MỤC LỤC
01. CẦN CÓ: MỘT NGƯỜI GIẢI CỨU
02. CHIẾN TRANH ĐƯỢC TUYÊN BỐ
03. ĐỨC-GIÊ-HÔ-VA, ĐẤNG MẠNH MẼ TRONG CHIẾN TRẬN
04. MỘT TAI VẠ NỮA
05. ĐƯỢC CỨU CHUỘC VÀ VUI MỪNG
06. TRƯỜNG ĐỜI
07. “ĐỨC GIÊ-HÔ-VA VẠN QUÂN Ở CÙNG CHÚNG TA”
08. HÃY LẮNG NGHE TIẾNG PHÁN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
09. QUYỂN SÁCH GIAO ƯỚC
10. NƠI ĐỨC CHÚA TRỜI NGỰ VÀO. PHẦNI
11. NƠI ĐỨC CHÚA TRỜI NGỰ VÀO. PHẦNII
12. CHỨC TẾ LỄ THÁNH
13. MỘT TẤM LÒNG TAN VỠ VÀ MỘT GƯƠNG MẶT RẠNG NGỜI
14. LỜI
BẠT
1. CẦN CÓ: MỘT NGƯỜI
GIẢI CỨU (Xu 1:1-4:31)
Có một bé gái định nghĩa
“radio” như là “tivi không hình có hình ảnh”; cô
bé nói như thế tôi không đồng ý. Tôi đã lớn lên trong
thời đại hoàng kim của radio, và tôi có thể đoan chắc với các bạn rằng khi tôi
lắng nghe radio, tôi đã nhìn thấy được nhiều hình ảnh sinh động và thú vị –
ngay trong trí tưởng tượng của tôi. Tivi không cho bạn điều này. Và những câu chuyện trên radio cứ tiếp tục, ngày này sang
ngày kia, luôn khiến chúng ta phải thắc mắc, “Điều gì sẽ xảy ra tiếp sau đó ?”.
Cựu Ước là “một câu
chuyện liên tục” của Đức Chúa Trời về chương trình cứu rỗi vĩ đại mà Ngài đã
báo trước cho A-đam và Ê-va (Sa 3:15) rồi cho Áp-ra-ham (12:1-3). Điều này giải
thích vì sao bản văn Hê-bơ-rơ của sách Xuất Ê Díp Tô Ký bắt đầu bằng từ “và”, vì Đức
Chúa Trời đang tiếp tục câu chuyện Ngài đã bắt đầu ở Sáng Thế ký. [1] Câu chuyện kỳ
diệu của Đức Chúa Trời đưa dẫn tới cuối cùng là sự Giáng Sinhcủa Chúa Giê-xu trên đất và sự chết của Ngài trên thập tự giá,
và câu chuyện này sẽ không kết thúc cho đến khi dân sự của Đức Chúa Trời được
lên Thiên Đàng và được nhìn thấy Chúa Giê-xu đang ngồi trên ngôi. Thật là một
câu chuyện tuyệt diệu !
Chủ đề của Xuất Ai Cập
ký là sự giải cứu, và bạn không thể có được sự giải cứu mà không cần đến một người
giải cứu. Môi-se bước vào chức vụ từ đây, ông là người giải cứu, người lập pháp
và là người cầu thay vĩ đại.
1. Người giải cứu (Xu 1:1-22)
Các ra-bi Do Thái gọi Xuất Ê Díp Tô Ký là “Sách của các
Tên gọi” (hoặc “Đây là các Tên”) vì nó mở đầu bằng một danh sách tên của các
con trai Gia-cốp (Y-sơ-ra-ên), họ đã đem gia đình đến xứ Ai Cập để chạy trốn
nạn đói ở Ca-na-an (Sa 46:1-34) [2] Đức Chúa Trời đã dùng những kinh nghiệm của dân Y-sơ-ra-ên tại xứ Ai Cập để chuẩn bị dân này cho
những nhiệm vụ đặc biệt Ngài giao cho họ thực hiện trên đất: làm chứng về Đức
Chúa Trời chân thật và hằng sống, viết nên bản Kinh Thánh, và đem Chúa Cứu Thế
vào trong thế gian.
Sự chúc phước (Xu 1:1-7). Suốt những năm Giô-sép làm quan tể
tướng tại xứ Ai Cập, gia đình ông rất được trọng vọng; thậm chí sau khi Giô-sép
qua đời, ký ức về ông vẫn luôn được tôn trọng thể hiện qua cách đối xử của dân
Ai Cập với dân Hê-bơ-rơ. Đức Chúa Trời đã giữ lời hứa về giao ước của Ngài với
Áp-ra-ham qua việc chúc phước cho dòng dõi của ông và khiến họ gia tăng thêm
bội phần (Sa 12:1-3 15:5
17:2,6 22:17). Vào
thời điểm diễn ra cuộc hành trình rời khỏi xứ Ai Cập, có hơn 600.000 người nam
từ 20 tuổi trở lên (Xu 12:37 38:26) và khi bạn thêm vào đó con số của phụ nữ và
trẻ em thì tổng số có thể lên tới gần ba triệu người, tất cả đều là con cháu trong gia đình của Gia-cốp: Đức Chúa
Trời chắc chắn đã giữ lời hứa của Ngài !
Nhưng một Pha-ra-ôn của
thế hệ mới thì lo lắng với sự gia tăng nhanh chóng của dân Do Thái, vì vậy ông ta đã
đưa ra những biện pháp nhằm kiềm hãm lại sự gia tăng này.
Bước 1:
Đày đọa những người Do Thái đã trưởng thành (1:8-14). Đức Chúa
Trời đã cho Áp-ra-ham biết rằng con cháu
ông sẽ đi đến một xứ lạ và ở đó họ sẽ bị bắt làm nô lệ và bị ngược đãi, nhưng
Ngài hứa rằng vào đúng thời điểm, Ngài sẽ giải phóng họ bởi quyền năng của Ngài
(Sa 15:12-14). Đức Chúa Trời so sánh
xứ Ai Cập với một lò lửa bốc khói (c.17 Phu 4:20),
đây là nơi dân sự Ngài sẽ phải chịu khổ, nhưng kinh nghiệm sống trong lò lửa
như thế này sẽ biến đổi Y-sơ-ra-ên trở nên một dân tộc mạnh mẽ (Sa 46:3).
Trải qua nhiều thế kỷ dân Do Thái ở trong xứ Ai Cập (15:13 Xu 12:40-41),
họ đã chứng kiến nhiều triều đại của Ai Cập đến rồi qua đi, nhưng ai là vị vua
mới không biết đến Giô-sép cùng gia đình ông và đã
tìm cách hủy diệt “dân sự của con cái Y-sơ-ra-ên” ? [3] Triều đại thứ 17, triều đại Hyksos [4] là những người ngoại quốc và “khách lạ” giống như dân Do
Thái, nên có lẽ họ cảm thông với dân Y-sơ-ra-ên, nhưng triều đại thứ 18 là
người Ai Cập và các nhà cai trị của họ đã trục xuất những người ngoại quốc ra
khỏi xứ. Đây có thể là triều đại đã khởi đầu sự bắt bớ trên dân Y-sơ-ra-ên.
Vì sao những người Ai
Cập muốn làm cho cuộc sống của dân Do Thái trở nên khốn khổ ? Y-sơ-ra-ên là một
nguồn phước trong xứ như trước đó Giô-sép cũng đã từng là một nguồn phước cho Ai Cập (Sa 39:1-6), và họ không hề gây nên những rắc rối.
Lý do được Pha-ra-ôn đưa ra là sự hiện diện của quá nhiều người Do Thái sẽ làm
ảnh hưởng đến sự an nguy của xứ ấy vì người Do Thái là những người ngoại bang,
nếu có một sự xâm lược nào xảy ra trong xứ thì chắc chắn họ sẽ liên minh với kẻ
thù. Tuy nhiên, dù Pha-ra-ôn có thực hiện điều này hay không thì nguyên nhân
thật sự vẫn là sự mâu thuẫn đã được công bố trong (3:15),
đó là sự thù địch giữa dân sự của Đức Chúa Trời và con cái của Sa-tan, và mâu
thuẫn này vẫn còn tiếp diễn trong thế giới ngày nay.
Trong sử sách được ghi
chép lại thì không một dân tộc nào phải chịu cảnh khốn cùng như dân Hê-bơ-rơ đã
gánh chịu, tuy nhiên, mọi quốc gia hay vị cầm quyền nào từng bắt bớ dân Do Thái
cũng đã bị trừng phạt. Sau hết thì lời hứa của Đức Chúa Trời đối cùng Áp-ra-ham vẫn là: “Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi,
và ta sẽ rủa sả người nào rủa sả ngươi” (12:3
NKJV). Đức Chúa Trời đã giữ lời hứa này qua cách Ngài hành xử với người Ai Cập
và Ba-by-lôn trong thời xưa, cũng như với những nhà độc tài trong thời nay. Đức
Chúa Trời đã rất nhẫn nại khi trông thấy các dân tộc bắt bớ tuyển dân của Ngài,
nhưng cuối cùng thì sự trừng phạt của Đức Chúa Trời cũng đã giáng xuống những
kẻ áp bức.
Các đốc công Ai Cập “bắt họ làm việc
một cách nhẫn tâm” (Xu 1:13 NIV), buộc các nô lệ người Do Thái xây thành và làm việc
trong những cánh đồng. Nhưng Đức Chúa Trời đã chúc phước khiến dân Y-sơ-ra-ên
càng thêm lên nhiều hơn, và điều này khiến những kẻ bắt bớ họ càng thêm sợ hãi
và tức giận. Cần phải thực hiện biện pháp khác để kiềm giữ dân Y-sơ-ra-ên.
- Bước 2: Giết hại các bé trai Do Thái mới chào đời (1:15-21). Nếu kế hoạch này thành công, Pha-ra-ôn sẽ triệt hạ được toàn
bộ dân Hê-bơ-rơ. Thế hệ những người nam sau này sẽ chết và những người nữ cuối
cùng rồi sẽ lấy những tôi tớ Ai Cập và trở nên dòng giống của người Ai Cập. Thế
nhưng (Sa 3:15 12:1-4) cho biết rằng
Đức Chúa Trời sẽ không cho phép một việc như thế xảy ra, và Ngài đã dùng hai bà
đỡ người Do Thái để đánh lừa Pha-ra-ôn [5].
Đây là trường hợp đầu
tiên trong Kinh Thánh cho biết về điều mà ngày nay chúng ta gọi là “sự không
vâng phục của một công dân”, nghĩa là từ
chối tuân theo một luật lệ không tốt để thực hiện được một điều tốt hơn. Lời
Kinh Thánh trong (Mat 20:21-25 Ro 13:1-14 IPhi 2:11)
khuyên Cơ Đốc Nhân phải vâng phục nhà cầm quyền của mình; nhưng (Ro 13:5) nhắc nhở chúng ta rằng sự vâng phục của
chúng ta không được đi ngược lại với lương tâm của chúng ta. Khi các luật lệ
của Đức Chúa Trời trái với luật lệ của con người thì chúng ta “phải vâng lời
Đức Chúa Trời hơn là vâng lời người ta” (Cong 5:29).
Bạn sẽ thấy rằng điều này không những được minh hoạ qua các bà đỡ, mà còn qua
Đa-ni-ên cùng các bạn của ông (Da 1:1-21 3:1-30 6:1-28),
cũng như qua các sứ đồ (Cong 4:1-5:42) [6]
Các bà mụ đã nói dối
Pha-ra-ôn chăng? Có lẽ là không [7] .Các em bé đã ra đời trước khi các bà mụ đến vì
Siếp-ra và Phu-a đã bảo những người giúp đỡ họ đến trễ! Đức Chúa Trời đã chúc
phước cho hai bà mụ vì đã đặt mạng sống của họ trên đường tơ kẽ tóc để cứu dân
tộc Do Thái khỏi nạn diệt chủng. Tuy nhiên, Ngài đã ban vinh dự cho hai người
đàn bà này một cách kỳ lạ: Ngài ban cho họ con cái vào thời điểm khi mà việc có
con là nguy hiểm ! Có lẽ những đứa con của họ đều là con gái, hoặc có thể Đức
Chúa Trời đã bảo vệ các con trai của họ như Ngài đã bảo vệ Môi-se. Tuy nhiên,
sự chúc phước này từ Đức Chúa Trời cho chúng ta thấy con cái quý là dường nào
đối với Chúa: Ngài muốn ban cho hai người đàn bà này phần thưởng tốt nhất của
Ngài, vì vậy Ngài đã ban cho họ con cái (Thi 127:3).
- Bước3: Nhận chìm các bé
trai (Xu 1:22). Khi Pha-ra-ôn phát hiện ra mình bị lừa, ông ta thay đổi kế
hoạch và truyền lệnh cho cả dân sự phải bảo đảm rằng các bé trai Do Thái phải
bị nhận chìm dưới sông Nile linh thiêng. Người của Pha-ra-ôn không thể kiểm
soát được tất cả các bà mụ người Do Thái nhưng người dân Ai Cập có thể để ý
theo dõi các nô lệ người Do Thái và báo lại khi có một bé trai ra đời. Tuy
nhiên, vẫn có một bé trai đã chào đời mà Pha-ra-ôn không thể giết chết được.
2. Người giải cứu đã ra
đời (Xu 2:1-10)
[8] Am-ram và Giô-kê-bết là cha mẹ của Môi-Se (6:20), và trong khi
Xuất Ê Díp Tô Ký nhấn mạnh đến đức tin của người mẹ, thì He 11:23 khen ngợi cả hai bậc cha mẹ vì đã tin cậy
Đức Chúa Trời. Chắc chắn họ phải có đức tin để có những mối quan hệ bình thường
trong hôn nhân trong suốt thời kỳ nguy hiểm khi mà các trẻ sơ sinh Do Thái phải
bị giết. Môi-se đã trở nên một người có đức tin mạnh mẽ, và ông đã học được
điều này trước hết từ hai bậc cha mẹ tin kính của mình. Am-ram và Giô-kê-bết đã
có hai con: Mi-ri-am, đứa con cả và A-rôn, lớn hơn Môi-se 3 tuổi (Xu 7:7).
Ngay từ đầu, Môi-se đã được nhận ra
là “đứa trẻ khác thường” (Cong 7:20 NIV He 11:23) [9] và rõ ràng là Đức Chúa Trời đã có một mục đích đặc biệt
dành cho ông. Tin rằng điều này sẽ trở thành sự thật, cha mẹ của Môi-se đã bất
chấp sắc lệnh của Pha-ra-ôn và vẫn giữ cho con trai của họ còn sống. Điều này
không dễ thực hiện vì mọi người Ai Cập giờ đây đều là thám tử của Pha-ra-ôn, và
đang giám sát việc nhận chìm các con trẻ (Xu
1:22).
Giô-kê-bết đã vâng theo
sắc luật này khi bà đặt Môi-se trên dòng sông Nile, nhưng dĩ nhiên là bà đang bất chấp những mệnh lệnh
của Pha-ra-ôn qua việc làm của mình. Bà đang tin cậy vào sự định liệu
của Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời đã không làm bà phải thất vọng. Khi công chúa đến sông Nile để tham gia lễ tắm gội theo
nghi thức tôn giáo, nàng nhìn thấy cái rương, phát hiện ra đứa bé, và nghe
tiếng nó khóc; bản năng của người mẹ bảo nàng phải cứu đứa trẻ và chăm sóc cho
nó.
Đức Chúa Trời đã dùng
nước mắt của một em bé để điều khiển tấm lòng của một vị công chúa quyền thế,
và Ngài đã sử dụng lời nói của Mi-ri-am để sắp xếp cho người mẹ của đứa bé nuôi
dưỡng đứa con trai và được trả công cho việc ấy! Nhóm từ “yếu đuối như một em
bé” không được áp dụng trong nước Đức Chúa Trời; vì khi Chúa muốn thực hiện một
công việc vĩ đại, Ngài thường bắt đầu bằng cách ban cho một đứa bé. Sự thật này được thể hiện qua Y-sác, Giô-sép, Sa-mu-ên, Giăng Báp-tít và đặc biệt là Chúa
Giê-xu. Đức Chúa Trời có thể sử dụng những điều yếu đuối nhất để đánh bại những
kẻ thù mạnh mẽ nhất (ICo 1:25-29),
nước mắt của một em bé là vũ khí trước nhất của Đức Chúa Trời trong cuộc chiến
của Ngài chống lại Ai Cập.
Công chúa đã nhận Môi-se làm con của
nàng, điều này có nghĩa là Môi-se sẽ có được một địa vị cao trọng trong xứ và
một nền học vấn đặc biệt để phục vụ trong bộ máy cai trị (Cong 7:22). Theo ngôn ngữ của Ai Cập thì Môi-se
nghĩa là “được sinh ra” hoặc là “con trai” và nghe giống như một từ Hê-bơ-rơ có nghĩa là “kéo ra” (khỏi nước). Những năm sau
này, tên của Môi-se sẽ nhắc nhở ông về Đức Chúa Trời là Đấng đã cứu vớt ông và
làm những việc lớn cho ông tại xứ Ai Cập. Môi-se đã nhiều lần cứu dân sự
của ông vì ông tin cậy nơi Đức Chúa Trời.
3. Người giải cứu được
chuẩn bị (Xu 2:11-25)
Môi-se trải qua 40 năm
đầu tiên của ông (Cong
7:23) phục vụ trong triều chính của Ai Cập
(một số học giả nghĩ rằng ông đang được chuẩn bị để kế vị Pha-ra-ôn). Ai
Cập dường như là một nơi ít có khả năng nhất để Đức
Chúa Trời khởi đầu việc huấn luyện cho một người lãnh đạo, nhưng đường lối của
Đức Chúa Trời không phải là đường lối của chúng ta. Để trang bị về sự hầu việc
cho Môi-se, Đức Chúa Trời đã dùng đến nhiều phương cách.
