chúa Trời trừng phạt chúng ta
chỉ vì Ngài yêu chúng ta và muốn chúng ta đừng cãi lời Ngài và đánh mất những
ơn phước của Ngài (He 12:1-11). Trừng phạt
không phải là một quan toà nghiêm khắc khi ông ta trừng trị tội phạm. Nó là bổn
phận của một người cha yêu thương khi ông muốn đem lại những điều tốt đẹp nhất
cho con cái, vì Cha chúng ta trên trờ muốn chúng ta “nên giống như hình bóng
Con Ngài” (Ro 8:29).
4. Ê-xê-chia, người ca
ngợi (IIVua 18:7-16) (Es 38:9-22).
Tiên tri Ê-sai viết lại
bài thi thiên mà Ê-xê-chia đã làm sau khi
ông được chữa lành và được ban cho thêm 15 năm sống trên đất (38:9-20). Có thể Ê-xê-chia còn viết những bài thơ
khác (c.20) vì chúng ta thấy có câu “các người của Ê-xê-chia” trong Ch 25:1. Tiêu đề nầy cho
biết vua Ê-xê-chia đã “hương dẫn” những học giả viết Kinh Thánh và chép lại các
bản thảo [47]. Bài thi thiên nầy được Ê-xê-chia viết trong khi
nhớ lại căn bệnh và sự được chữa lành của mình với những hình ảnh thật sống
động, nó dạy chúng ta rất nhiều về sự sống và cái chết. Điều nầy đặc biệt đúng
trong bản dịch NIV.
Ê-xê-chia nhìn thấy cuộc
đời giống như một hành trình mà đích đến của nó là cái chết, hoặc “Âm phủ”
(c.10). Ông đang sống trong những ngày quan trọng nhất của cuộc đời và sắp đánh
mất những ngày tháng còn lại. (Ê-xê-chia
lúc này khoảng 37 hoặc 38 tuổi). Có lẽ ông đang nhớ đến Thi 139:16, trong đó Đa-vít nói rằng
Đức Chúa Trời đã ghi vào sách của Ngài số ngày của mỗi người. Ê-xê-chia oán
than vì ông sắp từ bỏ cuộc đời và không còn được nhìn thấy bạn bè thân quyến. [48] Lưu ý rằng trong thời
gian nầy người ta chưa hiểu về sự sống đời đời, thế giới trung gian và Sự Sống Lại
(IITi 1:10).
Nhưng cái chết không phải là điểm
cuối của cuộc hành trình; nó giống như việc dời trại (c.12). Phao-lô đã dùng
hình ảnh cái trại (nhà tạm) theo cách tương tự (IICo
5:1-4) và Phi-e-rơ cũng vậy (IIPhi 1:13-14).
Nhưng Ê-xê-chia cũng mô tả cái chết gần kề của mình như miếng vải bị cuốn lại
(c.12). Đức Chúa Trời “dệt” tôi trong lòng mẹ (Thi
139:13-16) trước khi chào đời, và suốt trong những ngày tôi sống trên
đất, Ngài muốn dệt tôi thành một sản phẩm đẹp đẽ và có ích ho sự vinh hiển của
Ngài. Ê-xê-chia đang bị bỏ đi khi sản phẩm chưa hoàn thành. Đêm ngày vua lo
lắng và đau buồn như con chim yêu 1 đuối đang bị sư tử đói rình vồ (c.13-14).
Tất cả những gì ông có thể làm là than thở như chim bồ câu và khóc lóc như chím hét.
Trong câu 15, toàn cảnh
đã thay đổi và ông dâng lời tạ ơn Đức
Chúa Trời vì ơn thương xót của Ngài đã giải cứu ông khỏi hầm tối (c.17-18). Đức
Chúa Trời không chỉ cứu mạng sống ông, Ngài tha thứ tội lỗi cho ông (c.17 Es 43:25 Mi 7:19).
Đức Giê-hô-va đã trừng phạt vua vì sự kiêu ngạo của ông (IISu 32:24), nhưng giờ đây vua hứa sẽ “ăn ở khiêm
nhường” trọn cuộc đời còn lại (c.15). Ê-xê-chia dâng
cuộc đời mình để ngơi khen Đức Chúa Trời và nói cho con cháu biết những gì Đức
Chúa Trời đã làm cho ông. Có lẽ đó là lúc ông tổ chức nhóm “các người của
Ê-xê-chia” để sao chép và bảo quản Kinh Thánh.
Tuy nhiên, Sự kiêu ngạo
của Ê-xê-chia đã trổi dậy một lần nữa và vua lại bị quở phạt.
11. LẬP VUA – PHẦN II (IIVua 18:17-19:36 20:12-21 IISu 32:27-33 Es 36:1-37:38 39:1-8)
Chúng ta đã biết vua
Ê-xê-chia là một người cải cách thành công, ông đã thanh tẩy đền thờ và phục
hồi chức vụ của các thầy tế lễ. Nhưng Ê-xê-chia, người thương thuyết, đã chịu
thua A-si-ri và phải nộp cống để ngăn ngừa chiến tranh. Sau khi Đức Chúa Trời
khiến ông bệnh nặng để ông hạ mình và kêu cầu ơn thương xót của Đức Chúa Trời.
Tiếp theo chiến thắng đó, Ê-xê-chia vấp ngã một lần nữa khi tiếp đón các đại sứ
của Ba-by-lôn cách nồng hậu và cho họ xem những thứ mà họ không được quyền xem.
Giai đoạn nầy trong cuộc đời Ê-xê-chia thật đáng trách.
1. Ê-xê-chia, người
khoe khoang (IIVua 18:17-37) (IIVua 20:12-19 IISu 32:27-31 Es 39:1-8)
Kinh Thánh mô tả Ma quỉ,
kẻ thù của chúng ta, như con rắn và con sư
tử (Sa 3:1 IICo
11:1-4 IPhi 5:8-9). Sa-tan luôn đến
bên chúng ta như con rắn để dụ dỗ chúng ta, nhưng nếu có không thành công, nó
sẽ trở mặt thành con sư tử để cắn xé chúng ta. Đây là kinh nghiệm của
Ê-xê-chia. Thứ nhất, các đại sứ của Ba-by-lôn đến Giê-ru-sa-lem đến thám thính
xem Giu-đa giàu có và hùng mạnh như thế nào, và sau đó quân A-si-ri đến cướp
phá xứ, chiến Giê-ru-sa-lem, và bắt dân Do thái lưu đày đến A-si-ri. Các đại sứ
lừa được vu Ê-xê-chi vì ông không tìm kiếm sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời qua
tiên tri Ê-sai, nhưng ông đã tìm kiếm Đức Chúa Trời
khi quân A-si-ri đến xâm lược xứ, và Đức Chúa Trời ban cho ông chiến thắng.
Sự kiêu ngạo của
Ê-xê-chia (IIVua 20:12-13 IISu 31:27-30 39:1-2).
Chúng ta đã biết rằng Ê-xê-chia mắc phải tính kiêu ngạo (32:25-26). Căn bệnh thập tử nhất sinh của ông đã
khiến ông hạ mình, nhưng sự viếng thăm của các đại sứ Ba-by-lôn cho thấy rõ tội
lỗi cũ vẫn còn rất sống động. Các đại sứ nầy đến thăm Giu-đa với hai mục đích:
(1) xem Giu-đa hùng mạnh đến đâu, và (2) tìm cách tác động để Ê-xê-chia đồng ý
hiệp với Ba-by-lôn chống lại A-si-ri. Vì không biết hai mục đích thật của họ,
Ê-xê-chia nghĩ rằng được các đại sứ của một nước lớn viếng thăm là một vinh
hạnh lớn lao. Trong giai đoạn lịch sử nầy, A-si-ri là một đế quốc mạnh nhất và
Ba-by-lôn là đế quốc đang phát triển. Tại sao Ê-xê-chia nên lo ngại Ba-by-lôn?
Vì sẽ có một này A-si-ri lui vào hậu trường và Ba-by-lôn sẽ là thủ vai chính
trong vùng Cận Đông. Từ năm 607 đến 586, Ba-by-lôn xâm lược Giu-đa, phá huỷ Giê-ru-sa-lem
và đền thờ, và bắt dân chúng đi lưu đày. Ban đầu Ba-by-lôn đến như con rắn, sau
nó nó hiện nguyên hình là một con sư tử.
Các đại sứ đem theo
những lễ vật đắt tiền từ vua Ba-by-lôn cùng với bức thư tay bày tỏ niềm vui của
vua khi hay tin Ê-xê-chia bình phục. Ê-xê-chia nên nhận ra Bê-rô-đác-Ba-la-đan
thật sự không quan tâm đến sức khoẻ của ông mà chỉ muốn ép Ê-xê-chia liên minh
với nước Ba-by-lôn. Rất có thể các đại sứ hết lời khen ngợi nguồn tài nguyên và sự giàu có của Giu-đa để càng
thổi phồng cái tôi của Ê-xê-chia. (32:27-30).
Ê-xê-chia đã dại dột dẫn họ đi tham quan khắp nơi và chỉ cho họ xem các kho
tàng và kho vũ khí của mình. Có lẽ Ê-xê-chia có tài quản lý những thầy thơ ký
và làm thơ hơn là lo các hoạt động chính trị của đất nước. Tất cả những gì
Ê-xê-chia có là do Đức Chúa Trời ban cho và thuộc về Đức Chúa Trời, vậy sao ông
lại khoác lác về chúng? Ông tạo ấn tượng tốt cho các đại sứ nhưng ông làm Đức
Chúa Trời buồn lòng và làm nguy hại cho đất nước và thành phố của mình.
Tính kiêu ngạo là vũ khí chiến lược
của Sa-tan trong chiến thuật chống nghịch Đức Chúa Trời và dân sự Ngài. Chính
Sa-tan đã phạm tội kiêu ngạo khi nó phản nghịch Đức Chúa Trời và muốn được
người ta thờ phượng và vâng phục dù chỉ một mình Đức Chúa Trời xứng đáng được
như vậy (Es 14:12-15). Tính kiêu ngạo khiến
chúng ta cướp đi của Đức Chúa Trời sự vinh hiển chỉ thuộc về một mình Ngài.
Tính kiêu ngạo gây nên trong chúng ta một cảm giác an ninh giả tạo và điều đó
dẫn chúng ta vào chỗ phạm tội và thất bại. Charles Spurgeon nói với dân chúng ở
London, “Chúng ta đừng nên tự hào vì chủng tộc, màu da, chỗ ở hay ơn huệ của
mình”. Thật là một lời khuyên hay! William Barclay
viết, “Tính kiêu ngạo là nguyên nhân gây ra những tội khác, và là kẻ sinh ra
tất cả những tội khác”
Lời tiên tri của Ê-sai (IIVua 20:14-18 IISu
29:3-8). Ê-xê-chia lẽ ra nên bàn bạc với Ê-sai ngay khi biết tin các đại
sứ Ba-by-lôn sẽ đến Giê-ru-sa-lem. Khi tiên tri Ê-sai biết các sứ giả nước
ngoài đến và đi rồi, ông đã ra mắt vua và hỏi hai điều quan trọng: “Họ đã nói
gì và từ đâu đến?” Vua không trả lời câu thứ nhất, nhưng vua thừa nhận họ đến
từ Ba-by-lôn. Những đại sứ từ “một nước xa” đến Giu-đa để làm vua vui, và chắc
chắn đã rất vui vì tìm được một đồng mình chống lại người A-si-ri.
Khi bạn đọc sách Êsai, bạn sẽ phát
hiện được rằng tiên tri Ê-sai đã biết điều gì đó về tương lai của Ba-by-lôn
(13-14 IIVua 20:1-10). Trong giai đoạn bấy
giờ, cả dân sự đều biết A-si-ri đã là một nước hùng mạnh bậc nhất trên thế
giới, còn Ba-by-lôn chỉ mới bắt đầu có tiếng tăm. A-si-ri đã đánh bại nước
Y-sơ-ra-ên, nhưng chính Ba-by-lôn sẽ thâu tóm Giu-đa và Es 39:5-7 là lời tiên tri đầu tiên của Ê-sai nói rõ sự kiện đó.
Một thế kỷ sau khi Ê-xê-chia băng hà. Ba-by-lôn tiêu diệt Giê-ru-sa-lem và đền
thờ, và một số hậu tự của Ê-xê-chia bị bắt đi lưu đày
và của cải của ông cũng bị đem sang Ba-by-lôn.
Sự kiên nhẫn của Đức
Chúa Trời (IIVua 20:19). Phản ứng của
Ê-xê-chia không phải là một sự thở phào vì thế hệ của ông được thoát khỏi sự
trừng phạt, nhưng đó là thái độ chịu phục ý muốn của Đức Chúa Trời. Một lần nữa
tính kiêu ngạo của Ê-xê-chia bị đánh đổ (IISu 32:26).
Đức Giê-hô-va đã nhẫn nại với Ê-xê-chia và vua không biết một thử thách lớn
đang ở phía trước cuộc tấn công của A-si-ri vào Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên, vua đã học được những bài học quí giá sau
khi ngã bệnh và giải quyết không tốt chuyện các đại sứ Ba-by-lôn. Đức Chúa Trời
thật nhân từ chuẩn bị chúng ta cho những gì Ngài dành sẳn cho chúng ta!
2. Ê-xê-chia, người chỉ
huy (IIVua 18:17-37) (IISu 32:1-19 Es 36:1-22)
“Sau các việc nầy và sự
thành tín nầy, thì San-chê-ríp loán đến trong xứ Giu-đa” (IISu 32:1). “Các việc
nầy và sự thành tín nầy” là công sức của Ê-xê-chia bỏ ra để thanh tẩy đền thờ,
các chức tế lễ, người Lê-vi, và phục hồi sự thờ phượng chân chính trong Giu-đa.
Người ta sẽ nghĩ rằng Đức Chúa Trời sẽ ban cho ông sự hòa bình sau những gì ông
đã làm, nhưng Ngài đã cho quân A-si-ri tấn công vào Giu-đa và đe dọa
Giê-ru-sa-lem. Ê-xê-chia trung tín với Đức Giê-hô-va, nhưng dường như Ngài
không thành tín với ông ta. Xét cho cùng, vua đã làm “những điều lành, ngay
thẳng và chân thành, tại trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời của người” (31:20) và “người hết lòng mà làm” (c.21). Thế thì
tại sao Đức Giê-hô-va không bảo vệ Giu-đa trước sự xâm lấn khác?
