MỤC LỤC
01. ĐA-VÍT, VUA GIU-ĐA
02. ĐA-VÍT CHĂM XEM VÀ CHỜ ĐỢI
03. ĐA-VÍT VUA I-SƠ-RA-ÊN
04. VƯƠNG TRIỀU, LÒNG NHÂN TỪ NHỮNG
CHINH PHỤC CỦA ĐA-VÍT
05. SỰ KHÔNG VÂNG LỜI, SỰ LỪA DỐI VÀ
SỰ TRỪNG PHẠT
06. NHỮNG ĐỨA CON BẤT TRỊ CỦA ĐA-VÍT
07. ĐA-VÍT TRỐN VÀO ĐỒNG VẮNG
08. NHỮNG CHIẾN THẮNG VUI BUỒN LẪN
LỘN CỦA ĐA-VÍT
09. ĐA-VÍT TRỞ VỀ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐƯỢC ĐỔI MỚI
10. NHỮNG TRẬN CHIẾN MỚI CỦA ĐA-VÍT
11. BÀI CA CHIẾN THẮNG CỦA ĐA-VÍT
12. NHỮNG KÝ ỨC VÀ NHỮNG LỖI LẦM CỦA
ĐA-VÍT
1. ĐA-VÍT, VUA GIU-ĐA (IISa 1:1-27 ISu 10:1-12)
Đa-vít phải tha hương
trong 10 năm để bảo toàn mạng sống, và trốn mặt Sau-lơ chờ đến ngày Đức Chúa
Trời trao ngôi vua Y-sơ-ra-ên cho ông. Suốt những năm tháng khó khăn đó, Đa-vít
được tăng trưởng trong đức tin và lòng
tin kính, và được Đức Chúa Trời trang bị cho nhiệm vụ mà Ngài đã chọn ông làm.
Khi ngày chiến thắng xảy đến, Đa-vít cẩn thận để
không gây đột ngột cho dân sự, nhiều người trong số họ vẫn còn trung thành với
Sau-lơ. Ông từng bước tiếp cận, và chúng ta không thể không ngưỡng mộ Đa-vít vì
sự khôn ngoan và tính kiên nhẫn của ông khi ông thu phục được lòng trung thành
của dân sự và thống nhất được một đất nước tan rã. “Như vậy, người chăn giữ họ
theo sự thanh liêm lòng người, và lấy sự khôn khéo tay mình mà dẫn dắt họ” (Thi 78:72)
1. Sự xác minh (IISa 1:1-16)
Đức Chúa Trời ngăn chặn
Đa-vít và lính của ông để họ không giúp dân Phi-li-tin đánh lại sau-lơ và
Y-sơ-ra-ên, nên Đa-vít trở về Xiếc-lác. Ở đó ông phát hiện dân A-ma-léc xâm
nhập và đem đi tất cả con người, của cải; để lại một thành đổ nát hoang tàn.
Đức Chúa Trời trong ơn thần hựu của Ngài đã dẫn đắt Đa-vít đến trại quân
A-ma-léc, Đa-vít đánh kẻ thù tháo chạy, giải cứu phụ nữ và trẻ em, thu hồi tất cả những gì đã bị cướp đi. Sau đó họ trở về
Xiếc-lác và chờ tin tức từ chiến trường (ISa
29:1-30:31)
Một người đưa tin nói
dối (IISa 1:1-10). Trong ngày
Đa-vít tàn sát quân A-ma-léc, quân Phi-li-tin áp đảo Sau-lơ và quân của ông ta
ở núi Ghinh-bô-a, và chính nơi nầy Sau-lơ và ba con trai ông ta bị giết chết (ISa 31:1-13 ISu 10:1-12).
Ngày hôm sau, trong khi Đa-vít trở về Xiếc-lác, quân Phi-li-tin phỉ báng xác
Sau-lơ và xác của các con trai người, một người đưa tin người A-ma-léc vội vã
chạy đến báo cho Đa-vít. Ông ta mất ít nhất 3 ngày để đi từ chiến trường đến
Xiếc-lác, cách khoảng 80 dặm. Như vậy, Đa-vít ở Xiếc-lác được 3 ngày thì nhận
được tin Y-sơ-ra-ên thất trận, Sau-lơ và 3 con trai người đã chết1.
Trong Kinh Thánh có ba chỗ chép về
sự chết của Sau-lơ và các con trai người: ISa
31:1-13, tin tức của người đưa tin nói trên được chép trong IISa 1:1-10, và một chỗ khác nữa trong ISu 10:1-14. Theo ISu
10:4-5, Sau-lơ đã tự đâm gươm vào ngực mình mà chết, nhưng người đưa tin
nói rằng chính ông ta đã giết Sau-lơ để Sau-lơ khỏi bị đau đớn và sỉ nhục nhiều
hơn. 10:14 cho chúng ta biết rằng chính Đức
Chúa Trời đã giết sau-lơ vì tội chống nghịch, đặc biệt là tội đi tìm lời khuyên
của bà bóng. Những đoạn tường thuật trong ISa 31:13
và ISu 10:1-14 khó có thể phù hợp với tin
báo của người đưa tin nầy, nên rất có thể ông ta đã nói dối.
Chắc chắn người đàn ông nầy đã có
mặt ngoài chiến trường. Trong khi ông ta đang tìm của cải trên những xác lính
tử trận, ông thấy xác của Sau-lơ và các con Sau-lơ trước khi quân Phi-li-tin
phát hiện ra, và ông ta đem về những biểu tượng vương quyền của Sau-lơ; vòng
vàng và mão miện. Nhưng người A-ma-léc đó đã không giết Sau-lơ như lời ông ta
kể, vì Sau-lơ và các con trai đã chết trước đó rồi. Vì lời nói dối nầy mà ông
ta phải chết.
Một trong những từ chìa
khóa trong đoạn nầy là “ngã
chết”, được tìm thấy trong các câu 4,10,12,19,27. khi Sau-lơ bắt đầu
lên ngôi vua, ông được mô tả là “người cao hơn cả dân
sự từ vai trở lên” (ISa 9:2 ISa 10:23 16:7)
nhưng đến cuối cùng ông là vị vua ngã chết trên chiến trường. Sau-lơ đã ngã té
vì hoảng sợ trong nhà bà bóng (ISa 28:20),
và ông đã ngã ngoài chiến trường trước mặt kẻ thù (ISa
31:4). Đa-vít hạ mình trước Chúa và Ngài đã nâng ông dậy, nhưng sự kiêu
ngạo và phản nghịch của Sau-lơ đã dẫn ông đến kết cuộc đáng hổ thẹn. “Vậy thì,
ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã” (ICo 10:12). Sau-lơ là vua được xức dầu vào buổi binh minh của một ngày
mới (ISa 9:26-27) nhưng ông chọn cách
buớc đi trong sự tối tăm (ISa 28:8) và không
vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời.
Một trại quân đau buồn (IISa 1:11-12). Người đưa tin chắc phải bất ngờ và
lo lắng lắm khi thấy Đa-vít và quân lính xé quần áo khóc than cho cái chết của
Sau-lơ. Ông ta nghĩ rằng mọi người ở Xiếc-lác sẽ vui mừng khi biết tin Sau-lơ
tử trận, và biết điều đó có nghĩa là kết thúc thời gian lánh nạn của họ. Ông ta
mong chờ được ban thưởng vì tin vui mà ông mang về, nhưng ông không biết rõ tấm
lòng của Đa-vít. Trong cái nhìn của Đa-vít, Sau-lơ chưa bao giờ là kẻ thù của
mình (IISa 22:1) và qua hai cơ hội có thể
giết chết Sau-lơ, ông cho thấy rõ ông không bao giờ tra tay trên người được Đức
Chúa Trời xức dầu (ISa 24:1-7 26:1-11).
Người đưa tin xác nhận ông ta là
người A-ma-léc, con trai của người ngoại bang (IISa
1:13). Nhưng nếu ông ta đang sống trong đất của Y-sơ-ra-ên, chắc chắc
ông ta biết rằng vua của Y-sơ-ra-ên là người được Đức Chúa Trời xức dầu. Nếu
một người Do Thái trung thành tìm thấy 4 cái xác nầy, anh ta sẽ tìm cách giấu
chúng khỏi mắt kẻ thù; nhưng người A-ma-léc là kẻ thù của Y-sơ-ra-ên, chính là
dân mà Sau-lơ phải xóa sổ (ISa 15:1-35). Có
thể người đưa tin nầy là người A-ma-léc chính cống, không phải là người ngoại
bang kiều ngụ tại Y-sơ-ra-ên. Ông ta giống như người “theo sau trại quân”; sống
bằng cách thu gom chiến lợi phẩm sau đội quân Phi-li-tin. Khi xưng mình là con
trai của người ngoại bang, ông ta muốn nhận được đặc ân theo luật pháp Môi-se,
đặc ân mà chắc chắn ông không xứng đáng được nhận (Xu
22:21 23:9 Le
19:33 24:22 Phu
24:17).
Án phạt công bình (ISa 1:13-16). Đến tối, khi thời gian than khóc kết
thúc, Đa-vít chất vấn thêm người đưa tin và quyết định ông ta đáng phải chết.
Nếu câu chuyện ông ta kể là đúng sự thật, thì ông ta đã giết vua được xức dầu
của Đức Chúa Trời và như vậy phải chết. Nếu câu chuyện ông ta kể là sai, thì
việc ông ta bịa ra câu chuyện giết vua cho thấy được ác tâm của ông ta. “Ta cứ
lời ngươi nói ra mà xét ngươi” (Lu 19:22).
Người Do Thái được lệnh phải tiêu diệt người A-ma-léc (Xu
17:8-16 Phu 25:17-19), nên khi Đa-vít
ra lệnh giết người đưa tin, ông chỉ đang vâng theo Đức Chúa Trời, điều mà
Sau-lơ không thực hiện (ISa 15:1-35).
Khi giết người đưa tin, Đa-vít chứng
minh cho tất cả mọi người thấy rằng ông không phải là kẻ thù của Sau-lơ và
không vui mừng trước cái chết của Sau-lơ. Đây là việc làm nguy hiểm vì Đa-vít
đang sống trong đất của người Phi-li-tin, và vua Phi-li-tin vẫn nghĩ rằng
Đa-vít là bạn và là một đồng minh của ông ta. Vì Đa-vít đứng về phía vua
Y-sơ-ra-ên có thể bị xem là hành động mưu phản. Nhưng Đức Giê-hô-va biện hộ cho
Đa-vít và Đa-vít biện hộ cho Sau-lơ nên Đa-vít không lo ngại gì. Cách cư xử của
Đa-vít và quân lính mình trước tin tức về Y-sơ-ra-ên sẽ giúp thuyết phục họ tin
rằng Đa-vít thật đã được Đức Chúa Trời chọn để làm vua của họ.
2. Sự than khóc (IISa 1:17-27)
Sự than khóc của Đa-vít
trước cái chết của Sau-lơ và Giô-na-than xuất phát từ tấm lòng thành của ông,
và để người ta thương nhớ đến họ, Đa-vít đã viết ra một khúc bi thương thật cảm
động dành cho họ. Ông ra lệnh dân sự ở chi phái Giu-đa phải học thuộc và lưu
truyền bài ai ca nầy, và chắc chắn các chi phái
khác cũng biết đến và cảm kích vì điều đó. Người phương Đông không e ngại bày
tỏ cảm xúc mình, và những bài thơ của họ thường được phổ nhạc để giúp họ thể
hiện những trải nghiệm vui buồn. Môi-se dạy Y-sơ-ra-ên hát để cảnh cáo họ về sự
bội đạo (Phu 32:1-52), và các tiên tri
thường viết những bài ca truy điệu để công bố về sự đoán phạt sắp xảy ra (Es 14:12 Exe 27:1
28:11-19).
Bài ai ca này về sau
được biết với tên “bài ai ca về Cung” (c.18) và được chép lại trong
sách của Gia-sa (Gios
10:12-13), là bộ sưu tập những bài thơ và bài hát viết về những sự kiện
lớn trong lịch sử Y-sơ-ra-ên. “Nhân sao các kẻ anh hùng nầy bị ngã chết?” là
chủ đề chính trong bài ai ca nầy (c.19,25,27), và trong
đó có ý nhấn mạnh đến sự vĩ đại của Sau-lơ và Giô-na-than dù bị thất bại và tử
trận. Đa-vít ca ngợi tài năng, sự dũng cảm và sự hy sinh của họ cho đất nước.
Như Hêbơrơ 11, bài hát nầy không có ghi lại gì về tội lỗi và những sai lầm
trong cuộc đời của Sau-lơ và Giô-na-than.
Đa-vít gọi dân
Y-sơ-ra-ên (IISa 1:19-20). Đa-vít
gọi vua đã chết và quân đội của vua là “Ôi Y-sơ-ra-ên! Kẻ danh vọng của ngươi”
và “các kẻ anh hùng”. Những lời ấy không nhằm nói về vinh quang hay hùng mạnh
trong trận ở Ghinh-bô-a, nhưng Sau-lơ vẫn là người lãnh đạo được Đức Chúa Trời
chọn và quân đội của ông là quân đội của Giê-hô-va vạn quân. Chúng ta thường
quên rằng Sau-lơ và quân đội của ông đã liều mạng sống mình để chiến đấu và
thắng nhiều trận lớn (ISa 14:47-48) và người
Do Thái đã từng hát “Sau-lơ giết hàng ngàn” (ISa
18:17). Đa-vít khuyên dân sự đừng đồn ra tin tức về sự thất bại của
Y-sơ-ra-ên, vì dân Phi-li-tin rất quan tâm đến điều đó. Gát là thủ phủ của
Phi-li-tin, nơi các lãnh đạo của họ đang vui mừng chiến thắng, và Ách-kê-lôn là
trung tâm tôn giáo chính, nơi dân sự đang tạ ơn các
thần tượng của họ vì đã giúp quân đội họ chiến thắng.
Đa-vít gọi các núi
Ghinh-bô-ai (IISa
1:21). Đây là chiến trường mà Sau-lơ đã bại trận (IISa 1:6 ISa 28:4
31:1). Đa-vít cầu xin Đức Chúa Trời từ bỏ
nơi nầy và không ban mưa hay sương móc cho nó, cây cối của nó không sinh hoa
kết quả và cư dân nó không có lễ đầu mùa dâng lên cho Đức Chúa Trời. Ông muốn
mọi tạo vật của Đức Chúa Trời cùng với ông than khóc cho sự thất bại của
Y-sơ-ra-ên và sự sụp đổ của vua họ. Khi Đa-vít nhắc đến cái khiên, ông nói theo
nghĩa đen hay nghĩa bóng, hay cả hai? Sau-lơ mang theo mình một cái khiên, và
vua Y-sơ-ra-ên được so sánh với cái khiên (Thi 83:9
89:18). Các chiến binh thường thoa dầu những
cái khiên bằng da của họ để bảo quản chúng, nhưng vua cũng là người lãnh đạo
được xức dầu của Đức Chúa Trời. Sau-lơ và ba con trai đã đánh mất những cái
khiên của mình và chúng đã vấy máu.
Đa-vít khen ngợi
Sau-lơ và Giô-na-than (IISa 1:22-23). Đây
là trọng tâm của bài ai ca nầy, nó mô tả Sau-lơ và Giô-na-than như những chiến
binh đắc thắng, mũi tên của Giô-na-than luôn trúng đích và gươm của Sau-lơ
“không hề trở về mà không vinh quang”. Họ “bay như chim ưng” (Phu 28:49) và mạnh như sư tử (IISa 17:10). Nhưng đối với Đa-vít, những người nầy
không chỉ là những người lính vĩ đại, họ còn là những người tốt, được yêu mến
khi còn sống và khi chết vẫn trung thành với nhau và với dân tộc. Từ cuộc gặp
gỡ với Sa-mu-ên trong nhà bà bóng, Sau-lơ biết rằng ông và các con ông sẽ chết
cùng một ngày trên chiến trường (ISa 28:19),
nhưng ông vẫn bước vào cuộc giao tranh và quyết tâm làm hết sức mình.
Giô-na-than biết cha mình không vâng phục Đức Chúa Trời và có lỗi với Đa-vít,
nhưng ông vẫn luôn sát cánh bên cha trong cuộc chiến. Dù quân Y-sơ-ra-ên thất
bại, Đa-vít muốn dân sự phải ghi nhớ sự vĩ đại của vua và các con trai vua.
Đa-vít gọi các con gái
của Giê-ru-sa-lem (IISa 1:24). Dù phạm tội và thất bại, trong suốt triều đại của mình
Sau-lơ đã đem lại sự ổn định cho đất nước. Các chi phái từng bỏ đi sống độc lập
và tranh cạnh nhau, nay cùng chung vai vì số phận của dân tộc, cả về kinh tế
lẫn chính trị. Những thắng lợi của Sau-lơ trên các nước thù nghịch, sự bình ổn
ở các thành và những vùng nông thôn, sự chung sức của các chi phái là những yếu
tố tạo nên một đất nước Y-sơ-ra-ên giàu có hơn. Đa-vít dường như đang nói đến
những người phụ nữ giàu có và sự xa xỉ của họ, có lẽ họ là vợ một số quan chức
của Sau-lơ mà Đa-vít có lần nhìn thấy khi còn ở trong cung. “Áo xống màu đỏ
điều” có nghĩa tương tự với ‘khoe khoang sự giàu có”.
Đa-vít nói với
Giô-na-than, người bạn yêu dấu của mình (IISa 1:25-26). Trong các bài ca truy điệu
người ta thường gọi tên người quá cố. “Giô-na-than, anh tôi!” có hai nghĩa, vì
Đa-vít là em rể của Giô-na-than (Đa-vít cưới Mi-canh, em gái Giô-na-than) và họ
cũng là anh em với nhau từ trong tấm lòng và tâm hồn. Đa-vít và Giô-na-than là
những người bạn rất thân thiết, họ đã kết ước sẽ cùng giúp nhau cai trị đất
nước, Đa-vít làm vua và Giô-na-than làm tể tướng (ISa
23:16-18). Sẽ sai lầm nếu hiểu những lời mô tả của Đa-vít về tình cảm
của ông dành cho Giô-na-than có ngụ ý đến đồng tính luyến ái. Sa-lô-môn mô tả
tình cảm vợ chồng “mạnh như sự chết” (Nha 8:6),
tình bạn của Đa-vít và Giô-ma-than cũng như vậy. ISa
18:1 có chép rằng, “lòng của Giô-na-than khế hiệp cùng lòng Đa-vít, đến
đỗi Giô-na-than yêu mến Đa-vít như mạng sống mình”. Đa-vít kết thúc bài ai ca
bằng điệp khúc cay đắng, “Cớ sao những anh hùng bị ngã xuống?” so sánh Sau-lơ
và Giô-na-than với những binh khí của chiến tranh đã bị đánh mất và không bao
giờ còn được sử dụng.
Khi sáng tác và cho lưu
truyền bài ai ca nầy, Đa-vít có suy nghĩ đến nhiều mục đích. Thứ nhất, ông muốn
tôn vinh Sau-lơ và Giô-na-than đồng thời dạy
cho dân sự biết tôn trọng nền quân chủ. Vì Sau-lơ là
vị vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên, dân sự có thể sẽ cho rằng tất cả những vị vua
kế vị sau nầy đều theo gương xấu của ông ta và phá hoại đất nước, nên Đa-vít
tìm cách củng cố khái niệm về chế độ quân chủ. Bài ca nầy cũng cho mọi người
thấy rõ rằng Đa-vít không hề hận thù cha vợ mình. Cuối cùng Đa-vít mong muốn
chúng ta noi gương ông mà dành nhiều tình yêu thương cho những người đã hy sinh
ngoài chiến trường để bảo vệ đất nước.
3. Lễ lên ngôi (IISa 2:1-4)
Đa-vít là vua hợp pháp
của Y-sơ-ra-ên và không thể ở Xiếc lác nữa, vì nó là đất của kẻ thù. Có thể A-Kích, vua của Phi-li-tin nghĩ rằng Đa-vít vẫn còn ở
dưới quyền của mình, nhưng Đa-vít biết ông cần phải trở về với xứ xở của mình
và bắt đầu trị vì dân sự của mình. Đa-vít có thói quen tìm kiếm ý muốn Đức Chúa
Trời trước khi đưa ra bất cứ quyết định nào, hoặc bởi thầy tế lễ A-bia-tha (ISa 23:9-12) hoặc qua tiên tri Gát để cầu xin Lời
khôn ngoan từ Đức Chúa Trời (ISa 22:5).
Đa-vít xuất thân từ chi phái Giu-đa,
nên ông sống giữa vòng dân sự mình là hợp lý, nhưng ông sẽ ở tại thành nào? Đức
Chúa Trời cho phép ông trở về Giu-đa và sống tại Hếp-rôn, cách Xiếc-lác 25 dặm.
Khi di chuyển đến đó, Đa-vít đã về lại với dân sự mình nhưng vẫn còn chịu ảnh
hưởng của dân Phi-li-tin. Hếp-rôn rất quan trọng trong lịch sử Do-thái, vì các
phần mộ của Áp-ra-ham và Sa-ra, Y-sác và Rê-bê-ca, Gia-cốp và Ra-chên đều ở gần
nó. Thành nầy nằm trong di sản của Ca-lép, một người có địa vị trong lịch sử
Do-thái (Gios 14:14). A-bi-ga-in, một trong
những người vợ của Đa-vít, đã từng kết hôn với một người Ca-lép, và Đa-vít thừa
hưởng phần gia tài của A-bi-ga-in gần đồng vắng Ma-ôn (ISa
25:2). Hếp-rôn có thể là thành phố quan trọng nhất ở miền Nam Giu-đa, nên
Đa-vít cùng quân lính của mình di chuyển đến đó, và họ sống trong các thành
xung quanh Hếp-rôn. Sau 10 năm dài, đây là lần đầu tiên Đa-vít và lính của mình
không còn là những người trốn chạy nữa. Lính của ông đã chịu khó nhọc cùng ông,
và giờ đây họ được cùng ông cai trị đất nước (IITi
2:12)
Khi Đa-vít ổn định cuộc sống ở
Hếp-rôn, sự trở về Giu-đa của ông là tín hiệu cho dân sự biết ông là người lãnh
đạo họ, nên các trưởng lão của Giu-đa đã xức dầu cho Đa-vít lần nữa để ông lên
ngôi vua (ISa 16:13). Nếu Áp-ne, vị tướng
của Sau-lơ, cũng tiếp nhận ý muốn của Đức Chúa Trời
và phục tùng Đa-vít, cuộc nội chiến với quá nhiều thiệt hại đã được ngăn chận,
nhưng sự trung thành với vị vua cũ (Áp-ne là cháu của Sau-lơ) và lòng mong muốn
bảo vệ lợi ích của mình là động cơ thúc đẩy Áp-ne tranh chiến với Đa-vít thay
vì đi theo Đa-vít.
Trong lúc Đa-vít sống ở Xiếc-lác, nhiều người tình nguyện đến với ông từ các chi
phái Bên-gia-min, Gát và Ma-na-se (ISu 12:1-22),
nên Đa-vít không chỉ có một đội quân đông đảo và đầy kinh nghiệm mà còn có
những đại diện của các chi phái khác. Mong ước lớn nhất là Đa-vít sẽ thu phục
được lòng trung thành của toàn dân Y-sơ-ra-ên.
Trong sự lên ngôi của mình, Đa-vít
minh họa cho công việc của Chúa Cứu Thế Giê-xu, Con vua Đa-vít. Giống như
Đa-vít, là người chăn chiên, trước hết Chúa Giê-xu đến như một đầy tớ hạ mình
và là vua được xức dầu một cách riêng tư. Giống như Đa-vít, người tha hương,
Chúa Giê-xu là Vua ngày nay nhưng không trị vì trên ngôi Đa-vít. Giống Sau-lơ
trong thời Đa-vít, Sa-tan vẫn tự do cản trở công việc của Đức Chúa Trời và
chống nghịch dân sự Ngài. Đến một ngày, Chúa Giê-xu sẽ trở lại trong vinh
quang, Sa-tan sẽ bị cầm tù, và Chúa Giê-xu sẽ cai trị trong vương quốc vinh
hiển của Ngài (Kh 19:11-20:6). Dân sự của
Đức Chúa Trời ngày nay trung tín cầu nguyện “Nước
Cha được đến” (Mat 6:10) và hết
lòng mong đợi sự trở lại của Vua mình.
Đa-vít được 30 tuổi khi các trưởng
lão Giu-đa xức dầu cho ông lên làm vua, và ông trị vì tại Hếp-rôn trong bảy năm
rưởi (IISa 2:11). Thật là phước hạnh cho dân
Giu-đa khi có được một vị lãnh đạo có ân tứ và tin kính Chúa như vậy!
4. Sự đánh giá đúng (IISa 2:4b-7)
Đa-vít có tấm lòng của một người
chăn, là người luôn chăm lo cho dân sự mình (IISa
24:17), và một trong những mối quan tâm đầu tiên của ông là số phận của
Sau-lơ và ba con trai cùng tử trận. Khi Đa-vít hỏi thăm những trưởng lão Giu-đa
về việc chôn cất Sau-lơ và các con trai Sau-lơ, Đa-vít được biết những người ở
Gia-be Ga-la-át đã liều mạng sống mình để tìm lại được 4 xác chết trong tình trạng
thối rữa và không nguyên vẹn, sau đó đã chôn chúng tại Gia-be (ISa 31:8-13). Họ nhớ ơn Sau-lơ đã giải cứu thành
của họ nhiều năm trước (ISa 11:1-15).
Gia-be Ga-la-át nằm đối ngang
Giô-đanh trong chi phái Gát, và những người đã tìm lại được xác Sau-lơ và các
con ông ta đã phải đi theo hướng tây bắc và băng qua sông Giô-đanh để đến
Bết-San, một hành trình đi theo đường vòng mất 25 dặm. Đây quả là một nổ lực
đáng khích lệ. Đa-vít đã cảm ơn họ vì sự hết lòng mà họ dành cho Sau-lơ và nước
Y-sơ-ra-ên. Họ đã “có lòng nhân từ” và Đức Giê-hô-va sẽ tỏ cho họ thấy “sự nhân
từ và thành thực” của Ngài. 25 năm sau, Đa-vít đã lấy cốt của Sau-lơ và các con
trai người đem về chôn lại trong đất của chi phái Bên-gia-min, quê hương của họ
(IISa 21:12-14)
Nhưng Đa-vít đã nhân cơ hội nầy mời
gọi những người dũng cảm của Gia-be Ga-la-át đi theo ông. Họ đã cam đảm cho
Sau-lơ, và giờ đây họ có thể cam đảm cho Đa-vít. Một số chiến binh từ Gát đã
gia nhập đội quân của Đa-vít trong khi ông còn ở Xiếc-lác (ISu 12:8-15), hết lòng tin rằng Đa-vít là vua được
xức dầu của Đức Chúa Trời. Đáng tiếc, dân sự ở Gia-be Ga-la-át không theo
Đa-vít nhưng theo Áp-ne và Ích-bô-sét, đứa con trai yếu đuối của Sau-lơ.
Dân Gia-be Ga-la-át để cho ảnh hưởng
của Sau-lơ làm họ không nhận thấy kế hoạch của Đức Chúa Trời cho dân tộc mình.
Họ có động cơ rất tốt, nhưng đã có chọn lựa tồi. Đã bao lần trong lịch sử Hội
Thánh dân sự của Đức Chúa Trời đã để cho ảnh hưởng và sự đánh giá của con người
thắng hơn ý muốn của Đức Chúa Trời! Chúa Cứu Thế
Giê-xu là Vua và Ngài đáng để chúng ta đầu phục, trung thành và vâng lời cách
trọn vẹn. Đặt những người lãnh đạo lên trên Vua được xức dầu của Đức Chúa Trời
là gây chia rẽ và làm suy yếu hàng ngũ của dân sự Đức Chúa Trời, mở cửa cho
nhiều nan đề xâm nhập vào trong dân sự Ngài. Như Augustine đã nói “Chúa Cứu Thế
Giê-xu sẽ là Chúa của tất cả hoặc Ngài sẽ không là Chúa của bất cứ gì”.
2. ĐA-VÍT CHĂM XEM VÀ
CHỜ ĐỢI (IISa 2:8-4:12)
Trước khi qua đời
Napoleon có nói rằng, “Để cai trị một đất nước, yêu cầu không phải là theo đuổi
đến cùng một học thuyết hợp lý nào đó nhưng là xây dựng từ những gì có sẵn.
Phải chấp nhận hoàn cảnh thực tại và biến nó thành ích lợi.” Nếu câu nói nầy
đúng, thì Đa-vít thật là người lãnh đạo rất thành công suốt bảy năm rưởi mà ông
ở Hếp-rôn. Trong khi Giô-áp dẫn dắt đội quân Giu-đa, Đa-vít chăm xem và chờ
đợi, và biết rằng đến một ngày Đức Giê-hô-va sẽ mở đường để ông trị vì cả đất
nước Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời kêu gọi Đa-vít không chỉ để ông làm vua mà còn
để ông chăn dắt dân sự và lãnh đạo họ trong đời sống thuộc linh. Đa-vít phải
chờ đợi thời điểm mà Đức Chúa Trời quyết định trong khi nhẫn nhịn chịu đựng hậu
quả của những tham vọng ích kỷ, những hành động hấp tấp của những lãnh đạo do lòng kiêu ngạo và sự thù hằn gây ra. Đa-vít biết xây dựng trên những gì sẵn có và tin cậy Đức Chúa
Trời để lợi dụng những hoàn cảnh khó khăn hầu làm lợi cho dân sự mình.
1. Áp-ne, nhân vật chi
phối (IISa 2:8-32)
Diễn viên chính trong vở
kịch nầy là Áp-ne, em họ của Sau-lơ và là quan trưởng
trong đội quân của ông ta (ISa 14:50). Chính
áp-ne đã dẫn Đa-vít đến ra mắt Sau-lơ sau khi Đa-vít giết chết Gô-li-át (17:55-58) và là người cùng Sau-lơ đuổi bắt Đa-vít
suốt 10 năm (26:5). Áp-ne bị Đa-vít chỉ
trích và sỉ nhục vì không bảo vệ được vua (26:13-16)
và Áp-ne không yêu mến Đa-vít. Dân Y-sơ-ra-ên tôn vinh Đa-vít hơn Sau-lơ và
cuối cùng dân sự biết Đa-vít là vua được Đức Chúa Trời chọn cho mình. Nhưng
Đa-vít đã có Giô-áp làm quan trưởng rồi, nên khi Đa-vít lên làm vua, Áp-ne sẽ
thế nào? Hầu hết những việc Áp-ne làm trong suốt bảy năm rưởi đó không vì sự
vinh hiển của Đức Chúa Trời cũng không gây dựng
Y-sơ-ra-ên, nhưng vì lợi ích của chính mình. Ông ta đang quan tâm đến vị trí số
một.
Áp-ne phủ nhận vương
quyền của Đa-vít (c.8-11). Dân Giu-đa vâng phục ý muốn Đức Chúa
Trời và xức dầu cho Đa-vít làm vua, nhưng Áp-ne không vâng lời Chúa và đưa
Ích-bô-sết, đứa con trai còn sống sót của Sau-lơ lên làm vua “cả Y-sơ-ra-ên”.
Áp-ne biết rằng Đa-vít là sự chọn lựa của Đức Chúa Trời, là một người lãnh đạo
được ơn và là một chiến binh can đảm, nhưng ông cố tình chống đối Đức Chúa Trời lập Ích-bô-sết. Y-sơ-ra-ên đã cầu
xin một vua “y như các dân tộc khác” (ISa 8:5),
và khi vua băng hà, các nước khác sẽ lập con trưởng nam của vua lên kế vị. Ba
con trai của Sau-lơ đều tử trận, và Ích-bô-sết là người duy nhất còn sống trong
hoàng tộc nầy.
Kinh Thánh không nói nhiều về
Ích-bô-sết, nhưng rõ ràng ông ta là một vua bù nhìn yếu đuối chịu dưới sự điều
khiển của Áp-ne (IISa 3:11 4:1). Ông ta chắc chắn còn trẻ để xông ra chiến
trường với cha và các anh khác, nên Sau-lơ để ông ở lai coi sóc triều chính (Có
thể ông ta không phải là người lính giỏi). Sau-lơ và Áp-ne đều biết rằng Đức
Chúa Trời đã cất vương triều khỏi tay Sau-lơ (ISa
13:11-14). Có thể do biết trước các con trai mình sẽ chết ngoài chiến
trường, Sau-lơ đã sắp xếp để con trai thứ tư của mình lên làm vua. Ích-bô-sết
được lên ngôi theo nhìn nhận chung, nhưng ông ta không
bao giờ được Đức Chúa Trời xức dầu. Ông ta được gọi là Ếch-Ba-anh trong ISu 8:33, từ nầy có nghĩa là “người của Chúa”. Từ
“ba-anh” có nghĩa là “chúa” và cũng là tên của một thần tượng của người
Ca-na-an, nên đó là lý do tên của ông được thay đổi.1
Áp-ne đưa Ích-bô-sết đến
Ma-ha-na-im, bờ đông sông Giô-đanh. Đây là thành ẩn náu của người Lê-vi, ở đó
ông ta được an toàn (Gios 21:38), Áp-ne đã
chọn nơi đó là thủ đô của “cả Y-sơ-ra-ên”. Nhưng có thể đã mất ít nhất 5 năm
Áp-ne mới thuyết phục được các chi phái (trừ chi phải Giu-đa) đi theo vị vua
mới nầy. Ích-bô-sết được đội vương miện khi Đa-vít bắt đầu bảy năm rưởi trị vì
của mình và ông ta đã bị ám sát sau khi trị vì “cả Y-sơ-ra-ên” được hai năm.
Ích-bô-sết không cai trị “cả Y-sơ-ra-ên” lâu, nhưng mọi người đều biết rằng
Áp-ne đang thao túng mọi việc.
Có một phong cách hiện
đại trong tình tiết nầy, vì thế giới chính trị và tôn giáo của chúng ta cũng
tồn tại ba loại người như vậy. Chúng ta có những người yếu đuối như Ích-bô-sết,
là người có được chỗ của mình nhờ “các mối quan hệ”. Chúng ta có những người
mạnh mẽ và ích kỷ như Áp-ne, là người biết làm thế nào để thao túng người khác
vì ích lợi bản thân. Chúng ta cũng có những người của Đức Chúa Trời như Đa-vít,
là những được kêu gọi, được xức dầu và được trang bị nhưng biết chờ đợi thời cơ
mà Chúa sắp đặt để hành động. Suốt hơn 50 năm chức vụ, tôi từng nhận thấy những
Hội Thánh và những tổ chức khác đã bỏ qua những người được Đức Chúa Trời chọn
lựa nhưng đưa những người không đủ tư cách vào những vị trí lãnh đạo chỉ vì họ
nổi tiếng và có “các mối quan hệ”.
Áp-ne có những gì ông ta
muốn, nhưng chỉ trong một vài năm ông đã mất tất cả.
Áp-ne thách thức quân
đội của Đa-vít (c.12-17). Khi Áp-ne lập Đa-vít làm vua, chắc
chắn ông ta đang muốn tuyên chiến với Đa-vít, và Đa-vít biết điều đó. Nhưng lúc
nầy Áp-ne có về phía mình tất cả các chi phái trừ chi phái Giu-đa và ông ta
biết mình có thể dễ dàng đánh bại Đa-vít, ông ta sẽ tiếp quản cả vương quốc.
Tin chắc chiến thắng nằm trong tầm tay, Áp-ne yêu cầu phải có cuộc giao tranh giữa hai đội quân, và cuộc chiến đó xảy ra ở hồ
Ga-ba-ôn. Đây không giống với thách thức của Gô-li-át đưa ra khi ông ta gọi một
trong những người lính của Sau-lơ ra giao tranh với ông ta (ISa 17:8-10). Nhưng Áp-ne đang chống nghịch Đức
Chúa Trời trong khi Đa-vít là người lãnh đạo được Đức Chúa Trời chọn lựa!
Đây là lần đầu tiên Giô-áp được nhắc
đến, ông là cháu của Đa-vít và là quan trưởng trong
quân đội của Đa-vít.2 Hai đội quân gặp nhau tại hồ, và 12 người lính
từ chi phái Bên-gia-min đối đấu với 12 người từ chi phái Giu-đa và tất cả 24
người nầy đều chết! Ngày đó, chiến trường nầy có một cái tên mới “cánh đồng
gươm”. Giô-áp và Áp-ne không mất thời gian giàn trận, và “trong ngày đó có một
cuộc chiến đấu rất dữ”. Áp-ne bại trận như một điềm gở cho tương lai ông.
Áp-ne giết cháu của
Đa-vít (c.18-23). Giô-áp,
A-bi-sai và A-sa-ên đều là cháu của Đa-vít, là con trai của Xê-ru-gia, chị Đa-vít
(ISu 2:13-16)3. Có thể hoặc do tự
ý hoặc nghe theo lệnh anh mình mà A-sa-ên đã đuổi theo Áp-ne, vì anh ta biết
rằng giết được người lãnh đạo của kẻ thù sẽ gây hoang mang và làm tản lạc tất
cả quân thù. Nếu Giô-áp ra lệnh cho người thanh niên “chạy lẹ làng như một con
hoàng dương rừng” nầy đuổi theo Áp-ne, thì có lẽ ông ta đang nghĩ về tương lai
của chính mình, vì Áp-ne là mối đe dọa cho địa vị quan trưởng của ông trong
tương lai.
Đoạn thuật ghi lại rõ
rằng Áp-ne không muốn làm hại đến chàng thanh niên A-sa-ên, nhưng A-sa-ên dai
dẳng đuổi theo sau. Ban đầu Áp-ne bảo A-sa-ên tránh xa ông ra và lấy bất cứ gì
anh ta thích từ những xác của các binh lính nằm đó. Sau đó Áp-ne cảnh cáo
A-sa-ên rằng nếu ông ta ra tay giết A-sa-ên, thì điều đó sẽ gây ra một “mối thù
truyền kiếp” về sau. Áp-ne biết Giô-áp và không muốn tạo ra mối xung đột gia
đình suốt đời. Giô-áp và Áp-ne là hai quan trưởng của hai phe đối địch là quá
tội tệ rồi. Khi A-sa-ên không chịu tránh đi, Áp-ne đã khôn khéo dùng mưu mẹo
của một người lính dày dạn: ông dừng lại đột ngột và để cho A-sa-ên tự sấn tới ngay cán giáo mình. Đầu cán giáo thường nhọn và sắc
nên có thể dễ dàng đâm nó xuống đất (ISa 26:7).
A-sa-ên té xuống đất và chết4. A-sa-ên chết ngoài chiến trường, dù
rõ ràng Áp-ne không có ý thậm chí không muốn giết
chết anh ta.
Áp-ne xin ngừng chiến (c.25-32). Hai anh của A-sa-ên, Giô-áp và A-bi-sai, có lẽ đã chạy
theo ngay sau đó vì họ đã tiếp tục đuổi theo Áp-ne, chắc chắn với quyết tâm trả
thù cho em mình, nhưng lực lượng của Áp-ne đã giải cứu ông ta. Áp-ne và người
Bên-gia-min rút quân lên đồi A-ma. Áp-ne biết ông đang bị săn đuổi (c.30-31),
nên ông xin ngưng chiến. Ông nghĩ rằng vì A-sa-ên tử trận nên Giô-áp và
A-bi-sai phải ngưng chiến để lo chôn cất em mình. Giu-đa và Bên-gia-min là anh
em với nhau, đều là con trai của Gia-cốp, tại sao anh em lại đánh nhau như vậy?
Nhưng chính Áp-ne là người khai chiến, nên chỉ một mình ông phải chịu trách
nhiệm. Là một người mưu mẹo, ông ta nghĩ ra kế hoạch nầy để chiếm trọn hai đội
quân mà không cần đổ máu.
Giô-áp biết lòng của
Đa-vít, đó là muốn thống nhất và bình định, không chia rẽ và gây chiến tranh,
nên ông ta thổi kèn ra lệnh quân của mình dừng lại mà không đuổi theo kẻ thù
nữa. Ông ta đã nói với Áp-ne rằng; “Ta chỉ Đức Chúa Trời hằng sống mà thề rằng,
nếu ông chẳng có nói chi, thì dân sự không thôi đuổi theo anh em mình trước khi
sáng mai” (c.27). Áp-ne và lính của người đi bộ suốt đêm để về lại Ma-ha-na-im,
và Giô-áp và quân của người trở về Hếp-rôn, và trên đường trở về họ đã dừng lại
tại Bết-lê-hem để chôn cất A-sa-ên. Suốt đoạn đường về đêm đó, Giô-áp và
A-bi-sai âm thầm tính kế trả thù cho em trai mình.
2. Áp-ne, người thương
thuyết (IISa 3:1-21)
Cụm từ “giao chiến nhau
lâu ngày” (c.1) không gợi ý sự tranh chiến liên tục, nhưng nói lên tình trạng thù địch kéo dài khoảng 2 năm, và thỉnh
thoảng những cuộc chiến mới xảy ra. Đa-vít đang chờ thời cơ, và biết rằng Đức
Chúa Trời sẽ giữ lời hứa của Ngài và ban cho ông ngai vàng của Y-sơ-ra-ên. Tại
Hếp-rôn, chính quyền của Đa-vít ngày càng vững mạnh (Thi
84:7), trong khi liên minh của các chi phái dưới quyền của Ích-bô-sết và
Áp-ne ngày càng suy yếu. Tuy nhiên, Áp-ne tinh khôn đang sử dụng địa vị của
mình trong nhà Sau-lơ để củng cố quyền lực của chính mình, vì ông ta đang sẵn
sàng lấy Đa-vít ra để mặc cả mà nhà vua không thể phản kháng (c.6).
Về phần Đa-vít, dòng dõi của ông
cũng ngày một tăng thêm (ISu 3:1-4), và vua
Đa-vít cũng có nhiều hậu cung như các vua phương đông khác. Dĩ nhiên,
Sa-lô-môn, con trai của Đa-vít, còn có nhiều hơn cha mình và các vua Do Thái
khác (IVua 11:3). Đa-vít đến Hếp-rôn với hai
vợ và trong thời gian nầy ông có được 6 con trai và 6 vợ. Tục đa thê bắt đầu từ
thời Lê-méc, một hậu duệ của Ca-in (Sa 4:19),
và không bị phản đối ở Y-sơ-ra-ên; nhưng bị cấm trong vòng các vua Y-sơ-ra-ên (Phu 17:17).
Am-nôn, con trưởng của Đa-vít, đã
cưỡng hiếp Ta-ma, em cùng cha khác mẹ của mình (IISa
13:1-38) và bị Áp-sa-lôm, anh ruột của Ta-ma, giết chết. Rồi Áp-sa-lôm
cũng bị giết trong khi đang âm mưu lật đổ ngôi vua của cha mình (14:1-18:33). Có thể do được mẹ mình ủng hộ nên
Áp-sa-lôm mới can đảm có âm mưu lớn như vậy. Chắc chắn cuộc hôn nhân của Đa-vít
với Ma-a-ca là vì lý do chính trị để Đa-vít có một đồng minh gần với
Ích-bô-sết. Ki-lê-áp được gọi là Đa-ni-ên trong ISu
4:1. Trong những ngày Đa-vít nằm trên giường bệnh, A-đô-ni-gia tìm cách
chiếm lấy ngai vàng và bị Sa-lô-môn xử tử (IVua
1:1-2:46). Chúng ta không biết gì về Sê-pha-tia và mẹ người là
A-bi-tanh, và Dít-rê-am và mẹ là Éc-la. Sau khi tái lập thủ đô ở Giê-ru-sa-lem,
Đa-vít cưới thêm các vợ khác và có thêm 11 con trai nữa (IISa 5:13-16).
Áp-ne bỏ theo Đa-vít (c.6-11). Áp-ne là một nhà chính trị thực tế cũng là một vị tướng
sắc sảo, phương châm của ông ta là “luôn đứng về phe thắng”. Khi ông ta thấy
ngôi vua của Ích-bô-sết không có chút tương lai nào, ông ta quyết định đánh đổi
lòng trung thành mình lấy sự an toàn cho bản thân. Đa-vít nổi tiếng là một
người nhân từ, và ông ta đã tỏ ra rất kiên nhẫn với nhà Sau-lơ.
Chúng ta không được biết
có thật Áp-ne đã quan hệ với
Rít-ba, vợ lẻ của Sau-lơ, và ông ta phủ nhận điều đó; nhưng nếu đúng như
vậy, ông ta đã phạm một tội nghiệm trọng. Hậu cung của vua quá cố sẽ thuộc về
người kế vị của vua đó, trong trường hợp nầy là Ích-bô-sết (IISa 12:8 16:15-23),
và bất kỳ người nào đòi hỏi đến một trong số họ tức là đòi hỏi vương quốc và
phạm tội mưu phản. Điều nầy đã dẫn đến cái chết của A-đô-na-gia (IVua 2:13-25). Rất có thể Áp-ne đã đến với Ríp-ba
để gây bất hòa với Ích-bô-sết và từ đó dễ dàng tuyên bố sự xoay đổi lòng trung
thành của mình. Nếu thật như vậy, ông ta đã thành công. Dĩ nhiên, vua
Ích-bô-sết không đủ mạnh để địch cùng Áp-ne, nay đã tuyên bố đứng về phía
Đa-vít. Từ “ngôi Đa-vít” được sử dụng trong câu 10, đây là lần đầu tiên xuất
hiện trong Kinh Thánh, và về sau ý nghĩa của nó có liên quan đến Đấng Mê-si-a (Es 9:6-7).
Áp- ne thương thuyết
với Đa-vít (c.12-21). Tình tiết nầy là một thí dụ rõ
ràng cho “thuật ngoại giao” ngày xưa.
- Áp-ne sai sứ giả đến
gặp Đa-vít với đề nghị trao toàn bộ Y-sơ-ra-ên cho Đa-vít cai trị (c.12).
- Đa-vít sai sứ giả đến
gặp Áp-ne để thông báo rằng ông nhận lời với điều kiện đầu tiên là dẫn Mi-canh
về cho ông, Mi-canh là vợ Đa-vít và là em của Ích-bô-sết (c.13).
- Áp-ne bảo Ích-bô-sết
tôn trọng yêu cầu của Đa-vít, và Đa-vít cũng nhắn gởi Ích-bô-sết phải cho
Mi-canh đến Hếp-rôn (c.14).
- Áp-ne hội ý với các
trưởng lão Y-sơ-ra-ên (c.17-18).
- Áp-ne hội ý với các
lãnh đạo của Bên-gia-min (c.19).
- Áp-ne và 12 người đại
diện của các chi phái đến Hếp-rôn, Mi-canh cùng đi với họ (c.15-16,20).
- Áp-ne và Đa-vít thống
nhất cách chuyển giao vương quốc, họ cùng dự tiệc với nhau và lập giao ước
(c.21).
Trong giai đoạn đầu của
sự thương thuyết nầy, sẽ nguy hiểm và thiếu khôn ngoan khi Đa-vít và Áp-ne gặp
nhau một cách cá nhân, nên họ dựa vào những quan chức của họ để tạo được mối
liên hệ cần thiết. Đa-vít không có lý do gì để không hợp tác với Áp-ne vì bản
thân ông không bao giờ thù địch với Áp-ne hay vua Sau-lơ. Rõ ràng Đa-vít là
người ưa chuộng hòa bình. Ông đã là con rể của nhà Sau-lơ, và ông tỏ ra tôn
trọng Áp-ne cũng như Ích-bô-sết, và quyết tâm thống nhất các chi phái càng sớm
càng tốt để tránh đổ máu. Đa-vít đã chờ đợi 7 năm, và đây là thời điểm ông hành động.
Tại sao Đa-vít ra điều kiện phải dẫn
Mi-canh đến cho ông? Thứ nhất, Mi-canh vẫn là vợ của Đa-vít, dù Sau-lơ đã đem
nàng gả cho người khác. 10 năm trước, khi họ cưới nhau, Mi-canh rất yêu thương
Đa-vít (ISa 18:20), và chúng ta có lý do để
tin rằng Đa-vít cũng yêu thương nàng. Đưa “hoàng hậu” của Đa-vít về với Đa-vít
chính là cách ngoại giao khéo léo, và thân thế của Mi-canh sẽ làm vững chắc hơn
những ràng buộc trong sự thống nhất đất nước. Qua việc đòi lại con gái Sau-lơ,
Đa-vít cũng tuyên bố đòi lại toàn bộ đất nước; và khi
Áp-ne dẫn Mi-canh đến Hếp-rôn, đó là lời tuyên bố công khai rằng ông đã tuyệt
giao với nhà Sau-lơ và liên minh với Đa-vít.
3. Áp-ne, một nạn nhân
(IISa 3:22-39)
Có vẽ như mọi chuyện
được dàn xếp ổn thỏa, nhưng vẫn còn đó những
trở ngại sẳn sàng bùng phát bất cứ lúc nào.
Ích-bô-sết vẫn cai trị trên ngôi vua và Đa-vít phải giải quyết ông ta và những
người ủng hộ nhà Sau-lơ. Áp-ne đã giết A-sa-ên, và Giô-áp đang đợi cơ hội trả
thù cho cái chết của em mình.
Giô-áp trách Đa-vít (c.22-25). Đa-vít đã sai Giô-áp và một số quân lính đi đánh trận và
đem về nhiều chiến lợi phẩm đóng góp cho đất nước. Khi trở về, Giô-áp nghe tin
Đa-vít đã chấp nhận Áp-ne và cùng ngồi bàn với người, Giô-áp rất giận và buôn
lời trách cứ vua. Giô-áp không thể hiểu được việc ấy; làm sao vị tướng của
Sau-lơ và là người đã giết A-sa-ên có thể đến và đi bình an như vậy. Lòng của
Giô-áp vẫn còn đau đớn về cái chết của em mình, và Giô-áp không thể hiểu được
cách cư xử của vua mình. Dĩ nhiên, Giô-áp cũng đang bảo vệ địa vị của mình và
Áp-ne cũng vậy, nhưng không giống Đa-vít, Giô-áp không tin chút nào vào lời nói
và việc làm của Áp-ne. Giô-áp chắc rằng Áp-ne đến để tìm cách lật đổ Đa-vít. Vị
quan trưởng lắm mưu mẹo nầy chỉ có thể đang do thám tình hình và chuẩn bị tấn
công.
Kinh Thánh không cho biết Đa-vít trả
lời thế nào. Giô-áp không thể chịu được như vậy (IISa
3:39), và việc ông ta là một người bà con của vua đã làm cho tình hình
thêm khó khăn. Những tác động của dòng họ nhà Đa-vít nhiều vợ, nhiều con và
nhiều bà con thân thuộc có địa vị cao tạo ra những
nan đề không bao giờ chấm dứt cho nhà vua, và chúng không dễ giải quyết. Sự im
lặng của Đa-vít không phải là sự đồng ý, vì ông không nhất trí với quan trưởng
của mình; Đó là sự im lặng dồn nén và là bằng chứng cho thấy mối quan tâm lớn
nhất của ông là làm thế nào để thống nhất đất nước. Đa-vít không chủ trương
“hòa bình bằng mọi giá”, vì ông là một người liêm chính; nhưng ông không muốn
vị quan trưởng nóng tính của mình lấy danh nghĩa của vua giải quyết mối thù cá
nhân. Những ẩn ý trong Thi thiên 120 có lẽ nói đến tình trạng của Đa-vít trong
giai đoạn nầy.
Giô-áp lừa Áp-ne và
giết chết ông ta (c.26-27). Giô-áp cho rằng Áp-ne là kẻ nói dối
(c.25) nhưng chính ông ta đã lừa đối! Chúng ta thường phạm những tội mà chúng
ta nói người khác phạm, và “lấy độc trị độc”.
Giô-áp chắc đã lấy danh nghĩa của vua để sai sứ giả hoặc Áp-ne hẳn đã cẩn thận
hơn. Áp-ne không thấy Giô-áp trong cung vua, nên nghĩ rằng ông ta vẫn còn ngoài
chiến trường và bận rộn với những cuộc chinh phạt. Giô-áp và em trai, A-bi-sai
(câu 30) đang chờ Áp-ne và dẫn ông ta đến nơi hẻo lánh ngoài cổng thành, đâm
vào sườn ông ta ngay chỗ ông ta đã đâm A-sa-ên (2:23).
Mọi chuyện về cái chết của Áp-ne đều
sai. Hai anh em nầy biết vua mình muốn đều gì, nhưng họ đã cố ý đặt lợi ích của
mình lên trên lợi ích của đất nước. A-sa-ên đã đuổi
theo Áp-ne ngoài chiến trường, nên do vô tình mà ông ta chết, cái chết trong
chiến tranh; nhưng cái chết của Áp-ne là một vụ ám sát. Hếp-rôn là thành ẩn
náu, một nơi thánh mà những kẻ bị buộc tội giết người có thể được xét xử công
bằng, nhưng hai anh em nầy không cho các trưởng lão tại Hếp-rôn có cơ hội biết
sự việc việc ấy. Áp-ne đã giết A-sa-ên để tự vệ; nhưng Giô-áp và A-bi-sai giết
Áp-ne là để trả thù và Áp-ne không có cơ hội bào chữa cho mình. Cái chết của
A-sa-ên xảy ra vào ban ngày và mọi người có thể chứng kiến sự việc xảy
ra, nhưng Áp-ne bị lừa và bị dẫn đến nơi chỗ tối và vắng vẻ. A-bi-sai đã từng
cùng Đa-vít và trại quân của Sau-lơ chứng kiến việc Đa-vít không thiếu cơ hội
để giết Sau-lơ (ISa 26:6), nên ông ta biết
Sau-lơ không bao giờ ủng hộ mình giết quan trưởng của Sau-lơ. Chúng ta không biết khi bị giết Áp-ne có nghĩ oan cho Đa-vít đã liên quan
trong âm mưu sát hại nầy hay không.
Đa-vít tỏ lòng kính
trọng Áp-ne (c.28-29). Khi Đa-vít hay tin Áp-ne chết, ngay
lập tức ông khẳng định mình không biết gì về việc hai cháu của mình đã làm.
Thật vậy, ông đã rủa sả nhà Giô-áp, nhắc đến một số bệnh dịch mà Môi-se đã cảnh
cáo trong Giao Ước (Phu
28:25-29,58-62).