Học vấn. “Và Môi-se đã được học mọi sự khôn ngoan của người Ai Cập, mạnh mẽ
trong lời nói và việc làm” (Cong
7:22 NKJV). Điều này có liên quan đến việc gì? Vào thời bấy giờ, Ai Cập
đã có một nền văn minh rất phát triển, đặc biệt là trong lãnh vực xây dựng,
toán học và thiên văn học. Nhờ vào kiến thức về thiên văn học, họ đã phát triển một hệ thống lịch có tính chính xác
đáng kinh ngạc, và các kỹ sư của họ đã vẽ sơ đồ và giám sát việc xây dựng các
dinh thự hiện vẫn đang đứng vững. Các thầy tế lễ và các bác sĩ của họ là những
người tinh thông về nghệ thuật ướp xác, còn các quan trưởng của họ rất có tài
về mặt tổ chức và hành chính. Ngày nay khách tham quan Ai Cập không khỏi bị gây
ấn tượng bởi những công trình của một dân tộc vào thời cổ đại này. Tôi tớ của
Đức Chúa Trời phải học biết tất cả những gì ông có thể học được, cống hiến sự
học của mình cho Đức Chúa Trời, và hầu việc Ngài cách trung tín.
Sự thất bại (Xu 2:11-14). Dù vẫn có
một số người chưa biết rõ về nguồn gốc của ông (c.19) nhưng Môi-se biết rằng
ông là một người Hê-bơ-rơ chớ không phải người Ai Cập, và ông không thể ngăn
được sự cảm thương trước cảnh ngộ khốn khổ của dân tộc mình. Một ngày nọ, ông
đã có một quyết định can đảm để giúp người dân của mình, ngay cả khi việc này
có nghĩa là đánh mất địa vị cao quý của ông với tư cách là con nuôi của công chúa
(He 11:24-26). Những
lạc thú [10] và châu báu của xứ Ai Cập mờ nhạt trước mắt khi ông thấy
chính mình đang giải cứu cho tuyển dân của Đức Chúa Trời.
Có thể vị quan người Ai
Cập này không phải chỉ đang phạt người nô lệ Do Thái, mà đang đánh người ấy đến
chết, vì từ ngữ Hê-bơ-rơ có thể mang ý nghĩa đó, vì vậy khi Môi-se can thiệp
vào thì có lẽ ông đang cứu mạng sống của một con người. Và nếu vị quan Ai Cập
quay sang chống lại Môi-se, việc này rất có thể xảy ra, thì khi ấy Môi-se cũng
đang tự vệ cho mạng sống của mình.
Nhưng nếu Môi-se dự định
sẽ giải phóng những người Hê-bơ-rơ bằng cách giết những người Ai Cập từng người
một thì ông sẽ rất thất vọng. Ngày hôm sau ông khám phá ra rằng những người Ai
Cập chỉ là một phần của vấn đề, vì dân Do Thái thậm chí đã không thể hòa hợp được với nhau! Khi ông tìm cách hòa giải hai người Do Thái, họ
đã từ chối sự giúp đỡ của ông ! Còn hơn thế nữa, ông biết rằng bí mật của ông
đã bị bại lộ và Pha-ra-ôn đang tìm giết ông, Môi-se chỉ còn một việc có thể làm
được và đó là chạy trốn.
Hai sự kiện này đã cho thấy
Môi-se là một người có đầy lòng thương xót, có động cơ ngay thật, nhưng hành
động lại nóng nảy. Khi biết được điều này có
thể bạn sẽ không tin được rằng sau đó ông sẽ được gọi là “người nhu mì nhất
trên đất” (Dan 12:3). Thất bại của Môi-se trong việc giải cứu những người Do Thái
chắc hẳn đã khiến ông bị suy sụp. Đó cũng là lý do mà Đức Chúa Trời đã đem ông
vào xứ Ma-đi-an và cho ông trở nên một người chăn chiên trong suốt 40 năm.
Môi-se phải học biết rằng sự giải cứu sẽ đến từ cánh tay của Đức Chúa Trời,
không phải đến từ chính ông (Cong 7:25
Xu 13:3).
Nơi vắng vẻ và sự phục
vụ khiêm nhường (Xu
2:15-25). Môi-se đã trở thành một kẻ bỏ trốn và lánh đến xứ của dân
Ma-đi-an là những người bà con của dân Do Thái (Sa
25:2). Với bản tính can đảm vốn có, ông đã giúp các con gái của Rê-u-ên,
thầy tế lễ của xứ Ma-đi-an (Xu 2:18), bởi
điều này gia đình họ đã tiếp đón ông, gả cho ông một trong những người con gái
là Si-phô-ra, và bà đã sanh cho ông một đứa con trai [11]. Sau đó, bà
sanh một con trai nữa, là Ê-li-sê (18:1-4
ISu 23:15). Rê-u-ên (“bạn của Đức Chúa
Trời”) còn được biết đến dưới tên gọi là Giê-trô (Xu
3:1 18:12,27), nhưng Giê-trô (“sự xuất sắc”) có thể là danh
hiệu thầy tế lễ hơn là tên gọi của ông Trong (Dan
10:29), [12]
Người “mạnh mẽ trong lời
nói và việc làm” giờ đây phải ở trong đồng cỏ vắng vẻ để chăn bầy chiên bướng
bỉnh, nhưng đây chính là sự chuẩn bị cần thiết cho ông để lãnh đạo một dân tộc
bướng bỉnh. Y-sơ-ra-ên là bầy chiên đặc biệt của Đức Chúa Trời (Thi 100:3) và
Môi-se là người chăn chiên được chọn của Ngài. Giống như 13 năm làm tôi mọi tại
xứ Ai Cập của Giô-sép và khoảng thời gian gần 3 năm của Phao-lô sau khi ông quy
đạo (Ga 1:16-17), bốn mươi năm chờ đợi và
làm việc của Môi-se đã chuẩn bị cho ông một cuộc đời chức vụ trung tín. Đức Chúa Trời không vội vã đặt tay trên các tôi tớ
của Ngài rồi sai phái ngay nhưng vẫn dành thời gian để trang bị họ cho chức vụ.
Sự trì hoãn của Đức Chúa
Trời không phải là chứng cứ của sự không quan tâm, vì Ngài vẫn đang nghe những
tiếng thở than của chúng ta, nhìn thấy nghịch cảnh của chúng ta, cảm nhận nỗi
buồn rầu của chúng ta, và vẫn nhớ giao ước Ngài. Điều Ngài đã hứa Ngài sẽ thực
hiện, vì Ngài không bao giờ phá vỡ giao ước của Ngài với dân Ngài. Khi đến thời
điểm thích hợp, Đức Chúa Trời sẽ lập tức hành động.
4. Người giải cứu được
kêu gọi (Xu 2 :11-25) (Xu
3:1-4:17)
Xu 2 :11-25.Môi-se đã
trải qua 40 năm làm một người chăn chiên ở xứ Ma-đi-an (Cong 7:23 Xu 7:7) và trong suốt nhiều ngày và đêm ở trong
đồng vắng, chắc chắn ông đã suy ngẫm về những việc thuộc về Đức Chúa Trời và
cầu nguyện cho dân tộc của ông đang chịu sự họan nạn tại xứ Ai Cập. Việc Đức
Chúa Trời kêu gọi những người đang bận rộn thật là có ý nghĩa: Ghê-đê-ôn đang
đập lúa (Cac 6:1-40), Sa-mu-ên đang hầu việc
trong đền tạm (ISa 3:1-21), Đa-vít đang chăm
sóc bầy chiên (17:20), Ê-li-sê đang cày
ruộng (IVua 19:19-21), bốn sứ đồ đang lo
nghề đánh cá của họ (Mac 1:16-20) và
Ma-thi-ơ đang thâu thuế (Mat 9:9). Đức Chúa
Trời không có điều gì hay đẹp để nói về sự lười biếng
(Ch 24 :30-34 Mat 25:26-27 IITe 3:10-12).
-Điều
Môi-se đã đuợc thấy (Xu 3:1-4). Đức Chúa Trời
có thể sử dụng một bụi gai vô tri, đốt cháy nó lên, và biến nó thành một phép
lạ; và đây cũng là điều Ngài muốn thực hiện đối với Môi-se. Một số người nhìn
thấy nơi bụi gai cháy hình ảnh về dân tộc Y-sơ-ra-ên: họ là ánh sáng của Đức
Chúa Trời giữa thế gian, họ bị bắt bớ nhưng không bị hao mòn đi. Nhưng bụi gai
cháy cũng là hình ảnh về điều Đức Chúa Trời đã hoạch định cho Môi-se: ông là
bụi gai yếu ớt nhưng Đức Chúa Trời là ngọn lửa ban cho quyền năng (19:18 24:17 Phu 4:24 Cac 13:20
He 12:29); và với sự vùa giúp của Đức Chúa
Trời, Môi-se có thể hoàn thành được bất cứ công việc
gì.
-Điều Môi-se đã được nghe (Xu 3:5-10). Đức
Chúa Trời phán cùng Môi-se và cho ông lòng tin quyết rằng Ngài là Đức Chúa Trời
của tổ phụ ông và Ngài cảm biết được sự khốn cùng của dân Do Thái tại xứ Ai
Cập. Giờ đây Ngài đã sẵn lòng giải cứu họ ra khỏi xứ Ai Cập và dẫn họ vào vùng
Đất Hứa, và Môi-se sẽ là người lãnh đạo được Ngài chọn lựa [13] . Lời phán của Đức Chúa Trời “Này, ta sẽ sai
ngươi” chắc hẳn đã khiến Môi-se kinh ngạc. Vì sao Đức Chúa Trời lại chọn một
người thất bại ?
-Điều Môi-se đã làm (3:1-4:17), Môi-se lẽ ra phải vui mừng vì Đức Chúa
Trời cuối cùng đã đáp lời cầu nguyện, và lẽ ra ông phải đầu phục ý muốn Đức
Chúa Trời mà thưa rằng “Có tôi đây, xin hãy sai tôi!”. Nhưng trái lại, ông đã
lý luận với Chúa và cố tìm cách để trốn tránh sự kêu gọi thiêng liêng phải giải
cứu Y-sơ-ra-ên ra khỏi ách nô lệ. 40 năm trước đó tại xứ Ai Cập, Môi-se đã từng
hành động như một con ngựa hung hăng và vượt lao lên trước Đức Chúa Trời, nhưng
giờ đây ông phản ứng như một con la bướng bỉnh và kháng cự lại với Đức Chúa
Trời (Thi 32:9).
Môi-se đã đưa ra 5 lý do ông không thể chấp nhận sự kêu gọi của Đức Chúa Trời.
(1) “Tôi là một kẻ bất tài” (Xu
3:11-12). Điều Môi-se hay người khác nghĩ về ông thật sự không quan
trọng. Đức Chúa Trời đã phán, và đó là tất cả những gì bảo đảm cho Môi-se rằng
ông là người thích hợp cho công tác này. Phải chăng 40 năm chăn chiên đã dập
tắt ngọn lửa trong tâm hồn ông, vì thế ông có ý nghĩ rằng ông không thể hầu
việc Chúa ? Tại sao ông chỉ nhìn vào chính mình thay vì phải hướng về Chúa bởi
đức tin ? “Ta sẽ ở cùng ngươi” là tất cả sự bảo đảm mà các tôi tớ của Đức Chúa
Trời cần đến để được thành công (Gios 1:5 Es 41:10 43:5).
(2) “Tôi không biết danh Ngài” (Xu
3:13-22). Với tư cách là người đại diện của Đức Chúa Trời, Môi-se phải
giúp dân Do Thái biết rõ về đặc tính của Ngài. Dĩ nhiên, danh của Đức Chúa Trời
là “Giê-hô-va” đã được biết đến từ những thế kỷ trước (Sa
4:26) và rất quen thuộc đối với các tộc trưởng (14:22
15:1 25:21-22
28:13 49:18).
Điều Môi-se muốn hỏi là “Danh Ngài có nghĩa là gì ?
Ngài là một Đức Chúa Trời như thế nào?” Đức Chúa Trời giải thích rằng Giê-hô-va
là một danh xưng năng động, dựa trên động từ “là” hoặc “trở nên” của tiếng
Hê-bơ-rơ. Ngài là Đấng tự hữu , là Đấng đã, đang và sẽ luôn là Đức Chúa Trời
thành tín và đáng tin cậy, là Đấng tự xưng: “TA LÀ” [14]. Nhiều thế kỷ sau, Chúa Giê-xu sẽ sử
dụng danh xưng “TA LÀ” và hoàn thiện nó: “Ta là bánh của sự sống” (Gi 6:35), “Ta là sự sáng của thế gian” (8:12), “Ta là gốc nho thật” (15:1) và vân vân.
Đức Chúa Trời hằng hữu
biết được sự kết cuộc ngay từ lúc khởi đầu, vì vậy Ngài có thể cho Môi-se biết
chính xác điều gì sẽ xảy ra khi ông trở lại Ai Cập
(Xu 3:16-22). Các trưởng lão Y-sơ-ra-ên sẽ
chấp nhận Môi-se làm người lãnh đạo của họ và sẽ tin rằng Đức Chúa Trời sắp giải cứu họ. Hoàng đế của Ai Cập sẽ chống nghịch
lại sứ điệp của Đức Chúa Trời và phải chịu những hình phạt khủng khiếp từ Đức
Chúa Trời. Dân Y-sơ-ra-ên sẽ được giải cứu khỏi xứ và sẽ tước đọat của cải của
dân Ai Cập, và nhờ đó họ nhận lãnh được tiền công mà họ đã không được trả trong
suốt những tháng năm làm nô lệ.
(3) “Các trưởng lão sẽ không tin tôi” (Xu 4:1-9). “Họ sẽ không tin” cũng có nghĩa là “Tôi
không tin”. Môi-se lo lắng về sự được ủy nhiệm của ông trước các trưởng lão Do
Thái, vì thế Đức Chúa Trời ban cho ông ba dấu hiệu để thuyết phục các trưởng
lão rằng ông thật sự là tôi tớ được chọn của Đức Chúa Trời. “Người Do Thái đòi
một dấu hiệu” (ICo 1:22). Từ đây, Môi-se sẽ
kinh nghiệm được quyền năng của Đức Chúa Trời và làm những phép lạ.
(4) “Tôi không phải là một người nói lưu loát” (Xu 4:10-12). Môi-se hoàn
toàn không hiểu sứ điệp về danh của Đức Chúa Trời và quyền năng mầu nhiệm của
Ngài. Danh xưng ‘TA LÀ” là tất cả những gì chúng ta cần đến trong mọi hoàn cảnh
của đời sống, và thật dại dột để chúng ta lý luận rằng “Tôi không phải là”. Nếu
Đức Chúa Trời có thể biến gậy thành rắn và rắn thành gậy, nếu Ngài có thể gây
ra và chữa trị bệnh phung, và nếu Ngài có thể biến nước thành huyết, thì Ngài
cũng có thể giúp Môi-se rao ra Lời Ngài một cách năng
quyền [15] Môi-se đang phạm
sai lầm là chỉ nhìn vào chính mình thay vì phải hướng nhìn Đức Chúa Trời (Xu 6:12). Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên chúng ta,
vì thế Ngài có thể sử dụng những tài năng và năng lực Ngài ban cho chúng ta để hoàn thành những nhiệm vụ mà Ngài đã giao
phó cho chúng ta.
Môi-se đang bày tỏ một
thái độ kiêu ngạo hay sự khiêm nhường thật ? Bốn mươi năm trước, ông cảm thấy
mình hoàn toàn có thể đương đầu với kẻ thù và hành động thay cho dân tộc của
ông, nhưng giờ đây ông đang thối lui và tự nhận mình là một kẻ thất bại vô dụng. Sự khiêm nhường không phải là tự đánh giá thấp mình; khiêm
nhường là chúng ta không được nghĩ về chính mình nhưng phải để Đức Chúa Trời
trở nên mọi sự. Tôi tớ khiêm nhường chỉ nghĩ về ý
muốn và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, chớ không phải về sự bất xứng, sự thành
công hay thất bại của chính người ấy. Môi-se đã che dấu sự kiêu ngạo và vô tín
qua một lời thú nhận hời hợt về sự yếu đuối của mình.
(5) “Ai khác có thể làm việc ấy tốt hơn” (Xu 4:13-17). “Ôi lạy Chúa, xin hãy sai ai khác làm việc ấy” (c.13
NIV). Môi-se gọi Ngài là “Chúa” nhưng từ chối vâng theo những mệnh lệnh của
Ngài (Lu 6:46 Cong
10:14). Đa số trong chúng ta có thể hiểu được thái độ này vì chúng ta
cũng đã phạm sai lầm giống như vậy. Nếu Đức Chúa Trời không phải là Chúa trên
tất cả, thì Ngài chẳng phải là Cứu Chúa. Trong cơn giận dữ của Ngài, Đức Chúa
Trời đã chỉ định A-rôn làm người phát ngôn cho Môi-se, nhưng A-rôn không luôn
là một người giúp đỡ cho em của mình. Chính A-rôn đã hiệp cùng dân sự trong
việc làm ra con bò vàng (Xu 32:35), và A-rôn
cùng chị gái là Mi-ri-am đã chỉ trích Môi-se và vợ của người và đã đem sự rắc
rối đến cho trại quân (Dan 12:1-16). Có một
gợi ý trong (Xu 4:14) cho rằng khi tiếp nhận
A-rôn, Môi-se đang làm lẫn lộn các chức vụ trong thời Cựu Ước, vì A-rôn phải là
thầy tế lễ và Môi-se là tiên tri. Trong cơn giận của Ngài ĐCT ban cho chúng ta
điều chúng ta đã đòi hỏi một cách ích kỷ thì sự ban cho ấy hiếm khi trở nên một
phước hạnh (Dan 11:33 Os 13:11). Một trong những hình phạt đau đớn nhất
Đức Chúa Trời có thể cho xảy ra là để mặc cho dân Ngài đi theo ý riêng của họ.