Alexander Maclaren nói,
“Đây là điều khó hiểu trong Cựu Ước, làm thế nào mà người tốt thường gặp khó
khăn, và người xấu thường găp thuận lợi”. [49]. Chúng ta có thể hiểu được lý do Y-sơ-ra-ên bị A-si-ri tiêu diệt’
dù sao Y-sơ-ra-ên cũng đã thờ các thần tượng và chống nghịch luật pháp của Đức
Chúa Trời. Nhưng Giu-đa đã trở về với Chúa dưới sự lãnh đạo của Ê-xê-chia, và
dù vua phạm một vài lỗi lầm, nhưng tấm lòng của ông luôn trung thành với Đức
Chúa Trời. Nhưng Đức Giê-hô-va có những mục đích thánh của Ngài để làm thành
trong cuộc đời Ê-xê-chia và trong sự sống của đất nước. Đối với Đức Chúa Trời, thật dễ để sai đội quân thiên sứ Ngài đế
tiêu diệt 185.000 quân A-si-ri, nhưng khó khăn hơn để làm việc trong lòng của
Ê-xê-chia và thay đổi ông thành một người sống bởi đức tin. Khi chúng ta để Đức
Chúa Trời hành động theo được lối của Ngài, những khó khăn thử thách trong cuộc
sống ủng hộ chúng ta chứ không chống lại chúng ta, và chúng sẽ đem vinh quang
về cho Đức Chúa Trời. Vua cần biết rằng ông là người đứng thứ hai trong bộ máy
lãnh đạo (Gios 5:13-15) và chỉ một mình Đức Chúa Trời là Đấng tể trị.
Sự chuẩn bị (IISu 32:1-8). Ê-xê-chia biết rằng quân A-si-si
chuẩn bị tấn công, nên ông triệu tập các lãnh đạo của mình để lên kế hoạch từng
bước củng cố Giê-ru-sa-lem. Nhờ triệu tập tất cả các lãnh đạo, ông đã hiệp một
họ trong sự thông cảm và chiến lược, một yếu tố quan trọng trong chiến tranh.
Lịch sử A-si-ri chép rằng quân đội của họ đã chiếm 66
thành kiên cố ở Giu-đa trước khi đóng quân tại La-ki và lên kế hoạch bao vây
Giê-ru-sa-lem. Ê-xê-chia cho chặn các khe nước cung cấp cho khu vực bên ngoài
thành để kẻ thù không thấy có nhiều nước. Ông đã cho đào một đường hầm
dẫn nước từ sông Ghi-hôn đến thành Giê-ru-sa-lem (IIVua
20:20) để dân trong thành không phải chết khát. Cho đến ngay nay, đường
hầm ấy là một di tích nổi tiếng cho du khách tham quan vùng Đất Thánh.
Ê-xê-chia cũng cho tu sửa và củng cố
các vách thành, và xây thêm các tháp canh trên đó. Ông cũng xây thêm vách thứ
hai bên ngoài và làm vững chắv “Mi-lô”, những gò cao để đở các vách thành (11:8 IVua 11:27).
Ông tổ chức đội quân, các quan tướng, cung cấp vũ khí cho họ, và động viên họ
bằng lời nói. Ông đã mượn lời của Môi-se nói với Y-sơ-ra-ên và Giô-suê (Phu 31:1-8) và của Đức Chúa Trời nói với Giô-suê (Gios 1:1-9 IIVua 6:16).
Ê-xê-chia thật khôn ngoan khi dùng lời của Đức Chúa Trời để khích lệ binh lính
của mình và nhắc họ nhớ những chiến công đã qua của
dân sự Đức Chúa Trời vì họ đã tin cậy Đức Giê-hô-va.
Cuộc đối đầu (IIVua 18:17-18 IISu
36:1-3). Căn bệnh thập tử nhất sinh của Ê-xê-chia xảy ra năm 702 T.C và
cũng khoảng thời gian đó các đại sứ Ba-by-lôn đã đến thăm Giu-đa. Điều nầy có
nghĩa là quân A-si-ri xâm lược xứ ngay sau đó một năm - 701 T.C. Ê-xê-chia còn
14 năm sống trên đất, ông không muốn sống trong cảnh giam cầm. Tuy nhiên, tiên
tri Ê-sai đã tiên báo rằng vì Vua Đa-vít, Đức Chúa Trời sẽ giải cứu Giu-đa và
gìn giữ Giê-ru-sa-lem (IIVua 20:6), nên
Ê-xê-chia có một lời hứa lớn để tin cậy vào. Dân sự của Đức Chúa Trời không
sống nhờ sự giải thích, họ sống dựa trên những lời hứa.
Quân A-si-ri chọn La-ki làm chỗ đóng
quân, cách tây nam Giê-ru-sa-lem 30 dặm, và dẫn theo “một đạo binh mạnh” để tấn
công Giê-ru-sa-lem. Ba vị quan của A-si-ri bảo Ê-xê-chia sai ba người đến gặp
họ để bàn những điều khoản cho sự đầu hàng. Những cái tên nầy không phải là tên
riêng: Tạt-tan: quan tổng binh, Ráp-sa-ri: quan trưởng, và Ráp-sa-ke: quan tổng
binh. Những người đại diện cho Ê-xê-chia có Ê-li-a-kim, quan cai đền, Sép-na,
thơ ký, và Giô-a, quan thái sử (Es 22:15-25 36:3).
Họ gặp nhau chính tại nơi Ê-sai đối
mặt với A-cha, cha của Ê-xê-chia, và căn dặn ông không được kết ước với A-si-ri
(Es 7:1-25 IIVua
16:5-9). Dù kết ước hay không, Ê-sai tiên tri rằng A-si-ri sẽ trở lại,
và lời của ông đã trở thành hiện thực.
Sáu người không chính thức đối thoại
với nhau nhưng đứng cách xa nhau đủ để Ráp-sa-kê cất cao giọng. Dĩ nhiên, quân
A-si-ri muốn dân trong thành nghe những gì họ nói và lo sợ. Các quan tướng nầy
không nói tiếng A-ram, ngôn ngữ thương mại thời bấy giờ, nhưng họ nói tiếng
Hy-ba-lai quen thuộc (18:26-27 IISu 32:18 36:11-12).
Điều quan trọng là các lãnh đạo A-si-ri biết tiếng Hy-bá-lai để họ có thể tiến
hành chiến tranh tốt hơn. Các đầy tớ của Đức Chúa
Trời cần học theo điều nầy để có thể công bố sứ điệp bình an.
Sự công bố (IIVua 18:19-36 IISu
32:9-19 36:4-21). Cần biết rõ ba “lời
nói” nếu chúng ta muốn hiểu sự kiện nầy có tác động thế nào. Trước tiên, quan
tổng binh Ráp-sa-kê nói với Ê-xê-chia và dân Do thái và nhạo báng Đức Chúa Trời
của họ (IIVua 18:17-36). Sau đó Ê-xê-chia đi
đến đền thờ và thưa với Đức Chúa Trời về những lời quan tổng binh ấy đã nói (19:1-9). Cuối cùng, Đức Chúa Trời phán với
Ê-xê-chia (qua tiên tri Ê-sai) về sự đoán phạt mà Ngài sẽ giáng trên dân
A-si-ri (19:20-34). Đức Chúa Trời luôn nói
sau cùng.
Quan tổng binh là người khôn khéo,
ông ta biết thêu dệt lời nói mình và làm cho ý nghĩa của nó chồng chéo lên
nhau. Dĩ nhiên ông không quan tâm đến việc nói đúng
sự thật, vì ông ta biết con người (kể cả người Do thái ở Giê-ru-sa-lem) sống
dựa trên cái “dường như” thay vì trên cái “thật sự” và suy nghĩ bằng cảm
xúc thay vì bằng trí khôn. Ý chính của ông ta muốn nói là đức tin (18:19-20
IISu 32:10 36:4-5),
và ông hỏi dân chúng, “Ngươi thật sự đang tin cậy vào điều gì? Ai có thể giải
cứu được ngươi?” Chú ý những từ ngữ được lập đi lập lại và cách ông ta xem thường
Ê-xê-chia khi xưng vua San-chê-ríp là “vua lớn” (IIVua
18:19,28
Es 36:4,13). Điều Ráp-sa-kê không nhận ra là Đức Giê-hô-va
là Vua Vĩ Đại và Ngài nghe mọi lời ông ta nói. “Vì Đức Giê-hô-va Chí Cao thật
đáng kinh; Ngài là Vua lớn trên cả trái đất” (Thi
47:2). Giê-ru-sa-lem là “là kinh đô của Vua cao cả” (Thi 48:2), và chính Đức Giê-hô-va đã nói “ta là
Vua lớn” (Ma 1:14).
Vị quan tổng binh bắt
đầu nêu ra những gì mà dân Giu-đa đang cậy vào, và đồng thời nói rõ rằng ai
cũng sẽ thất bại. Ông ta bắt đầu với Ê-díp-tô (IIVua
18:21,24
Es 36:6,9), và chắc chắn có những quan chức trong Giu-đa
nghĩ rằng Pha-ra-ôn có thể giúp đỡ họ. Luôn có một nhóm người Ê-díp-tô hùng
mạnh trong Giu-đa sau khi đất nước bị chia cắt, và tiên tri Ê-sai đã đã cảnh
cáo các lãnh đạo không được nhờ Ê-díp-tô giúp đỡ (30:1-7
31:1-3). Nhưng
Ê-díp-tô không gì khác “cây sậy gãy” sẽ đâm thủng tay bạn nếu bạn dựa vào nó. [50].
Trong IIVua
18:22,30
IISu 32:12 Es
36:7,10,
quan tổng binh cố làm cho dân chúng tin rằng họ không thể nương cậy Giê-hô-va Đức
Chúa Trời của họ để được giải cứu. Làm sao họ có thể tin cậy Giê-hô-va khi
Ê-xê-chia đã dẹp sạch những bàn thờ của Giê-hô-va khỏi thành? Đức Giê-hô-va có
đẹp lòng với việc làm của vua không? Quan tổng binh nầy biết dân Giê-ru-sa-lem
không vui vì họ không còn được thờ phượng ở các bàn thờ đặt ở những nơi cao mà
phải đi đến đền thờ. Nhưng ông ta quá liều mạng khi dám nói rằng ông và quân
A-si-ri đến Giê-ru-sa-lem vì vâng theo mạng lệnh của Đức Giê-hô-va (IIVua 18:25 IISu 36:10
35:21). Xét cho cùng, Đức Giê-hô-va đã dùng
A-si-ri để trừng phạt và tiêu diệt nước Y-sơ-ra-ên, thế thì tại sao Ngài không
dùng A-si-ri thâu tóm Giu-đa?
Quan tổng binh ấy lại nói, nếu dân
Giu-đa đang tin cậy nơi sức mạnh quân sự của họ, họ sẽ gặp khó khăn vì họ không
có đủ ngựa và kỵ binh. Nếu vua thương lượng với San-chê-ríp, quân A-si-ri sẽ mở
vòng vây và dân chúng được sống.
Đáp lại sự ngắt lời của Ê-li-a-kim,
Sép-na, và Giô-a (IIVua 18:26), quan tổng
binh đã đe doa dân chúng trong thành. Nếu họ không đầu hàng, họ sẽ đói và khát
đến nỗi phải ăn phẩn mình và uống nước tiểu mình (18:27
IISu 36:12). Trong 32:11
chép rằng quan tổng binh A-si-ri bắt đầu cảnh cáo dân sự về cái chết đói và
chết khát chắc chắn xảy đến nếu họ không đầu hàng.
Nhưng một năm trước đó, tiên tri
Ê-sai đã nói với Ê-xê-chia rằng Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ Giê-ru-sa-lem và tiêu
diệt A-si-ri (IIVua 20:6 Es 38:4-6), và vua đã loan truyền lời hứa nầy cho
cả dân sự đều biết (IIVua 18:29-30). Một lần
nữa, chúng ta ngạc nhiên vì quan tổng binh đã biết nhiều điều về Ê-xê-chia. Quan
tổng binh ấy đang cố làm mọi thứ có thể để đánh đổ lòng tin của dân sự nơi vua
của họ. Ráp-sa-kê vẽ ra một hình ảnh sáng lạng sẽ xãy ra nếu Giu-đa đầu hàng. Họ sẽ được sống yên bình trong sứ mình,
rồi sẽ được chuyển đến sinh sống ở A-si-ri, một đất nước rất giống nước Giu-đa
(18:1-32 IISu
36:16-17).
Lý lẽ cuối cùng của quan tổng binh
thật võ đoán và không hợp lý: không có một thần nào ở các nước đã bị thu phục
có thể đánh bại San-chê-ríp, nên Giê-hô-va cũng sẽ thất bại (IIVua 18:33-35 IISu
36:18-20). Nhưng Giê-hô-va không giống các thần chết bất lực của các
nước: Ngài là Đức Chúa Trời chân thần và hằng sống! Nghe theo lệnh của vua, dân
chúng trong thành không nói một lời nào với quan tổng binh, và đó là cách tốt
nhất để đáp lại những kẻ kiêu căng dám nhạo báng Đức Giê-hô-va và không biết gì về lẽ thật và sự vĩ đại của Ngài.
Sự khiêm nhường (IIVua 18:37-19:13 IISu
36:22-37:13). Ba quan tướng rời vị trí trở về thành để nói cho Ê-xê-chia
nghe những lời quan tổng binh A-si-ri đã nói. Hạ mình trước Đức Chúa Trời và tự
biết mình bất năng, ba quan tướng xé quần áo mình và cầu xin Đức Chúa Trời giúp
đỡ. Họ kể lại cho vua những gì quan tổng binh A-sa-ri đã nói, và báo cáo của họ
hẳn đã làm Ê-xê-chia đau lòng. Làm thế nào có người kiêu căng như vậy và nhạo
báng danh Đức Chúa Trời như vậy? Ráp-sa-kê đã sỉ nhục Đức Chúa Trời hằng sống
vì liên hệ Ngài với các thần hay chết của các nước.
Vua biết rằng ông cần lời khuyên của
Đức Chúa Trời, nên ông sai các quan tướng đến gặp tiên tri Ê-sai và xin ông cầu
nguyện và tìm kiếm sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời. (Đây là lần đầu tiên Ê-sai
được đề cập trong sách II Các vua). Lối nói ẩn dụ của vua về sự sinh đẻ cho
thấy tình hình rất nguy khốn. Đứa bé đến ngày chào đời nhưng mẹ nó không đủ sức
sinh nó ra, nên tính mạng của hai mẹ con đều bị đe dọa. Vua cũng biết rằng chỉ
có dân sót trong tuyển dân của Ngài trung tín với Ngài (IIVua 19:4,30), nhưng vì dân sót đó và vì Đa-vít, Đức Chúa
Trời sẽ sẳn lòng ra tay.