Đa-vít ban lệnh cho quan trưởng Giô-áp và tất cả đội quân của ông ta phải than
khóc và dự đám tang Áp-ne. Cụm từ “cả dân sự” được lập lại nhiều lần từ câu
31-37, và ám chỉ đến lính trong đội quân của Giô-áp (IISa
2:28 12:29). Đa-vít ra lệnh cho họ
phải xé áo, thắt bao nơi lưng và than khóc cho cái chết của một vĩ nhân, và
chính Đa-vít đã đi theo sau linh cữu đến nơi chôn cất. Vì Giô-áp và A-bi-sai có
mặt trong số những người đưa tang, nên nhiều người không biết họ chính là những
người đã giết chết Áp-ne. Đa-vít không đưa họ ra xét xử công khai, rất có thể
câu 28 và 29 là những lời Đa-vít nói riêng với họ. Đa-vít cố hết sức bảo vệ họ
dù họ không đáng được như vậy.
Như đối với Sau-lơ và
Giô-na-than, Đa-vít đã viết một bài điếu cho Áp-ne (c33-34,38). Ông nói rõ
Áp-ne không chết vì hành động ngu dại của bản thân, và ông ta không bao giờ là
một tù binh trong suốt thời gian làm việc trong quân đội. Ông ta đã ngã xuống
trước mặt những kẻ gian ác là những người đã lừa dối ông. Đa-vít đã tỏ lòng
kính trọng Áp-ne, chôn người ở Hếp-rôn trong đất của hoàng tộc và không đem ông
ta về lại Bên-gia-min. Sau đó, Đa-vít nói với các đầy tớ thân cận mình rằng
Áp-ne là “một quan trưởng, một đại nhân”. Đa-vít cũng cho con trai Áp-ne là
Gia-a-si-ên làm quan trong chi phái Bên-gia-min.
Lời ai oán của Đa-vít về chính mình trong câu 39 được nói ra cho những
người trong “nội cung” và cho thấy những vấn đề trong chính gia đình của mình
mà ông phải đối diện. Từ “yếu” không ngụ ý Đa-vít chưa đủ mạnh mẽ để làm vua,
nhưng có ý nói Đa-vít còn “dè dặt và nhẹ nhàng” khi xử lý hai người cháu “cường
bạo” của mình. Đa-vít đã kinh nghiệm tính nhu mì hiền lành của Đức Chúa Trời (IISa 22:36), và ông cố gắng đối xử với người khác
như Đức Chúa Trời đối xử với ông. Chắc chắn ông còn nhẹ nhàng hơn khi đối đãi
với người trong gia đình mình (18:5,14), nhưng Đa-vít
là người làm vừa lòng Đức Chúa Trời (Thi 103:8-14).
Tất cả những gì Đa-vít có thể làm là để Đức Chúa Trời
phán xét, vì Ngài không bao giờ phạm sai lầm.
4. Ích-bô-sết, người
thất bại (IISa 4:1-12)
Nếu Đa-vít nghĩ rằng ông
yếu đuối vì hành vi của hai người cháu mình, thì ông nên nghĩ đến tình trạng
của Ích-bô-sết sau cái chết của Áp-ne. Đa-vít ít nhất cũng là một chiến binh vĩ
đại và là một người lãnh đạo đầy ơn, trong khi Ích-bô-sết chỉ là con bù nhìn
trong tay của quan trưởng Áp-ne, giờ đây vị quan trưởng ấy đã không còn. Dân sự
của các chi phái mà ông cai trị biết rằng cái chết của Áp-ne đồng nghĩa với sự
kết thúc triều đại của vua họ, và chắc chắn họ biết trước rằng Đa-vít và quân
của ông sẽ sớm tràn đến. Những người dân thường không biết gì về những ý định
của Đa-vít và sự gặp gỡ gần đây giữa Đa-vít và Áp-ne. Đó là ngày đau buồn cho
Ích-bô-sết và dân sự của ông ta.
Đoạn thuật về Ba-a-na và Rê-cáp nhắc
chúng ta nhớ về người A-ma-léc trong IISa 1:1-16,
là người tự nhận mình đã giết Sau-lơ. Hai người nầy là hai vị tướng nhỏ trong
quân đội của Áp-ne, họ nghĩ rằng họ sẽ được Đa-vít ban thưởng và trọng dụng nếu
họ giết Ích-bô-sết, và giống như người A-ma-léc kia, họ đã sai lầm. Người duy
nhất kế vị ngôi Sau-lơ còn sống sót là một cậu bé 12 tuổi tật nguyền tên
Mê-phi-bô-sết, nên nếu Ba-a-na và Rê-cáp giết vua, Đa-vít sẽ dễ dàng chiếm ngai
vàng và thống nhất đất nước (Chúng ta sẽ gặp lại Mê-phi-bô-sết trong 9:1-13 16:1-4 19:24-30 21:7-8).
Hai người giả vờ xâm nhập cung vua
với ý định lấy lúa mì cho quân lính của họ, trong khi vua đang ngủ và không có
người bên cạnh bảo vệ, họ đã giết chết vua. Nếu vụ ám sát Áp-ne là một tội ác
đánh ghê tởm, thì vụ ám sát nầy còn ghê tởm hơn nhiều; vì “tội” duy nhất của
Ích-bô-sết đó là ông ta là con trai của Sau-lơ! Ông ta không vi phạm luật pháp,
không làm hại người nào, và cũng không có cơ hội để tự vệ. Những người giết ông
còn không tôn trọng thi thể của ông, họ đã cắt đầu ông đem làm bằng chứng đến
trước mặt Đa-vít với hy vọng được ban thưởng. Tồi tệ hơn khi hai người nói với
Đa-vít rằng Đức Giê-hô-va đã báo thù!
Câu trả lời của Đa-vít cho thấy rõ
chưa bao giờ trong sự nghiệp mình ông vi phạm điều
răn của Đức Chúa Trời để giết hại người khác nhằm đạt được mục đích của mình.
Đức Giê-hô-va đã đoái xem ông và bảo vệ ông suốt 10 năm tha hương và hơn 7 năm
làm vua ở Hếp-rôn. Khi Sau-lơ và Áp-ne chết, Đa-vít chứng tỏ mình không có liên
quan gì. Kẻ thù của Đa-vít hẳn sẽ đồn đại rằng chính ông đã bày mưu để giết hại
cả Sau-lơ và Áp-ne để mở đường tiến thẳng đến ngai vàng của Y-sơ-ra-ên.
Theo lệnh vua Đa-vít,
những đầy tớ ông đã giết hai kẻ sát nhân đó, cắt tay chân họ, và treo xác họ lên như bằng chứng cho sự công bình của vua. Bị treo xác nơi
công cộng là một sĩ nhục rất lớn (Phu 21:22-23).
Đa-vít cho chôn đầu của Ích-bô-sết tại Hếp-rôn, trong phần mộ của Áp-ne, vì họ
có bà con với nhau.
4 “người cai trị” mà Phao-lô đã nói
đến trong Ro 5:1-21 thật sự đã sống động
trong thời Đa-vít. Tội lỗi đang cai trị (5:21)
khi con người lừa dối nhau, thù ghét nhau, và tìm cách diệt trừ nhau. Sự chết
cũng cai trị (5:14,17) khi A-sa-ên, Áp-ne và Ích-bô-sết bị giết chết,
cùng với gần 400 binh lính đã ngã xuống trong trận chiến ở hồ Ga-ba-ôn. Nhưng
ân điển của Đức Chúa Trời cũng cai trị (5:21),
vì Ngài bảo vệ Đa-vít và thắng hơn tội lỗi của con người để làm thành những mục
đích thiêng liêng của Ngài. “Nhưng nơi nào tội lỗi đã gia thêm, thì ân điển lại
càng dư dật hơn nữa” (5:20). Nhưng Đa-vít
“cai trị trong sự sống” (5:17) và để Đức
Chúa Trời điều khiển ông khi đối diện với sự nguy khốn hết lần nầy đến lần
khác. Ông được Đức Chúa Trời ban sức lực, và chính Ngài đã dẫn ông qua khỏi
từng hiểm nguy và giúp ông thành công.
Ngày nay trong những lúc khó khăn và thử thách, dân sự của Đức Chúa Trời có thể
“cai trị trong sự sống bởi Chúa Cứu Thế Giê-xu” nếu chúng ta biết đầu phục
Ngài, chờ đợi Ngài và tin nơi lời hứa của Ngài.
3. ĐA-VÍT, VUA
Y-SƠ-RA-ÊN (IISa 5:1-6:23 ISu 3:4-8 11:1-9 13:5-16:3)
Cuộc đời Đa-vít thật đặc
biệt! Khi là một người chăn chiên, Đa-vít đã giết sư tử và gấu, và những thắng
lợi nầy đã chuẩn bị để Đa-vít giết gã khổng lồ Gô-li-át. Đa-vít hầu việc như
một người hầu cho vua Sau-lơ và thân thiết với Giô-na-than, con trai Sau-lơ.
Trong suốt 10 năm Đa-vít lưu lạc trong đồng vắng Giu-đa để trốn Sau-lơ và ở đó
càng ngày ông càng học biết tin cậy Đức Chúa Trời hơn. Ông đã kiên nhẫn chờ đợi
Đức Chúa Trời ban cho ông ngai vàng như đã hứa, và thời điểm đó đã đến. Chính
bởi đức tin và lòng kiên nhẫn mà con cái Đức Chúa Trời hưởng được những gì Ngài
đã hứa (He
6:12), và Đa-vít đã tin cậy Đức Chúa Trời
trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Đa-vít lên ngôi khi dân sự chia rẽ nhau,
nhưng với sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời ông đã hiệp họ lại và xây dựng
Y-sơ-ra-ên thành một đất nước vững mạnh. Nhưng đoạn nầy cho chúng ta thấy những
bước hành động của Đa-vít để thống nhất và củng cố đất nước.
1. Đa-vít lên ngôi (IISa 5:1-5)
Vụ ám sát Ích-bô-sết làm
cho 11 chi phái không còn vua và người thừa kế ngôi Sau-lơ. Áp-ne đã qua đời, nhưng ông ta đã dọn đường cho Đa-vít làm vua
cả 12 chi phái của Y-sơ-ra-ên (IISa 3:17-21).
Bước tiếp theo là các lãnh đạo của tất cả các chi phái tập trung tại Hếp-rôn và
trao ngôi vua cho Đa-vít.
Phẩm chất của một vị vua Y-sơ-ra-ên
được ghi lại trong Luật Pháp Môi-se trong Phục Phu
17:14-20. Yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất là vua ấy phải được Đức
Chúa Trời chọn lựa từ dân Y-sơ-ra-ên, là người “Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi
sẽ chọn” (17:15,20). Dân sự biết rằng Sa-mu-ên đã xức dầu cho
Đa-vít làm vua khoảng 20 năm trước và Đức Chúa Trời định ý cho Đa-vít lên ngôi
(IISa 5:2). Dân sự cần một người chăn dắt,
và chính Đa-vít là người chăn đó (Thi 18:70-72).
Sau-lơ đã là “vua của dân sự” nhưng ông ta không phải là sự lựa chọn đầu tiên
của Đức Chúa Trời, vì Đức Chúa Trời đã dùng ông để trừng phạt Y-sơ-ra-ên bởi họ
muốn giống các dân khác (ISa 8:1-22 Os 13:11). Đức Giê-hô-va yêu thương dân sự Ngài và
biết họ đang cần một người chăn, nên Ngài chuẩn bị Đa-vít để làm vua của họ.
Không giống Sau-lơ, là người xuất thân từ chi phái Bên-gia-min, Đa-vít xuất
thân từ chi phái Giu-đa, là chi phái nhà vua (Sa
49:10) và được sinh ra và lớn lên ở Bết-lê-hem. Bởi điều nầy, Đa-vít có
thể lập một triều đại mà qua đó Chúa Cứu Thế Giê-xu bước vào thế gian, và Ngài
cũng giáng sinh tại Bết-lê-hem.
Dân sự tập trung tại Hếp-rôn để nhắc
Đa-vít rằng ông thuộc về cả dân sự, không phải chỉ thuộc một mình chi phái
Giu-đa (IISa 5:1). Trong thời gian đầu của
sự nghiệp Đa-vít, dân sự nhận thấy bàn tay của Đức Chúa Trời ở trên ông, vì Đức
Chúa Trời ban ông nhiều chiến thắng vang dội về mặt quân sự. Những người đại
diện của các chi phái đã có mặt tại Hếp-rôn và họ hết lòng trung thành với vị
vua mới (ISu 12:23-40). Con số các quan chức
lên đến 340.800 người, tất cả họ đều trung thành với Đa-vít. Dân sự ở lại đó
với Đa-vít 3 ngày và ca ngợi sự nhân từ của Đức Chúa Trời đối với dân sự Ngài.
Nền tảng của dân Y-sơ-ra-ên là giao
ước của Đức Chúa Trời với họ được mô tả trong Luật Pháp Môi-se, đặc biệt Phu 27:1-30:20 Le
26:1-49. Nếu vua và dân sự vâng lời Đức Chúa Trời, Ngài sẽ ban ơn và gìn
giữ họ; nhưng nếu họ không vâng lời và thờ thần tượng, Ngài sẽ trừng phạt họ.
Mỗi vị vua mới phải xác nhận quyền uy tối thượng của luật pháp Đức Chúa Trời,
hứa vâng theo nó, và còn phải chép luật pháp ấy ra một bản dành riêng cho mình
(Phu 17:18-20). Đa-vít lập giao ước của Đức
Chúa Trời và dân sự, hứa gìn giữ và vâng theo luật pháp Đức Chúa Trời để cai
trị trong sự kính sợ Đức Chúa Trời (ISa 10:17-25
IIVua 11:17).
Khi Đa-vít còn là một thiếu niên,
Samuên đã xức dầu cho ông nơi riêng tư (ISa 16:13)
và các trưởng lão của chi phái Giu-đa xức dầu cho ông làm vua ở tuổi 30 (IISa 2:4). Nhưng giờ đây các trưởng lão của cả đất
nước đã xức dầu cho Đa-vít và công bố ông là vua của họ. Đa-vít không phải là
một người thiếu kinh nghiệm, nhưng là một chiến binh dày dạn và là người có ân
tứ lãnh đạo; đời sống và chức vụ ông được Đức Chúa Trời chúc phước. Sau những
năm tháng nhiễu nhương và bị chia cắt, đất nước nay đã có một vua theo sự chọn
lựa của Đức Chúa Trời và cả dân sự. Đức Chúa Trời phải bỏ thời gian để chuẩn bị
cho Ngài những người lãnh đạo, và thật đáng tiếc cho người nào “thành công” trước khi sẵn sàng tiếp nhận sự thành
công đó.
2. Đa-vít lập thủ đô
mới (IISa 5:6-10) (ISu 11:4-9)
Áp-ne và Ích-bô-sết đã
lập thủ đô của họ tại Ma-ha-na-im (IISa 2:8), bên kia sông Giô-đanh nằm trên biên
giới của Gát và Ma-na-se, trong khi thủ đô của Đa-vít ở tại Hếp-rôn thuộc chi
phái Giu-đa. Nhưng không thành nào thích hợp cho vị vua mới, là người đang nổ
lực thống nhất đất nước và tạo nên một sự khởi đầu mới. Đa-vít rất khôn ngoan
khi chọn thủ đô của mình tại thành Giê-bu thuộc Giê-ru-sa-lem nằm trên biên
giới của Bên-gia-min (chi phái của Sau-lơ) và Giu-đa (chi phái của Đa-vít).
Giê-ru-sa-lem chưa bao giờ thuộc về bất kỳ chi phái nào, nên không ai có thể
buộc tội Đa-vít khi lập thủ đô mới của mình ở đó.
Quan tâm đến chính trị
rất cần thiết, nhưng tính về sự an ninh và
địa thế thì Giê-ru-sa-lem là một thủ đô lý tưởng. Nằm trên một ngọn đồi, ba mặt
của nó có thung lũng và đồi núi bao quanh, thành nầy chỉ có thể bị tấn công từ
hướng bắc. Trũng Hin-nôm ở phía nam, trũng Xếp-rôn ở phía đông, và trũng
Tyropean ở phía tây. “Núi Si-ôn đẹp đẽ nổi lên về phía bắc, là kinh đô của Vua
cao cả, và là sự vui vẻ của cả thế gian” (Thi 48:2).
“Từ Si-ôn tốt đẹp toàn vẹn, Đức Chúa Trời đã
sáng chói ra” (Thi 50:2). Người
Do Thái luôn yêu quí Giê-ru-sa-lem, và này nay Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi
giáo đều tôn sùng nó. Được sinh ra ở Giê-ru-sa-lem thật sự là một vinh dự lớn (Thi 87:4-6).
Đức Giê-hô-va chắc đã hướng dẫn
Đa-vít cách rất đặc biệt khi ông chọn Giê-ru-sa-lem làm thủ đô, vì
Giê-ru-sa-lem đóng vai trò chiến lược trong việc thực hiện kế hoạch cứu rỗi vĩ
đại của Ngài. Đức Chúa Trời có hứa với dân Do Thái rằng Ngài sẽ chọn ra một nơi
để họ đến thờ phượng Ngài (Phu 12:1-7), và
Ngài đã mặc khải cho Đa-vít biết nơi đó chính là Giê-ru-sa-lem. Sau đó, Đa-vít
mua đất ở Si-ôn, khu đất nầy là vị trí của đền thờ mà Sa-lô-môn, con trai
Đa-vít, xây dựng (IISa 24:1-25). Hội Thánh
ngày nay xem Giê-ru-sa-lem như là một thành phố bị ràng buộc trong chủ nghĩa
hợp pháp, nhưng Giê-ru-sa-lem trên trời là biểu tượng của giao ước bởi ân diển
của Chúa Cứu Thế Giê xu (Ga 4:21-31) và là
quê hương đời đời của dân sự thuộc về Chúa Cứu Thế (He
12:18-24 Kh 21:1-22:21). Đức Chúa
Trời đã lập Vua của Ngài trên ngôi (Thi 2:6),
và sẽ đến một ngày Ngài phán trong cơn thạnh nộ, trừng phạt những người chống
nghịch Ngài và lẽ thật của Ngài.
Người Giê-bu-sít sống ở
Giê-ru-sa-lem nghĩ rằng đồn lũy của họ vô vùng vững chắc và thậm chí người mù
và người què cũng có thể bảo vệ được nó, lời khoát lác nầy làm Đa-vít nổi giận.
Ông nhớ Đức Chúa Trời có hứa với Môi-se rằng Y-sơ-ra-ên sẽ đánh bại tất cả các
dân sống ở Ca-na-an, kể cả dân Giê-bu-sít (Xu
23:23-24 Phu 7:1-2 20:17), nên bởi đức tin ông đã lên kế hoạch tấn
công. Ông hứa rằng người nào vào được thành ấy và đánh bại nó ông sẽ cho làm
quan trưởng cho đội quân của mình, và ông còn dạy cho người đó biết phải làm
thế nào: đi theo khe nước. Giô-áp, cháu của Đa-vít chấp nhận thách thức nầy, đã
đánh chiếm thành và trở thành quan trưởng của đội quân Đa-vít. Những cuộc khai
quật tại núi Si-ôn đã tìm thấy một khe nước hiểm trở nhưng không thể không vượt
qua. Đa-vít chiếm được núi nầy và đặt tên cho vùng phía nam của nó là “thành
Đa-vít”. Trong những năm sau, Đa-vít và những người kế vị ông đã cho xây những
bức tường thành xung quanh để củng cố thành nầy.
Từ “Mi-lô” (c.9) có nghĩa là “trọn
vẹn” và chỉ con đê được xây bằng đá ở sườn đông nam của núi ấy để làm vững chắc
những công trình khác và bức tường thành. Những nhà khảo cổ đã tìm thấy một
công trình mà họ gọi là “cấu trúc đá bậc thang” dài khoảng 1.500 feet và rộng
khoảng 900 feet, đó là một nền móng cao nâng đỡ những công trình khác, và họ
cho rằng nó là “mi-lô”. Cả Sa-lô-môn và vua Ê-xê-chia đã cũng cố vùng núi Si-ôn
nầy. Ơn phước của Đức Chúa Trời ở trên Đa-vít và ban cho ông thành công trong
việc ông làm cho dân sự.
Có thể đây là lúc Đa-vít đem đầu của
Gô-li-át đến Giê-ru-sa-lem để nhắc dân sự nhớ sự thành tín của Đức Chúa Trời (ISa 17:54)
3. Đa-vít thiết lập các
liên minh chính trị (IISa
5:11-16) (ISu 3:5-9 14:1-7)
Y-sơ-ra-ên là một nước
nhỏ nhưng rất khác với các nước láng giềng vì có mối
thông công giao ước với Đức Chúa Trời chân thần và hằng sống (Dan 23:7-10), và dân Do Thái được cảnh cáo là đừng
nên thiết lập liên minh với các nước láng giềng. Nếu người kế vị ông không
trùng tên với ông, Hi-ram có thể vừa lên ngôi vua của Ty-rơ, vì ông ta thân với
cả Đa-vít và Sa-lô-môn trong suốt những năm trị vì của mình (IVua 5:1-18).
Rất có thể cung điện của Đa-vít được
xây cho ông sau những lần đánh thắng dân Phi-li-Tin (IISa
5:17-25), và đây có thể là cách Hi-ram thừa nhận ngôi vị của Đa-vít.
Chắc chắn vua Phê-ni-xi cũng đánh giá cao sự kiện Đa-vít đánh thắng dân Phi-li-tin.
Từ thực tế nầy, dân Phê-ni-xi cần phải giao hảo với dân Do Thái vì Y-sơ-ra-ên
có thể dễ dàng ngăn trở tuyến đường thương mại đến Ty-rơ, và người Phê-ni-xi
phải lệ thuộc vào người Do Thái về vấn đề lương thực. (Cong
12:20) Đa-vít giải thích lòng tốt của Hi-ram là bằng chứng cho thấy Đức
Chúa Trời thật đã lập ông trên ngôi Y-sơ-ra-ên.
Khi đề cập đến cung điện Đa-vít và
mối quan hệ của ông với Hi-ram, tác giả có cơ hội đề cập đến gia đình của
Đa-vít, “nhà” mà Đức Chúa Trời đang lập nên cho ông (Thi
127:1-5). Phu 17:17 cấm vua
Y-sơ-ra-ên cưới nhiều vợ, nhưng dường như Đa-vít bỏ qua luật lệ nầy, và
Sa-lô-môn cũng noi theo gương ông (IVua 4:26
11:1-4). Trong số những người vợ của Đa-vít
có ít nhất có một người là công chúa (IISa 3:3),
điều nầy cho thấy cuộc hôn nhân ấy là vì mục đích chính trị, và chắc chắn có
những cuộc hôn nhân khác. Đây là cách thắt chặt mối quan hệ tốt đẹp với các
nước khác.
Trong Kinh thánh có 4 chỗ liệt kê
tên các con của Đa-vít – những người được sinh ra trong thời gian ông cai trị
tại Hếp-rôn (IISa 3:2-5) và những người được
sinh sau khi ông chuyển đến Giê-ru-sa-lem (IISa
5:13-16 ISu 3:1-9 14:4-7). Vợ đầu tiên của Đa-vít là Mi-canh, con
gái Sau-lơ (ISa 18:27), người nầy không có
con (IISa 6:23). Ở Hếp-rôn, A-hi-nô-am người
Gít-rê-ên sinh Am-nôn, con đầu lòng của Đa-vít (IISa
3:2) A-bi-ga-in, quả phụ của Na-banh, sinh Ki-lê-át, hay còn gọi là
Đa-ni-ên (IISa 3:3); công chúa Ma-a-ca sinh
Áp-sa-lôm (3:3) và Ta-ma (13:1) Ha-ghít sinh A-đô-ni-gia (3:4) A-bi-tanh sinh Sê-pha-tia (3:4) và Ec-la sinh Dít-rê-am (3:5). Ơ Giê-ru-sa-lem Bát-sê-ba sinh cho Đa-vít 4
con trai (ISu 3:5): Si-mê-a, Sô-báp, Na-than
và Sa-lô-môn. Những người vợ không được nhắc tên (ISu
3:6-9) đã sinh cho Đa-vít Gi-ba, Ê-li-sa-ma, Ê-li-phê-lết, Nô-ga,
Nê-phết, Gia-phia, Ê-li-sa-ma, Ê-li-gia-đa, (hay Bê-ên-gia-đa ISu 14:7), Ê-li-phê-lết.
Đa-vít cũng có con trai với những
con đòi, nên ông phải cai quản một gia đình lớn. Dĩ nhiên trong số đó có những
đứa con âm thầm mưu phản làm Đa-vít rất đau lòng. Luật pháp nói rõ rằng vua
không được có nhiều vợ, nhưng cả Đa-vít và Sa-lô-môn đều bỏ qua luật lệ nầy, và
cả hai đã phải trả giá đắt cho sự không vâng lời ấy. Trong số những người vợ
của Đa-vít có một số người, giống như Ma-a-ca, là đại diện cho các mối liên
minh mà Đa-vít lập với các vua láng giêng để bảo đảm an ninh cho Y-sơ-ra-ên.
4. Đa-vít đánh bại dân
Phi-li-tin (IISa 5:17-25) (ISu 14:8-17)
Bao lâu Đa-vít còn ở
Hếp-rôn, dân Phi-li-tin còn nghĩ ông là một trong những vua chư hầu của họ;
nhưng khi ông làm vua toàn cõi Y-sơ-ra-ên,
dân Phi-li-tin nhận ra ông là kẻ thù và bắt đầu tấn công ông. Có thể những cuộc
tấn công nầy xảy ra trước khi Đa-vít dời đến Giê-ru-sa-lem, vì ông và lính của
mình đã đi đến “đồn” (IISa 5:17), khu vực
đồng vắng mà ông đã sống trong những ngày bị Sau-lơ đuổi giết (ISa 24:4 23:13-14).
Đa-vít ra lệnh đánh quân Phi-li-tin và nhanh chóng dẫn dắt binh lính của mình
và chạm trán với những kẻ xâm lược tại trũng Rê-pha-im, cách Giê-ru-sa-lem
không xa.
Như những lần trước, Đa-vít tìm kiếm
ý muốn của Đức Chúa Trời trong kế hoạch tấn công của mình, có lẽ bằng U-rim và
Thu-mim, hoặc qua tiên tri Gát mà ông tìm biết ý muốn Đức Chúa Trời. Được Đức
Chúa Trời bảo đảm rằng Ngài sẽ cho chiến thắng, Đa-vít gặp quân Phi-li-tin cách
tây nam Giê-ru-sa-lem 2 dặm, và ông buộc họ rút lui.
Họ rút quân ra khỏi đồng vắng nhanh đến mức đã đánh rơi các tượng thần của họ
lại, và Đa-vít và lính của ông đã đem chúng đi thiêu hủy. Dân Phi-li-tin tin
rằng có các thần tượng của họ bên cạnh chắc chắn chiến thắng sẽ đến với
họ, nhưng họ đã sai lầm. Đa-vít đã dâng mọi vinh quang cho Đức Chúa Trời và gọi
nơi đó là Ba-anh-Phê-rát-sim, có nghĩa là “Đức Giê-hô-va phát lộ”.
Một số nhà giải kinh cho rằng trong
thời gian đó những binh lính người Gát đã gia nhập vào đội quân của Đa-vít (ISu 12:8-15), có thể đây là lần ba trong số những
người “mạnh dạn” của Đa-vít đi băng qua trại quân Phi-li-tin để lấy nước từ
giếng Bết-lê-hem về cho ông (IISa 23:13-27 ISu 11:15-19). Đây là hành động của người can đảm
và có đức tin lớn, và việc làm của họ là sự đáp lại sự mong ước từ trong lòng
Đa-vít, không phải là sự tuân theo mệnh lệnh từ môi miệng ông. Họ đi lấy nước
vì họ yêu mến vua của họ và muốn làm vua vui lòng. Thật họ là tấm gương sáng
cho chúng ta noi theo!
Quân Phi-li-tin lại gây chiến với Đa-vít lần thứ hai, và lần thứ hai
Đa-vít tìm kiếm ý muốn của Đức Chúa Trời. Không giống Giô-suê sau chiến thắng
tại Giê-ri-cô (Gios 6:1-7:26), Đa-vít không
nghĩ sẽ dùng lại chiến lược cũ. Đức Chúa Trời cho ông một kế hoạch mới, ông
vâng theo đó, và Ngài ban chiến thắng cho ông. Có tiếng gì trên các ngọn cây?
Chỉ có tiếng gió? Tiếng thiên sứ (Thi 104:4)?
Tiếng của Đức Chúa Trời đến để dẫn đất dân sự Ngài giành chiến thắng? Kế hoạch
được tiến hành và Đa-vít đuổi được kẻ thù từ Ghê-ba cho đến Ghê-xe, khoảng từ
15-20 dặm. Qua chiến thắng nầy, Y-sơ-ra-ên đã lấy lại được những vùng đất mà
Sau-lơ đã đánh mất trong trận chiến cuối cùng của ông. Trong những chiến dịch
sau nầy, Đa-vít cũng lấy lại được những thành mà dân Phi-li-tin chiếm được của
Sau-lơ (IISa 8:1 ISu
18:1). Đa-vít đánh trận với quân Phi-li-tin nhiều lần, và Đức Giê-hô-va
ban cho ông từ thắng lợi nầy đến thắng lợi khác.
Từ lâu rồi dân sự biết Đa-vít là một
chiến binh khôn ngoan và gan dạ, và hai chiến công
nầy càng tôn vinh Đức Chúa Trời và tôi tớ Ngài. Qua chiến thắng trên quân
Phi-li-tin, Đa-vít làm cho các kẻ thù của Y-sơ-ra-ên phải thận trọng hơn với
những gì họ làm với ông và dân sự ông.
5. Đa-vít dời hòm giao
ước (IISa 6:1-23) (ISu 13:1-13 15:1-16:3)
Hòm giao ước được đặt ở nơi Chí Thánh trong đềm tạm, vì nó tượng trưng cho
ngôi vinh hiển của Đức Chúa Trời (Thi 80:1 99:3) nhưng hơn 75 năm, hòm giao ước không có mặt
trong đền thánh ở Si-lô. Dân Phi-li-tin đã cướp lấy hòm giao ước khi Hê-li làm
quan xét (ISa 4:1-22), và sau đó trả nó về
cho dân Do Thái vì Đức Giê-hô-va đã giáng sự đoán phạt Ngài trên dân
Phi-li-tin. Ban đầu hòm giao ước được gởi đến Bết-Sê-mết và sau đó được đem đến
Ki-ri-át Giê-a-rim và được gìn giữ trong nhà A-bi-na-đáp (ISa 5:1-7:1). Suốt thời trị vì của Đa-vít, có hai
thầy tế lễ cả là Xa-đốc và A-hi-mê-léc (IISa 8:17),
và có thể một người phụng sự trong đền thánh tại Si-lô sau đó chuyển đến
Ga-ba-ôn (IISu 1:1-6), còn người kia nhận
nhiệm vụ trong cung ở Giê-ru-sa-lem. Đa-vít đã dựng một trại cho hòm giao ước
tại Thành Đa-vít, nhưng những vật dụng trong đền tạm không được chuyển đến
Giê-ru-sa-lem mãi cho đến khi đền thờ mà Sa-lô-môn xây được hoàn tất (IVua 8:1-4 IISu 5:1-5).
Nổ lực đầu tiên (c.1-11). Tại sao Đa-vít muốn
đem hòm giao ước về Giê-ru-sa-lem? Vì một điều, ông muốn tôn vinh Đức Giê-hô-va
và dành cho Ngài một địa vị xứng đáng, là Vua của cả dân sự. Nhưng Đa-vít cũng
có một mong ước thầm kín trong lòng là xây được một đền thờ cho Đức Giê-hô-va
(xem đoạn 7 Thi 132:1-5), và bước đầu tiên
là phải đặt hòm giao ước tại thủ đô. Đa-vít biết rằng Đức Giê-hô-va muốn có một
đền thờ chính cho Ngài (Phu 12:5,11,21 14:23-24 16:2,6,11 26:2), và hy vọng Đức Giê-hô-va cho phép ông xây
dựng nó. Mơ ước của Đa-vít không trở thành hiện thực, nhưng ông đã mua được đất
để xây đền thờ (IISa 24:18) và ông cũng vẽ
bản đồ và tích trữ của cải và những vật liệu cần thiết cho công trình đó (ISu 28:1-29:30).
Chắc chắn cũng có lý do
chính trị khi Đa-vít dời hòm giao ước về Giê-ru-sa-lem, vì nó tượng trưng cho
“một nước chịu dưới sự cai trị của Đức Chúa Trời”. Đa-vít kéo tất cả những quan
chức cao cấp trong xứ vào kế hoạch nầy và có lời mời các thầy tế lễ và người Lê-vi từ khắp nơi đến Giê-ru-sa-lem.
“Đa-vít bèn nhóm cả Y-sơ-ra-ên lại, từ Si-ho, khe Ê-díp-tô, cho đến Ha-mát, để
rước hòm của Đức Chúa Trời từ Ki-ri-át-Giê-a-rim về” (ISu
13:5). Ha-mát được Đức Chúa Trời đánh dấu là biên giới ở cực bắc của
Y-sơ-ra-ên (Dan 34:8). Đa-vít hy vọng rằng
những chia rẽ và những khác biệt trong quá khứ sẽ được quên đi khi dân sự hướng
lòng mình về Đức Chúa Trời. Sự hiện diện của hòm giao ước có nghĩa là sự hiện
diện của Đức Chúa Trời, và sự hiện diện của Đức Chúa Trời có nghĩa là sự bình
yên và đắc thắng.
Nhưng một điều đang bị bỏ quên:
không có chỗ nào chép lại rằng Đa-vít đã tìm kiếm ý
muốn Đức Chúa Trời trong vấn đề nầy. Dời hòm giao ước về Giê-ru-sa-lem có vẻ là
một ý kiến khôn ngoan và ai cũng nhiệt tình ủng hộ, nhưng vua đã không làm điều
mà ông thường làm xưa nay đó là tìm kiếm sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời. Xét
cho cùng, điều làm vua và dân sự vui lòng lại không làm Đức Chúa Trời
đẹp lòng, và điều Ngài không đẹp lòng thì Ngài không ban phước cho. Nổ lực đầu
tiên của Đa-vít đã thất bại thảm hại vì người Lê-vi không khiêng hòm giao ước
trên vai mình. Trong Luật Pháp Môi-se, Đức Chúa Trời dạy cẩn thận về cách dựng,
tháo dỡ và di chuyển đền tạm (Dan 4:1-49),
những vật dụng phải được khiêng trên vai của người Lê-vi, thuộc dòng dõi Kê-hát
(IISa 4:9-20). Khi họ dùng cỗ xe bò mới để
vận chuyển, họ đang làm theo cách người Phi-li-tin ngoại đạo thường làm (ISa 6:1-21), không phải theo cách được dạy cho Môi-se
ở núi Si-na-i.
Bài học ở đây rất rõ ràng: công việc
của Đức Chúa Trời phải được thực hiện theo cách của Đức Chúa Trời nếu muốn được
Ngài chúc phước cho. Được tất cả những lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên nhất trí không
làm cho việc dùng xe bò ấy trở thành việc phải lẽ. Khi thấy hòm giao ước như
sắp rớt khỏi xe bò, U-xa đã dám đưa tay ra giữ nó lại. Nhưng Đức Chúa Trời có
cảnh cáo việc nầy trong Luật Pháp Môi-se, và chắc chắc người Y-sơ-ra-ên nào
cũng biết rõ điều đó (Dan 15:51 4:15,20). Không có bằng chứng nào cho rằng A-bi-na-đáp
là người Lê-vi hay các con trai ông, U-xa và A-hi-giô không có đủ tư cách đến
gần hòm giao ước, huống hồ chạm vào nó. Đa-vít đưa hòm giao ước vào nhà Ô-bết
Ê-đôm, là một người Lê-vi, và nó được để lại đó trong 3 tháng.
Trong sự bắt đầu một thời đại mới
của lịch sử Kinh Thánh, Đức Chúa Trời đôi khi bày tỏ quyền năng của Ngài trong
việc trừng phạt để nhắc nhở dân sự nhớ một điều không hề thay đổi: dân sự Đức
Chúa Trời phải vâng Lời Đức Chúa Trời. Sau khi đền tạm được dựng xong và các thầy
tế lễ làm lễ khách thành, các con trai A-rôn, Na-đáp và A-bi-hu, đã bị phạt
chết vì cố ý bước vào nơi thánh (Le 10:1-20).
Khi Y-sơ-ra-ên bước và xứ Ca-na-an và bắt đầu chinh phục xứ ấy, Đức Chúa Trời
đã phạt chết A-can vì đã không vâng theo luật pháp và đã giấu của cướp được của
thành Giê-ri-cô (Gios 6:1-7:29). Trong những
ngày sơ khai của Hội Thánh thời Tân Ước, A-na-nia và Sa-phi-ra đã phải chết vì
tội nói dối với Đức Chúa Trời và dân sự Ngài (Cong
5:1-42). Ở đây, vào những ngày đầu tiên trong thời trị vì của Đa-vít tại
Giê-ru-sa-lem, Đức Chúa Trời đã nhắc nhở dân sự Ngài rằng họ không được bắt
chước những dân khác trong cung cách phụng sự Ngài, tất cả những gì họ cần biết
đó chính là Lời Ngài.
Hội Thánh ngày nay cần lưu ý lời
nhắc nhở này và quay trở về với lời Đức Chúa Trời để hiểu được ý muốn của Ngài.
Nhiệt tình hay hiệp một không thể bù đắp cho sự không
vâng phục. Khi công việc Đức Chúa Trời được thực hiện theo cách loài người, và
chúng ta bắt chước thế gian thay vì vâng theo Kinh Thánh, chúng ta đừng mong
được Đức Chúa Trời chúc phước. Đám đông có thể tán thưởng việc làm của chúng
ta, nhưng Đức Chúa Trời thì sao? Cách của thế gian cuối cùng sẽ dẫn đến sự
chết.
Nổ lực thứ hai (c.12-19). Khi Đa-vít nghe biết được sự hiện diện của hòm giao ước
đang đem lại phước hạnh cho nhà Ô-bết Ê-đôm, ông muốn ơn phước đó dành cho
chính mình và dân sự mình. Hòm giao ước phải ở trong trại mà ông dựng để dành
riêng cho nó tại Giê-ru-sa-lem. Vì I và II Sủ ký được viết theo cái nhìn của
thầy tế lễ, đoạn viết về nổ lực thứ hai đầy đủ hơn đoạn viết trong sách Samuên (ISu 15:1-16:3).
Bây giờ Đa-vít quyết tâm làm công việc Chúa theo cách của Chúa, nên ông sai
người Lê-vi đi một quảng đường 10 dặm đến nhà Ô-bết Ê-đôm, và họ đã khiêng hòm
giao ước về Giê-ru-sa-lem. Để bảo đảm Đức Chúa Trời sẽ không nổi giận và trừng
phạt, người Lê-vi đã dừng lại sau khi bước 6 bước đầu tiên và các thầy tế lễ đã
dâng của lễ là một con bò đực mập béo. Khi không có hình phạt nào giáng xuống,
họ biết Đức Chúa Trời đã đẹp lòng với cách họ đang làm (ISu 17:26). Khi đoàn người đi đến trại tại Giê-ru-sa-lem, các
thầy tế lễ dâng thêm 14 của lễ nữa (ISu 15:26).
Đa-vít nhảy múa hết mình để thờ
phượng trước mặt Đức Giê-hô-va ông mặc áo vải gai và ê-phót của thấy tế lễ
(c.14). Vì việc đó, vợ ông đã chỉ trích rằng ông đã hành động mà không biết xấu
hổ (c.20), nhưng ISu 15:27 cho chúng ta biết
ông cũng có mặc áo dài của vua bên trong ê-phót. Dù ông không xuất thân từ chi
phái Lê-vi, ông đã hành động như một vị vua vừa là thầy tế lễ – hình ảnh của
Chúa Giê-xu, Con vua Đa-vít, là Đấng giữ hai chức vị “theo ban Mên-chi-xê-đéc”
(He 6:20-8:13 Thi
110:1-7). Trong thời Áp-ra-ham, Mên-chi-xê-đéc vừa là vua vừa là thầy tế
lễ của Sa-lem (Sa 14:17-24), và giờ đây
Đa-vít đang thờ phượng như vua và thầy tế lễ của Giê-ru-sa-lem. Đoàn người nầy
còn có ban nhạc đi theo, họ là những người Lê-vi chơi đàn và hát ngợi khen Đức
Giê-hô-va.
Sự nhảy múa của Đa-vít xuất phát từ tấm lòng chân thành của riêng mình, khi ông
nhảy múa trước mặt Đức Giê-hô-va ông muốn tôn vinh sự hiện điện của Ngài trong
thủ đô của mình. Có thể một số bài Thi thiên (Thi
24:1-10 47:1-9 95:1-11 99:1-9 68:1-35 105:1-45
106:1-48 132:1-18
ISu 19:7-36) đã phản ánh suy nghĩ và cảm xúc
của Đa-vít trong sự kiện đó. Ngày xưa, nhảy múa giữ vai trò quan trọng cả trong
cách thờ phượng của người ngoại bang và người Do Thái (Thi
149:3) cũng như trong những dịp lễ đặc biệt, như đám cưới, họp mặt gia
đình (Lu 15:25), và lễ mừng thắng trận (Cac 11:34). Thông thường phụ nữ là người hát và
nhảy múa trước mặt Đức Giê-hô-va (Xu 15:20-21
ISa 18:6 Thi
68:14-26), và khi cả người nam và người nữ cùng nhảy múa, họ bị cô lập.
Nhảy múa trong tôn giáo được đề cập hoặc ám chỉ trong sách Thi thiên (26:6-7 30:11 42:4 150:4).
Trong Tân Ước không có bằng chứng
nào cho thấy nhảy múa là “hình thức thờ phượng” được sử dụng trong nhà hội Do
Thái hay trong nghi thức của Hội Thánh đầu tiên. Người Hy-lạp đưa hình thức
nhảy múa vào nghi thức thờ phượng trong Hội Thánh hậu-các sứ đồ, nhưng tập tục
nầy gây ra những vấn đề nghiêm trọng về mặt đạo đức và cuối cùng đã bị cấm.
Thật khó cho hội chúng phân biệt giữa “nhảy múa trong Cơ Đốc giáo” và nhảy múa
để tôn vinh các thần ngoại bang, nên Hội Thánh loại bỏ tập tục nầy và sau đó nó
bị lên án.
Khi hòm giao ước được đặt an toàn
trong trại, Đa-vít chúc phước cho dân sự (một hành động mà thầy tế lể thường
làm) và phát cho mỗi người một ít bánh, thịt (hoặc rượu) và bánh nho khô. Một
lần nữa chúng ta được nhắc về Mên-chi-xê-đéc, thầy tế lễ nhà vua, là người từ
Sa-lem đến và ban bánh và rượu cho Áp-ra-ham (Sa
14:18-19). Nhưng khi Đa-vít trở về nhà để chúc phước cho gia đình riêng
của mình, ông biết được vợ ông đã xấu hổ vì ông và thậm chí còn xem thường ông
vì đã nhiệt tình nhảy múa trước công chúng (c.16,20-23). Thật đáng chú ý khi
đoạn văn nầy đã viết rằng nàng thấy “Vua Đa-vít” mà không phải “chồng nàng”
(c.16) và nàng được gọi là “con gái của Sau-lơ” mà không phải là “vợ Đa-vít”
(c.20). Khi nói chuyện với Đa-vít, Mi-canh dùng ngôi thứ ba (“Hôm nay vua
Y-sơ-ra-ên được vinh hiển thay”) mà không dùng ngôi thứ hai, và lời lẽ của nàng
đầy mỉa mai. Thật đáng buồn cho Đa-vít vì một ngày đáng vui mừng hạnh phúc ấy lại kết thúc bằng sự tiếp đón vô cảm và lạnh lùng
của vợ mình, nhưng đầy tớ của Đức Chúa Trời thường phải rơi từ đỉnh vinh quang
xuống hố sâu vực thẩm một cách nhanh chóng như vậy.
Không có bằng chứng nào
cho thấy Đa-vít đã phạm những tội mà vợ ông lên án. Ông ăn mặc phù hợp và chắc
chắc đã không cởi trần trước mặt dân sự, và ông đã nhảy múa trước mặt Đức Chúa
Trời, là Đấng hiểu rõ tấm lòng của ông. Đa-vít nhận ra trong Mi-canh có sự kiêu
ngạo và sự đui mù thuộc linh của Sau-lơ, mong ước lớn nhất của ông ta là có
được danh tiếng trước dân chúng. Đa-vít thích sống là hành động sao cho Đức
Chúa Trời đẹp lòng hơn. Đa-vít nhắc Mi-canh nhớ rằng Đức Chúa Trời đã chọn ông để làm vua thay thế Sau-lơ, cha nàng, và ông sẽ làm
những điều Đức Chúa Trời khiến ông làm. Nói cách khác, Đa-vít không cần con gái
của vị vua thất sủng và đáng hổ thẹn ấy làm cố vấn thuộc linh cho ông. Có lẽ
Mi-canh không thích những gì Đa-vít nói về sự xao lãng hòm giao ước của cha
mình (ISu 13:3). Đa-vít yêu quí Mi-canh và
đã rước nàng về khi ông được làm vua (IISa 3:12-16),
nhưng tình yêu sẽ dễ dàng sứt mẻ nếu chúng ta không đặt hy vọng vào nó.
Mi-canh nói rằng Đa-vít đã làm chính
ông mất mặt trước dân chúng, nhưng Đa-vít đã phản đối lời buộc tội sai trái của
nàng với lời báo trước rằng nàng sẽ không được sủng ái nữa, và từ đó Đa-vít bỏ
qua bổn phận làm chồng của mình đối với nàng. Trong thời đại đó người vợ nào
không sinh được con cho chồng là một điều đáng sỉ nhục, nhất là khi bị chồng
ruồng bỏ. Nhưng sự son sẻ của Mi-canh là một ơn phước từ Đức Chúa Trời. Nó ngăn
chặn gia đình của Sau-lơ tiếp tục tồn tại trong Y-sơ-ra-ên và vì vậy đe dọa đến
ngai vàng của Đa-vít. Đa-vít và Giô-na-than có hứa sẽ cùng nhau cai trị đất
nước (ISa 23:16-18), nhưng Đức Chúa Trời
không chấp nhận kế hoạch đó nên đã để cho Giô-na-than tử trận. Đức Giê-hô-va
muốn dòng dõi và ngai vàng của Đa-vít được an toàn trước mọi vương triều khác,
vì từ dòng dõi Đa-vít sẽ sinh ra Đấng Mê-si-a, là Chúa Cứu Thế Giê-xu. Đó là
chủ đề của đoạn sau trong câu chuyện về vua Đa-vít
4. VƯƠNG TRIỀU, LÒNG
NHÂN TỪ, VÀ NHỮNG CHINH PHỤC CỦA ĐA-VÍT (IISa 7:1-10:19 ISu 17:1-19:19)
Trong 4 đoạn nầy chúng
ta sẽ thấy Vua Đa-vít có liên quan đến 4 việc làm quan trọng: chấp nhận ý muốn
của Đức Chúa Trời (đoạn 7), đánh trận cho Đức Chúa Trời (đoạn 8), thừa hưởng
lòng nhân từ của Đức Chúa Trời (đoạn 9) và bảo vệ danh Đức Chúa Trời (đoạn 10).
Tuy nhiên, những việc làm nầy không có gì lạ đối với Đa-vít, trước khi ông lên
ngôi vua Y-sơ-ra-ên, ông đã hầu việc Đức Chúa Trời và dân sự Ngài theo những
cách nầy. Được đội vương miện và ngồi trên ngai vàng không làm Đa-vít thay đổi,
vì trong bản tánh và đạo đức của ông, ông đã sống như thể mình đã là vua từ lúc
ông còn rất trẻ. Thảm kịch bắt đầu từ đoạn 11 trở đi, chúng ta sẽ thấy Đa-vít
không vâng phục Đức Chúa Trời nữa và phải gánh chịu nhiều đau khổ vì tội lỗi
mình. Andrew Bonar đã đúng khi nói rằng, “Chúng ta phải cảnh giác sau thắng lợi
giống như trước khi bước vào trận chiến”.
1. Chấp nhận ý muốn của
Đức Chúa Trời (IISa 7:1-29) (ISu 17:1-27)
Trong thời cổ đại, vua làm gì khi
đất nước không có chiến tranh? Nê-bu-cát-nết-sa đi dạo trong thành mình và khoe
khoang, “Đây chẳng phải là Ba-by-lôn lớn mà ta đã dựng…?” (Da 4:30). Sa-lô-môn lo thâu trữ của cải, cưới thêm
nhiều vợ, tiếp đãi khách nước ngoài và viết sách, trong khi Ê-xê-chia chọn
những học giả uy tín để sao chép và lưu giữ Kinh thánh (Ch 25:1). Nhưng từ IISa 7:1-3
cho thấy trong những giờ phút rãnh rỗi của mình,
Đa-vít đã suy nghĩ về Đức Chúa Trời và bàn bạc với tiên tri thân cận của mình
là Na-than về những hoạch định nhằm phát triển đời sống thuộc linh trong toàn
cõi Y-sơ-ra-ên. Đa-vít không chỉ là một người cai trị, ông còn là một người
chăn hết lòng chăm lo cho dân sự mình. Trong lúc nghỉ ngơi ông suy nghĩ đến
những việc ông có thể làm, và khi thành công ông nghĩ về Đức Chúa Trời và sự
nhân từ của Ngài đối với ông.
Trong đoạn nầy Đức Chúa
Trời mặc khải cho Na-than và Đa-vít biết điều mà thường được gọi là Giao ước
của Đa-vít. Lời công bố nầy không chỉ có ý nghĩa rất lớn đối với Đa-vít, nhưng
còn có ý nghĩa quan trọng đối với Y-sơ-ra-ên, Hội Thánh và phần lớn thế giới
ngày nay.
Ý nghĩa của giao ước
đối với Đa-vít (IISa 7:1-9). Việc Đa-vít muốn xây
cho Đức Giê-hô-va một đền thờ không làm chúng ta ngạc nhiên, vì Đa-vít là người
làm Đức Chúa Trời đẹp lòng và ước ao làm vinh danh Đức
Giê-hô-va bằng mọi cách có thể. Trong suốt những năm tha hương trong đồng vắng,
Đa-vít hứa sẽ xây cho Đức Giê-hô-va một đền thờ (Thi
132:1-5), và việc đem hòm giao ước về Giê-ru-sa-lem là bước đầu tiên để
thực hiện lời hứa nầy. Giờ đây ông đang lo âu vì mình đang ở trong cung điện
tiện nghi sang trọng trong khi ngôi của Đức Chúa Trời đang ở trong trại, và ông
tâm sự lòng mình với Na-than.
Đây là lần đâu tiên Na-than xuất
hiện trong Kinh Thánh. Gát là tiên tri của Đa-vít trong thời gian ông tha hương
(ISa 22:5), và sau khi Đa-vít lên ngôi,
chúng ta không thấy Gát xuất hiện (IISa 24:1-28).
Thật ra, ông và Na-than cùng nhau làm công việc viết sách (ISu 29:25,29) và tổ chức các buổi thờ phượng (IISu 29:25), nhưng dường như trong thời trị vì của
Đa-vít Đức Chúa Trời đã phán với ông qua Na-than. Chính Na-than là người răn đe
Đa-vít vì tội lỗi của ông (đoạn 12) và cũng là người biết được Sa-lô-môn sẽ làm
vua (IVua 1:11). Đa-vít có 4 con trai với
Bát-sê-ba và một trong số đó được đặt tên là Na-than (ISu
3:1-5). Khi Na-than nói với Đa-vít nên làm điều gì mà lòng mình ao ước,
ông không khẳng định rằng ao ước của Đa-vít thật sự là ý muốn của Đức Chúa
Trời. Na-than đã khuyến khích vua theo đuổi mơ ước của mình và chờ xem Đức
Giê-hô-va muốn ông làm gì. Đức Chúa Trời đã đáp lời bằng một sứ điệp đặc biệt
cho vua qua Na-than, và Na-than truyền lại nó một cách trung thực.
Trong phần đầu của sứ điệp, Đức Chúa
Trời nhắc Đa-vít rằng chưa bao giờ Ngài đòi hỏi chi phái nào hoặc lãnh đạo chi
phái nào xây cho Ngài một đền thờ. Đức Chúa Trời có bảo Môi-se dựng một đền tạm
làm nơi ngự của Ngài, và Ngài vui lòng đồng đi với dân sự và ngự bất cứ nơi nào
họ dừng lại đóng trại. Giờ đây dân Y-sơ-ra-ên đã sống yên ổn trong xứ mình, họ
đang cần một người chăn dắt biết quan tâm đến họ, không cần một đền thờ, đó là
lý do Đức Chúa Trời kêu gọi Đa-vít chăn dắt dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời đã ở
cùng Đa-vít, chúc phước cho công việc ông, và làm nổi danh ông. Dù Đa-vít có mơ
ước có hứa nguyện đi nữa, người xây đền thờ cũng không phải là ông. Điều tốt
nhất ông có thể làm cho Đức Giê-hô-va là tiếp tục chăn dắt dân sự và làm gương
tốt cho họ.
Sứ điệp nầy chắc đã làm Đa-vít thất
vọng, nhưng ông chấp nhận nó và dâng lời tạ ơn Đức Chúa Trời vì sự nhân từ của
Ngài đối với ông. Khi Sa-lô-môn khánh thành đền thờ, ông giải thích rằng Đức
Chúa Trời chấp nhận mong ước của Đa-vít vì một điều: “Khi ngươi có ý xây đền
cho danh ta, thì lấy làm thậm phải” (IVua 8:18
IICo 8:12). Các đầy tớ của Đức Chúa Trời
phải biết chấp nhận những điều không vừa lòng trong
cuộc sống, như A. T. Pierson từng nói “Những điều làm bạn nản lòng là những
điều Đức Chúa Trời sắp đặt”.
Ý nghĩa của giao ước
đối với dân Y-sơ-ra-ên (IISa 7:10-15). Nền tảng
cho mục đích và việc làm của Đức Chúa Trời đối với dân Y-sơ-ra-ên là giao ước
của Ngài với Áp-ra-ham (Sa 12:1-3 15:1-15). Đức Chúa Trời chọn Áp-ra-ham bởi ân điển
Ngài và hứa ban cho ông một xứ xở, một dòng dõi đông đúc, làm nổi danh ông, ban
ơn và gìn giữ ông. Ngài cũng hứa rằng cả thế gian sẽ nhờ con cháu ông mà được
phước, ý nói đến Chúa Cứu Thế Giê-xu (Ga 3:1-16).