Các sự kiện diễn ra sau
đó chứng tỏ rằng Môi-se hoàn toàn có khả năng rao ra Lời Đức Chúa Trời bằng
quyền năng mạnh mẽ, cả với dân sự của ông và với vua Ai Cập. Như lịch sử của
Y-sơ-ra-ên bày tỏ, bạn sẽ thấy rằng Môi-se đã rao ra một vài sứ điệp hùng hồn
trong quyền năng của Chúa. Sách Phục Truyền luật lệ ký đã ghi lại lời chúc tạm
biệt đầy ý nghĩa của ông.
Bài học ở đây thật rõ
ràng: Đức chúa Trời biết chúng ta rõ hơn chúng ta biết về bản thân mình, vì thế
chúng ta phải tin cậy Ngài và vâng theo điều Ngài bảo chúng ta làm. Khi chúng
ta nói cùng Đức Chúa Trời về những sự yếu đuối
của mình, không phải chúng ta đang chia sẻ với Ngài điều gì mà Ngài chưa biết (Cac 15:1-20 ISa 9:21
Gie 1:6). Ý muốn của Đức Chúa Trời sẽ không
bao giờ đưa bạn đến nơi mà quyền năng Đức Chúa Trời không thể giúp bạn, vì vậy
hãy bước đi bởi đức tin nơi những lời hứa của Ngài.
Xu 3:1-22; xem giải nghĩa Xu 2:11-25
Xu 4:1-17; xem giải nghĩa Xu 2:12-25
5. Người giải cứu được
sai đi (Xu 4:18-31)
Khi bạn đã sống ở một
nơi trong suốt 40 năm, làm sao bạn có thể từ bỏ nơi đó để đi đến một nơi nào
khác, đặc biệt là khi bạn sắp đi đến một nơi đầy nguy hiểm ? Đoạn Kinh Thánh đã
mô tả 5 điều Đức Chúa Trời ban cho Môi-se để khích lệ ông khi ông biết tìm kiếm
và vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời.
Lời chúc phước của cha
vợ ông (4:18). Môi-se
không thể đi mà không trước hết thông báo cho cha vợ mình để được ông cho phép
và chúc phước cho. Tuy nhiên, không có sự ghi chép nào cho thấy Môi-se đã kể
cho Giê-trô về cuộc gặp gỡ của ông với Đức Giê-hô-va
và sự kêu gọi của Ngài để giải cứu cho dân Y-sơ-ra-ên khỏi vòng nô lệ. Tất cả
những gì ông cho Giê-trô biết, đó là ông muốn đi đến xứ Ai Cập để thấy gia đình ông có còn sống sót hay không.
Những lời hứa của Đức
Chúa Trời (4:19-23). Khi Môi-se
bước ra bởi đức tin, Đức Chúa Trời đã phán cùng ông và khích lệ ông. Đức Chúa
Trời bảo Môi-se đừng sợ phải trở lại xứ Ai Cập vì
những kẻ thù của ông đã chết. Sau đó Ngài đảm bảo cho Môi-se rằng Ngài sẽ giúp
cho ông làm được những dấu lạ nhưng Pha-ra-ôn sẽ cứng lòng và bởi đó ông ta
càng chuốc lấy sự trừng phạt từ nơi Chúa. Thậm chí trước khi Môi-se đến xứ Ai
Cập, ông đã biết mình sẽ phải chiến trận. Sẽ không dễ dàng để thuyết phục được
Pha-ra-ôn cho những người nô lệ Do Thái ra đi một cách tự do.
Đức Chúa Trời cũng bảo
đảm với Môi-se về tình yêu đặc biệt của Ngài dành cho dân Y-sơ-ra-ên, là con
đầu lòng của Ngài (Gie
31:9 Os 11:1). Trong thế giới cổ đại,
con đầu lòng trong mỗi gia đình có những quyền hạn cùng những đặc quyền đặc
biệt, và Đức Chúa Trời sẽ bảo đảm rằng Y-sơ-ra-ên,
con đầu lòng của Ngài sẽ được giải cứu và được ban thưởng, trong khi con đầu
lòng của Ai Cập sẽ bị giết. Đức Chúa Trời nhắc nhở Môi-se rằng ông là tôi tớ
của một Đức Chúa Trời vĩ đại, là Đấng biết rõ những gì Ngài sẽ làm. Bí quyết
cho sự chiến thắng là đức tin nơi Chúa.
Sự vâng lời của
Sê-phô-ra (Xu 4:24-26). Môi-se
đã không chú trọng đến việc làm phép cắt bì cho Ê-li-sê, người con trai thứ hai
của ông và Đức Chúa Trời quật ngã Môi-se bằng một căn bệnh gần như cất đi mạng
sống của ông. Chúng ta có cảm tưởng rằng khi Môi-se làm phép cắt bì cho
Ghẹt-sôn, con đầu lòng của ông, Sê-phô-ra đã bị kinh hoàng bởi nghi thức này và
do đó không cho Ê-li-sê chịu phép cắt bì. Môi-se đã để cho bà làm theo ý riêng
của bà, và điều này không làm đẹp lòng Chúa. Xét cho cùng, Môi-se không thể
lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên nếu ông bất tuân một trong những mạng lệnh chủ yếu của
Chúa (Sa 17:10-14). Thậm chí nếu dân Do Thái
không biết được điều này thì Đức Chúa Trời vẫn biết về sự bất tuân của ông, và Ngài đã rất tức giận về ông.
Tôi tớ của Chúa phải cẩn
thận để “khéo quản lý gia đình riêng của mình” (ITi 3:4 NIV) nếu người đó muốn hưởng những phước
hạnh của Chúa, vì “nếu có ai không biết quản lý gia
đình riêng của mình người ấy làm sao có thể chăm sóc Hội Thánh của Đức Chúa
Trời ?” (c.5, NIV).
Sự đến của A- rôn (Xu 4:27-28). Tại Hô-rếp
(tên khác của núi Si-nai 19:10-11 Phu 4:10) Môi-se đã gặp A-rôn anh của ông, người
sẽ là bạn đồng hành và là người cộng tác của ông trong 40 năm kế tiếp. Khi nói
đến sự hầu việc Chúa thì “hai người hơn một” (Tr
4:9). Chúa Giê-xu đã sai những môn đồ của Ngài đi ra theo từng cặp (Mac 6:7) và Đức Chúa Trời đã kêu gọi Phao-lô với
Ba-na-ba cùng đem Tin Lành đến cho dân ngoại (Cong
13:2). Dù vẫn phạm nhiều sai lầm, như tất cả chúng ta đều phạm phải,
nhưng A-rôn đã trung tín thi hành chức vụ cùng với
Môi-se và đã trở nên người sáng lập chức tế lễ tại Y-sơ-ra-ên.
Đức tin của một dân
tộc (Xu 4:29-31). Môi-se đã bày tỏ nỗi
lo sợ rằng các trưởng lão Do Thái sẽ không tin sứ điệp của ông hoặc sẽ không
chấp nhận chức vụ lãnh đạo của ông, nhưng họ đã tin, và những người còn lại
trong dân sự cũng tin khi thấy quyền năng Đức Chúa Trời được bày tỏ qua
những dấu hiệu. Khi nghe rằng Đức Chúa Trời quan tâm đến họ và sắp giải cứu cho
họ, họ đã cúi đầu thờ lạy với lòng biết ơn Ngài. Thờ
phượng là sự đáp ứng hợp lẽ của dân sự Đức Chúa Trời đối với ân điển và sự nhân
từ của Ngài.
Đây là thời gian tạm
lắng trước thời kỳ sóng gió sắp xảy ra. Đức Chúa Trời sẽ tuyên chiến cùng Ai
Cập và Pha-ra-ôn, và cuộc sống của người dân Do Thái sẽ trở nên khó khăn hơn,
trước khi nó có thể trở nên tốt đẹp hơn.
2. CHIẾN TRANH ĐƯỢC
TUYÊN BỐ (Xu 5:1-8:19)
Nếu A-rôn và Môi-se có
vinh dự được nghe Jonathan Edwards giảng bài giảng nổi tiếng của ông “Tội nhân
trong tay của một Đức Chúa Trời giận dữ” (Sinners in the Hands of an angry God)
có lẽ họ sẽ la lên rằng “A-men !” khi Edwards nói :
“Mọi vua trên đất, trước
mặt Đức Chúa Trời, chỉ như cào cào; họ chẳng là gì cả, và còn thua con số
không: tình yêu và sự thù ghét của họ thật đáng khinh. Cơn thạnh nộ của Vua
muôn vua vĩ đại, còn kinh khiếp hơn cả cơn giận của họ vì sự uy nghi của Ngài
vĩ đại hơn của họ” [16]
Khi nghe được những lời
này, Môi-se và A-rôn hẳn sẽ nhớ lại cái ngày mà họ đứng trước vị vua của một
trong những vương quốc lớn nhất của thế giới cổ đại [17] . Họ được Đức Chúa Trời
sai đi để thông báo cho Pha-ra-ôn rằng nếu ông ta không giải phóng cho dân Do
Thái thì Đức Giê-hô-va sẽ tuyên chiến với ông ta cùng các thần của ông ta, và
Ngài sẽ không ngừng tấn công xứ Ai Cập cho đến khi dân Y-sơ-ra-ên được tự do.
Hai sứ giả của Đức Chúa Trời có một sứ điệp từ Chúa: “Hãy để cho dân ta đi, nếu
không... .” [18] . Chúng ta có thể đoán được sự đáp ứng của
Pha-ra-ôn đối cùng Môi-se và A-rôn: ông ta khước từ mệnh lệnh của Đức Chúa
Trời, khinh thường những phép lạ Môi-se và A-rôn đã làm, và cứng lòng cố tình
chống lại Chúa.
1. Pha-ra-ôn chối bỏ
Lời Đức Chúa Trời (Xu 5 :1-23) (Xu 5:1-6:27)
Yêu cầu của họ là một
yêu cầu đơn giản: Môi-se và A-rôn muốn được phép đưa dân Do Thái vào đồng vắng khoảng ba ngày đường để đến một
nơi mà họ có thể thờ phượng Chúa [19] . Sáu ngày đi về và một
ngày dành để thờ phượng sẽ là một tuần dân sự không làm việc của mình, nhưng
Môi-se không nói gì về việc họ sẽ đi trong bao lâu hay khi nào sẽ trở về. Sự
thiếu sót này khiến Pha-ra-ôn nghi ngờ, và ông ta không biết mục đích chuyến đi
của họ có phải là trốn thoát, thay vì là thờ phượng hay không. Có ba câu hỏi
liên quan đến tình tiết này.
Pha-ra-ôn: “Tại sao ta
phải vâng lời Chúa?” (Xu 5:1-3). Đây là
một câu hỏi hợp lý vì dân Ai Cập xem Pha-ra-ôn là một vị thần, và tại sao thần
của họ phải vâng theo một vị thần xa lạ mà cả Pha-ra-ôn và dân chúng đều không
biết ? Hơn nữa, vị thần mới này có quyền gì để gọi dân Y-sơ-ra-ên là “dân Ta”
khi dân Do Thái đang là nô lệ của Pha-ra-ôn ? Nếu Pha-ra-ôn vâng theo sắc lệnh
này, ông ta sẽ nhận biết một vị thần còn vĩ đại hơn chính ông, và ông ta không
có ý định sẽ làm điều đó. Trong sự kiêu ngạo và sự an toàn sai lầm, Pha-ra-ôn
sẽ không nghe theo lời của Đức Chúa Trời hằng sống.
Môi-se nói đến việc dân
Y-sơ-ra-ên có thể ở trong hiểm họa bị tiêu diệt nếu họ không vâng lời Chúa. Tại
sao ông phải nêu lên điều đó ? Có lẽ Môi-se ngụ ý rằng sự bướng bỉnh của
Pha-ra-ôn có thể khiến ông ta mất đi những nô lệ của mình, và rằng ông ta nên
cho dân Do Thái nghỉ việc một tuần, như thế, sẽ bảo vệ được nguồn lao động rẻ
mạt của mình. Tuy nhiên, điều này còn có liên quan đến một yếu tố khác: Môi-se
đang cho Pha-ra-ôn biết rằng Đức Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ là một Đức Chúa
Trời năng quyền, Ngài có thể giết chết dân Ai Cập cũng như dân Do Thái.
Pha-ra-ôn phải hiểu rằng ông ta không được xem nhẹ những yêu cầu mà Môi-se và
A-rôn đã đưa ra vì đây là một vấn đề có liên quan đến sự sống và cái chết.
Pha-ra-ôn: “Tại sao phải ngưng
công việc?” (Xu 5:4-21). Sự nô dịch của dân
Y-sơ-ra-ên đã đẩy mạnh sự tăng trưởng cho nền kinh tế của Ai Cập, và Pha-ra-ôn
sẽ không từ bỏ một điều gì có lợi. Như những nhà độc tài đã thi hành hằng bao
thế kỷ, Pha-ra-ôn đã bóc lột một dân tộc bị cầm hãm và không quan tâm gì đến
phúc lợi của họ. Dù Pha-ra-ôn không hề nhận biết Ngài, Đức Chúa Trời vẫn thực
hiện kế hoạch trọn vẹn của Ngài để giải phóng cho dân Ngài và làm vinh hiển
danh cao quý của Ngài, và không một điều gì Pha-ra-ôn có thể làm lại ngăn trở
được sự thành công trong kế hoạch của Đức Chúa Trời.
Thay vì giảm bớt sự vất
vả trong công việc cho dân Do Thái, Pha-ra-ôn lại khiến họ phải lao động thậm
chí càng cực nhọc hơn. Ông ta không cho họ rơm cần thiết để làm ra gạch, nhưng
vẫn ra lệnh rằng họ phải đạt đến chỉ tiêu hằng ngày như đã định. Ông ta lý luận
rằng: “Nếu họ có quá nhiều thời gian đến nỗi họ có thể nghỉ được một tuần thì
hãy để họ tự đi tìm rơm cho mình. Công việc làm thêm này sẽ cất khỏi tâm trí họ
những tư tưởng như thế”. Sứ điệp của Đức Chúa Trời qua Môi-se và A-rôn chỉ là
“những lời vô ích” đối với vua (c.9, “những lời giả dối” NIV).
Khi công việc của họ trở
nên không thể chịu đựng nổi vì những luật lệ mới, dân Hê-bơ-rơ phái những đốc
công đến phản đối Pha-ra-ôn . Các nô lệ được quyền đến gần vua là điều bất
thường, nhưng Pha-ra-ôn biết rõ điều ông ta đang làm. Ông bảo với họ rằng
Môi-se và A-rôn đã yêu cầu ông, và điều này khiến các đốc công Do Thái trở
nghịch với những người lãnh đạo mà Đức Chúa Trời đã ban cho họ. Các đốc công
cho Môi-se và A-rôn biết điều họ nghĩ về hai người và nói xấu hai người giữa
vòng dân Do Thái. Đây không phải là lần cuối cùng Môi-se bị dân sự của mình
chống đối vì họ không hiểu được điều Chúa đang làm cho họ.
Thay vì đi đến Pha-ra-ôn
để phàn nàn, các đốc công lẽ ra nên đến cùng Môi-se và A-rôn để đề nghị họ mời
các trưởng lão đến và có một buổi nhóm cầu nguyện. Họ lẽ ra phải nhắc nhở chính
mình về những lời hứa Đức Chúa Trời đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên và bởi đức tin mà
cầu xin để nhận được những lời hứa này. Quả là một sự khác biệt lẽ ra phải được
thực hiện cho chính họ và những người lãnh đạo của họ. Than ôi, suốt 40 năm kế
tiếp, việc phàn nàn về ý muốn của Đức Chúa Trời và chỉ trích những người lãnh
đạo của Đức Chúa Trời là đặc tính của dân Y-sơ-ra-ên; nhưng liệu dân sự của Đức
Chúa Trời vào ngày nay có khác biệt gì nhiều chăng.
Môi-se: “Tại sao Ngài sai tôi
đi?” (Xu5:22-6:27). Môi-se đã làm điều mà những nhà lãnh đạo thuộc linh cần phải làm
khi sự ra đi là rất khó khăn: ông đem gánh nặng của mình đến với Chúa và thành
thật nói với Ngài về hoàn cảnh này. Thật dễ thấy rằng Môi-se đã thất vọng và lo
âu. Ông đổ lỗi cho Đức Chúa Trời về cách Pha-ra-ôn đã ngược đãi dân Do Thái, và
ông lên án Ngài đã chẳng làm gì cả. Ông hỏi: “Có phải đây là lý do Ngài sai tôi
?” (5:22 NIV). Nói cách khác, “có phải Ngài sẽ giữ những lời hứa của Ngài với
tôi hay không ?”.