Ê-sai trấn an Ê-xê-chia (Thi 46:1-3) vì Đức Giê-hô-va đã nghe lời báng bổ
của Ráp-sa-kê và sẽ xử lý San-chê-ríp. Vua A-si-ri sẽ nghe một tin và Đức Giê-hô-va sẽ khiến tâm thần ông kinh hãi đến nổi phải rút
quân về nước. Tin tức đó là Tiệt-ha-ca, vua Ê-díp-tô [51], đang tiến
đến Giu-đa, có nghĩa là San-chê-ríp sẽ phải đương đầu với hai lực lượng(IIVua 19:9 IISu 37:9).
Ông ta không muốn điều đó xảy ra nên cho rút quân và trở về La-ki để chuẩn bị
chiến tranh. Tuy nhiên quan tổng binh đã có lời cuối với Ê-xê-chia, lần nầy ông
đã viết một bức thư (IIVua 19:18-13 IISu 37:8,13) và chỉ lập lại những
gì ông đã nói.
IIVua 19:1-13; xem giải nghĩa
IIVua 18-1-37
3. Ê-xê-chia, người cầu
thay (IIVua 19:14-19) (IISu 32:20 Es 37:14-20)
Khi trước mắt ta là
quang cảnh ảm đạm, hãy cố gắng lạc quan. Đó là những gì Ê-xê-chia làm khi ông
nhận bức thư đầy những lời báng bổ từ vua A-sa-ri. Thường trong chức vụ của tôi
tôi phải mở các bức thư trước mặt Đức Chúa Trời và tin Ngài giải quyết tốt đẹp
mọi chuyện và Ngài luôn luôn làm như vậy.
Ê-xê-chia không nhìn vào ngai vàng
của mình và ngai vàng của “vua lớn” San-chê-ríp nhưng chú tâm đến ngai của Đức
Chúa Trời, Đấng “vẫn ngự ở giữa các chê-ru-bim” (IIVua
19:15 IISu 37:14 Thi 80:1 99:1).
Vì ông không phải là thầy tế lễ cả, Ê-xê-chia không thể bước vào nơi Chí Thánh,
nơi có hòm giao ước với nấp thi ân, nhưng ông có thể “bước vào” bằng đức tin
như các tín đồ ngày nay (He 10:19-25). Ở mỗi
đầu của nắp thi ân có một chê-ru-bim, và nắp thi ân là ngôi của Đức Chúa Trời ở
trên đất (Xu 25:10-22). Không chỉ là Vua của
Y-sơ-ra-ên và là Vua của các nước, Đức Giê-hô-va còn là Đấng Tạo Dựng nên trời
và đất. Ê-xê-chia hết lòng thờ phượng khi ông nhận biết sự vĩ đại của Đức
Giê-hô-va, Đức Chúa Trời chân thần duy nhất. Đây là tấm gương cho chúng ta noi
theo khi trình dâng cho Chúa những vấn đề của mình. Khi chúng ta nhìn xem Đức Giê-hô-va
và thấy được Ngài vĩ đại như thế nào, những vấn đề của chúng ta chắc chắn được
giải quyết.
Vua có đang cưu mang một vấn đề: đó
là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phải được vinh hiển trước mặt các dân trên thế
giới. San-chê-ríp đã nhạo báng Đức Chúa Trời và Ê-xê-chia cầu xin Đức Chúa Trời
thay mặt Giu-đa hành động để danh Ngài được cả sáng (Mat
6:9). Là một người Do thái trung tín, vua biết rằng các thần của các
người chiến bại không phải là thấn gì cả (Es 2:20
40:19-20 41:7
44:9-20). Ông xin
Đức Giê-hô-va giải cứu dân Giu-đa, không vì bản thân họ nhưng vì sự vinh hiển
của danh Ngài. [52]
Một số người thường tìm
kiếm Chúa khi họ gặp khó khăn, nhưng những lúc bình thường Đức Giê-hô-va không
bao giờ nghe tiếng của họ. Vua Ê-xê-chia không như vậy. Ong là người luôn tìm
kiếm Đức Giê-hô-va để cầu xin Ngài ban ơn cho dân sự. Ông tìm kiếm để biết Lời
Đức Chúa Trời và ý muốn của Ngài, và điều nầy thêm sức cho ông trong lời cầu
nguyện. Phước thay cho các dân tộc có những người lãnh đạo biết cầu nguyện!
4. Ê-xê-chia, người
chiến thắng (IIVua 19:20-37) (IISu 32:20-22 Es 37:21-38)
Đức Giê-hô-va bảo tiên
tri Ê-sai truyền sứ điệp của Ngài cho vua,và tiên tri vâng lời. Lời cầu nguyện
của Ê-xê-chia được nhậm gấp ba lần: (1) Đức Chúa Trời sẽ giải cứu
Giê-ru-sa-lem, (2) Đức Chúa Trời sẽ đánh bại quân A-si-ri và họ sẽ rút lui, và
(3) Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ dân sự và họ không phải chết đói. Nhưng Đức Chúa
Trời cũng có lời quở trách San-chê-ríp vì sự kiêu ngạo và báng bổ của ông ta.
Đức tin của Ê-xê-chia được ban thưởng và lời cầu nguyện của ông được nhậm.
Quở trách (IIVua 19:20-28 IISu
37:22-29). Đức Chúa Trời đã dùng A-si-ri để trừng phạt vương quốc phía
bắc Y-sơ-ra-ên, và Đức Giê-hô-va đã cho San-chê-ríp thắng các nước khác, nhưng
vua A-si-ri không bao giờ làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Thật vậy, quan tổng binh
của ông ta còn sỉ nhục danh Đức Giê-hô-va (IIVua
19:4,16,22,24 IISu 37:4,17,23,24) và báng bổ Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Nhưng
“gái đồng trinh Si-ôn” Giê-ru-sa-lem sẽ chê cười sự thất bại của A-si-ri. Đức
Giê-hô-va đã dùng hình ảnh gái đồng trinh vì dân
A-si-ri không thể chiếm đoạt thành và xâm phạm nó như cách những người lính
ngoại bang đã làm với những người nữ bị lưu đày. Nhưng Đức Giê-hô-va đối xử với
A-si-ri như những con vật bị mũi và dắt đi.
Đức Giê-hô-va nói với
Ráp-sa-kê và San-chê-ríp bằng những lời mà họ dùng để khoe khoang về những
chiến công của họ. Xe ngựa chủ yếu chạy treên đất bằng, nhưng họ khoác lác rằng
xe của họ đã lên đến các núi cao ở Li-ban. Đất khô và sa mạc không ngăn được
họ, cả sông suối cũng không. Những vua khác
dùng thuyền bè để vượt sông, nhưng họ làm khô sông Nin và đi qua như đi trên
đất khô. (Có phải ám chỉ đến Y-sơ-ra-ên tai sông Giô-đanh, Gios 4:1-5:15? Không có bằng chứng nào cho thấy
A-si-ri từng chiếm xứ Ê-díp-tô.). Họ đánh sập các thành và giết chết dân chúng
rồi chất họ thành đống như người ta chất cỏ khô, và không có gì có thể ngăm
bước họ.
Nhưng chính Đức Giê-hô-va là Đấng
vạnh ra những cuộc chinh phục nầy và cho A-si-ri chiến thắng (IISu 37:26-27). Dân A-si-ri là vũ khí của Ngài để
trừng phạt Y-sơ-ra-ên và các nước khác và cũng để phạt cả Giu-đa. (Es 10:5-19). Cái búa thật ngu xuẩn khi khoác lác
cùng người tiều phu, và San-chê-ríp đã ngu xuẩn như vậy khi giành về mình những
công trạng mà Đức Chúa Trời đã làm! Thay vì làm vinh hiển Đức Chúa Trời,
San-chê-ríp đã nỗi giận với Ngài (IIVua 19:27
IISu 37:28-29) và tự tâng bốc mình trước Đức
Chúa Trời của thiên đàng. Dù những lãnh đạo ở thế gian có đưa ra lý lẽ hay lời
bào chữa gì đi nữa cho những việc làm của họ, thì nguyên do chính là sự chống
nghịch Đức Chúa Trời và Luật pháp của Ngài (Thi
2:1-6 Cong 4:23-31). Nhưng Đức
Giê-hô-va sẽ đối xử với dân A-si-ri như những con vật bị xỏ mũi và đát đi! Dân
A-si-ri khét tiếng vì đã đối xử như vậy với các tù
binh chiến tranh của họ, nhưng giờ họ chính là những nạn nhân.
Sự cung ứng (IIVua 19:29 IISu 37:30).
Dân A-si-ri đã lấy của cải của Giu-đa, cướp đất và chiếm các thành của họ, và
giờ đây họ đang bao vây Giê-ru-sa-lem. Lương thực có thể nuôi sống được bao
lâu? Và nếu Giê-ru-sa-lem còn sống sót, họ phải mất bao lâu mới lấy lại được
đất, trồng cây và thu hoạch? Quan tổng binh A-si-ri cảnh cáo rằng dân thành
Giê-ru-sa-lem sẽ phải chết vì đói và khát nếu họ không đầu hàng A-si-ri (32:11). Nhưng Chúa của mùa gặt đang cai trị. Tháng
9 và 10 là tháng gieo hạt, và tháng 3 và 4 là tháng thu hoạch. Vười cây ăn trái
và vườn nho cho trái vào tháng 7 đến 9. Chắc chắn quân A-si-ri đến trong mùa
thu hoạch và tịch thu hết lương thực. Trong tình cảnh dân A-si-ri tràn vào xứ
và thành Giê-ru-sa-lem đang bị bao vây, dân sự không thể ra đồng làm việc;
nhưng Đức Chúa Trời hứa rằng khi quân A-si-ri rút lui, thực phẩm sẽ tự mọc lên
cho đến khi người ta có thể bắt đầu công việc đồng án của mình. Đức Chúa Trời
không để cho dân sự Ngài chết đói.
Một số học giả nhận ra có mối liên
quan giữa lời tiên tri nầy với Thi 126:1-6,
một trong những “Bài ca đi lên từ bực”. Thi thiên nầy nói đến sự giải cứu
Giê-ru-sa-lem với nhiều kịch tính và bất ngờ, mà chắc chắn không phải xảy ra
vào cuối kỳ đánh chiếm của người Ba-by-lôn. Có thể nào trong lần giải cứu
Giê-ru-sa-lem khỏi quân A-si-ri nầy Đức Chúa Trời đã giết 185.000 quân lính?
Nếu như vậy, lời cầu nguyện trong 126:4 thật
thích hợp. Khi người ta ra đồng gieo hạt, họ sẽ khóc trong vui mừng vì đất nước
được giải cứu, nhưng họ cũng khóc vì từ hạt giống họ đang gieo, con cái họ có
được bánh ăn. Giống thì khan hiếm nhưng Đức Chúa Trời
chăm sóc dân sự Ngài.
Sự giải cứu (IIVua 19:28,30-37 IISu 32:21-22
37:31-38). Đức Chúa Trời hứa rằng Ngài sẽ
giải cứu “dân sót” của Ngài khỏi tay các kẻ thù và họ sẽ “đâm rễ” và lại sinh
bông trái. San-chê-ríp không bao giờ có thể bước vào thành, ông cũng không thể
bắn một mũi tên nào vào nó, tấn công nó, hoặc đóng quân gần nó! Trong một đêm,
một thiên sứ của Đức Chúa Trời đã giết 185.000 quân lính A-si-ri và chấm dứt sự
vây hãm Giê-ru-sa-lem. Ráp-sa-kê đã khoác lác rằng một người lính tầm thường
nhất của A-si-ri cũng mạnh hơn 2.000 lính kỵ Do thái (36:8-9),
nhưng khi Đức Giê-hô-va muốn giết sạch 185.000 lính A-si-ri, Ngài chỉ cần sai
một thiên sứ của Ngài!
Đây là một thất bại nhục nhã của
A-si-ri, nhưng sự kiện nầy đem lại vinh hiển cho Đức Giê-hô-va và làm rạng danh
Ê-xê-chia (32:23 Thi
126:2-3). San-chê-ríp rút lui về nước, và bi một trong các con trai mình
giết chết. Các thần của ông không thể giúp ông đánh thắng Giu-đa và cũng không
bảo vệ ông khỏi tay của người nhà ông. Tại sao Đức Chúa Trời giải cứu dân sự
Ngài? Vì sự vinh hiển của danh Ngài, dĩ nhiên, và vì Đa-vít là người Ngài yêu
mến (IIVua 19:34). Tại sao ngày nay Ngài ban
phước cho dân sự Ngài? Vì sự vinh hiển của chính Ngài
và vì tình yêu Ngài dành cho Con Ngài là Đấng đã chết thay cho chúng ta.
Sự chết (IIVua 20:20-21 IISu
32:27-33). “Trong mọi việc Ê-xê-chia được hanh thông” (32:30). Nhờ sự ban phước của Đức Chúa Trời,
Ê-xê-chia có được rất nhiều của cải, bầy gia súc, nhiều nhà kho lớn để thâu trữ
lúa và chiếm lợi phẩm. “Ê-xê-chia nhờ cậy nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của
Y-sơ-ra-ên” (IIVua 18:5). Và “Đức Giê-hô-va
ở cùng người; hễ người đi làm sự gì, đều được thành tựu” (18:7). Ông là mẫu người được “phước” như trong Thi 1:1-6, người biết vâng Lời Chúa, suy gẫm nó và
nương cậy nơi quyền năng của Đức Chúa Trời.
Ê-xê-chia không chỉ được Đức Chúa
Trời giúp đỡ, mà còn được dân chúng yêu mến. Ông được chôn chung với các vua ở
Giê-ru-sa-lem, “cả Giu-đa và Giê-ru-sa-lem đều tôn kính người, lúc người thác”
(IISu 32:33). Giống như tất cả chúng ta,
Ê-xê-chia có những lúc sa ngã trong đức tin và thất bại, nhưng rõ ràng, ông là
một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử Do thái.
IIVua 20:1-11; xem giải nghĩa IIVua 18:1-16
IIVua 20:12-19; xem giải nghĩa IIVua 18:17-37
12. SẮP ĐẾN NGÀY CHUNG
KẾT (IIVua 21:1-23:30 IISu 33:1-35:27)
“Chúng ta sống trong sự
u minh của nền văn minh, ở giữa sự suy đồi vô cùng của văn hoá hiện đại”, nhà
thần học lỗi lạc, Carl F. H. Henry, viết. “Những con thú lạ trong sách Đaniên
và Khải huyền dường như đã xuất hiện và đang hoành hành trên đất”. [53].