Đức Chúa Trời chọn Y-sơ-ra-ên làm ống dẫn để qua đó Con Ngài và Lời Ngài đến
với thế gian. Giao ước của Đức Chúa Trời với Đa-vít
được lập trên giao ước nầy với Áp-ra-ham, vì nó nói về dân sự, xứ xở và Đấng
Mê-si-a.
Đức Giê-hô-va bắt đầu với chủ đề về
xứ xở của Y-sơ-ra-ên (c.10) và hứa cho dân sự Ngài được “bình an”. Từ “bình an”
(hay “an nghỉ”, “nghỉ ngơi”) là một từ rất quan trọng trong từ vựng của các
tiên tri và ngụ ý về những phước lành nằm trong hoạch định của Đức Chúa Trời
dành cho dân sự Ngài. Khái niệm về “sự nghỉ ngơi” xuất hiện từ lúc Đức Chúa
Trời nghỉ các công việc Ngài sau khi hoàn tất công cuộc sáng tạo (Sa 2:1-3), và đây là cơ sở để dân Y-sơ-ra-ên giữ
ngày Sa-bát (Xu 20:8-11). Sau khi Đức Chúa
Trời giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi Ai-cập, Ngài đã hứa cho họ “an nghỉ” trong xứ
của mình (Xu 33:14 Phu
25:19 Gios 1:13,15). Đa-vít quá
bận rộn với những cuộc chiến nên không thể xây đền thờ (IVua 5:17), nhưng khi Đức Chúa Trời cho Y-sơ-ra-ên được an
nghỉ, Sa-lô-môn đã xây đền thờ theo kế hoạch và những vật liệu mà Đức Chúa Trời
dành cho Đa-vít, cha mình (IVua 5:1-4 8:56 Thi 89:19-23).
Nhưng khái niệm về “sự yên nghỉ” còn
vượt xa hơn những điều ấy vì nó cũng nói về sự bình an thuộc linh mà tín hữu có
được trong Chúa Cứu Thế (Mat 11:28-30 He 2:10-18 4:14-16).
Khái niệm nầy cũng nhìn xa hơn về tương lai của nước Y-sơ-ra-ên và sự yên nghỉ
mà dân sự Đức Chúa Trời sẽ có được khi Chúa Cứu Thế Giê-xu ngồi trên ngôi
Đa-vít (Es 11:1-12 65:17-25
Gie 31:1-14 50:34).
Sau đó Đức Giê-hô-va nói đến ngai
vàng và dòng dõi Đa-vít (c.11-16). Vua nào cũng quan tâm đến tương lai của đất
nước mình, và Đức Giê-hô-va hứa với Đa-vít nhiều hơn những gì ông mong đợi.
Đa-vít muốn xây nhà (đền thờ) cho Đức Chúa Trời, nhưng Ngài hứa dựng cho ông
một cái nhà một vương triều đời đời! Từ “nhà” được dùng 15 lần trong đoạn nầy
và ám chỉ cung điện của Đa-vít (c.1-2), đền thờ (c.5-7,13) và vương triều của
Đa-vít, mà lên đến đỉnh điểm trong Đấng Mê-si-a, tức Chúa Cứu Thế Giê-xu
(c.11,13,16,18-29).
Lần đầu tiên Đức Chúa Trời đề cập
đến Chúa Cứu Thế là trong Sa 3:15, và cho
chúng ta biết Chúa Cứu Thế sẽ là một con người không phải là thiên sứ. 12:3 cho biết Ngài sẽ là người Do Thái, là nguồn
phước cho cả thế gian, và 40:10 cho biết
Ngài sẽ đến qua chi phái Giu-đa. Trong giao ước nầy, Đức Chúa Trời thông báo
cho Đa-vít biết Đấng Mê-si-a sẽ đến qua dòng dõi của ông, và Mi 5:2 tiên tri rằng Ngài sẽ giáng sinh tại
Bết-lê-hem, Thành Đa-vít (Mat 2:6). Chắc
chắn vua rất phấn khởi khi biết Đấng Mê-si-a sẽ được biết là “Con Cháu Đa-vít”
(Mat 1:1).
Trong phần nầy, Đức Giê-hô-va nói về
Sa-lô-môn cũng như về Chúa Cứu thế, là người “tôn trọng hơn vua Sa-lô-môn” (Mat 12:42). Sa-lô-môn sẽ xây đền thờ mà Đa-vít ao
ước xây, nhưng thời trị vì của ông sẽ kết thúc; tuy nhiên Đấng Mê-si-a sẽ còn
đến đời đời. Đa-vít sẽ có một nhà đời đời (c.25,29), một nước đời đời (c.16) và
một ngôi vững lập mãi mãi (c.13,16), và sẽ làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời mãi
mãi (c.26).
Tất cả điều nầy được ứng nghiệm
trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, Con cháu Đa-vít (Thi
89:34-37 Lu 1:32-33,69 Cong 2:29-36 13:22-23
IITi 2:8) và sẽ được phát lộ khi Ngài trở
lại, lập nước như đã hứa, và ngồi trên ngôi Đa-vít. Những ơn phước thuộc linh
dành cho Đa-vít ngày nay trong Chúa Cứu Thế Giê-xu được dành cho tất cả những
người tin cậy Ngài (Es 55:1-3 Cong 13:32-39). Chúng thật sẽ được làm trọn bởi
Chúa Cứu Thế Giê-xu trong vương quốc tương lai như đã hứa cho Y-sơ-ra-ên (Es 9:1-7 11:1-16
16:5 Gie
33:15-26 Exe 34:23-24 37:24-25 Os 3:5
Xa 12:7-8). Ngôi Đa-vít đã kết thúc năm 586
TC với vua Sê-đê-kia, vị vua cuối cùng của Giu-đa, nhưng dòng dõi Đa-vít vẫn
tiếp tục tồn tại và từ đó Chúa Cứu Thế Giê-xu, con cháu Đa-vít đến thế gian (Mat 1:12-25 Lu 1:26-38,54-55,68-79).
Người ta thường nói nước Y-sơ-ra-ên
sẽ sớm diệt vong nếu Đức Chúa Trời không thành tín với giao ước của Ngài với
Đa-vít, là “ngọn đuốc Y-sơ-ra-ên” (IISa 21:17).
Dù các vua và dân sự sa sút thế nào, thì Đức Chúa Trời vẫn giữ gìn ngọn đuốc
cho Đa-vít và cho Y-sơ-ra-ên (IVua 11:36 15:4 IIVua 8:19
IISu 21:7 Thi
132:17). Dù họ có nhận ra điều đó hay không, Đa-vít đã làm cho dân Do
Thái rất nhiều điều; ông góp phần xây dựng đền thờ, làm ra những nhạc cụ và
sáng tác những bài hát được dùng trong đền thờ, tổ chức các bang nhóm phục vụ
trong đền thờ, và bảo vệ đất nước trước nhiều kẻ thù. Ngày nay chúng ta mang ơn
Đa-vít vì đã giữ cho ngọn đuốc chiếu sáng để Chúa Cứu Thế bước bào thế gian. Dù
dân sự nhiều lần phạm tội, Đức Chúa Trời nhiều lần trừng phạt họ, nhưng Ngài
không phá bỏ giao ước của Ngài cũng không cất ơn thương xót Ngài khỏi họ (c.15 22:51 IVua 3:6 IISu 6:42 Thi 89:28,33,49).
Ý nghĩa của giao ước
đối với tín đồ ngày nay (IISa 7:18-29).
Chúng ta đã biết rằng ngày nay chúng ta có Hội Thánh bởi Đức Chúa Trời đã dùng
dòng dõi Đa-vít để đưa Chúa Cứu Thế Giê-xu đến thế gian, và có một tương lai
cho Y-sơ-ra-ên vì Đức Chúa Trời ban cho Đa-vít ngôi đời đời. Cách Đa-vít đáp
lại Lời tuyệt vời nầy của Đức Chúa Trời là một tấm gương tốt cho chúng ta ngày
nay noi theo. Ông hạ mình trước Chúa và ít nhất 10 lần xưng mình là tôi tớ của
Đức Chúa Trời. Tôi tớ thường đứng chú ý và chờ đợi lệnh, nhưng Đa-vít đã ngồi
trước mặt Đức Giê-hô-va. Giao ước của Đức Chúa Trời dành cho Đa-vít là một giao
ước không điều kiện; tất cả những gì Đa-vít cần làm là tiếp nhận nó và để Đức
Chúa Trời hành động. Như một con trẻ nói chuyện với người cha yêu dấu của mình,
vua xưng mình là “Đa-vít” (c.20), và ông dốc đổ lòng mình trước Chúa.
Đầu tiên ông tập trung nói về hiện tại
khi ông ngợi khen ơn thương xót mà Đức Chúa Trời dành cho ông (c.18-21). Chính
ân điển của Đức Chúa Trời đã thay đổi vận mệnh của Đa-vít một kẻ chăn chiên trở
thành vua một nước và bây giờ Đức Chúa Trời phán với ông về con cháu ông trong
tương lai. Câu 18-20 và 28-29, Đa-vít xưng Đức Chúa Trời là “Chúa Giê-hô-va”,
từ nầy trong tiếng Hy-bá-lai là “Jehovah Adonai, Đức Giê-hô-va Đấng tể trị”
(Trong câu 22 và 25, từ ấy là “Jehovah Elohim, Đức Chúa Trời quyền năng”). Chỉ
Đức Chúa Trời với ân điển cao cả của Ngài mới có thể lập một giao ước như vậy,
và chỉ Đức Chúa Trời với quyền năng tối cao của Ngài mới có thể làm trọn giao
ước ấy. “Lạy Chúa Giê-hô-va, điều nầy há theo cách thường của loài người sao?”
(c.19). Trong ý nghĩa nầy, câu trả lời là không, vì Đức Chúa Trời chọn nhà
Đa-vít để đưa Con Ngài vào thế gian; nhưng trong nghĩa khác, câu trả lời là có,
vì mọi tội nhân có thể tin cậy Chúa Cứu Thế Giê-xu để được cứu và bước vào nhà
Đức Chúa Trời. Đa-vít nhận thấy những lời hứa trong giao ước nầy là “những việc
lớn” (c.21) vì tính đáng tin cậy của Lời và tình yêu của Đức Chúa Trời.
Trong câu 22-24, Đa-vít nhìn về quá khứ và ân điển
lạ lùng của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên. Đức Giê-hô-va chọn Y-sơ-ra-ên
thay vì các nước khác trên thế gian, và mặc khải chính mình Ngài cho Y-sơ-ra-ên
qua luật pháp được ban ra tại núi Si-na-i và phán Lời Ngài qua các tiên tri của
Ngài. Dân Do Thái phải ghi nhớ sự độc nhất của Đức Giê-hô-va và không
được quỳ lạy trước các thần tượng ngoại bang. (Phu
4:34 7:6-8 9:4-5
Ne 9:10). Đức Chúa Trời là Chúa của tất cả
các nước nhưng Ngài làm những việc lớn cho Y-sơ-ra-ên, tuyển dân của Ngài.
Đa-vít nhận ra một lẽ thật tuyệt vời, đó là Đức Chúa Trời đã chọn Y-sơ-ra-ên làm tuyển dân đời đời của Ngài.
Phần thứ ba trong lời
cầu nguyện và ngợi khen (c.25-29) nhìn đến tương lai như được mặc khải trong giao ước chỉ
được truyền cho một mình vua. Đức Chúa Trời ban Lời Ngài, Đa-vít tin Lời ấy, và ông cầu xin Đức Chúa Trời làm trọn
Lời ấy cho dân sự. Ông muốn Y-sơ-ra-ên tiếp tục là một nước thống nhất và Đức
Giê-hô-va sẽ được phát lộ qua Y-sơ-ra-ên. Ông cầu xin cho nhà ông được lập như
lời Ngài đã hứa (c.27), dù nó làm Đa-vít thất vọng, vì ông sẽ không được phép
xây nhà cho Đức Giê-hô-va. “Nước Cha được đến” là động lực của câu 27, và “Ý
Cha được nên” là động lực của câu 28. Đối với Đa-vít chỉ cần nghe những lời hứa
ấy là tin vào chúng là đã đủ; ông cũng cầu xin Đức Giê-hô-va làm trọn chúng.
Trong sự khiêm nhường,
đức tin và sự đầu phục ý muốn Chúa, Đa-vít là một tấm gương sáng cho chúng ta
noi theo.
2. Đánh trận cho Đức
Chúa Trời (IISa 8:1-18) (ISu 18:1-17)
Đoạn nầy tóm tắt những
chiến công của đội quân Y-sơ-ra-ên trước
những kẻ thù, là những sự kiện có thể đã diễn ra giữa đoạn 6 và 7 của II Samuên
(IISa 7:1). Đức Giê-hô-va giúp đỡ Đa-vít,
Giô-áp và A-bi-sai đánh thắng các kẻ thù của Y-sơ-ra-ên ở phương tây (c.1),
phương đông (c.2), phương bắc (c.3-12) và phương nam (c.13-14). Có một đoạn
thuật tương đương, (ISu 18:1-19:19). Vua
Sau-lơ đã đánh trận với hầu hết những kẻ thù nầy (ISa
14:47).
Chúng ta phải nhìn những hoạt động
quân sự của Đa-vít qua ánh sáng của giao ước Đức Chúa Trời với Y-sơ-ra-ên qua
Áp-ra-ham (Sa 12:15), Môi-se (Phu 27:1-30:20) và Đa-vít (IISa 7:1-29). Đức Giê-hô-va đã hứa cho Y-sơ-ra-ên đất từ Sông
Ê-díp-tô đến sông Ơ-phơ-rát (Sa 15:17-21 Phu 1:6-8 11:24
IVua 4:20-21), và Ngài dùng Đa-vít để làm
thành lời hứa ấy. Y-sơ-ra-ên đã mất nhiều phần đất của mình về tay các kẻ thù
trong thời trị vì của Sau-lơ, và Đa-vít không chỉ đã lấy lại chúng, nhưng ông
còn mở mang lãnh thổ và chiếm được những xứ mà trong thời Giô-suê đã chưa chiếm
được (Gios 13:1-7). Đa-vít đã lập hiệp ước
chư hầu với hầu hết các nước nầy và bố trí những đồn trú trong xứ của họ để giữ
vững quyền lực của Y-sơ-ra-ên (c.6). Là người có đức tin lớn, Đa-vít tin nơi
những lời hứa của Đức Chúa Trời và hành động theo những lời ấy để dân sự ông
được hưởng phước hạnh từ Đức Chúa Trời.
Nhưng những chiến công của Đa-vít
cũng có nghĩa là sự hòa bình và yên ổn trong dân Y-sơ-ra-ên để họ có thể sống
đời sống bình thường không bị các nước láng giềng liên tục đe dọa. Y-sơ-ra-ên
có một việc lớn để thực hiện trên đất nầy, đó là làm chứng về Đức Chúa Trời
chân thần và hằng sống, đem Lời Chúa và Đấng Mê-si-a vào thế gian. Hơn nữa
những chiến công của Đa-vít làm giàu thêm ngân khố của Đức Giê-hô-va để Sa-lô-môn
có đủ các vật liệu xây đền thờ (c.11-13 ISu 22:1-19).
Hội Thánh ngày nay không dùng vũ khí quân sự để đánh trận cho Đức Chúa Trời (Gios 18:36-38 IICo
10:3-6 Eph 6:14-18), nhưng chúng ta
có thể sử dụng đức tin và lòng can đảm mà Đa-vít và quân lính của ông đã có và
khai hoang phần lãnh thổ bị mất đi của Đức Chúa Trời.
Phương tây: dân
Phi-li-tin (IISa 8:1) là kẻ thù
truyền kiếp của đân Do Thái và lợi dụng mọi cơ hội đề tấn công họ. Trong IISa 21:15-22 có ít
nhất 4 chiến dịch khác nhau của dân Phi-li-tin (ISu
20:4-8), và phân đoạn Kinh Thánh nầy mô tả sự ngã xuống của những người
khổng lồ cũng như sự thất bại của dân Phi-li-tin. Y-sơ-ra-ên chiếm được nhiều
thành, trong đó có thành Gát, quê hương của Gô-li-át. Khi còn trẻ Đa-vít đã
giết chết Gô-li-át, nhưng trong chiến dịch đầu tiên ông không thể giết chết
người khổng lồ Ít-bi-bê-nốp, và A-bi-sa-i, cháu ông, đã phải giải cứu ông (IISa 21:15-17). Lính của Đa-vít khuyên ông không
nên đích thân tham gia cuộc chiến, và ông đã lưu ý lời khuyên đó. Thật phước hạnh
khi một người lãnh đạo chịu thừa nhận khuyết điểm của mình và biết khi nào nên
thay đổi mình! Địa danh “Methegammah” (Kinh Thánh tiếng Việt dịch là “kinh đô”)
có nghĩa là “một thành phố đứng đầu” và ám chỉ một thành phố chính của
Phi-li-tin mà Y-sơ-ra-ên đã chiếm được, vị trí của nó là một bí mật đối với
chúng ta. “Cất quyền kinh đô khỏi…” có nghĩa là giữ quyền kiểm soát và bắt phục
nó.
Phương đông: dân Mô-áp
(IISa 8:2) từng làm bạn với Đa-vít vì tưởng Đa-vít là kẻ thù của Sau-lơ (ISa 14:47), và Đa-vít
có liên hệ với dân Mô-áp vì Ru-tơ, bà cố của Đa-vít, là người Mô-áp (ISa 22:3-4). Dân Mô-áp chắc chắn có liên hệ với
dân Do Thái vì Lót, cháu Áp-ra-ham là tổ phụ của dân Mô-áp (Sa 19:30-38). Vì dân Mô-áp đã mướn tiên tri
Ba-la-am rủa sả dân Y-sơ-ra-ên và sau đó con gái Mô-áp đã quyến rũ trai tráng
trong Y-sơ-ra-ên (Dan 22:1-25:18), Đức
Giê-hô-va tuyên chiến với dân Mô-áp, và Đa-vít chỉ tiếp bước chiến dịch đó. Hầu
hết những người đi chinh phục thường tàn sát tất cả quân thù, nhưng Đa-vít chừa lại một phần ba quân lính và bắt họ phải đóng thuế cho dân
Y-sơ-ra-ên.
Phương bắc: dân A-ram
và Sy-ri (IISa 8:3-13). Xô-ba
nằm ở phía bắc Đa-mách và trong một số truyền thuyết nó là một phần trong một
khối liên minh cách nước được gọi là “Sy-ri”, nhưng chính xác hơn họ là người
“A-ram”. Tuy nhiên, láng giềng của họ, là người Sy-ri, cố gắng đến giải cứu họ
và cũng bị bại trận, nên toàn bộ phía bắc đến Ơ-phơ-rát đều thuộc dưới quyền
kiểm soát của Đa-vít. Điều nầy cho Y-sơ-ra-ên cơ hội bố trí nhiều hệ thống quân
sự quan trọng và kiểm soát được các lộ trình mua bán đi qua lãnh thổ đó.
Y-sơ-ra-ên có thể thu thuế khi các thương buôn đi qua và vì vậy tăng cao thu
nhập cho quốc khố. Khi đánh bại được dân A-ram và Sy-ri, Đa-vít cũng có mối
quan hệ tốt với các kẻ thù của họ và nhận được nhiều triều cống từ họ.
Phương nam: dân Ê-đôm (IISa 8:12-14). ISu 18:12-13 biết Ê-đôm là một
kẻ thù (11:14b-18), nhưng có thể trong thời
gian nầy dân Sy-ri và A-ram đang kiểm soát Ê-đôm và cũng có liên quan trong
trận chiến ấy. Có lẽ trong lúc Y-sơ-ra-ên tấn công Sy-ri và A-ram ở phương bắc,
dân Mô-áp đã tấn công họ từ phương nam, nhưng Đức Giê-hô-va ban cho Y-sơ-ra-ên
một chiến thắng lớn. Dù Đa-vít và Giô-áp là những lãnh đạo trong cuộc chinh
phục nầy, nhưng chính Đức Chúa Trời là Đấng nhận được sự vinh hiển khi Đa-vít
tưởng nhớ đến thắng lợi lớn nầy trong Thi thiên 60. “Ta xáng dép ta trên Ê-đôm”
(Thi 60:8) là lối diễn tả ẩn dụ, nó có hai
nghĩa: (1) Đức Chúa Trời xác nhận Ê-đôm là lãnh thổ của Ngài, và (2) Đức Chúa
Trời đối đãi với Ê-đôm như một nô-lệ, là kẻ lau giầy cho chủ mình. Nó mô tả sự
sỉ nhục mà Đức Chúa Trời gây cho những người Ê-đôm kiêu hãnh, nay đã bị Đa-vít
chiếm lấy.
Đa-vít cũng đánh bại dân A-ma-léc
(c.12), một bổn phận mà người tiền nhiệm ông, là
Sau-lơ, đã không thực hiện được (ISa 15:1-35).
Từ thời Môi-se, Đức Giê-hô-va đã tuyên chiến cùng dân A-ma-léc (Xu 17:8-12 Dan 14:45
Phu 25:27-19), và Đa-vít chỉ là người tiếp
tục chiến dịch đó. Như Đức Giê-hô-va đã hứa (IISa
7:9), Đa-vít đã thắng các kẻ thù mình. Đa-vít ngày càng nổi danh vì những
chiến thắng nầy (c.13), và Đa-vít cẩn thận dâng sự vinh quang ấy cho Đức Chúa
Trời (8:11-12).
Sự điều hành tại
Giê-ru-sa-lem (IISa 8:15-18).
Thắng trận là một chuyện và quản lý điều hành mọi việc để xây dựng đất nước là
một chuyện khác, và ở đây Đa-vít chứng minh
được khả năng của chính mình. Ông lấy sự công bình và ngay thẳng mà cai trị và
phục vụ tất cả dân sự (c.15). Đa-vít mô tả người lãnh đạo như vậy trong 23:1-7 ông so sánh mình với ánh bình minh và tia
nắng mặt trời sau cơn mưa. Chắc chắn Đa-vít đã đem đến cho Y-sơ-ra-ên tia sáng
đầu tiên của một ngày mới sau thời kỳ tăm tối trong thời Sau-lơ, và Đức Chúa
Trời dùng Đa-vít để đem đến sự bình yên sau cơn dông bão. Đức Chúa Trời yêu sự
công bình và ngay thẳng (Thi 33:5) Ngài phát
lộ hai đức tính đó khi cai trị vũ trụ (Thi 36:6
99:4 Es 5:16
Gie 9:24 Am 5:24).
Đa-vít thật sự là người làm Đức Chúa Trời đẹp lòng.
Một người lãnh đạo tốt phải biết
chọn lựa cho mình người cấp dưới khôn ngoan, tài giỏi, và Đa-vít là người như
vậy. Giô-áp, cháu Đa-vít, đã giết Áp-ne (IISa
3:27-39), nhưng Đa-vít chọn ông làm quan tổng binh trong đội quân của
mình. Chúng ta biết rất ít về Giô-sa-phát hay địa vị của ông trong chính phủ
của Đa-vít. “Ký lục” (“thơ ký”) có thể là một quan chức có nhiệm vụ lưu giữ văn
thư và cố vấn cho vua như một ngoại trưởng. Ông ta có
thể là một chủ tọa trong hội đồng của vua. Chuỗi sự kiện trong Es 36:1-22 cho thấy rằng thầy ký lục / thơ ký là
người có địa vị cao (c.3,22).
Xa-đốc và A-hi-mê-léc đều đảm nhiệm
chức vụ tế lễ, vì hòm giao ước ở tại Giê-ru-sa-lem và lều tạm thì ở Ga-ba-ôn (ISu 16:39). Thầy tế lễ A-hi-mê-léc bị Đô-e giết
chết theo lệnh Sau-lơ (ISa 22:6) và con trai
người là A-bia-tha còn sống sót sau cuộc tàn sát các thầy tế lễ ở Nóp và đã gia
nhập vào đoàn quân của Đa-vít tại Kê-li-át (22:20
23:6). Ông sát cánh bên Đa-vít trong suốt
những năm tha hương và có một con trai được đặt tên là A-hi-mê-léc, theo tên
của ông nội. Khi trưởng thành, đứa con trai đó đã hầu việc cùng với cha mình và
Xa-đốc. Chúng ta thấy Xa-đốc và A-bia-tha cùng bên nhau khi hòm giao ước được
dời về Giê-ru-sa-lem (IISa 15:24,35) và khi
Áp-sa-lôm phản loạn nghịch cùng Đa-vít (IISa 17:15
19:11-12).
Thơ ký Sê-ra-gia cũng được biết là
Sê-gia (20:25), Sa-vê-sa (ISu 18:16) và Si-sa (IVua
4:3). Những đề cập trong hai sách Các Vua cho chúng ta biết hai trong số
các con trai của ông đã thừa kế địa vị nầy của ông. Sự bổ nhiệm đáng chú ý nhất
là chức vụ của Bê-na-gia, làm đầu trưởng các vệ sĩ binh lính của Đa-vít (IISa 23:20-23), người nầy là một thầy tế lễ (ISu 27:5). Trong Cựu Ước, việc một thầy tế lễ trở
thành một tiên tri cũng thường thấy (Giê-rê-mi, Ê-xê-chi-ên), nhưng một thầy tế
lễ trở thành một quan chức trong quân đội là chuyện bất thường. Người
Kê-rê-thít và Phê-lê-thít là những lính đánh thuê đến từ các nước khác, họ là
những vệ sĩ riêng của Đa-vít. Bê-na-gia là người hầu cận thân tín của Sa-lô-môn
(IVua 1:38-44).
Trong khi không phải tất cả các con
trai của Đa-vít đều là những người đáng tin cậy, nhưng ông cho chúng những chức
quan trong chính phủ của mình. Điều nầy không tốt cho chúng, nhưng đó là một
cách để ông biết tin tức có liên quan đến những việc đang xảy ra trong đất nước
mình. Tước hiệu “tể tướng” được dịch từ chữ Hy-bá-lai có nghĩa là “thầy tế lễ”.
Vì Đa-vít xuất thân từ chi phái Giu-đa, cả ông và các con trai ông đều không
được vào nơi Thánh của đền tạm và đảm nhận chức vụ thầy tế lễ, nên có lẽ từ nầy
có nghĩa là “người cố vấn được tin cẩn”. Đây là những
người được tiếp kiến vua và giúp vua coi sóc việc nước.
3. Thừa hưởng lòng nhân
từ của Đức Chúa Trời (IISa
9:1-13)
“Ơn của Đức Chúa Trời”
là một trong hai chủ đề chính của đoạn nầy (c.1,3,7), nó có nghĩa là lòng nhân
từ thương xót và ân huệ của Đức Chúa Trời dành cho một
dân tộc không đáng được hưởng. Phao-lô nhận thấy lòng nhân từ của Đức Chúa Trời
qua việc Chúa Cứu Thế Giê-xu đến thế gian và chịu chết trên thập tự giá (Tit 3:1-7 Eph 2:1-7),
và chúng ta thấy qua việc làm của Đa-vít đối cùng Mê-phi-bô-sết một hình ảnh về
lòng nhân từ của Đức Chúa Trời đối với tội nhân hư mất. Đa-vít đã hứa với cả
Sau-lơ và Giô-na-than rằng ông sẽ không tận diệt con cháu họ khi ông lên làm
vua (ISa 20:12-17,42 24:21), và
trong trường hợp của Mê-phi-bô-sết, con trai của Giô-na-than, Đa-vít không chỉ
giữ lời hứa mình mà còn làm hơn những gì được gọi là bổn phận.
Chủ đề chính thứ hai là chức vị vua
của Đa-vít. Tên “Đa-vít” được sử dụng 6 lần trong đoạn nầy: 6 lần ông được gọi
là “vua” và một lần hai từ được dùng chung “Vua Đa-vít” (c.5). Không ai trong
Y-sơ-ra-ên phản đối việc Đa-vít đối đãi nhân từ với Mê-phi-bô-sết vì Đa-vít là
vua. Ông có thể thừa hưởng tất cả những gì thuộc về Sau-lơ, người tiền nhiệm
của mình (IISa 12:8) và có thể quyết định
theo ý ông cho là hợp lý. Chắc chắn ở đây chúng ta có được hình ảnh của Con
Cháu Đa-vít, Chúa Cứu Thế Giê-xu, mà qua sự chết, sự sống lại và sự thăng thiên
của Ngài, Ngài được tôn vinh trên ngôi của Thiên Đàng và bấy giờ có thể ban
phát sự giàu có thuộc linh của Ngài cho những tội nhân đang khao khát. Tên
“Đa-vít” có nghĩa là “được yêu thương”, và Chúa Giê-xu là Con yêu dấu của Đức
Chúa Trời (Mat 3:17 17:5)
được sai xuống thế gian để cứu rỗi những tội nhân hư mất.
Tìm Mê-phi-bô-sết (IISa 9:1-4). Cần lưu ý rằng động cơ để Đa-vít tìm
Mê-phi-bô-sết không phải vì hoàn cảnh khó khăn của một người khuyết tật nhưng
Đa-vít muốn tỏ lòng kính trọng Giô-na-than, cha người. Ông đã làm việc ấy ví cớ Giô-na-than (ISa
20:11-17). Mê-phi-bô-sết chỉ được 5 tuổi khi cha mình tử trận (IISa 4:4), nên lúc nầy ông khoảng 21 tuổi và có
một con trai (c.12). Đa-vít không thể bày tỏ tình thương và lòng nhân từ mình
đối với Giô-na-than, nên ông tìm kiếm những người bà con của Giô-na-than để ông
có thể bày tỏ tình cảm của mình. Với con cái của Đức Chúa Trời cũng như vậy, họ
được kêu gọi và được cứu chuộc, không bởi vì họ xứng đáng gì trước mặt Đức Chúa
Trời, nhưng vì chính Con Đức Chúa Trời, Chúa Cứu Thế Giê-xu (Eph 1:6 4:32).
Đức Chúa Trời trong ân điển Ngài ban cho chúng ta điều chúng ta không đáng được
hưởng, và trong lòng nhân từ Ngài không ban cho chúng ta điều chúng ta đáng
phải nhận lãnh.
Đa-vít đã tìm được nơi Mê-phi-bô-sết
sinh sống qua Xíp-ba, người coi sóc ruộng đất của Sau-lơ. Xíp-ba trả lời các
câu hỏi của Đa-vít về Mê-phi-bô-sết, nhưng ông ta trở nên dối trá với vua khi
Đa-vít lẫn trốn Áp-sa-lôm (IISa 16:1-4) và
khi Đa-vít trở về Giê-ru-sa-lem (19:17,24-30). Tính hấp
tấp của Đa-vít và sự lừa dối của Xíp-ba làm
Mê-phi-bô-sết mất một nửa tài sản.
Gọi Mê-phi-bô-sết về (IISa 9:5-8). Vị hoàng tử khuyết tật nầy có suy nghĩ gì khi
được lệnh ra mắt vua? Nếu anh ta tin những gì ông nội mình nói về Đa-vít, chắc
anh ta sẽ lo sợ cho mạng sống mình; nhưng nếu anh ta nghe những gì cha mình nói
về Đa-vít, chắc anh ta sẽ vui mừng lắm. Có người đã giúp đem Mê-phi-bô-sết đến
cung vua và quỳ ra mắt Đa-vít một việc rất khó đối với người bị tật cả hai chân
và nhận biết sự không xứng đáng của chính mình. Vua gọi tên và trấn an anh ta.
Sau đó Đa-vít ban lại cho Mê-phi-bô-sết tất cả những đất mà Giô-na-than, cha
anh ta được hưởng từ Sau-lơ, mời anh ta ở lại cung và ăn chung bàn với mình.
Đa-vít đã ăn tại bàn Sau-lơ và điều đó làm ông gần mất mạng, nhưng
Mê-phi-bô-sết sẽ ăn tại bàn Đa-vít và mạng sống anh ta được gìn giữ.
Việc Đa-vít tìm kiếm
Mê-phi-bô-sết nhắc chúng ta nhớ rằng chính Đức Chúa Trời đã đến với chúng ta
trước không phải chúng ta là người tìm kiếm Ngài. Chúng ta bị xa cách Đức Chúa
Trời và trở nên kẻ thù của Ngài, nhưng Ngài vẫn yêu thương chúng ta và sai Con Ngài đến thế gian chết thay cho chúng ta.
“Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn
là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết” (Ro 5:8). Đa-vít đã cứu giúp và phục hồi cho
Mê-phi-bô-sết, việc làm đó chỉ lấy mất của ông phần đất của Sau-lơ, thứ mà ông
không phải trả một giá nào để có; nhưng đối với Đức Chúa Trời, để phục hồi và
đem chúng ta vào nhà của Ngài, Chúa Giê-xu đã phải hy sinh mạng sống Ngài. Cơ
nghiệp chúng ta lớn hơn miếng đất mà Mê-phi-bô-sết được hưởng rất nhiếu: đó là
quê hương đời đời ở trên trời!
Làm cho Mê-phi-bô-sết
được giàu có (IISa 9:9-13).
Đa-vít đã đem anh ta vào nhà mình, chu cấp, bảo vệ và cho anh ta ăn chung bàn
với mình. Thật không dễ chăm sóc một người lớn bị tật cả hai chân, nhưng Đa-vít
hứa làm được việc đó. Trước đây Mê-phi-bô-sết có Xíp-ba và 20 người hầu (c.10),
bây giờ tất cả tài nguyên và quyền lực của vị vua Y-sơ-ra-ên đều dành cho anh
ta tùy ý sử dụng. Xíp-ba và các con trai ông sẽ vẫn ở nơi phần đất dành cho
Mê-phi-bô-sết và làm lợi ra cho anh ta, nhưng những lợi nhuận ấy đáng gì so với
của cải của Đa-vít. Câu:“Sẽ ăn chung bàn ta” được lập lại 4 lần trong phân đoạn
nầy (c.7,10,11,13) và cho thấy rằng con trai của Giô-na-than sẽ được đối xử như
con trai của Đa-vít.
Mê-phi-bô-sết xem mình
thấp hèn như “con chó chết” (c.8), và chúng ta đều “chết” trong những vi phạm
và tội lỗi của mình khi Chúa Giê-xu kêu gọi chúng ta và ban cho chúng ta một
đời sống mới (Eph
2:1-6). Chúng ta có địa vị cao hơn địa vị mà Đa-vít ban cho
Mê-phi-bô-sết, vì chúng ta được ngồi trên ngôi với Chúa Cứu Thế Giê-xu và nhờ
Ngài mà cai trị sự sống (Ro 5:17). Đức Chúa
Trời ban cho chúng ta lòng nhân từ và ân điển dư dật của Ngài (Eph 2:4-7) và “sự giàu có không dò được” của Chúa
Cứu Thế (3:8). Đức Chúa Trời chu cấp mọi sự
cần dùng của chúng ta, không phải bằng của cải của vua thế gian, nhưng theo “sự
giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển” (Phi 4:19).
Mê-phi-bô-sết đã sống cả cuộc đời còn lại của mình ở Giê-ru-sa-lem trên đất
(c.13), nhưng con cái của Đức Chúa Trời ngày nay đã là công dân của
Giê-ru-sa-lem trên trời, nơi mà họ sẽ cư ngụ đời đời với Đức Chúa Trời (He 12:22-24).
Sự kiện cảm động nầy trong cuộc đời
Đa-vít không chỉ là minh họa cho kinh nghiệm thuộc linh trong Chúa Cứu Thế của
tín hữu, nhưng cũng cho chúng ta thấy rằng Đa-vít thật sự là người sống đẹp
lòng Đức Chúa Trời (ISa 13:14 Cong 13:22). Ông là người chăn biết quan tâm đặc
biệt đến con chiên khuyết tật trong bầy.
Sự kiện cuối cùng cần lưu ý: khi một
số con cháu của Sau-lơ bị chọn ra để đem đi giết, Đa-vít đã bảo vệ mạng sống
của Mê-phi-bô-sết (IISa 21:1-11, đặc biệt
c.7). Trong đó có một người khác cũng có tên Mê-phi-bô-sết, nhưng Đa-vít phân
biệt được hai người nầy! Bài học ứng dụng cho các tín hữu ngày nay rất rõ ràng:
“Cho nên hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào
cho những kẻ ở trong Đức Chúa Jêsus Christ” (Ro 8:1). “Vì Đức Chúa Trời chẳng định sẵn cho chúng ta bị cơn
thạnh nộ, nhưng cho được sự giải cứu bởi Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta” (ITe 5:9). “Ai tin Ngài thì chẳng bị đoán xét đâu;
ai không tin thì đã bị đoán xét rồi, vì không tin đến danh Con một Đức Chúa
Trời” (Gi 3:18).
Mê-phi-bô-sết là cái tên khó đọc,
khó nhớ, nhưng ông nhắc chúng ta một lẽ thật tuyệt vời về “sự nhân từ của Đức
Chúa Trời” được bày tỏ cho chúng ta qua Chúa Cứu Thế Giê-xu là Cứu Chúa của
chúng ta.
4. Bảo vệ danh Đức Chúa
Trời (IISa 10:1-9) (ISu 19:1-9)
Một lần nữa, Đa-vít muốn
bày tỏ lòng nhân từ, nhưng lần nầy sự nổ lực của ông dẫn đến chiến tranh không
phải hòa bình. Những lời đề nghị của Đa-vít với các nước láng giềng bị hiểu
lầm, và Đa-vít phải bảo vệ danh dự của chính mình cũng như thanh danh của Đức
Giê-hô-va và dân sự Ngài.
Sự xúc phạm công khai (IISa 10:1-5).
Chiến công đầu tiên của Sau-lơ là đánh thắng quân Na-hách và Am-môn khi họ tấn công Gia-be Ga-la-át (ISa
11:1-15). Giống dân Am-môn, dân Mô-áp cũng là con cháu của Lót (Sa 19:30) và như vậy là bà con của dân Do Thái.
Làm thế nào Đa-vít trở thành bạn của dân Am-môn khi người tiền nhiệm ông đã
tranh chiến với họ? Chuyện có thể đã xảy ra trong thời gian Đa-vít tha hương và
dường như đang chuẩn bị tranh chiến với Sau-lơ. Trong suốt thời gian sống
“ngoài vòng pháp luật” đó, Đa-vít cố gắng xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp với
các người lân bang, ông hy vọng điều đó sẽ giúp ích nhiều cho ông khi ông lên
làm vua. Cụm từ “làm ơn” có thể mang nghĩa “lập kết ước”, nên có thể Đa-vít
không chỉ muốn yên ủi Ha-nun mà còn muốn lập một hiệp
ước với ông ta.
Đa-vít sai đoàn sứ giả
đến gặp Ha-nun, nhưng sự thiếu chín chắn và thiếu hiểu biết đã thắng hơn sự
khôn ngoan và lương tri. Vị vua mới non trẻ ấy đã nghe
theo lời của những người cố vấn đa nghi và đối xử với các sứ giả của Đa-vít như
thể họ là những thám tử. (Nhiều năm sau, con trai của Sa-lô-môn, là Rê-bô-am,
đã phạm sai lầm tương tự và nghe theo lời khuyên thiếu khôn ngoan, xem (IVua 12:1-33). Dân Am-môn cạo nửa bên râu và cắt
nửa quần áo cho đến hông của những sứ giả Do Thái. Người đàn ông Do Thái không
cạo râu (Le 19:27 21:5
Phu 14:1-2), và đụng đến râu của họ là sự sỉ
nhục nặng nề. Tất cả người Do Thái đều phải mặc đồ kín đáo, nên phơi trần thân thể còn đáng hổ thẹn hơn. Ha-nun đối đãi với các sứ giả Do
Thái như những tù binh (Es 20:3-4),
và đã cắt những dây tua trên áo của họ, dấu hiệu chứng minh họ là người Do Thái
(Phu 22:12 Dan
15:37-41).
Trận đánh thứ nhất (IISa 10:6-14). Những sứ giả nầy có thể dễ dàng có
được quần áo khác, nhưng phải cần có thời gian để râu họ mọc lại; nên họ ở lại
thành Giê-ri-cô cho đến khi họ trông chỉnh tề hơn. Tuy nhiên, râu mới mọc không
thể xóa đi những vết cắt cũ. Khi vua Ha-nun sai quan quân mình ngược đãi đoàn
sứ giả, ông không chỉ xúc phạm đến cá nhân những người đó, ông còn xúc phạm đến
vua Đa-vít, người đã sai họ đi và cả dân tộc mà họ đại diện. Tóm lại, hành động của Ha-nun như một lời tuyên chiến.
Nhưng vua Ha-nun không chuẩn bị gì
cho chiến tranh, đặc biệt khi đối đầu với một quan tổng binh như Giô-áp và một
vua nổi tiếng như Đa-vít; nên ông đã phải bỏ ra một ngàn ta-lâng bạc (ISu 19:6) để thuê lính từ phương bắc, bao gồm quân
Sy-ri và A-ram, các dân mà cuối cùng Đa-vít đã đánh bại (IISa 8:12). 33.000 lính hợp cùng quân Am-môn tấn
công quân Do Thái. Chắn chắn Giô-áp phải đối đầu với hai đội quân, họ đang dùng
thế gọng kìm để đánh Y-sơ-ra-ên, với quân Sy-ri, A-ram từ phía bắc và Am-môn từ
phía nam. Giô-áp khôn ngoan chia lực lượng mình làm hai và để A-bi-sai, em trai
mình, lãnh đạo mặt trận phía nam, với sự giúp sức của Đức Chúa Trời Giô-áp đã
đánh bại quân ở phía bắc, chiến thắng nầy làm quân
thù ở phía nam khiếp sợ và bỏ chạy đến Ráp-ba, một kinh đô kiên cố của Am-môn.
Trận đánh thứ hai (IISa 10:15-19). Chính Đa-vít đã dẫn đắt Y-sơ-ra-ên đánh quân
Sy-ri, ông và quân Y-sơ-ra-ên đã đánh bại họ, dân Sy-ri trở thành những bang
chư hầu của vương quốc ngày càng lớn mạnh của Đa-vít. Giô-áp khôn ngoan đợi
thời cơ bao vây kinh đô Ráp-ba của Am-môn
trong thời đó, nên ông đã chờ qua năm mới để tiếp tục tấn công (11:1). Ông đã chiếm được thành, Đa-vít đến khép
vòng vây và xưng danh mình (12:26-31). Trong
khi Giô-áp và quân lính bao vây Ráp-ba, Đa-vít ở Giê-ru-sa-lem và phạm tội tà
dâm với Bát-sê-ba.
Đa-vít thật là người của chiến trận
và đã đánh trận cho Đức Giê-hô-va, Đức Giê-hô-va đã ở cùng ông để ban chiến
thắng cho ông. Ông mở mang biên giới Y-sơ-ra-ên đến sông Ê-díp-tô ở phía nam,
đến sông Ơ-phơ-rát ớ phía bắc; ở phía đông ông chiếm được Ê-đôm, Mô-áp, và
Am-môn, ở phía bắc ông chiếm được A-ram và Sy-ri, trong đó có Ha-mát. Nhờ ân tứ
và sự trợ giúp của Đức Chúa Trời, Đa-vít trở thành vua vĩ đại nhất và bậc kỳ
tài nhất về quân sự của Y-sơ-ra-ên. Ông có được lòng trung thành của những
người gan dạ như Giô-áp và A-bi-sai, cùng với “các lính mạnh dạn” của mình (IISa 23:1-39 ISu
11:10-47).
5. SỰ KHÔNG VÂNG LỜI,
SỰ LỪA DỐI VÀ SỰ TRỪNG PHẠT (IISa 11:1-12:31)
Không giống những sách
sử ký bình thường hay thông cáo báo chí, Kinh Thánh luôn nói ra sự thật về con
người. Qua Kinh Thánh, chúng ta biết rằng ngay cả những người tốt nhất trong
các câu chuyện Kinh Thánh cũng đã phạm lỗi và thất bại như chúng ta, dù vậy
trong ân điển cao cả của Ngài, Đức Giê-hô-va có thể sử dụng họ làm thành những
mục đích của Ngài. Nô-ê là người có đức tin và biết vâng lời, nhưng có lần ông
đã để mình say rượu, hai lần Áp-ra-ham đã nói dối về vợ mình, Gia-cốp đã lừa cả
Y-sác và Ê-sau, cha và anh trai mình, Môi-se đã nổi giận khi ông đập vào hòn đá
và Phi-e-rơ đã không can đảm nên chối Chúa ba lần.
Ở đây chúng ta thấy
Đa-vít, người làm vừa lòng Đức Chúa Trời, đã phạm tội tà dâm và sau đó giết
người để che đậy tội lỗi mình. Ít nhất trong 9 tháng, Đa-vít đã không xưng nhận
tội lỗi mình, nhưng khi Đức Chúa Trời phán với ông và khi ông tìm kiếm mặt Ngài
ông đã có một bắt đầu mới. Nhưng ông đã phải trả giá rất đắt cho tội lỗi mình,
như Charles Spurgeon có nói, “Đức Chúa Trời không để con cái Ngài phạm tội cách
dễ dàng”. Đáng tiếc, Đa-vít phải gánh chịu hậu quả vì tội lỗi mình cho đến cuối
đời, và chúng ta cũng vậy nếu chúng ta chống nghịch Ngài. Vì Đức Giê-hô-va sửa
phạt những người Ngài yêu và tìm cách khiến họ vâng lời Ngài. Những điều tốt
đẹp mà chúng ta nhận được trong cuộc đời, chúng ta đã trả cho nó trước rồi, vì
Đức Chúa Trời sửa soạn chúng ta cho những gì Ngài đã chuẩn bị cho chúng ta.
Nhưng với những điều xấu xa mà chúng ta làm, chúng ta phải trả giá từ từ. Sự sự
cay đắng, buồn rầu của chúng ta là hậu quả của những tội đã được tha thứ.
Hai đoạn Kinh Thánh nầy mô tả 7 giai
đoạn trong kinh nghiệm của Đa-vít. Khi học Kinh Thánh, chúng ta nên nhớ lời
nhắc nhở của Phao-lô, “Vậy thì, ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã” (ICo 10:12).
1. Sự thai nghén tội
lỗi (IISa 11:1-3)
Sự bị cám dỗ và tội lỗi
của Đa-vít minh họa cho lẽ thật trong Gia 1:14-15 “Nhưng mỗi
người bị cám dỗ khi mắc tư dục xui giục mình. Đoạn, lòng tư dục cưu mang, sanh
ra tội ác; tội ác đã trọn, sanh ra sự chết”. Thật không khó để nhận ra nó phát
triển như thế nào.
Sự biếng nhác (IISa 11:1-2a). Phân đoạn Kinh Thánh thuật về tội lỗi
của Đa-vít nằm trong bối cảnh Giô-áp bao vây thành Ráp-ba,
kinh đô của người Am-môn (IISa 11:1,16-17 ISu 20:1-3). Quân Am-môn chạy trốn đến thành
Ráp-ba có tường rào bao quanh (10:14),
Giô-áp và lực lượng Y-sơ-ra-ên chờ đến lúc dân chúng ra ngoài thành lấy nước và
đồ ăn, thì họ sẽ tấn công. Đa-vít sai Giô-áp và quân lính bao vây thành Ráp-ba,
còn chính ông ở lại thành Giê-ru-sa-lem. Có thể lúc đó vào tháng tư hoặc tháng
năm, và những cơn mưa đã dứt và thời tiết ấm áp hơn. Các nhà sử học cho rằng
trong thời gian nầy Đa-vít khoảng 50 tuổi. Thật ra những lãnh đạo trong nước có
khuyên Đa-vít không nên tham gia vào cuộc chiến (IISa
21:15-17), nhưng ông có thể ở cùng đội quân mình để giúp họ triển khai
thế trận và cho họ thấy tinh thần lãnh đạo của ông.
Dù nguyên nhân, hoặc tốt hoặc xấu,
khiến Đa-vít ở lại Giê-ru-sa-lem là gì đi nữa, thì có một sự thật là: “Satan
tìm cho người biếng nhác việc quái ác gì đó để họ làm”. Biếng nhác không chỉ có
nghĩa là không hoạt động, vì tất cả chúng ta cần phải có thời gian nghỉ ngơi;
biếng nhác còn là hoạt động mà không có mục đích. Khi Đa-vít thức dậy sau giấc
ngủ trưa, ông ta nên quay lại ngay với công việc triều chính, là những việc
chiếm hết tâm hồn và thể xác ông, hoặc nếu ông muốn đi dạo, thì ông nên rủ ai
đó đi chung với ông. Samuel Johnson có viết “Nếu bạn biếng nhác, bạn không có
tính đoàn kết, nếu bạn có tính đoàn kết, bạn sẽ không biếng nhác.” Nếu Đa-vít
nghe theo lời khuyên đó, ông ta đã cứu được chính mình và gia đình mình khỏi
tình trạnh đau lòng.
Khi Đa-vít bỏ áo giáp qua một bên,
ông đã bước một bước đầu tiên vào chỗ thất bại về mặt đạo đức, và chính nguyên
tắc ấy cũng được áp dụng cho Cơ Đốc Nhân ngày nay (Eph
6:10-18). Nếu không có sự cứu rỗi làm mão trụ, chúng ta không suy nghĩ
như những người được cứu; và nếu không có giáp bằng sự công bình, chúng ta
không có gì bảo vệ được tấm lòng chúng ta. Thiếu lẽ thật làm dây nịt lưng,
chúng ta dễ dàng tin vào những lời dối trá; và nếu không có Lời Đức Chúa Trời
làm gươm và đức tin làm thuẫn, chúng ta sẽ trở nên vô dụng trước mặt kẻ thù.
Nếu không cầu nguyện, chúng ta sẽ không có sức mạnh. Để bình an, Đa-vít đã
chiến đấu cho phần còn lại của cuộc đời mình. Ngoài chiến trường ông đã an toàn
hơn tại nhà mình!
Sự tưởng tượng (IISa 11:2b). Không thể trách được người đàn ông
nhìn một phụ nữ đẹp đi qua tầm ngắm của anh ta, nhưng nếu người đàn ông đó cố
tình nấn ná một giây để nhìn cho thỏa dục vọng của mình, anh ta đang để mình
gặp phiền toái. Chúa Giê-xu từng nói rằng: “Các ngươi có nghe lời phán rằng:
Ngươi chớ phạm tội tà dâm. Song ta phán cho các ngươi biết: Hễ ai ngó đàn bà mà động tình tham muốn, thì trong lòng đã phạm
tội tà dâm cùng người rồi” (Mat 5:27-28).
Khi Đa-vít dừng lại và nhìn lâu hơn, trí tưởng tượng của ông bắt đầu hoạt động
và từ đó thai nghén tội lỗi. Trong lúc đó, tốt nhất là ông nên quyết tâm quay
đi và rời khỏi đó để tìm chỗ an toàn hơn. Khi Giô-sép đối diện với cám dỗ tương
tự, ông đã bỏ chạy khỏi chỗ đó (Sa 39:11-13).
“Hãy thức canh và cầu nguyện, kẻo các ngươi sa vào chước cám dỗ; tâm thần thì
muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối”. (Mat 26:41).
“Xin chớ để chúng con bị cám dỗ” là
lời cầu nguyện mà Đa-vít nên thốt ra lúc nầy. Vì nấn ná và nhìn, Đa-vít đã tự
cám dỗ chính mình. Bởi việc sai sứ giả, ông đã cám dỗ
Bát-sê-ba; và vì chịu thua xác thịt mình, Đa-vít đã thách thức Đức Chúa Trời.
Sự cung cấp thông tin (IISa 11:3). Khi Đức Chúa Trời cấm điều gì và cho
rằng đó là tội, thì chúng ta đừng nên cố tìm hiểu thêm về nó. “Sự anh em vâng phục
thì ai ai cũng biết rồi, vậy tôi vì anh em
vui mừng, mong rằng anh em khôn ngoan về điều lành, và thanh sạch đối với điều
dữ” (Ro 16:19). Đa-vít biết luật pháp nói gì
về tội tà dâm, vậy tại sao ông còn sai người đem người phụ nữ ấy đến? Vì trong
lòng ông, ông đã bị nàng ám ảnh rồi, và bây giờ ông chỉ lo chuyện gặp được
nàng. Đa-vít biết Bát-sê-ba là người đã có chồng, và chỉ một sự thật đó không
ngăn được ông tiến hành kế hoạch xấu xa của mình. Khi ông biết nàng là vợ của
một trong số những người lính can đảm của mình, là người đang ở ngoài chiến
trường (IISa 23:9), lẽ ra ông nên chạy đi
khỏi nóc đền vua, úp mặt xuống đất mà khóc xin Đức Chúa Trời thương xót. Qua
thông tin ngắn được người ta cung cấp, Đa-vít chắc phải biết Bát-sê-ba là cháu
của A-hi-tô-phe, người tham mưu mà ông yêu quí (23:34
16:23). Thật không ngạc nhiên khi
A-hi-tô-phe ở về phía Áp-sa-lôm khi Áp-sa-lôm làm phản và chiếm ngai vàng của
cha mình!
Đa-vít biết luật pháp và nên ghi nhớ
nó trong lòng. “Ngươi chớ tham nhà kẻ lân cận
ngươi, cũng đừng tham vợ người” (Xu
20:17) “Ngươi chớ phạm tội tà dâm”
(20:14). Đa-vít cũng biết rằng các đầy tớ
trong cung thấy và nghe mọi chuyện đã xảy ra và thuật lại cho người khác, nên
không có cơ hội giữ được bí mật về tội lỗi mình. Việc ông đã để mắt đến vợ
người khác có lẽ khắp nơi đều biết. Nhưng ngay cả không có ai ngoài những người
ông sai đi biết chuyện ấy, thì chính Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã biết và không
chấp nhận việc Đa-vít đã làm. Đức Chúa Trời cho Đa-vít thời gian nhìn lại mình
và ăn năn, nhưng ông chỉ cứng lòng và tiếp tục làm
như không có chuyện gì xảy ra.