Những tôi tớ được chọn
của Đức Chúa Trời phải chuẩn bị cho sự chống đối và hiểu lầm, vì đó là một phần
của ý nghĩa về việc làm một người lãnh đạo: và các lãnh đạo phải biết làm thế
nào để ở riêng với Đức Chúa Trời, tuôn đổ lòng mình ra, và tìm kiếm năng lực
cùng sự khôn ngoan của Ngài. Những người lãnh đạo thuộc linh phải can đảm trước
mặt con người, nhưng tan vỡ trước Đức Chúa Trời (Gie 1:19) và phải
cầu xin để được nhận lãnh những lời hứa của Đức Chúa Trời và làm theo ý muốn
của Ngài thậm chí khi mọi việc dường như chống nghịch lại với mình.
Chúa đã khích lệ tôi tớ của Ngài
trong cơn khốn khó như thế nào ? Trước hết, Đức Chúa Trời phán với ông và ban cho ông những lời hứa
thật tuyệt vời (Xu 6:1-8). Ngày nay chúng ta có Lời Đức Chúa Trời
đã được viết ra, nhưng Môi-se đã nghe rõ tiếng Đức Chúa
Trời phán cùng ông (33:11 Phu 34:10). Bốn lần trong lời phán này, Đức Chúa
Trời nhắc nhở Môi-se “Ta là Đức Giê-hô-va” (Xu 6:2,6,7,8) [20] và sử dụng danh xưng trong
giao ước của Ngài là “Giê-hô-va”; và bảy lần Đức Chúa Trời phán “Ta sẽ”. Khi
chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời đang nắm quyền tể trị, và chúng ta cầu hỏi
những lời hứa của Ngài, thì chúng ta có thể kinh nghiệm được sự bình an và can
đảm trong những cuộc chiến của đời sống. Đức Chúa Trời đã hứa đem Y-sơ-ra-ên ra
khỏi Ai Cập, giải phóng họ khỏi ách nô lệ, và đem họ vào Vùng Đất Hứa. Điều
quan trọng nhất trong bảy lời hứa “Ta sẽ” đó là: “Và ta sẽ nhận các ngươi làm
dân ta” (c.7), đây là nền tảng cho tất cả những gì Đức Chúa Trời đã làm cho dân
Do Thái.
Đức Chúa Trời cũng nhắc
Môi-se về danh giao ước của Ngài
là “Giê-hô-va” (6:3). Một phương cách để biết về Đức
Chúa Trời nhiều hơn là chú ý đến những danh xưng của Ngài.
Các tộc trưởng biết Đức Chúa Trời là “Đức Chúa Trời Toàn Năng” [21] mà theo tiếng Hê-bơ-rơ là
“El Shaddai- Đức Chúa Trời toàn năng, toàn quyền”, và họ biết rằng danh Đức
Chúa Trời là “Giê-hô-va” (Yahwel); nhưng họ đã không hiểu được một cách trọn
vẹn ngụ ý của danh xưng này. Đức Chúa Trời đã giải thích danh “Giê-hô-va” cho
Môi-se khi Ngài kêu gọi ông ở Ma-đi-an (Xu 3:13-14), nhưng giờ đây Ngài kết hợp danh Ngài
với giao ước mà Ngài sẽ lập với dân sự của Ngài (6:4).
Giê-hô-va là danh đặc biệt của Đức Chúa Trời, liên kết Ngài với Y-sơ-ra-ên và
những giao ước của Ngài, và danh này rất thiêng liêng
đối với dân Do Thái, ngay cả ngày nay cũng vậy, đến nỗi họ sẽ không nói đến
danh ấy khi đọc Kinh Thánh trong nhà hội. Thay vào đó, họ thay bằng danh
“Adonai” (Chúa hay Thầy), hoặc chỉ nói là “Danh”.
Thứ ba, Chúa bảo đảm với
Môi-se rằng Ngài cảm nhận được
những gánh nặng của dân Ngài và sẽ hành động thay họ (Xu 6:5 2:24). Đức Chúa Trời
không phải không biết về những nhu cầu của họ hay không quan tâm đến sự hoạn
nạn của họ, Ngài cũng không thêm vào những vấn đề khó khăn của họ bằng cách trì
hoãn việc giải cứu cho họ. Mọi sự đang tiến hành theo kế hoạch của Ngài và
không điều gì Đức Chúa Trời đã hoạch định phải thất bại. Bất cứ khi nào chúng
ta cảm thấy Chúa đã từ bỏ chúng ta và thật sự không quan tâm đến chúng ta, hãy
nhớ những lời hứa bảo đảm của Ngài, “Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài,
vì Ngài hay chăm sóc anh em” (IPhi 5:7).
Thứ tư, Chúa ra lệnh cho Môi-se đến nói với Pha-ra-ôn
một lần nữa (Xu 6:9-13). Môi-se đã đi
đến sự nản lòng cùng cực khi các trưởng lão Do Thái thậm chí không muốn nghe
ông. Họ đã quên đi những dấu lạ và những lời hứa mà Môi-se và A-rôn đã bày tỏ
cho họ (4:29-31), và trong nỗi thống khổ của
mình họ bị thuyết phục rằng hoàn cảnh này hoàn toàn vô vọng. Môi-se và các trưởng lão đã bỏ cuộc nhưng Đức Chúa Trời đã không bỏ
cuộc đối với Môi-se. Môi-se vẫn là tôi tớ của Đức Chúa Trời, và Ngài giao cho
ông nhiệm vụ trở lại cung điện và đối diện với Pha-ra-ôn một lần nữa. Trong
những lúc nản lòng, điều tốt nhất cần làm là bỏ qua những cảm xúc của mình và
chỉ làm điều gì Đức Chúa Trời bảo chúng ta làm, để lại những hậu quả cho Ngài
lo liệu.
Không phải ngẫu nhiên mà
có bản phả hệ ở đây (Xu
6:14-27), vì đây là cách thức của Chúa nhắc
nhở chúng ta, là những độc giả, rằng Đức
Chúa Trời đã chuẩn bị cho Môi-se và A-rôn chức vụ của họ tại xứ Ai Cập. Việc họ đến từ dòng
dõi của Gia-cốp cũng nằm trong sự định liệu của Đức Chúa Trời. Ru-bên là con
đầu lòng của Gia-cốp, đến Si-mê-ôn, rồi Lê-vi, tổ phụ của Môi-se và A-rôn.
“Trước khi tạo nên ngươi trong lòng mẹ, ta đã biết ngươi, trước khi ngươi được
sinh ra ta đã thánh hóa ngươi, và ta lập ngươi làm tiên tri cho các nước” (Gie 1:5 NKJV). Sự kêu gọi của Đức Chúa Trời nghĩa
là sự ban cho năng lực của Đức Chúa Trời, và điều gì Đức Chúa Trời đã bắt đầu
thì Ngài luôn hoàn tất (Eph 2:10 Phi 1:6)
2. Pha-ra-ôn xem thường
những phép lạ của Đức Chúa Trời (Xu 5 :1-23) (Xu 6 :28-8:7)
Trong cuộc chạm trán với
Pha-ra-ôn cho đến thời điểm này, Môi-se và A-rôn chỉ mới gởi đến tối hậu thư
của Đức Chúa Trời. Giờ đây đã đến lúc họ bày tỏ quyền năng của Đức Chúa Trời và
làm những dấu lạ để cho thấy rằng họ thật sự được Đức Chúa Trời sai phái. Vẫn
còn điều gì đó chưa sẵn lòng, Môi-se nhất định rằng ông không phải là một người
ăn nói giỏi; vì thế Đức Chúa Trời nhắc cho Môi-se nhớ rằng có thể A-rôn sẽ là
người phát ngôn cho ông (6:26-7:2
4:15-16). Tuy
nhiên, Chúa cho Môi-se và A-rôn biết rằng cần phải có hơn hai phép lạ để thực
hiện mục đích của Ngài, vì Ngài sẽ thêm lên các dấu lạ và sự lạ trong xứ Ai
Cập.
Trước khi chúng ta
nghiên cứu một loạt các phép lạ đáng chú ý này, chúng ta phải tập trung vào
những lý do mà Chúa đã dùng phương cách này trong việc đối phó với Pha-ra-ôn và
giáng sự trừng phạt qua các dấu lạ trên xứ Ai Cập. Dĩ nhiên, mục đích cuối cùng
là khiến Pha-ra-ôn và dân Ai Cập phải
nhượng bộ và sẵn sàng để cho dân Do Thái rời khỏi xứ. Nhưng đồng thời, Chúa
đang bày tỏ chính Ngài cho dân Y-sơ-ra-ên và cả dân Ai Cập, và chứng minh rằng
chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời (7:5)
Những phép lạ và dịch lệ cũng là
cách thức mà Đức Chúa Trời dùng để xét đoán các thần của Ai Cập và cho thấy
rằng các thần này là giả dối và hư không. “Ta sẽ xét đoán các thần của xứ Ai
Cập, ta là Đức Giê-hô-va” (12:12 18:11 Dan 33:4).
Có hơn 80 thần khác nhau được thờ phượng tại Ai Cập, nhưng các thần này không
thể làm được gì để giải cứu xứ này và dân sự của nó khỏi những sự trừng phạt
khủng khiếp do Đức Giê-hô-va giáng xuống. Nếu không còn điều gì khác nữa, dân
Ai Cập sẽ biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống.
Nhưng dân Y-sơ-ra-ên cũng cần được
học bài học này. Theo (Xu 20:1-9), một số
người Do Thái đã bắt đầu thờ phượng các thần của Ai Cập, và khi họ được giải
cứu khỏi nơi này, họ đã mang theo các thần của mình !
Phải chăng họ đã đi đến sự thỏa hiệp trong niềm tin của họ với hy vọng có thể
làm hài lòng những người giam giữ họ và sẽ nhận được sự đối xử tốt hơn ? Nhưng
làm sao họ có thể từ bỏ Đức Giê-hô-va sau khi đã được chứng kiến tất cả những
sự bày tỏ về quyền năng của Ngài ? “Tại Ai Cập tổ phụ chúng tôi đã không hiểu
những phép lạ của Chúa; họ cũng chẳng nhớ lại sự nhân từ dư dật của Chúa”
(Thi 106:7 NKJV).
(1) Dấu hiệu về con rắn (Xu 7:8-13). Đức Chúa Trời đã ban cho Môi-se dấu
hiệu này khi Ngài gọi ông ở Ma-đi-an (4:1-5),
nhưng giờ đây chính A-rôn đang làm dấu đó trong cung điện của Pha-ra-ôn. Rắn là
một trong những sinh vật đặc biệt trong tôn giáo của
dân Ai Cập, đặc biệt là rắn hổ mang, nó là một biểu tượng của sự bất diệt. Cây
gậy của A-rôn đã nuốt hết những con rắn do các thuật sĩ làm ra.
Ba dấu lạ mà chúng ta
đang xem xét – cây gậy biến thành rắn, nước biến thành huyết và sự xâm lấn của
loài ếch – có chung một thực tế là tất cả các dấu lạ đều được các thuật sĩ
trong hoàng cung của Pha-ra-ôn bắt chước lại. Có lẽ “giả mạo” là từ dùng chính
xác hơn, vì điều họ làm có vẻ giống như một trò ma thuật lừa dối. Tuy nhiên, Sa-tan có thể ban cho người của hắn quyền
phép để thực hiện những “phép lạ giả dối” (IITe
2:9-10 Mat 24:24 Kh 13:11-15), và có thể đây là nguồn quyền phép
của họ.
Sứ đồ Phao-lô đã dùng
những thuật sĩ Ai Cập này để giảng dạy về một lẽ thật quan trọng: trong những
ngày sau rốt, Sa-tan sẽ tấn công vào lẽ thật của Đức Chúa Trời và dân sự của
Đức Chúa Trời bằng cách bắt chước
những công việc của Ngài, Phao-lô thậm chí đã kể tên hai trong số những
thuật sĩ hoàng cung: “Xưa kia Gian-nét với Giam-be đã chống trả Môi-se thể nào,
thì những kẻ này cũng chống trả lẽ thật thể ấy” (IITi 3:8 NIV). Như Chúa Giê-xu đã dạy trong ví dụ
về những hạt giống (Mat 13:24-30,36-43), Sa-tan là
một kẻ giả mạo, và hắn đã “gieo” những Cơ Đốc nhân giả dối vào giữa thế gian
này. Phao-lô gọi họ là “anh em giả dối” (IICo 11:26).
Sa-tan có một phúc âm giả mạo (Ga 1:6-9),
một sự công bình giả mạo (Ro 10:1-3), và
thậm chí có cả những người thi hành chức vụ giả mạo để rao ra những lời giả dối
của hắn (IICo 11:13-15). Một ngày nào đó
Sa-tan sẽ tạo ra một Christ giả là kẻ sẽ lừa dối cả thế giới (IITe 2:1-12).
Các thuật sĩ của
Pha-ra-ôn đã biến những cây gậy thành những con rắn và nước thành huyết, và
cũng có thể làm ra những con ếch ở trong xứ. Sa-tan chống đối công việc của Đức
Chúa Trời bằng cách bắt chước những việc ấy, và qua cách này nó xem thường
quyền năng và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Thái độ của Pha-ra-ôn là: “Bất cứ
việc gì Giê-hô-va có thể làm thì chúng ta có thể làm tốt hơn !” Dĩ nhiên, ông
ta không thể thực hiện được điều này, nhưng điều đó đủ để bênh vực cho sự kiêu
ngạo của ông ta và khiến ông ta không
muốn đầu phục nơi Chúa.
(2) Dấu hiệu nước biến thành
huyết (Xu 7:14-25). Phép lạ này
là tai vạ đầu tiên trong 10 “tai vạ” Đức Chúa Trời giáng xuống Ai Cập, và tai
vạ cuối cùng (sự chết của con đầu lòng tại lễ Vượt
qua) đã đưa đến việc rời khỏi xứ Ai Cập của dân Do Thái [22] . Từ “tai vạ” (9:14 11:1 12:13) có nghĩa là “một
cú đánh, một đòn đánh” chỉ ra rằng bàn tay của Chúa đang trừng phạt dân Ai Cập.
Pha-ra-ôn
càng chống cự với Đức Chúa Trời thì những hình phạt càng trở nên nghiêm trọng
hơn, ba tai vạ đầu rất khốn khổ (nước thành huyết, ếch nhái, và muỗi); ba tai
vạ kế tiếp thật đau đớn và gây nhiều tổn hại (ruồi mòng, sự chết của súc vật,
và ghẻ chốc), và bốn tai vạ cuối rất nguy hiểm và gây tàn hại (mưa đá, cào cào,
sự tối tăm, và sự chết của con đầu lòng). Kẻ phạm tội càng chống lại ý muốn của
Đức Chúa Trời và từ chối nghe Lời Ngài lâu bao nhiêu thì Ngài cần phải phán với
họ “càng lớn” bấy nhiêu qua những hình phạt của Ngài.
Không chỉ nước của sông
Nile đã biến thành huyết, mà những nguồn nước khác trong xứ, và thậm chí là
nước được trữ trong những bình gỗ và đá cũng trở nên như thế. Đây là một hình
phạt trên chính sông Nile, là con sông được xem như một vị thần, và trên Hapi,
thần của sông Nile, và Isis, nữ thần của sông Nile. Sông Nile là nguồn nước
chính của xứ này, đem lại sự sống cho con người và mùa màng của họ, vì vậy việc
cất đi nguồn nước của họ là một hình phạt mang tính tàn phá. Dân chúng đã đào
những giếng nước gần sông này để lấy nước sạch, nhưng cá dưới sông đã chết và
thối rữa bốc lên một mùi hôi thối khủng khiếp. Tai vạ này và những hậu quả của
nó đã kéo dài trong suốt một tuần lễ (9:25) [23] .
Các thuật sĩ sử dụng một
ít nước giếng còn tinh khiết và bắt chước lại phép lạ này. Nhưng nếu họ thật sự
có phép thuật, tại sao họ không đảo ngược lại phép lạ ? Điều này sẽ chứng tỏ họ
có năng quyền hơn Giê-hô-va và sẽ khiến Pha-ra-ôn cùng dân sự mến chuộng họ. Dĩ
nhiên, câu trả lời là họ không có quyền năng để đảo ngược việc Môi-se và A-rôn
đã làm; các thuật sĩ đạt được kết quả như trên là bởi trò lừa phỉnh của họ, chớ
không phải bởi quyền năng siêu nhiên nào.
(3)
Dấu về sự xâm lấn của
loài ếch nhái (Xu 8:1-7). Một lần nữa Môi-se và A-rôn ra lệnh cho Pha-ra-ôn “Hãy để dân
ta đi!” và cảnh cáo ông ta rằng một tai vạ khác sẽ đến “Đất chúng nó sanh ếch
nhái nhiều lúc nhúc, trong cung thất của các vua chúng” (Thi 105:30). Ở Ai Cập, ếch nhái là một biểu tượng
của sự màu mỡ, và Heqet, nữ thần của sự hồi sinh, sự màu mỡ và sự sinh sản, có cái đầu của một con ếch.
Sự cảnh cáo của Chúa rất
cụ thể. Ngài cho Pha-ra-ôn biết rằng ếch nhái sẽ vào nhà cửa, giường ngủ, lò
bếp và các dụng cụ nấu ăn, và thậm chí sẽ bám vào thân thể của con người. Dĩ
nhiên, các thuật sĩ một lần nữa đã giả mạo phép lạ này, vì nếu họ thật sự khôn ngoan và tài giỏi thì họ đã có thể
làm vô hiệu hóa nó.