Những lời tương tự có
thể cũng được viết về Giu-đa trong suốt 3 đời vua được đề cập trong đoạn nầy
Ma-na-se, A-môn và Giô-sia. Dân Do thái đã cho thế gian thấy một Đức Chúa Trời
chân thần và hằng sống, nhưng lúc bấy giờ nhiếu người đã thờ phương các thần
ngoại bang. Y-sơ-ra-ên cho thế gian biết các tiên tri và Kinh Thánh, nhưng hầu
hết các vua Giu-đa không còn lắng nghe Lời Đức Chúa Trời nữa. Giô-si-alà vua
Giu-đa cuối cùng. Đức Giê-hô-va đã hứa gìn giữ ngai Đa-vít để Đấng Cứu Rỗi được
hứa sẽ đến thế gian, nhưng giờ đây chính quyền Giu-đa đang rệu rã và sự tồn tại
của đất nước đang trong cảnh nguy khốn. Tương lai của kế hoạch cứu rỗi của Đức
Chúa Trời dành cho thế gian hư mất tuỳ thuộc vào số dân sót trung tín, là những
người kháng cự sự xâm nhập của văn hoá ngoại lai và giữ được lòng trung kiên
đối với Đức Chúa Trời.
Lời hứa của Đức Chúa
Trời không thay đổi: “Nhược bằng dân sự ta, là dân gọi bằng danh ta, hạ mình
xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt ta, và trở
lại, bỏ con đường tà, thì ta ở trên trời sẽ nghe, tha thứ tội chúng nó, và cứu
xứ họ khỏi tai vạ” (IISu 7:14). Ba vua nầy
đều học được điều gì đó về sự hạ mình. Na-ma-se biết hạ mình khi đã quá trễ (33:12,19) A-môn không bao giờ đầu phục Đức Chúa Trời (33:23); và Giô-si-a thật lòng hạ mình trước Đức
Giê-hô-va và được Ngài sử dụng để cảnh tỉnh dân sự (34:19,27). A. W. Tozer đã viết, “Sự khiêm nhường thật là một điều lành
mạnh; Người khiêm nhường chấp nhận sự thật về chính mình” [54].
1. Ma-na-se - vua nhục
nhã (IIVua 21:1-18) (IISu 33:1-20)
Lại là một điều khó hiểu
trong lịch sử theo Kinh Thánh; vua tin kính Ê-xê-chia lại sinh ra một con trai
gian ác Ma-na-se. Nếu Ma-na-se sinh năm 709, như vậy ông được 7 tuổi khi
vua cha được chữa làmh bệnh và phép lạ về cái bóng xảy ra. Ông được 8 tuổi khi
185.000 binh lính A-si-ri bị giết chết. Rõ ràng những phép lạ nầy không để lại
ấn tượng gì trotn lòng ông. Nhiều học giả nghĩ rằng Ma-na-se đã đồng nhiếp chính
với cha mình trong khoảng 10 năm (697-687), từ 12-22 tuổi, và con trai nầy sống
gần gũi với người cha tin kính của mình [55]. Nhưng ông ta lại trở thành
vua gian ác nhất trong lịch sử Giu-đa; do đó người ta qui tội ông đã làm Vương
Quốc phía Nam sụp đổ (IIVua
24:3 Gie 15:1-4).
Sự gian ác của
Ma-na-se (IIVua 21:1-15 IISu 33:1-10). Ông ta gian ác nhất nhưng lại trị
vì lâu nhất trong lịch sử. Dường như Đức Chúa Trời đã cất tay Ngài khỏi nước
Giu-đa và để mặc cho tất cả sự ô uế trong lòng họ tự nhiên tuôn ra. Trong bản
tánh và đạo đức của mình, ông ta còn gian ác hơn người A-mô-rít mà Giô-sê đã
đánh bại ở Ca-na-an, một nước nổi tiếng là hung bạo và gian ác (IIVua 21:11 Sa 15:16).
Tất cả những gì người cha tin kính của mình đã phá dỡ, Ma-na-se đã xây lại vì ông
dẫn dân sự trở lại thờ thần tượng, kể cả thờ thần Ba-anh. Ông cũng dựng một
hình tượng đáng gớm ghiếc trong đền thờ của Đức Chúa Trời (IIVua 21:3 IISu 33:7,15), và ông còn
cổ vũ dân sự “toàn cơ binh trên trời” (IIVua 21:3,5 Phu 4:19 17:1-7).
Có một bàn thờ trong đền thờ, nhưng Ma-na-se dựng thêm các bàn thờ khác để thờ
các thần tượng khác (IIVua 16:10-16) và như
vậy ông ta xem Giê-hô-va là một “thần” trong số nhiều thần. Tuy nhiên Đức
Giê-hô-va đặt danh Ngài ở duy nhất một nơi đền thờ ở Giê-ru-sa-lem (21:4,7 Phu 12:11 IVua 8:20,29 9:3); và giờ
đây vô số các thần giả cùng chia xẻ vinh quang đó của Ngài. Ma-na-se theo tôn
giáo của thần Mô-lóc và bắt con trai mình đưa qua bàn thờ lửa (Le 18:21 20:1-5),
và ông cầu vấn các linh và bà bóng (IIVua 21:6
IISu 33:6 Le
19:31 Phu 18:11).
Trong sự nhân từ của Ngài, Đức
Giê-hô-va đã sai các tiên tri đến cảnh tỉnh
vua và dân sự, nhưng họ không chịu nghe. Một trong số tiên tri ấy đã phải chết
dưới tay vua (IIVua 21:16), và những người
một lòng trung tín với Đức Chúa Trời chống đối việc thờ các thần giả cũng có
chung một số phận. Đức Chúa Trời nhắc dân sự Ngài rằng sự vui mừng của đất nước
tuỳ thuộc vào sự vâng lời của họ đối với luật pháp Đức Chúa Trời. Đây là điều
kiện cơ bản của giao ước Đức Chúa Trời lập với dân sự Ngài (Le 26:1-46 Phu
28:1-29:29). Đức Chúa Trời hứa gìn giự họ nơi Đất Hứa (IISa 7:10), nhưng giờ đây Ngài cảnhbáo rằng họ sẽ
bị đuổi khỏi xứ và sống rải rác trong các nước khác (Phu
28:64-68 Le 26:33-35). Hình phạt nầy
đã giáng trên Vương Quốc Phía Bắc với sự xâm lược của quân A-si-ri, và nó sẽ
xảy ra cho Giu-đa khi Ba-by-lôn kéo đến (606-586). Thật đáng tiếc là Giu-đa
không rút ra bài học từ hình phạt dành cho Giu-đa.
Chúng ta không biết các tiên tri rao
ra sứ điệp nào trong IIVua 21:10-15, nhưng
không ai có thể hiểu lầm những gì họ nói. Nếu Ma-na-se và dân sự không ăn năn
và xây bỏ con được gian ác của họ, Đức Chúa Trời sẽ trừng phạt họ nghiêm khắc
đến nỗi chỉ cần nghe về nó, tai người ta đã lùng bùng (21:12
ISa 3:11 Gie
19:3). Điều nầy mô tả tâm trang kinh hãi khi nghe tin dữ. Tiếng
Hy-bá-lai salal có nghĩa là “rung, kích
động”, và có liên quan đến cái chập choã và chuông. Khi họ nghe tin quân
Ba-by-lôn kéo đến, họ giật mình giống như nghe tiếng chập choả đột ngột vang
lên! Dậy! Dậy! Nhưng đã quá trễ.
Nhưng Đức Chúa Trời dùng
hình ảnh thứ hai để cảnh giác họ. Là người xây dựng cẩn thận, Ngài đo đất nước
bằng dây dọi của Ngài, nhưng không phải đo để xây dựng mà đo sự sup đổ. Mọi
người đều quen với cảnh thợ nề dùng dây dọi để xây cho bức tường thật thẳng, nhưng không ai
đo một công trình để phá huỷ nó (Es 24:11 Am 7:7-9,17). Những hình phạt của Đức Chúa Trời thật công
bình và Ngài sẽ dành cho họ những gì họ đáng phải nhận, giống như Ngài đã giáng
trên Y-sơ-ra-ên (Sa-ma-ri) những gì nó đáng gánh chịu. Hình ảnh thứ ba mượn từ
hình ảnh bếp núc: Đức Chúa Trời sẽ trút cạn nước Giu-đa và dân sự của nó giống
như người ta giũ sạch nước trên dĩa sau khi rửa chúng. Đây là hình ảnh cho thấy
đất nước hoang vắng vì dân sự chết và bị lưu đày (Gie
51:34).
Từ “từ bỏ” trong IIVua 21:14 có nghĩa là “bỏ mặc cho bị đoán phạt”.
Đức Chúa Trời hứa không bao giờ từ bỏ dân sự (ISa
12:22 IISa 7:23-24), nhưng Ngài cũng
cảnh cáo rằng Ngài sẽ trừng phạt họ nếu họ không vâng lời Ngài. Đức Chúa Trời
không quên lời hứa của Ngài; chính dân sự đã vi phạm giao ước. Đức Chúa Trời
luôn thành tín với giao ước Ngài, ban ơn khi dân sự
vâng lời hoặc trừng phạt khi họ bất tuân.
Sự ăn năn của ma-na-se (IISu 33:11-13,19). Tác giả sách II Các
vua không viết về sự thay đổi đáng ghi nhận nầy trong cuộc đời Ma-na-se, nhưng
chúng ta thấy trong II Sử ký có đề cập đến nó [56]. Rõ ràng bằng cách nào đó ông đã làm vua A-si-ri phật lòng
và Đức Chúa Trời cho phép các quan tướng A-si-ri tiến đánh Giu-đa và bắt vua.
Ông bị dắt đi trong nhục nhã, vì người ta cùm ông lại và xỏ mũi đắt đi (33:11). Ong bị chê cười và nhạo báng, và ông đáng
bị như vậy. Thành Ba-by-lôn là thủ đô thứ hai của A-si-ri thời bấy giờ, và
Ma-na-se bị cầm tù ở đó.
Kinh nhgiệm nầy là sự sỉ nhục lớn
đối với vua gian ác nầy, nhưng Đức Chúa Trời dùng nó để trừng phạt ông, đánh đổ
sự kiêu ngạo trong ông và khiến ông quì xuống mà hạ mình trước Ngài. Ong đã cầu
nguyện xin Chúa tha thư và Đức Chúa Trời giữ lời hứa của Ngài và tha thứ cho
ông (7:14). Hơn nữa, Đức Giê-hô-va đã cảm
động lòng dân A-si-ri và họ đã cho ông về Giê-ru-sa-lem để cai trị dân sự. Dấu
hiệu rõ ràng của ân điển Đức Chúa Trời! Ma-na-se đã hạ mình (33:12), nhưng Đức Chúa Trời đã hạ ông xuống trước
(33:19). Sự ăn năn thật là việc làm của Đức
Chúa Trời trong lòng và sự sẳn sàng đáp ứng với Đức
Chúa Trời.
Sự cải thiện của
Ma-na-se (IISu 33:14-18,20).
Khi ông trở về quê hương, Ma-na-se chứng minh sự thay đổi thật lòng của mình;
ông đã sửa lai tất cả những sự gian ác ông đã làm. ông củng cố Giê-ru-sa-lem và
các thành khác ở Giu-đa, ông dọn sạch tượng của ông khỏi đến thờ (33:7,15), và ông cũnf dẹp khỏi đền thờ tất cả bàn thờ
mà ông đã dựng cho các thần giả. Sau khi thanh tẩy đền thờ, ông tu sửa bàn thờ
của Đức Giê-hô-va mà bị lãnh quên bấy lâu, và dâng của lễ tạ ơn cho Đức
Giê-hô-va là Đấng giải cứu ông. Ông ra lệnh cho dân Giu-đa hầu việc Đức
Giê-hô-va và ông làm gương cho họ. Ông cho phép họ dâng các của lễ ở những nơi
cao, nhưng không phải cho các thần giả chỉ cho một mình Đức Chúa Trời của
Y-sơ-ra-ên. “Vậy, các ngươi hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn”, Giăng Báp-tít
đã nói với người Pha-ri-si và Sa-đu-sê như vậy (Mat
3:8), và đó chính xác là những gì Ma-na-se đã làm.
Sau một thời gian dài trị vì,
Ma-na-se đã băng hà và được chôn trong vườn nhà mình, không phải trong các lăng
mộ của các vua (IISu 28:27).
2. A-môn - cứng lòng vì
không vâng lời (IIVua 21:19-26) (IISu 33:21-25)
Sau khi ăn năn, Ma-na-se
nổ lực sửa lại tất cả những thiệt lại mà ông đã làm cho Giê-ru-sa-lem và
Giu-đa, nhưng có một nơi ông không thể thay đổi được tấm lòng của A-môn, con
trai ông. Người trai trẻ nầy bị ảnh hưởng nặng nề bởi những tội lỗi của cha
mình nên khó có thể sống một cuộc đời vâng phục Chúa, và chắc chắn có một số quan quân trong
cung khuyến khích ông vẫn giữ con đường gian ác củ. Trong khi Ma-na-se hạ mình
trước Chúa, A-môn con trai ông lại không như vậy (33:23),
và ông càng phạm tội lâu ngày, tấm lòng ông càng chai cứng.
“Tiền công của tội lỗi là sự chết” (Ro 6:23). Chúng ta không rõ tại sao các quan tướng
của A-môn ám sát ông, nhưng lý do hầu như không mang tính thuộc linh. Trong khi
Luật Pháp Môi-se có qui định rõ rằng ai thờ thần tượng sẽ bị giết chết (Phu 13:1-18), nhưng không ai trong xứ có quyền
phán xét vua khi vua thờ thần tượng. Rất có thể những người rắp tâm ám sát vua
quan tâm đến chính trị hơn. A-môn là người ủng hộ A-si-ri, họ đã tha cho cha
ông trong khi các quan tướng ủng hộ Ba-by-lôn, và không nhận ra rằng sự phát triển của Ba-by-lôn đồng nghĩa với sự sụp đổ của Giu-đa.
Con trai của A-môn là Giô-si-a ủng hộ Ba-by-lôn và đã bỏ mạng nơi chiến trường
vì cố ngăn quân Ê-díp-tô giúp đỡ quân A-si-ri chống lại Ba-by-lôn. Việc dân sự
lập Giô-si-a làm vua kế vị cho thấy rằng họ không muốn vua mình ủng hộ A-si-ri.