2. Sự phạm tội (IISa 11:4)
Một trong những điều khó
hiểu trong biến cố nầy là sự ưng thuận của Bát-sê-ba; nàng đã chịu đi theo
những sứ giả và thuận theo ý muốn của Đa-vít. Từ Hy-bá-lai được dịch là “đem”
có nghĩa đơn giản là “có được, nhận được, giành được” hoặc nó được dịch là “bắt
lấy, chiếm hữu hoặc mang đi”. Tuy nhiên, dường như trong phân đoạn Kinh Thánh
nầy không có bằng chứng nào cho thấy Đa-vít đã dùng sức mạnh hay bạo lực uy
hiếp Bát-sê-ba và độc giả nhận thấy nàng đã hợp tác với các sứ giả. Nhưng tại
sao như vậy?
Bát-sê-ba có biết tại
sao Đa-vít muốn nàng đến không? Nếu biết, nàng có dừng lại để suy xét việc mà
nàng đủ trưởng thành để nhận thức không? Có lẽ nàng muốn có con với vua! (IVua 1:1-53 cho biết
Bát-sê-ba là một phụ nữ khôn ranh. “Một người vợ trẻ có gây nên tình trạng đó
không?” Giáo sư E. M. Blaiklock hỏi. “Đáng nghi hơn là nàng đã giăng một cái
bẩy và Đa-vít do sơ ý đã rơi vào”. Có lẽ nàng nghĩ Đa-vít có tin tức từ mặt
trận về chồng nàng, nhưng vua không có nhiệm vụ thông báo về quân sự. Có phải
nàng đã quên tình yêu của chồng và tắm nơi công khai như lời mời gọi bất kỳ
người đàn ông nào đi ngang qua trông thấy? Nếu nàng từ chối yêu cầu của Đa-vít,
ông ta sẽ phạt chồng nàng không? (Mọi chuyện đều có thể xảy ra!).
Không người Do Thái nào
phải tuân lệnh vua khi vua ấy không vâng theo luật pháp Đức Chúa Trời, vì vua
đã kết ước với Đức Chúa Trời và dân sự là phải tuân thủ luật pháp của Đức Chúa
Trời. Có phải nàng nghĩ rằng phục tùng Đa-vít, nàng sẽ có được vũ khí tự vệ,
đặc biệt nếu chồng nàng tử trận? Còn rất nhiều câu hỏi chúng ta có thể đặt ra,
nhưng chúng ta không thể dễ dàng trả lời chúng. Kinh Thánh không cho chúng ta
biết và phỏng đoán thì không giúp ích gì nhiều.
Tội lỗi mà sự tham dục
của Đa-vít thai nghén nay sắp được sinh ra, tội lỗi nầy sẽ mang theo nó sự buồn
rầu và sự chết. Theo Châm ngôn 6, Đa-vít sẽ bị cướp (c.26), bị thiêu đốt
(c.27-28), bị sỉ nhục và tiêu diệt (c.30-33), chỉ vì một vài phút làm trái luật
pháp Đức Chúa Trời và chịu thua tư dục mình. Điện ảnh, truyền hình Hollywood và tiểu thuyết hiện đại thường dùng những câu
chuyện ngoại tình với mục đích giải trí, điều đó chỉ cho thấy tình hình đã trở
nên tồi tệ như thế nào. Những người nổi tiếng thừa nhận rằng họ từng không
chung thủy với người bạn đời của mình, nhưng dường như điều đó không làm mất
danh tiếng hay thu nhập của họ. “ Những cuộc ly hôn” ngày càng được đơn giản
hóa thủ tục, nhưng chúng không ngăn được hậu quả đau lòng về tình cảm đối với
lòng chung thủy. Những mục sư và các nhà tư vấn biết rằng thật không dễ để nạn
nhân được chữa lành và xây dựng lại cuộc sống và gia đình mình, nhưng phương
tiện truyền thông đại chúng tiếp tục dạy người ta làm thế nào để vi phạm và
thoát khỏi lời thề trong ngày cưới của mình.
Đa-vít và Bát-sê-ba đã
phạm tội nghịch cùng Đức Chúa Trời, vì chính Ngài đã thiết
lập hôn nhân và ban ra luật lệ cho nó. Tội tà dâm là một trọng tội trong
Y-sơ-ra-ên, kẻ phạm tội nầy, dù là nam hay nữ, phải bị ném đá cho đến chết (Le 20:10 Phu 22:22-24
Gi 8:16). Đức Chúa Trời xem trọng những lời
thề trong ngày cưới của cô dâu và chú rễ, dù họ có xem trọng chúng hay không (Ma 2:14 He 13:4).
3. Sự che dậy tội lỗi (IISa 11:5-27)
“Người nữ nầy thọ thai,
sai người tâu cùng Đa-vít rằng: Tôi có thai” (c.5). Đây là những lời nói duy
nhất của Bát-sê-ba được ghi lại trong tình tiết nầy, nhưng đó là những lời
Đa-vít không muốn nghe. Chúng ta có thể diễn giải ngắn gọn lời đó như sau,
“Tiếp theo là việc của vua”. Là một nhà mưu lược, Đa-vít liền lên kế hoạch che
đậy tội lỗi mình. Đa-vít gọi U-ri từ chiến trường trở về với hy vọng người lính
ấy sẽ về nhà và dành thời gian cho vợ. Thật ra, Đa-vít ra lệnh cho ông ta trở
về nhà (c.8), nhưng người lính ấy không tuân theo và ở lại với các đầy tớ của
vua suốt đêm đó. Đa-vít ban cho ông ta đồ ăn từ bàn mình để vợ chồng ông ta có
thể mở tiệc, nhưng U-ri không đem chúng về nhà.
Chúng ta không biết U-ri có nghe được tin gì làm ông nghi ngờ hay không? Đầy tớ
trong cung có tiếng là nhiều chuyện.
Đa-vít phải nghĩ ra một kế hoạch
khác, và cách tiếp theo là phải hỏi chuyện U-ri vào ngày hôm sau, trong cuộc
trò chuyện đó vua mổ xẻ chuyện ông ta không trở về nhà. Là một người lính chân
chính, U-ri nhẹ nhàng trách vua với lời lẽ ám chỉ rằng làm sao một người lính
có thể nghĩ đến niềm vui riêng của mình trước trong khi anh em binh lính vẫn
còn ở ngoài chiến trường. Thậm chí hòm giao ước của Đức Chúa Trời vẫn còn ở
trong trại, thế thì làm sao U-ri có thể ở nhà vui vẻ với vợ mình? ISa 21:5 gợi ý rằng binh lính của Đa-vít kiêng
chung đụng với đàn bà trong thời gian thi hành nhiệm vụ (luật lệ này căn cứ vào
Le 15:16-18) nên U-ri lấy làm lạ khi nghe
vua đề nghị những điều như vậy.
Kế hoạch thứ ba của Đa-vít là mời
cơm U-ri trước khi ông ta trở ra chiến trường. Trong
bửa cơm ấy, Đa-vít liên tục chuốc rượu cho U-ri say. Nhưng U-ri đang say vẫn
còn là người tốt hơn là Đa-vít đang tỉnh táo, vì một lần nữa ông ta lại không
chịu về nhà. U-ri là một người lính hết lòng, và dù rượu làm ông mất cảnh giác,
ông vẫn trung thành với sự kêu gọi của mình. Nhưng vẫn còn một kế hoạch khác:
U-ri phải chết. Nếu Đa-vít không thể khiến U-ri về nhà, Đa-vít sẽ đưa ông ta
vào chỗ chết để có thể cưới người quả phụ của ông ta, và Đa-vít cưới được nàng
ta càng sớm, thì kế hoạch càng diễn tiến tốt hơn. Đa-vít đã từng bước một vi
phạm 10 điều răn. Ông tham vợ người lân cận mình, phạm tội tà dâm với nàng, và
giờ đây làm chứng dối đối với người lân cận mình, đưa ông ấy và chỗ chết.
Đa-vít nghĩ ông đang lừa dối mọi người, nhưng ông chỉ đang lừa dối chính mình.
Ông nghĩ mình có thể thoát tội và có thể thoát được sự trừng phạt của Đức Chúa
Trời. “Người nào giấu tội lỗi mình sẽ không được may mắn” (Ch 28:13).
Giô-áp cho bao vây Ráp-ba và ra lệnh cho quân lính mình không đi đến quá gần
tường thành nếu không họ sẽ bị giết chết. Thỉnh thoảng có một vài người lính
Am-môn ra khỏi cổng thành để nhử lính Do Thái đến gần và tấn công họ, nhưng
những lệnh Giô-áp ban ra phải được chấp hành. Giô-áp rất thông mình, nên sau
khi đọc những dòng thư của Đa-vít đã luận ra rằng điều duy nhất U-ri có mà
Đa-vít muốn chiếm lấy là người vợ xinh đẹp của ông ta, nên Giô-áp đã hợp tác
với kế hoạch đó. Tóm lại, biết được âm mưu của Đa-vít sẽ là một vũ khí
mà Giô-áp có thể sử dụng để bảo vệ mình một ngày nào đó. Bên cạnh đó, Giô-áp
giết A-sa-ên, Áp-ne (IISa 2:17-24 3:27), và có một ngày sẽ giết A-ma-sa (20:6-10), nên ông ta hiểu những việc nầy. Giô-áp
biết ông không thể sai một mình U-ri đến gần tường thành vì như vậy sẽ làm quân
lính nghi ngờ, nên vài “tôi tớ vua” (c.24) đã chết chung với U-ri chỉ để Đa-vít
che dậy những tội lỗi của mình. “Tôi tớ vua” có thể là những vệ sĩ của Đa-vít,
những người giỏi nhất trong đội quân Y-sơ-ra-ên (8:18).
Sự đau buồn của
Bát-sê-ba vì cái chết của chồng chắc chắc là thật lòng, nhưng nổi buồn ấy dịu
bớt vì biết rằng mình sẽ sớm được đưa vào cung. Người ta có thể ngạc nhiên vì
nàng vội kết hôn sau đám tang, và người
nàng lấy lại là vua, nhưng 6 tháng sau khi nàng sinh một bé trai, thì mọi người
đã vỡ lẽ. 3:1-5 cho biết Bát-sê-ba là vợ thứ
7 của Đa-vít. Nhưng khi tính luôn Mi-canh, người vợ son sẻ, Bát-sê-ba đứng thứ 8. Trong Kinh Thánh số 8 thường là dấu hiệu của
sự bắt đầu mới, và với sự ra đời của Sa-lô-môn, con của Đa-vít với Bát-sê-ba,
hy vọng nầy đã được ứng nghiệm.
Tuy nhiên, Đa-vít đã có
một việc chưa làm trọn để ông phải quan tâm vì Đức Giê-hô-va không hài lòng với
tất cả những gì ông đã làm.
4. Sự xưng tội (IISa 12:1-14)
Na-than có đặc ân truyền
sứ điệp về giao ước của Đức Chúa Trời với Đa-vít và con cháu ông (IISa 7:1-29), nhưng lúc bấy giờ tiên tri nầy phải đảm nhiệm phần việc của một
bác sĩ thuộc linh và đương đầu với vua vì tội lỗi của vua. Đa-vít đã che đậy
tội lỗi mình ít nhất trong 6 tháng, và rồi con của Bát-sê-ba sắp ra đời. Đây
không phải là nhiệm vụ dễ dàng đối với Na-than, nhưng rõ ràng ông đã chuẩn bị
cẩn thận cho sự đối đầu với vị vua phạm tội nầy.
Sự xét xử (IISa 12:1-6). Qua việc kể câu chuyện về tội ác của người
khác, Na-than chuẩn bị cho Đa-vít để đối diện với tội lỗi của chính mình, và có
thể Đa-vít nghĩ rằng Na-than đang đưa ông ra tòa với một vụ án thật sự. Na-than
để Đa-vít mất cảnh giác hầu có thể tìm hiểu phản ứng của vua và biết nên làm gì
tiếp theo. Vì Đa-vít từng là người chăn chiên, ông sẽ quan tâm đến câu chuyện
về kẻ đã bắt trộm con chiên cái vô tội; và là một vị vua, ông phải nhìn nhận
gia đình người nghèo cần được xử công bằng.
Đức Chúa Trời hướng dẫn
Na-than cẩn thận lựa lời mình để chúng có thể nhắc Đa-vít nhớ những điều ông
nói và làm. Tiên tri đã nói rằng con chiên cái “ăn đồ người ăn, uống đồ người
uống, và ngủ trên lòng người” (c.3). Điều nầy nhắc
Đa-vít nhớ đến câu nói của U-ri trong 11:11:
“Tôi lại vào nhà mình đặng ăn, uống, và ngủ cùng vợ mình sao?”. Nhưng cho đến
khi Na-than kể đến chỗ người giàu bắt và giết con chiên đó, Đa-vít mới có phản
ứng, và như vậy Đa-vít đã tỏ ra giận dữ với tội lỗi của người khác! (ISa 25:13,22,32 để thấy những lần khác Đa-vít nổi giận). Đa-vít
dường như không nhận ra chính mình là người giàu đó, U-ri là người nghèo, và
Bát-sê-ba con chiên cái bị bắt đi. “Người khách” mà kẻ giàu đã tiếp đãi tượng
trưng cho sự cám dỗ và dục vọng đã len vào trong lòng Đa-vít khi Đa-vít đi dạo
trên nóc cung vua và bắt phục được ông. Nếu chúng ta mở cửa, tội lỗi sẽ bước
vào như người khách và nó sớm trở nhành chủ của chúng ta (Sa 4:6-7)
Đa-vít xét đoán người giàu ấy mà
không nhận ra mình đang tự xét đoán mình. Trong tất cả sự mù quáng, loại tồi tệ
nhất là loại mù quáng về chính mình. “Nhiều người dường như hoàn toàn xa lạ với
bản chất của chính mình” Joshep Butler
đã nói, và Đa-vít là một trong số đó. Thật dễ dàng lên án tội lỗi của người
khác (Mat 7:1-3)! Ăn cắp và giết gia súc
không phải là một vi phạm lớn ở Y-sơ-ra-ên, nhưng Đa-vít đã nổi giận quá mức
như vậy. Cho đến lúc nầy, ông vẫn xem việc làm mình như không có gì, và như thể
U-ri đáng phải chết. Cả Đa-vít và Bát-sê-ba lẽ ra phải bị ném đá đến chết (Le 20:10 Phu 22:22-24
Gi 8:1-6). Biết luật pháp, Đa-vít biết rằng
người chủ của con chiên cái phải được bồi thường với giá 4 con chiên (Xu 22:1).
Lời phán quyết (IISa 12:7-9). Tiên tri nhận ra rằng dù Đa-vít nổi giận,
nhưng ông cũng không cảnh giác và dễ dàng cho gươm Thánh Linh xuyên thấu tấm
lòng mình (He
4:12 Eph 6:17). Với đòn tấn công ngay
tức khắc, Na-than đã nói, “Vua là người đó!” (c.7) và tiếp tục cho vua thấy vua
thật đã xấu xa như thế nào. Na-than giải thích cho Đa-vít lý do ông đã cướp con
chiên cái của U-ri. Thứ nhất, vua không quên sự nhân từ của Chúa, là Đấng đã
ban cho ông mọi thứ ông đã có và sẽ ban thêm cho
ông nhiều hơn nữa (c.7-8). Thứ
hai, Đa-vít đã xem thường điều răn của Đức Chúa Trời và hành động như thể ông
được quyền phạm tội (c.9). Bởi tội tham vợ người, tà dâm, làm chứng dối và giết
người, Đa-vít đã phạm 4 điều răn, và ông nghĩ
ông có thể thoát khỏi tội đó! Sắp đặt cho U-ri đến chỗ chết đã quá
tàn nhẫn, vậy mà Đa-vít còn dùng gươm của kẻ thù thực hiện điều đó!
Bản án (IISa 12:10-12). Tội tà dâm của Đa-vít với Bát-sê-ba là tội do
phút nông nổi không thể kiểm soát được
tình cảm mình, nhưng tội giết U-ri là tội có trù tính, cố ý và đáng hổ thẹn.
Đây có thể là lý do (IVua 15:5 nhấn mạnh
“việc U-ri, người Hê-tít” và không nói gì về Bát-sê-ba. Nhưng Đức Giê-hô-va
trừng phạt cả hai tội nầy và Đa-vít đã trả giá rất đắt cho dục vọng và mưu gian
của mình. Đức Chúa Trời sửa phạt Đa-vít “đúng với những gì ông đã làm” (Phu 19:21 Xu 21:23-25
Le 24:20), một nguyên tắc thuộc linh mà
Đa-vít mô tả trong bài thi thiên mà ông viết sau khi Sau-lơ tử trận (Thi 18:25-27).
Gươm nầy không xa khỏi nhà của vua,
và các bà vợ của vua đã bị bắt và bị xâm phạm như ông đã làm với Bát-sê-ba.
Thật ra, Đa-vít phải trả giá gấp 4 lần, con của Bát-sê-ba chết, và các con trai
của Đa-vít là Am-nôn, Áp-sa-lôm và A-đô-ni-gia bị giết chết (IISa 13:29 18:14-15
IVua 2:25). Ta-ma, con gái xinh đẹp của
Đa-vít bị anh cùng cha khác mẹ cưỡng hiếp (đoạn 13), các vợ lẻ của Đa-vít bị
Áp-sa-lôn công khai sỉ nhục khi ông ta chiếm được vương quốc (IISa 16:22). Cho đến cuối đời, Đa-vít trải qua hết
thảm kịch nầy đến thảm kịch khác, hoặc trong gia đình hoặc trong vương quốc.
Giá mà Đa-vít phải trả cho phút nông nổi của mình thật đắt!
Những hình phạt của Đức Chúa Trời dành
cho Đa-vít đã được nói trong giao ước Ngài lập với Y-sơ-ra-ên mà vua cần phải
tuân giữ (Le 26:1-46 Phu 27:30). Nếu dân sự chống nghịch Đức Chúa Trời, Ngài sẽ giết
con cái họ trong chiến tranh (Le 26:17 Phu 28:18), vợ của họ bị người khác bắt đi (Phu 28:30), và dân sự phải bị lưu đày khỏi xứ mình
(Phu 28:63-68). Bởi sự phản loạn của
Áp-sa-lôm, Đa-vít phải trốn khỏi Giê-ru-sa-lem và sống trong đồng vắng. Nhưng
giao ước còn có phần nói về sự ăn năn và tha thứ.
Sự tha thứ (IISa
12:13-14). Tù nhân bị kết án nầy biết rằng lời tuyên án đúng và
bản án dành cho ông thật công bằng, nên không có lời tranh cãi nào, ông đã
nhận: “Ta đã phạm tội cùng Đức Giê-hô-va’ (c.13). Na-than cam đoan với Đa-vít
rằng Đức Giê-hô-va đã tha thứ cho ông rồi. “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì
Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch
mọi điều gian ác” (IGi 1:9). “Hỡi Đức
Giê-hô-va, nếu Ngài cố chấp sự gian ác, thì, Chúa ôi! Ai sẽ còn sống? Nhưng
Chúa có lòng tha thứ cho, để người ta kính sợ Chúa” (Thi
130:3-4).
Chắc chắn sau đó Đa-vít đã viết rằng
Đức Giê-hô-va “tha thứ các tội ác ngươi….Cứu chuộc mạng sống ngươi khỏi chốn hư
nát….”Phương đông xa cách phương tây bao nhiêu,
thì Ngài đã đem sự vi pham chúng tôi khỏi xa chúng tôi bấy nhiêu” (Thi 103:3-4,12).
Có chữ “nhưng” trong lời đáp của
Na-than, vì dù Đức Chúa Trời trong ân điển Ngài đã tha thứ cho Đa-vít, nhưng
Đức Chúa Trời trong quyền cai trị của Ngài phải để Đa-vít kinh nghiệm những hậu
quả của những tội lỗi ông đã phạm, bắt đầu là cái chết của con Bát-sê-ba. Trong
suốt những tháng Đa-vít im lặng, ông đã chịu rất nhiều đau khổ, bạn có thể nhận
thấy điều đó khi đọc hai bài cầu nguyện ăn năn của ông (Thi 32:1-11 51:1-19). 32:1-11 cho ta thấy một người đàn ông già yếu thay
vì một chiến binh anh dũng và 51:1-19 mô tả
một tín hữu gần như đã mất tất cả sự thánh khiết, vui mừng, khôn ngoan và bình
an – một người đang lo sợ Đức Chúa Trời cất Thánh Linh Ngài ra khỏi mình như
Ngài đã làm với Sau-lơ. Đa-vít kinh nghiệm nỗi đau về mặt tình cảm và thể xác,
nhưng ông đã để lại hai bài cầu nguyện quí báu nầy cho tất cả tín hữu đã từng
phạm tội.
Bởi công việc đã trọn của Chúa Cứu
Thế trên thập tự giá, Đức Chúa Trời có thể cứu rỗi những tội nhân hư mất và tha
thứ những người không vâng lời Ngài, những tội nhân và các tín hữu không biết
vâng lời càng sớm quay trở về ăn năn với Chúa, thì càng tốt hơn cho họ. Đa-vít
đã viết, “Tôi đã thú tội cùng Chúa, không giấu gian ác tôi; Tôi nói: Tôi sẽ
xưng các sự vi phạm tôi cùng Đức Giê-hô-va; Còn Chúa tha tội ác của tôi. Bởi cớ
ấy phàm người nhân đức đều cầu nguyện cùng Chúa trong khi có thế gặp Ngài; Quả
thật, trong lúc có nước lụt lan ra, thì sẽ chẳng lan đến người” (Thi 32:5-6). “Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va đang khi
mình gặp được; hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần!” (Es
55:6).
5. Sự sửa trị (IISa 12:15-23)
Sự sửa trị không phải là
sự trừng trị mà chúng ta thường thấy trong các vụ xét xử của quan tòa bảo vệ
luật pháp; nhưng đúng hơn là nỗi đau đớn chấp nhận bằng tình thương của người
Cha mong muốn con cái Ngài phải phục tùng, và trở nên trung kiên với Ngài. Sự
sửa trị biểu lộ tình thương của Chúa (Ch 3:11-12), và lời nhận xét của người Hy-lạp
trong He 12:5-13 có ý nghĩa “dạy bảo, chỉ
dẫn, sửa phạt”. Một chàng trai Hy-lạp tập luyện thể hình từ khi anh ta còn bé
và đi theo các môn đấu vật, quyền anh, bơi lội, và ném xa, việc chơi thể thao
sẽ giúp cho các chàng trai tăng trưởng “trí tuệ minh mẫn trong thân thể tráng
kiện”. Trong đời sống của một Cơ Đốc nhân, sự sửa trị không luôn là sự trừng
phạt của Chúa vì sự bất tuân của chúng ta; đôi khi Ngài chuẩn bị những sự thử
thách cho chúng ta vượt qua, giống như huấn luyện
viên hướng dẫn các lực sĩ chuẩn bị O-lym-pic. Nếu không có hậu quả đau khổ của
tội lỗi và sự sửa trị tất yếu của Đức Chúa Trời, thì chúng ta sẽ phải sống
trong thế giới bạo ngược và vô trách nhiệm ra sao?
Bát-sê-ba sanh được một
đứa con trai mà Na-than dự báo là sẽ chết, nhưng Đa-vít đã kiêng ăn và cầu
nguyện xin Đức Chúa Trời chữa lành cho đứa trẻ. Đức Chúa Trời không ngắt ngang
lời cầu xin của Đa-vít và bảo ông ngưng cầu thay, sau cùng những tội lỗi của
Đa-vít đã được tha, điều này không làm hại Đa-vít trong việc dành cả ngày để
cầu nguyện. Trong khoảng thời gian im lặng và xa cách Chúa, Đa-vít hiểu được
nhiều điều! Đứa bé sống chỉ có một tuần, cha mẹ nó chưa thực hiện cắt bì và đặt
tên con của họ trong ngày thứ tám. Con trai của họ là Sa-lô-môn có đến hai tên
(c.24-25), nhưng đứa con này không có tên.
Tại sao Đức Chúa Trời
yêu thương và công bình mà không nhậm lời cầu xin và chữa lành cho con trai của người cha đang đau khổ và ăn năn nầy? Xét cho cùng,
đó không phải là do lỗi của đứa trẻ mà là do cha và mẹ của nó đã phạm tội cùng
Đức Chúa Trời. Về việc này, tại sao Đức Chúa Trời cho phép U-ri và một số người
lính chết tại Ra-mát tạo điều kiện cho Đa-vít cưới Bát-sê-ba? Nếu tiếp tục đặt
ra những câu hỏi tương tự, bạn sẽ kết thúc bằng một câu: “Tại sao tình yêu của
Đức Chúa Trời cho phép sự gian ác xâm nhập vào thế gian?” Sau cùng, Đa-vít đã
nhìn lại và thấy những từng trãi đau khổ như là “sự tốt lành và sự nhơn từ” của
Chúa (Thi 23:6), cho cả hai, Đa-vít và đứa
trẻ. “Đấng đoán xét toàn thế gian, há lại không làm sự công bình sao?”
Áp-ra-ham hỏi (Sa 18:25). Khi ông nghe tin
không tốt về việc Đức Chúa Trời phán xử trên gia đình mình, thậm chí Hê-li khi
sa ngã cũng đã thú nhận : “Ấy là Đức Giê-hô-va, nguyện Ngài làm điều đẹp ý
Ngài!” (ISa 3:18). Ở đây không có câu trả
lời nào dễ dàng cho chúng ta chấp nhận, nhưng có nhiều lời hứa chữa lành tâm
hồn chúng ta, và đức tin được nuôi dưỡng lớn lên trên nền tảng của những lời
hứa, không phải trên những lời lý giải.
Điều chắc chắn hơn: tuần lễ mà
Đa-vít kiêng ăn cầu nguyện cho đứa trẻ, chúng ta thấy đức tin của ông nơi Đức
Chúa Trời, tình yêu mà ông dành cho bà Bát-sê-ba và
đứa con của nàng. Hiếm thấy quốc vương phương Tây nào rơi nước mắt hoặc bày tỏ
lòng đau đớn trước cái chết của đứa con được sanh ra bởi một cung phi. Bất chấp
tội lỗi của mình, Đa-vít vẫn được xem là người chăn chiên nhân hậu, và
là người làm vừa lòng Đức Chúa Trời; ông không “bị tội lỗi dỗ dành mà cứng
lòng” (He 3:13). Đa-vít tắm sạch, đã thay
đổi y phục, thờ phượng Đức Chúa Trời, trở về với cuộc sống đầy chán nãn và
nhiều bổn phận. Trong Thánh Kinh, việc tắm sạch và thay đổi y phục là dấu hiệu
cho một đời sống mới bắt đầu (Sa 35:1-2 41:14 45:22 Xu 19:10 Le 14:8-9
Gie 52:33 Kh
3:18). Không có việc Chúa sửa trị chúng ta bao lâu và như thế nào, “Ngài
không bắt tội luôn luôn, cũng chẳng giữ lòng giận đến đời đời” (Thi 103:9). Bởi vì ân tứ và lòng nhân từ của Chúa,
chúng ta sẽ luôn có một đời sống mới bắt đầu.
Những lời của Đa-vít trong câu 13
mang lại sự yên ủi cho những người đang đau buồn vì cái chết của con mình,
nhưng không những người nghiên cứu Cựu Ước nào cũng
đồng tình rằng lời của vua được khải thị từ Đức Chúa Trời. Có thể Đa-vít sẽ
nói: “Con trai của ta không thể sống lại từ phần mộ hay âm phủ, nhưng sẽ có một
ngày ta đến đó để gặp lại con ta.” Nhưng sự an ủi nào sẽ cho chúng ta biết rằng
mọi người rồi sẽ chết? “Nó sẽ chẳng trở về với ta” là câu mà Đa-vít tin rằng
con trai đã chết của mình sẽ không được tái sinh cũng như không được sống lại
cho đến khi Chúa tái lâm. Điều cũng này khẳng định rằng Đa-vít đã trông chờ sẽ
thấy và nhận ra con trai mình ở nơi cuộc sống trong tương lai. Vậy cuối
cùng Đa-vít sẽ đi về đâu? “Tôi sẽ ở trong nhà Đức Giê-hô-va cho đến lâu dài.” (Thi 23:6 11:7 16:11 17:15).
6. Sự an ủi (IISa 12:24-25)
Dù chúng ta cảm thấy khó
chịu thể nào vì bàn tay sửa trị của người Cha yêu thương,
thì vẫn có sự an ủi từ Đức Chúa Trời dành cho chúng ta (Es 40:1-2,9-11,28-31). Trước khi con trai của Bát-sê-ba chết, Đức
Chúa Trời đã gọi nàng là “vợ của U-ri” (c.15), điều này hợp lý vì khi nàng thụ
thai đứa trẻ, nàng còn là vợ U-ri; nhưng trong câu 24 nàng trở thành vợ của
Đa-vít, điều này muốn nói rằng, tương tự như Đa-vít, nàng cũng bắt đầu đời sống
hoàn toàn mới. Bằng chứng cho ân tứ của Đức Chúa Trời đó là “vợ của U-ri” được nhắc đến trong bảng gia phả của Đấng Mê-si
(Mat 1:6), cùng với Tama (c.3 Sa 38:1-30), Raháp và Rutơ (c.5 Gios 2:1-24 6:22-25
Phu 23:3).
Ít nhất chín tháng đã trôi qua trong
câu 24 và 25, chín tháng ân sũng và lòng nhân từ của Đức Chúa Trời. Đức Chúa
Trời muốn mọi việc xảy ra như vậy và Ngài nhìn thấy rằng đứa trẻ có “cấu trúc
gen di truyền” mà Ngài cần để thực hiện ý muốn của Ngài (Thi 139:13-16). Trong phương cách hết sức đặc
biệt, “Đức Chúa Trời yêu thương Đa-vít” và ban cho Sa-lô-môn (“thái bình”) một
cái tên rất đặc biệt, Giê-đi-đia được Đức Chúa Trời yêu thương.” Vì “Đa-vít” có
nghĩa là “yêu mến”, cha và con cùng mang những cái tên tương tự với nhau về
nghĩa. Đức Chúa Trời phán với Đa-vít rằng con trai ông sẽ được sanh ra và nó sẽ
xây đền thờ cho Đức Chúa Trời (7:12-13 ISu 22:6-10), và Ngài đã giữ lời hứa. Mỗi khi
Đa-vít và Bát-sê-ba nhìn con trai mình, họ được nhắc nhở rằng Chúa đã tha thứ
lỗi lầm đã qua và bảo đảm cho những dự định của họ trong tương lai.
7. Sự chinh phục (IISa 12:26-31) (ISu 20:1-3)
Nhưng vẫn còn việc nước cho Đa-vít làm, trong đó có việc hỗ trợ
Giô-áp hoàn tất cuộc vây hãm Ráp-ba (10:14 11:1 12:26-31).
Dần dần, quân Y-sơ-ra-ên chiếm trọn cả thành phố nầy, trước hết là lâu đài
hoàng gia (c.26), và đến khe nước (c.27). Bây giờ Giô-áp chuẩn bị cuộc tấn công
sau cùng nhằm kết thúc cuộc vây hãm, nhưng Giô-áp muốn đích thân vua có mặt ở
đó và điều khiển trận đánh. Mặc cho các sai phạm của vua, ít nhất Giô-áp mong
muốn mang lại danh dự cho vua. Đa-vít đã đến Ráp-ba và lãnh đạo quân đội chiếm
lấy và quy phục thành phố.
Không có một vị vua nào có thể đội
vương miện lâu trong khi nó nặng từ mười lăm đến mười bảy pound, nên lễ “lên
ngôi” của Đa-vít diễn ra ngắn gọn nhưng khá trịnh trọng, và khẳng định Am-môn
nằm trong lãnh thổ của Đa-vít. (Vương miện dành cho vua và hoàng hậu nước Anh
nặng hơn đến ba pound, và các vị vua sẽ thấy đội vương miện như mang một gánh
nặng!) Vương miện rất giá trị, vì Đa-vít đã lấy nó cùng với nhiều chiến lợi phẩm
mà ông tìm thấy tại thành phố. Hầu hết của cãi thu được nầy được tích trữ vào
kho của Đức Chúa Trời và được dùng để xây dựng đền thờ.
Đa-vít để vài tù binh
chiến tranh làm việc riêng mình, cuốc đất, đốn cây, và số khác làm gạch. Đức
Chúa Trời trong ân điển Ngài đã ban cho Đa-vít chiến thắng nầy, dù ông từng là
người chống nghịch Ngài. Ông và quân của mình trở về Giê-ru-sa-lem là nơi mà
ông trãi qua nhiều sửa trị của Chúa, chính thế mà trong thời gian này các thành
viên trong gia đình ông đều trưởng thành. Đa-vít đánh bại dân Am-môn và bắt họ
hạ gươm, nhưng bây giờ gia đình ông dùng gươm mà tranh chiến với nhau.
6. NHỮNG ĐỨA CON BẤT
TRỊ CỦA ĐA-VÍT (IISa 13:1-14:33)
Qua 10 đoạn đầu của II
Samuên, chúng ta đã biết được Đức Chúa Trời đã ban cho Đa-vít quyền phép để ông
đánh thắng các kẻ thù, xây dựng và mở mang đất nước như thế nào. Rồi Đa-vít
phạm tội tà dâm, giết người và dối gạt (đoạn 11-12), các đoạn còn lại của sách
nầy mô tả Đa-vít đang phải vật lộn với những vấn đề các con ông gây ra. Những
tháng ngày của ông thật u ám và chán chường, nhưng ông vẫn nương mình nơi Đức
Chúa Trời, Ngài đã giúp ông vượt qua và chuẩn bị đất nước tiếp nhận sự trị vì
của Sa-lô-môn, con trai ông. Cuộc sống làm gì cho chúng ta tùy thuộc vào những
gì cuộc sống tìm thấy nơi chúng ta, và trong Đa-vít là đức tin vững mạnh nơi
Đức Chúa Trời Hằng Sống.
Áp-sa-lôm là nhân vật
chính trong phân cảnh nầy, vì chính Áp-sa-lôm
đã xoay chuyển tình thế thành bi kịch! Ba người thừa kế ngai vàng của Đa-vít là
Am-nôn, con trai đầu lòng của Đa-vít, Áp-sa-lôm con trai thứ ba, và A-đô-ni-gia
con trai thứ tư (ISu 3:1-2). Đức Chúa Trời
cảnh cáo Đa-vít rằng gươm sẽ không lìa khỏi ông (IISa
12:10), và Áp-sa-lôm (có nghĩa là “bình an”) là người đầu tiên cầm thanh
gươm đó. Sự xét đoán của Đa-vít đối với người giàu trong câu chuyện của Na-than
là “Hắn phải thường bốn lần giá chiên con, vì đã làm như vậy, và vì không có
lòng thương xót” (12:6), sự xét đoán đó
giáng lại trên đầu Đa-vít. Con của Bát-sê-ba chết; Áp-sa-lôm giết Am-nôn vì
cưỡng hiếp Ta-ma; Giô-áp giết Áp-sa-lôm trong trận chiến tại núi Ép-ra-im và
A-đô-ni-gia bị giết vì âm mưu chiếm ngai vàng khỏi tay Sa-lô-môn (IVua 2:12-25).
Đa-vít đang cai trị Y-sơ-ra-ên,
nhưng tội lỗi và sự chết đang cai trị gia đình ông (Ro
5:14,17,21). Đức Chúa
Trời đã tha thứ những tội lỗi của Đa-vít (12:13),
nhưng Đa-vít nhận thấy rằng hậu quả của tội lỗi đã
được tha thật đau đớn. Đức Chúa Trời đã ban cho Đa-vít nhiều con
trai (ISu 28:5), nhưng giờ đây Ngài biến
những phước lành thành sự rủa sả (Ma 2:1-2).
“Tội ác ngươi sẽ sửa phạt ngươi, sự bội nghịch
ngươi sẽ trách ngươi” (Gie 2:19).
Những sự kiện trong đoạn 13 và 14 như một đoạn kết buồn với 5 bước di chuyển:
từ tình yêu đến dục vọng (IISa 13:1-14), từ
dục vọng đến căm ghét (13:15-22), từ căm
ghét đến giết người (13:23-36), từ giết
người đến tình trạng tha hương (13:37-39) từ
cảnh tha hương đến sự giải hòa (14:1-3).
1. Từ tình yêu đến dục
vọng (IISa 13:1-14)
Lần đầu tiên Áp-sa-lôm
được đề cập vì đoạn 13-14 tập trung vào “câu chuyện của Áp-sa-lôm”, và Ta-ma là
em ruột của Áp-sa-lôm. Cả Áp-sa-lôm và Ta-ma đều được ghi
nhận là những người xinh đẹp (13:1 14:25). Mẹ của hai người là Ma-a-ca, công chúa của
một nước nhỏ thuộc xứ A-ram, nằm gần biển Ga-li-lê. Chắc chắn Đa-vít đã cưới
Ma-a-ca làm vợ để thiết lập hiệp ước hòa bình với cha nàng. Áp-sa-lôm thừa
hưởng hai dòng máu hoàng gia từ cả cha và mẹ, điều đó đã khiến ông tự cao và
quyết tâm tranh giành ngai vàng.
Am-nôn là con trưởng nam của Đa-vít
và là người hiển nhiên thừa kế ngai vàng, nên có lẽ ông đã tự cho mình có đặc
ân hơn những người con khác. Thật bất hạnh cho ông ta khi ấp ủ tình yêu bất
bình thường với em gái cùng cha khác mẹ với mình, và lẽ ra ông phải ngưng ngay
việc nuôi dưỡng dục vọng đó từ khi nó mới hình thành. (Mat
5:27-30). Tội lỗi không phải chỉ bất bình thường, nó còn phá hủy tiêu
chuẩn tình dục thánh khiết theo Luật Pháp của Đức Chúa Trời (Le 18:9-11 20:17
Phu 27:22). Tuy nhiên, Am-nôn trở nên quá
cuồng dại vì Ta-ma, ông ta nghĩ đó là tình yêu và có suy nghĩ bệnh hoạn vì nó.
Một công chúa trinh trắng phải giữ mình nơi khuê các, tránh mọi tiếp xúc với
những người khác giới thậm chí với những người bà con, và trí tưởng tượng của
Am-nôn hoạt động liên tục khi nghĩ về nàng.
Giô-na-đáp là anh họ của Am-nôn, con
trai của Sam-ma, là anh của Đa-vít, ở đây được gọi là Si-mê-a (ISa 16:9), và ông ta là người lắm mánh khóe, có
thể đang giữ chức quan nhỏ trong triều. Chúng ta sẽ gặp lại ông trong IISa 14:32 sau khi Am-nôn bị người của Áp-sa-lôm
giết chết. Trong cuộc sống, người dễ khiến chúng ta phạm tội nhất không ai khác
là bạn của chúng ta, thật vậy, theo lời khuyên của Giô-na-đáp, Am-nôn đã trở
thành người phạm tội cưỡng hiếp, loạn luân và cuối cùng bị giết chết.
Hẳn Am-nôn đã khỏi bệnh “tương tư”
của mình, vì ông ta phải giả vờ bệnh khi Đa-vít đến thăm. Có lẽ Am-nôn suy nghĩ:
“Nếu cha mình phạm tội tà dâm, tội giết người và thoát được tội, thì chắc chắn
mình cũng thoát được tội cưỡng hiếp nầy”. Đây là sức mạnh tiêu cực của một tấm
gương xấu. “Người công bình xiêu tó trước mặt kẻ gian ác, khác nào một suối
nước bị dấy đục, một nguồn nước bị hư” (Ch 25:26).
Gia đình của Đa-vít giờ đây bị vẫn đục và hậu quả của nó sẽ rất bi thảm. Đa-vít
nổi tiếng khắp nơi vì sự khôn ngoan và thông sáng của mình (IISa 14:17,20), nhưng sau “vụ việc liên quan đến Bát-sê-ba”,
dường như ông đã suy sụp. Do Đa-vít buộc Ta-ma thuận theo những yêu cầu của
người anh cùng cha khác mẹ với nàng đã gây đau khổ và sỉ nhục cho nàng; sau đó
hai năm, khi ông cho phép Am-nôn đến dự tiệc của Áp-sa-lôm, ông đã đưa con trai
đầu lòng mình vào chỗ chết. Đa-vít đã lừa dối và chính ông bị lừa dối!
Ta-ma nướng một chiếc bánh đặc biệt
cho Am-nôn, và Am-nôn đuổi hết mọi người ra ngoài; chỉ còn ông ta cùng em gái
mình trong phòng, và nhân dịp đó đã cưỡng hiếp em gái mình. Điều mà ông ta cho
là tình yêu thật ra chỉ là dục vọng, sự đam mê đó cai trị ông và khiến ông trở
nên như loài cầm thú. Dĩ nhiên Ta-ma đã cố hết sức có thể để kháng cự. Sự phản
kháng của nàng dựa trên luật pháp của Đức Chúa Trời và trách nhiệm của một cư
dân trong tuyển dân Y-sơ-ra-ên khác với các nước lân bang (c.12). Tội lỗi của
Đa-vít đã tạo cơ hội cho kẻ thù nhạo báng Đức Chúa Trời (12:14). Những lời phản đối của Ta-ma (c.12-13)
nhắc chúng ta nhớ đến Sa 34:1-31 Cac 19:1-20:48, hai tình huống tương tự khác. (Sa 34:7 Cac 1:23-24
20:6,10). Ta-ma cố kéo dài thời gian với một đề nghị,
đó là Am-nôn phải xin vua cha cho phép được cưới nàng (c.13), dù nàng biết rằng
Luập Pháp Môi-se cấm kiểu kết hôn giữa hai anh em như vậy (Le 18:9-11 20:17
Phu 27:22).
2. Từ dục vọng đến căn
ghét (IISa 13:15-22)
Am-nôn nghĩ mình rất yêu
Ta-ma. Ban đầu ông mê mệt vì nàng (c.1-2), sau đó ngã bệnh vì mong nhớ nàng
(c.2) và ngày một hao mòn (c.4). Nhưng sau khi chiếm được nàng bằng bạo lực,
ông ta vô cùng căm ghét nàng và muốn tống khứ nàng đi cho khuất mắt! Tình yêu
chân thành không bao giờ xâm hại thân thể người khác chỉ để thỏa mãn mong muốn
ích kỷ, tình yêu thật cũng không quyến dụ người khác vi phạm luật pháp của Đức
Chúa Trời. Trong dục vọng của mình, Am-nôn không khát khao một tình yêu và
không biết có một ranh giới rất mong manh giữa tình yêu ích kỷ và sự căm ghét.
Trước khi phạm tội, ông muốn Ta-ma là của mình; nhưng sau khi phạm tội, ông
muốn tống khứ nàng càng nhanh càng tốt.
Những tội lỗi liên quan
đến tình dục luôn gây tổn thương về mặt cảm xúc. Khi bạn đối xử với người khác
như một món hàng, cuối cùng bạn sẽ vứt bỏ họ như món đồ chơi cũ hoặc chiếc áo
rách. Trong câu 17 bảng tiếng Hy-bá-lai không có từ “đàn bà”, nên Am-nôn có thể
đã nói rằng “Hãy vứt món đồ nầy khỏi mặt ta!” Điều nầy giải thích tại sao Ta-ma
kết tội Am-nôn là người độc ác do đã đuổi nàng đi hơn là đã cưỡng hiếp nàng.
Không còn trinh tiết, Ta-ma không còn hy vọng kết hôn nữa, và có thể nàng cũng
không còn được sống trong khuê các. Nàng sẽ đi về đâu? Ai sẽ tiếp rước nàng? Ai
còn muốn cưới nàng? Làm sao nàng có thể chứng minh được Am-nôn đã xâm phạm đến
nàng và nàng đã không quyến dụ ông ta trước?
Nàng đi đến chỗ của
Áp-sa-lôm, anh ruột của mình, vì trong xã hội đa thê, anh trai phải có trách
nhiệm bảo vệ danh dự cho em gái ruột của mình. Khi Áp-sa-lôm nhìn thấy Ta-ma
khóc than, xé quần áo và rải tro lên đầu, ông biết nàng đã gặp phải điều đau
khổ và sỉ nhục lớn, và ông đoán biết Am-nôn đã xâm hại nàng. Câu hỏi của
Áp-sa-lôm, “Có phải Am-nôn, anh của em đã nằm cùng em chăng?” (c.20) đã nói lên
điều đó. Tin đồn trong cung không bỏ sót chuyện gì, nên có thể Áp-sa-lôm đã
nghe được chuyện Am-nôn ngã bệnh và đòi gọi Ta-ma đến chỗ của ông ta. Nhưng nếu
Áp-sa-lôm quan tâm đến em gái mình, tại sao ông không cảnh báo Ta-ma nên tránh
xa Am-nôn? Vua ra lệnh cho Ta-ma đến thăm Am-nôn, và Áp-sa-lôm không thể thay
đổi được lệnh của vua. Tất cả những gì Áp-sa-lôm có thể làm là khuyên em mình
không nên ở một mình với Am-nôn.
Có lẽ Ta-ma muốn đi tâu
với vua cha mọi chuyện, nhưng Áp-sa-lôm bảo nàng phải chờ đợi. Tại sao như vậy?
Vì trong đầu của Áp-sa-lôm đã sáng lên một âm mưu với ba mục đích: trả thù cho
Ta-ma, trừ khử Am-nôn và như vậy người thừa kế ngai vàng sẽ là chính ông ta.
Trong câu nói của Áp-sa-lôm, cụm từ “anh của em” có nghĩa là, nếu người xâm hại
em là người khác thì anh sẽ trả thù ngay tức khắc; nhưng vì đó chính là anh của
em, anh sẽ kiên nhẫn chờ thời cơ”. Áp-sa-lôm đang cố gắng tránh được sự gièm
pha mà có thể làm đau buồn cho gia đình và nguy hại đến âm mưu chiếm ngôi của
mình.
Vua Đa-vít đã nghe được
bi kịch đó và rất giận dữ, nhưng ông có thể nói gì? Ký ức về tội lỗi của chính
mình khiến ông không thể mở miệng, và làm sao ông có thể trừng phạt con trai
đầu lòng và là người thừa kế ngai vàng của ông? Theo luật pháp, nếu người nào
cưỡng hiếp một người nữ đồng trinh, anh
ta phải trả cho cha nàng tiền phạt và cưới người con gái đó, và không được ly
hôn với nàng (Phu 22:28-29). Tuy nhiên, luật
pháp cũng cấm anh em cùng cha khác mẹ cưới nhau (Le
18:9), nên ở đây không thể có chuyện cho hai người cưới nhau. Đa-vít đã
phạm hai trọng tội tà dâm và sát nhân và Đức Chúa Trời đã không áp dụng luật
pháp trên ông.
Như vậy, cả Đa-vít và Áp-sa-lôm đều
không nói gì được về tội ác của Am-nôn. Thật ra, Áp-sa-lôm đã không nói chuyện
với Am-nôn tiếng nào (dù tốt hay xấu) nhưng chỉ chờ thời cơ thích hợp để giết
Am-nôn và trả thù cho em gái mình. Nhưng, bạn của Am-nôn là Giô-na-đáp biết
Áp-sa-lôm muốn giết Am-nôn, vì ông ta đã nói “…ấy là việc Áp-sa-lôm đã định ý
làm từ ngày Am-nôn gian hiếp Ta-ma, em gái của người” (IISa
13:32). Nếu Giô-na-đáp tiết lộ mọi chuyện đang xảy ra, có lẽ người khác
cũng hoài nghi. Dục vọng của Am-nôn đã biến thành sự căm ghét, nhưng giờ đây
chính Áp-sa-lôm đang nuôi thù hận trong lòng, và sự căm hận đó sinh ra tội sát
nhân (Mat 5:21-22). Sau đó, khi Am-nôn bị
trừ khử, Áp-sa-lôm có thể được làm vua.
3. Từ Căm ghét đến giết
người (IISa 13:23-36)
Emile Gaboriau, một tác
giả Pháp, có viết, “Sự trả thù là trái ngọt mà bạn phải để chờ đến lúc chín
muồi”. Áp-sa-lôm đã chờ đợi trong hai năm để trả thù cho em gái mình, và khi
thời cơ đến ông đã ra tay. Nhờ sự rộng lượng của vua cha, các hoàng từ không
chỉ được chức vị cao trọng trong triều mà còn được chia cho phần đất và bầy gia
súc riêng. Áp-sa-lôm có đất và đàn gia súc của mình tại Ba-anh-Hát-so, cách bắc
Giê-ru-sa-lem 14 dặm. Người Y-sơ-ra-ên thường tổ chức tiệc lớn vào ngày hớt
lông chiên và mời bà con và bạn bè đến dự.
Áp-sa-lôm mời vua cha
đến dự và mời cả các quan chức theo, nhưng Đa-vít không tán thành; Đa-vít giải
thích rằng nhiều khách mời sẽ tạo gánh nặng về tài chính cho con trai mình.
Áp-sa-lôm đang mong chờ vua cha đáp lời như vậy vì ông ta không muốn Đa-vít và
các quan cận thần có mặt khi ông ra tay giết Am-nôn. Sau đó, Áp-sa-lom thỉnh
cầu vua cha cho phép Am-nôn, người sẽ kế vị vua, đến dự tiệc, một yêu cầu làm Đa-vít
thấy lo sợ. Nhưng Đa-vít biết rằng hoàng tử kế vị thường phải có mặt trong các
buổi lễ tiệc để thay mặt cho vua cha, vậy thì tại sao Am-nôn không thể đến dự
tiệc tại nhà Áp-sa-lôm? Hơn nữa, hai năm đã trôi qua từ khi Am-nôn xâm phạm
Ta-ma, Áp-sa-lôm không làm gì tổn hại đến Am-nôn. Để bảo đảm an toàn cho Am-nôn
hơn, Đa-vít đã cho tất cả các hoàng tử cùng đến dự tiệc, và nghĩ rằng Áp-sa-lôm
không dám ra tay với Am-nôn trước mặt nhiều hoàng tử khác.
Nhưng trong suốt hai năm
qua Áp-sa-lôm đã sắp xếp kế hoạch và vạch đường trốn thoát. Đa-vít đã lập mưu
giết U-ri, người Hê-tít, và đã sống sót, thế thì có lý do gì Áp-sa-lôm con trai
ông lại không thể sống sót? Giống như cha mình, Áp-sa-lôm đã dùng tay người
khác để thực hiện mưu đồ của mình vào thời điểm mà nạn nhân không thể ngờ được.
Đa-vít đã chuốc rượu cho U-ri say nhưng không đạt được mục đích, trong khi
Áp-sa-lôm làm cho anh mình say và thực hiện được kế hoạch mà ông ta sắp đặt.
Áp-sa-lôm theo gương xấu của cha mình và phạm tội cố ý giết người.
Khi Áp-sa-lôm ra lệnh
cho các đầy tớ giết Am-nôn, các hoàng tử khác nghe được đều bỏ chạy để thoát thân, chắc họ nghĩ rằng Áp-sa-lôm âm mưu giết
sạch hoàng tộc để cướp ngôi. Các hoàng tử leo lên lưng lừa; con lừa (hay la)
được xem là “con vật của vua” (18:9 IVua 1:33,38,44), và thúc chúng chạy nhanh về Giê-ru-sa-lem.
Nhưng Áp-sa-lôm cũng chạy trốn (c.34,37) và có thể các tôi tớ của ông cũng trốn
theo ông.
Trong c.30-36, đây là phần được xen
vào, chúng ta chuyển từ Ba-anh-Hát-so đến Giê-ru-sa-lem và nhìn nhận sự trốn
chạy của các hoàng tử từ cái nhìn của vua Đa-vít. Trước khi các lính canh có
thể nhận rõ đoàn người cỡi lừa chạy đến Giê-ru-sa-lem là các hoàng tử, có một
người từ nhà Áp-sa-lôm đến báo tin rằng tất cả hoàng tử đều bị giết (tin xấu
loan đi nhanh và bị phóng đại!). Đa-vít xé quần áo mình và nằm dưới đất trong
đau đớn (IISa 12:6), chắc chắn ông đang tự
trách mình vì đã để cho các hoàng tử đến dự tiệc. Giô-na-đáp, cháu của Đa-vít,
là người biết rõ hơn đã báo lại rằng chỉ Am-nôn bị giết; nhưng điều nầy cũng là
một đòn kinh khiếp đối với Đa-vít vì Am-nôn là con trai đầu lòng và là người sẽ
kế vị ông. Các hoàng tử chạy về đến nơi an toàn và mọi người đều đau buồn trước
cái chết của Am-nôn và tội giết người của Áp-sa-lôm.
Trả thù thật sự không
giải quyết được vấn đề gì mà cuối cùng nó quay lại làm tổn thương chính người
đang tâm trả thù. Francis Bacon đã viết, “trong sự thù hằn, một người không hơn
gì kẻ thù mình, nhưng trong sự tha thứ, người ấy được cao trọng hơn”. Không ai bị đối xử bất công và tàn nhẫn hơn
Chúa Giê-xu đã chịu khi Ngài bị xét xử và đóng đinh, nhưng Ngài không trả đũa;
và Ngài là tấm gương sáng cho chúng ta (IPhi
2:18-25). Một câu ngạn ngữ, “Đừng nổi khùng hãy trả đũa” có thể làm hài
lòng một vài người, nhưng nó không làm Đức Chúa Trời đẹp lòng. Nếp sống Cơ Đốc
là nếp sống của sự tha thứ và đức tin, hãy tin rằng Đức Chúa Trời làm mọi sự để
đem lại sự tốt lành cho chúng ta và sư vinh hiển cho Ngài (4:12-19).
4. Từ giết người đến
tình trạng tha hương (IISa
13:37-39)
Hai lần chúng ta được
cho biết rằng Áp-sa-lôm bỏ trốn (c.34,37), và có thể
ông ta lẫn trốn trong cảnh hoảng loạn sau khi các hoàng tử khác bỏ chạy về
Giê-ru-sa-lem. Chỉ Áp-sa-lôm và những đầy tớ tội lỗi của ông ta biết chuyện gì
đang xảy ra trong bữa tiệc, nên mọi người khác không hiểu được chuyện gì. Họ
đều chứng kiến “vụ ám sát tàn bạo” ấy và có thể dễ dàng làm chứng rằng
Áp-sa-lôm là thủ phạm.