Xu 6:1-29; xem giải nghĩa Xu 5:1-23
Xu 7:1-24; xem giải nghĩa Xu 5:1-23
Xu 8:1-7; xem giải nghĩa Xu 5:1-23
3. Pha-ra-ôn cứng lòng
nghịch với Đức Chúa Trời (Xu 8:8-19)
Pha-ra-ôn bắt đầu cứng
lòng khi Môi-se và A-rôn làm dấu lạ đầu tiên trước mặt ông ta như lời Đức Chúa
Trời đã phán (7:3,13-14). Pha-ra-ôn
còn cứng lòng hơn nữa khi các thuật sĩ của ông ta giả mạo được các dấu lạ này
(c.22), và ngay cả khi họ không thể bắt chước lại việc Môi-se và A-rôn đã làm (8:19), khi Môi-se ngưng việc dừng tai vạ về ếch
nhái, lòng Pha-ra-ôn lại trở nên cứng cỏi (c.15). Sự cứng lòng này cứ tiếp diễn
trong suốt toàn bộ chuỗi tai vạ (8:32 9:7,34-38 13:15).
Cứng lòng nghĩa là gì ? Điều đó
nghĩa là đã thấy rõ bằng chứng về bàn tay Đức Chúa Trời đang hành động mà vẫn
từ chối tiếp nhận Lời Ngài và đầu phục ý muốn Ngài. Điều đó có nghĩa là chống
đối Đức Chúa Trời bằng cách bày tỏ sự vô ơn và sự bất tuân mà không hề có sự
kính sợ Chúa hay sự xét đoán của Ngài. Những người cứng lòng cùng đồng thanh với
Pha-ra-ôn “Giê-hô-va là ai mà ta phải vâng lời người ?” (5:2).
Nhưng câu chuyện được ghi chép lại ở
đây cũng cho thấy rõ là bằng cách giáng xuống những hình phạt khác nhau, Đức
Chúa Trời đang làm cứng lòng của Pha-ra-ôn (4:21
7:3 9:12 10:1,20,27 11:10 14:4,8,17). Phải chăng điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời
bất công và Pha-ra-ôn không phải chịu trách nhiệm về
những gì ông ta đã làm ? Không phải như thế, vì cùng một mặt trời làm tan chảy
băng đá cũng có thể làm cứng đất sét. Tất cả tùy thuộc vào bản chất của vật
chất.
Cho đến lúc cuối cùng
của cuộc tranh cãi (14:5),
Pha-ra-ôn vẫn là một tội nhân kiêu ngạo mà không ăn
năn, ông ta đã từ chối nghe Lời Đức Chúa Trời, không làm theo ý muốn của Ngài,
hay thậm chí là không giữ lời hứa của mình với dân Do Thái. Chúa đã tỏ ra các
chứng cớ quá đủ để thuyết phục ông ta tin rằng các thần của Ai Cập là giả dối
và Đức Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ là Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống.
Pha-ra-ôn đã phạm tội nghịch với sự sáng; và dù Đức Chúa Trời đã sử dụng ông ta
để thực hiện cho những mục đích của Ngài, Pha-ra-ôn đã tự mình quyết định và tự
mình trở nên cứng lòng nghịch với Đức Chúa Trời [24]
Ông ta cứng lòng trước
sự thương xót của Đức Chúa Trời (Xu
8:8-15). Đời sống của dân Ai Cập thật là khốn
khổ vì sự xâm lấn của ếch nhái, sự xâm lấn này nhiều đến nỗi Pha-ra-ôn phải yêu
cầu Môi-se và A-rôn chấm dứt tai họa này. Ông
ta thậm chí thừa nhận rằng loài ếch nhái là do Chúa giáng xuống. Pha-ra-ôn quá
nôn nóng được giải thoát khỏi loài ếch nhái đến nỗi ông ta có ý muốn cho dân Do
Thái tiến hành cuộc hành trình thờ phượng của họ nếu Môi-se và A-rôn làm theo
yêu cầu của ông ta. Đây chỉ là một mưu mẹo để cất bỏ tai vạ này, dầu vậy
Môi-se và A-rôn vẫn chìu theo ý ông ta.
Tại sao Môi-se để
Pha-ra-ôn lựa chọn thời gian cho ếch nhái bỏ đi ? Để chứng minh với ông ta và
dân ở đây rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời hằng sống, là Đấng nghe được lời của
họ và đáp ứng những lời cầu nguyện của các tôi tớ Ngài. Tai vạ này không phải
là một tai nạn quái đản; Đức Chúa Trời đang tể trị mọi sự. Nhưng tại sao
Pha-ra-ôn không yêu cầu sự giải cứu tức thời khỏi loài ếch nhái ? Tại sao phải trì hoãn
việc giải cứu cho đến ngày hôm sau ? Có lẽ ông đang đánh liều để may ra có thể
ếch nhái tự chúng sẽ bỏ đi, và sau đó ông ta sẽ không phải giữ sự thỏa thuận của
mình để dân sự ra đi trong cuộc hành trình của họ. Hoặc có thể là Pha-ra-ôn
muốn tin này lan ra rằng sự giải cứu sắp đến hầu cho sự ngóng trông của dân sự
càng gia tăng. Ngày hôm sau đám đông sẽ chờ đợi và theo dõi, và nếu Môi-se thất
bại, Pha-ra-ôn là người chiến thắng, và
Giê-hô-va cùng các tôi tớ của Ngài sẽ chẳng còn được dân sự tin tưởng nữa.
Nhưng Môi-se sẽ không
phải thất bại, vì ông và A-rôn đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời để tai vạ này sẽ
chấm dứt. Đức Chúa Trời đã đáp lời, không phải bằng cách khiến cho ếch nhái trở
về với sông hồ, nhưng bằng cách giết chết ếch nhái và do đó buộc dân sự phải
đem vứt bỏ các xác chết và khử chúng đi. Nhưng làm sao bạn có thể tống khứ đi
hằng đống ếch nhái đã chết ? Điều này không dễ dàng, và mùi hôi thối càng nhắc
nhở dân Ai Cập về sự chống nghịch của vua họ đối với Đức Chúa Trời.
Môi-se và A-rôn đã giữ
lời hứa của họ và Chúa cũng vậy; nhưng Pha-ra-ôn không giữ lời của ông ta để
cho dân Do Thái ra đi. Ông ta thật sự không quan tâm đến việc giúp đỡ dân
Y-sơ-ra-ên mà chỉ muốn được giải thoát khỏi tai vạ khủng khiếp về ếch nhái.
Nhiều tội nhân không quan tâm đến việc ăn năn và tiếp nhận ân điển của Đức Chúa Trời. Họ chỉ muốn được giải cứu khỏi sự xét đoán
của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, đây chỉ là một thời gian trì hoãn tạm thời; những
sự xét đoán kinh khiếp nhất rồi sẽ đến.
Trong chức vụ mục sư của
tôi, tôi đã gặp những người gặp hoạn nạn cách này hay cách khác, họ nài nỉ tôi
cầu nguyện để Chúa sẽ giải cứu họ. Họ hứa đủ điều với tôi và với Chúa, cho biết
điều họ sẽ làm nếu Ngài giúp họ. Nhưng khi Ngài nhân từ giúp đỡ họ, họ lại quên
đi những lời hứa của mình và thậm chí quên cả Chúa. Tôi chưa bao giờ gặp lại
họ. Họ hoàn toàn không giống với tác giả Thi Thiên là người đã viết: “Tôi sẽ
đến đền thờ của Chúa với những của lễ thiêu và thực hiện những hứa nguyện của
tôi với Chúa – những hứa nguyện mà môi tôi đã hứa và miệng tôi đã nói khi tôi ở
trong sự gian truân” (Thi
66:13-14 NIV).
Ông ta cứng lòng trước
quyền năng của Đức Chúa Trời (Xu
8:16-19). Trong việc cho dừng lại tai vạ về
ếch nhái, Đức Chúa Trời đã nhân từ đối với Pha-ra-ôn, nhưng thay vì đầu phục sự
thương xót của Đức Chúa Trời, vua càng cứng lòng hơn. Vì vậy Chúa đã giáng
xuống tai vạ thứ ba và khiến bụi đất trở thành muỗi mòng [25] . Các thuật sĩ hoàng cung của Pha-ra-ôn không
thể bắt chước phép lạ này và phải thừa nhận đây là “ngón tay của Đức Chúa
Trời”. Nhưng ngay cả khi đối mặt với chứng cớ này, Pha-ra-ôn cũng không chịu
đầu phục Chúa và chỉ càng cứng lòng hơn nữa. Sự thương xót của Đức Chúa Trời
hay quyền năng của Ngài đều không khiến ông ăn năn và vâng lời Chúa.
Việc bụi sa mạc biến
thành muỗi là một sự xét đoán đối với Sết, thần sa mạc của dân Ai Cập. Đức
Giê-hô-va vĩ đại đến nỗi Ngài có thể ban sự sống cho bụi đất vô tri và sử dụng
sự sống đó để trừng phạt những kẻ tôn sùng Sết. Tuy nhiên còn có một điều gì
khác có liên quan đến ở đây. Dân Ai Cập nói chung, và các thầy tế lễ nói riêng
đều rất cuồng tín trong sự sạch sẽ, các thầy tế lễ thường xuyên tắm rửa thân
thể và cạo râu tóc để được các thần của họ chấp nhận. Hãy hình dung sự thất
vọng và khó chịu của các thầy tế lễ khi thân thể họ bị xâm phạm bởi muỗi mòng ô
uế khiến cho cuộc sống họ trở nên thật khốn khổ ! Và các thần của họ chẳng thể
làm được gì để giải cứu cho họ !
Các thuật sĩ thất bại
nhìn “ngón tay của Đức Chúa Trời” trong phép lạ này khi
đó thật sự là “bàn tay mạnh mẽ (6:1) và
“cánh tay duỗi thẳng” (6:6) của Đức Chúa
Trời. Trong Kinh Thánh, “ngón tay của Đức Chúa Trời” cũng liên quan đến việc
ban luật pháp (31:18 Phu 9:10), đến sự sáng tạo các từng trời (Thi 8:3), và việc đuổi tà ma (Lu 11:20). Tất cả những sự việc này đều bày tỏ về
quyền lực và năng quyền của Đức Chúa Trời.
Nhưng Đức Chúa Trời không dừng lại
với việc phán cùng Pha-ra-ôn hay xét đoán các thần của Ai Cập, Ngài còn 7 tai
vạ nữa để giáng xuống trên họ, và khi các tai vạ này được thực hiện xong, cả
dân Ai Cập sẽ sụp đổ.
“Sa vào tay Đức Chúa Trời hằng sống
là sự đáng kinh khiếp thay” (He 10:31).
3. ĐỨC GIÊ-HÔ-VA, ĐẤNG
MẠNH MẼ TRONG CHIẾN TRẬN (Xu 8:20-10:29)
Đức Chúa Trời nhân từ và
nhẫn nại, nhưng sẽ đến một thời kỳ khi Ngài sẽ không còn khoan dung sự bất tuân
và sự kiêu ngạo của tội nhân ngang ngạnh nữa. “Đối cùng kẻ trung tín Ngài tỏ
mình thành tín, đối cùng kẻ trọn vẹn Ngài tỏ mình trọn vẹn, đối cùng kẻ thanh
sạch Ngài tỏ mình thanh sạch, nhưng đối cùng kẻ trái nghịch Ngài tỏ mình nhặt
nhiệm” (Thi
18:25-26 NIV). Nếu chúng ta bước đi đối nghịch cùng Ngài, Ngài sẽ nghịch
lại với chúng ta (Le 26:23-24).
Charles Spurgeon đã viết
“Đức Chúa Trời bày tỏ Ngài cho mỗi người tùy theo đặc tính của người ấy”, và
không một cá nhân nào trong Kinh Thánh minh họa cho lẽ thật này rõ hơn vị vua
xứ Ai Cập. Trong suốt nhiều tháng, Môi-se và A-rôn đã đối phó cùng Pha-ra-ôn
nhưng vua không muốn tuân theo mạng lệnh của Đức Chúa Trời hoặc thậm chí không
muốn thừa nhận uy quyền của Ngài. Các nguồn nước ở Ai Cập đã biến thành huyết,
loài ếch nhái nhầy nhụa đã tấn công xứ, những bầy muỗi rất khó chịu đã châm
chích dân sự, nhưng Pha-ra-ôn vẫn không chịu đầu phục.
Đức Chúa Trời đã làm gì
? Ngài tuyên bố cuộc chiến toàn lực trên vua Ai Cập và trên cả các thần của xứ
này. Chúa đã giáng 6 tai vạ đau đớn và gây tàn hại cho xứ, và sau đó tai vạ thứ
7 đã đem đến sự chết của mọi con trai đầu lòng. Khi bạn nghiên cứu những phản
ứng của Pha-ra-ôn đối với những tai vạ này, bạn sẽ thấy được tình trạng suy đồi
về đạo đức và thuộc linh của một người không muốn đầu phục Đức Chúa Trời và
phải trả một cái giá khủng khiếp cho sự chống nghịch của mình.
Chúng ta hãy xem xét
những phản ứng của Pha-ra-ôn trước những sự xét đoán của Đức Chúa Trời, nhưng
đồng thời, chúng ta cũng hãy xét lòng mình để biết xem chúng ta có đang đáp ứng
một cách tích cực với ý muốn của Đức Chúa Trời hay không.
1. Mặc cả (Xu 8:20-32)
Vào những thời điểm nào
đó trong năm, Pha-ra-ôn sẽ đi đến sông Nile linh thiêng để tham dự những nghi
lễ tôn giáo đặc biệt, và chắc hẳn ông ta rất tức giận khi mà vào dịp lễ thánh
đăc biệt đó lại thấy Môi-se và A-rôn đang chờ ông ta. Trong mắt Pha-ra-ôn, hai
người là sự phiền toái của cả xứ này. Thật ra, Pha-ra-ôn mới là nguyên nhân gây
ra những sự hoạn nạn trong xứ, nhưng ông ta hẳn sẽ không thừa nhận điều đó. Đức
Chúa Trời đang đối đãi với Pha-ra-ôn trong sự thương xót, Ngài muốn đem ông ta
đến chỗ thuận phục; vì chỉ khi chúng ta vâng lời Đức Chúa Trời thì chúng ta mới
có thể thật sự hưởng được những phước hạnh từ nơi Ngài. Chỉ với một tai vạ, Đức
Chúa Trời đã có thể tiêu diệt Pha-ra-ôn và cả xứ của ông ta (9:15) nhưng Ngài đã chọn ban cho họ cơ hội để ăn năn.
Sự cảnh cáo của Đức
Chúa Trời (8:20-21). Chúng ta đã lưu ý rằng trước khi giáng xuống 7 trong số 10 tai
vạ, Đức Chúa Trời đã cảnh cáo Pha-ra-ôn điều gì sẽ xảy ra, nhưng dĩ nhiên là
ông ta đã không chịu tin Lời Đức Chúa Trời và cứ ghì mài trong sự bất tuân của
mình. Việc mỗi tai vạ đều đã xảy ra như Đức Chúa Trời mô tả, vào thời gian đã
được báo trước, lẽ ra phải khiến Pha-ra-ôn và quần thần của ông ta tin rằng Đức
Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đang tể trị những sự kiện kỳ lạ này. Các sự kiện này
không phải bởi các thuật sĩ của Pha-ra-ôn làm nên, họ đã không thể ngăn chận
hay đảo ngược chúng được, và các sự kiện này cũng không phải chỉ là những sự
trùng hợp. Bàn tay của Đức Chúa Trời đã chống nghịch cùng xứ Ai Cập.
Ân điển của Đức Chúa
Trời (8:22).
Chúa thêm một đặc điểm mới cho tai vạ này bằng
cách báo trước rằng dân Do Thái trong xứ Gô-sen [26] sẽ hoàn toàn thoát khỏi tai vạ này. Chỉ có
Đức Chúa Trời vĩ đại của Y-sơ-ra-ên mới có thể điều khiển đường bay của những
con ruồi bé nhỏ và ngăn cho chúng không vào xứ Gô-sen. Nhưng sự chăm sóc định
liệu của Đức Chúa Trời đối với Y-sơ-ra-ên thật quá rõ ràng trong cả 7 tai vạ
cuối cùng này bởi vì dân Do Thái đã thoát khỏi được từng tai vạ (c.22-23 Xu 9:4-11) “mọi
dân Ai Cập ” (c.26 10:6) “mọi dân Ai Cập”
(c.23 11:7).
Thông
thường trong Kinh Thánh, xứ Ai Cập tượng trưng cho thế gian với sự kiêu ngạo và
ách nô lệ của nó, và cuộc hành trình của dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập đặc
tả sự giải cứu cho dân sự của Đức Chúa Trời nhờ huyết chiên con (Gi 1:29 Ga 1:4 IPhi 1:18-19).
Trong suốt khoảng thời gian Giô-sép ở tại Ai Cập, Pha-ra-ôn đã ban xứ Gô-sen
cho dân Do Thái, và giờ đây Đức Chúa Trời biệt riêng nó cho dân sự Ngài. Bằng
cách này Đức Chúa Trời đã tạo ra một “sự phân rẽ” giữa dân Ngài và dân Ai Cập.
Từ đã được dịch là “sự phân rẽ” trong (Xu 8:23)
có nghĩa là “một sự cứu chuộc, một sự giải cứu”. Vì
họ thuộc về Đức Chúa Trời một cách đặc biệt, dân Do Thái “khác” với dân Ai Cập
nhưng Pha-ra-ôn không nhìn biết được điều này [27]
Sự
phẫn nộ của Đức Chúa Trời (Xu 8:24). Sự việc đã xảy
ra y như lời Đức Chúa Trời đã hứa, vào ngày hôm sau, hàng đàn ruồi mòng đã xâm
chiếm đất, xông vào nhà cửa của dân chúng và ngay cả vào cung điện của vua.