3. Giô-si-a - hạ mình
bởi Lời Đức Chúa Trời (IIVua
21:19-26 IIVua 22:1-23:30) (IISu 34:1-35:25)
Trong số 20 vua Giu-đa,
kể cả Hoàng hậu A-tha-li, chỉ có 8 vua có thể được gọi là “tốt”: A-sa,
Giô-sa-phát, Giô-ách, A-ma-xia, Ô-xia, Giô-tham, Ê-xê-chia và Giô-sia. Chắc
chắc Giô-si-a là vị vua lớn, vì tiên tri Giê-rê-mi đã nêu gương ông trước những
vua kế tiếp. “Người đã làm ra lẽ thẳng cho kẻ nghèo và thiếu thốn” Giê-rê-mi
nói về Giô-si-a, trong khi các vua sau
Giô-si-a bóc lột dân sự để xây cugn điện nguy nga cho mình (Gie 22:11-17). Giô-si-a cai trị khoảng 31 năm
(640-909) và bước đi trong đường lối của Đức Chúa Trời vì ông noi theo gương
Đa-vít. Chắc chắn mẹ của vua là một người tin kính Chúa và khôn khéo dạy dỗ con
trai bà. Ông lên ngôi khi mới được 8 tuổi, nên các quan trong triều là những người cố vấn của ông, nhưng khi được 16 tuổi,
Giô-si-a đã dâng mình cho Chúa và bắt đầu tìm kiếm ơn phước của Ngài.
Thanh tẩy đất nước (IIVua
24:3-7). Ê-xê-chia đã thanh tẩy sau A-cha, và ma-na-se đã thanh tẩy sau
những việc làm gian ác của chính mình, và giờ đây vua Giô-si-a, ở tuổi 25, phải
sử lại những thiệt hại mà A-môn cha mình đã gây ra. Thật là một thảm kịch vì
không phải tất cả những vua Giu-đa đều vâng giữ luật pháp của Đức Chúa Trời và
hướng dẫn dân sự làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Bốn vị vua sau Giô-si-a không làm
tất cả những điều thiện như ông đã làm và đã bán nước vào tay dân Ba-by-lôn.
Đất nước thăng trầm theo từng đời vua, và vua trẻ Giô-si-a là một người lãnh
đạo thuộc linh nhiệt tâm của dân sự. Ông tìm kiếm Đức Chúa Trời trong 4 năm và
giờ đây ông được chuẩn bị để thanh tẩy đất nước mình.
Ông cho dẹp sạch những nơi cao và
kêu gọi dân sự trở về thờ phượng Chúa tại đền thờ Giê-ru-sa-lem. Ông phá huỷ
những thần tượng và bàn thờ cho thần ba-anh và các thần khác, và ông phá những
nơi mà dân sự thường đến để thờ phượng các thần nầy. Sau khi thanh tẩy
Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ông đi về phía bắc Y-sơ-ra-ên (Ma-na-se, Ép-ra-im,
Nép-ta-li) và giải phóng khu vực thờ thần tượng đó. Lưu ý là vua Giu-đa có thể
đi đến những chi phái ở Y-sơ-ra-ên (Sa-ma-ri) và có quyền trên vùng đó như vậy,
nhưng rất nhiều người từ Ép-ra-im, Ma-na-se, Y-sa-ca và Sa-bu-lôn đã đến dự lễ
Vượt Qua của Ê-xê-chia , sau đó họ trở về quê nhà và sống đẹp lòng Đức Chúa
Trời (IISu 30:18). Qua 34:7, chúng ta biết rằng
đích thân vua đã thực hiện 3 chuyến đi nầy và hướng dẫn dân chúng trừ khử nạn
thờ thần tượng ra khỏi xứ [57].
Tu sửa đền thờ (IIVua 22:3-7 IISu
34:8-13). Năm thứ 18 thời trị vì của Giô-si-a thật sự là năm vàng son.
Ông tu sửa đền thờ Đức Giê-hô-va và tìm thấy Quyển sách Luật Pháp ở đó; ông lập
giao ước với Đức Chúa Trời; ông tiến hành những cuộc cải cách trong xứ, và tổ
chức lễ Vượt Qua thật lớn. Lúc đó ông được 26 tuổi. Vua lên kế hoạch tu sửa đền
thờ, và người xúc tiến kế hoạch đó là Sa-phan, cha của một gia đình đặc biệt.
Con trai của ông là Ghê-ma-ria cùng với một số người khác đã khuyên Giê-hô-gia-kim
đừng đốt sách của Giê-rê-mi, và Mi-chê, cháu ông đã nghe Ba-rúc đọc sách thứ
hai của Giê-rê-mi tại đền thờ và tường thuật lại cho các thư ký của vua (Gie 36:11). Ê-lê-a-sa, con trai khác của ông, đã
mang thư của Giê-rê-mi cho dân Do thái bị lưu đày ở Ba-by-lôn (29:1-23), và con trai A-hi-cam của ông là một
trong những người bàn luận với nữ tiên tri Hun-đa về Quyển Sách Luật Pháp (IVua 22:12-20). A-hi-cam cũng cầu xin vua
Giê-hô-gia-kim không giết tiên tri Giê-rê-mi (Gie
26:16-24). Sau khi Giu-đa và Giê-ru-sa-lem sụp đổ, cháu của Sa-phan là
Ghê-đa-lia được kể tên là quan trưởng của Giu-đa. Con trai duy nhất đáng thất
vọng trong số 4 con trai của ông là Gia-a-xa-nia, người nầy đã thờ thần tượng
trong đền thờ của Đức Giê-hô-va (Exe 8:11-12).
Dân sự đã đóng góp tiền để sửa sang
đền thờ (c.4), nên vua ra lệnh cho thầy tế lễ cả Hinh-kia phát tiền cho công
nhân và tiến hành tu sửa đền thờ. Chỉ loại trừ sự thờ thần tượng trong xứ thôi
chưa đủ, đề thờ phải được chuẩn bị để thờ phương Đức Chúa Trời chân thần và
hằng sống. Như với đền thờ được tái thiết trong thời Giô-ách (IIVua 12:1-19), những công nhân nầy rất trung
thành và không cần phải lưu lại những sổ sách tì mỉ. Người lãnh đạo là một quản gia, và họ phải thực hiện bổn phận ấy với sự liêm
chính và bảo đảm tiền của Đức Chúa Trời phải được sử dụng một cách khôn ngoan.
Tìm được Kinh Thánh (IIVua 22:8-20 IISu
34:14-28). Điều đặc biệt là Quyển Luật Pháp bị
mất trong đền thờ! Quyển nầy có thể là
5 sách của Môi-se, nhưng Sa-phan “đọc sách đó” có nghĩa là ông đọc những phân
đoạn mà vua chọn, có thể từ sách Phục truyền. [58]. Sa-phan báo cáo cho vua
về công tác xây dựng và sau đó, như một lời nói thêm, ông kể về quyển sách vừa
tìm được. Giô-si-a muốn biết sách đó viết gì, và khi nghe Sa-phan đọc, vua bị
tác động mạnh vì sợ hãi và đau lòng. Cách người ta phản ứng trước Lời Đức Chúa
Trời cho thấy được sự khao khát thuộc linh và mong muốn làm Đức Chúa Trời đep
lòng của họ.
Nếu thật sự Sa-phan đọc
từ sách Phục truyền, thì các đoạn từ 4-13 sẽ làm Giô-si-a bị cáo trách vì những
việc gian ác mà dân sự đã
làm. Từ đoạn 14-18 sẽ làm ông lo âu vì những việc dân sự không làm, và giao ước từ đoạn 27-30 sẽ cảnh
cáo ông về những việc Đức Chúa Trời sẽ làm
nếu dân sự không ăn năn. Trong các điều khoản của giao ước Ngài, Đức Giê-hô-va
nói rõ rằng dân sự sẽ bị trừng phạt nặng nề nếu họ không vâng theo Luật pháp
của Ngài. Vua bị kích động sâu sắc đến nỗi đã xé áo
mình và triệu tập thầy tế lễ cả và các quan tướng đến để cầu vấn Đức Giê-hô-va
về tình trang thuộc linh của dân Giu-đa. Bấy giờ, Giô-si-a được 26 tuổi và đã
tìm kiếm Đức Giê-hô-va chỉ 10 năm trở lại đây, nhưng đáp ứng của ông đối với
Lời Đức Chúa Trời giống như sự đáp ứng của một tín đồ trưởng thành.
Hinh-kia không hỏi ý kiến Giê-rê-mi về vấn đề nầy, cũng không hỏi tiên tri Sô-phô-ni,
người có họ hàng với Giô-si-a (So 1:1), là
người đang thi hành chức vụ trong khoảng thời gian nầy. Có lẽ Giê-rê-mi không ở
trong thành nhưng ở nhà mình tại Anathoth, và Sô-hô-ni cũng không có mặt tại
Giê-ru-sa-lem. Nhưng các quan tướng của vua tìm được
một đầy tớ có khả năng, nữ tiên tri Hun-đa, vợ của Sa-lum có nhiệm vụ giữ áo lễ. [59]. Ngoài Hun-đa, trong Kinh Thánh có nhắc đến các
nữ tiên tri khác như
Mi-ri-am (Xu 15:20), Đê-bô-ra (Cac 4:4), Nô-a-đia (Ne
6:14), vợ của tiên tri Ê-sai (Es 8:3),
An-ne (Lu 2:36), và 4 con gái của nhà truyền
giáo Phi-líp (Cong 21:8-9).
Sứ điệp của Hun-đa có hai phần. Phần
thứ nhất (IIVua 22:15-17 IISu 34:23-25) nói với “người sai các ngươi đến
ta”, nghĩa là Giô-si-a cũng là một người bình thường trước Luật pháp của Đức
Chúa Trời, giống như những người khác ở Giu-đa và Y-sơ-ra-ên. Phần thứ hai (IIVua 22:18-20 IISu
34:23-25) nói với “vua Giu-đa”, tức là Giô-si-a là một cá nhân với những
nhu cầu và sự quan tâm thuộc linh. Về phần dân sự, Đức Chúa Trời sẽ giáng cơn
thạnh nộ Ngài xuống vì họ hết lần nầy đến lần khác không vâng theo lời Ngài,
nhưng về phần Giô-si-a, Ngài sẽ tha ông khỏi sự đoán phạt hầu đến vì đời sống
tin kính và khiêm nhường của ông trước mặt Đức Chúa Trời (IISu 3:12,23). Dù Giô-si-a đã chết vì bị thương ngoài chiến
trường, ông đã được đem về chôn an toàn tại Giê-ru-sa-lem vì Nê-bu-cát-nết-sa
và quân đội của ông chưa xâm chiếm xứ. Đức Chúa Trời gọi Giô-si-a về với Ngài
trước khi sự đoán phạt kinh khiếp đổ xuống.
Lập giao ước với Đức
Chúa Trời (IIVua 23:1-3 IISu 34:29-33). Các quan tướng báo lại với vua sứ
điệp của nữ tiên tri Hun-đa, vua lập tức triệu tập các trưởng lão, các thầy tế
lễ và các tiên tri, cùng với dân sự trong xứ và cùng chia sẻ sứ điệp đó với họ.
Sau đó ông kêu gọi họ cùng ông lập giao ước với Đức Chúa Trời . “Nhắc lại giao
ước” là sự kiện rất quen thuộc trong lịch sử Do thái. Khi một thế hệ mới sắp
bước vào Ca-na-an, Môi-se bảo họ làm khôi phục giao ước, như được ghi lại trong
sách phục truyền. Giô-si-a kêu gọi lập lại giao ước hai lần (Gios 8:34,24), và Sa-mu-ên cũng vậy (ISa 7:2 12:1). Sau khi
Nê-hê-mi và dân sự tu sửa xong các vách thành Giê-ru-sa-lem, E-xơ-ra hướng dẫn
họ tái dâng mình cho Đức Giê-hô-va (Ne 8:1-10:39).
Ngày nay chúng ta không bao giờ được nghĩ rằng vì Hội thánh chúng ta đang phát
triển và chức vụ của chúng ta đang hưng thịnh thì tất nhiên dân sự của Đức Chúa
Trời đang ở trong tình trạng tốt nhất. Có những lúc cả hội thánh cần khôi phục
tinh thần tận hiến cho Chúa; đó là việc làm phải lẽ.
Vua đứng gần cột trụ của đền thờ (IIVua 11:14) và đọc Luật pháp cho hội chúng. Vua
hứa với họ sẽ bước đi trong sự vân fphũc và tận tuỵ theo Đức Chúa Trời. Ông làm
gương cho họ vì nếu vua không bước theo Chúa thì làm sao Đức Chúa Trời có thể
ban ơn cho dân sự Ngài? Buổi họp mặt nầy không phải là buổi thuyết trình “một
quốc giáo” mà mọi người phải vâng theo vì vua ra lệnh. Những gì Giô-si-a kêu
nài là sự đầu phục của họ đối với Đức Giê-hô-va bằng
cả tấm lòng và linh hồn trong sự ngay lành và chân thật.
Cải cách đất nước (IIVua 23:4,20 IISu 34:33).
Vua bắt đầu thực thi những điều khoản trong giao ước và vâng theo luật pháp của
Đức Giê-hô-va. Thứ nhất, ông dẹp khỏi đền thờ mọi thứ thuộc về sự thờ lạy thần
tượng, thiêu huỷ chúng tại trũng Xết-rôn, đem tro đến Bê-tên và rải nó ra làm ô
uế miếu thờ bò con vàng mà Giê-rô-bô-am I xây dựng. Ông cũng phá hủy miếu đó và
đập vỡ mọi thứ liên quan đến nó (IIVua 23:15
Os 10:5 So 1:4).
Ông đem tượng thần nổi tiếng của Ma-na-se ra khỏi đền thờ (IIVua 21:7 IISu 33:7),
thiêu và nghiền nó ra thành bụi, và rắc tro đó lên nồ mả của những người từng
thờ lạy nó để làm ô uế chúng. Giô-si-a vâng theo Phu
23:17-18 phá hủy nhà của phường đĩ-điếm (IVua
14:24 15:15).