Áp-sa-lôm bỏ trốn xa 80 dặm về phía
đông bắc đến nhà ông bà ngoại mình; Thanh-mai, ông ngoại của ông ta đang làm
vua ở xứ Ghê-su-rơ (3:3). Chắc chắn nơi an
toàn đó đã được chuẩn bị sẵn, và Thanh-mai cũng rất mong nhìn thấy cháu ngoại
mình được làm vua Y-sơ-ra-ên. Ở tại Giê-ru-sa-lem, Đa-vít khóc than cho Am-nôn,
con trai đầu lòng của mình, nhưng ở Ghê-ru-sơ, đứa con đang chạy trốn của ông
ta đang lập mưu nhằm chiếm được ngai vàng từ tay cha mình. Thời gian là liều
thuốc xoa dịu đi nổi buồn, và 3 năm sau, Đa-vít đã nguội ngoai về cái chết của
người con kế vị.
Câu, “Vua Đa-vít bỏ không đuổi theo
Áp-sa-lôm nữa” (c.39) ít nhất có hai lý giải. Hoặc Đa-vít rất muốn gặp lại con
trai mình, điều nầy có thể hiểu được, hoặc Đa-vít có ý định đuổi theo và xử lý
Áp-sa-lôm, nhưng cơn giận của ông đã nguội dần. Tôi thích lý giải thứ hai hơn.
Nếu Đa-vít thật sự muốn Áp-sa-lôm trở về nhà, ông ta có thể làm điều đó cách dễ
dàng, vì Giô-áp sẵn sàng thực hiện việc ấy (14:22)
và những người bà con bên vợ của Đa-vít ở Ghê-ru-sơ sẽ hợp tác. Tuy nhiên, khi
Áp-sa-lôm được trở về, Đa-vít đã không cho ông ta ở gần mình trong 2 năm (14:28)! Nếu vua nóng lòng muốn gặp lại con trai
mình, ông sẽ có cách đặc biệt để lo việc ấy. Dường như trong lòng Đa-vít có một
sự tranh chiến: ông biết rằng con trai ông đáng bị trừng phạt, nhưng Đa-vít nổi
tiếng là người nhân nhượng con cái (IVua 1:6).
Ban đầu Đa-vít định xử Áp-sa-lôm thật nghiêm khắc nhưng phân xử điều đó khi
thái độ của ông đã thay đổi. Như được giải thích trong đoạn 14, Đa-vít cuối
cùng đã thỏa hiệp và cho gọi Áp-sa-lôm về, nhưng trừng phạt ông ta bằng cách
không giải hòa hoàn toàn. Phải đến 5 năm cha con họ mới giáp mặt nhau (IISa 13:38 14:28).
5. Từ cảnh tha hương
đến sự giải hòa (IISa 14:1-33)
Giô-áp biết rõ vua của
mình và nhận thấy Đa-vít đang mong mỏi gặp mặt con trai lưu vong của mình. Là
quan tổng binh, Giô-áp quan tâm đến người sẽ kế vị ngôi vua Y-sơ-ra-ên nếu như
có chuyện chẳng lành xảy ra với Đa-vít, lúc này sắp bước sang tuổi 70. nhưng
Áp-sa-lôm không thể trở về nếu như Đa-vít không cho phép, và vua sẽ không cho
phép nếu như ông không chắc đó là quyết định đúng. Chính vua là người có nhiệm
vụ giữ gìn luật pháp, và Áp-sa-lôm đã phạm tội lập mưu giết anh cùng cha khác
mẹ của mình.
Đa-vít yêu thương con
trai mình và chắc chắc bị lên án vì cách ông ta nuông chìu con, nhưng làm sao
ông có thể thoát được tình thế nan giải nầy? Giô-áp đưa ra cách giải quyết vấn
đề.
Giô-áp dùng lý lẽ để
thuyết phục vua (IISa 14:1-20). Như
Na-than đã đối mặt với Đa-vít, một tội nhân, bằng cách kể một câu chuyện (IISa 12:1-7), Giô-áp đã
đến với Đa-vít, một người cha và một vị vua, bằng cách mượn môi miệng của một
người đàn bà, được xem là khôn ngoan và giỏi diễn kịch, kể lại một câu chuyện
bịa đặt về những nan đề trong gia đình. Bà ta đến gặp vua, than khóc và kể cho
vua nghe những rắc rối trong gia đình bà. Hai con trai của bà tranh cải nhau
ngoài đồng và đứa nầy đã giết đứa kia. (Câu chuyện nầy nghe có vẻ giống chuyện
Ca-in và A-bên, Sa 4:8-16). Những người bà
con trong gia tộc muốn giết chết đứa con phạm tội ấy và báo thù huyết cho đứa
con đã chết (Dan 35:6 Phu 19:1-14), nhưng bà chống lại họ. Giết chết đứa
con duy nhất còn lại của bà đồng nghĩa với việc đặt dấu chấm hết cho gia đình
bà và “tắt đốm lửa còn lại” của bà (c.7). Theo luật pháp, đứa con còn sống đã
phạm tội và phải chết (Xu 21:12 Le 24:17), nhưng bà muốn vua tha cho đứa con trai
còn sống của bà.
Câu chuyện của Na-than về con chiên
cái đã cảm động lòng người chăn chiên Đa-vít, và câu chuyện về một gia đình
xung đột nầy đã làm động lòng người cha Đa-vít. Phản ứng đầu tiên của ông là
cam đoan với bà ta rằng ông sẽ “giải quyết việc nầy” (c.8), nhưng điều đó chưa
đủ tốt cho bà. Đôi khi bộ máy chính quyền cần quay chậm lại, trường hợp của bà
là vấn đề liên quan đến sự sống và cái chết. Khi bà nói rằng bà sẽ mang lấy án
phạt mà vua ban ra thay cho con trai, Đa-vít đã hứa sẽ bảo vệ bà nếu có ai đụng
đến chuyện của bà (c.9-10). Nhưng người đàn bà nầy vẫn chưa hài lòng, nên bà
cầu xin vua thề với bà rằng con trai bà sẽ không bị giết hại, và Đa-vít đồng ý
(c.11). Thề bất cứ điều gì trong danh Đức Giê-hô-va là phải buộc mình với lời
thề đó và không được lãng quên nó.
Người đàn bà nầy đã dồn Đa-vít vào
thế kẹt (c.12-17). Nếu ông đồng ý bảo vệ đứa con trai tội lỗi mà ông không biết
là ai, thì ông phải có trách nhiệm bảo vệ đứa con trai yêu dấu của chính mình
càng hơn! Người đàn bà ấy đến gặp Đa-vít với vấn đề liên quan đến tương lai của
một gia đình nhỏ, nhưng câu chuyện về Áp-sa-lôm liên quan đến vận mệnh của cả
một dân tộc. Vua không muốn nhìn thấy con trai và là người thừa tự duy nhất của
bà bị giết hại, nhưng ông đang yên lòng để cho con trai sẽ kế vị ngai vàng mình
lưu lạc nơi đất khách. Ông đã tha thứ tội sát nhân của con trai người đàn bà
ấy, nên có thể nào ông không tha thứ cho người đã có âm mưu và giết hại Am-nôn?
Vua sẽ còn chờ bao lâu nữa mới cho người gọi con trai mình về? Cuối cùng, cuộc
đời nầy thật ngắn ngũi, và khi cuộc đời kết thúc, nó giống như nước đổ xuống
đất và không thể hốt lại được. Giết kẻ sát nhân thì người bị hại cũng không thể
sống lại, thế thì tại sao không cho anh ta một cơ hội khác?
Đức Chúa Trời không thiên vị ai, và
luật pháp của Ngài là đúng đắn, nhưng ngay chính Đức Chúa Trời còn đặt ra những
cách để bày tỏ lòng khoan dung và tha thứ cho tội nhân (c.14). Ngài phạt tội
lỗi, điều đó là chắc chắn, nhưng Ngài cũng tìm cách để tội nhân được làm hòa
với Ngài. (Có lẽ người đàn bà nầy ghi nhớ Xu
32:30-35 34:6-9). Phải chăng Ngài đã
không tha thứ cho Đa-vít? Người đàn bà ấy thú nhận rằng bà sợ gia đình bà sẽ
giết con trai bà và cướp đi sản nghiệp mà Đức Chúa Trời ban cho họ.
Đây chính là những lời gây xúc động
và Đa-vít ghi khắc nó vào lòng. Nhưng là một người khôn ngoan, ông nhận thấy
toàn bộ nội dung của lời cầu xin của bà vượt khỏi ranh giới của gia đình và tài
sản. Đa-vít đủ thông minh để hiểu bà đang nói về vua, Áp-sa-lôm và tương lai của
dân Y-sơ-ra-ên, di sản của Đức Chúa Trời. Trong thời điểm nầy ông chắc cũng
hiểu rằng toàn bộ câu chuyện là một chuyện bịa và có người nào đó đứng sau dựng
nên câu chuyện cho người đàn bà ấy kể lai. Sau đó, sự thật được phơi bày, chính
Giô-áp là người tính toán mọi việc, nhưng động cơ của ông ta là một động cơ
đáng khâm phục: “Giô-áp, tôi tớ của vua, đã làm như vậy, để làm cho việc nầy
thành ra cách mới” (c.20).
Giô-áp tạ ơn vua (IISa 14:21-27). Chắc chắn chính Giô-áp đã dẫn người
đàn bà đến để được ra mắt và trò chuyện với vua, và có thể ông cũng có mặt ở đó
và nghe hết những gì vua và người đàn bà ấy nói với nhau. Đa-vít đã hứa bảo vệ
bà và con trai bà, nên vua không thể nói gì ngoài việc cho phép Áp-sa-lôm trở
về; và ông ra lệnh cho Giô-áp đi đến Ghê-ru-sơ và dẫn Áp-sa-lôm về
Giê-ru-sa-lem. Những lời của Giô-áp trong câu 22 cho thấy rằng ông đã đề nghị
chuyện nầy với Đa-vít nhiều lần rồi, và ông thật vui mừng khi vấn đề nay được
giải quyết ổn thỏa. Ghê-ru-sơ cách Giê-ru-sa-lem 80 dặm, và Giô-áp không mất nhiều
thời gian để đến đó; như vậy chỉ trong 1 tuần hoặc 10 ngày sau Áp-sa-lôm đã
được về đến quê nhà mình.
Tuy nhiên, còn có những
giới hạn đối với hoàng tử kế vị nầy. Ông phải ở trong đất của mình, gần giống
như bị giam lỏng trong nhà của mình, không được đến cung và gặp mặt vua cha. Có
lẽ Đa-vít đang thử lòng trung thành của con trai mình, hoặc ông nghĩ rằng những
giới hạn nầy sẽ bảo đảm với dân sự rằng ông không quá nuông chìu đứa con trai
bất trị nầy của ông. Tuy nhiên, những giới hạn ấy không ngăn được tiếng tăm của
Áp-sa-lôm lan ra, vì dân sự yêu mến và ca ngợi ông. Việc ông ta lập mưu giết
anh khác mẹ của mình và đã bỏ trốn dường như là một tội rất nhỏ đối với dân sự,
vì dân sự chắc chọn cho mình một thần tượng, và còn thần tượng nào tốt hơn vị
hoàng tử trẻ đẹp nầy? Thiếu tư cách là điều không quan trọng; điều thật sự quan
trọng là địa vị, của cải, và nhan sắc. Theo cách nói đương thời, Áp-sa-lôm xứng
danh là một trang tu mi nam tử, là người “đầy nam tính”, dân sự ghen tị và
ngưỡng mộ ông .
Dù Áp-sa-lôm có thể có
được gì đi nữa, một điều mà ông ta không có là nhiều con trai để mang “danh tiếng” của ông. Ba con trai được đề
cập trong câu 27 chắc đã chết trẻ, vì IISa 18:18
cho chúng ta biết rằng Áp-sa-lôm không có con trai trong thời điểm đó. Chúng ta
không ngạc nhiên khi ông đặt tên cho con gái mình theo tên của Ta-ma, em gái
ông. Luôn là một người tự cao tự đại, Áp-sa-lôm muốn dựng một bia tưởng niệm để
nhắc nhở mọi người về sự vĩ đại của ông ta.
Giô-áp dẫn Áp-sa-lôm
đến ra mắt vua (IISa 14:28-33).
“Người đàn bà khôn ngoan” lừa dối ấy có thể thấy mặt vua, nhưng chính con trai
vua không được gặp mặt vua. Áp-sa-lôm sắp xếp việc nầy đã 2 năm, và tin rằng
Giô-áp có thể giảng hòa cho hai cha con ông, nhưng Giô-áp không làm được gì.
Áp-sa-lôm biết rằng không được ra mắt vua có nghĩa là ông đừng mong được thừa
kế ngôi vua, và Áp-sa-lôm lại muốn làm vua Y-sơ-ra-ên hơn bất cứ điều gì. Một
người sắc sảo như Giô-áp phải nhận ra rằng Áp-sa-lôm có ý muốn lên ngôi và rằng
danh tiếng ngày càng lan ra của Áp-sa-lôm có thể giúp ích cho ông ta trong việc
tiếp quản vương quốc. Biết được tình hình bất ổn như thế nào, viên quan tổng
binh sáng suốt nầy tránh mặt Áp-sa-lôm vì sợ mình chịu dưới sự điều khiển của
vị hoàng tử tự cao tự đại Áp-sa-lôm.
Sau hai năm chờ đợi,
trong thời gian đó Áp-sa-lôm gọi Giô-áp đến tiếp kiến nhưng đều bị từ chối, ông
quyết định ra tay mạnh hơn. Ông ra lệnh cho các đầy tớ mình đốt ruộng lúa mạch
gần bên đất của mình, và ruộng lúa ấy chính là ruộng của Giô-áp. Việc làm đó
khiến viên quan tổng binh phải lên tiếng, vì luật pháp có qui định kẻ cố ý đốt
phá ruộng của người khác phải bồi thường cho chủ của nó (Xu 22:6). Dân chúng
đều biết về vụ đốt phá nầy, nên Giô-áp đến gặp Áp-sa-lôm mà không sợ bị hiểu
lầm.
Áp-sa-lôm đưa ra hai lựa chọn cho
Giô-áp: hoặc dẫn ông ta đến ra mắt khuyên vua tiếp nhận và tha thứ cho ông ,
hoặc đem ông ra xét xử với tội giết người và xử tử ông. Áp-sa-lôm thà bị xử tử
còn hơn phải tiếp tục sống trong cảnh giam lỏng nhục nhã nầy. Giô-áp rơi vào
tình cảnh tiến thoái lưỡng nan, vì chính ông là người sắp xếp cho Áp-sa-lôm trở
về Giê-ru-sa-lem. Giô-áp biết dân chúng không bao giờ để cho vị hoàng tử mà họ
yêu quí bị xét xử và kết tội, nhưng làm sao ông có thể bảo đảm rằng vua sẽ
giảng hòa với Áp-sa-lôm, con trai vua? Giô-áp cho Đa-vít biết những lời
Áp-sa-lôm đã nói, Đa-vít cho gọi con trai đến, và vua hôn làm hòa với con trai
mình. Hai cha con họ được gặp nhau sau 5 năm xa cách (IISa
13:38 14:28).
Không có chỗ nào chép rằng Áp-sa-lôm
ăn năn và xin cha tha thứ, hoặc ông đã đến đền thờ để dâng của lễ như qui định.
Cha con họ gặp nhau, nhưng đó là thời gian hòa hoãn ngắn ngũi, không phải sự
hòa bình thật. Áp-sa-lôm vẫn âm thầm với kế hoạch riêng và quyết tâm chiếm được
ngai vàng của Đa-vít. Giờ đây, hoàng tử Áp-sa-lôm được tự do, ông ta có thể
xuất hiện trong thành và nhận được những lời nịnh hót của dân chúng, trong thời
gian đó ông triệu tập những người ủng hộ ông để chuẩn bị cuộc phản loạn. Đa-vít
sắp sửa mất ngai vàng và vương miện, mất những người vợ lẻ, người cố vấn đáng
tin cậy, A-hi-tô-phe, và cuối cùng là con trai Áp-sa-lôm. Đây là thời kỳ tăm
tối nhất trong cuộc đời Đa-vít.
7. ĐA-VÍT TRỐN VÀO ĐỒNG
VẮNG (IISa 15:1-16:14)
Khi bạn đối mặt với
những kẻ thù hung bạo và khi bạn đang gặp khó khăn nhất trong cuộc đời, bạn sẽ
kinh nghiệm được quyền năng của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đang trừng phạt
Đa-vít, nhưng Đa-vít biết rằng quyền năng của Đức Chúa Trời có thể giúp ông
trong những phút đau khổ nhất cũng như trong phút huy hoàng nhất. Ông đã viết
một bài thi thiên trong hoàn cảnh lưu lạc của mình, “Biết bao kẻ nói về linh
hồn tôi rằng: Nơi Đức Chúa Trời chẳng có sự cứu rỗi cho nó. Nhưng, hỡi Đức
Giê-hô-va, Ngài là cái khiên chở che tôi;
Ngài là sự vinh hiển tôi, và là Đấng làm cho tôi ngước đầu lên” (Thi 2:2-3). Đa-vít nhận thấy tay sửa phạt bởi tình
yêu thương của Đức Chúa Trời giáng trên ông, và ông thú nhận rằng mình đáng bị như vậy. Nhưng ông cũng tin rằng tay
nhân từ và quyền năng của Ngài vẫn hành động trên cuộc đời ông, rằng Đức Chúa
Trời không bỏ ông như Ngài đã bỏ Sau-lơ. Đức Giê-hô-va vẫn thực hiện ý muốn tốt
lành và trọn vẹn của Ngài, chưa bao giờ Đa-vít có đức tin mạnh mẽ và biết đầu
phục Đức Chúa Trời như khi ông phải rời Giê-ru-sa-lem trốn trong đồng vắng.
Khúc Kinh Thánh nầy giới
thiệu với chúng ta 3 vị vua.
1. Áp-sa-lôm vua giả
mạo của Y-sơ-ra-ên (IISa
15:1-12)
Nếu người nào được trang bị để trở thành kẻ mị dân và dẫn dắt
dân sự đi lầm đường lạc lối, thì người đó chính là Áp-sa-lôm. Ông là người có
ngoại hình đẹp đẽ, sự quyến rũ của ông khó ai kháng cự nổi (14:25-26), ông thừa hưởng hai dòng máu hoàng tộc,
từ cả cha và mẹ. Tính xấu của ông không quan trọng đối với hầu hết dân sự, là
những người, giống con chiên, chỉ biết theo ai nói những điều họ thích nghe là
cho cho họ những gì họ thích nhận. Một chủ bút, H. L. Mencken định nghĩa “kẻ mị
dân” cực đoan hơn, nhưng ông bỏ qua điểm nầy, “Người giảng một học thuyết mà
ông ta biết là không đúng cho những người mà ông ta biết là ngu dại”. Một tiểu
thuyết gia, James Fenimore Cooper, trình bày nó chính xác hơn: “Người đề cao
những mối quan tâm của mình bằng cách tác động đến sự hết lòng của người khác
đối với những mối quan tâm đó”.
Áp-sa-lôm không chỉ là một kẻ giỏi
nói dối, mà còn là một người bền chí; ông ta biết chờ đúng thời cơ để hành
động. Ông đã đợi 2 năm để giết chết Am-nôn (13:23),
và giờ đây ông chờ thêm 4 năm nữa để phản nghịch cha và chiếm lấy ngai vàng
(c.7). Khi bạn đọc bài thi thiên mà Đa-vít viết trong cảnh lưu lạc, bạn sẽ biết
trong thời điểm đó vua Đa-vít đang bệnh và không thể giải quyết việc triều
chính, vì vậy Áp-sa-lôm đã có cơ hội xen vào và lật đổ. Với tài năng của mình,
vị hoàng tử tự cao tự đại nầy đã tận dùng mọi phương tiện trong tầm tay mình để
mê hoặc dân chúng và có được sự ủng hộ của họ. Đa-vít đã chiếm được lòng dân
nhờ sự hy sinh và phục vụ của mình, nhưng Áp-sa-lôm thu phục được lòng dân bằng
phương cách dễ dàng hơn và hiện đại hơn bằng cách xây dựng chính mình thành một
hình tượng mà dân sự không thể kháng cự. Đa-vít là một anh hùng; Áp-sa-lôm chỉ
là một người nổi danh. Thật đánh tiếc, nhiều người đã quen thuộc với vua của
mình và bây giờ lại lợi dụng vua.
Chiến dịch của Áp-sa-lôm bắt đầu
ngay sau khi ông giảng hòa với cha, vì lúc nầy ông được tự do đi bất cứ nơi
nào. Việc đầu tiên của ông là cỡi xe ngựa và 50 người tùy tùng đi khắp nơi để
gây sự chú ý. Tiên tri Sa-mu-ên đã báo trước về thái độ nầy của các vua
Y-sơ-ra-ên (ISa 8:11), và Môi-se đã cảnh cáo
việc sắm nhiều ngựa (Phu 17:16). Đa-vít viết
trong Thi 20:7. “Kẻ nầy nhờ cậy xe cộ, kẻ
khác nhờ cậy ngựa, nhưng chúng tôi nhờ cậy danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời
chúng tôi”.
Vì Đa-vít không có mặt luôn luôn với
dân sự, Áp-sa-lôm gặp gỡ họ trên đường đi đến cổng thành mỗi sáng sớm khi họ
đến thưa kiện. Cổng thành là “tòa án” của các thành phố ngày xưa (Ru 4:1 Sa 23:10
Phu 22:15 25:17),
và Áp-sa-lôm biết có nhiều người đang bất bình vì tòa án làm việc không hiệu
quả. (IISa 19:1-8). Áp-sa-lôm chào những
người nầy như những người bạn cũ và hỏi thăm họ nơi sống ở đâu, đang gặp vấn đề
gì. Ông tỏ ra tán thành với những điều họ kiện tụng và nói ra những điều thiên vị
cho họ. Đây là kiểu tâng bốc của kẻ hèn hạ, nhưng dân chúng thích như vậy.
Áp-sa-lôm khoác lác rằng ông sẽ quản lý việc triều chính tốt hơn nếu ông được
làm quan xét (c.4), đây là cách ông ta phê phán cha mình một cách tinh vi. Khi
dân sự cúi lạy ông ta, vì ông là hoàng thái tử, ông dang tay ôm họ vào lòng và
hôn (c.5). Điều nầy nhắc chúng ta nhớ cái hôn giả hình của Giu-đa khi ông đến
chào Chúa Giê-xu trong vười Ghết-sê-ma-nê (Mat
26:47-50 Mac 14:45).
Chỉ mất 4 năm, Áp-sa-lôm đã lôi kéo
được rất nhiều người tận tâm tận lực cho mình ở khắp đất nước. Những người mà
Áp-sa-lôm gặp sẽ trở về nhà mình và kể cho bạn bè, người thân nghe rằng họ được
tiếp chuyện thân mật với hoàng thái tử, và sau khoảng thời gian 4 năm,
Áp-sa-lôm đã có được rất nhiều bạn. Việc ông nhanh chóng tạo được ảnh hưởng đến
suy nghĩ và tình cảm của nhiều người cảnh báo cho chúng ta rằng đến một ngày,
một lãnh đạo sẽ dấy lên, người ấy sẽ điều khiển mọi suy nghĩ của dân chúng khắp
thế giới (Kh 13:3 IITe
2:1-17). Ngay cả dân Y-sơ-ra-ên cũng sẽ bị lừa và ký hiệp ước với vị
lãnh đạo nầy, sau đó ông ta sẽ quay lại tìm cách tiêu diệt họ (Da 9:26-27). Chúa Giê-xu đã nói với những lãnh đạo
Do Thái trong thời của Ngài, “Ta đã nhân danh Cha ta mà đến, các ngươi không
nhận lấy ta. Nếu có kẻ khác lấy danh riêng mình mà đến, thì các ngươi sẽ nhận
lấy” (Gi 5:43).
Áp-sa-lôm sống giả dối với anh chị
em mình và dân Do Thái trong nhiều năm, khi thời cơ đến, ông dối gạt cả cha
mình (c.7-9). Hoàng tử nầy không còn bị giam lỏng trong nhà, nên không cần phải
xin phép vua cha khi muốn ra khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng ông lợi dụng điều đó để
thực hiện những mục đích riêng. Thứ nhất, ông có thể nói với mọi người rằng ông
được phép vua cha đi đến Hếp-rôn để làm trọn sự hứa nguyện mà ông đã lập trong
thời gian tha hương ở Ghê-ru-sơ. Thứ hai, làm nguôi nổi sợ hãi về chuyện giết
chết Am-nôn ngay trong bữa tiệc. Thứ ba, tạo được lòng tin trong lời mời hai
trăm khách trong bộ máy chính quyền của vua cha đến dự tiệc, và họ vui vẻ tham
dự. Khi khách nhìn thấy hai trăm người quyền cao chức trọng nầy, chắc chắn họ
rất ấn tượng. Bữa tiệc nầy có liên quan đến việc làm trọn sự hứa nguyện, vì vậy
có hơi hướng của một ngày hội tôn giáo (Phu
23:21-23), vì các của lễ được dâng lên cho Đức Giê-hô-va. Có điều gì sai
khi tổ chức yến tiệc dâng lên cho Đức Giê-hô-va? Áp-sa-lôm đã lợi dụng danh Đức
Giê-hô-va để che lấp tội lỗi của mình.
Kỳ công của Áp-sa-lôm là giành được
sự ủng hộ của A-hi-tô-phe, vị cố vấn khôn ngoan nhất của Đa-vít; và khi khách
khứa nhìn thấy vị cố vấn nầy trong bữa tiệc, họ cảm thấy yên lòng vì mọi việc.
Nhưng A-hi-tô-phe không chỉ tham dự bữa tiệc đó thôi, ông còn cấu kết với
Áp-sa-lôm nổi dậy chống nghịch vua Đa-vít. Có thể chính A-hi-tô-phe là người đã
đạo diễn mọi việc. Xét cho cùng, Đa-vít là người đã xâm hại Bát-sê-ba, cháu của
A-hi-tô-phe và đưa chồng nàng vào chỗ chết. (IISa
23:34 ISu 3:5). Đây là cơ hội tốt để
A-hi-tô-phe trả thù Đa-vít. Tuy nhiên, trong khi ủng hộ Áp-sa-lôm, A-hi-tô-phe
đã khước từ Sa-lô-môn, con trai của Bát-sê-ba và Đa-vít, là đứa con mà Đức Chúa
Trời chọn làm vua kế vị. Đồng thời, A-hi-tô-phe đang tự dẫn mình vào chỗ chết,
giống Giu-đa, vì ông khước từ vua thật và tự vẫn. (IISa
17:23 Thi 41:9 55:12-14 Mat 26:21-25
Gi 13:18 Cong
1:16) A-hi-tô-phe đã lừa dối Đa-vít, vua mình và phạm tội cùng Đức Giê-hô-va,
là Đấng đã chọn lựa Đa-vít.
Tại sao Áp-sa-lôm quyết định bắt đầu
cuộc nổi dậy ở Hếp-rôn? Vì một lý do, nó chính là thủ đô củ của Giu-đa, có lẽ ở
đó nhiều người phẫn nộ vì Đa-vít dời thủ đô đến Giê-ru-sa-lem. Áp-sa-lôm sinh
ra tại Hếp-rôn và được xem là có bà con thân thuộc với dân cư ở đó. Đối với dân
Do Thái Hếp-rôn là một thành phố rất quan trọng về mặt tôn giáo, nó được giao
cho các thầy tế lễ và có liện hệ với Ca-lép (Gios
21:8-16). Cách Giê-ru-sa-lem 20 dặm về phía Tây Nam, Hếp-rôn là thành có
tường bao quanh và là thành phố lý tưởng cho ai muốn xâm chiếm Giê-ru-sa-lem và
giành lấy ngai vàng. Với hai trăm viên quan của Đa-vít đang “bị giam” đằng sau
các bức tường của Hếp-rôn, lật đổ vua Đa-vít là một chuyện rất đơn giản đối với
Áp-sa-lôm.
2. Đa-vít, vua thật của
Y-sơ-ra-ên (IISa 15:13-23)
Áp-sa-lôm và A-hi-tô-phe
có những người lính kèn và các sứ giả sẵn sàng đợi lệnh, chỉ cần tín hiệu phát
ra, tiếng tung hô “Áp-sa-lôm làm vua tại Hếp-rôn!” sẽ vang dậy khắp nơi. Một sứ
giả ẩn danh đã kịp báo với Đa-vít để giúp ông bảo toàn mạng sống. Tuy nhiên sự
thờ ơ của Đa-vít có thể chỉ là trước đây, ngay tức khắc, vua xông xáo vào cuộc,
vì Đa-vít luôn làm hết sức mình trong cơn khủng hoảng.
Đa-vít chịu trách
nhiệm (IISa 15:13-16). Mệnh
lệnh chính thức đầu tiên của Đa-vít là bảo gia đình mình, các quan chức và
những lính thân cận rời Giê-ru-sa-lem ngay. Nếu Áp-sa-lôm thu phục được toàn bộ
dân sự theo ông ta, thì các kẻ thù từ Giu-đa và các chi phái phía bắc sẽ dễ
dàng bao vây Giê-ru-sa-lem và không còn đường trốn thoát. Đa-vít biết rằng
Áp-sa-lôm có thể giết Am-nôn thì cũng có thể giết các anh em khác, kể cả
Đa-vít, là cha của người, nên mọi người cần phải trốn đi. Hơn nữa, nếu
Áp-sa-lôm tấn công Giê-ru-sa-lem, ông ta sẽ giết các cư dân, và như vậy vô cớ
mà hàng trăm người vô tội sẽ phải chết. Đa-vít đã liều mạng sống của chính mình
và từ bỏ ngai vàng để bảo vệ dân chúng. Những đầy tớ cam kết một lòng trung
thành với vua (c.16) và như vậy trở thành những vệ sĩ bên cạnh ông (c.18-22). 10 người vợ lẻ bị bỏ lại để trông coi
cung vua sẽ bị Áp-sa-lôm cưỡng đoạt (IISa 16:20-23),
một hành động nhằm tuyên bố ông ta đã chiếm được vương quốc của cha mình.
Đa-vít huy động lực
lượng (IISa 15:17-22). Đa-vít
và những người theo ông chạy thoát về miền đông bắc, theo hướng ngược với
Hếp-rôn tính từ Giê-ru-sa-lem. Khi họ đến ngôi nhà cuối cùng trong vùng ngoại ô
Giê-ru-sa-lem, họ dừng lại nghỉ ngơi và Đa-vít hiệu triệu lực lượng của mình. Họ bao gồm những cận vệ riêng của Đa-vít
(dân Kê-rê-thít và dân Phê-lê-thít 8:18 23:22-23) cũng như 600 dân Phi-li-tin từ Gát đã
theo Đa-vít và đang được Y-tai chỉ huy (ISa 27:3).
Y-tai cam đoan với Đa-vít rằng họ hoàn toàn trung thành với vua. Bằng chứng của
lòng trung thành của dân ngoại nầy (c.21) là một trong những lời tuyên xưng đức
tin và sự trung thành lớn được tìm thấy trong Kinh Thánh được xếp ngang với đức
tin của Ru-tơ (Ru 1:16) và thầy đội người La
mã (Mat 5:13).
Đa-vít khóc (IISa 15:23). Từ chìa khóa trong câu nầy là “qua”, được
dùng 9 lần. Đa-vít và dân chúng qua khe Xết-rôn (c.23), vào mùa đông khe nước
nầy chảy rất mạnh về phía đông Giê-ru-sa-lem và muốn đến được núi Ô-li-ve phải
băng qua nó, chi tiết nầy nhắc chúng ta về
kinh nghiệm của Chúa khi Ngài đi vào vườn Ghết-sê-ma-nê (Gi 18:1). Trong chính thời khắc đó, Giu-đa, một
trong những môn đồ của Ngài, phản Ngài và sắp xếp cho bọn lính bắt Ngài. Dân sự
khóc khi vội vàng chạy trốn và vua cũng khóc với họ, dù có thể vì lý do khác
hơn (c.23,30). Chính con trai của vua đã phản bội ông, cùng với những người
bạn, vị cố vấn tín cẩn, và dân sự dại khờ, họ đã quên ông đã làm rất nhiều việc
cho họ và không biết chuyện gì đang xảy ra. Đa-vít có thể đã cầu nguyện như
Chúa Giê-xu đã cầu nguyện trên thập tự giá, “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ
không biết mình làm điều gì” (Lu 23:24).
Đa-vít có cảm giác tội lỗi không khi
một lần nữa Áp-sa-lôm, con trai ông, đã xem thường ý muốn Đức Chúa Trời và làm
lòng ông tan nát? Hai cha con ông đã giảng hòa, nhưng hoàng tử trẻ tuổi ấy
không tỏ ra ăn năn vì tội lỗi của mình, cũng không xin cha hay Đức Chúa Trời tha
thứ cho. “Gươm chẳng hề thôi hủy hoại nhà ngươi” là điềm gở từ miệng tiên tri
của Đức Chúa Trời, và nó đã ứng nghiệm. Con sơ sinh của Bát-sê-ba đã chết, và
Am-nôn cũng bị giết. Đa-vít không muốn thêm Áp-sa-lôm phải chết (IISa 18:5), nhưng hoàng tử ấy sẽ chết dưới tay
Giô-áp, “giá” thứ ba mà Đa-vít phải trả (12:6).
A-đô-ni-gia cũng sẽ chết vì kế hoạch chiếm ngôi sớm thất bại (IVua 1:1-53), như vậy món nợ sẽ được trả xong.
Lần thứ hai trong đời Đa-vít phải
chạy trốn vào đống vắng để bảo toàn mạng sống. Khi còn trẻ, ông trốn sự ganh
ghét của Sau-lơ, và giờ đây ông phải trốn sự độc ác và giả hình của Áp-sa-lôm,
con trai mình và A-hi-tô-phe, vị cố vấn của mình. Khi rời Giê-ru-sa-lem, Đa-vít
để thành ấy lại trong cuộc tàn sát đẫm máu, nhưng giờ đây ông và gia đình mình đang trong tình cảnh nguy hiểm, tương lai của đất
nước và giao ước của Đức Chúa Trời với Đa-vít là gì?
3. Giê-hô-va - Vua tối
cao của Y-sơ-ra-ên (IISa
15:13-23) (IISa 15:24-16:14)
khi bạn đọc những bài
thi thiên của Đa-vít viết về cảnh lưu lạc, bạn không thể không nhận thấy đức
tin của Đa-vít nơi Đức Chúa Trời; dù tình hình có khó khăn và rối ren thế nào,
ông cũng quyết tin rằng Đức Giê-hô-va vẫn cai trị trên ngôi của Ngài. Dù cho
Đa-vít có sa ngã thế nào, ông vẫn biết rằng Đức Giê-hô-va sẽ luôn giữ giao ước
Ngài và làm trọn lời hứa của Ngài. Thi thiên 4 có thể là bài ca mà Đa-vít viết
cho Đức Chúa Trời ngay đêm đầu tiên ông xa nhà, và Thi thiên 3 là lời ông cầu
nguyện vào sáng hôm sau. Trong Thi thiên 41 và 55, ông dốc đổ lòng mình với
Chúa, và Ngài lắng nghe ông và đáp lời cho ông đúng lúc. Thi thiên 61,62 và 63
cho chúng ta thấy rõ tấm lòng hỗn loạn của Đa-vít khi ông cầu xin Đức Chúa Trời
dẫn dắt và ban sức. Lưu ý mỗi một bài thi thiên trên đều kết thúc bằng lời
khẳng định đức tin cách mạnh mẽ nơi Đức Chúa Trời. Ngày nay chúng ta có thể có
lòng can đảm và đức tin trong những lúc khốn khó khi chúng ta nhận thấy Đức
Chúa Trời đã đáp lời cho Đa-vít và đáp ứng những nhu cầu của ông như thế nào.
Đức Giê-hô-va hiểu rõ
đức tin của Đa-vít (IISa 15:24-29).
Xa-đốc và A-bia-tha cùng đảm nhiệm chức tế lễ và giúp đem hòm giao ước về
Giê-ru-sa-lem (ISu 15:11), nên họ nghĩ rằng
đem hòm giao ước đến cho Đa-vít là việc làm khôn ngoan. Áp-sa-lôm chiếm ngai
vàng của cha mình, nhưng các thầy tế lễ không để ông ta có được ngôi của Đức
Chúa Trời. Họ gia nhập vào trại của Đa-vít và dắt theo nhiều người Lê-vi theo,
A-bia-tha đã dâng của lễ (c.24) và chắc chắn đã cầu xin Đức Chúa Trời và bảo vệ
vua.
Nhưng Đa-vít bảo họ đem hòm giao ước
trở về Giê-ru-sa-lem! Ông không muốn ngôi Đức Chúa Trời bị xem là tấm bùa may
mắn như trong thời Hê-li khi sự vinh hiển đã rời bỏ Y-sơ-ra-ên (ISa 4:1-22). Áp-sa-lôm và người của ông đang cố
gắng biến sự vinh hiển của Đa-vít thành ra sự xấu hổ (Thi
4:2), nhưng ân huệ của Đức Chúa Trời ở trên vua và Ngài sẽ phục hồi ngai
vàng cho ông. Đa-vít đã nhìn thấy quyền năng và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời
trong nơi thánh của Ngài (Thi 63:2) và ông
sẽ nhìn thấy nó bằng đức tin khi lưu lạc trong đồng vắng. Nhưng thậm chí khi
Đức Chúa Trời khước từ lời cầu xin của Đa-vít, vua được chuẩn bị để tiếp nhận ý
muốn tối thượng của Đức Giê-hô-va (c.26). Hê-li có nói một câu tương tự (ISa 3:18), nhưng đó là với ý định từ chức, không
phải chứng tỏ sự tận tâm. Trong trường hợp của Đa-vít, vua hoàn toàn đầu phục
Đức Giê-hô-va và nói: “Nguyện Ngài xử ta theo ý Ngài lấy làm tốt!”
Đức tin không có việc làm là đức tin
chết, nên Đa-vít phân công cho hai thầy tế lễ làm tai mắt cho ông tại
Giê-ru-sa-lem và báo tất cả tin tức về cho ông, điều đó sẽ giúp ông lên kế
hoạch chiến lược cho mình. Con trai của Xa-đốc, A-hi-mát và Giô-na-than, con
trai của A-bia-tha sẽ là sứ giả và đem tin tức về cho ông. Đa-vít là một nhà
chiến thuật có ân tứ, khi bạn đọc ISa 19:1-28:25,
bạn sẽ phát hiện ra rằng ông có một hệ thống thám tử làm việc có hiệu quả, điều
nầy giúp ông biết rõ từng bước đi của Sau-lơ. Đa-vít sẽ nhất trí với lời khuyên
của Oliver Cromwell, “Hãy đặt lòng tin nơi Đức Chúa Trời, hỡi con, và hãy sẵn
sàng ứng phó”. Dù Áp-sa-lôm có thể làm gì đối với các quan chức của vua, ông
không thể tra tay nơi các thầy tế lễ của Đức Chúa Trời và người Lê-vi, họ thực
hiện nhiệm vụ mình một cách âm thầm. Khi hai thầy tế lễ và các con trai của họ
trở về Giê-ru-sa-lem với hòm giao ước, những người đi theo Áp-sa-lôm phải giải
thích hành động của họ khi ủng hộ theo Áp-sa-lôm.
Đức Giê-hô-va nhìn
thấy nước mắt của Đa-vít (IISa 15:30). “Kinh Thánh
được viết trong nước mắt, và với nước mắt nó sẽ sinh ra những điều quý giá nhất
của nó,” A.W. Tozer đã nói. Đa-vít là một người mạnh mẽ và can đảm, nhưng ông
không ngại khóc trước mặt nhiều người. (người đàn ông cũng thường khóc, kể cả
Chúa Giê-xu và Phao-lô). Trong Thi thiên 6, chúng ta thấy nước mắt của Đa-vít,
rất có thể đây là bài thi thiên viết trong thời gian lưu lạc (c.6-8), cũng như
trong Thi 30:5 39:12
56:8. “Hỡi kẻ
làm ác kia, khá lìa xa ta hết thảy; Vì Đức Giê-hô-va đã nghe tiếng khóc lóc ta”
(Thi 6:8). “Của
lễ đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là tâm thần đau thương: Đức Chúa Trời ôi! Lòng
đau thương thống hối Chúa không khinh dể đâu” (Thi 51:17).
Đa-vít chắc chắn đã khóc rất nhiều,
vì những tội lỗi của ông đã gây nên sự đau buồn và chết chóc trong gia đình
ông. Am-nôn bị giết, Ta-ma bị hãm hiếp, và giờ đến Áp-sa-lôm con trai của vua
đang âm mưu chiến đoạt ngai vàng Y-sơ-ra-ên và cái chết đang chờ ông phía trước.
Bạn và là vị cố vấn của Đa-vít, A-hi-tô-phe đã phản bội ông và dân sự là những
người Đa-vít đã liều mạng sống mình vì họ, đang xây lưng lại với ông mà đi theo
kẻ phản nghịch không bao giờ được Đức Chúa Trời chọn lựa. Nếu có người đàn ông
nào có quyền khóc, thì người đó chính là Đa-vít. Giống như con cái không biết
vâng lời bị phát vào mông, con người dễ dàng khóc lóc khi họ đang bị trừng phạt
vì tội lỗi mình, và thưòng quên đau khi sự trừng phạt ấy qua đi. Nhưng nước mắt
của Đa-vít sâu xa hơn nhiều. Ông không chỉ quan tâm đến sự an toàn của đứa con
phản nghịch của mình mà còn sự an ninh của đất nước mình và tương lai của nhiệm
mạng đối với thế gian mà Đức Chúa Trời giao cho dân Y-sơ-ra-ên. Giao ước của
Đức Chúa Trời với Đa-vít (IISa 7:1-29) đảm
bảo với ông rằng ngôi của ông sẽ còn đến đời đời, và điều nầy được ứng nghiệm
trong Chúa Cứu Thế; nhưng lời hứa ấy cũng ngụ ý rằng Y-sơ-ra-ên sẽ không bị
tiêu diệt vì ngọn đèn của Đa-vít chỉ tạm thời bị lu mờ (IVua 11:36 15:4 IIVua 8:19 21:7
Thi 132:17). Đức Chúa Trời sẽ thành tín giữ
giao ước Ngài, và Đa-vít biết rằng ngai của ông sẽ được giữ vững trong bàn tay
của Đức Chúa Trời.
Đức Giê-hô-va đáp lời
cầu xin của Đa-vít (IISa 15:31-37). Một sứ
giả khác đến trại của Đa-vít và báo tin rằng A-hi-tô-phe đã phản bội ông để theo
Áp-sa-lôm (c.12), “Đến đỗi người bạn thân tôi, mà lòng tôi tin cậy, và đã ăn
bánh tôi, cũng giơ gót lên nghịch cùng tôi” (Thi
41:9). “Vì chẳng kẻ thù nghịch sỉ nhục tôi; bằng vậy, tôi có thể chịu
được … Nhưng chính là ngươi, kẻ bình đẳng cùng tôi, bầu bạn tôi, thiết hữu tôi”
(Thi 55:11-14). Bạn sẽ làm gì khi người bạn
tri kỷ của bạn phản bội bạn? Bạn hãy làm như Đa-vít đã làm – bạn hãy cầu nguyện
và thờ phượng. “Ôi, Đức Giê-hô-va! Xin làm cho những mưu chước của A-hi-tô-phe
ra ngu dại…Đa-vít đã đi đến chót núi, tại nơi người ta thờ lạy Đức Chúa Trời”
(c.31).
Và khi Đa-vít nhìn thấy Hu-sai,
người nầy là câu trả lời cho lời cầu nguyện của Đa-vít! Hu-sai được gọi là “bạn
hữu của Đa-vít” (c.37 ISu 27:33), điều nầy
ngụ ý ông ta là bạn và là người cố vấn đặc biệt cho vua. Ông ta là người
Ạt-kít, cho thấy ông ta xuất thân từ nhóm người Ca-na-an và như vậy là người
Ngoại bang (Sa 10:17 ISu 1:15). Thành Ạt-kít nằm ờ vùng Sy-ri, cách bắc Đa-mách
khoảng hai trăm dặm và cách phía đông biển năm dặm. Những cuộc chinh phục của
Đa-vít vượt xa đến miền bắc, và một số người ở đó đã bắt đầu thờ phương Đức
Chúa Trời chân thần của Y-sơ-ra-ên và phục vụ vua Y-sơ-ra-ên.
Giống như đã bảo với Xa-đốc,
A-bia-tha và hai con trai của họ, Đa-vít bảo Hu-sai trở về Giê-ru-sa-lem để
“phục sự” Áp-sa-lôm. Cả năm người nầy đang liều mình vì Đức Giê-hô-va và đất
nước của mình, nhưng họ xem việc phục vụ vua và giúp vua khôi phục lại ngai
vàng là một vinh dự. Tất cả những người được Đa-vít giao cho những nhiệm vụ đặc
biệt có thể nói, “Phàm việc gì vua chúa chúng tôi nhứt định, thì các tôi tớ vua
sẽ sẳn sàng làm theo” (c.15). Đây nên là câu trả lời của Cơ Đốc nhân ngày nay
khi bày tỏ lòng tận hiến của mình đối với Đấng Christ.
Hu-sai đến Giê-ru-sa-lem ngay khi
Áp-sa-lôm đến, và sự nhiệt liệt chào đón vua mới của dân sự đã giúp cho Hu-sai
vào thành mà không bị chú ý, hoặc có lẽ ông đã củng cố thêm vị trí của mình
bằng cách nhập vào đoàn người. Dĩ nhiên, sau đó Hu-sai đón tiếp vua và thực
hiện tất cả những gì ông có thể để ngăn chặn kế hoạch của vua mới và báo tin về
cho Đa-vít. Nếu có một điều gì đó tốt hơn sự nhận được câu trả lời cho lời cầu
nguyện, thì Hu-sai chính là câu trả lời cho lời cầu nguyện của Đa-vít. Theo cái
nhìn của con người, nếu không có Hu-sai bên cạnh cố vấn cho Áp-sa-lôm, Đa-vít chắc
đã bị giết ngoài đồng vắng.
Đức Giê-hô-va đáp ứng
nhu cầu của Đa-vít (IISa
16:1-4). Khi Đa-vít gặp Hu-sai, đó chính là câu trả lời cho ông,
nhưng khi ông gặp Xíp-ba, cuộc gặp gỡ nầy đáp ứng nhu cầu tức thời nhưng sinh
ra một vấn đề mà mãi cho đến khi Đa-vít lấy lại ngai
vàng mới giải quyết được. Xíp-ba là một trong những người giữ đất cho Sau-lơ,
giống như người trông coi Mê-phi-bô-sết, con trai của Giô-na-than (đoạn 9).
Biết rằng Xíp-ba là một người cơ hội với những động cơ không tốt, Đa-vít nghi
ngờ sự hiện diện của Xíp-ba, những lễ vật của ông ta và sự vắng mặt của
Mê-phi-bô-sết, người được Đa-vít chăm sóc. Xíp-ba đã dẫn theo một đàn lừa cho
Đa-vít và gia đình ông sử dụng, cũng như nhiều bánh mì, rượu và trái cây. Những
lễ vật nầy rất cần thiết và có giá trị, nhưng Đa-vít quan tâm đến động cơ đằng
sau chúng.
Xíp-ba nói dối với vua và cố hết sức làm mất thể diện Mê-phi-bô-sết, người chủ trẻ
của mình. Đa-vít đang mệt mỏi và bị tổn thương sâu sắc trong lòng, đây không
phải là lúc tốt nhất để ông đưa ra những quyết định khôn ngoan. Ông chấp nhận
những lời dối gạt của Xíp-ba sau nầy lời đó bị nghi ngờ (IISa 19:26-27) và đưa ra quyết định vội vàng đó là
ban cho Xíp-ba những của cải mà đúng ra thuộc về Mê-phi-bô-sết. “Trả lời trước khi nghe, ấy là sự điên dại và hổ thẹn cho
ai làm vậy” (Ch 18:13). Những
người lãnh đạo của Đức Chúa Trời phải luôn thận trọng để không đưa ra những
quyết định thiếu khôn ngoan dựa vào những thông tin không đầy đủ.
Đức Giê-hô-va tôn cao
sự đầu phục của Đa-vít (IISa 16:5-14). Qua
lời dối trá của Xíp-ba, Sa-tan tấn công Đa-vít như con rắn phỉnh gạt (IICo 11:3 Sa 3:1-7),
và sau đó qua miệng lưỡi của Si-mê-i, Sa-tan đến như con sư tử cắn xé (IPhi 5:8). Xíp-ba nói dối và Si-mê-i đã ném đá, cả
hai cùng gây khó khăn cho Đa-vít. Vua Đa-vít giờ đây đang ở Ba-hu-rim thuộc chi
phái Bên-gia-min, nơi lực lượng ủng hộ Sau-lơ vẫn còn hùng mạnh. Si-mê-i ở trên
đồi đối ngang Đa-vít và đứng trên chỗ cao hơn Đa-vít, và như vậy ông ta dễ dàng
ném đá và hất bụi đất lên Đa-vít và những người theo ông. Đa-vít mệt mỏi và
chán chường, nhưng ông không bao giờ phẫn nộ trả miếng lại khi ông để cho
Si-mê-i tiếp tục công kích mình. A-bi-sai chỉ muốn lên đồi và giết chết người
đang công kích vua, nhưng Đa-vít không cho phép. A-bi-sai cũng từng muốn giết
Sau-lơ trong trại Y-sơ-ra-ên (ISa 26:6-8).
Và ông đã giao cho Giô-áp, em trai mình, nhiệm vụ giết Áp-ne (IISa 3:30), nên Đa-vít biết rằng không nên xem nhẹ
những lời ông ta nói.
“Ớ người huyết, người gian tà kia!
Hãy đi nà, hãy đi nà!”, Si-mê-i la lớn tiếng như vậy, nhưng Đa-vít không trả
đủa. Si-mê-i đang đổ lỗi cho Đa-vít về cái chết của Sau-lơ và các con trai
Sau-lơ, vì xét cho cùng, khi họ chết, Đa-vít chính thức ở trong đội quân
Phi-li-tin. Việc Đa-vít ở cách xa chiến trường vài dặm khi họ ngã xuống dường
như không là vấn đề đối với Si-mê-i. Người Bên-gia-min nầy có lẽ đã đổ tội cho
Đa-vít về cái chết của Ích-bô-sết, là người thừa kế ngai vàng của Sau-lơ, và về
cái chết của Áp-ne, quan tổng binh của vua, dĩ nhiên cũng có cái chết của U-ri,
người Hê-tít. “Chính ngươi bị hoạn nạn, bởi vì ngươi là một người huyết” (c.8).
Si-mê-i đang vi phạm luật pháp trong khi tuôn ra những lời căm phẫn đối với
Đa-vít, vì Xu 22:28 có chép, “Ngươi chớ nên nói lộng ngôn cùng Đức Chúa Trời, và cũng
đừng rủa sả vua chúa của dân sự ngươi”.
Thái độ của Đa-vít là thái độ đầu
phục vì ông chấp nhận lời rủa sả của Si-mê-i như là hình phạt từ tay Đức Chúa
Trời. Đa-vít đã tuyên bố rằng ông sẽ chấp nhận mọi hình phạt từ Đức Chúa Trời
giáng trên ông (IISa 15:26), và giờ đây ông
chứng minh cho lời nói đó. khi Đa-vít biết rằng ông là người phạm tội tà dâm và
tội giết người, là một người đáng phải chết, nhưng Đức Chúa Trời đã để ông
sống, vậy thì lý do gì ông lại than phiền về những lời rủa sả và hành động sỉ
nhục đó? Và nếu Áp-sa-lôm, con trai của Đa-vít, ra tay giết ông, thì lý do gì
người xa lạ nầy lại bị phạt vì những lời nói phạm đến vua và ném đá vào vua?
Đa-vít có đức tin rằng sẽ có một ngày Đức Chúa Trời phán quyết công bình và gìn
giữ những người như Áp-sa-lôm và Si-mê-i. Có lẽ Đa-vít đang nghĩ đến Phu 32:35 “Sự báo thù sẽ thuộc về ta, phần đối trả
sẽ qui về ta” (Ro 14:17-21). Khi Đa-vít khôi
phục được ngai vàng, ông đã tha thứ cho Si-mê-i (IISa
19:16-23) và sau đó Sa-lô-môn giam lỏng ông tại Giê-ru-sa-lem. Khi ngạo
mạn Si-mê-i bước ra khỏi giới hạn đó, ông đã bị bắt và xử tử (IVua 2:36-46).
Đa-vít và những người theo ông đi
qua Bê-hu-rim khoảng 20 dặm đến chỗ cạn của sông Giô-đanh, có lẽ gần Ginh-ganh
hoặc Giê-ri-cô, và họ nghỉ ngơi tại đó. Ngay sáng hôm sau họ băng qua sông và
đến Ma-ha-na-im (IISa 17:22,24), nơi Gia-cốp
sửa soạn gặp lại Ê-sau và vật lộn với Đức Chúa Trời (Sa 32). Có lẽ Đa-vít nhớ
sự kiện đó và lấy lại can đảm khi ông nghĩ về đội binh thiên sứ mà Đức Chúa
Trời sai đến bảo vệ Gia-cốp.
Sự khốn khổ nầy đã làm
được điều gì cho Đa-vít? Nó
khiến ông trở nên giống Chúa Cứu Thế Giê-xu hơn! Ông bị dân sự mình
khước từ và bị bạn thân mình phản bội. Ông đã làm mọi việc cho dân sự và từ bỏ
chính mình để cứu đứa con trai chống nghịch đáng phải chết mất. Giống như Chúa
Giê-xu, Đa-vít đã đi qua Xếp-rôn và lên núi Ô-li-ve. Ông đã bị vu oan và bị sỉ nhục, nhưng ông đầu phục ý muốn tối thượng của Đức
Chúa Trời. “Ngài bị rủa mà chẳng rủa lại, chịu nạn mà không hề ngăm dọa, nhưng
cứ phó mình cho Đấng xử đoán công bình;” (IPhi 2:23).
Đa-vít đã mất ngai vàng của mình,
nhưng Giê-hô-va Đức Chúa Trời vẫn ở trên ngôi của Ngài và sẽ giữ lời hứa của
Ngài với tôi tớ Ngài. Thành tín với giao ước của Ngài, Đức Giê-hô-va nhớ đến
Đa-vít và tất cả những khổ nạn mà ông gánh chịu (Thi
132:1), và ngày nay Ngài luôn nhớ đến chúng ta.