Nhưng ruồi mòng còn hơn cả sự phiền toái tức thời đối với dân sự vì sự xuất
hiện của chúng cũng gây ra những vấn nạn về lâu về dài. Những đàn côn
trùng này nhất định sẽ mang mầm bệnh đến cho
dân sự, và rất có thể sẽ đẻ trứng trên cây cỏ, các ấu trùng sau đó sẽ cắn phá
hoa màu và tàn hại đất. Một số học giả nghĩ rằng ruồi
là vật linh thiêng tượng trưng cho thần Uatchit của dân Ai Cập, vì thế tai vạ
này cũng là một phương cách Đức Chúa Trời đã dùng để hạ thấp một vị thần giả
dối khác của Ai Cập.
Những đề nghị của
Pha-ra-ôn (Xu
8:25-32). Trong suốt khoảng thời gian
xảy ra những tai vạ này, Pha-ra-ôn đã bốn lần thương lượng cùng Môi-se và
A-rôn. Hai lần thương lượng đầu được ghi lại ở đây khi xảy ra tai vạ về ruồi
(c.25,28). Lần thương lượng thứ ba diễn ra trong lúc có tai vạ về cào cào
(10:7-11), và lần thứ tư trong ba ngày có sự
tối tăm (c.24-26). Việc Pha-ra-ôn thậm chí nghĩ rằng ông ta có thể mặc cả với
Đức Chúa Trời là một bằng chứng khác về sự kiêu ngạo của ông ta. Loài người hay
chết là chi, ngay cả ông ta là vua của một dân tộc hùng mạnh, lại dám mặc cả
với ý muốn của Đức Chúa Trời ? Những đề nghị này đều nằm trong mưu đồ giả trá
của Pha-ra-ôn nhằm để đánh lừa Môi-se và A-rôn vì lòng ông ta vẫn cứng cỏi và
ương bướng. Ông ta không quan tâm đến ý muốn của Đức Chúa Trời hay lợi ích của
dân Do Thái. Tất cả những gì ông muốn là những tai vạ phải được dừng lại.
Dân sự của Đức Chúa Trời ngày nay
phải đối diện với “những thỏa hiệp Ai Cập” như thế khi chúng ta mong muốn được
hầu việc Chúa. Kẻ thù nói với chúng ta rằng không cần phải phân cách với tội
lỗi, vì chúng ta có thể hầu việc Đức Chúa Trời ngay “trong xứ”. Câu trả lời của
Đức Chúa Trời được chép trong (IICo 6:14-18).
Kẻ thù thì thầm: “Đừng đi quá xa, nếu không thì người ta sẽ gọi ngươi là một kẻ
cuồng tín”. Nhưng (Gia 1:27) và (Gia 4:4) đánh đổ lời đề nghị đó. Sự hầu việc thật
trước mặt Đức Chúa Trời nghĩa là để cho Ngài có toàn quyền trên những gì thuộc
về chúng ta và trên tất cả những người trong gia đình chúng ta mà chúng ta phải
có trách nhiệm. Không thực hiện điều này là không làm theo (Mac 10:13-16 Eph 6:4
Phu 6:6-13). Một
khi chúng ta bắt đầu thương lượng với ý muốn của Đức Chúa Trời và thấy rằng
chúng ta càng gần với thế gian có nghĩa là trong lòng chúng ta đã không muốn
vâng phục Ngài.
Trong lời đề nghị đầu
tiên của mình, Pha-ra-ôn muốn cho dân Do Thái giữ lễ thờ phượng của họ trong xứ
Ai Cập (Xu
8:25), Môi-se và A-rôn đã khước từ lời đề nghị
này. Họ biết rằng dân Do Thái sẽ dâng tế lễ một số thú vật được xem là linh
thiêng đối với dân Ai Cập [28] , và buổi nhóm thờ
phượng trang nghiêm sẽ nhanh chóng biến thành một cuộc bạo loạn. Dân Do Thái là
một dân sống tách biệt, họ ở vùng Gô-sen là nơi đã được Đức Chúa Trời biệt
riêng ra, và họ phải biệt mình trong một cuộc hành hình ba ngày ra khỏi xứ Ai
Cập để làm hài lòng Chúa.
Đề nghị thứ hai của
Pha-ra-ôn là Y-sơ-ra-ên rời xứ nhưng đừng đi quá xa (c.28). Phụ lục về lời đề
nghị của ông ta (“Nào, hãy cầu nguyện cho ta!” NIV) cho thấy rằng điều ông ta
thật sự quan tâm là dứt ra khỏi những đàn ruồi. Bề ngoài, có vẻ như Môi-se và
A-rôn đã chấp nhận đề nghị thứ hai này, vì Môi-se đã hứa sẽ đuổi khỏi những đàn
ruồi. Có lẽ họ nghĩ họ có thể đi xa hơn một khi họ đã ra khỏi xứ, nhưng chắc chắn
là họ đều biết rằng Pha-ra-ôn sẽ không giữ lời của mình.
Pha-ra-ôn có thói quen hay nài xin sự giúp đỡ khi ông ta cần đến (c.8 9:28 10:16-17)
và sau đó đổi ý khi tai vạ đã được cất đi (8:15,32 9:34-35 10:20).
Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu nguyện của Môi-se và cất những đàn ruồi đi, nhưng
Pha-ra-ôn chỉ càng cứng lòng nhiều hơn.
2. Chống đối (Xu 9:1-12)
Khi
bạn nghiên cứu về những ghi chép về các tai vạ của Ai Cập, hãy luôn nhớ đến
những mục đích mà Đức Chúa Trời đang làm thành qua những sự kiện quan trọng này.
Trước hết, Ngài đang bày tỏ quyền năng Ngài trước Pha-ra-ôn cùng quần thần của
ông ta và chứng minh với họ rằng chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời chân thật
và hằng sống. Đồng thời, Chúa đang phơi trần tính phù phiếm trong tôn giáo của
Ai Cập và sự hư không của nhiều vị thần mà họ thờ lạy, kể cả chính Pha-ra-ôn.
Tất cả những gì Đức Chúa Trời đã làm trên xứ Ai Cập là một sự nhắc nhở đối với
dân sự Ngài rằng Đức Chúa Trời của họ đang chiến đấu cho họ và họ không phải lo
lắng hay sợ hãi.
Tai vạ thứ năm (9:1-7). Môi-se thông báo
với Pha-ra-ôn rằng nếu ông ta không để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi trong vòng 24
giờ thì mọi súc vật trong đồng ruộng của Ai Cập sẽ là
mục tiêu kế tiếp cho sự bày tỏ quyền năng của Đức Giê-hô-va. Đức Chúa Trời sẽ
giáng một dịch bệnh khủng khiếp trên ngựa, lừa, lạc đà, gia súc, chiên và dê
trong các đồng ruộng, và chúng sẽ chết hết. Chúng ta không biết dịch bệnh này
là gì và việc suy đoán cũng không đem lại kết quả gì. Có một điều chắc chắn là:
Đức Chúa Trời đã giáng tai vạ này và gia súc trong những đồng ruộng đã chết [29] Vì một số thần của Ai Cập
được đồng nhất hóa với bò đực, bò cái, chiên và một số gia súc khác nên sự xét
đoán này là một đòn công kích hữu hiệu đối với tín ngưỡng của dân Ai Cập.
Nhưng
Đức Chúa Trời cũng giữ lời hứa của Ngài và bảo vệ cho đàn gia súc của dân Do
Thái sống trong xứ Gô-sen. Khi Gia-cốp và gia đình ông đến Ai Cập trong khoảng
thời gian đương quyền của Giô-sép, họ đã đem bầy chiên và bầy gia súc theo họ (Sa 45:10 47:1 50:8).
Trong thời kỳ làm nô lệ, dân Do Thái được phép giữ lại gia súc, vì ở cuộc hành
trình rời khỏi Ai Cập, họ đã đem theo bầy chiên và bầy gia súc của mình (Xu 12:37-38).
Pha-ra-ôn đã đáp ứng ra sao với tai
vạ khủng khiếp này ? Ông ta cứng lòng và chống lại quyền lực của Chúa. “Người
nào hằng kính sợ luôn luôn lấy làm có phước thay; còn ai cứng lòng mình sẽ sa
vào tai nạn” (Ch 28:4). Ngược lại với một
tấm lòng cứng cỏi là một tấm lòng kính sợ Đức Chúa Trời, và sự kính sợ này sẽ
thúc đẩy chúng ta vâng theo những mệnh lệnh của Chúa. “Kính sợ Đức Giê-hô-va ấy
là khởi đầu sự khôn ngoan” (Ch 9:10), nhưng
người cứng lòng không biết Đức Chúa Trời và lẽ thật của Ngài (Eph 4:18).
Tai vạ thứ sáu (Xu 9:8-12). Không có sự cảnh cáo nào được bày tỏ trong khoảng thời gian này.
Môi-se và A-rôn chỉ đi đến một trong các lò tro, đổ tro đầy bàn tay, rải ra
trong không khí, và giao phó cho Đức Chúa Trời phần việc còn lại. Đức Chúa Trời
đã giữ lời hứa của Ngài vì bất cứ nơi nào tro rơi trên dân Ai Cập và gia súc
của họ đều sinh ra những mụt nhọt mưng mủ đau đớn. Một lần nữa, dân Do Thái ở
xứ Gô-sen lại được bảo vệ (c.11) [30]
Pha-ra-ôn cho mời các
thuật sĩ hoàng cung của ông ta đến, nhưng họ không thể đi đến cung điện. Những
mụn nhọt cứ bám vào họ, và họ đã không thể làm gì được về điều đó ! Kinh nghiệm
này không chỉ đau đớn mà còn bẽ bàng vì dân Ai Cập hay bị ám ảnh bởi sự tinh
sạch về thuộc thể. Họ tắm rửa thường xuyên nhưng vết mưng mủ khiến cho việc tắm
rửa rất khó khăn.
Xứ Ai Cập đang bị tàn
phá và dân sự đang ở trong sự đau đớn cùng cực, nhưng Pha-ra-ôn vẫn không muốn
khuất phục. Ông ta tiếp tục chống lại Chúa cùng các tôi tớ Ngài, và mỗi hành
động của sự bất tuân chỉ càng làm ông ta cứng lòng hơn. “Người nào bị quở trách
thường, lại cứng cổ mình, sẽ bị bại hoại thình lình, không phương cứu chữa” (Ch 29:1). Vì Pha-ra-ôn
đã cứng lòng, điều tồi tệ nhất sẽ phải xảy ra.
3. Lừa dối (Xu 9:13-35)
Có vẻ như Môi-se đã
không đạt được mục đích của mình, vì mỗi tai vạ mới chỉ làm cho tình thế trở
nên tồi tệ hơn. Nhưng Đức Chúa Trời đang nắm quyền tể trị và Ngài biết điều
Ngài đang làm. Chúa luôn có một lời hứa cho các tôi tớ Ngài. Tất cả những gì họ
phải làm là lắng nghe, tin cậy và vâng lời.
Lời cảnh cáo thứ năm (Xu 9:13-21). Cho đến bây
giờ, đây là lời cảnh cáo dài nhất, có lẽ vì nó báo cho biết về tai vạ gây sự
tàn hại nặng nề nhất mà Đức Chúa Trời đã từng giáng
xuống. Một lần nữa Môi-se rao ra mạng lệnh của Đức Chúa Trời rằng Pha-ra-ôn
phải để cho dân Do Thái rời khỏi xứ này để có một cuộc nhóm họp biệt riêng ra
cho Chúa, nhưng lần này Chúa thêm vào một lời cảnh cáo đặc biệt: Đức Chúa Trời
của dân Hê-bơ-rơ sắp dốc “toàn lực” về những tai vạ của Ngài trên Pha-ra-ôn,
trên dân sự và xứ này (c.14, NIV). Lòng Pha-ra-ôn trở nên cứng cỏi hơn, vì vậy
sự trừng phạt của Đức Chúa Trời phải trở nên khắc nghiệt hơn.
Môi-se đã nhắc nhở vua
về lòng
thương xót của Chúa: “Vì nếu bây giờ ta giơ tay ra hành hại ngươi với dân sự ngươi
bằng bệnh dịch, thì các ngươi đã bị diệt khỏi đất rồi” (c.15, NASB). Chỉ bởi
lời phán ra, Đức Chúa Trời có thể diệt sạch toàn bộ xứ Ai Cập, nhưng trong sự
thương xót của Ngài, Đức Chúa Trời đã không giáng cho tội nhân tất cả những gì
họ đáng phải nhận lãnh. Lẽ ra Pha-ra-ôn phải biết ơn Ngài, nhưng ông ta cứ tiếp
tục chống đối Chúa.
Môi-se cũng nhắc nhở
Pha-ra-ôn về ân điển của Đức Chúa
Trời (c.16), một bài học mà nhiều nhà độc tài
đã phải học một cách khó khăn (Da
4:28-33 Cong 12:20-24). Nếu không nằm
trong ý muốn tối cao của Đức Chúa Trời thì Pha-ra-ôn đã không thể làm vua Ai
Cập. Mỗi lần Pha-ra-ôn chống nghịch cùng Đức Chúa Trời, Chúa đã dùng chính hoàn
cảnh đó để bày tỏ quyền năng Ngài và làm vinh hiển danh Ngài. Nếu Pha-ra-ôn tự
nhắc mình lên nghịch với Đức Chúa Trời thì Đức Chúa Trời sẽ tôn cao chính Ngài
qua Pha-ra-ôn (Xu 9:16). Phao-lô đã trích
dẫn c.16 trong (Ro 9:17) như một lời giải thích của ông về sự công bình và thương xót
của Đức Chúa Trời có liên quan đến Y-sơ-ra-ên [31]
Ngày hôm sau, Đức Chúa
Trời giáng “cơn mưa đá lớn nhất chưa từng rơi trên Ai Cập” (9:18 NIV), vì vậy Môi-se khuyên dân sự tập trung tại một nơi an
toàn cùng tất cả gia súc không ở trong đồng ruộng và còn sống sót qua tai vạ
thứ năm. Ngay cả một số tôi tớ của Pha-ra-ôn giờ đây cũng tin Lời Đức Chúa Trời
và làm theo lời ấy, nhưng vua của họ vẫn tiếp tục cứng lòng.
Tai vạ thứ bảy (9:22-26). Ngày kế tiếp,
Môi-se giơ cây gậy của ông lên trời, và Đức Chúa Trời
giáng sấm động [32], mưa (c.33), đá và sét chạy trên đất. Bất cứ người hay thú
vật vật nào không ở dưới mái che bị giết chết, còn thực vật và cây cối trong
đồng ruộng đều bị hủy hoại. Vì cây gai và lúa mạch đã sẵn sàng cho mùa gặt
(c.31) nên tai vạ này chắc đã xảy đến trong tháng 1 hoặc tháng 2. Một lần nữa,
Chúa bảo vệ dân Ngài trong xứ Gô-sen và tai vạ đã không chạm đến họ.
Lời nói dối khác của
vua (Xu 9:27-35). Nhìn thấy sự tàn phá trong xứ
mình, Pha-ra-ôn nhanh chóng cho mời Môi-se và A-rôn đến, là việc mà ông ta cũng
đã làm trước đó (8:8) và sẽ làm lần nữa (10:16). Tuy nhiên, lần này vị vua kiêu ngạo đã
nhận biết sự công bình của Đức Chúa Trời và thừa nhận rằng ông phạm tội ! (ông
ta lại sẽ thừa nhận điều này. Xem 10:17). Tuy nhiên, sự xưng tội của ông ta không thành thật vì nó
không dẫn đến sự vâng lời [33] . Môi-se biết rằng
vua này thật sự không kính sợ Chúa. Tất cả những gì Pha-ra-ôn và quần thần của
ông ta muốn là dừng lại cơn mưa đá khủng khiếp này.
Đức Chúa Trời trong ân
điển Ngài đã nhậm lời cầu nguyện của Môi-se và cho dừng lại tai vạ. Pha-ra-ôn
trong sự lừa dối của mình đã thất hứa và không để dân Y-sơ-ra-ên ra đi. Cho đến
khi nào ông ta mới hiểu được rằng không thể chống lại Đức Chúa Trời và chiến
thắng Ngài ?
4. Nài xin (Xu 10:1-20)
Khi Đức Chúa Trời đưa ra
những chỉ dẫn cho Môi-se trong lần gặp mặt kế tiếp của ông với Pha-ra-ôn, Ngài
thêm vào một lý do nữa cho sự bày tỏ kỳ diệu về những việc lạ lùng Ngài đã làm
qua các tai vạ: là để dân Do Thái có thể nói cho những thế hệ nối tiếp về quyền
năng kinh khiếp của Đức Chúa Trời vĩ đại của họ.
Mục đích này cũng đã
được ghi lại trong kỳ lễ Vượt qua (Xu 12:26-27 13:8,14-15). Dù ở tại
gia đình hay trong Hội Thánh địa phương, việc giúp cho mỗi thế hệ mới được biết
và trân trọng cách thức mà Đức Chúa Trời đã hành động thay cho các thế hệ đi
trước là cần thiết. Nhớ lại và cảm tạ về những công việc kỳ diệu của Đức Chúa
Trời là một trong những chủ đề cơ bản của sách Phục Truyền luật lệ ký, kể cả về
điều những mà Chúa đã làm cho Pha-ra-ôn (Phu 4:34
7:18-19 26:5-8
29:1-3).