Ông cũng cắt chức những thầy tế lễ ở
những nơi cao trong xứ Giu-đa (IVua 23:8) từ
biên giới phía bắc (Ghê-ba) đến biên giới phía nam(Bê-ê-Sê-ba), là dơ bẩn những
nơi đó, và dẫn các thầy tế lễ ấy về Giê-ru-sa-lem. Họ không được phép hầu việc
tại bàn thờ trong đền thờ, nhưng họ được chia phần thức ăn từ các của lễ. Sau
đó, vua đi đến Tô-phết, nơi người ta dâng con mình qua lửa cho thần Mo-lóc, và
làm ô uế nó. (Es 30:33 Gie 7:31-32 19:6,11-14) Ông diệt
trừ các con ngựa được dâng cho thần mặt trời và hủy các cổ xe trong lửa. Không
thể tưởng tượng ngựa được nuôi trong khu vực đền thờ! Vua phá đổ và dẹp bỏ các
bàn thờ dành cho các cơ binh trên trời mà A-cha đã xây trên nóc các công trình
của đền thờ (IIVua 16:1-4,10-16 21:3,21-22), Ê-xê-chia đã dẹp bỏ những bàn thờ nầy
nhưng sau đó Ma-na-se cho xây lại. (Gie 19:13
IISu 32:29) Ông cũng dỡ đi những bàn thờ mà
Ma-na-se đặt trong sân đến thờ. Tất cả chúng được chất đống và quăng vào hố rác
trong trũng Xết-rôn.
Trên sườn phía nam núi Ô-li-ve,
Sa-lô-môn cho xây những bàn thờ để các bà vợ ngoại bang của ông có thể đến đó
thờ lạy các thần của họ (IIVua 11:5-7), và
những bàn thờ và các thần tượng nầy cũng bị Giô-si-a dẹp bỏ và phá huỷ. Để đảm
bảo vùng đó không thờ thần tượng nữa, ông đã chôn các hài cốt ở đó và làm nó ra
ô uế (Dan 19:16). Ông còn tiến hành chiến
dịch thanh tẩy nầy ở Sa-ma-ri và phá huỷ đền miếu tại Bê-tên mà Giê-rô-bô-am đã
dựng (IVua 12:28-33). Ông khai quật hài cốt
của các tiên tri của Bê-tên, được chôn gần đó, và thiêu chúng trên bàn thờ và
rải tro để là ô uế khu vực đó. Như vậy, Giô-si-a đã làm ứng nghiệm lời tiên tri
được rao ra 3 thế kỷ trước (IVua 13:31-32).
Khi Giô-si-a thấy phần mộ của người của Đức Chúa Trời, là người đã tiên tri
những sự việc đó, ông ra lệnh giữ nó nguyên vẹn.
Những gì Giô-si-a làm tại Bê-tên,
ông cũng làm ở khắp xứ Sa-ma-ri, và huỷ các thần tượng và đền miếu của chúng,
và giết những thầy tế lễ hầu việc tại các bàn thờ của chúng (Phu 13:6-11 18:20).
Đừng lẫn lộn các thầy tế lể thờ thầ tượng trong câu 20 với các thầy tế lễ không
vâng lời trong câu 8. Các thầy tế lễ không vâng lời sống ở Giê-ru-sa-lem nhưng
không được phép hầu việc trong đền thờ nữa. Cuối cùng, Giô-si-a trừ diệt những
bà bóng và phù thuỷ các loại trong xứ (IIVua 23:24),
là những người từng được Ma-na-se ủng hộ (21:6).
Nhưng dù cho Giô-si-a có làm những điều tốt đep đó, ông không thể ngăn Đức Chúa Trời đoán phạt dân Giu-đa. Tội lỗi của Ma-na-se quá lớn
đến nỗi không có gì làm Đức Chúa Trời nguôi giận mà không trừng phạt dân sự
Ngài.
Tổ chức lễ Vượt Qua (IIVua 23:21-23 IISu
35:1-19). Với lòng kính trọng Giô-si-a đã noi theo gương Ê-xê-chia thanh
tẩy đất nước thờ thần tượng, tu sửa đến thờ và phục hồi sự thờ phượng chân
chính, và tổ chức một lễ Vượt Qua trông đại tại Giê-ru-sa-lem. Trong khi tất cả
các lễ được Lêvi 23 đề cập đều quan trọng và đáng nhớ, thì lễ Vược Qua đặc biệt
có ý nghĩa. Lý do thứ nhất, lễ Vượt Qua nhắc dân Do thái về nguồn gốc của dân
tộc mình khởi đầu khi được Đức Chúa Trời giải cứu ra khỏi Ê-díp-tô thoát cảnh
nô lệ. Nó là sự phát lộ ân điển và quyền năng của Đức Chúa Trời. Ngài đem họ
đến với Ngài là dân sự của chính Ngài và lập giao ước với họ tại núi Si-na-i. Họ
là tuyển dân của Đức Chúa Trời, dân giao ước của Đức Chúa Trời, một dân tộc làm
vinh hiển danh Đức Chúa Trời.
Ê-xê-chia đã tổ chức lễ Vướt Qua
trong tháng hai, nhưng Giô-si-a tồ chức suốt tháng Giêng. Trong II Sử ký 35 có
nhấn mạnh đến người lê-vi và chức vụ quan trọng của họ trong lễ Vượt Qua
(c.2,5,8-12,14-15,18). Theo IIVua 23:22 và IISu 35:18, lễ Vượt Qua lần nầy lớn hơn lần
Ê-xê-chia tổ chức vì “cả dân Giu-đa, và Y-sơ-ra-ên có mặt tại đó” (35:18 30:18).
Lễ Vượt Qua thời Ê-xê-chia kéo dài hai tuần, nhưng trong lễ Vượt Qua thời
Giô-si-a người ta dâng của lễ nhiều gấp hai lần. Ít nhất có đến 37.600 các con
sinh tế nhỏ và 3.800 bò đực. Các thầy tế lễ và người Lê-vi dọn mình và được
thanh tẩy, sẳn sàng phục vụ, và có nhiều người Lê-vi chơi đàn và hát ngơi khen
Đức Giê-hô-va.
Giô-si-a vâng theo những gì ông đọc
được trong luật pháp của Đức Chúa Trời.
Vua Giô-si-a nhắc nhở người Lê-vi về
việc khiêng hòm giao ước (35:3), điều ấy có
ý nghĩa gì? Khiêng hòm giao ước là trách nhiệm của người Kê-hát (Dân số 4), nhưng
dân sự lú cbấy giờ không còn là dân du cư nữa và hòm giao ước được đặt ở nơi
Chí Thánh trong đền thờ. Bởi vì Sách Luật Pháp đã được đặt sai chỗ, và nó phải
được giữ trong hòm giao ước (Phu 31:24-29),
người ta đoán rằng có lẽ hòm giao ước lúc nầy không có ở trong đền thờ mà người
giấu đâu đó trong suốt những năm đen tối của ma-na-se và vì vậy hòm giao ước và
Sách Luật Pháp không ở chung một chỗ. Người ta cũng nghĩ rằng Ma-na-se đã thay
thế hòm giao ước bằng hình tượng mà ông ta dựng nên và thờ lạy (IIVua 23:4-6 33:7).
Từ Hy-bá-lai dịch là “để” trong 35:3 có thể
được dịch là “để lại”, nên ý nghĩa của mệnh lệnh đó có thể là, “Đừng khiêng hòm
giao ước chúng ta không cần làm việc đó trong lúc nầy. Chúng ta không còn là
dân lưu lạc.” Một số người Lê-vi cuồng nhiệt muốn có thêm sự hiện diện của hòm
giao ước trong kỳ lễ trọng thể nầy, dù luật pháp không yêu cầu như vậy.
Giô-si-a cai trị trong thời gian
A-si-ri đang suy sụp dần và Ba-by-lôn chưa đạt đến thời kỳ hưng thịnh nhất của
nó, khoảng thời gian nầy tương đối hoà bình, dân chúng có thể an toàn đi lại. Lễ Vượt Qua tổ chức đúng thời điểm thuận lợi cho cả
dân Giu-đa và Sa-ma-ri. Dân sự của Đức Chúa Trời cần nhiều dịp như thế nầy để
có thể cùng tôn vinh Đức Giê-hô-va và sự tốt lành của Ngài và cùng thông công
với nhau.
Dâng cuộc đời ông cho
Chúa (IIVua 23:28-30 IISu 35:20-27). Ni-ni-ve, kinh đô của A-si-ri, bị
người Ba-by-lôn và Mê-đi chiếm năm 612 T. C, và quân A-si-ri thật sự đã suy
sụp. Năm 608 T.C., Pha-ra-ôn Nê-cô dẫn đội quân của mình từ Ê-díp-tô đến hổ trợ
A-si-ri tấn công Ba-by-lôn. [60]. Giô-sia-a
là người ủng hộ Ba-by-lôn và không thích việc quân Ê-díp-tô hành quân ngang
biên giới phía tây củ Giu-đa, nên ông cầm quân Giu-đa chống lại họ. Hai đội
quân gặp nhau tại Mê-ghi-đô, khoảng 50 dặm phía bắc Giê-ru-sa-lem, và ở đó
Giô-si-a bị thươgn nặng. Các quan tướng của ông đem ông về đến Giê-ru-sa-lem,
ông qua đời ở đó và được chôn trong lăng mộ của các vua.
Giô-si-a không được lệnh từ Đức Chúa
Trời để can thiệp vào sự bất hoà giữa Ê-díp-tô và A-si-ri, nhưng Pha-ra-ôn
Nê-cô nhận rằng Đức Giê-hô-va ra lệnh cho ông giúp A-si-ri. Theo IISu 35:22, sứ điệp nầy là “lời Đức Chúa Trời cậy
Nê-cô mà phán ra”. Ê-díp-tô và A-si-ri thất bại trong nổ lực kìm hãm Ba-by-lôn,
nhưng sự thất bại của Giô-si-a trước Nê-cô đã tạo cơ hội cho Ê-díp-tô kiểm soát
GIu-đa trong một vài năm (36:3-4). Giô-si-a
được dân Giu-đa thươgn khóc rất nhiều và Giê-rê-mi đã viết những bài ai ca để
tôn vinh ông (IIVua 35:25 Gie 22:10). Những bài ai ca nầy đã thất lạc và
chúng ta đừng nhầm lẫn chúng với sách Ca-thương.
Từ cái chết của Giô-si-a năm 608 T.C
đến sự sụp đổ Giê-ru-sa-lem dưới tay Ba-by-lôn năm 586 khoảng thời gian 22 năm
có 4 vua khác nhau cai trị trên ngôi Đa-vít, ba trong số đó là các con trai của
Giô-si-a. Giô-a-cha và Giê-hô-gia-kin mỗi người cai trị chỉ được 3 tháng. Đây
là khoảng thời gian buồn của dân sự Đức Chúa Trời, nhưng vẫn còn một nhóm người
có đức tin bước đi theo Đức Chúa Trời và giúp thế hệ sau tìm kiếm và nhận biết
Đức Giê-hô-va.
IIVua 22:1-20; xem giải nghĩa IIVua 21:19-26
IIVua 23:1-28; xem giải nghĩa IIVua 22:1-20
13. ĐẾN NGÀY CHUNG KẾT
(IIVua 23:29-25:30 IISu 36:1-23)
“Mọi dân tộc lớn đều sụp
đổ vì tự kết liễu”. Một lãnh đạo chính trị Anh, Richard Cobden đã nhận xét như
vậy, và câu nói ấy được minh họa trong lịch sử của nước Giu-đa. Những diễn biến
bất ngờ về chính trị và quân sự từ bên ngoài đã tiêu diệt Giu-đa. Nước Giu-đa
tự kế liễu vì nó đã băng hoại về đạo đức và thuộc linh từ bên trong. Nhưng đoạn
Kinh Thánh nầy cho chúng ta biết một câu chuyện buồn về những năm cuối cùng của
một nước lớn. Chúng ta có thể thấy những bước xuống dốc của họ và những quyết
đinh của các vua họ đã dẫn dân sự đi đến chỗ diệt vong.
1. Họ mất tự do (IIVua 23:29-33) (IISu 35:20-36:1-4)
Vua Giô-si-a là một
người tin kính, thật tâm muốn hầu việc Đức Giê-hô-va, nhưng ông đã phạm một sai
lầm ngớ ngẫn khi tự động tấn công Pha-ra-ôn Nê-cô. Sự can thiệp của ông voà
chuyên của quân Ê-díp-tô là một quyết định mang tính cá nhân, không phải là
mạng lệnh của Đức Giê-hô-va. Giô-si-a muốn ngăn chặn Pha-ra-ôn Nê-cô giúp đỡ
A-si-ri đánh Ba-by-lôn; ông không nhận ra chính Ba-by-lôn, không phải A-si-ri,
là kẻ thù lớn nhất của Giu-đa. Giô-si-a bị thương nặng vì bị trúng tên ở
Mê-ghi-đô và băng hà tại Giê-ru-sa-lem. Với cái chết của Giô-si-a, vương quốc
Giu-đa đã mất tự do và trở thành nước lệ thuộc Ê-díp-tô. Tình trạng nầy kéo dài
từ 609 đến khoảng 606, và sau đó Ê-díp-tô rút lui và Ba-by-lôn tiếp quản.
Theo ISu
3:15-16, Giô-si-a có 4 con trai Giô-ha-nan; Ê-li-a-kim, sau đổi tên
thành Giê-hô-gia-kim; Ma-tha-nia, sau đổi tên thành Sê-đê-kia; và Sa-lum, cũng
được biết với tên Giô-a-cha. Chúng ta không biết gì về Giô-ha-nan, có lẽ người
nầy chết khi còn nhỏ. Khi Giô-si-a băng hà, dân sự tôn con trai út của Giô-si-a
là Giô-a-cha lên ngôi và bỏ qua các con trai lớn. Giô-a-cha là tên ông lấy sau
khi lên ngôi, Sa-lum là tên ban đầu của ông (Gie
22:11). Rõ ràng Giêrêmi được đề cập trong 23:31
không phải là tiên tri Gê-rê-mi vì ông nầy sống độc thân (16:1-2).
Giô-a-cha trị vì chỉ được 3 tháng.