Đức Giê-hô-va đáp ứng
nhu cầu của Đa-vít (IISa 16:1-4). Khi
Đa-vít gặp Hu-sai, đó chính là câu trả lời cho ông, nhưng khi ông gặp Xíp-ba,
cuộc gặp gỡ nầy đáp ứng nhu cầu tức thời nhưng sinh ra một vấn đề mà mãi cho
đến khi Đa-vít lấy lại ngai vàng mới giải quyết được. Xíp-ba là một trong những
người giữ đất cho Sau-lơ, giống như người trông coi Mê-phi-bô-sết, con trai của
Giô-na-than (đoạn 9). Biết rằng Xíp-ba là một người cơ hội với những động cơ
không tốt, Đa-vít nghi ngờ sự hiện diện của Xíp-ba, những lễ vật của ông ta và
sự vắng mặt của Mê-phi-bô-sết, người được Đa-vít chăm sóc. Xíp-ba đã dẫn theo
một đàn lừa cho Đa-vít và gia đình ông sử dụng, cũng như nhiều bánh mì, rượu và
trái cây. Những lễ vật nầy rất cần thiết và có giá trị, nhưng Đa-vít quan tâm
đến động cơ đằng sau chúng.
Xíp-ba nói dối với vua và cố hết sức
làm mất thể diện Mê-phi-bô-sết, người chủ trẻ của mình. Đa-vít đang mệt mỏi và
bị tổn thương sâu sắc trong lòng, đây không phải là lúc tốt nhất để ông đưa ra
những quyết định khôn ngoan. Ông chấp nhận những lời dối gạt của Xíp-ba sau nầy
người lời đó bị nghi ngờ (IISa 19:26-27) và
đưa ra quyết định vội vàng đó là ban cho Xíp-ba những của cải mà đúng ra thuộc
về Mê-phi-bô-sết. “Trả lời trước khi nghe, ấy là
sự điên dại và hổ thẹn cho ai làm vậy” (Ch
18:13). Những người lãnh đạo của Đức Chúa Trời phải luôn thận trọng để
không đưa ra những quyết định thiếu khôn ngoan dựa vào những thông tin không
đầy đủ.
IISa 15:24-37; xem giải nghĩa IISa 15:13-23
IISa 16:1-14; xem giải nghĩa IISa 15:13-23
8. CHIẾN THẮNG, VUI
BUỒN LẪN LỘN CỦA ĐA-VÍT (IISa 16:15-18:33)
Khi Ngài tổng thư ký
Douglass MacArthur đứng trước Quốc hội Mỹ vào ngày 19 thánh 4 năm 1951, ông đã
nói một câu rất nổi tiếng, “Trong chiến tranh không có gì thay thế cho chiến
thắng”. Nhưng không phải một vị tướng giỏi giữ được đội quân được trang bị là
giành được thắng lợi, thật sự không ai chiến thắng trong chiến tranh, tại sao?
Vì giá của nó rất đắt. Cứ mỗi chữ trong sách của Hitler,
Mein Kampt, có 125 người chết trong
Chiến Tranh Thế Giới thứ hai. Trong cái nhìn về vũ khí hạt nhân trong thời hiện
đại, không ai có thể “thắng” trong Chiến Tranh Thế Giới thứ ba.
Đội quân của Đa-vít và
đội quân của Áp-sa-lôm sắp sửa vướng vào cuộc nội chiến mà dù cha hay con đều
không thể “chiến thắng”, nhưng cả hai đều sẽ thua. Nếu Đa-vít thắng, có nghĩa
là con trai và bạn ông, Áp-sa-lôm và A-hi-tô-phe phải chết; nếu Áp-sa-lôm
thắng, có nghĩa là Đa-vít và những người khác trong gia đình ông sẽ chết. Trong
từ ngữ hiện đại, nó là tình trạng “chiến thắng chua cay” trong từ ngữ cổ, nó là
“chiến thắng với giá quá đắt”
Áp-sa-lôm tin vào sức
hút của mình, danh tiếng của mình, quân đội của
mình và sự khôn ngoan của A-hi-tô-phe, nhưng Đa-vít tin nơi Đức Giê-hô-va. “Hỡi
Đức Chúa Trời, xin hãy nghe tiếng kêu của tôi, lắng nghe lời cầu nguyện tôi.
Khi tôi cực lòng, tôi sẽ kêu cầu cùng Chúa từ nơi cực địa; Xin hãy dẫn tôi lên
hòn đá cao hơn tôi” (Thi 61:1-2)
Đa-vít đã kinh nghiệm được gì qua
những ngày khốn khó nầy?
1. Ngôi Đa-vít bị chiếm
đoạt (IISa 16:15-23)
Phân đoạn nầy là một bài
tường thuật, nó bị xen vào ở 15:37 nên chúng ta có thể biết được về sự trốn thoát của Đa-vít
và sự chạm mặt giữa ông với Xíp-ba và Si-mê-i. Nhờ sự trốn thoát mau lẹ của
Đa-vít, mà cuộc nổi loạn của Áp-sa-lôm không gây đổ máu và dễ dàng chiếm được
Giê-ru-sa-lem, đó là điều Đa-vít muốn (15:14).
Không giống Áp-sa-lôm, Đa-vít có tấm lòng của người một chăn, ông nghĩ đến lợi
ích của dân sự trước hết (24:17 Thi 78:70-72).
Hu-sai chiếm được lòng
tin của Áp-sa-lôm (IISa 16:16-19).
Hu-sai nhanh chóng có chân trong bộ máy chính quyền và chính thức được diện
kiến vị vua mới. Ông ta không muốn Áp-sa-lôm nghĩ mình là một thám tử, dù ông
đúng là như vậy. Ông là người của Đức Chúa Trời ở Giê-ru-sa-lem để vô hiệu hóa
lời khuyên của A-hi-tô-phe. Chắc chắn Áp-sa-lôm không ngạc nhiên khi thấy vị cố
vấn của cha mình ở Giê-ru-sa-lem, nhưng lời chào mai mỉa của ông không làm
Hu-sai buồn lòng. Những lời Hu-sai nói với Áp-sa-lôm phải được suy gẫm thật cẩn
thận nếu không chúng sẽ gây hiểu lầm.
Hu-sai chào Áp-sa-lôm với thái độ
kính trọng thường thấy, “Vua vạn tuế! Vua vạn tuế!”, nhưng ông ta không nói “vua Áp-sa-lôm”; Trong lòng ông ta,
ông ta muốn ám chỉ vua Đa-vít, nhưng vị vua mới không hiểu những gì Hu-sai nói.
Trong sự kiêu căng của mình, Áp-sa-lôm nghĩ Hu-sai đang gọi ông là vua. Một lần
nữa, chúng ta thấy Hu-sai không đề cập tên của Áp-sa-lôm hay nói rằng ông ta sẽ
phục sự vua mới. Trong câu 18, Hu-sai đang nói về Đa-vít, vì Đức Giê-hô-va
không bao giờ chọn Áp-sa-lôm làm vua Y-sơ-ra-ên; và Hu-sai không hứa phục sự
Áp-sa-lôm, nhưng phục sự con trai Đa-vít. Nói cách khác, Hu-sai đang ra mắt
Áp-sa-lôm, nhưng ông sẽ phục sự Đức Giê-hô-va và
Đa-vít. Một Áp-sa-lôm kiêu ngạo hiểu rằng lời của Hu-sai ám chỉ đến
ông ta, và nhận Hu-sai làm người cố vấn thứ hai của mình. Quyết định nầy thuộc
về Đức Chúa Trời và mở đường cho sự thất bại của Áp-sa-lôm.
Áp-sa-lôm nghe theo
lời khuyên của A-hi-tô-phe (IISa 16:20-23). Áp-sa-lôm có hai nhiệm vụ quan trọng để thực hiện trước khi ông
có thể cai trị vương quốc Y-sơ-ra-ên. Thứ nhất, ông phải chiếm được ngai vàng
của cha và cho mọi người biết ông chính thức là vua. Không giống Đa-vít cha
mình, là người thường tìm biết ý muốn Đức Chúa Trời qua U-rim và Thu-mim hay
qua tiên tri, Áp-sa-lôm tin vào kinh nghiệm và sự khôn ngoan của con người và
theo quan điểm của con người, A-hi-tô-phe là một trong số những người giỏi
nhất. Tuy nhiên, A-hi-tô-phe không tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời ông cũng không
thích ý muốn Đức Chúa Trời. Mục đích chính của ông là trả thù Đa-vít vì có tội
với Bát-sê-ba, cháu gái của ông, và U-ri người Hê-tít, chồng nàng.
Theo thông lệ, vua mới sẽ thừa hưởng
những người vợ và hậu cung của vua tiềm nhiệm, nên khi Áp-sa-lôm nghe theo lời
khuyên của A-hi-tô-phe, ông đã xưng mình là vua Y-sơ-ra-ên (IISa 3:7 12:8 IVua 2:22). Qua việc lấy những vợ lẻ của cha,
Áp-sa-lôm đã làm mình trở thành kẻ thù của cha và cắt đứt mọi nhịp cầu giải hòa
có thể có. Vị vua mới nói với những người theo mình rằng sẽ không có con đường
quay đầu lại và cuộc cách mạng sẽ tiếp tục. Nhưng ông ta cố ý làm nhiều hơn
điều đó: ông làm ứng nghiệm lời của tiên tri Na-than, đó là những người vợ của
Đa-vít sẽ bị sỉ nhục nơi công khai (IISa 12:11-12).
Đa-vít đi dạo trên nóc cung điện thì nổi lòng ham muốn Bát-sê-ba (11:2-4), và đó cũng là nơi những người vợ của
Đa-vít sẽ chịu sỉ nhục.
2. Lời cầu xin của
Đa-vít được nhậm (IISa 17:1-28)
Đạt được mục đích thứ
nhất của mình và tiếp quản vương triều, Áp-sa-lôm phải giải quyết đến vấn đề
thứ hai là đảm bảo rằng Đa-vít và những người theo ông không quay về và lấy lại
ngai vàng. Giải pháp nầy đơn giản nhưng quyết liệt: ông phải tìm và giết cha
mình. Để tìm sự hướng dẫn, Áp-sa-lôm đã quay sang nhờ những người cố vấn giúp
đỡ.
Lời khuyên của Hu-sai
chiếm ưu thế (IISa 17:1-14). Thành
thật mà nói, nếu Áp-sa-lôm nghe theo lời khuyên của A-hi-tô-phe, Đa-vít sẽ bị
giết và vấn đề của Áp-sa-lôm được giải quyết. Nhưng Đa-vít đã cầu nguyện xin
Chúa khiến cho lời khuyên trở nên ngu ngốc (IISa 15:31), và Đức Chúa Trời dùng Hu-sai để làm
việc đó. Lưu ý rằng A-hi-tô-phe đặt chính mình ở phía trước và ngay trung tâm
bằng cách dùng những cụm từ như, “Xin cho phép tôi chọn mười hai … Tôi sẽ kéo
ra đuổi … Tôi sẽ xông vào …” vân vân. Ông ta muốn làm quan tổng binh của đội
quân vì ông muốn đích thân giết chết vua Đa-vít, kẻ thù mình. Kế hoạch của ông ta
là một kế hoạch tốt: dùng một đội quân nhỏ, có thể di
chuyển nhanh, đột ngột tấn công vào ban đêm, và giết chết Đa-vít là mục tiêu
lớn của ông ta. Sau đó A-hi-tô-phe sẽ dẫn những người theo Đa-vít trở về và họ
sẽ thề trung thành với vị vua mới. Đó sẽ là một chiến thắng nhanh chóng và
không phải đổ nhiều máu.
Hu-sai không có mặt lúc
A-hi-tô-phe vạch ra kế hoạch của ông ta, nên Áp-sa-lôm gọi Hu-sai đến và nói
cho ông biết những gì A-hi-tô-phe đã nói. Được sự hướng dẫn từ Đức Chúa Trời,
Hu-sai đưa ra giải pháp hoàn toàn khác và đánh vào cái tôi của vị vua trẻ. Lời
của Hu-sai không có hàng loạt nhưng từ “tôi sẽ…” tập trung vào bản thân mình
nhưng với hàng loạt những câu tập trung vào vị vua mới nhằm kích động trí tưởng
tượng của vua và thổi phồng cái tôi của vua. Hu-sai đã giăng một cái bẫy hiệu
quả bằng môi miệng mình, và Áp-sa-lôm đã rơi vào đó.
Thứ nhất, Hu-sai giải
thích tại sao “lần nầy” lời khuyên của A-hi-tô-phe không khôn ngoan, mặc dù nó
là khôn ngoan trong những lúc khác (c.7-10). Khi chỉ tập trung vào việc giết
Đa-vít, Áp-sa-lôm biết rằng cha mình là một nhà chiến thuật vĩ đại và là một
chiến binh tài giỏi, bên cạnh ông là những binh lính dày dạn kinh nghiệm và can
đảm. Tất cả những người đó đang rất phẫn nộ vì phải bỏ nhà cửa mình mà chạy
trốn. Họ giống như con gấu cái mất con. (Hu-sai là chuyên gia về cách nói ẩn
dụ!). Hơn nữa, Đa-vít rất thông minh, ông ta sẽ ẩn mình nơi an toàn nên không
thể bị mắc bẫy. Những người của ông sẽ bảo vệ ông và phục kích giết chết những
ai dám đến gần. Đội quân của Đa-vít rất có kinh nghiệm trận mạc nên không hề bị
bất ngờ trước những cuộc tấn công đột ngột. Một cuộc tấn công bất ngờ với lực
lượng nhỏ sẽ không là kế hoạch tốt. Nếu đội quân xâm lược bị đẩy lùi, lời đồn
sẽ lan ra rằng đội quân của Áp-sa-lôm đã thất bại, và tất cả lính của ông đã bỏ
trốn. Áp-sa-lôm rồi sẽ kết thúc triều đại của mình trong cảnh rối loạn hàng
ngũ.
Và Hu-sai vạch ra kế
hoạch nhằm giải quyết những khó khăn đó. Thứ nhất, vị vua mới phải đích thân
lãnh đạo đội quân, và đó phải là đội quân lớn nhất mà ông ta có thể triệu tập
được “từ Đan cho đến Bê-e-Sê-ba”. Đề xuất nầy hấp hẫn cái tôi bị thổi phồng của
Áp-sa-lôm, và trong sự tưởng tượng của mình ông ta có thể nhìn thấy chính mình
đang dẫn đầu một đội quân đại thắng. Dĩ nhiên, ông ta không phải là một chiến
binh dày dạn, nhưng điều đó có ảnh hưởng gì? Thật đây là cách tốt nhất để mở
đầu thời trị vì! Áp-sa-lôm không dừng lại để nghĩ đến việc ông phải dành thời
gian để tập trung lực lượng “từ Đan cho đến Bê-e-Sê-ba”, trong lúc đó Đa-vít có
thể vượt qua sông Giô-đanh và “thoát đi”.
Với một đội quân lớn như
vậy dưới sự lãnh đạo của mình, Áp-sa-lôm không phải dựa vào sự tấn công bất ngờ
và khó khăn nhưng có thể “đáp trên” quân của Đa-vít trong một vùng rộng lớn,
như sương sớm sa xuống đất. Quân Đa-vít chạy đến đâu đều gặp phải quân của
Áp-sa-lôm và sẽ không còn đường trốn thoát. Thay vì giữ lại lính của Đa-vít,
quân của Áp-sa-lôm sẽ xóa sổ họ để họ không thể gây phiền nhiễu được nữa. Nhận
thấy Áp-sa-lôm lo lắng về yêu tố thời gian, Hu-sai trình bày ý kiến phản đối
của mình trong câu 13. Nếu trong thời gian chờ đợi tập trung lực lượng mà nghe
tin Đa-vít đã dẫn quân của ông vào thành có tường bao quanh thì nhiệm vụ sẽ
càng dễ dàng hơn. Cả đất nước sẽ nghe theo lời của vua mới và hợp cùng nhau bao
vây thành đó, và giết sạch không chừa một ai. Thật là một minh họa hùng hồn!
Kế hoạch đơn giản của
A-hi-ô-phe đã bị quên lãng, khi kế hoạch lớn của Hu-sai, được nhấn mạnh với
những hình ảnh sống động, lôi cuốn được trái tim, tâm trí của Áp-sa-lôm và
những người lãnh đạo trong triều. Đức Chúa Trời đã
đáp lời cầu xin của Đa-vít và khước từ lời khuyên của A-hi-tô-phe. Áp-sa-lôm sẽ
cầm đầu đội quân, mê mãi với chiến thắng, nhưng ông ta sẽ thất bại nhục nhã. “Đức Giê-hô-va làm bại mưu các nước, khiến những tư tưởng
các dân tộc ra hư không. Mưu của Đức Giê-hô-va được vững lập đời đời, ý tưởng
của lòng Ngài còn đời nầy sang đời kia” (Thi
33:10-11).
Bộ máy dọ thám của
Đa-vít đã hoạt động (IISa 17:15-22).
Đa-vít và những người theo ông đóng trại tại những chỗ cạn của sông Giô-đanh,
cách Giê-ru-sa-lem khoảng 20 dặm, và hai người báo tin đang chờ sẵn tại
Ên-rô-ghên trong trũng Xếp-rôn, cách Giê-ru-sa-lem chưa đến 1 dặm. Hu-sai đưa
tin cho hai thầy tế lễ nầy và bảo họ nói với Đa-vít hãy vượt qua sông Giô-đanh
càng sớm càng tốt. Ông đã không trì hoãn. Nếu Áp-sa-lôm thay đổi ý kiến và nghe
theo kế hoạch của A-hi-tô-phe, thì tất cả đã có thể thoát được hết. Xa-đốc và
A-bia-tha nói với một đầy tớ gái khuyết danh; cô ta đem tin về cho Giô-na-than
và A-hi-mát, họ chạy vội về nhà của một người ở Ba-hu-rim cách đó 1 dặm đường.
Tuy nhiên, một người trai trẻ đã nhìn thấy họ và nhận ra họ là các con trai của
các thầy tế lễ. Muốn gây ấn tượng cho vị vua mới, anh ta đã kể cho Áp-sa-lôm
nghe những chuyện đang xảy ra, và lính của Áp-sa-lôm đã đuổi theo hai người ấy.
Trong thời điểm nầy,
tình tiết giống như trong câu chuyện về hai thám tử được chép trong Giô-suê 2.
Ra-háp đã giấu hai thám tử dưới những nhánh cây khô trên mái nhà. Vợ của một
người Ba-hu-rim đã giấu hai người báo tin nầy dưới cái giếng, rồi trải mền lên
miệng giếng và phơi lúa mạch trên đó. Không ai ép buộc người phụ nữ ấy hợp tác
với kế hoạch gian ác của của Áp-sa-lôm, cô ta chỉ quân lính đi sai đường và hai
người được thoát nạn. Hai người đến trại của Đa-vít, báo tin cho ông và giục ông
vượt qua sông Giô-đanh ngay, Đa-vít đã làm theo như vậy. Quân lính trở về với
hai bàn tay trắng, nhưng Áp-sa-lôm không xem thất bại của họ là nghiêm trọng.
Ông ta thật sai lầm!
A-hi-tô-phe kết liễu
mạng sống mình (IISa 17:23). Tại sao? Có phải vì
Áp-sa-lôm làm tổn thương ông vì không nghe theo lời ông? Không phải vậy, vì ông
ta biết rằng lời khuyên của Hu-sai sẽ dẫn đến thất bại cho Áp-sa-lôm, và
A-hi-tô-phe đang phục sự một vị vua sai lầm. Là kẻ phản bội Đa-vít, A-hi-tô-phe hoặc sẽ bị giết chết hoặc sẽ bị trục xuất khỏi đất
nước vĩnh viễn. Thay vì làm bản thân mình và gia đình mình chịu sỉ nhục, ông ta
tự sắp xếp số phận của mình và đã tự treo cổ. Tình tiết nầy nhắc chúng ta nhớ
đến chuyện của Giu-đa (Mat 27:5) và hai bài
thi thiên của Đa-vít (Thi 41:9 55:12-15 Gi 13:18).
Trong Cong 1:15-22, Phi-e-rơ cho rằng có hai
bài thi thiên khác có liên quan đến Giu-đa (Thi
69:25 109:8).
A-hi-tô-phe là đầy tớ trung thành
của vua và đất nước cho đến khi ông ta nuôi ý định trả thù Đa-vít vì việc
Đa-vít làm với Bát-sê-ba và U-ri. Mong muốn trả thù ám ảnh đến nổi ông ta không còn là một đầy tớ trung thành của Đức
Chúa Trời mà bắt đầu phục vụ cho những mong muốn tội lỗi của chính mình. Ông ta
biết những tham vọng của Áp-sa-lôm nhưng đã giấu Đa-vít, và hợp tác với
Áp-sa-lôm ngay trong triều đình. Nhưng bằng sự khôn ngoan của mình, A-hi-tô-phe
đang phục sự cho vị vua sai lạc,và Đức Giê-hô-va phải trừng phạt ông ta. Cả
A-hi-tô-phe và Áp-sa-lôm điều bị treo trên cây mà chết. Thật bi thảm cho những
ai từng là một tấm gương sáng và có đời sống ích lợi nhưng kết thúc cuộc đời
trong hổ thẹn. Có những người trẻ tuổi ngu dại cũng có những người già rồi vẫn
ngu dại, A-hi-tô-phe là một trong những người đó. Tất cả chúng ta cần cầu
nguyện xin Chúa giúp để chúng ta có một kết thúc tốt đẹp cho cuộc đời mình.
Bạn bè quan tâm đến
Đa-vít (IISa 17:24-29).
Đa-vít và những người theo ông băng qua sông đến Ma-ha-na-im, thủ đô cũ của 10
chi phái khi Ích-bô-sết, con trai Sau-lơ, làm vua
(IISa 2:8). Chính tại Ha-ma-na-im Gia-cốp đã
gặp đội binh thiên sứ của Đức Chúa Trời được sai đến để bảo vệ ông (Sa 32:1-22), nhưng Đa-vít không có khải tượng nào
giống như vậy. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời thường dùng những con người để giúp các
đầy tớ Ngài, và lần nầy những người đó là Sô-bi, Ma-ki và Bát-xi-lai. Họ cung
cấp lương thực cho vua và những người theo vua vì biết đây là những người đáng
cho họ quan tâm chăm sóc. Đức Chúa Trời dọn bàn cho Đa-vít khi các kẻ thù của
ông đang tiến gần (Thi 23:5).
Quân của Áp-sa-lôm chịu dưới sự chỉ
huy của A-ma-sa, cháu của Đa-vít và anh em họ của Giô-áp (c.25). Dĩ nhiên,
Áp-sa-lôm là người cầm quân chính (IISa 17:11).
Thật đáng buồn thay khi con nghịch cùng cha, cậu nghịch cùng cháu, anh em
nghịch cùng nhau và dân cùng một nước tranh chiến với nhau. Chiến tranh đã quá
bi thảm, nội chiến càng bi thảm hơn. Áp-sa-lôm và quân của ông ta vượt quan
sông Giô-đanh, định sẽ chạm trán với quân của Đa-vít
ở đâu đó gần khu rừng ờ Ép-ra-im, cách tây bắc Ha-ma-na-im khoảng 3 dặm. Rừng
Ép-ra-im có thể được đặt tên bởi những người Ép-ra-im băng qua sông và cư trú ở
bờ tây trong vùng Ga-la-át.
3. Con trai Đa-vít bị
giết chết (IISa 18:1-18)
Biết kẻ thù sắp đến,
Đa-vít đếm số quân của mình và chia thành 3 toán, rồi chọn Giô-áp, A-bi-sai và
Y-tai làm ba người chỉ huy của ba toán đó. Dù Áp-sa-lôm và A-ma-sa có dùng cách
đánh gì đi nữa, lính của Đa-vít cũng có thể theo đúng kế hoạch mà hỗ trợ nhau.
Đa-vít đã xung phong ra trận cùng lính
của mình, nhưng dân chúng khuyên ông hãy ở nơi an toàn trong thành có tường bao
bọc. (21:15-17, xảy ra đã lâu trước khi
Áp-sa-lôm phản nghịch). “Vua bằng một vạn chúng tôi”, dân chúng đã nói như vậy.
Họ biết quân của Áp-sa-lôm sẽ đuổi theo vua và không quan tâm đến quân lính.
Nếu Đa-vít ở trong thành, ông có thể gởi quân tiếp viện khi cần. Đa-vít nghe
theo quyết định của họ, dù sao ông cũng không muốn trực tiếp đánh nhau với con
trai mình.
Nhưng ông cũng không muốn quân lính
chiến đấu với con trai ông! Áp-sa-lôm đã đứng trước cổng thành Giê-ru-sa-lem và
tấn công cha mình (15:1-6) giờ đây Đa-vít
đứng trước cổng thành và chỉ huy binh lính nhân nhượng cho Áp-sa-lôm. Chắc chắn
Áp-sa-lôm không nhân nhượng cho cha mình! Ông ta đã giết Am-nôn, đánh đuổi
Đa-vít ra khỏi Giê-ru-sa-lem, chiếm ngôi của Đa-vít, cưỡng hiếp vợ lẻ của
Đa-vít, và bây giờ đang muốn ra tay giết Đa-vít. Dường như đó không phải là
loại người bạn muốn bảo vệ, nhưng nếu Đa-vít có phạm một sai lầm, thì sai lầm
đó là ông đã quá nuông chiều con cái (IVua 1:5-6
ISa 3:13). Nhưng trước khi chúng ta phê phán
Đa-vít, chúng ta phải nhớ rằng Đa-vít là người vừa lòng Đức Chúa Trời. Chúng ta
hãy biết ơn vì Cha chúng ta ở trên trời không đối đãi chúng ta theo tội lỗi của
chúng ta (Thi 103:1-14). Trong ân điển của
Ngài, Ngài ban cho chúng ta những điều chúng ta không đáng nhận được, và trong
lòng nhân từ thuơng xót của Ngài, Ngài không giáng trên chúng ta những điều
chúng ta đáng phải gánh chịu. Chúa Giê-xu không đáng phải chết, vì Ngài là vô
tội; nhưng Ngài đã gánh hình phạt thay cho chúng ta. Ngài là Cứu Chúa của chúng
ta!
Trận đánh lan tràn khắp vùng và
nhiều binh lính đã ngã xuống vì khu rừng dày đặc. Chúng ta không biết mỗi bên
có bao nhiêu binh lính ngã xuống, nhưng có thể đến 10 ngàn lính của Áp-sa-lôn
tử trận. Cả gươm đao và khu rừng đã ăn tươi nuốt sống quân lính (Phép ẩn dụ nầy
đã được sử dụng trong IISa 1:22 2:26). Nhưng Đức Chúa Trời không cần gươm để ngăn
Áp-sa-lôm phản nghịch; Ngài chỉ dùng một nhành cây! Cái đầu tóc của ông ta góp
phần gì cho tai nạn ấy không được chép lại, nhưng thật buồn cười là cái mà ông
từng tự hào đã trở thành phương tiện giết chết ông. Thật vậy, sự kiêu ngạo dẫn
đến sự đoán phạt. Một ví dụ khác là Sam-sôn (Cac
16:1-31). “Ngài bắt kẻ khôn ngoan trong chước móc họ, mưu kế của kẻ quỉ
quái bèn bị bại” (Giop 5:13).
Quân lính nhìn thấy Áp-sa-lôm bị
treo trên cây thì không dám chạm vào, nhưng Giô-áp phải thực hiện phần việc của
mình. Chính Giô-áp là người sắp xếp cho Đa-vít và Áp-sa-lôm giải hòa và giờ đây
Giô-áp bỏ qua lệnh của Đa-vít và giết chết Áp-sa-lôm. Áp-sa-lôm không nghe theo
kế hoạch của A-hi-tô-phe là “chỉ giết một mình vua”, nhưng Giô-áp làm theo điều
đó! Có một ý trong câu 11, đó là Giô-áp ra giá thưởng cho ai giết chết
Áp-sa-lôm. Người lính không chịu giết Áp-sa-lôm để nhận thưởng vì hai lý do:
anh ta không muốn cãi lệnh vua, và ông không chắc Giô-áp có bảo vệ anh ta hay
không khi vua phát hiện ra việc đó. Xét cho cùng, Đa-vít đã từng giết chết
người đã báo cho ông rằng Sau-lơ đã chết (IISa
1:1-16) cũng như giết hai người đã giết chết Ích-bô-sết, con trai Sau-lơ
(4:1), người lính ấy biết rằng Giô-áp không
muốn bị vướng vào chuyện ra lệnh giết con trai vua trong khi vua ra lệnh ngược
lại. Cái chết của Áp-sa-lôm đặt dấu chấm hết cho cuộc nội chiến và phản loạn,
như vậy Giô-áp cho quân mình rút về.
Cả Áp-sa-lôm và A-hi-tô-phe đều chết
trên cây, đối với người Y-sơ-ra-ên, treo mình trên cây là bằng chứng cho thấy
cái chết đó bị Đức Chúa Trời rủa sả (Phu 21:22-23
Ga 3:13). Khi bạn xét lại những tội mà hai
người nầy đã phạm, thì có ngạc nhiên không khi họ bị Đức Chúa Trời rủa sả? Tuy
nhiên trong ân điển Ngài, Đức Chúa Trời đã tha thứ cho Đa-vít với tội trạng
tương tự và cho ông được sống. Có lúc, Áp-sa-lôm là người nổi tiếng nhất trong
nước, nhưng cuối đời xác ông được chôn trong hố giữa rừng và bên trên là một
đống đá lớn. Hình như ba con trai của Áp-sa-lôm đều chết (IISa 14:27), nên không còn ai trong gia đình ông
lưu giữ danh ông ta; vì thế ông đã dựng một cái bia để lưu danh của chính mình
(c.18). Bia ban đầu không còn nữa, và phần mộ của Áp-sa-lôm, như được gọi, mà
chúng ta thấy ngày nay ở trũng Xếp-rôn có từ thời Hê-rốt. “Kỷ niệm người công bình được khen ngợi; song tên kẻ gian
ác rục đi” (Ch 10:7).
4. Lòng Đa-vít tan nát
(IISa 18:9-32)
Chiến tranh qua đi và
cuộc phản loạn đã được dập tắt. Tất cả những việc còn lại là của Giô-áp; ông
phải khai báo với vua và đem vua về Giê-ru-sa-lem an toàn. Nhưng đây là chiến
thắng với buồn vui lẫn lộn của Đa-vít. Khi kẻ thù là chính con trai mình, thì
không thể có chiến thắng và cũng không thể ăn mừng chiến thắng.
A-hi-mát là người đưa
tin (“người chạy”) nổi tiếng (c.27) đã tình nguyện chạy báo tin cho vua ở Ma-ha-na-im,
đoạn đường dài khoảng 3 dặm. Là một thanh niên đầy lòng nhiệt tình, anh ta
không hiểu rõ vua đang nói gì; vì Đa-vít có tiếng
là người hay trút cơn giận và sự buồn phiền trên người đưa tin (1:4-16 4:8-12)!
Dù câu nói “Mọi sự may mắn” của A-hi-mát có thể ngụ ý một tin vui, như thường
gặp, nhưng hôm ấy không có một tin vui nào. Giô-áp
hiểu rõ vua của mình và biết rằng tin về cái chết của Áp-sa-lôm phải được báo
với lòng trắc ẩn và sự khéo léo. Để giữ an toàn cho A-hi-mát, Giô-áp chọn một
người chỉ được biết là “Cu-si”, có lẽ là một trong đầy tớ riêng của Giô-áp. Thà
một người ngoại bang bị giết còn hơn là con trai của nột thầy tế lễ Do Thái.
Tuy nhiên sau khi Cu-si đi khỏi, A-hi-mát tiếp tục làm phiền Giô-áp và xin phép
được đi báo tin. Không có thưởng hay phạt gì cho việc báo tin nầy, vậy sao phải
đi? Mệt mỏi vì phải nghe lời cầu xin của người thanh niên trẻ ấy, Giô-áp đã cho
phép anh ta đi.
A-hi-mát nhắc chúng ta
nhớ những người thích quấy rầy, muốn tỏ ra mình quan trọng nhưng không biết
phải nói gì. Anh ta đi đường chính, dài hơn dễ đi hơn, đến Ma-ha-na-im băng qua
trũng, trong khi Cu-si đi đường tắt, ngắn hơn, hiểm trở hơn. A-hi-mát và Cu-si
đều không biết tin chính xác và cũng không biết cách báo tin cho thật khéo léo
tế nhị. Khi Cu-si chạy đi, anh ta suy nghĩ cách nói cho vua biết tin con trai
vua đã chết. Chạy còn ý nghĩa gì nếu bạn không biết cách báo tin?
Bối cảnh chuyển sang
Ma-ha-na-im, nơi đó Đa-vít đang ngồi nửa trong nửa ngoài cổng thành, và chờ tin
từ chiến trường. Dù không chuẩn bị sẽ báo tin thế nào, nhưng A-hi-mát cố gắng
chạy về trước Cu-si. Đa-vít nói, “Ấy là một người tử-tế, người chắc đem tin
lành” (c.27). Rõ ràng tính cách của người đưa tin không có liên quan gì đến nội
dung của tin tức, nhưng Đa-vít đang cố nắm bắt tia hy vọng dù mong manh.
Trước khi đến cổng
thành, A-hi-mát quá vội báo tin đến nổi anh ta la lớn, “Mọi sự may mắn”. Sau đó
ông chạy đến quỳ trước mặt vua và báo với vua rằng Giô-áp đã thắng trận. Khi
Đa-vít hỏi về Áp-sa-lôm, người đưa tin không chuẩn bị tinh thần để báo tin buồn
nầy, nên anh ta cố lãng tránh. Cuối cùng anh ta không nói được điều Đa-vít rất
muốn nghe. Anh ta nói đúng nhưng không đủ. Anh ta phải đứng một bên để chờ
Cu-si đem đúng tin và đến đúng lúc.
Trong chức vụ của tôi,
đôi lúc tôi buộc phải làm người đem tin buồn đến cho người khác. Tôi có thể tập
trung cầu nguyện, cân nhắc, và ẩn mình nơi yên tĩnh để nghĩ xem phải nói sao
cho giảm nhẹ được nổi buồn cho người nghe. Việc ấy không hề dễ dàng chút nào.
Một số người định nghĩa “tài xử trí” là “một năng khiếu nêu rõ vấn đề mà không
gây thù địch”, và Cu-si là một người có tài xử trí.
Kinh Thánh chép rằng
Đa-vít đã “rất cảm thương” khi biết rằng Áp-sa-lôm đã chết. Chắc chắn ông đã cầu xin cho chuyện tồi tệ nhất ấy không xảy ra, nhưng nó đã
xảy ra. Trong một chiều hướng, Đa-vít đã tự tuyên án cho mình khi nói với
Na-than, “Hắn phải thường bốn lần giá chiên con” (IISa
12:6), vì đây là sự trả giá cuối cùng trong món nợ lớn của Đa-vít. Con
sơ sinh chết, Ta-ma bị cưỡng hiếp, Am-nôn bị giết và giờ đến lượt Áp-sa-lôm cũng
chết. Một lần nữa Đa-vít đã nếm nổi đau của tội lỗi đã được tha thứ.
Nhưng nước mắt của Đa-vít cho thấy
trái tim của một người cha thương con đang tan nát. Nói về nỗi đau buồn của
Đa-vít, Charles Spurgeon đã nói, “Biết thông cảm nhiều như bạn có thể khôn
ngoan hơn là ngồi xét đoán trường hợp mà không bao giờ là của mình.” Đa-vít
khóc khi ông nghe tin về cái chết của Giô-na-than và Sau-lơ (1:11-12), Áp-ne (3:32),
và Am-nôn (13:33-36), vậy thì làm sao ông
lại không khóc cho cái chết của Áp-sa-lôm con trai yêu dấu của mình? Một lần
nữa chúng ta thấy tấm lòng của Đức Chúa Trời được mặc khải qua tấm lòng của
Đa-vít, vì Đấng Christ chết thay cho chúng ta khi chúng ta là những tội nhân và
nghịch cùng Đức Chúa Trời (Ro 5:7-10).
Đa-vít ước có thể chết thay cho Áp-sa-lôm, nhưng Chúa
Giê-xu đã chết thay cho chúng ta rồi!
Vấn đề của Đa-vít không
phải ông đau buồn vì con trai mình, vì sự đau buồn là một phản ứng rất con
người và nước mắt là một liều thuốc rịt lành nổi đau. Vấn đề của ông là ông đau
buồn quá mức và không để mình được an ủi. Phản ứng của ông không bình thường.
Ông bỏ bê chính mình, trách nhiệm của mình và phải bị Giô-áp trách cứ trước khi
quay bước về Giê-ru-sa-lem và giải cứu đất nước. Những rắc rối của ông đã qua
đi, nhưng Đức Giê-hô-va thêm sức cho ông để trở thành một nhà lãnh đạo mà Ngài
muốn ông trở thành.
Đức Giê-hô-va có thể
chữa lành tấm lòng tan vỡ, nếu chúng ta giao phó cho Ngài và bởi đức tin vâng
phục Ngài.
9. ĐA-VÍT TRỞ VỀ VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC ĐỔI MỚI (IISa 19:1-40)
Chủ đề được lập đi lập lại
trong đoạn nầy là việc “đem vua trở về” (c.10,11,13,15,41). Đa-vít đã băng quan
sông Giô-đanh đến Ma-ha-na-im, nhưng ông vẫn thuộc về Giê-ru-sa-lem. Tất cả các
chi phái, kể cả chi phái Giu-đa của Đa-vít, đã góp phần trong sự phản nghịch
của Áp-sa-lôm ở chừng mực nào đó; bây giờ là lúc họ trở về. Những năm tháng
chiến tranh đã khiến cho Y-sơ-ra-ên mâu thuẩn nhau sâu sắc, rất cần sự hiệp một
và lòng trung thành. Đoạn nầy mô tả quá trình xây dựng đất nước qua 5 bước mà
Đa-vít đã thực hiện.
1. Đa-vít tập trung vào
viễn cảnh của mình (IISa
19:1-8)
Một mục sư người
Xcốt-len, Andrew Bonar (1810-1892) thường nói, “Chúng ta phải cảnh giác sau
thắng lợi cũng giống như trước khi bước vào trận chiến”. Có thể thắng trận
nhưng không chiến thắng, điều nầy xảy ra với Đa-vít sau khi Giô-áp đánh bại
Áp-sa-lôm và đội quân của ông ta. Ngày lẽ ra là ngày mừng chiến thắng đối với
đội quân của Đa-vít lại trở thành ngày
buồn bã, ngượng ngùng và xấu hổ; dân chúng lặng lẽ trở về thành như thể họ chịu
nhục nhã vì thất trận. Họ đã liều mạng sống mình cho vua và đất nước, bây giờ
bị đối xử như những tội phạm!
Rất có thể Đa-vít không nhạy cảm với
những hy sinh mà quân lính của ông dành cho ông (23:13-17
ISa 30:21-30), nhưng hôm đó Đa-vít quá bị ám
ảnh với cái chết của Áp-sa-lôm đến nổi ông không còn nghĩ đến điều gì khác. Qua
việc lánh mặt mọi người, Đa-vít đã biến chiến thắng về quân sự trở thành thất
bại về mặt tình cảm. Đa-vít không chỉ là một chiến binh vĩ đại mà còn là một
nhà thơ, một nhạc sĩ, là người có cảm xúc mạnh mẽ; có thể đi từ vực sâu của
tuyệt vọng rồi lên đến đỉnh vinh quang trong khi làm thơ. Đa-vít đã trải quan
thời gian đau khổ sau cái chết của Am-nôn (IISa
13:37-39), và cái chết của con trai Áp-sa-lôm, những người ông yêu
thương nhất khiến ông không thể nguôi được nổi buồn. Thái độ của Đa-vít làm
những người theo ông bối rối, vì họ luôn xem Áp-sa-lôm là kẻ nói dối, giết
người, phản bội và phiến loạn.
Chắc chắn chúng ta mong muốn người
cha phải đau buồn trước cái chết bi thảm của đứa con và tha thứ cho những lỗi
lầm và tội lỗi của con. Nhưng người lãnh đạo phải đứng vững, dù lòng họ có tan
nát; đó là một trong những cái giá mà những người lãnh đạo phải trả. Vào ngày
10 thánh 10 năm 1950, Winston Churchill được giới thiệu trước trường Đại học
Copenhagen như một “nhà tạo nên chiến thắng” trong Chiến Tranh Thế Giới thứ
hai. Churchill đã trả lời rằng: “tôi chỉ là một đầy tớ của đất nước tôi và nếu
giây phút nào đó, tôi không thể hiện được quyết tâm không nao núng để đánh trận
và chinh phục, thì tôi sẽ bị đào thải”. Người cha Đa-vít quên rằng ông cũng là
một vua Đa-vít và ông còn có vương miện trên đầu bởi binh lính can đảm của ông
đã đặt lợi ích của đất nước lên trên quyền lợi của cá nhân họ.
Lời nói đột ngột và sắc bén của
Giô-áp đã kéo Đa-vít trở về thực tại, Đa-vít chổi dậy ngồi ở cửa thành nơi đó
những người theo Đa-vít đã đến gặp ông và ở đó Đa-vít biết được sự phục vụ can
đảm của họ. Có thể Đa-vít chưa biết chính Giô-áp đã bố trí giết và chôn
Áp-sa-lôm, nếu không phản ứng của ông đã khác. Không lâu sau Đa-vít biết được những
việc Giô-áp và lính của mình đã làm và điều đó khiến ông sớm đưa A-ma-sa lên
làm quan tổng binh của đội quân (c.13 IVua 2:5).
Một điều thiếu sót trong toàn bộ
tình tiết về Áp-sa-lôm là việc Đa-vít tìm kiếm ý muốn Đức Chúa Trời khi ông đưa
ra quyết định. Khi còn trẻ Đa-vít thường cậy vào U-rim và Thu-mim hoặc xin lời
khuyên của tiên tri, nhưng ngoài lời cầu nguyện trong IISa
15:31, chúng ta không thấy Đa-vít cầu xin sự hướng dẫn nào. Dĩ nhiên,
trong những bài thi thiên có chép về những nổi bận tâm và những lời cầu nguyện
của ông, nên chúng ta biết Đa-vít đã không dựa vào sức riêng và những người
lãnh đạo của mình. Nhưng chúng ta mong Đa-vít tìm sự hướng dẫn của Đức Chúa
Trời khi xử lý Áp-sa-lôm và những vấn đề ông ta gây ra. Khi phải giải quyết các
con trai mình, Đa-vít cần sự giúp đỡ nhất, nhưng có lẽ ông không thừa nhận nó.
Không bao giờ quá trễ cho Đức Chúa Trời hành động.
2. Đa-vít nổ lực vì sự
thống nhất đất nước (IISa
19:5-15)
Cuối cùng Đa-vít đã về
đến Giê-ru-sa-lem, đây là dấu hiệu cho dân chúng thấy được rằng cuộc phản loạn
đã kết thúc, và vị vua thật của họ đã lấy lại được ngai vàng. Nhưng trên đường
về Giê-ru-sa-lem, Đa-vít phải đưa ra nhiều chiếu chỉ quan trọng và các sứ giả
tín cẩn đã loan truyền cho dân chúng. Chiếu chỉ thứ nhất, Đa-vít muốn đất nước
mình là một đất nước thống nhất. Những thành kiến và oán thù trước đây phải bị
chôn vùi, và dân sự phải một lòng phò tá vua. Trong vòng các chi phái đã có sự
chia rẽ nhau, người theo Áp-sa-lôm người theo Đa-vít (câu 9-10), và sự chia rẽ
giữa 10 chi phái (Y-sơ-ra-ên) và Giu-đa vẫn còn tồn tại.
Đa-vít bắt đầu với
Giu-đa (IISa 19:11-12).
Những lãnh đạo từ 12 chi phái nên đồng lòng có lời mời chính thức để Đa-vít trở
về và tiếp tục cai trị đất nước, nhưng những cuộc tranh cãi giữa các đảng phái
và những xung đột giữa các chi phái đang gây lộn xộn cho đất nước. Đa-vít biết
rằng nếu còn chần chờ vấn đề càng thêm rắc rối, nên ông đã bắt tay ngay vào
việc. Xét cho cùng ông là vua được Đức Chúa Trời xức dầu (c.22) và không cần
trưng cầu ý dân trước khi dựng dậy vương triều đã ngã.
Giu-đa là chi phái nhà
vua (Sa 49:10), Đa-vít xuất thân từ chi phái nầy, kinh đô của ông tại
Giu-đa và chính các trưởng lão ở Giu-đa là những người đầu tiên lập Đa-vít lên
làm vua (IISa 2:1-4), nên trước hết ông cần
đến sự trợ giúp của các trưởng lão ở Giu-đa là điều hợp lý. Với hai thầy tế lễ
của mình làm trung gian, Đa-vít nói với các trưởng lão Giu-đa rằng dân
Y-sơ-ra-ên ở các chi phái khác đang nói về sự trở lại
Giê-ru-sa-lem của vua, nhưng vua không nghe lời nào từ chi phái của chính mình,
và các lãnh đạo Giu-đa phải hợp tác với vua, nên đây phải là lúc họ bày tỏ lòng
trung thành đối với Đa-vít, vua hợp pháp của họ. Có thể tất cả những lãnh đạo ở
các chi phái từng ngu muội đi theo Áp-sa-lôm đang phân vân không biết Đa-vít sẽ
làm gì họ một khi đã lấy lại được ngai vàng.
Đa-vít chọn A-ma-sa
làm quan tổng binh (IISa 19:13-14). Tin
tức về sự chọn lựa nầy có lẽ làm những người lãnh đạo trong nước ngạc nhiên lắm
và đã cất đi gánh nặng của họ, vậy là Đa-vít tha thứ cho tất cả những quan quân
từng đi theo Áp-sa-lôm. A-ma-sa từng là quan tổng binh của Áp-sa-lôm được giao
nhiệm vụ rượt đuổi và tìm giết Đa-vít, nhưng bây giờ Đa-vít đã chọn ông ta
(cháu của Áp-sa-lôm và anh em họ của Giô-áp) làm người lãnh đạo cho đội quân
lớn mạnh của mình.
Nhưng tại sao không chọn
Giô-áp? Vì lý do thứ nhất, Đa-vít biết được chính Giô-áp đã bất tuân lệnh vua
mà giết chết Áp-sa-lôm. Dù Áp-sa-lôm là kẻ đáng chết, nhưng phải bị bắt sống và
dẫn ông ta về cho Đa-vít xử tội; Giô-áp không có quyền trái lệnh vua và tự xử
lý như một đao phủ. Nếu Giô-áp làm được điều nầy với con vua, thì ông còn có
thể làm điều gì khác với chính vua? Điều đó kéo theo lý do thứ hai: Giô-áp dần
dần làm cho quyền hạn của mình tăng lên
vì Đa-vít được khuyên không nên đích thân ra đánh trận (IISa 21:15-17).
Phương Đông ngày xưa, vua là người
cầm quân chính của đội quân mình, và bất kỳ người nào giữ vị trí nầy, dù với
bất cứ lý do gì, đều là người có quyền và được kính trọng. Chính Giô-áp đã bảo
Đa-vít đến Ráp-ba để thực hiện cuộc chinh phục cuối cùng; nếu không Giô-áp sẽ
chiếm thành đó và lấy tên mình đặt cho nó! trong thời gian đánh trận ở rừng
Ép-ra-im Giô-áp có ít nhất 10 người vác binh khí theo mình (18:15)! Giô-áp có tiếng là người thích trừ khử bất
kỳ người nào đe dọa đến quyền hạn của mình. Ông ta và em trai A-bi-sai đã giết
Áp-ne, quan tổng binh của Sau-lơ (3:2); và
trước khi câu chuyện kết thúc, Giô-áp sẽ giết chết A-ma-sa (20:4-13).
Giô-áp và các em trai mình, dù là
những chiến binh có năng lực, đã gây đau khổ cho Đa-vít ngay những ngày đầu lên
ngôi (3:39 16:10
19:22). Dĩ nhiên, Giô-áp biết tất cả về vụ
giết hại U-ri (11:14), và có lẽ thông tin đó
đã làm tăng sức mạnh cho ông. Khi ông giết Áp-sa-lôm Giô-áp đã đi quá xa, và
Đa-vít thấy đây là cơ hội để loại bỏ quan tổng binh tham quyền nầy và đưa
A-ma-sa, người lãnh đạo đội quân phản nghịch, lên thay vị trí đó. Đa-vít đã hợp
nhất hai đội quân và tuyên bố ân xá cho tất cả những binh lính phiến loạn, đem
lại cho đất nước một sự khởi đầu mới.
Khi các chi phái khác tranh cãi và
trì hoãn, dân sự trong chi phái Giu-đa một lòng ủng hộ Đa-vít, và họ chính thức
mời Đa-vít trở về. Đa-vít đi xuống Giô-đanh, gần Ginh-ganh, dân Giu-đa đón tiếp
người ở đó. Ginh-ganh cách Giê-ru-sa-lem không đến 20 dặm, là thành phố quan
trọng trong lịch sử Do Thái. Ở đó, những người nam thuộc thế hệ mới đã bước vào
giao ước với Đức Giê-hô-va và chịu cắt bì (Gios
3:1-5:15), và chính tại Ginh-ganh, Sa-mu-ên đã phục hồi giao ước khi
Sau-lơ lên làm vua (ISa 11:14-15). Kinh
Thánh không nhắc đến, nhưng có lẽ Đa-vít cũng đã tái lập giao ước tại Ginh-ganh
và cam đoan với dân sự rằng Đức Giê-hô-va vẫn trên ngôi của Ngài và Lời Ngài
vẫn còn có hiệu lực. Có lẽ đây chính là lúc vua lập lại lời hứa nguyện. Vì suốt
phần còn lại của sách nầy chúng ta sẽ thấy Đa-vít
không buông lơi nhiệm vụ.
3. Đa-vít ban lệnh ân
xá (IISa 19:16-23)
Không chỉ những người
Giu-đa tại Giô-đanh tiếp đón Đa-vít, mà Si-mê-i người Bên-gia-min, kẻ thù ông,
cũng ở đó với hàng ngàn người từ chi phái của ông
“(16:5-14). Xíp-ba, người giữ đất cho
Mê-phi-bô-sết (9:1-10) cũng có mặt trong đám
đông cùng với 15 con trai và 20 đầy tớ của ông ta, và họ vượt qua sông để đón
Đa-vít và hộ tống ông về bờ bên đây. Có người cho bè qua lại để đón vua và
người nhà của vua qua sông Giô-đanh. Khi Đa-vít đến được bờ tây của sông, Si-mê-i
phủ phục và xin ông tha thứ.
Chắc chắn Si-mê-i đáng phải chết vì
cách ông đối đãi với vua (Xu 22:28), và
A-bi-sai đang sẵn sàng ra tay, nhưng Đa-vít ngăn cháu mình như đã làm trước đây
(IISa 16:9). Lần đầu tiên Đa-vít ngăn
A-bi-sai, lý do của ông là Đức Giê-hô-va đã bảo Si-mê-i rủa sả vua, nên Đa-vít
xem lời sỉ nhục của ông ta như đến từ Đức Chúa Trời. Nhưng lần nầy lý do của
ông là tha cho Si-me-i vì hôm nay là ngày vui mừng, không phải là ngày báo thù.
Nhưng trên hết, qua việc tha thứ cho Si-mê-i, vua Đa-vít muốn ban lệnh ân xá
cho tất cả những ai từng ủng hộ Áp-sa-lôm trong cuộc phản nghịch.
Đa-vít đã giữ lời và không sai giết
Si-mê-i vì tội của ông ta, nhưng khi Đa-vít sắp qua đời, ông nhắc Sa-lô-môn để
mắt đến Si-mê-i (IVua 2:8-9). Sa-lô-môn giam
lỏng ông ta, không cho ông ta ra khỏi Giê-ru-sa-lem, nhưng Si-mê-i không vâng
lệnh, ông đã bị bắt và giết chết (IVua 2:36-46).
Si-mê-i có một khuyết điểm là chống lại nhà cầm quyền và xem thường những người
mà Đức Chúa Trời chọn lựa (Cac 8:1-35), đó
là lý do Đa-vít cảnh giác Sa-lô-môn. Si-mê-i không cảm kích lòng khoan dung của
Đa-vít hay ân huệ của Sa-lô-môn, tính độc lập và kiêu ngạo của ông ta cuối cùng
đã làm hại chính ông ta.
4. Đa-vít sửa chữa sai
lầm IISa 19:24-30)
Mê-phi-bô-sết, hoàng tử
tật nguyền, đã được nhận vào nhà Đa-vít và được ăn nơi bàn của vua (9:1), ân huệ nầy Đa-vít
muốn dành để tỏ lòng kính trọng Giô-na-than, cha của Mê-phi-bô-sết và là bạn
thân thiết của Đa-vít. Khi Đa-vít làm vua toàn cõi Y-sơ-ra-ên, ông thừa huởng
tất cả những gì trước đây thuộc về Sau-lơ, kể cả ruộng đất của ông ta, và miếng
đất mà Đa-vít cho lại Mê-phi-bô-sết để ông và gia đình ông sinh sống. Đa-vít ra
lệnh cho Xíp-ba chăm lo ruộng đất của Mê-phi-bô-sết và nghe theo lệnh của
Mê-phi-bô-sết, ông ta đã hứa làm theo. Nhưng khi Đa-vít trốn khỏi
Giê-ru-sa-lem, Xíp-ba đã bỏ chủ mình mà chạy theo giúp Đa-vít và binh lính của
Đa-vít. Trong thời gian đó, Đa-vít đã có một quyết định vội vàng và giao tất cả
ruộng đất đó cho Xíp-ba (IISa 16:1-4).
Xíp-ba cũng đã giúp Đa-vít qua sông và trở về triều (19:17).
Không có Xíp-ba giúp đỡ,
Mê-phi-bô-sết khó có thể nào vượt 20 dặm từ Giê-ru-sa-lem đến Giô-đanh, nhưng
ông ta đã làm được. Ông biết Xíp-ba đã vu khống rằng ông đang mong chờ cuộc
phản loạn thành công và vương miện của Sau-lơ sẽ trở về nhà Sau-lơ.
Mê-phi-bô-sết muốn có cơ hội trực tiếp giải bày với Đa-vít, phủ nhận lời vu cáo
của Xíp-ba và khẳng định lòng trung thành của mình với vua, ông đã làm được tất
cả điều đó. Câu nói lập đi lập lại của ông “Ôi vua chúa tôi” xuất phát từ tấm
lòng ông. Mê-phi-bô-sết luôn trung thành với vua.