Sự chất vấn (Xu 10:3-11). Có 3
câu hỏi tóm tắt cho cuộc chạm trán này với Pha-ra-ôn. Thứ nhất, Môi-se và A-rôn
hỏi Pha-ra-ôn ông ta sẽ chống cự trong sự kiêu ngạo và không chịu hạ mình trước
mặt Đức Chúa Trời cho đến chừng nào. Cần có nhiều can
đảm để nói cho bất cứ vị vua nào vào thời xưa biết rằng ông ta kiêu ngạo, đặc
biệt đối với vua Ai Cập là người được tôn sùng như một vị thần. Tuy
nhiên, Môi-se và A-rôn biết rằng Chúa sẽ bảo vệ họ và đã làm theo Lời Ngài. Họ
cảnh cáo Pha-ra-ôn rằng nếu ông ta không vâng lời, những đàn cào cào lúc nhúc
sẽ vào trong xứ hủy hoại mọi vật gì chưa bị hủy hoại bởi mưa đá. Môi-se và
A-rôn không chờ đợi một câu trả lời hay một lời hứa giả dối khác; họ rao ra sứ
điệp và rời khỏi cung điện.
Câu hỏi thứ hai đến từ
các quần thần của Pha-ra-ôn “Người này sẽ là một cái bẫy cho chúng ta đến chừng
nào ?” (c.7). Họ gợi ý rằng Pha-ra-ôn đã sai lầm trong việc không để cho dân Do
Thái đi, và thậm chí họ còn dám nhắc nhở ông ta rằng chính sách bài Do Thái của
ông đã tàn diệt xứ Ai Cập. Các quần thần chắc chắn đã rất can đảm để nói về
điều này cách dạn dĩ với Pha-ra-ôn, nhưng dân tộc họ đang ở trong tình cảnh
tuyệt vọng và cần có ai đứng ra để làm một điều gì đó. Việc dân Do Thái tạm
thời rời bỏ công việc của họ để ra đi thì sẽ có thể gây ra những tổn hại gì ?
Pha-ra-ôn đã cho gọi
Môi-se và A-rôn trở lại cung điện và đưa ra câu hỏi thứ ba: “Ai là những người
sẽ đi ?” (c.8 NASB). Môi-se cho biết rõ rằng Đức Chúa Trời muốn mọi người đều
phải đi trong cuộc hành trình kéo dài 3 ngày này. Điều này nghĩa là phải có cả
đàn ông, đàn bà, trẻ em, người trẻ tuổi và người già cả, cũng như cả bầy chiên
và bầy gia súc sẽ được dùng để làm của lễ dâng lên cho Chúa. Pha-ra-ôn yêu cầu
chỉ để những người nam thực hiện cuộc hành trình này vì biết rằng ông ta có thể
giữ lại gia đình của họ để làm con tin, và có sự bảo đảm rằng họ sẽ trở lại Ai
Cập, nhưng đó là một đề nghị mà Môi-se và A-rôn đã khước từ.
Trong phản ứng giận dữ
của mình (c.10-11), Pha-ra-ôn đã nói phạm đến danh Đức Chúa Trời. Theo nguyên
văn, ông đã nói: “Nguyện Chúa ở cùng các ngươi nếu ta để cho ngươi và con cái
các ngươi đi !”. The Living Bible đã chú giải lại câu đó rằng, “Trong danh Đức
Chúa Trời ta sẽ không để cho các ngươi đem theo con cái của các ngươi đi !”
Pha-ra-ôn hiểu lời yêu cầu của Môi-se và A-rôn như một âm mưu xấu xa để bảo đảm
cho sự thoát khỏi ách nô lệ của họ tại xứ Ai Cập. Nếu mọi người đàn ông Do Thái
đều ra đi đem theo gia đình cùng với gia súc của họ thì họ sẽ không bao giờ
phải quay trở lại !
Đó là phần kết thúc của
cuộc thẩm vấn, và Pha-ra-ôn lệnh cho quần thần của ông ta đuổi Môi-se và A-rôn
ra khỏi cung điện. Về phần mình, Pha-ra-ôn đã xong việc với Môi-se và A-rôn, và
sẽ không bao giờ phải nghe những sứ điệp của họ đến từ Chúa. Tuy nhiên, Đức Chúa
Trời đã có những kế hoạch khác, và chẳng bao lâu, Pha-ra-ôn sẽ lại nài xin sự
giải cứu và sự giảm nhẹ khỏi hình phạt.
Sự xâm lấn (10:12-15). Đức
Chúa Trời đã nhìn thấy và nghe được toàn bộ cuộc đối đáp giữa Môi-se và
Pha-ra-ôn , và Ngài đã sẵn sàng để đáp lại sự lộng ngôn và sự bất tuân của
Pha-ra-ôn. Khi Môi-se giơ cây gậy của ông lên trời, Đức Chúa Trời sai một ngọn
gió đông thổi vào buổi chiều và cả đêm hôm đó. Ngọn gió đã đem vô số đàn cào
cào vào trong xứ, chúng bắt đầu cắn phá tất cả các loại hoa màu còn sót lại sau
tai vạ trước (9:32). Vì các sinh vật này tấn
công “mọi người dân Ai Cập” (10:6) nên có
thể đưa đến kết luận rằng dân Y-sơ-ra-ên đã thoát khỏi tai vạ tàn hại này.
Nếu từ vựng có thể bày tỏ được ý
nghĩa thì cào cào là một sinh vật có ý nghĩa trong thế giới thời Cựu Ước, vì có
ít nhất 7 từ Hê-bơ-rơ khác nhau trong Kinh Thánh đề cập đến nó. Dân Do Thái
được phép ăn những loại cào cào nào đó (Le 11:20-23
Phu 14:19-20 Mat
3:1-4), nhưng đa phần, họ ghét các sinh vật này vì chúng có thể cắn phá
toàn bộ hoa màu từ một khu vực nào đó với tốc độ thật kinh khiếp. Dân
Y-sơ-ra-ên dùng hình ảnh đàn cào cào để mô tả bất cứ điều gì nhanh chóng xâm
nhập và tàn phá xứ sở của họ (Cac 6:5 7:12 Es 33:4 Gie 46:23 51:14,27) và tiên tri
Giô-ên đã ví sánh những con cào cào với một đội quân xâm lược (Gio 1:1-2:32 Am 7:1-3).
Sự cầu thay (Xu 10:16-19). Nếu quần
thần của Pha-ra-ôn nghĩ rằng Ai Cập đã bị sụp đổ (c.7), vậy ý kiến của họ về
tình cảnh sau khi cào cào đến là gì ? Trong một thời
gian ngắn, không một thứ cây cỏ nào còn lại bất cứ nơi nào trong xứ, và các
sinh vật này đã xâm lấn nhà cửa cũng như các cánh đồng (c.6). Đó là thiên tai
gây tàn phá nhất đã giáng xuống xứ Ai Cập trong lịch sử của xứ này. Qua việc
hủy phá hoa màu, Đức Chúa Trời không chỉ làm cho xứ phá sản, Ngài còn đắc thắng
trên Osiris, thần của sự màu mỡ và mùa màng tại Ai Cập. Ngài cũng cho thấy rằng
Ngài có quyền tể trị trên gió.
Một lần nữa Pha-ra-ôn
lại tìm đến sự giải vây mà không muốn ăn năn, và Đức Chúa Trời đầy lòng thương
xót đã chấp nhận lời yêu cầu của ông ta. Đức Chúa Trời đã chứng minh sự vĩ đại
của Ngài bằng cách đảo ngược những cơn gió và đem tất cả cào cào xuống Biển Đỏ.
Trong một thời gian ngắn, Ngài sẽ làm cho quân đội của Pha-ra-ôn chìm dưới Biển
Đỏ, và sau đó dân Y-sơ-ra-ên sẽ được tự do để tiến vào Vùng Đất Hứa của họ.
5. Đe dọa (Xu 10:21-29)
Chúng ta không biết bao
lâu sau khi cào cào rời khỏi Ai Cập thì Đức Chúa Trời giáng xuống tai vạ thứ 9,
nhưng sự tối tăm khắp xứ trong ba ngày đã chứng minh rằng Đức Giê-hô-va vĩ đại
hơn Ra (hoặc Re) và Horus, cả hai đều được dân Ai Cập tôn sùng như thần mặt
trời. Sự tối tăm không phải là kết quả tự nhiên của một cơn bão cát nhưng là
một phép lạ từ bàn tay Đức Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ. Dân Y-sơ-ra-ên vẫn có ánh sáng trong xứ Gô-sen, như họ
vẫn sẽ có ánh sáng khi ra khỏi Ai Cập (14:19-20).
Dân của thế gian (dân Ai Cập) bước đi trong sự tối tăm nhưng dân của Đức Chúa
Trời bước đi trong sự sáng (Gi 3:19-21 IGi 1:5-10).
Luôn cầu cứu ngay khi gặp hoạn nạn,
Pha-ra-ôn đã cho gọi Môi-se và A-rôn đến và đưa ra
một lời đề nghị nữa. Dân Do Thái có thể tiến hành cuộc hành trình của họ để thờ
phượng Chúa, nhưng họ không được đem theo bầy chiên và bầy gia súc của họ. Ý
định của Pha-ra-ôn là tịch thu toàn bộ gia súc của họ để thế vào những gì ông
ta đã mất đi trong những tai vạ, và sau đó phái quân đội đem dân Do Thái trở
lại với kiếp nô lệ cho Ai Cập. Môi-se và A-rôn đã bác bỏ đề nghị này, không chỉ
vì họ nhìn thấy rõ bản chất của kế hoạch gian xảo của ông ta, mà còn vì họ biết
rằng dân Y-sơ-ra-ên phải vâng theo mọi ý muốn của Đức Chúa Trời.
Pha-ra-ôn là một người
kiêu ngạo, và những người kiêu ngạo không thích bị đánh lừa bởi những người mà
họ xem là thấp kém hơn họ. Môi-se và A-rôn đã từ chối bốn lời đề nghị của ông
ta và họ cứ khăng khăng rằng ông ta phải để cho dân Y-sơ-ra-ên đi. Hai người Do
Thái khiêm nhường này đã tỏ mình mạnh mẽ hơn cả Pha-ra-ôn cao quý của Ai Cập -
con trai của các thần. Bằng những sự đoán phạt đầy quyền năng của Ngài, Đức
Chúa Trời của dân Hê-bơ-rơ đã bắt dân tộc Ai Cập hùng mạnh phải khuất phục, và
Môi-se đã được quần thần của Pha-ra-ôn cùng dân chúng trong xứ rất trọng vọng (Xu 11:3).
Pha-ra-ôn là một người chiến bại,
nhưng ông ta sẽ không thừa nhận điều đó. Trái lại, ông ta dùng quyền hành của
mình để tìm cách đe dọa Môi-se. Ông ta cảnh cáo Môi-se rằng nếu ông trở lại
cung điện để gặp Pha-ra-ôn thì ông sẽ bị giết chết. Sẽ không có một cuộc tiếp
kiến chính thức nào nữa trước mặt Pha-ra-ôn.
Nhưng trước khi Môi-se rời cung
điện, ông đã rao ra lời cảnh báo sau cùng của Đức Chúa Trời về tai vạ cuối, đó
là tai vạ về sự chết của con đầu lòng (c.4). Ở đây dường như đã có sự phân đoạn
không thích hợp vì giữa (10:28) và (10:29), có lẽ Môi-se đã
rao ra lời cảnh báo cuối cùng của ông, và sau đó ông đã rời cung điện trong sự
phẫn nộ [34] Pha-ra-ôn đe dọa giết Môi-se, nhưng Đức Chúa
Trời sẽ giết hết mọi con trai đầu lòng trong xứ Ai Cập và nhận chìm những toán
quân thiện chiến của Ai Cập. Mặc cho điều Pha-ra-ôn nói về việc sẽ không gặp
lại Môi-se, vào đêm lễ Vượt Qua, Pha-ra-ôn sẽ một lần nữa cho gọi Môi-se và cầu
xin sự giúp đỡ của ông (12:31).
Sự cứng lòng của
Pha-ra-ôn là một lời cảnh cáo cho tất cả chúng ta. Nếu tấm lòng của tội nhân
không đáp ứng với Lời Đức Chúa Trời bởi đức tin thì không thể được biến đổi bởi
ân điển Đức Chúa Trời (Exe
36:26-27 He 8:7-13). Thay vào đó, nếu tấm lòng nào càng chống nghịch với lẽ thật của Đức Chúa Trời thì nó sẽ
càng trở nên cứng cỏi hơn. Dù Đức Chúa Trời có thể
giáng tai họa bao nhiêu lần chăng nữa thì điều này cũng chỉ làm thêm lên sự bất
tuân. Vào những ngày sau rốt, khi Đức Chúa Trời giáng những sự xét đoán kinh
khiếp của Ngài trên thế gian (Kh 6:1-16:21) [35] , người ta sẽ rủa sả Đức Chúa Trời và cứ ghì mài
trong tội lỗi của họ, nhưng họ sẽ không ăn năn (Xu 6:15-17 9:20-21
16:9,11). Sẽ có cả một thế giới đầy dẫy những người nam
người nữ giống như Pha-ra-ôn sẽ nhìn thấy những sự xét đoán của Đức Chúa Trời
mà vẫn không ăn năn.
“Ngày nay, nếu các ngươi nghe tiếng
Ngài, thì chớ cứng lòng” (He 8:7 NKJV).
“Sa vào tay Đức Chúa Trời hằng sống
là sự đáng kinh khiếp thay” (10:31)
4. MỘT TAI VẠ NỮA (Xu 11:1-13:16)
Phân đoạn này tập trung vào một chủ
đề không ai thích nghe, đó là sự chết. Vua Giê-hô-va (Thi
95:3) sẽ đặt vua Pha-ra-ôn đối mặt với một vị vua khác – thần chết, là
“vua của sự kinh khiếp” (Giop 18:14). Kẻ thù
cuối cùng, sự chết (ICo 15:26), sẽ hoành
hành Ai Cập qua tai vạ cuối cùng, và giáng một đòn
cuối trên vị vua kiêu ngạo của Ai Cập. Trong một đêm buồn bã, tất cả các con
trai đầu lòng cùng mọi súc vật đầu lòng ở Ai Cập sẽ chết, và sẽ có một
tiếng kêu khóc lớn trong cả xứ (Xu 11:6 12:30). Chỉ đến khi đó
Pha-ra-ôn mới để cho dân của Đức Chúa Trời ra đi.
Tuy nhiên, sự chết sẽ
không đến trên dân Do Thái và bầy gia súc của họ trong xứ Gô-sen vì dân
Y-sơ-ra-ên thuộc về Chúa, và là một dân được biệt riêng cho Ngài. Trong cả xứ
Gô-sen, chỉ những chiên con một tuổi vô tội mới là những con vật sẽ chịu chết,
một con cho mỗi gia đình Do Thái. Đêm này sẽ đánh dấu sự mở đầu của lễ Vượt
Qua, đây là quốc lễ đầu tiên của Y-sơ-ra-ên. Trong chương này, chúng ta cần xét
đến năm khía cạnh khác nhau của lễ Vượt Qua.
1.Lễ Vượt Qua và dân Ai
Cập (Xu 11:1-10)
Dân
Ai Cập đã rất tức giận bởi 6 tai vạ đầu tiên, sau đó, xứ họ cùng những của cải
của họ cũng đã bị tàn hại bởi hai tai vạ kế tiếp. Tai vạ thứ chín, ba ngày tối
tăm, đã chuẩn bị cho tai vạ kinh khiếp nhất sẽ xảy ra, là lúc mà các sứ giả của
thần chết sẽ đến trên xứ. “Ngài thả nghịch chúng nó với cơn giận dữ của Ngài, sự thạnh nộ, sự căm phẫn và sự thù địch – tức là
một đoàn thiên sứ đem đến sự hủy diệt” (Thi 78:49
NIV).
Môi-se nghe Lời Đức
Chúa Trời (Xu 11:1-3). Những câu này mô tả điều đã xảy
ra trước khi Môi-se được mời đến cung điện để nghe lời đề nghị cuối cùng của
Pha-ra-ôn (10:24-29). Lời rao báo của Môi-se
(11:4-8) được rao ra giữa các câu 26 và 27
của đoạn 10 và kết thúc với hành động Môi-se rời khỏi cung điện trong sự giận
dữ tột độ (10:29 11:8).
Đức Chúa Trời cho Môi-se biết Ngài
sẽ giáng một tai vạ nữa cho Ai Cập, một tai vạ khủng khiếp đến nỗi Pha-ra-ôn
không chỉ sẽ cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi mà còn sẽ hạ
lệnh cho họ phải đi. Pha-ra-ôn sẽ duổi họ ra khỏi xứ, và vì thế làm
ứng nghiệm lời hứa Đức Chúa Trời đã lập trước cả khi những tai vạ bắt đầu (6:1 12:31-32,39).
Môi-se cho dân Do Thái biết rằng đã
đến lúc họ sẽ nhận lấy tiền công chưa được trả cho tất cả các công việc mà họ và
tổ tiên họ đã làm khi còn là nô lệ tại Ai Cập. Trong Kinh Thánh Authorized
Version, từ dịch là “mượn” thì trong tiếng Hê-bơ-rơ chỉ có nghĩa là “đòi hỏi
hay yêu cầu”. Dân Do Thái không có ý định trả lại những gì dân Ai Cập đã cho
họ, vì của cải đó là khoản phải trả cho một món nợ còn tồn đọng mà Ai Cập đã nợ
Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời đã hứa với Ap-ra-ham rằng con cháu ông sẽ rời Ai Cập
“với nhiều của cải” (Sa 15:14). Và Ngài đã
nhắc lại lời hứa đó với Môi-se (Xu 3:21-22).
Đức Chúa Trời đã ban cho tôi tớ Ngài là Môi-se sự tôn trọng rất lớn giữa vòng
dân Ai Cập, và giờ đây Ngài sẽ ban cho dân Do Thái đặc ân lớn với dân Ai Cập,
họ sẽ cho dân Do Thái của cải của họ một cách rời rộng (12:36-37).