Khi Nê-cô và đội quân mình trở về Ê-díp-tô, ông phế trất Giô-a-cha là đưa
Ê-li-a-kim lên thay, đặt tên lại là Giê-hô-gia-kim, ông ta đánh thuế rất nặng
trên nước Giu-đa. Rất có thể Giê-hô-gia-kim là người ủng hộ Ê-díp-tô trong
chính sách mình, trong khi Giô-a-cha thích liên minh với Ba-by-lôn như cha
mình. Pha-ra-ôn gặp Giô-a-cha trong các doanh trại chính của Ê-díp-tô tại
Ríp-la và bắt ông ta dẫn về giam cầm tại Ê-díp-tô, rồi Giô-a-cha đã qua đời ở
đó. tiên tri Giê-rê-mi đã tiên báo sự kiện nầy. Ông bảo dân sự đừng than khóc
vì cái chết của Giô-si-a mà hãy than khóc cho sự lưu đày của con trai kế vị của
Giô-si-a, vì con trai ông sẽ không bao giờ được thấy lại Giu-đa lần nào nữa (22:10-12). Nhưng không giống Giô-si-a, vua cha tín
kính, Giô-a-cha là người không tin kính Chúa và là vua gian ác và đáng bị lưu
đày.
Giê-hô-va gọi Y-sơ-ra-ên là “là một
dân ở riêng ra, sẽ không nhập số các nước” (Dan
23:9). Đức tin của họ phải đặt nơi một mình Đức Giê-hô-va, không phải
nơi những kết ước và sự thỏa hiệp qua những cuộc thương thuyết khôn khéo.
Y-sơ-ra-ên là “một nước thầy tế lễ, cùng một dân tộc thánh” thuộc về riêng Đức
Chúa Trời (Xu 19:5-6 Phu 7:6-11). Chính Sa-lô-môn đã dẫn Y-sơ-ra-ên từ tình trạng cô
lập bước vào vũ đài quốc tế. Ông đã cướ 700 bà vợ (IVua
11:3), hầu hết trong số đó là kết quả của những hiệp ước với cha hoặc
anh họ, là những người đang làm vua và có tầm ảnh hưởng lớn. Những hiệp ước nầy
mở đường cho của cải chảy vào kho của Y-sơ-ra-ên và ngăn chặn chiến tranh,
nhưng cuối cùng cả vua Sa-lô-môn và dân Y-sơ-ra-ên bị sa vào sự thờ lạy các thần
tượng của những nước xung quanh (11:1-3).
Nếu dân Do thái vâng theo Đức Chúa
Trời và gìn giữ giao ước Ngài, Ngài sẽ khiến họ vượt trên tất cả các nước (Phu 28:1-14), nhưng sự không vâng lời của họ khiến
họ thất bại và phải sống rải rác giữa vòng các nước khác. Thật đáng tiếc, Hội
thánh ngày nay đã theo gương xấu của Y-sơ-ra-ên và tự hoà mình với thế gian
thay vì phải tách mình khỏi thế gian (IITi 2:4
Gia 1:27; IGi
2:15-17). Cơ Đốc Nhân sống trong thế gian những không thuộc về thế gian,
và điếu nầy giúp chúng ta có thể bước vào thế gian để chia sẻ Chúa Cứu Thế
Giê-xu cho những tội nhân hư mất (Gi 17:13-19).
Campell Morgan nói rằng Hội thánh làm nhiều điều cho thế gian nhất khi Hội
thánh ít giống thế gian nhất. Hãy khác biệt!
2. Họ mất nước (IIVua 23:29-33) (IIVua 23:34-24:7 IISu 36:5-8)
Sau khi phế trất
Giô-a-cha. Pha-ra-ôn Nê-cô chọn con thứ hai của Giô-si-a lên thay, đổi tên
thành Giê-hô-gia-kim. Cả hai tên nầy đều có nghĩa là “Đức Chúa Trời đã thiết
lập”, nhưng tên mới đã sử dụng danh giao ước “Giê-hô-va” thay cho ân “El”, là
danh tông dụng của Đức Chúa Trời. Khi làm như vậy, Nê-cô đang nhận là người của
Đức Chúa Trời đang cai trị Giu-đa. Dĩ nhiên, vua mới phải lấy danh Giê-hô-va
thề sẽ liên minh với Nê-cô, và tên mới của ông sẽ nhắc ông những bổn phận của
mình. Để nộp cống cho nê-cô, vua mới phải đánh thuế năng trên dân trong sứ
mình. Ông trị vì được 7 năm và trong suốt thời gian đó, Giu-đa càng ngày càng
gặp rắc rối với các nước xung quanh.
Giê-hô-gia-kim là người gian ác. Khi tiên tri U-ri lên án vua và sau đó trốn
sang Ê-díp-tô, vua sai người tìm và giết ông (Gie
26:20-24). Tiên tri Giê-rê-mi loan báo rằng Giê-hô-gia-kim sẽ không được
ai thương khóc khi ông qua đời nhưng bị chôn như một con lừa (22:18-19). Chính Giê-hô-gia-kim đã cắt và đốt ra
tro sách tiên tri của Giê-rê-mi (36:1-32).
Không giống Giô-si-a cha mình, ông không tôn kính Đức Chúa Trời và Lời Ngài (22:1-23).
Tuy nhiên, đế quốc Ba-by-lôn non trẻ
sắp là kẻ thù lớn nhất của Giu-đa thay thế cho Ê-díp-tô. Nê-bu-cát-nết-sa, vua
Ba-by-lôn tấn công Ê-díp-tô, nhưng trận chiến đi đến chỗ bế tắt và
Nê-bu-cát-nết-sa trở về Ba-by-lôn củng cố lại lực lượng của mình cho cuộc giao
tranh khác. Thấy quân Ba-by-lôn rút lui như vậy, Giê-hô-gia-kim cho rằng
Ê-díp-tô dủ mạnh để chống lại quân ba-by-lôn, nên sau 3 năm làm một vua chư
hầu, ông đã chốn nghịch Nê-bu-cát-nết-sa và không chịu nộp cống hàng năm nữa.
Trước khi ông có thể đích thân đến Giê-ru-sa-lem, Nê-bu-cát-nết-sa ra lệnh cho
các đội quân từ các nước chư hầu của mình tấn công và đột kích Giu-đa. Những cuộc
đột kích nầy mở đầu cho cuộc xâm lược lớn và đã huỷ diệt Giê-ru-sa-lem và đền
thờ. Ê-sai đã báo trước với vua Ê-xê-chia điều nầy (IIVua
20:12-20) và vua Ma-na-se đã nghe lời cảnh cáo tương tự những không để
tâm đến nó (21:10-15). Giê-rê-mi đã thấy một
khải tượng về nồi nước sôi từ phương bắc, tượng trưng cho sự xâm lược của
Ba-by-lôn (Gie 1:11-16 4:5-9 6:22-26).
Viễn cảnh về cái chết của vua
Giê-hô-gia-kim nên được kết hợp với thông tin được đưa ra trong II Các vua, II
Sử ký và sách Giêrêmi. Vào năm 597, Nê-bu-cát-nết-sa tiến quân đến
Giê-ru-sa-lem để trừng trị vua phản loạn; nhưng trước khi ông đến nơi, các quan
tướng của ông đã bắt được Giê-hô-gia-kim và dẫn ông ta về Ba-by-lôn gian trong
ngục (IISu 36:5-6). Chúng ta không biết
Giê-hô-gia-kim đã chết cái chết tự nhiên hay bị giết (IIVua
24:6); Kinh Thánh chỉ nói ông ta chết (“an giấc cùng các tổ phụ mình” )
và không cho biết ông ta được chôn như thế nào. Ông qua đời vào tháng 12 năm
597 (24:10). Tiên tri Giê-rê-mi cảnh cáo
rằng Giê-hô-gia-kim sẽ chết trong nhục nhã và không được chôn. Có lẽ xác của
ông bị quăng vào một cái hố nào đó bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem. Ông ta sống
một đời sống đáng hổ thẹn và bị chôn ở nơi đáng hổ thẹn.
IIVua 24:1-7; xem giải nghĩa 23:34-37
3.Họ mất của cải và
người lãnh đạo (IIVua 24:8-17) (IIVua 25:27-30 IISu 36:9-10)
Nê-bu-cát-nết-sa lập con
trai của giê-hô-gia-kim là Giê-hô-gia-kin lên ngôi, nhưng ông ta chỉ trị vì
được 3 tháng. Lúc đó Giê-hô-gia-kin 18 tuổi. [61] Khi vua Ba-by-lôn, các quan tướng và đội quân đến Giê-ru-sa-lem
vào tháng 3 năm 597, Giê-hô-gia-kin dẫn cả hoàng gia và các lãnh đạo quốc gia ra xin đầu hàng kẻ thù. Giê-rê-mi
có tiên tri sự kiện nhục nhã nầy (Gie 22:24-30).
Quân Ba-by-lôn cướp các kho báo của
vua và của đền thờ. Một số bình và chậu của đền thờ cũng bị đem sang Ba-by-lôn
(IISu 36:7), và gỡ hết tất cả vàng mà họ tìm
thấy được Sau đó họ dẫn sang Ba-by-lôn 10.000 người quan trọng, trong đó có
những thành viên của hoàng gia, các quan chức chính phủ, và những thợ thủ công
tài giỏi. Tiên tri Ê-xê-chi-ên cũng bị đem sang ba-by-lôn trong lần nầy (Exe 1:1-3). Tất cả điều nầy là một điềm báo cho
những biến cố kinh khiếp sẽ xảy ra khi Nê-bu-cát-nết-sa quay trở lại vào năm
588 và bao vây Giê-ru-sa-lem trong 2 năm (Es 39:1-8
Gie 7:1-15 Exe
20:1-49).
Giê-hô-gia-kin bị tù ở Ba-by-lôn 37
năm và sau đó ông được Ê-vinh-mê-rô-đác, con trai và là người kế vị của
Nê-bu-cát-nết-sa, phóng thích (IIVua 25:27-30
Gie 52:31-34). Tiên tri giả Ha-na-nia đã
tiên báo rằng Giê-hô-gia-kin sẽ được tha và trở về Giu-đa (Gie 28), nhưng thật
ra vua vẫn còn bị lưu đày, dù sau đó được đối xử tử tế hơn. Mỗi khi vua
Ba-by-lôn. Như Giê-rê-mi tiêntri, không có người con nào của Giê-hô-gia-kin
được ngồi trên ngôi Đa-vít (Gie 22:28-30),
vì con thứ ba của Giô-si-a là Ma-tha-nia (Sê-đê-kia) lên ngôi thay cho Giê-hô-gia-kin [62].
4. Họ mất thành và đền
thờ (IIVua 24:8-17) (IIVua 24:18-25:21 IISu 36:11-21)
Giê-hô-gia-kin chỉ trị
vì được 3 tháng rồi bị bắt lưu đày sang Ba-by-lôn, nhưng Sê-đê-kia,người kế vị
ông, trị vì được 11 năm. Ông giả vờ phục tùng Ba-by-lôn đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của Ê-díp-tô và lắng nghe các quan tướng ủng hộ
Ê-díp-tô trong chính quyền Giu-đa (Exe 17:11-18).
Sê-đê-kia thề trong danh Đức Giê-hô-va rằng ông sẽ trung thành với vua
Ba-by-lôn (IISu 36:13 Exe 17:11-14). Ông duy trì mối quan hệ ngoại giao
với Ba-by-lôn (Gie 29:3) và còn đến thăm vua
Nê-bu-cát-nết-sa (51:59), nhưng ông cũng sai
các đại sứ đến Ê-díp-tô để tranh thủ sự giúp đỡ của Pha-ra-ôn Hophra.
Năm 605, suốt thời trị vì của
Giê-hô-gia-kim, quân Ba-by-lôn trục xuất một số người trẻ tuổi tài giỏi của
Giu-đa sang Ba-by-lôn để huấn luyện thành người có ích cho họ, trong số đó có
Đa-ni-ên và 3 người bạn (Da 1:1-2). Lần trục
xuất thứ hai vào năm 597 (IIVua 24:10-16)
khi đó có hơn 10.000 người bị đưa sang Ba-by-lôn. Nhưng Sê-đê-kia vẫn thích nhờ
Ê-díp-tô giúp đỡ, và năm 588, tình hình chính trị có vẻ thích hợp cho Sê-đê-kia
nổi dậy chống nghịch Ba-by-lôn (24:20 IISu 36:13). Nê-bu-cát-nết-sa phản ứng bằng cách
tiến quân đến Giê-ru-sa-lem, nhưng khi đó quân Ê-díp-tô kịp thời đến giúp vua
Sê-đê-kia và quân Ba-by-lôn tạm thời rút lui để đối phó với quân Ê-díp-tô.
Nê-bu-cát-nết-sa biết rằng không nên dại dột đối đầu với hai chiến tuyến. Đức
Chúa Trời sai Giê-rê-mi đến cảnh báo Sê-đê-kia rằng Nê-bu-cát-nết-sa sẽ quay
trở lại (Gie 37:1-21), nhưng Sê-đê-kia tin
cậy dân Ê-díp-tô mà không tin cậy Đức Giê-hô-va (Exe
17:11-21). Sê-đê-kia còn kêu gọi “sự hợp tác quốc tế” bao gồm Ê-đôm,
Mô-áp, Am-môn, Ty-rơ và Si-đôn (Gie 27:1-22),
với hy vọng rằng những ncnầy sẽ hợp sức ngăn chặn Ba-by-lôn. Tuy nhiên,
Nê-bu-cát-nết-sa vượt qua rào cản Ê-díp-tô và quay trở lại Giê-ru-sa-lem để
trừng trị Sê-đê-kia.
Ba-by-lôn bao vây Giu-đa từ ngày 15
tháng Giêng năm 588 đên18 tháng 7 năm 586; dân Giu-đa rơi vào tình trạng đói
kém nghiêm trọng, người ta đã nấu thịt con mình để ăn (Ca
4:9-10). Quân xâm lược phá vách thành và tiến vào chiếm được thành, cướp
phá nhà cửa và cuối cùng đốt thành và đền thờ vào ngày 14 tháng 8 năm 586. Tiên
tri Giê-rê-mi đã khuyên Sê-đê-kia và các lãnh đạo đầu hàng Ba-by-lôn để cứu
thành và đền thờ (Gie 21:1-14 IISu 38:1-6,14-28), nhưng họ không nghe Lời Chúa sai bắt
Giê-rê-mi như một kẻ phản bội! Các quan tướng bắt Giê-rê-mi quăng xuống hố bỏ
hoang để không ai cứu ông và ông sẽ chết ở đó (Gie
38:1-13). Sê-đê-kia nhu nhược và giả hình đã bảo Giê-rê-mi cầu vấn Đức
Giê-hô-va xem ông nên làm gì (21:1-14) nhưng
vua không chấp nhận câu trả lời của tiên tri. Sê-đê-kia xin Giê-rê-mi cầu
nguyện cho ông (37:1-3), nhưng vua là người
kiêu ngạo, không chịu hạ mình và không muốn cầu nguyện cho chính mình (IISu 36:12-13 7:14).