Khi Đa-vít nghe Mê-phi-bô-sết giải
bày, ông nhận ra mình đã vội vàng quyết định giao hết đất cho Xíp-ba, nhưng
Đa-vít không có thời gian để giải quyết vấn đề nầy. Mê-phi-bô-sết tỏ rõ lòng
mình rằng ông không cầu xin vua bất cứ điều gì. Vua đã ban cho ông cuộc sống
nầy, ông còn đòi hỏi gì hơn? Câu nói của ông có thể được diễn giải như vầy:
“Tôi đã nhận nhiều hơn những gì tôi đáng được nhận, tôi còn cần đến ngai vàng
làm gì? Tôi lẽ ra phải chết, nhưng vua không chỉ cho tôi sống mà còn đem tôi
vào nhà của vua.”
Câu trả lời của Đa-vít thật khó
hiểu. Mới nghe có thể hiểu rằng “Không cần xét lại chuyện nầy làm gì nữa. Đất
ấy sẽ được chia đôi cho ngươi và Xíp-ba”. Nhưng có phải Đa-vít là loại người
nói hai lời? Làm thế nào để quyết định đó được hàng ngàn người Bên-gia-min có
mặt ở đó chập nhận? Xét cho cùng, làm ơn cho Mê-phi-bô-sết sẽ củng cố mối quan
hệ giữa Đa-vít và chi phái Bên-gia-min (chi phái của Sau-lơ) cũng như với 10
chi phái từng ủng hộ nhà Sau-lơ. Lấy phân nửa cơ nghiệp của Mê-phi-bô-sết thật
không hợp với không khí vui mừng và khoan dung hôm đó, nhưng chia đất như vậy
cũng chứng tỏ Đa-vít đã tha thứ cho Xíp-ba vì tội nói dối và phản chủ. Giải
quyết bằng cách chia đôi đất cho hai người, Đa-vít gỡ được mối rối ấy cách dễ
dàng.
Nhưng câu đáp lời của Mê-phi-bô-sết
hẳn đã làm Đa-vít ngạc nhiên, “Xíp-ba lấy hết cũng được, bởi vì vua chúa tôi đã
trở về nhà mình bình an vô sự” (c.30). Trường hợp nầy nhắc chúng ta nhớ “vụ đứa
con chết ngạt” mà Sa-lô-môn xét xử (IVua 3:16-28).
Khi ông quyết định chia đứa trẻ ra làm hai, người mẹ thật của đứa bé đã bảo vệ
con mình, và đó là cách Sa-lô-môn xác định ai là mẹ thật. Không giống đứa bé
sống động, đất có thể chia đôi mà không tổn hại gì đến nó; nhưng có lẽ Đa-vít
muốn thử lòng Mê-phi-bô-sết. Kinh Thánh không cho chúng ta biết, nhưng có lẽ
Mê-phi-bô-sết đã nhận lại được tất cả phần đất trước đây của mình. Dù sao,
Xíp-ba là người làm việc trên miếng đất đó để chăm lo
cho Mê-phi-bô-sết.
5. Đa-vít ban thưởng
cho người trung thành (IISa
19:31-40)
Bát-xi-lai là một trong
ba chủ đất mà Đa-vít gặp khi ông đến Ma-ha-na-im, họ cùng nhau chu cấp vật thực
cho Đa-vít và quân lính của ông (17:27-29). Ông đã trở về nhà mình ở Rô-ghê-lim,
khoảng từ 20 đến 25 dặm về phía Bắc. Khi ông nghe tin Đa-vít sẽ trở về
Giê-ru-sa-lem, ông đã xuống đến nơi để tiễn. Không giống Si-mê-i, ông không có
tội để xin vua tha thứ, cũng không bị hiểu lầm để giải bày như Mê-phi-bô-sết.
Bát-xi-lai không muốn nhận ân huệ nào của vua. Tất cả những gì ông muốn là vui
mừng tiễn vua về cung trong sự bình an, và biết rằng chiến tranh đã kết thúc.
Hai quảng đường cả đi và về thật quá khó khăn cho cụ già 80 tuổi, nhưng ông
muốn dành cho vua điều tốt đẹp nhất.
Đa-vít muốn ban thưởng cho
Bát-xi-nai; muốn dẫn ông về cung ở Giê-ru-sa-lem để chăm sóc. Đa-vít không chỉ
muốn tỏ lòng biết ơn của mình, nhưng khi có được người quan trọng như vậy ở
Giê-ru-sa-lem sẽ thắt chặt thêm tình thân với cư dân ở Trans-Jordan trong thời
gian thống nhất đất nước là điều quan trọng nhất. Nhưng Bát-xi-lai từ chối lời
đề nghị của Đa-vít vì viện lý do tuổi già. Những người già thường không muốn xa
quê hương nguồn cội, và họ muốn được chết nơi quê nhà và được chôn chung với
những người họ thương yêu. Ở tuổi đó, Bát-xi-lai không còn thích cuộc sống tiện
nghi trong cung, và ông sẽ chỉ là gánh nặng cho vua, là người có quá nhiều
chuyện phải lo lắng.
Tuy nhiên, Bát-xi-lai vui lòng cho
con trai ông, Kim-ham, theo vua trở về Giê-ru-sa-lem (IVua
2:7). Điều Bát-xi-lai không cần cho chính mình, ông sẵn sàng dành cho người
khác. Matthew Harry có nói, Những người già không nên ganh tị với những người
trẻ tuổi về những niềm vui mà mình đã trải qua rồi, cũng không nên bắt buộc họ
rút lui như mình đã rút lui.” Bát-xi-lai qua sông với Đa-vít và Kim-ham và đi
theo một quãng ngắn nữa trước khi nói lời từ biệt, Đa-vít ôm hôn và chúc phước
cho Bát-xi-lai, người bạn và người ơn của mình. Trong thời Giê-rê-mi, có một
địa điểm có tên là trạm Kim-ham (nơi ở của Kim-ham) gần Bết-lê-hem (Gie 41:17), có thể đây là nơi con trai của Bát-xi-lai
đã cư ngụ cùng gia đình mình.
Nhưng những rắc rối của Đa-vít chưa
chấm hết, vì mối thù truyền kiếp giữa 10 chi phái (Y-sơ-ra-ên) và Giu-đa lại
nổi lên gây ra một cuộc nội chiến khác. Shakespeare thật đúng khi nói rằng,
“Đầu đội vương miện thật không dễ gì yên ổn”.
10. NHỮNG TRẬN CHIẾN
MỚI CỦA ĐA-VÍT (IISa 19:41-21:22) (ISu 20:4-8)
Một nhà thơ hài hước,
Ogden Nash đã gióng một tiếng chuông khi ông viết rằng: “Con người có thể vượt
qua những trở ngại bình thường trong cuộc sống, miễn là đó không phải những trở
ngại do chính họ gây ra cho mình”.
Khi chúng ta đọc về cuộc
đời sau nầy của Đa-vít, chúng ta có thể thấy chân lý của câu nói nấy. Tất cả
bậc cha mẹ đều gặp phải những vấn đề có thể biết trước được với con cái mình,
nhưng tội lỗi của con cái Đa-vít dường như đã lập kỷ lục, đặc biệt những tội
lỗi của Áp-sa-lôm. Tất cả những người lãnh đạo thường có vấn đề với những người
theo mình, nhưng trong trường hợp của Đa-vít, tranh chiến trong Y-sơ-ra-ên
nhiều lần xảy ra giữa các anh em với nhau. Hậu quả của tội lỗi thật sự gây
nhiều đau khổ! Những đoạn nầy mô tả 4 cuộc chiến khác nhau mà Đa-vít phải đương
đầu sau khi cuộc phản nghịch của Áp-sa-lôm bị dẹp tan.
1. Xung đột giữa các
chi phái (IISa 19:41-43) (IISa 19:41-20:4,14-26)
Một cuộc khủng hoảng có
thể đem lại điều tốt lành cho người nầy nhưng điều rũi ro cho người khác. Những
đại diện của các chi phái tập trung tại Ginh-ganh để hộ tống vua về
Giê-ru-sa-lem, và thay vì cùng vui mừng trong sự đắc thắng mà Đức Chúa Trời ban
cho dân sự Ngài, các chi phái lại đang tranh cạnh với nhau. “Dân Y-sơ-ra-ên” là
dân thuộc 10 chi phái phía bắc, và họ nổi giận với chi phái Giu-đa ở phía nam,
việc nầy cũng lôi kéo cả chi phái Si-mê-ôn. Y-sơ-ra-ên nổi giận vì Giu-đa không
chờ họ đến hiện trường để hộ tống Đa-vít về Giê-ru-sa-lem. Giu-đa đã “lén đem vua” đi mà đã bỏ quên và làm bẽ mặt 10 chi phái khác. Giu-đa
trả lời rằng Đa-vít xuất thân từ chi phái của họ, nên họ phải có trách nhiệm
quan tâm đến ông nhiều hơn. Y-sơ-ra-ên lại tranh cãi rằng họ có đến 10 chi phái
còn Giu-đa chỉ có 1, như thể vua là một vật bảo đảm trong thị trường chứng
khoán. Dường như không ai khuyên các chi phái phải cầu xin Đức Giê-hô-va giúp
đỡ và nhớ rằng Ginh-ganh là nơi Y-sơ-ra-ên đã có một khởi đầu mới trong thời
Giô-suê (Gios 3:1-5:15).
Cuộc xung đột giữa Giu-đa và
Y-sơ-ra-ên có nguồn gốc sâu xa, giống như những cuộc xung đột chính trị giữa
các nước ngày nay. Khi vua Sau-lơ triệu tập đội quân đầu tiên của mình, đã có
sự phân chia giữa Y-sơ-ra-ên và Giu-đa (ISa 11:8),
và sự chia rẽ nầy tồn tại suốt trong thời trị vì của người (IISa 15:4 17:52
18:16). Sau khi Sau-lơ qua đời, 10 chi phái
Y-sơ-ra-ên ủng hộ Ích-bô-sết, con trai Sau-lơ, trong khi Giu-đa ủng hộ Đa-vít (IISa 2:10-11). Dĩ nhiên chi phái Giu-đa đang vâng
theo ý muốn của Đức Chúa Trời, vì Ngài đã chọn Đa-vít làm vua kế vị của nước
Y-sơ-ra-ên. Sự đối địch nầy tồn tại cả trong thời Đa-vít (11:11 12:8).
“Một nước mà chia xé nhau thì bị phá hoang; một thành hay là một nhà mà chia xé
nhau thì không còn được” (Mat 12:25). Khi
Rô-bô-am lên làm vua kế vị Sa-lô-môn, cha mình, sự rạn nứt càng lớn hơn và đất
nước bị chia thành hai nước Giu-đa và Y-sơ-ra-ên.
Tất cả những gì cần để ngọn lửa thù
địch ấy bùng phát là lời nói của một người thích trở thành nhà lãnh đạo, và
Sê-ba là người lãnh đạo đó. Là người Bên-gia-min, ông có thiện cảm với nhà
Sau-lơ, và có thể ông là một quan chức trong đội quân phía bắc. Nếu 10 chi phái
ly khai khỏi đất nước, có lẽ ông dễ trở thành quan tổng binh quân đội của họ.
Sê-ba không tuyên chiến; tất cả những gì ông ta làm là giải tán đội quân và
những cư dân xuất thân từ các chi phái phía bắc và bảo họ đừng theo Đa-vít nữa.
Nhưng trong bản chất đó là một lời tuyên chiến, vì Sê-ba đi khắp các chi phái
phía bắc để kêu gọi người theo mình (c.14). Rõ ràng không có nhiều người đáp
ứng, Sê-ba và những người theo ông kết thúc cuộc đời họ tại thành A-bên, nơi có
tường bao quanh.
Giô-áp một lần nữa chỉ huy quân của
Đa-vít đuổi theo Sê-ba đến A-bên, và bắt đầu bao vây nó. lần thứ ba trong “câu
chuyện về Đa-vít”, người một phụ nữ đã làm thay đổi chiều hướng của sự việc.
A-bi-ga-in là người đầu tiên (ISa 25:1-44),
và người đàn bà ở Thê-cô-a là người thứ hai (IISa
14:1-33). Một người phụ nữ khôn ngoan đứng trên bờ thành mà gọi Giô-áp
và đoan chắc với ông rằng thành của cô không hề liên minh với bất kỳ kẻ phiến
loạn nào và vì vậy không đáng bị tấn công. Có lẽ nàng nghĩ đến luật pháp trong Phu 20:10-16 có qui định rằng trước hết phải giảng
hòa trước khi muốn tấn công thành nào. Khi Giô-áp giải thích rằng ông chỉ đuổi
theo một mình Sê-ba, nàng thuyết phục dân trong thành giết kẻ phản nghịch để
cứu thành của mình. Tuy nhiên, Sê-ba không phải là kẻ giơ đầu chịu báng; là kẻ
phản nghịch lại nhà vua nên ông ta đáng phải chết. Sê-ba muốn đứng đầu đội
quân, nhưng cuối cùng đầu của ông ta bị ném qua tường thành.
Đoạn nầy kết thúc với danh sách thứ
hai, liệt kê tên các quan chức của Đa-vít (IISa
8:15-18), và có hai tên mới được bổ sung: A-đô-ram có nhiệm vụ trông coi
về thuế khóa (sự lao động khổ sai), và Y-ra, người Giai-rơ làm tể tướng thân
cận của Đa-vít. “Lao động khổ sai” dành cho những tù binh chiến tranh, nhưng
dân Y-sơ-ra-ên thỉnh thoảng bị bắt đi lao động để giúp nhà nước xây dựng những
công trình trong nước. Suốt thời trị vì của Sa-lô-môn và sau đó, các quan trông
coi việc thuế khoá nầy luôn phải bận rộn với công việc mình (IVua 4:6 5:14 12:18 IISu 10:18-19).
Bây giờ chúng ta quay lại một chút
để xem Giô-áp được phục chức làm quan tổng binh trong đội quân của Đa-vít như
thế nào.
IISa 20:1-3; xem giải nghĩa IISa 19:41-43
2. Xung đột cá nhân (IISa 20:4-13)
Khi Đa-vít nghe tin Sê-ba triệu tập quân phản nghịch, ông tức tốc ra lệnh cho
A-ma-sa, quan tổng binh mới của mình (19:13),
tập trung lực lượng trong vòng 3 ngày và đến Giê-ru-sa-lem. Là một nhà chiến
lược dày dạn, Đa-vít biết rằng cần phải dập tắt cuộc nổi dây từ khi nó còn
trong trứng nước, nếu không nó sẽ kích động những người bất mãn trong xứ và có
thể bùng nổ thành chiến tranh. Hàng ngàn thần dân của Đa-vít đã đi theo
Áp-sa-lôm. Và dường như 10 chi phái ở phía bắc đang sẵn sàng theo bất cứ người
nào.
Nhưng A-ma-sa và đội quân không có
mặt kịp thời trong vòng 3 ngày theo như lệnh, và Đa-vít trao quyền chỉ huy cho
A-bi-sai. A-ma-sa từng là quan tổng binh của Áp-sa-lôm, nên có lẽ Đa-vít sợ ông
ta phản bội và cấu kết với Sê-ba. Lời giải thích hợp lý nhất cho việc trễ nải
của mình là vì dân chúng không tin ông, không sẵn sàng theo ông và liều mạng
sống mình. Có lính của Giô-áp và “các dõng sĩ” của Đa-vít bên cạnh, A-bi-sai
nhanh chóng triệu tập đội quân của Giu-đa và thẳng tiến về phương bắc để ngăn
chăn việc tạo phản của Sê-ba. Hãy tưởng tượng xem họ ngạc nhiên như thế nào khi
nhìn thấy A-ma-sa và đội quân của ông ta ở gần hòn đá lớn của Ga-ba-ôn, khoảng
6 dặm cách Tây Bắc Giê-ru-sa-lem. Lúc đó A-ma-sa đang trên đường đến gặp Đa-vít
để báo cáo và nhận lệnh.
Dù không có địa vị chính thức,
Giô-áp cũng đã đồng đi với A-bi-sai, em trai mình, để giúp đỡ khi cần. Hai
người nầy từng bên nhau trong trận chiến ở rừng Ép-ra-im và đánh bại Áp-sa-lôm.
Giô-áp không thích A-ma-sa, là người đã phản bội Đa-vít và cầm đầu quân của Áp-sa-lôm
(17:25). Hơn nữa, chính A-ma-sa đã có được
địa vị của Giô-áp, là quan tổng binh, việc nầy là một nổi nhục đối với Giô-áp.
(Đa-vít có chọn lựa như vậy vì Giô-áp đã giết Áp-sa-lôm). Giô-áp biết rằng ông
và A-bi-sai, em trai mình, có thể giải quyết thành công cuộc nổi dậy của Sê-ba,
còn A-ma-sa quá yếu kém và thiếu kinh nghiện để dẫn dắt đội quân chiến thắng.
Như khi họ giết Áp-ne (3:27-39), Giô-áp và A-bi-sai phải nhanh chóng bàn
tính với nhau khi thấy A-ma-sa tiến đến gần. Giô-áp đã giết Áp-ne và Áp-sa-lôm,
nên tay ông nay đã vấy máu. Với thanh gươm đút trong võ bên hông, Giô-áp đã làm
cho A-ma-sa nghĩ rằng đây là sự gặp gỡ bình thường, nhưng đó là mánh khóe xảo
quyệt của Giô-áp nhằm làm A-ma-sa không cảnh giác (Cac
3:20-23). Một lần nữa, thanh gươm đã không rời khỏi nhà Đa-vít, vì
A-ma-sa là anh em họ của ông. Không có lý do cho cái chết của A-ma-sa. Thật
vậy, ông đã gia nhập đội quân của Áp-sa-lôm, nhưng Đa-vít đã ban lệnh ân xá
chung trong đó có Giô-áp, là người đã giết Áp-sa-lôm. Giô-áp có thể dễ dàng
cướp đi quyền chỉ huy của A-ma-sa, nhưng người lính già từng trải nầy có tính
khí như vậy, ông thích diệt tất cả những ai ngáng đường mình. Ông ta không muốn
bất kỳ người lãnh đạo của Áp-sa-lôm còn sống để gây thêm rắc rối cho Đa-vít.
Giô-áp bỏ A-ma-sa nằm chết trên vũng
máu bên đường, cảnh tượng nầy làm cuộc hành quân tạm gián đoạn. Vị tướng của họ
đã ngã xuống trước khi trận chiến bắt đầu! Giô-áp và A-bi-sai đuổi theo Sê-ba,
nhưng đội quân không đi theo họ. Một trong những binh lính của Giô-áp đã nhanh
trí kéo xác chết vào lề đường và lấy áo choàng đắp lên. Sau đó anh ta tập hợp
lính của A-ma-sa để hổ trợ Giô-áp và Đa-vít, quân lính đã đáp ứng theo. Về mặt
chính trị, nói cho đúng là “Đa-vít và A-bi-sai”, vì Đa-vít đã trao quyền chỉ
huy cho A-bi-sai; nhưng Giô-áp đã lấy lại vị trí cũ của mình và sẽ không rời nó
nữa (c.23). Một lần nữa, Đa-vít phải trao quyền cho Giô-áp.
Chúng ta cứ tin rằng có người nào đó
sẽ chôn xác của A-ma-sa, vì xác chết không được chôn bị xem là việc nghiêm
trọng trong Y-sơ-ra-ên.
IISa 21:1-10; xem giải nghĩa IISa 19:41-43
3. Xung đột tôn giáo (IISa 21:11-14)
Sách kết thúc với ghi nhận về hai
tại họa cho đất nước một trận hạn hán do tội lỗi của vua Sau-lơ (21:1-4) và một nạn bệnh dịch do bởi tội lỗi của
Đa-vít (24:1-25). Giữa hai biến cố bi thương
nầy, tác giả tóm tắc cho chúng ta 4 chiến thắng (21:15-22)
và bảng liệt kê những dõng sĩ của Đa-vít (23:8-39),
cũng như hai bài thơ của Đa-vít (22:1-23:7).
Một lần nữa chúng ta thấy Đa-vít là một chiến binh, một
thi sĩ và một tội nhân.
Tội lỗi (IISa 21:1-4). Không có chỗ nào trong Kinh Thánh cho chúng
ta biết thời điểm và lý do Sau-lơ tàn sát người
Ga-ba-ôn và như vậy vi phạm lời thề mà Y-sơ-ra-ên đã lập với họ trong thời
Giô-suê (Gios 9:1-27). Giô-suê cố tận dụng
sai lầm của mình vì ông ta muốn dùng họ làm người đốn củi và sách nước; nhưng
lời thề của dân Y-sơ-ra-ên ràng buộc họ phải bảo vệ người Ga-ba-ôn (Gios 10:1-43). Sau-lơ đã giết nhiều người Ga-ba-ôn
và có ý định xóa sổ họ, nên đây là trường hợp “thanh trừ tôn giáo” và tội diện
chủng.
Đời sống tôn giáo của Sau-lơ là một
mớ rối ren. Với nổ lực nhằm chứng tỏ mình là người tin kính, Sau-lơ đã lập
những lời thề ngu dại mà không ai nên giữ (ISa
14:24-35), trong khi đó ông đã không vâng theo những mạng lệnh rõ ràng
của Đức Giê-hô-va (ISa 13:1-23 15:1-35). Ông được lệnh giết tất cả người A-ma-léc
và đã không vâng theo, nhưng ông cố sức tiêu diệt người Ga-ba-ôn! Một điều rối
ren khác đó là Giê-i-ên, ông cố của Sau-lơ, là tổ phụ của người Ga-ba-ôn (ISu 8:29-33 9:35-39),
như vậy Sau-lơ tàn sát những người bà con của mình.
Ga-ba-ôn đã trở thành một thành của
người Lê-vi (Gios 21:17), và có lúc đền tạm
có mặt ở đó (IVua 3:4-5). Thành nầy nằm
trong chi phái Bên-gia-min – chi phái của Sau-lơ và đó lẽ đó là manh mối cho
thái độ của Sau-lơ. Để cho người ngoại Ga-ba-ôn sống bình yên trong xứ
Y-sơ-ra-ên đã quá nguy hiểm, nhưng có phải họ đang sống ở Bên-gia-min? Một
trong chiến thuật “lãnh đạo” của Sau-lơ là ban ruộng đất và nhà cửa cho người
nào theo ông (ISa 22:7), và có lẽ để đáp ứng
nhu cầu nầy ông phải tịch thu của người Ga-ba-ôn. Dù động cơ và phương thức của
ông là gì, Sau-lơ trong mồ mả mình đã làm cho Y-sơ-ra-ên chịu đoán phạt, hạn
hán và đói kém kéo dài trong khoảng 3 năm (IISa
21:1,10).
Năm đầu tiên của cơn hạn hán có thể
do thời tiết thay đổi bất ngờ, suốt năm thứ hai, người ta có thể nói rằng,
“Thời tiết chắc sẽ tốt hơn”. Nhưng đến năm thứ ba đất chịu khô hạn và đói kém,
Đa-vít đã tìm kiếm mặt Đức Chúa Trời. Trong giao ước của Đức Giê-hô-va với
Y-sơ-ra-ên có viết rằng, Ngài sẽ ban mưa móc cho xứ nếu dân sự biết kính trọng
và vâng lời Ngài (Phu 28:1-14). Đa-vít biết
rằng tội sát nhân sẽ làm ô uế xứ mình (Dan 35:30-34),
và đó chính là nguyên nhân gây ra mọi sự khốn khó nầy. Đức Giê-hô-va đã phán
với Đa-vít, “Sự nầy xảy đến vì cớ Sau-lơ và nhà đổ huyết của người, bởi vì
người có giết dân Ga-ba-ôn” (c.1). Sau-lơ đã chết hơn 30 năm, và Đức Giê-hô-va vẫn kiên nhẫn chờ cho tội lỗi nầy được giải
quyết.
Sự báo thù (IISa 21:5-9). Khi biết sự thật nầy, Đa-vít liền đề
nghị bồi thường cho những tội ác của người tiền nhiệm mình, vì ông muốn dân Ga-ba-ôn có thể chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên và như vậy cũng
sẽ được phước Đức Chúa Trời (Sa 12:1-3).
Nhưng người Ga-ba-ôn không muốn tiền; họ biết rằng tiền không thể chuộc được
tội sát nhân và đền đáp cho người sống sót (Dan
35:31-33). Người Ga-ba-ôn nói rõ rằng họ biết vị trí của họ trong
Y-sơ-ra-ên như những đầy tớ và người ngoại ở nhờ, và họ không có quyền đòi hỏi
gì. Nhưng cần phải có sự đổ huyết để chuộc cho huyết người Ga-ba-ôn đã phải đổ
ra (Xu 21:24 Le
19:21 Phu 19:21). Dân chúng đang chịu
khổ vì tội lỗi của Sau-lơ, và nếu Đa-vít giết bất cứ người nào thì cũng sẽ
không giải quyết được vấn đề. Người Ga-ba-ôn yêu cầu giao cho họ 7 người nam
trong vòng con cháu của Sau-lơ để hiến tế trước mặt Đức Giê-hô-va và như vậy
cơn hạn hán và đói kém sẽ kết thúc.
Đa-vít biết rằng Do Thái không được
dâng của lễ là những con người (Le 18:21 20:1-5 Phu 12:29-32
18:10), ông cũng không xem cái chết của 7
người ấy là những của lễ với giá trị chuộc tội. Chúng ta ngày này có Tân Ước và
hiểu được Phúc Âm của Chúa Cứu Thế Giê-xu, chúng ta nhìn toàn bộ tình tiết nầy
với sự ghê rợn xen lẫn mất tinh thần, nhưng chúng ta nên nhớ rằng chúng ta đang
giải quyết bằng luật pháp, không phải bằng ân điển, và với dân Y-sơ-ra-ên,
không phải với Hội Thánh. Luật pháp Môi-se qui định rằng tội giết người chưa
được giải quyết phải được chuộc bằng của lễ (Phu
21:1-9), vì vậy tội tàn sát rõ ràng của vua phải được chuộc nhiều hơn là
dường nào! Tuy nhiên chúng ta phải nhớ cái chết của 7 người ấy không phải là sự
chuộc tội, nhưng là sự báo thù hợp pháp.
Dù Đa-vít không phạm tội đó, ông
phải chọn ra 7 người để chịu chết, đó không phải là một việc làm dễ dàng (Có lẽ
Đa-vít nghĩ về những người phải chết vì tội lỗi mình con của Bát-sê-ba, U-ri
người Hê-tít, Am-nôn, Áp-sa-lôm và A-ma-sa). Vì lời thề sẽ bảo vệ con cháu của
Giô-na-than (ISa 20:12-17), vua tránh tên
Mê-phi-bô-sết và chọn hai con trai sanh bởi Rít-ba, vợ lẻ của Sau-lơ, và 5 con
trai của Mê-ráp, con gái của Sau-lơ. Là người đã lấy Át-ri-ên (c.8). Chúng ta không
biết 7 người nầy bị xử tử như thế nào, có thể họ bị treo cổ rồi bị đẩy xuống từ
một mõm đá. Chuyện nầy xảy ra trong mùa gặt lúa mạch vào giữa tháng Tư, và 7
xác chết bị phơi giữa trời trong 6 tháng, cho đến khi mưa xuống và cơn hạn hán
trôi qua vào tháng Mười. Treo xác là một điều sỉ nhục và để người ấy chịu rủa
sả (Phu 21:22-23).
Lòng trắc ẩn (IISa 21:10-14). Luật pháp quy định rằng xác chết treo phải
được đem xuống và chôn khi mặt trời lặn. Để chắc chắn tội của Sau-lơ đã được
giải quyết, Đa-vít cho phơi các xác ấy cho
đến khi mưa xuống, để cho thấy Đức Giê-hô-va lại ban ơn cho dân Y-sơ-ra-ên.
Suốt thời gian đó, Rít-ba đã bảo vệ xác của con và cháu mình, đây là việc làm
của lòng yêu thương và can đảm. Chính Rít-ba có liên quan trong việc Áp-ne bỏ
nhà Sau-lơ và đi theo Đa-vít (IISa 3:6-12).
Nhưng Đa-vít đã đi trước một bước.
Ông lấy cốt của Sau-lơ, các con trai Sau-lơ mà người Gia-be ở Ga-la-át đã chôn
cất (ISa 31:1-13), và đem tất cả về chôn
trong phần mộ của gia đình họ (c.12-14). Được chôn chung với các tổ phụ mình là
ao ước của mỗi một người Y-sơ-ra-ên, Đa-vít ban ân phước nầy cho Sau-lơ và gia
đình ông ta. Dù vẫn còn vài điều bất thường, nhưng có một sự thật là: tội lỗi
của một người có thể gây đau khổ và cái chết cho gia đình mình, dù người ấy đã
chết và được chôn rồi. Chúng ta phải tin rằng Đa-vít
đã vì ích lợi của đất nước khi giải quyết tội lỗi cách khắc khe, nhưng ông cũng
tỏ lòng nhân từ với nhà Sau-lơ.
4. Xung đột giữa các
quốc gia (IISa 21:15-22) (ISu 20:4-8)
Bốn cuộc chiến xảy ra
trong những ngày đầu Đa-vít lên ngôi, có thể sau khi ông lập Giê-ru-sa-lem làm
thủ đô và dân Phi-li-tin chống đối việc ông làm vua Y-sơ-ra-ên. Tất cả 4 cuộc
chiến đều liên quan đến “con cháu của người khổng lồ” từ Phi-li-tin, một trong
số đó là em của Gô-li-át (c.19).
Trong cuộc chiến thứ nhất (c.15-17), Đa-vít thấy mình rất mệt mỏi
vì Phi-li-tin tập trung vào ông nhiều hơn các binh lính khác. Ít-bi-bê-nốp muốn
giết chết Đa-vít và có một ngọn giáo nặng đến 7,5 pound. Tuy nhiên A-bi-sai,
cháu của Đa-vít, là người từng làm vua nổi giận, đã đến giải cứu vua và giết
tên khổng lồ. Sau đó, các lãnh đạo quân sự quyết định không để vua ra trận để
phải hy sinh trên chiến trường. Vua là “ngọn đèn của Y-sơ-ra-ên” và phải được
bảo vệ. (IVua 11:36 15:4
IIVua 8:19 IISu
21:7)
Trận chiến thứ hai với dân
Phi-li-tin (c.18 ISu 20:4) xảy ra ở Góp,
chúng ta không thể xác định vị trí của nó, ở nơi nầy dân Y-sơ-ra-ên đã thắng vì
một trong các dõng sĩ của Đa-vít đã giết tên khổng lồ (ISu
11:29). Việc tên của những người khổng lồ lưu danh cho thấy họ là những
chiến binh nổi tiếng.
Cuộc chiến thứ ba với dân Phi-li-tin
(c.19) xảy ra tại Góp một lần nữa, và lần nầy em của Gô-li-át là người bị giết
chết. Chúng ta rất ít biết về Ên-cha-nan, ngoại trừ chi tiết ông đến xuất thân
từ Bết-lê-hem và là một trong những dõng sĩ của Đa-vít (IISa 13:24).
Trận thứ tư xảy ra ở Gát trong lãnh
thổ của kẻ thù (c.20-22 ISu 20:6-8), và
Giô-na-than, cháu của Đa-vít đã giết chết tên khổng lồ, giống như Gô-li-át, tên
khổng lồ nầy đã thách đố Y-sơ-ra-ên và Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên (ISa 17:10).
Khi còn trẻ Đa-vít đã giết chết
Gô-li-át, chắc chắn ông là tấm gương sáng cho người Y-sơ-ra-ên về đức tin nơi
Đức Chúa Trời; Ngài là Đấng ban chiến thắng. Biết làm thế nào để tự mình giết
chết những tên khổng lồ là rất tốt, nhưng còn phải giúp người khác giết chết
những tên khổng lồ trong đời sống của họ nữa.
11. BÀI CA CHIẾN THẮNG
CỦA ĐA-VÍT (IISa 22:1-51 (Thi 18:1-50)
Sách Samuên thứ nhất có chép lại bài ca của An-ne khi bà đem Sa-mu-ên dâng cho Đức
Giê-hô-va tại đền tạm, và Sách Samuên thứ hai có ghi lại bài ca của Đa-vít sau
khi Đức Giê-hô-va giúp ông đánh bại quân thù (c.1 18:1-50
tiêu đề). Thật ý nghĩa khi hai sách với đầy những đau thương và gánh nặng lại
có trong nó những bài ca ngợi khen! Dù trải qua những ngày tăm tối, dù ký ức
của chúng ta toàn là đau khổ, chúng ta cũng có thể ca ngợi Đức Chúa Trời luôn
luôn.
Trong bài ca nầy, Đa-vít tạ ơn Đức
Giê-hô-va vì Ngài ban cho ông nhiều chiến thắng, trong sự khoan dung và đường
lối khôn ngoan của Ngài, Đức Giê-hô-va đã đem ông lên ngai vàng của Y-sơ-ra-ên.
Nên nhớ rằng Sau-lơ không bị kể là kẻ thù của Đa-vít, dù Sau-lơ làm gì cho ông
đi nữa, ông không bao giờ đối xử với Sau-lơ như kẻ thù. Có thể II Samuên 22 là
bảng gốc, nhưng khi bài ca nầy được sủa lại cho hợp với sữ thờ phương Đa-vít đã
viết câu mở đầu: “Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài là năng lực tôi, tôi yêu mến Ngài “ (Thi 18:1). Từ Hy-bá-lai được dùng với nghĩa “yêu
mến” có nghĩa là “tình yêu thương sâu xa và tha thiết”, không phải một cảm xúc
chóng qua. Ông cũng bỏ đi một phần trong câu 3 “Hỡi Đấng che chở tôi! Ấy Ngài
giải cứu tôi khỏi sự hung bạo”. Có những khác biệt khác, nhưng chúng ta vẫn dễ
dàng hiểu được sứ điệp của bài ca ngơi khen nầy.
Có thể không phải bài ca nầy được
viết ngay sau sự thất bại của Sau-lơ và sự mở đầu triều đại Đa-vít tại Hếp-rôn.
Từ câu 51 chúng ta đoán rằng Đa-vít viết nó sau khi Đức Chúa Trời lập giao ước
Ngài với ông (IISa 7:1-29) và ban cho ông
những chiến thắng được ghi nhận trong IISa 8 và 10. Chúng ta có thể suy luận
thêm từ c.20-27 rằng ông đã viết bai ca nầy trước khi ông phạm tội với
Bát-sê-ba và U-ri (IISa 11:1-12:31), vì ông
không bao giờ viết được c.20-27 sau kinh nghiệm đau buồn đó.
Trọng điểm trong bài ca nầy là những
việc mà Đức Chúa Trời, trong ân điển và lòng thương
xót của Ngài, đã làm cho Đa-vít.
1. Đức Giê-hô-va giải
cứu Đa-vít (IISa 22:1-19)
“Giải cứu” là từ chìa
khóa trong bài ca nầy (c.1,2,18,20,44,49), nó mang nghĩa “cứu khỏi nguy hiểm,
mang đi khỏi, cho thoát khỏi.” Ít nhất trong 10 năm
trước khi lên làm vua, Đa-vít bị Sau-lơ và quân của Sau-lơ rượt đuổi, Kinh
Thánh có ghi lại ít nhất 5 lần Sau-lơ tìm cách giết Đa-vít. (ISa 10:10-11 19:8-10,18-24). Sau khi
được làm vua, Đa-vít phải ra trận chiến đấu cùng dân Phi-li-tin, Am-môn, Sy-ri,
Mô-áp, Ê-đôm, và Đức Chúa Trời đã giúp ông chiến thắng tất cả kẻ thù của mình.
Đa-vít mở đầu bài thơ bằng lời ngợi
khen Đức Giê-hô-va vì Ngài là - hòn đá và đồn lũy, Đấng giải cứu (c.20) – hình
ảnh nầy có được qua những năm tháng Đa-vít sống trong đồng vắng khi ông và
những người theo ông phải trốn trong hang đá và những nơi trú ẩn tự nhiên. “Đức
Chúa Trời là hòn đá tôi” (c.3) có thể được dịch là “Đức Chúa Trời như hòn đá
của tôi”. Hình ảnh Đức Chúa Trời là “hòn đá” đã có từ Sa
49:24 và thường được dùng trong “Những bài ca của Môi-se” trong Phục 32
(c.4,15,18,30-31). An-ne đã dùng nó trong bài ca của mình (ISa 2:2), và thường được thấy trong các bài thi
thiên. Hòn đá nhắc chúng ta về sức mạnh và sự kiên định, có thể nương dựa và
không hề thay đổi. Dù các kẻ thù của Đa-vít cố gắng tìm giết ông, ông luôn cầu xin
Đức Chúa Trời hướng dẫn và bảo vệ. Đức Chúa Trời là cái khiên che quanh ông và
là Đấng giải cứu ông thoát khỏi bao hiểm nguy.
Hình ảnh hòn đá làm rõ hình ảnh nước
lụt (c.4-7), và điều nầy dẫn đến hình ảnh sống động của cơn dông bão (c.8-20).
Trong khi lưu lạc trong đồng vắng, chắc chắn Đa-vít nhìn thấy nhiều trận mưa
dông (Thi 29:1-11) biến những lòng sông khô
cằn thành những dòng nước cuồn cuộn (Thi 126:4).
Dù lý do gì đi nữa, Đa-vít luôn phải tranh đấu với những lực lương hùng mạnh
của Sau-lơ. Các lượn sóng của tử vong, lụt gian ác, những dây của địa ngục (xứ
sở của sự chết), và lưới sự chết làm cho cuộc sống của Đa-vít rất khó khăn và
đầy nguy hiểm. Không ngạc nhiên khi ông nói với Giô-na-than, “chỉ còn một bước
cách tôi và sự chết mà thôi” (ISa 20:3).
Bạn sẽ làm gì khi bạn đang chết đuối
trong cơn lụt của sự thù địch? Bạn kêu cầu cùng
Đức Giê-hô-va và tin Ngài cứu giúp bạn (c.7). Đa-vít là một
chiến sĩ cầu nguyện, ông nương dựa nơi sự khôn ngoan, sức mạnh và sự giải cứu
của Đức Chúa Trời và Ngài không bao giờ quên ông. Tại sao Đức Chúa Trời phải
chờ một thời gian dài trước khi giải cứu Đa-vít và đem ông lên ngôi? Vì Ngài
đang huấn luyện ông thành một người lãnh đạo, điều nầy được thực hiện chỉ bởi
sự thử thách, sự khốn khổ,và sự tranh chiến. Nhưng Đức Giê-hô-va cũng có cách
sắp xếp thời gian riêng của Ngài, vì “khi kỳ hạn đã được trọn” (Ga 4:4) từ dòng dõi Đa-vít, Đấng Mê-si sẽ đến thế
gian.
Khi Đức Giê-hô-va đáp lời kêu nài
của Đa-vít, giải cứu ông khỏi tay Sau-lơ và các kẻ thù của dân sự Đức Chúa Trời,
thì giống như cơn dông bão sấm sét đã trôi qua (c.8-20). Đa-vít mô tả sự can
thiệp của Đức Chúa Trời như cơn động đất (c.8) kéo theo ánh chớp, lửa và khói
(c.9). Đức Giê-hô-va nổi giận! (Thi 74:1 140:10). Nổi rõ trên nền trời đen kịt, Đức Chúa
Trời ngự xuống trên đám mây ở trên lưng chê-ru-bim. Cơn dông bão dữ dội! Trong
Kinh Thánh bão tố có thể là hình ảnh của một đội quân đang tiến công (Exe 38:9 Da 11:40
Ha 3:14) hoặc sự đoán phạt của Đức Chúa Trời
(Gie 11:6 23:19
25:32). Mũi tên của Đức Chúa Trời giống như
tia chớp, tiếng của Ngài như sấm, và gió giống như hơi thở giận dữ từ mũi Ngài.
Không ngạc nhiên khi các kẻ thù Ngài đã bỏ chạy trong khiếp sợ! Đa-vít không
xem mình là một nhà lãnh đạo vĩ đại, là người cầm đầu đội quân chiến thắng,
nhưng như một đầy tớ của Đức Chúa Trời, biết tin cậy Đức Giê-hô-va để thắng
trận. Ông dâng mọi vinh quang cho Đức Giê-hô-va. Đức Chúa Trời không chỉ “ngự
xuống” (c.10), nhưng Ngài còn “giơ tay” và kéo Đa-vít ra khỏi vùng nước nguy
hiểm.
2. Đức Giê-hô-va ban
thưởng cho Đa-vít (IISa
22:22-28)
Ít nhất trong 10 năm
Đa-vít phải ở những nơi “chật hẹp”, nhưng giờ ông được Đức Giê-hô-va đem ra nơi
“rộng rãi” (c.20). Đức Chúa Trời có thể ban cho
ông một nơi rộng lớn vì đời sống Đa-vít được thêm rộng mở qua những thử thách.
“Khi tôi bị gian truân Ngài để tôi trong nơi rộng rãi” (Thi 4:1) Đa-vít thường kêu lên rằng “Ngài đem tôi ra nơi rộng
rãi” nhưng đồng thời, Đức Chúa Trời mở rộng đường cho tôi tớ Ngài và chuẩn bị
anh ta cho một nơi rộng lớn hơn (IISa 18:19,36). “Trong gian
truân tôi cầu khẩn Đức Giê-hô-va; Đức Giê-hô-va bèn đáp lời tôi, để tôi nơi
rộng rãi” (Thi 18:5). Trong trường đời, Đức
Chúa Trời đề cao những ai trong ngày khó khăn biết học bài học về đức tin và
lòng kiên nhẫn (He 6:12), Đa-vít là người học tốt bài học ấy.
Sự công bình của
Đa-vít (IISa 22:21-25). Đọc
sơ những câu nầy chúng ta nghĩ rằng Đa-vít đang khoe khoan về chính mình, nhưng
không phải như vậy. Đa-vít đang ngợi khen Đức Giê-hô-va vì giúp ông sống một
đời sống không chỗ trách được trong nguy hiểm và
khó khăn. Hãy nghĩ xem thật khó khăn thế nào khi vừa phải giữ trọn luật pháp
của Đức Giê-hô-va trong đồng vắng Giu-đa vừa phải trốn chạy để bảo toàn mạng
sống mình! Trong tất cả những gì ông đã làm, Đa-vít luôn cố làm vui lòng Đức
Chúa Trời, vâng theo luật pháp Ngài và tin nơi lời hứa của Ngài. Những câu Kinh
Thánh nầy mô tả Đa-vít là một người thanh liêm (Thi
78:72), “một người theo lòng Ngài,” (ISa
13:14). Đa-vít biết vin vào lời hứa của Đức Chúa Trời và Ngài khen ngợi
ông. Vua Sau-lơ vi phạm những điều khoản của giao ước ấy, và Ngài đã trừng phạt
ông ta.
Điều nầy không có nghĩa là Đa-vít
không có một vết nhơ nào và luôn làm điều đúng. Có những lúc Ngài làm ông nản
lòng và nhờ kẻ thù giúp đỡ, nhưng đây là những sự việc ngoài ý muốn trong cuộc
đời được dâng trọn vẹn cho Đức Giê-hô-va. Đa-vít chỉ tôn vinh một mình Đức
Giê-hô-va và không bao giờ xây qua các thần khác. Ông không làm ô danh Đức
Giê-hô-va; ông yêu thương và bảo vệ cha mẹ mình (ISa
22:1-4) khi ông có cơ hội giết chết Sau-lơ, ông đã không ra tay với
người được Đức Chúa Trời xức dầu. Suốt trong những “năm tranh chiến” của mình
không có bằng chứng nào cho rằng Đa-vít đã phạm tội ăn cắp, tà dâm hay làm
chứng dối cho người khác. (thật ra, chính Sau-lơ đã nói dối về Đa-vít). Đa-vít
là người rộng lượng, ông không nuôi lòng tham. Chúng ta không biết Đa-vít tôn
trọng ngày Sa-bát như thế nào khi ông ở xa cộng đồng của Giao Ước, nhưng không
có lý do để tin rằng ông vi phạm điều răn thứ tư. Theo sự công bình của luật
pháp, Đa-vít là người có tay trong sạch, tấm lòng thánh khiết (Thi 24:3-6), và ông nhận được sự ban thưởng từ Đức
Giê-hô-va.
Sự thành tín của Đức
Giê-hô-va (IISa 22:26-28). Đức
Giê-hô-va không bao giờ làm trái những thuộc tính của Ngài. Đức Chúa Trời đối
đãi với dân sự tùy theo thái độ và hành động của họ. Đa-vít khoan dung cho Sau-lơ và tha mạng sống cho ông ít nhất hai
lần, và Đức Giê-hô-va đã khoan dung với Đa-vít. “Phước cho những kẻ hay thương
xót, vì sẽ được thương xót!” (Mat 5:7).
Đa-vít thành tín với Đức Giê-hô-va, và Ngài thành tín với ông. Đa-vít có lòng
ngay thẳng, ông một lòng phục sự Đức Chúa Trời. Đa-vít không phải là người vô
tội – không người nào là vô tội trên thế gian nầy nhưng ông không chỗ trách
được trong động cơ và lòng trung thành với Đức Giê-hô-va. Trong ý nghĩa đó, tấm
lòng của ông thật thanh khiết: “Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ
thấy Đức Chúa Trời!” (Mat 5:8).
Không giống Sau-lơ, Đa-vít không
ngoan cố nhưng đầu phục ý muốn của Đức Chúa Trời (c.27). “Còn đối cùng kẻ trái
nghịch, Chúa sẽ tỏ mình nhặt nhiệm lại” nhắc chúng ta rằng đức tin là sống mà
không có mưu toan và lời biện hộ, Sau-lơ luôn mắc hai lỗi nầy. Từ Hy-ba-lai
dịch cho từ ngữ “trái nghịch” xuất xứ từ một gốc từ có nghĩa là “chống nghịch
với”. Đa-vít không tranh chiến với Đức Chúa Trời hoặc ý muốn của Ngài, nhưng
Sau-lơ thì luôn như vậy; và đó là lý do tại sao Đa-vít được tôn cao còn Sau-lơ
bị hạ thấp (IPhi 5:5-6 Gia 4:10).
Cuối cùng, Đa-vít kiêm hạ và tan vỡ
trước mặt Đức Giê-hô-va, trong khi Sau-lơ đề cao chính mình và luôn xem mình là
nhất. “Vì Chúa cứu dân bị khốn khổ; Nhưng mắt Chúa coi chừng kẻ kiêu căng đặng
làm chúng nó bị hạ xuống” (c.28). An-ne đã đề cập đến chủ đề quan trọng nầy
trong bài ca của mình cho Đức Giê-hô-va (ISa 2:3,7-8). Khi Sau-lơ
bắt đầu thời trị vì của mình, ông đứng cao hơn người khác từ vai trở lên (ISa 10:23-24), nhưng gần cuối đời ông đã té úp mặt
tại nhà của một phù thủy (28:20) và té ngã
trên chiến trường vì tự vẫn (31:1-6). “Vậy
thì, ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã” (ICo
10:12). Đa-vít cúi mặt trong sự đầu phục, và Đức Giê-hô-va nâng mặt ông
lên trong vinh quang. Sau-lơ ngẩng mặt lên và cuối cùng phải cúi mặt trong nhục
nhã.
Đức Chúa Trời luôn thành tín với
thuộc tính của Ngài và giao ước Ngài. Biết được thuộc tính của Đức Chúa Trời là
yếu tố rất cần thiết để biết được ý muốn Ngài và làm đẹp lòng Ngài. Đa-vít biết
giao ước của Đức Chúa Trời nên ông hiểu Ngài muốn ông làm gì. Thuộc tính của
Đức Chúa Trời và Giao Ước của Đức Chúa Trời là nền tảng cho những lời hứa của
Đức Chúa Trời. Nếu chúng ta bỏ quên thuộc tánh và Giao Ước của Đức Chúa Trời,
chúng ta không bao giờ nhận được lời hứa của Ngài.
3. Đức Giê-hô-va ban
năng quyền cho Đa-vít (IISa
22:29-43)
Trong khúc ca nầy,
Đa-vít đã nhìn về quá khứ và nhắc lại những gì Đức Chúa Trời đã cứu giúp ông
trong những năm tháng lưu vong.
Đức Giê-hô-va soi sáng
cho Đa-vít (IISa 22:29). Hình ảnh ngọn
đèn chiếu sáng có thể ngụ ý lòng nhân từ của Đức Chúa Trời khi giữ mạng sống
con người (Giop
18:5-6 21:17). Cuộc đời Đa-vít gặp
nhiều nguy biến, nhưng Đức Giê-hô-va giữ gìn mạng sống ông và chu cấp mọi sự
cần dùng cho ông. Nhưng ngọn đèn sáng còn nói về thời trị vì của vua. Những
người theo Đa-vít sợ rằng ngày nào đó Đa-vít ngã xuống nơi chiến trường và
“ngọn đèn của Y-sơ-ra-ên” sẽ tắt (IISa 21:17).
Dù sau khi Đa-vít chết, Đức Giê-hô-va vẫn thành tín với Giao Ước Ngài và giữ
cho ngọn đèn Đa-vít cháy mãi bằng cách duy trì triều đại của Đa-vít (IVua 11:36 15:4
IIVua 8:19 IISu
21:7 Thi 132:17).
Nhưng Đức Chúa Trời soi sáng cho
Đa-vít trong cách khác, vì Ngài mặc khải ý muốn của Ngài qua lời tiên tri trong
việc dùng U-rim và Thu-mim. Sau-lơ đã tự mình quyết định, nhưng Đa-vít tìm kiếm
ý muốn Đức Chúa Trời trước. Suốt trong những ngày lưu vong tăm tối, Đa-vít có
thể nói, “Đức Giê-hô-va là ánh sáng và là sự cứu rỗi tôi: Tôi sẽ sợ ai? Đức
Giê-hô-va là đồn lũy của mạng sống tôi: Tôi sẽ hãi hùng ai?” (Thi 27:1).
Đức Giê-hô-va ban sức
cho Đa-vít (IISa 22:30-35). Hình ảnh ở đây cho thấy một chiến binh can đảm đạp bằng mọi thứ
trên đường chiến thắng. Đức Chúa Trời ban sức cho Đa-vít để ông đối diện với kẻ
thù mà không hề lo sợ, và xông ngang qua đạo quân và những chứng ngại mà họ
giăng ra, và vượt qua các tường thành. Đường lối của Đức Chúa Trời thật trọn
vẹn (c.31) và Ngài làm cho đường lối của Đa-vít ra trọn vẹn (c.33), vì Đa-vít
tin cậy nơi Ngài. Đức Chúa Trời che chở cho Đa-vít trong chiến trận vì Đa-vít
nương dựa hoàn toàn nơi Lời tinh tường của Đức Chúa Trời.
Thân thể Đa-vít thuộc về
Đức Giê-hô-va (Ro 12:1), và Đức Chúa Trời dùng cánh tay, bàn chân và bàn tay ông
(c.33-35) để đánh bại kẻ thù. Đa-vít là một chiến binh đầy ơn, nhưng chính
quyền phép của Đức Chúa Trời giúp ông thành công. Giống như con nai nhanh nhẹn,
ông có thể leo lên đến những đỉnh cao; dù vậy chân ông vẫn không xiêu tó
(c.37). Đức Chúa Trời khiến cánh tay ông mạnh mẽ để có thể giương cung đồng và bắn tên với một lực cực mạnh. Trong sức mạnh của Đức
Giê-hô-va, Đa-vít không thể thất bại.
Đức Giê-hô-va mở rộng
đường cho Đa-vít (IISa 22:36-43). Đức
Chúa Trời mở đường cho Đa-vít (c.37) và để ông nơi rộng rãi (c.20), một lẽ thật
tuyệt vời mà chúng ta đã xét qua rồi. Một câu đáng chú ý “sự hiền từ Chúa đã
làm cho tôi nên sang trọng” (c.36) cho thấy giọng nói sửng sốt của Đa-vít vì Đức Giê-hô-va vạn quân đã chiếu cố ông và
quan tâm đến ông. Đa-vít luôn thấy mình là một người chăn chiên rất đỗi bình
thường, không có một địa vị gì trong Y-sơ-ra-ên (ISa
18:18,23),
nhưng Đức Giê-hô-va “bước xuống” và khiến ông nên cao trọng. Ngài khiến Đa-vít
trở thành một chiến binh vĩ đại và làm nổi danh ông (IISa
7:23), Đa-vít biết lòng nhân từ lạ lùng nầy của Đức Chúa Trời, nhưng ước
ao lớn nhất của Đa-vít là làm rạng danh Giê-hô-va khắp các nước (7:18-29).
Sự hạ cố bởi lòng nhân từ của Đức
Giê-hô-va là chủ đề mà thường bị dân sự Đức Chúa Trời lãng quên. Như với
Đa-vít, Đức Chúa Cha đã hạ cố để hành động trong cuộc đời chúng ta để tỉa sửa
chúng ta chi phù hợp với công việc mà Ngài đặt để (Es
57:15), và Đức Chúa Con đã hạ mình vì chúng ta khi Ngài xuống thế gian
như một tôi tớ và làm của lễ chuộc tội cho chúng ta (Phi
2:5-11). Đức Thánh Linh đã hạ cố xuống thế gian và sống trong dân sự
Ngài! Đa-vít không nhìn lại những năm thánh lưu vong với những khó khăn gain
khổ và “sự khắc nghiệt” của Đức Chúa Trời nhưng nhìn thấy sự hiềntừ của Đức
Chúa Trời. Ông chỉ nhìn thấy sự nhân từ và thương xót dõi theo bước ông (Thi 23:6). Người đầy tớ trong thí dụ gọi đã chủ
mình là “người nghiêm nhặt” (Mat 25:24),
chắc chắc ông không có cái nhìn giống như Đa-vít!
Chúng ta có thể run rẩy khi đọc đến
phần mô tả những chiến công của Đa-vít, nhưng chúng ta phải nhớ rằng ông đang
đánh trận cho Đức Giê-hô-va. Nếu những nước nầy thắng trận và tiêu diệt
Y-sơ-ra-ên, thì chuyện gì sẽ xảy ra cho kế hoạch cứu rỗi vĩ đại của Đức Chúa
Trời? Chúng ta sẽ không có Kinh Thánh, và chúng ta sẽ không có Cứu Chúa! Khi
chống nghịch Đức Chúa Trời và thờ các thần tượng, những nước ngoại bang đã phạm
tội nghịch cùng nguồn sự sáng, nên họ không có gì để bào chữa cho mình (Ro 1:18 Gios 2:1-24).