Khi binh lính Ba-by-lôn tiến vào
thành, vua Sê-đê-kia cùng gia đình và các quan tướng chạy trốn, nhưng họ bị
chặn lại trong đồng bằng Giê-ri-cô và bị bắt. Lời tiên tri của Giê-rê-mi đã
thành hiện thực (Gie 34:1-7, xem thêm đoạn
39 và 52). Sê-đê-kia gặp Nê-bu-cát-nết-sa tại doanh trại ở Ríp-la, ở đó ông bị
xét xử vì tội phản nghịch và nhận án phạt lưu đày. Nhưng đầu tiên, để vua dằn
vặt trong ký ức đau khổ, quân Ba-by-lôn đã giết các con tri vua trước mặt vua –
và sau đó móc mắt vua! Ê-xê-chi-ên ở Ba-by-lôn cũng tiên tri rằng vua sẽ tìm
cách chạy trốn nhưng bị bắt lại và bị giam ở Ba-by-lôn, nhưng sẽ không nhìn
thấy thành ấy (Exe 12:1-13). Làm sao
Sê-đê-kia có thể nhìn thấy vua Ba-by-lôn (Gie 34:3)
những không nhìn thấy thành Ba-by-lôn? Câu trả lời là: Sau khi ông nhìn thấy
vua Ba-by-lôn, Sê-đê-kia bị lính cùa ông ta móc mắt.
Sau khi lấy đi mọi thứ quí giá khỏi
thành và đền thờ, vào ngày 14 tháng 8 năm 586, quân Ba-by-lôn phá hết các vách
thành và đốt Giê-ru-sa-lem và đền thờ. Các quan tướng Ba-by-lôn bắt các lãnh
đạo tôn giáo của thành cũng như những quan chức trong cung, là những người
chống đối Giê-rê-mi và xúi bậy vua Sê-đê-kia, và sau đó giết họ tại Ríp-la
trước mặt Nê-bu-cát-nết-sa. Các thầy tế lễ đã là ô uế nhà của Đức Chúa Trời với
những hình tượng và xúi giục dân sự vi phạm giao ước của Đức Chúa Trời (IISu 36:14 Ca 4:13
Exe 8:1-9:11). Các lãnh đạo trong nước không
nghe theo lời của các đầy tớ của Đức Chúa Trời, nên Đức Chúa Trời đoán phạt họ
(IISu 35:15-16). Không còn cách nào cứu chữa
và ngày đoán phạt đã đến. Chỉ những người nghèo còn lại trong xứ (IIVua 24:14 25:12
Gie 39:10 40:7
52:16) để chăm sóc những gì còn sót lại
trong các vườn nho và đồng ruộng.
Vua Sê-đê-kia đã sốn gở Ba-by-lôn
cho đến ngày qua đời và được nga ta than khóc, đề ứng nghiệm lời hứa của Đức
Chúa Trời thông qua Giê-rê-mi (34:4-5).
Sê-đê-kia không đáng được như vậy, nhưng Đức Giê-hô-va làm vậy vì Đa-vít, người
lập nên triều đại nầy.
IIVua 24:18-20; xem giải nghĩa IIVua 24:8-17
IIVua 25:1-21; xem giải nghĩa IIVua 24:18-20
5. Họ mất hy vọng (IIVua 25:22-36) (Gie 40:1-44:30)
Người Ba-by-lôn đối đãi Giê-rê-mi rất tử tế và cho ông quyền chọn lựa
hoặc sang Ba-by-lôn hoặc ở lại xứ mình (40:1-6).
Giống như một người chăn chân chính, ông quyết định ở lại với dân sự, dù hầu
hết dân chúng đã khước từ ông và chức vụ của ông 40 năm qua. Lòng Giê-rê-mi tan
nát khi ông nhìn thấy sự đổ nát của thành phố và đền thờ, nhưng ông biết rằng
Lời Đức Chúa Trời đã được ứng nghiệm (IISu 36:21).
Dân sự không cho đất nghỉ ngơi như lời Đức Chúa Trời phán dặn (26:32-35), nên giờ đây nó sẽ được 17 năm “Sa-bát”
(Gie 11:1-12,17 29:10-14 Da 9:1-3).
Dân Ba-by-lôn bổ nhiệm Ghê-đa-lia
làm quan tổng đốc xứ Giu-đa. Ông là cháu của Sa-phan, một người tin kính hầu
việc trong thời vua Giô-si-a, và là con của A-hi-cam, một người trung tín hỗ
trợ cho Giê-rê-mi (IIVua 22:1-14 Gie 26:24). Ghê-đa-lia bảo đảm với dân Do thái còn
lại trong xứ rằng Ba-by-lôn sẽ đối đãi tốt với họ nếu họ hợp tác, trước đó
Giê-rê-mi cũng khuyên những người bị lưu đày sang Ba-by-lôn tương tự như vậy (29:1-9). Chắc chắn dân sự biết lời hứa của Đức
Giê-hô-va phán qua Giê-rê-mi, rằng sự chiếm giữ nầy kéo dài trong 70 năm và sau
đó những người bị lưu đày sẽ được trở về Giu-đa. Mục đích của Đức Chúa Trời là
cho họ có “một tương lai và sự trông cậy” (29:11),
nhưng họ phải tiếp nhận lời hứa ấy bàng đức tin và dống đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Tuy nhiên, nhóm phiến loạn do
Ích-ma-ên cầm đầu; Ích-am-ên là người thuộc hoàng tộc (IIVua
25:25 Gie 41:1), quyết định đoạt
quyền của Ghê-đa-lia. (Gie 40-41 để biết những chi tiết được bàn luận dưới
đây). Nhiều yếu tố có liên quan trong âm mưu ám sát gian ác nầy. Trước tiên,
Ích-ma-ên có kế hoạch chiến ngôi và tức giận vì Ghê-đa-lia được làm quan tổng
đốc và phục tùng người Ba-by-lôn. (Gia 4:1-6).
Các quan chức quân đội nói với Ghê-đa-lia rằng vua
A-mô-rít đã sai Ích-ma-ên đến tiếp quản xứ (Gie
4:13-16) [63], nhưng Ghê-đa-lia không
chịu tin lời họ. Nếu Ghê-đa-lia nghe theo lời khuyên đúng đắn đó và giải quyết
nghiêm khắc với Ích-ma-ên, mọi chuyện đã khác đối với dân sót Giu-đa, nhưng ông
quá ngây ngô khi đối diện với những biến cố nầy. Yếu tố thứ ba là sự trở
về của nhiều người Do thái đã trốn sang các nước lân cận (40:11-12). Lòng trung thành của họ thật khả nghi
và có lẽ họ quá dễ bị ảnh hưởng bởi Ích-ma-ên. Tất cả các nước lân cận đã chịu
khổ bì sự bành trướng của Ba-by-lôn và sẽ rất vui mừng nếu được giải phóng.
Ích-ma-ên đã giết Ghê-đa-lia và bắt
dân chúng đi lưu đày, nhưng Giô-ha-na và các quan chức khác thoát được.
Ích-ma-ên và 8 người theo ông đã chạy trốn đến Am-môn. Giô-ha-nan trở thành
người lãnh đạo mới của dân sót và quyết định rằng họ nên trốn đến Ê-díp-tô thay
vì nghe theo sứ điệp của Giê-rê-mi và ở lại xứ phục sự người Ba-by-lôn. Giả vờ
tỏ lòng mộ đạo, Giô-ha-nan và những lãnh đạo khác xin Giê-rê-mi tìm kiếm ý muốn
Đức Giê-hô-va về vấn đề nầy, và Giê-rê-mi đồng ý làm theo. Đức Giê-hô-va giữ họ
lại trong 10 ngày để chờ đợi và trong suốt thời gian đó Ngài chứng minh cho họ
thấy Ngài có thể gìn giữ họ bình an trong sứ mình.
Sứ điệp của Giê-rê-mi cho dân sót (42:7-22) có ba phần. Thứ nhất, ông cho họ biết lời
hứa của Đức Chúa Trời, đó là Ngài sẽ bảo vệ họ và lo liệu cho họ trong sứ của
họ (c.7-12). Sau đó ông cảnh cáo họ rằng đi đến Ê-díp-tô là đi tìm chỗ chết
(c.13-18). Gươm của Đức Giê-hô-va có thể tìm đến họ trong Ê-díp-tô cũng giống
như trong sứ của họ. Họ không thể ở tạm thời trong Ê-díp-tô rồi sau đó trở về
Giu-đa, vì không một ai sẽ trở về. Cuối cùng,
Giê-rê-mi vạch trần sự xấu xa trong lòng họ đã khiến họ dối gạt ông và giả vờ
tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời (c.19-22). Những lãnh đạo nầy giống nhiều người
ngày nay; ngày nay người ta tìm kiếm “ý muốn Đức Chúa Trời” qua nhiều mục sư và
bạn bè, và luôn hy vọng rằng họ sẽ được nghe những gì họ muốn nghe để
làm những gì họ đã quyết định rồi. Dân Do thái đã khước từ sứ điệp của Đức Chúa
Trời và đi sang Ê-díp-tô, và bắt tiên tri Giê-rê-mi đi theo với họ (43:1-7).
Tuy nhiên,
Kinh Thánh không kết thúc trong cảnh ảm đạm nầy nhưng viết tiếp với lời công bố
của Si-ru rằng dân Do thái còn sót lại có thể trở về xứ mình và sửa chữa
Giê-ru-sa-lem và đền thờ (IISu 36:22-23).
Sách Exơra mở đầu với lời tuyên bố nầy (Exo 1:1)
và kể lại chuyện dân sót trở về quê hương. Chiếu chỉ nầy được ban ra năm 538
khi Si-ru đánh bại Ba-by-lôn và thiết lập đế quốc Phe-rơ-sơ. Dân Ba-by-lôn đã
bắt đầu tấn công Giu-đa khi quân đội họ xâm lược Giu-đa năm 606-605 và bắt tù
binh lưu đày, trong số đó có Đa-ni-ên và các bạn mình. Từ năm 606 đến 538 là
khoảng 70 năm, tiên tri Giê-rê-mi đã loan báo con số nầy (Gie 25:11-12 29:10).
Một số học giả thích tính từ lúc đần thờ bị phá hủy năm 586. 70 năm sau sẽ là
năm 516-15, năm nầy đền thờ thứ hai được cung hiến và thời gian lưu đày chính
thức kết thúc.
Như vẫn thường thấy trong lịch sử
dân Do thái,những lãnh đạo của họ sống bằng những âm mưu thay vì tin cậy vào
lời hứa của Đức Chúa Trời. Giê-rê-mi cho dân sự một niềm hy vọng khi hứa rằng
Đức Chúa Trời ở cùng họ, bảo vệ họ và lo liệu cho họ (29:11).
Nhưng các lãnh đạo bỏ qua tất cả khi họ trốn sang Ê-díp-tô, rồi họ đã chết và
được chôn tại xứ lạ đó. Tiên tri trung tín như
Giê-rê-mi, là người đã chịu khổ nhiều vì dân sự và Đức Chúa Trời, lại bị chôn ở
đâu đó không ai nhớ trong xứ Ê-dip-tô; thật là một bi kịch!
Trước khi khép lại những
ghi nhận về sự suy tàn và sụp đổ của một
nước lớn, chúng ta nên rút ra một số bài học quí báu cho mình. Không dân tộc nào có thể tăng trưởng hơn nếu không biết
thờ phượng Đức Chúa Trời. Dân Y-sơ-ra-ên bị chia cắt làm hai vì tội
lỗi của Sa-lô-môn, ông đã xây qua các thần tượng để làm vừa lòng các bà vợ ngoại bang. Vì họ thờ thần tượng và chối bỏ Đức Chúa
Trời chân thần, vương quốc phía bắc Y-sơ-ra-ên bị A-si-ri chiếm lấy. Không lâu
sau, nước Giu-đa ở phía nam cũng rơi vào tay của dân Ba-by-lôn. Chúng ta
trở nên giống thần mà chúng ta thờ lạy (Thi 115:8),
và nếu chúng ta không thờ phượng Đức Chúa Trời chân thần và hằng sống, chúng ta
trở nên vô ích như những thần tượng đang mê hoặc chúng ta.
Những người dẫn Y-sơ-ra-ên và Giu-đa
đi lầm đường lạc lối là những người thích ứng, những người nhu nhược luôn theo
số đông và muốn làm vừa ý con người. Đức Chúa Trời cảnh cáo sự điên rồ của họ
vì họ khước từ những người khác biệt và muốn làm đẹp lòng Đức Giê-hô-va, những
nhân chứng trung tín nầy luôn bị bác bỏ, bị lạm dụng và tuận đạo. Nhà soạn kịch
yếm thế, George Bernard Shaw định nghĩa sự tuận đạo là “con đường duy nhất mà
con người có thể nổi tiếng mà không cần có khả năng”. Ông ta đã sai lầm. Những
người chịu khổ và chết vì đức tin được Đức Chúa Trời ban khả năng để tin cậy
Ngài, để đặt lẽ thật và tính cách lên trên sự dối trá và tính phổ thông, và để
từ chối “hùa theo số đông” và hoà nhập với thế gian trong sự tối tăm và tôi lỗi
của nó.
Thời gian nầy là thời kỳ nguy cấp
trong lịch sử, Đức Chúa Trời đang tìm những người biết tận hiến cho Ngài và
biết phân biệt mình giữa thế gian không phải những Cơ Đốc Nhân bắt chước thế
gian. Làm bạn với thế gian có nghĩa là làm kẻ thù của Đức Chúa Trời (Gia 4:4) và yêu thế gian và tin cậy nó nghĩa là
đánh mất tình yêu của Đức Chúa Cha (IGi 2:15-17).
Chúng ta phải là “những của lễ sống” cho Đức Giê-hô-va (Ro 12:1-2), phải là những người phân biệt, biết sống và làm
chứng nhân cho Chúa Cứu Thế và chiếu sáng như ngọn đèn trong đêm tối. “Một cái thành ở trên núi thì không khi nào bị khuất được”
(Mat 5:14). Đức tin là sống mà không có mưu
đồ. Hãy giải thích rõ những lời dạy của Kinh Thánh về sự vâng lời Đức Chúa Trời
và sự phân biệt khỏi tội lỗi, và bạn sẽ sớm nhận ra mình đang từ từ chiếu sáng
vào bóng tối và đêm đen, để rồi cuối cùng nó sẽ biến mất trong nhục nhã và thất
bại.
“Ai
làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì còn lại đời đời” (IGi 2:17).