Đức Giê-hô-va đã kiên nhẫn với họ trong nhiều năm (Sa
15:16), nhưng họ đã chối bỏ ân điển của Ngài. Đa-vít đuổi theo kẻ thù
khi họ tìm đường tháo chạy (c.38,41) ông đánh bại họ,
đè bẹp họ, và nghiền họ thành bụi đất! Họ thành ra như bùn trên đường.
4. Đức Giê-hô-va lập
vững nhà Đa-vít (IISa 22:44-51)
Đánh trận và thắng kẻ
thù là một chuyện, nhưng giữ vững đất nước dưới sự cai trị của mình là một
chuyện khác. Đa-vít không chỉ thống nhất 12 chi phái Y-sơ-ra-ên, ông còn đương
đầu với các nước lệ thuộc Y-sơ-ra-ên.
Đức Giê-hô-va phong
Đa-vít làm vua (IISa 22:44-46). Các
nước ngoại bang không muốn Y-sơ-ra-ên có vua, nhất là có vua như vua Đa-vít,
một nhà chiến lược khôn ngoan, một chiến binh can đảm, một người lãnh đạo được
yêu mến. Tuy nhiên Đức Chúa Trời không chỉ lập Đa-vít làm vua, mà còn hứa cho
triều đại của Đa-vít được tồn tại đời đời. Đức Giê-hô-va hứa ban ngai vàng cho
Đa-vít, Ngài đã giữ lời. Ngài cũng giúp Đa-vít thống nhất đất nước và giải
quyết những người còn trung thành với Sau-lơ. Từ “người ngoại quốc” trong câu
45-46 có nghĩa là những người ở các nước ngoại bang. Những chiến thắng của Đức
Giê-hô-va làm những dân nầy khiếp sợ và tháo chạy tìm nơi ẩn núp. Cuối cùng họ
sẽ ra khỏi đồn lũy mong manh của mình để đầu phục Đa-vít.
Đức Giê-hô-va đưa
Đa-vít lên địa vị cao trọng (IISa 22:47-49). Lời ngợi khen của Đa-vít “Đức Giê-hô-va hằng sống” (c.47 là lời
làm chứng cho các dân ngoại rằng các thần tượng của họ không thể giải cứu và
bảo vệ họ (Thi thiên 115). Duy chỉ Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là
Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống, những chiến công và sự lên ngôi của
Đa-vít chứng minh Đức Chúa Trời đã ở cùng
ông. Đa-vít không bao giờ tự đề cao mình, ông tôn cao Đức Chúa Trời. Đa-vít kết
thúc bài ca bằng lời ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời cao cả và thánh khiết
của Y-sơ-ra-ên. Ông tôn cao Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời tôn cao ông (Mat 6:33 ISa 2:30).
Nếu chúng ta tự tán dương danh của mình hay những việc làm của mình, chúng ta
sẽ phạm tội, nhưng nếu Đức Chúa Trời tán dương chúng ta, chúng ta có thể đem
vinh quang về cho danh Ngài (Gios 3:7).
Đức Giê-hô-va lựa chọn
Đa-vít (IISa 22:50-51). Sự
lựa chọn tối thượng của Đức Chúa Trời để cho Đa-vít làm vua và lập giao ước với
ông, hình thành một nền tảng cho tất cả những gì Ngài làm cho tôi tớ Ngài.
Y-sơ-ra-ên được kêu gọi làm nhân chứng với các nước, và
Đa-vít có trách nhiệm xây dựng một đất nước sẽ làm rạng danh Đức Chúa Trời.
Thật là tệ vì tội lỗi của ông với Bát-sê-ba đã làm ô danh Đức Chúa Trời (IISa 12:14). Tuy nhiên, Đa-vít là vua được Đức
Chúa Trời xức dầu, giao ước giữa Đức Chúa Trời và ông sẽ tồn tại. Cuối cùng sẽ
được ứng nghiệm trong sự cai trị của Chúa Cứu Thế Giê-xu trong Nước của Ngài.
Phao-lô trích câu 50 trong Ro 15:9 để động viên tín hữu ở các Hội Thánh tại
Rôma. Các tín hữu là người ngoại bang ở Rôma vui hưởng sự tự do trong Cứu Chúa
trong khi các tín hữu người Do Thái vẫn còn chịu ràng buộc dưới Luật pháp
Môi-se. Phao-lô nói rõ rằng Chúa Cứu Thế đến cho cả người Do Thái lẫn người
ngoại bang để làm trọn lời hứa với người Do Thái và chết cho cả người Do Thái
lẫn người ngoại bang. Từ những ngày đầu tiên nước Y-sơ-ra-ên được khai sinh,
khi Đức Chúa Trời gọi Áp-ra-ham và Sa-ra, Đức Giê-hô-va đã có ý định cứu luôn
người ngoại bang trong kế hoạch cứu rỗi bởi ân điển Ngài. (Sa 12:1-3 Lu 2:29-32
Gi 4:22 Eph 2:11).
Những câu liên tiếp trong Ro 15:8-12 thật có ý nghĩa. Chúa Giê-xu khẳng định
lời hứa của Ngài với dân Y-sơ-ra-ên (c.8) và Y-sơ-ra-ên rao truyền sứ điệp cứu
rỗi cho các dân ngoại bang (c.9). Cả người Do Thái và người ngoại bang tin Chúa
đều như một thân thể thuộc linh cùng nhau ca tụng danh Ngài (c.10); và tất cả
các nước nghe được tin lành của Phúc Âm (c.11). Khi Chúa Giê-xu trở lại, Ngài
sẽ cai trị cả người Do Thái và người ngoại bang trong Nước vinh hiển của Ngài
(c. 12). Ngay từ những ngày đầu nầy, hoạch định của Đức Chúa Trời là dân
Y-sơ-ra-ên sẽ làm phương tiện để rao sự cứu rỗi cho thế gian hư mất.” Sự cứu
đến từ Đức Giê-hô-va!” (Gion 2:10) và “Sự
cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến” (Gi 4:22).
Người Ngoại bang mắc nợ người Do Thái (Ro 15:27),
và người Cơ Đốc Dân ngoại bang phải trả món nợ ấy. Họ có thể tỏ lòng cảm kích
đối với dân Y-sơ-ra-ên qua lời cầu nguyện cho sự cứu rỗi của họ (9:1-5 10:1) và
cho sự hòa bình của Giê-ru-sa-lem (Thi 122:6),
hết lòng làm chứng khi có cơ hội (Ro 1:16)
và chia xẻ những nhu cầu vật chất (15:27).
Khi đọc lại bài thi thiên nầy, bạn
có thể thấy những gì đã làm cảm động lòng Đa-vít. Ông đã nhìn thấy Đức Chúa
Trời và đề cập đến Ngài ít nhất 19 lần. Ông nhìn thấy Đức Chúa Trời trong mọi
khía cạnh trong đời sống, cà lúc vui mừng cũng như trong hoạn nạn. Ông đã nhìn
thấy những mục đích của Đức Chúa Trời trong cuộc đời ông và cho nước Y-sơ-ra-ên
và vui mừng vì được là một phần trong những mục đích đó. Nhưng phấn khỏi hơn
hết, dù trong những lúc khó khăn nhất, Đa-vít vẫn nhìn thấy bàn tay nhân từ của
Đức Chúa Trời, khuôn đúc cuộc đời ông và làm thành những mục đích của Ngài
(c.35). Những vấn đề lớn (Thi 25:17) đã “làm
Đa-vít lớn lên” (Thi 4:1) và chuẩn bị ông
cho những nhiệm vụ lớn hơn (IISa 22:37)
trong nơi rộng rãi mà Đức Chúa Trời dành sẵn cho ông (22:20).
Đó cũng có thể là những kinh nghiệm của chúng ta.
12. NHỮNG KÝ ỨC VÀ
NHỮNG LỖI LẦM CỦA ĐA-VÍT (IISa 23:1-24:25) (ISu 11:10-41 21:1-26)
Sự chết của vua Đa-vít
không được ghi lại trong II Samuên, nhưng có trong
(IVua 2:1-12. Tuy nhiên trong II Samuên
23-24 có bài thơ cuối cùng của ông, danh sách kể tên của những vị tướng của
ông, và trải nghiệm buồn vì tội tu bộ dân Y-sơ-ra-ên. Đoạn 21-24 được xem là
phần phụ lục của sách II Samuên và các đoạn đó tập trung nói về hai mặt của sự
lãnh đạo, của Chúa và của con người. Những quyết định của một nhà lãnh đạo có
thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, như được thấy qua những tội lỗi của
Sau-lơ (đoạn 21) và Đa-vít (đoạn 24). Những nhà lãnh đạo phải nương cậy nơi Đức
Chúa Trời và dâng sự vinh hiển cho Ngài, như hai bài thi thiên của Đa-vít cho
thấy; không người lãnh đạo nào có thể làm việc một mình, như chúng ta biết bên
cạnh Đa-vít có các tướng lãnh. IISa 23:1-24:25
cho chúng ta những chân dung của Đa-vít, chúng minh họa sự vĩ đại và nhân tính
trong cuộc đời của nhà lãnh đạo nầy.
1. Đa-vít, một ca sĩ
được linh cảm (IISa 23:1-7)
Ít nhất có 73 bài trong
sách Thi thiên được cho là của Đa-vít sáng tác, nhưng bài thi thiên cuối cùng
của ông chỉ được chép trong 23:1-39.
Câu “Nầy là lời sau hết của Đa-vít” có nghĩa là “lời cuối cùng được viết ra bởi
sự linh cảm từ Đức Chúa Trời”. Bài thi thiên nầy có
thể được viết ra trong những ngày cuối cùng trong cuộc đời Đa-vít, trước khi
ông qua đời không lâu. Vì chủ đề của bài thi thiên nầy nói về người lãnh đạo
tin kính, có thể ông đặc biệt viết cho Sa-lô-môn, nhưng trong nó có nhiều điều
dành cho tất cả dân sự của Đức Chúa Trời ngày nay.
Những đặc ân của người
lãnh đạo (IISa 23:1-2).
Đa-vít không bao giờ thôi kinh ngạc vì Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông làm vua
Y-sơ-ra-ên, chăn dắt dân sự của Đức Chúa Trời, đánh trận cho Đức Chúa Trời, và
góp phần viết ra Lời Đức Chúa Trời. Qua dòng dõi của
Đa-vít Đức Chúa Trời đưa Chúa Cứu Thế vào thế gian. Theo cái nhìn của con
người, Đa-vít là “người bình thường”, một gã chăn chiên, đứa con út trong một
gia đình Do Thái bình thường; nhưng Đức Chúa Trời đã chọn ông và lập ông làm
vua vĩ đại nhất của Y-sơ-ra-ên. Đức Giê-hô-va đã ban cho Đa-vít bàn tay khôn
khéo và tấm lòng liêm chính (Thi 78:70-72),
trang bị cho ông để ông biết và làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Là con trai
của Y-sai, Đa-vít là người thuộc chi phái Giu-đa, chi phái nhà vua, điều mà
Sau-lơ, vua tiền nhiệm của ông không có được. (Sa
49:10).
Đa-vít không tự đề bạt mình vào địa
vị cao trọng đó; chính Đức Giê-hô-va đã chọn ông và đưa ông lên ngai vàng (Phu 17:15). Đức Giê-hô-va đã bỏ ra 30 năm rèn
luyện Đa-vít, đầu tiên là với bầy chiên trên đồng cỏ, sau đó với Sau-lơ trong
trại quân, và cuối cùng với những người lính của ông trong đồng vắng Giu-đa.
Những nhà lãnh đạo vĩ đại được huấn luyện riêng trước khi họ công khai hoạt
động. Goethe có viết “Tài năng được nuôi dưỡng tốt nhất ở nơi tĩnh lặng, tư
cách được hình thành tốt nhất trong nơi sóng to gió lớn của thế gian”. Đa-vít
được cả hai. Ông thành tín trong nơi riêng tư như một đầy tớ, nên Đức Chúa Trời
có thể đưa ông lên làm một nhà lãnh đạo (Mat 25:21).
Đức Giê-hô-va đã theo đúng trình tự nầy khi Ngài chuẩn bị Môi-se, Giô-suê,
Nê-hê-mi, các sứ đồ và cả Con của chính Ngài (Phi
2:5-11 He 5:8). Tiến sĩ D. Martyn
Lloyd-Jones từng nói, “Thật là một thảm kịch khi người trẻ tuổi thành công
trước khi anh ta sẵn sàng nhận lấy nó”. Đa-vít đã sẵn sàng nhận lãnh ngai vàng.
Đức Chúa Trời ban sức cho những
người Ngài kêu gọi, và Ngài đã xức dầu cho Đa-vít bằng Thánh Linh Ngài (ISa 16:12-13). Tiến sĩ A. W. Tozer có nói, “Đừng
bao giờ đi theo người lãnh đạo nào nếu như bạn chưa thấy dầu trên trán ông ta”,
điều nầy giải thích tại sao nhiều người có tài đã đến với Đa-vít và gia nhập
quân đội của ông. Một người lãnh đạo hiệu quả không chỉ cần có tài và được rèn
luyện, anh ta còn phải biết tuyển mộ và đào tạo người khác trở thành những nhà
lãnh đạo giỏi nữa. Chúa Giê-xu đã nhắc các môn đồ của Ngài, và cả chúng ta, “Vì
ngoài ta, các ngươi chẳng làm chi được”. Những người lãnh đạo tôn giáo nào theo
những nguyên tắc mà thế gian gọi là “thành công” ít khi đạt được cái gì vĩnh
viễn để làm vinh hiển Đức Chúa Trời. “Ai làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời thì
còn lại đời đời” (IGi 2:17). Được con người
đào tạo cũng đã tốt, nhưng quan trọng hơn là được Đức Chúa Trời rèn luyện.
Oawald Chambers đã viết, “Chúa chúng ta trải qua 30 năm chuẩn bị cho 3 năm phục
vụ. Một con dấu ngày nay mất 3 giờ chuẩn bị cho 30 năm sử dụng”.
Nhưng Thánh Linh không chỉ thêm sức
cho Đa-vít trong trận chiến, Ngài còn cảm động ông viết ra những bài thi thiên
hay, an ủi được tấm lòng của mỗi một chúng ta. Khi bạn nghĩ đến những thử thách
mà Đa-vít phải trải qua để cho ra đời những bài thi thiên nầy, bạn càng đánh
giá chúng cao hơn nữa. Đa-vít đã nói rõ rằng ông đang viết Lời của Đức Chúa
Trời, không chỉ là những bài thơ tôn giáo. Phi-e-rơ gọi Đa-vít là “đấng tiên
tri” (Cong 2:30) và trong phân đoạn viết về
Sự Giáng Lâm của Đức Thánh Linh có trích lại những lời Đa-vít viết về sự sống
lại và sự thăng thiên của Đấng Mê-si-a (2:24-36).
Khi bạn đọc sách Thi thiên, bạn đang đọc Lời của Đức
Chúa Trời và biết về Con của Đức Chúa Trời.
Trách nhiệm của người
lãnh đạo (IISa 23:3-7). Đức
Chúa Trời không huấn luyện Đa-vít chỉ để làm hàng mẫu, nhưng vì Ngài có nhiệm
vụ quan trọng cho ông làm; và cũng như vậy với mọi nhà lãnh đạo chân chính. Đa-vít phải cai trị dân sự của Đức Chúa
Trời, “bầy chiên của đồng cỏ Ngài” (Thi 100:3),
đây là một trách nhiệm vô cùng to lớn. Nó đòi hỏi nghị lực và sự thanh liêm
(“công bình”) và thái độ đầu phục Đức Giê-hô-va (“kính sợ Đức Chúa Trời”).
Không công bình và kính sợ Đức Chúa Trời, người lãnh đạo trở thành kẻ độc tài
và ngược đãi dân sự của Đức Chúa Trời, sẽ đuổi họ đi như bầy ngựa thay vì chăn
dắt họ như bầy chiên. Lãnh đạo Đa-vít là người phục vụ và là đầy tớ của dân, và
ông luôn để lòng quan tâm đến ích lợi của dân sự (IISa
24:17). Ngày nay tôi được khích lệ khi thấy những chuyên gia ngoại giao
đang so sánh những người lãnh đạo giỏi với những người chăn.
Đa-vít dùng hình ảnh ẩn dụ rất hay
để minh họa công việc của người lãnh đạo: mưa và tia nắng mặt trời kết hợp với
nhau để cho cây sinh ra trái tốt thay vì chông gai (c.4-7). Đa-vít minh họa
nguyên tắc nầy trong đời sống của chính mình, vì khi ông lên ngôi có nghĩa là
một ngày mới mở ra cho dân Y-sơ-ra-ên. Trong đó, ông nhắc chúng ta về những gì
xảy ra khi Chúa Giê-xu đến thế gian (Thi 72:5-7
Es 9:2 58:8
Ma 4:13 Lu
2:29-32). Với sự lên ngôi của Đa-vít, những giông bão mà Sau-lơ gây ra
trên đất sẽ trôi qua và ánh sáng của mặt Đức Chúa Trời sẽ chiếu rọi trên dân sự
Ngài. Dưới sự lãnh đạo của Đa-vít, sẽ có mùa gặt ơn phước đến từ Đức Giê-hô-va.
Với sự trợ giúp của Đức Chúa Trời,
các nhà lãnh đạo phải tạo nên một môi trường thuận lợi để sự hợp tác của họ có
thể vững mạnh và sinh bông trái. Nhiệm vụ lãnh đạo phải như nắng và mưa, ngày
nắng đẹp và ngày mây mù, nhưng nhiệm vụ của người lãnh đạo tin kính sẽ tạo ra
cơn mưa nhẹ, nó đem đến sự sống không phải gây ra bão tố huỷ diệt. Thật vui
mừng biết bao khi được đi theo người lãnh đạo thuộc linh biết đem lại điều tốt
nhất cho chúng ta và giúp chúng ta sống có kết quả dâng vinh hiển cho Đức Chúa
Trời! Những lãnh đạo không thuộc về Chúa sinh ra chông gai làm trầy xước dân sự
và làm cho sự phát triển gặp phải rất nhiều khó khăn.
Nhưng trong bài ca của mình, Đa-vít
đã vượt xa hơn những nguyên tắc của chức lãnh đạo để tôn vinh sự đến của Đấng
Mê-si-a (c.5). Đa-vít đề cập giao ước của Đức Giê-hô-va lập với ông (IISa 7:1-29), giao ước ấy bảo đảm với ông rằng
triều đại và ngôi của ông sẽ còn đến đời đời và giao ước ấy đã được ứng nghiệm
trong Đức Chúa Giê-xu (Lu 1:32-33,68-79). Câu 5 nên
hiểu là một câu hỏi: “Nhà ta chẳng phải như vậy trước mặt Đức Chúa Trời sao?
Ngài chẳng phải đã lập với ta một giao ước đời đời, vững bền trong mọi sự và
chắc chắn sao?” Câu hỏi đầu tiên không ngụ ý rằng tất cả con cái của Đa-vít đều
tin kính Chúa, vì chúng ta biết rằng họ không như vậy. Nó chỉ muốn nói rằng nhà
(triều đại) của Đa-vít vững chắc vì Đức Chúa Trời đã hứa như vậy trong giao ước
Ngài. Không gì có thể thay đổi giao ước nầy; nó được bảo đảm đời đời bởi thuộc
tính của Đức Chúa Trời.
Trong câu 5, Đa-vít một lần nữa dùng
hình ảnh ra hoa kết quả; “Ngài sẽ không làm nẩy nở sự cứu rỗi tôi và ban cho
tôi điều tôi hằng ao ước sao?” Điều Đa-vít ao ước là Đức Chúa Trời sẽ làm thành
lời hứa của Ngài và ban cho nhân loại Đấng Mê-si-a, Người sẽ được sinh ra từ
dòng dõi nhà Đa-vít. Về mặt lịch sử ngôi của Đa-vít kết thúc năm 586 T.C với
thời trị vì của Xê-đê-kia, nhưng đó không phải là sự kết thúc của dòng dõi
Đa-vít hay của nước Y-sơ-ra-ên. Bởi ơn thần hựu, Đức Giê-hô-va đã biệt riêng
dân Y-sơ-ra-ên và dòng dõi Đa-vít để Chúa Cứu Thế Giê-xu có thể được sinh ra
tại Bết-lê-hem, thành Đa-vít. Một dân yếu đuối và nhỏ bé, nhưng Đấng Mê-si-a
cũng đến trong hoàn cảnh như vậy! “Có một chồi sẽ nứt lên từ gốc Y-sai, một
nhánh từ rễ nó sẽ ra trái” (Es 11:1 4:2 6:13 53:2). Nhưng sẽ có một ngày, người gian ác sẽ bị
nhổ khỏi đất như gai góc và bị đốt đi (c.6-7 Mat
3:10,12
13:40-42)
2. Đa-vít, người lãnh
đạo được ơn (IISa 23:8-39) (ISu 11:10-47)
Đây là danh sách liệt kê
tên của những vị tướng đi theo Đa-vít và những chiến công của họ, những người
nầy đã luôn bên cạnh Đa-vít suốt những năm tháng lưu vong đầy gian khó và trong
lúc ông trị vì đất nước.
“Nhóm ba dõng sĩ” đầu
tiên” (IISa 23:8-12 11:10-14). Giô-sép-Ba-sê-bết là người được kể tên đầu tiên, ông ta
cũng được biết với tên Adino và Gia-sô-bê-am (c.8 ISu
11:11). Ông làm đầu lính thị vệ của Đa-vít và nổi tiếng vì giết được 800
tên giặc cùng một lúc. ISu 11:11 nói ông
giết 300 người. Như chúng ta đã biết, các con số đôi khi có sự khác biệt do lỗi
của người sao chép. Có phải sự kính sợ Đức Giê-hô-va đã khiến những người nầy
dám xông vào nơi hiểm nguy, hay sự can đảm của Gia-sô-bê-am đã động viên người
khác ra trận và người ta tin rằng ông ta sẽ chiến thắng? Ông ta đã đánh thắng
quân thù như thế nào không được nói rõ, nhưng không thể nào ông giết họ cùng
một lúc chỉ với một cây giáo.
Ê-lê-a-sa (c.9-10) xuất thân từ chi
phái Bên-gia-min (ISu 8:4) và đã ở bên cạnh
Đa-vít trong trận chiến với quân Phi-li-tin, có thể tại Pha-đa-mim (ISa 17:1 ISu 11:12-13).
Trong khi nhiều người lính Y-sơ-ra-ên đang rút lui, ông ta vẫn kiên cường đánh
trận cho đến khi gươm “dính cứng” nơi tay ông. Đức Giê-hô-va xem trọng đức tin
và sự can đảm của Đa-vít và Ê-lê-a-sa và cho Y-sơ-ra-ên chiến thắng, sau việc
đó những người lính khác quay trở lại bãi chiến trường để tước lột vũ khí và
của cải của kẻ thù. Giống như Đa-vít, Ê-lê-a-sa không ích kỷ về những chiến lợi
phẩm ấy, vì chiến thắng đến từ Đức Giê-hô-va (ISa
30:21-25).
Người thứ ba là Sa-ma (c.11-12) cũng
được Đức Chúa Trời sử dụng để đem lại chiến thắng tại Pha-đa-mim (ISu 11:13-14). Nhưng tại sao phải liều mạng sống
mình để bảo vệ ruộng đậu? Vì đất thuộc về Đức Giê-hô-va (Le 25:23) và được ban cho Y-sơ-ra-ên để sử dụng vì
sự vinh hiển của Ngài (18:24-30). Sa-ma
không muốn dân Phi-li-tin sở hữu những gì thuộc về Đức Giê-hô-va, vì dân Do
Thái là những trông coi đất của Đức Chúa Trời. Tôn trọng đất có nghĩa là tôn
trọng Đức Chúa Trời và giao ước của Ngài với Y-sơ-ra-ên.
“Nhóm ba dõng sĩ” thứ
hai (IISa 23:13-17 ISu 11:15-19). Ba người nầy không được nêu
tên, nhưng họ có mặt trong 30 dõng sĩ được liện kê trong câu 24-29. Điều nầy
cho thấy họ không phải là 3 người được kể tên trước. Tất cả con người được dựng
nên đều bình đẳng trước mặt Đức Chúa Trời và luật pháp, nhưng không phải tất cả
đều có cùng những ân tứ và khả năng; một số người có những ân tứ và cơ hội
nhiều hơn những người khác. Tuy nhiên, việc chúng ta không thể giành được 3 vị
trí đầu sẽ không làm chúng ta nản lòng để rồi không nổ lực hết mình cho 3 vị
trí tiếp theo. Đức Chúa Trời không đánh giá chúng ta theo những gì Ngài giúp
người khác làm được nhưng theo những gì Ngài muốn chúng ta làm với khả năng và
cơ hội mà bởi ân điển Ngài ban cho chúng ta.
Việc Đa-vít trốn trong hang đá ở gần
Bết-lê-hem cho thấy sự kiện nầy xảy ra trong thời gian Đa-vít trốn Sau-lơ hoặc
không lâu sau khi ông làm vua và bị dân Phi-li-tin tấn công (IISa 5:7 ISu 14:8).
Lúc đó là vào mùa gặt, có nghĩa là trời không có mưa và các giếng thì khô cạn.
Không có nước trong hang là điều chắc chắn, Đa-vít thèm nước giếng ở Bết-lê-hem
mà ông từng được uống khi còn bé. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Đa-vít đã
tự nói với mình về sự khát đó và không hề ra lệnh, nhưng 3 người nầy muốn làm
vui lòng người lãnh đạo mình hơn bất cứ điều gì. Họ ở gần bên Đa-vít đủ để nghe
được những lời thầm thì của Đa-vít, lòng trung thành của họ đủ để biến những
lời ước ao ấy thành lệnh, và sự can đảm của họ đủ để làm theo lệnh đó bằng mọi
giá. Họ đã đi 12 dặm, vượt qua hàng ngũ của quân thù và đem nước về. Đây là tấm
gương sáng cho chúng ta trong mối tương giao của chúng ta với Cứu Chúa của
mình!
Dù Đức Giê-hô-va đặt để gì trong tay
Đa-vít, ông cũng dùng nó để tôn vinh Ngài và giúp cho
dân sự Ngài một cái trành ném đá, một thanh gươm, một cây đàn, một cây vương
trượng, thậm chí một cốc nước và lần nầy cũng không ngoại lệ. Khi Đa-vít nhìn
vào cốc nước, ông không thấy nước trong đó, nhưng thấy huyết của 3 người lính
đã liều mạng sống mình để làm ông vui lòng. Uống nước đó là xem nhẹ mọi người
và hành động dũng cảm của ba người lính của mình. Điều đó nói lên rằng mạng
sống của họ không quan trọng gì đối với ông. Thay vì vậy, Đa-vít đã biến hang
đá thành đền thờ và rãi nước đó ra như một của lễ dâng cho Đức Giê-hô-va, như
ông từng nhìn thấy các thầy tế lễ làm trong đền tạm. Của lễ nước thường
được dâng chung với những của lễ khác, như của lễ thiêu, và không được dâng
riêng một mình. Hành động của Đa-vít nói lên sự tận hiến cuộc đời ông để phục
sự Đức Giê-hô-va. Ba người lính đó đã dâng cụôc đời họ như một của lễ cho Đức
Giê-hô-va và Đa-vít (Ro 12:1), nên Đa-vít
nhập chung ông và họ để dâng lên cho Đức Giê-hô-va nhằm cho họ thấy rằng ông
làm một với họ trong sự tận hiến cho Đức Giê-hô-va. Để diễn giải lời của ông
trong IISa 24:24, Đa-vít không xem nhẹ những
sự hy sinh mà ba người lính của ông đã bỏ ra. Tất cả những lãnh đạo nên noi
gương Đa-vít và hãy tỏ cho lính của mình biết mình xem trọng họ và những hy
sinh của họ như thế nào.
Chính Chúa Giê-xu đã phó thân mình
làm của lễ chuộc tội chúng ta, và Ngài đã đổ huyết vì chúng ta (Thi 22:14 Es 53:12).
Phao-lô đã dùng hình ảnh huyết tưới trên của lễ để mô tả sự tận hiến của ông
cho Đức Giê-hô-va (Phi 2:17 IITi 4:6). Mẹ Teresa thường nói, “Chúng ta không
thể làm điều lớn lao, chỉ làm được điều nhỏ với một tình yêu lớn lao”. Nhưng
những việc nhỏ mà chúng ta làm vì yêu Chúa sẽ biến thành những việc lớn. Theo
như Chúa Giê-xu, bất cứ khi nào chúng ta bày tỏ lòng nhân từ và tình yêu thương
với người khác và giúp họ trong lúc thiếu thốn, tức là chúng ta đang làm cho
chính Ngài (Mat 25:34-40).
Hai “dõng sĩ” đặc biệt (IISa 23:18-23 ISu 11:20-25). A-bi-sai
(c.18-19) là cháu của Đa-vít và là em của Giô-áp, quan tổng binh của đội quân
Đa-vít. Ông cũng là anh của A-sa-ên, là người bị Áp-ne làm như vô tình giết
chết; và Giô-áp và A-bi-sai đã giết Áp-ne, trong sự hối tiếc của Đa-vít (IISa 2:1-3:39). A-bi-sai là một người can đảm, ở
đây ông được khen ngợi vì đã giết 300 lính của quân thù. Nhưng đôi khi ông tỏ
ra quá khích hơn là khôn ngoan. Khi ở trong trại của Sau-lơ với Đa-vít vào một
buổi tối, ông muốn giết chết Sau-lơ, nhưng bị Đa-vít
ngăn lại (ISa 26:1-25) và ông cũng đề
nghị chém đầu Si-mê-i vì tội rủa sả Đa-vít (IISa
16:9-11 19:21). Ông ta đã dẫn quân
đội trong cuộc vây bắt Ráp-ba (10:10-14;) và
cứu mạng Đa-vít trong trận chiến với người khổng lồ (21:15-17).
A-bi-sai trung thành với Đa-vít trong những ngày Áp-sa-lôm phản nghịch và có
nhiệm vụ chỉ huy một phần ba đội quân của Đa-vít (18:2,12). A-bi-sai là
người có danh tiếng.
Bê-na-gia (c.20-23 ISu 11:22-25) là người đặc biệt, ông được sinh ra
để làm thầy tế lễ (ISu 27:5) nhưng đã trở
thành người lính và chỉ huy đội cận vệ của Đa-vít (IISa
8:18 20:23). Trong Kinh Thánh, có
những thầy tế lễ trở thành nhà tiên tri, như Giê-rê-mi. Ê-xê-chi-ên và Giăng
Báp-tít, nhưng Bê-na-gia là thầy tế lễ duy nhất trở thành người lính. Trên
chiến trường ông là người dũng cảm và đánh thắng một số trận đáng kể. F.W.
Boreham có một bài giảng tuyệt vời về sự kiện Bê-na-gia giết một con sư tử,
trong bài giảng đó ông cho biết Bê-na-gia đã gặp phải kẻ thù tồi tệ nhất (sư
tử) trong nơi tồi tệ nhất (trong một cái hố) trong điều kiện tồi tệ nhất (vào
ngày đầy tuyết) và ông ta đã thắng! Bê-na-gia là người trung thành với nhà
Đa-vít và ủng hộ Sa-lô-môn khi Sa-lô-môn làm vua (IVua
1:8-10). Khi Giô-áp nổ lực đưa A-đô-ni-gia lên làm vua, chính Bê-na-gia
đã giết chết ông, như vậy để làm tròn mạng lệnh của Đa-vít về Sa-lô-môn (IVua 2:5-6). Sa-lô-môn lập Bê-na-gia là đầu đội
quân mình thay chỗ của Giô-áp (IVua 2:35 4:4 ISu 27:5-6).
Giê-hô-gia-đa, con trai của Bê-na-gia, không theo binh nghiệp nhưng làm mưu sĩ
cho vua Sa-lô-môn, thay thế cho A-hi-tô-phên (27:34).
Ba mươi dõng sĩ (IISa 23:24-39 ISu 11:26-47). Sau-lơ
đứng cao hơn người khác từ vai trở lên, nhưng chính Đa-vít có tính cách và vóc
người thu hút những người đang mong chờ một nhà lãnh đạo chân chính. Một đặc
điểm của nhà lãnh đạo chân chính là có bên mình những người trung thành và tận
tụy, không xu nịnh tâng bốc và ăn bám. Những quan quân của Sau-lơ là những
người không thể tin được và bị mua chuộc tùy theo địa vị của mình (ISa 22:6), nhưng lính của Đa-vít là người biết hy
sinh vì người lãnh đạo mình, và một số người thật đã làm như vậy.
Vì người xưa thường có hai hoặc ba
tên với cách viết khác nhau nên không dễ so sánh bảng liệt kê trong IISa 23:1-39 và bảng trong ISu 11:1-47. Một số tên trong sách Samuên không có trong Sử ký,
nhưng danh sách cuối cùng có thêm 16 tên nữa (IISa
11:41-47). Có lẽ chúng là những cái tên được thay thế hoặc thay đổi.
Những người không được đề tên trong Sử ký là Sa-ma con trai của A-ghê (c.11),
Ê-li-ca (c.25), Ê-li-am (c.34) và Di-ganh (c.36). Sự khác nhau giữa hai danh
sách nầy không nhiều và không chắc chắn, thành viên của nhóm nầy thay đổi theo
thời gian vì người nầy chết đi và người kia vào thay thế.
Trong danh sách nầy, họ được chia
thành 4 nhóm: 3 dõng sĩ đầu tiên (c.8-12), nhóm ba dõng sĩ thứ hai (13-17), hai
lãnh đạo đặc biệt (18-23) và “Ba mươi dõng sĩ” khác (24-29). Nhưng trong câu 36
ghi nhận tên một người (“Di-ganh, con trai của Na-than, là con của Ga-đi”) hay
tên của hai người (“Di-ganh, con trai của Na-than, và con của Ga-đi”)? Trừ ba
người đem nước về cho Đa-vít, những người khác đều được nêu tên, nên dường như
thật lạ khi tên của một người nào đó bị bỏ sót. Có thể câu 36 chỉ đề cập một
người, như vậy có tất cả 32 dõng sĩ trong tiêu đề chung là “Ba mươi dõng sĩ”,
29 người được kể tên và 3 người không được kể tên. Có lẽ “Ba mươi” chỉ là một
biệt danh dành cho các binh lính giỏi nhất của Đa-vít, bất kể họ có bao nhiêu
người, giống như “Mười Hai môn đồ” là biệt danh dành cho các sứ đồ của Chúa
Giê-xu. Nếu chúng ta thêm vào 32 người đó 3 người trong câu 8-12, và A-bi-sai
và Bê-na-gia, thì có tất cả 37 người được đưa ra trong câu 39.
Hai cái tên quen thuộc với chúng ta:
A-sa-ên, cháu Đa-vít và là em của Giô-áp và A-bi-sai (c.24), và U-ri người
Hê-tít, chồng của Bát-sê-ba (c.39 ISu 11:41).
Cả hai người nầy đề đã chết, nhưng tên của họ vẫn còn trong danh sách các chiến
binh dũng cảm. Thật đáng buồn vì Đa-vít đã lấy mạng sống của một trong những
dõng sĩ mình chỉ để che đậy cho tội lỗi!
Hai sự kiện khác cũng đáng quan tâm.
Thứ nhất, Đa-vít không hành động một mình; ông được nhiều người tận tụy bên
cạnh giúp đỡ. Chúng ta nghĩ Đa-vít là một chiến binh dũng cảm, và ông thật sự
là như vậy, nhưng ông sẽ làm được gì nếu không có các binh lính trung thành và
tài giỏi bên cạnh? Hầu hết những người được kể tên trong danh sách đều xuất
thân từ chi phái Giu-đa. Điều nầy dễ hiểu vì Giu-đa là chi phái của Đa-vít và
ông làm vua ở đó trước khi đất nước thống nhất.
Nhưng “Ba mươi dõng sĩ” cũng có kể
đến 3 người từ chi phái Bên-gia-min, chi phái của Sau-lơ, và một số người từ
các nước láng giềng. Tất cả những người nầy đều nhận thấy bàn tay của Đức Chúa
Trời ở trên Đa-vít và họ muốn góp phần trong công việc mà Đức Chúa Trời đang
thực hiện. Tính đa dạng trong số những người chỉ huy quân đội của mình nói lên
nhiều điều về sự lãnh đạo của Đa-vít.
Thứ hai, Đức Chúa Trời ghi nhớ từng
người một, tên của những người nầy đã được ghi vào Kinh Thánh, và sẽ có một
ngày họ sẽ được ban thưởng tùy theo công việc của mỗi người. Tên của Đa-vít
được nhắc đến hơn một ngàn lần trong Kinh Thánh, trong khi hầu hết những người
nầy được đề cập một hoặc hai lần. Tuy nhiên, khi họ gặp mặt Đức Giê-hô-va, “ai
nấy sẽ bởi Đức Chúa Trời mà lãnh sự khen ngợi mình đáng lãnh” (ICo 4:5).
Giô-áp là quan tổng binh của cả đội
quân (IISa 20:23), nhưng ông chỉ được nhắc
tên trong danh sách nầy chung với hai em mình, A-bi-sa- (18) và A-sa-ên (24 ISu 11:20,26). Trong những ngày cuối đời, Giô-áp không còn
trung thành với Đa-vít và nổ lực đưa A-đi-nô-gia lên ngôi, và vì việc làm nầy
ông phải trả giá bằng cả mạng sống mình (IVua
2:28-34).
3. Đa-vít, một tội nhân
biết ăn năn (IISa 24:1-25) (ISu 21:1-30)
IISa 24:1 cho biết rằng Đức Chúa Trời giục lòng Đa-vít đếm số dân,
trong ISu 21:11 lại nói Sa-tan đã khiến ông
làm việc đó. Cả hai đều đúng: Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan cám dỗ Đa-vít để
làm thành những mục đích Ngài định sẵn. Sa-tan chắc chắn chống nghịch dân sự
của Đức Chúa Trời xuyên suốt lịch sử Cựu Ước, nhưng đây là một trong 4 lần
trong Cựu Ước Sa-tan được nêu tên cách cụ thể và hành động công khai. Ba lần
khác là khi nó cám dỗ Ê-va (Sa 3:1-24), khi
công kích Gióp (Giop 1:1-2:13) và khi buộc tội thầy tế lễ Giê-hô-sua (Xa
3:1-10).
Vua kiêu ngạo (IISa 24:1-9 ISu 21:1-6). Không có gì trái lẽ về việc kiểm
tra dân số, nếu nó được tiến hành theo những luật lệ được viết trong Xu 30:11-16 Dan
3:40-51. Nửa siếc-lơ nhận nơi cuộc tu bộ được dùng trả những chi phí cho
đền thờ của Đức Chúa Trời (Xu 38:25-28). Là
một người Do Thái mẫu mực, Chúa Giê-xu đã nộp thuế đền thờ (Mat 17:24-27), dù Ngài biết rằng thời đó nhiều
viên chức trong đền thờ suy đồi và bị Cha Ngài chối bỏ (Mat 23:37-24:1). Cụm từ “dân sự” được dùng trong IISa 24:2,4,9,10; chỉ những lực lượng quân sự và được dùng cách
nầy theo bản A.V (Authorized Version) trong ISa 4:3,4,17. Nhưng cuộc tu
bộ mà Đa-vít thực hiện không phải để thu thuế cho đền thờ; nó là cuộc đếm số
quân để xem quân đội mình lớn mạnh bao nhiêu, như trong câu 9 cho thấy. Nhưng
từng có một cuộc kiểm tra số quân ở Y-sơ-ra-ên trong quá khứ và Đức Giê-hô-va
không đoán phạt đất nước (Dan 1:1-54 26:1-65). Vậy thì cuộc đếm số dân nầy có gì sai?
Giô-áp và các quan tướng của ông
phản đối việc làm nầy (c.4) và lời của Giô-áp trong câu 3 có thấy mệnh lệnh của
Đa-vít bị thúc đẩy bởi tính kiêu ngạo. Vua muốn tán dương thành tựu của mình
hơn là làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Đa-vít có thể hợp lý hóa mong muốn nầy bằng
cách lý luận rằng Sa-lô-môn, con trai ông là người chuộng hòa bình không có
kinh nghiệm về quân sự. Đa-vít muốn chắc rằng sau khi ông qua đời, Y-sơ-ra-ên
sẽ có những lực lượng cần thiết để giữ yên đất nước. Một yếu tố khác có thể nằm
trong kế hoạch của Đa-vít, đó là tổ chức một đội quân, một chính phủ và các
thầy tế lễ, cùng người Lê-vi để Sa-lô-môn có thể điều hành mọi việc dễ dàng hơn
và có khả năng xây được đền thờ (ISu 22:1-27:34).
Dù lý do là gì, thì Đức Giê-hô-va
cũng không đẹp lòng (ISu 21:17), nhưng Ngài
cho phép Giô-áp và các quan tướng dành ra chín tháng 20 ngày để kiểm tra dân số
từ độ tuổi 20 trở lên, là những người có thể gia nhập quân ngũ. Đôi khi sự đoán
phạt nặng nề nhất của Đức Chúa Trời chỉ để chúng ta đi đúng đường. Những người
đi kiểm tra số dân rời Giê-ru-sa-lem, đi về hướng đông vượt qua sông Giô-đanh,
và bắt đầu tại A-rô-e. Sau đó họ đi qua phía bắc ngang Gát và Ga-la-át đến biên
giới cực bắc của Y-sơ-ra-ên, là nơi Đa-vít chiếm được và mở mang bờ cõi (IISa 8:1-18). Họ tiếp tục đi về phía tây đến Ty-rơ
và Si-đôn và sau đó sang phía nam đến Bê-e-sê-ba ở Giu-da, thành xa nhất của
Y-sơ-ra-ên.
Từ Bê-e-sê-ba, họ trở về
Giê-ru-sa-lem, nhưng họ không đếm người Lê-vi (những người được miễn nghĩa vụ
quân sự, Dan 1:49 2:33)
và người Bên-gia-min. Đền tạm được dựng ở Ga-ba-ôn ở Bên-gia-min (ISu 16:39-40 21:29)
và Giô-áp có thể đã nghĩ rằng rất không khôn ngoan khi bước vào vùng đất thánh
để thực hiện sứ mạng tội lỗi nầy. Dù sao, Sau-lơ cũng đã xuất thân từ
Bên-gia-min và ở đó vẫn còn những nhóm phản nghịch. Bên-gia-min rất gần với quê hương của Giô-áp và Giô-áp không muốn làm
liều. Con số chưa đầy đủ là 1.300.000 người.
Vua bị vạch tội (IISa 24:10-14 ISu 21:17-13). Nhận biết
mình thật ngu dại khi thực hiện phương án tu bộ dân sự, Đa-vít đã xưng tội mình
và tìm kiếm Đức Chúa Trời. Ít nhất 6 lần trong Kinh Thánh chúng ta thấy Đa-vít
nhận, “Ta đã phạm tội”; nhưng khi ông xưng tội nầy, ông đã nói, “thật là đã
phạm tội rất nặng”. Hầu hết chúng ta đều nhìn nhận rằng tội ông phạm với
Bát-sê-ba là tội nặng hơn, và còn ngu ngốc hơn, tội tu bộ dân sự, nhưng Đa-vít
thấy việc mình làm là một tội rất nặng. Tội của Đa-vít phạm với Bát-sê-ba đã
lấy đi mạng sống bốn con trai của Đa-vít (con của Bát-sê-ba, Am-nôn, Áp-sa-lôm
và A-di-nô-gia) và của U-ri; nhưng sau cuộc tu bộ, Đức Chúa Trời đã giáng nạn
dịch hạch và lấy đi mạng sống của 7 ngàn người. Đức Giê-hô-va hẳn nhất trí với
Đa-vít rằng ông ta thật đã phạm tội rất nặng.
Tội của Đa-vít với Bát-sê-ba là tội
của phần xác, chịu thất bại trước dục vọng sau một buổi chiều biếng nhác (IISa 11:2 Ga 5:19),
nhưng tội kiểm tra dân số nầy là tội của phần linh (IICo
7:1), một hành động cố ý chống ngịch Đức Chúa Trời. Nó bị thúc đẩy bởi
tính kiêu ngạo, kiêu ngạo là tội đứng đầu trong những tội mà Đức Chúa Trời ghét
(Ch 6:6-17). William Barclay có viết, “Kiêu
ngạo là nguyên nhân gây ra những tội khác, và là kẻ sinh ra tất cả những tội
khác”. Cả Kinh Thánh và luật dân sự đều phân biệt giữa những tội vì phút bồng
bột của cảm xúc và những tội vì cố ý chống nghịch và xét xử hai nhóm tội đó
khác nhau (Phu 19:1-13 Xu 21:12-14). Tu bộ dân sự là sự cố ý chống
nghịch, và Đa-vít đã phạm tội với Nguồn của sự sáng. Hơn nữa, Đức Chúa Trời đã
cho Đa-vít thời gian hơn 9 tháng để ăn năn, nhưng ông không đầu phục Ngài.
Trong những lần khác trong cuộc đời Đa-vít, Giô-áp thường không phải là người
tin kính, nhưng ngay cả Giô-áp cũng phản đối việc làm nầy của Đa-vít, và cả
những quan chức khác cũng vậy. Lẽ ra Đa-vít nên để ý những lời khuyên của họ,
nhưng ông vẫn kiên quyết tiến hành cuộc kiểm tra dân số ấy.
Đức Chúa Trời trong ân điển Ngài đã
tha thứ những tội lỗi của chúng ta khi chúng ta xưng tội lỗi mình (IGi 1:9), nhưng trong sự phán xét công bình của
Ngài, Ngài để chúng ta nhận lãnh hậu quả. Trong trường hợp nầy, Đức Giê-hô-va
ban cho Đa-vít đặc ân được chọn hậu quả. Tại sao như vậy? Vì sự không vâng lời
của Đa-vít là tội của ý chí, là sự chọn lựa cố ý của Đa-vít, nên Đức Chúa Trời
cho ông có một chọn lựa khác và tự nêu ra hình phạt cho mình. Tiên tri Gát cho
vua 3 chọn lựa và bảo ông cân nhắc, quyết định và trả lời khi ông ta quay lại.
Giữa lần viếng thăm thứ nhất và thứ
hai, Đa-vít phải tìm kiếm mặt Đức Giê-hô-va, vì Ngài gia giảm thời gian của cơn
đói kém từ 7 năm xuống còn 3 năm, điều nầy giải thích sự không nhất quán giữa IISa 24:13 ISu 2:12.
Trong sự nhân từ của Ngài, Đức Chúa Trời thu ngắn những ngày đau khổ cho tuyển
dân của Ngài (Mat 24:22). Ba hình phạt được
kể trong giao ước của Đức Chúa Trời với Y-sơ-ra-ên (Phu
28:1-68), nên Đa-vít không hề ngạc nhiên vì chúng:đói kém, (Mat
28:23-24,38-40),
thất bại trong chiến tranh (Mat 28:25-26,41-48), bệnh dịch
(Mat 28:21-22,27-28,60-62). Trong luật pháp Do Thái, tội không
chủ tâm của thầy tế lễ cả được tính tương đương với tội của cả hội chúng (Le 4:1-3,13-14), thì hình phạt dành cho vị vua cố ý phạm
tội nầy lớn đến thế nào! Biết được lòng nhân từ của Đức Giê-hô-va, Đa-vít đã
khôn ngoan chọn nạn dịch hạch làm hình phạt cho tội
lỗi mình.
Vua ăn năn (IISa 24:15-25 ISu
21:14-30). Nạn dịch bắt đầu ngay sáng hôm sau và tiếp tục kéo dài trong
3 ngày, các thiên sứ không ra tay trừng phạt tại Giê-ru-sa-lem, giống như
Giô-áp và những quan quân của ông đã làm (c.8). Tấm lòng người chăn của Đa-vít
tan nát vì hình phạt nầy và ông cầu xin Chúa giáng án phạt trên ông. Tại sao
Đức Chúa Trời giết hàng ngàn người trong khi cho Đa-vít được sống? Nhưng chúng
ta phải chú ý câu IISa 24:1 cho biết rằng
Đức Chúa Trời nổi giận cùng dân Y-sơ-ra-ên mà không phải cùng Đa-vít, nên Ngài
phải phạt dân sự. Người ta nghĩ rằng nạn bệnh dịch nầy lấy đi mạng sống của
những người từng theo Áp-sa-lôm phản loạn và những người không muốn Đa-vít làm
vua của họ. Có thể như vậy, nhưng Kinh Thánh không cho chúng ta biết gì về điều
đó.
Đức Chúa Trời cho Đa-vít nhìn thấy
thiên sứ bay lượn trên Giê-ru-sa-lem gần sân đạp lúa
của A-rau-na (Ọt-nan), người Giê-bu-sít. Người Giê-bu-sít là những cư dân
nguyên thuỷ của Giê-ru-sa-lem, nên Ọt-nan đã đầu phục sự cai trị của
Đa-vít và trở thành một cư dân có tiếng tốt ở Giê-ru-sa-lem. Chúng ta không
biết Đa-vít có nghe lời Đức Chúa Trời bảo thiên sứ ngưng trừng phạt dân sự hay
không, nhưng Đa-vít biết rằng Đức Chúa Trời nhân từ và khoan dung, nên ông cầu
xin Ngài thương xót “bầy chiên nơi đồng cỏ” (Thi
100:3). Các trưởng lão trong Y-sơ-ra-ên đi với Đa-vít (ISu 21:16) và cùng với ông sấp mặt xuống đất tỏ
lòng ăn năn và thờ lạy. Chính tội của Đa-vít đã gây ra nạn dịch nầy, nhưng có
lẽ họ nhận ra dân sự cũng phạm tội và đáng gánh chịu roi phạt của Đức Chúa
Trời.
Một lần nữa, tiên tri Gát lại có
mặt, lần nầy ông mang theo một sứ điệp đầy hy vọng. Đa-vít phải lập một bàn thờ
tại sân đạp lúa của Ọt-nan dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va, và bệnh dịch sẽ chấm
dứt. Là một vị vua, Đa-vít có thể lấy hoặc mượn tài sản của dân chúng (ISa 8:14), nhưng ông nhất định đòi mua chỗ đất ấy.
Đa-vít biết giá ông phải trả cho tội lỗi mình rất cao và ông không muốn dâng
cho Đức Giê-hô-va điều gì không đáng giá. Bỏ ra 50 siếc-lơ bạc Đa-vít mua một
con bò làm của tế lễ và cái ách gỗ làm củi đốt, và khoảng 600 siếc-lơ vàng để
mua sân đạp lúa ấy (IISa 24:24 ISu 21:25). Khi thầy tế lễ dâng của lễ, Đức Chúa
Trời đã giáng lửa từ trời xuống thiêu chúng như dấu hiệu cho thấy sự tiếp nhận
của Ngài (21:26 Le
9:24).
Biết rằng vua có thể mua tài sản của
mình, tại sao Ọt-ba muốn tặng không cho Đa-vít? Hay đề nghị của ông ta chỉ là
một thí dụ khác về phép xả giao trong nghệ thuật mặc cả của Phương Đông? (Sa 23:1-20). Có lẽ Ọt-ba còn nhớ những chuyện đã
xảy ra với con cháu của Sau-lơ vì những việc Sau-lơ làm với dân Ga-ba-ôn (IISa 21:1-14) và ông không muốn cuộc sống của các
con trai ông bị đe doạ (ISu 21:20). Câu 23
trong bản dịch King James là có một chút khó hiểu và có ý nói rằng chính Ọt-nan
là vua, nên bản NIV hay NASB thường được tra khảo hơn.
Chỗ đất mà Đa-vít mua không phải là
mãnh đất bình thường, vì nó là nơi Áp-ra-ham đã đưa con trai ông lên bàn thờ (Sa 22:1-24) và ở đó Sa-lô-môn sẽ xây đền thờ cho
Đức Giê-hô-va (ISu 22:1 IISu 3:1). Sau khi bệnh dịch chấm dứt, Đa-vít dâng
chỗ đất đó cho Đức Giê-hô-va (Le 27:20-21)
và dùng nó làm nơi dâng tế lễ và thờ phượng. Bàn thờ và đền tạm ở Ga-ba-ôn,
nhưng Đa-vít được phép thờ phượng tại Giê-ru-sa-lem. Chỗ đất ấy được thánh hóa
và đến một ngày nó sẽ là nền của đền thờ cho Đức Chúa Trời. Đa-vít đã tuyên bố,
“Ấy đây là đền của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, đây là bàn thờ về của lễ thiêu của
Y-sơ-ra-ên” (ISu 22:1), và từ thời gian đó
Đa-vít bắt đầu chuẩn bị mọi thứ cần dùng cho Sa-lô-môn xây dựng đền thờ.
Nếu bạn được hỏi hai tội
lớn nhất của Đa-vít, thì bạn có thể trả lời, “
Ông phạm tội tà dâm với Bát-sê-ba và tội tu bộ dân Y-sơ-ra-ên”; đây là câu trả
lời đúng. Nhưng từ hai trọng tội này, Đức Chúa
Trời đã xây một đền thờ! Bát-sê-ba đã sanh Sa-lô-môn và Đức Chúa
Trời chọn con trai nầy kế vị Đa-vít làm vua Y-sơ-ra-ên. Trên miếng đất Đa-vít
mua và lập bàn thờ trên đó, Sa-lô-môn đã xây dựng một đền thờ và dâng nó cho sự
vinh hiển của Đức Chúa Trời. Những gì Đức Chúa
Trời làm cho Đa-vít chắc chắn không phải là sự miễn trừ tội lỗi (Ro 6:1-2), vì Đa-vít đã trả giá cao cho những gì
ông đã phạm. Tuy nhiên, biết được những gì Đức Chúa Trời đã làm cho Đa-vít
chúng ta được khích lệ để tìm kiếm mặt Ngài và tin nơi ân điển Ngài khi chúng ta không vâng lời Ngài. ”Nhưng nơi nào tội lỗi đã gia
thêm, thì ân điển lại càng dư dật hơn nữa” (5:20).
Chúng ta đang hầu việc một Đức Chúa Trời đầy lòng
nhân từ!