Môi-se cảnh cáo
Pha-ra-ôn (11:4-10). Đây là những lời cuối cùng của Môi-se trước Pha-ra-ôn, và ông
ta đã chối bỏ điều đó như ông ta đã từng chối bỏ những lời cảnh báo khác.
Pha-ra-ôn không có sự kính sợ Đức Chúa Trời trong lòng, do đó ông không xem
trọng những lời của Môi-se. Nhưng qua sự chối bỏ Lời Đức Chúa Trời, Pha-ra-ôn
đã khiến cho những người nam trẻ tuổi, tuấn tú trong xứ phải chết, và vì thế đã
chuốc lấy sự đau buồn cho chính ông ta và dân sự của ông ta.
Tại đây, có hai câu hỏi
cần được nêu ra (1) Tại sao Đức Chúa Trời chỉ giết con đầu lòng ?(2) Hành động
như thế thì liệu Ngài có công bình chăng khi Pha-ra-ôn mới là thủ phạm thật ? Nếu giải đáp được câu hỏi đầu tiên thì sẽ giúp
cho chúng ta trả lời câu hỏi thứ hai.
Trong hầu hết các nền
văn hóa, con trai đầu lòng được xem là đặc biệt, và ở Ai Cập họ được xem là thiêng
liêng. Chúng ta phải nhớ rằng Đức Chúa Trời gọi Y-sơ-ra-ên là con trưởng nam
của Ngài (Xu 4:22
Gie 31:9 Os 11:1).
Ngay từ đầu cuộc xung đột của họ, Môi-se đã cảnh cáo Pha-ra-ôn rằng cách ông ta đối xử với con đầu lòng của Đức Chúa Trời
sẽ quyết định cách Đức Chúa Trời đối xử với con đầu lòng của Ai
Khi bạn đọc sách Sáng Thế ký, bạn
biết rằng Đức Chúa Trời thường khước từ con trưởng nam và chọn con trai thứ để
tiếp nối dòng dõi và nhận lãnh phước hạnh đặc biệt của Đức Chúa Trời. Đức Chúa
Trời chọn A-bên, và sau đó là Sết, chớ không phải Ca-in; Ngài chọn Sem, không
phải Gia-phết; Y-sác chớ không phải Ích-ma-ên; và Gia-cốp chớ không phải là
Ê-sau.
Những sự chọn lựa này không chỉ bày
tỏ ân điển lớn lao của Đức Chúa Trời, nhưng đây còn là một cách nói tượng trưng
rằng sự sinh ra lần đầu tiên của chúng ta không được Đức Chúa Trời chấp nhận.
Chúng ta phải kinh nghiệm một sự sinh ra thứ hai, một sự sinh ra về thuộc linh
trước khi Đức Chúa Trời có thể chấp nhận chúng ta (Gi
1:12-13 3:1-18). Con trưởng nam tượng
trưng cho điều tốt nhất của loài người, nhưng vẫn chưa phải là một điều tốt đẹp
đối với một Đức Chúa Trời thánh khiết. Bởi sự sinh ra lần thứ nhất, chúng ta
thừa kế bản chất tội lỗi của A-đam và bị hư mất (Thi
51:5-6) nhưng khi chúng ta kinh nghiệm được sự sinh ra lần thứ hai bởi
đức tin nơi Đấng Christ, chúng ta sẽ tiếp nhận bản chất thiêng liêng của Đức
Chúa Trời và được chấp nhận trong Đấng Christ (IIPhi
1:1-4 Ga 4:6 Ro
8:9).
Pha-ra-ôn
và dân Ai Cập đã phạm tội nghịch với sự sáng và sỉ nhục sự thương xót của Đức
Chúa Trời – Chúa đã chịu đựng sự chống nghịch và sự thiếu hiểu biết của vua Ai
Cập, cũng như cách đối xử độc ác của ông ta đối với dân Do Thái trong một thời
gian quá lâu. Đức Chúa Trời đã cảnh cáo Pha-ra-ôn nhiều lần, nhưng ông
vẫn không đầu phục Ngài. Đức Giê-hô-va đã công khai
làm bẽ mặt các thần của Ai Cập và chứng Cập (Xu
4:22-23). Pha-ra-ôn đã tìm cách giết hại các bé trai Do Thái và quần
thần của ông ta đã ngược đãi các nô lệ Do Thái một cách tàn bạo, vì vậy, qua
việc giết các con đầu lòng của Ai Cập, Chúa chỉ đang đáp trả lại Pha-ra-ôn
những gì mà ông ta đã làm.
Sự vay trả là một luật cơ bản của
đời sống (Mat 7:1-2), và Đức Chúa Trời không
phải bất công trong việc cho phép luật này hoạt động trong thế gian. Pha-ra-ôn
đã nhận chìm những em bé Do Thái, vì vậy Đức Chúa Trời nhận chìm quân đội của
Pha-ra-ôn (Xu 14:26-31 15:4-5). Gia-cốp đã nói dối với Y-sác cha mình (Sa 27:15-17), và nhiều năm sau đó, những con trai
của Gia-cốp đã nói dối với ông (37:31-35).
Đa-vít đã phạm tội tà dâm và sai giết hại chồng của người đàn bà này (IISa 11:27), con gái của Đa-vít bị cưỡng hiếp và
hai trong số những con trai ông bị giết (13:1-29
18:1-33). Ha-man đã dựng một giá treo cổ để
treo Mạc-đô-chê lên đó, nhưng chính Ha-man đã bị treo lên đó (Exo 7:7-10). “Chớ hề dối mình, Đức Chúa Trời không
chịu khinh dễ đâu, vì ai gieo giống chi lại gặt giống ấy” (Ga 6:7).
Đối với sự công bằng của tai vạ thứ
10 này, ai có thể xét đoán những hành động của Chúa khi “sự công bình và sự
chính trực là nền của ngôi Chúa” (Thi 89:14)
? Nhưng vì sao sự chống đối Đức Chúa Trời của một người lại gây nên sự chết của
nhiều người nam trẻ tuổi vô tội ? Tuy nhiên, những sự kiện tương tự vẫn đang
xảy ra trong thế giới của chúng ta ngày nay. Có bao nhiêu nam và nữ quân nhân
đã chết có cơ hội bỏ phiếu để ủng hộ hay chống lại một cuộc chiến tranh ? Và về
“sự vô tội” của những con trai đầu lòng này, chỉ có Đức Chúa Trời mới biết lòng
người và có thể xét đoán một cách công bình trọn vẹn. “Đấng đoán xét toàn thế
gian há lại không làm sự công bình sao ?” (Sa 18:25).minh chính Ngài là Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống duy
nhất, nhưng dân Ai Cập vẫn sẽ không tin nhận Ngài.
“Vì án phạt nghịch với việc ác không
được thi hành nhanh chóng, nên lòng con loài người chuyên làm điều ác” (Tr 8:11 NKJV). Sự thương xót của Đức Chúa Trời, lẽ
ra đã đem Pha-ra-ôn đến chỗ thuận phục; thay vì thế, ông ta lại nhiều lần cứng
lòng. Quần thần của Pha-ra-ôn đã hạ mình trước Môi-se (Xu
11:8); tại sao Pha-ra-ôn không thể làm theo gương của họ ? “Sự kiêu ngạo
đi trước sự bại hoại, và tánh tự cao đi trước sự sa ngã” (Ch 16:18 NKJV).
2. Lễ Vượt Qua và dân
Y-sơ-ra-ên (Xu 12:1-28,43-51)
Lễ Vượt Qua đánh dấu một
khởi đầu mới đối với dân Do Thái và kết hợp họ lại thành một dân tộc [36] . Khi Chúa giải phóng bạn
khỏi ách nô lệ, đó là bình minh của một ngày mới và khởi đầu của một đời sống
mới. Mỗi khi bạn gặp những từ “cứu chuộc” hay “sự cứu chuộc” trong Kinh Thánh
Tân Ước thì chúng đang nói về sự tự do khỏi cảnh nô lệ (ước tính có 60 triệu nô
lệ ở đế quốc La Mã). Các tín đồ Do Thái lại sẽ nghĩ ngay đến lễ Vượt Qua và sự
giải cứu Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập nhờ huyết chiên con.
Trong thời Cựu Ước, dân
tộc Do Thái sử dụng hai hệ thống lịch, loại lịch thường bắt đầu vào tháng 9-10
của chúng ta, và loại lịch tôn giáo bắt đầu vào tháng 3-4 của chúng ta. Ngày
đầu Năm Mới của một năm thường (“Rosh Hashana” - “bắt đầu của năm”) rơi vào
tháng thứ bảy của lịch tôn giáo và mở đầu cho các sự kiện đặc biệt trong tháng Tishri: Lễ hội Kèn Trompet, Lễ
Chuộc Tội, và Lễ Đền Tạm. Nhưng Lễ Vượt Qua đánh dấu cho sự khởi đầu của một
năm tôn giáo, và tại Lễ Vượt Qua, sự tập trung chủ yếu là về chiên con.
Câu hỏi của Y-sác “Chiên con ở đâu
?” (Sa 22:7) đã giới thiệu một trong những
chủ đề chính của sách Tân Ước vì dân sự của Đức Chúa Trời vào lúc ấy đang mong
chờ Đấng Mê-si-a. Câu hỏi này cuối cùng đã được Giăng Báp-tít trả lời khi ông
chỉ Chúa Giê-xu và nói: “Kìa, Chiên Con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi
thế gian đi !” (Gi 1:29). Việc chiên con của
Lễ Vượt Qua là một hình ảnh về Chúa Giê-xu Christ đã được khẳng định trong Tân
Ước bởi nhà truyền giáo Phi-líp (Cong 8:32-35
Es 53:7-8), cũng như bởi sứ đồ Phao-lô (ICo 5:7), Phi-e-rơ (IPhi
1:18-20), và Giăng (Kh 5:5-6 13:8) [37]
Chiên Con được chọn và
xem xét (Xu 12:1-6a) vào
ngày mùng 10 trong tháng và được kiểm tra kỹ lưỡng trong 4 ngày để bảo đảm đáp
ứng được những điều kiện của Đức Chúa Trời. Không có nghi vấn gì khi Chúa
Giê-xu đáp ứng mọi yêu cầu của một Chiên Con cho chúng ta, vì Đức Chúa Cha đã
phán: “Này là Con yêu dấu của ta, đẹp lòng ta mọi đàng” (Mat 3:17). Suốt những ngày trước lễ Vượt Qua,
những kẻ thù của Chúa chúng ta đã chất vấn Ngài nhiều lần, chờ đợi Ngài sẽ nói
điều gì đó khiến họ có thể công kích Ngài. Suốt những cuộc xét xử và thẩm tra,
Chúa Giê-xu đã bị xét hỏi nhiều lần, và Ngài đã vượt qua mọi cuộc thử nghiệm.
Chúa Giê-xu không biết đến tội lỗi (IICo 5:21),
không phạm tội (IPhi 2:22) và trong Ngài
không có tội lỗi (IGi 3:5). Ngài là Chiên Con toàn vẹn của Đức Chúa Trời.
Ngày 14 trong tháng, vào
lúc chiều tối [38] chiên con đã bị giết (Xu 12:6b-7,12-13,21-24) và huyết nó được bôi vào cột dọc và cột ngang cửa nhà của
những gia đình Do Thái. Không phải sự
sống,
nhưng là sự chết của chiên con đã cứu
dân sự ra khỏi sự đoán phạt của Đức Chúa Trời . “Không đổ huyết thì không có sự
tha thứ” (He 9:22 Le 17:11). Một số người tuyên bố rằng họ thán phục
đời sống và sự dạy dỗ của Chúa Giê-xu lại chính là những người không cần đến
thập tự giá của Chúa Giê-xu; nhưng chính sự chết của Ngài trên thập tự giá đã
trả giá cho sự cứu chuộc chúng ta (Mat 20:28
26:28 Gi 3:14-17
10:11 Eph 1:7
ITi 2:5,6 He 9:28 Kh 5:9). Chúa Giê-xu là người thay thế cho chúng
ta; Ngài đã chết thay cho chúng ta và chịu sự xét đoán về tội lỗi chúng ta (Es 53:4-6 IPhi 2:24).
Tuy nhiên, để có hiệu lực, huyết
phải được bôi vào các cột cửa, vì Đức Chúa Trời đã hứa “khi ta nhìn thấy huyết,
ta sẽ vượt qua các ngươi” (Xu 12:13). Nếu
chỉ biết rằng Đấng Christ bị giết vì tội lỗi của thế gian thì chưa đủ, nhưng
chúng ta phải áp dụng sự hy sinh đó cho chính mình và có thể đồng thanh với
Phao-lô rằng: “Con Đức Chúa Trời đã yêu tôi, và đã phó chính mình Ngài vì tôi”
(Ga 2:20), và với Ma-ri: “Tâm thần tôi mừng
rỡ trong Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa tôi” (Lu 1:46).
Kinh nghiệm về sự chuộc tội của chúng ta phải mang tính cá nhân: “Lạy Chúa tôi
và Đức Chúa Trời tôi” (Gi 20:28).
Dân Do Thái nhúng chùm kinh giới
mỏng manh vào chậu huyết và bôi huyết vào các cột cửa (Xu
42:22). Chùm kinh giới sau đó được sử dụng để rưới huyết làm trọn giao
ước (24:1-8) và làm sạch những người bị bệnh
phung (Le 14:4,6,49,51-52). Đức tin chúng ta có thể yếu đuối như chùm
kinh giới, nhưng không phải đức tin nơi đức tin của chúng ta, nhưng là đức tin
nơi huyết của Chúa Cứu Thế đã cứu chúng ta.
Chiên con được quay
lên và được ăn (Xu
12:8-11,46),
và được thực hiện một cách vội vã, mỗi người trong gia đình phải sẵn sàng
để ra đi khi hiệu lệnh được ban. Bữa ăn gồm có chiên con quay, bánh không men
và rau đắng, mỗi thứ tượng trưng cho một lẽ thật thuộc linh quan trọng.
Để có thể giữ được cả con chiên,
người ta đã quay chiên con trong lửa chớ không luộc trong nước. Dường như dân
Do Thái không có chậu lớn đủ để luộc cả một con chiên, nhưng thậm chí nếu họ có
thì điều này cũng bị cấm. Xương sẽ bị gãy và thịt khi nấu sẽ rời ra khỏi xương.
Không một chiếc xương nào bị làm gãy, và cũng không được đem những miếng thịt
ra khỏi nhà (c.46 Gi 19:31-37 Thi 34:20). Chúng ta phải thấy rằng sự toàn vẹn
của chiên con là một điều quan trọng.
Chúng ta tin cậy nơi
Đấng Christ rằng chúng ta có thể được cứu khỏi tội lỗi mình bởi sự hy sinh của
Ngài, nhưng chúng ta cũng phải sống bởi Đấng Christ để có được năng lực cho
chuyến hành hương mỗi ngày của chúng ta. Khi chúng ta thờ phượng, suy gẫm Lời
Chúa, cầu nguyện và tin tưởng nghĩa là chúng ta đang dùng đồ ăn thuộc linh của
Chúa Giê-xu Christ và được tăng trưởng trong ân điển cùng sự hiểu biết [39]
Cùng với thịt chiên, dân Y-sơ-ra-ên còn ăn rau
đắng và bánh không men (Xu
12:14-20,39
13:3-7). Việc nếm vị rau đắng sẽ nhắc dân Do
Thái về những năm tháng nô lệ cay đắng của họ trong xứ Ai Cập. Tuy nhiên, khi
hoàn cảnh trở nên khó khăn trong suốt cuộc hành trình ở trong đồng vắng của họ,
dân chúng thường nhớ lại “những ngày xưa tươi đẹp” và muốn quay trở lại Ai Cập
(16:3 17:1-3
Dan 11:1-9 14:15).
Họ đã quên đi sự cay đắng của cảnh nô lệ trong lò lửa sắt kinh khiếp ấy.
Bánh của họ không men vì hai lý do:
không có thời gian cho bánh nổi lên (Xu 12:39),
và men là một biểu tượng về sự bất khiết của dân Do Thái. Một tuần sau lễ Vượt
Qua, họ buộc phải ăn bánh không men và phải cất bỏ hết men ra khỏi chỗ ở của
họ.
Men là một hình ảnh về tội lỗi: nó
ẩn giấu; nó hoạt động lặng lẽ và bí mật; nó ăn lan và làm ô uế; và nó làm cho
bột nhào nổi lên (“dậy lên” - ICo 4:18-5:2).
Cả Chúa Giê-xu và Phao-lô đều so sánh sự dạy dỗ sai trật với men (Mat 16:6-12 Mac 8:15
Ga 5:1-9), và men cũng được ví sánh với sự
giả hình (Lu 12:1) và đời sống tội lỗi (ICo 5:6-8). Phao-lô khuyên các hội thánh địa
phương thanh tẩy mọi tội lỗi ra khỏi giữa vòng họ và
dâng chính mình làm bánh không men cho Chúa.
Nếu có phần thịt nào còn
lại từ bữa tiệc thì phải bị thiêu đốt đi. Chiên con đặc biệt đến nỗi nó không
thể bị xem như một loại thức ăn bình thường. Cũng như vậy, ma-na rất đặc biệt
và không thể được tích trữ từ ngày này sang ngày khác trừ ngày trước lễ Sa-bát (Xu 16:14-22).
Họ dự tiệc với tư cách
gia đình và với tư cách hội chúng (12:25-28
13:8-10). Bữa ăn được chuẩn bị cho cả
gia đình (12:3-4) và tất cả các thành viên
trong gia đình phải cùng tham dự. Đức Chúa Trời quan tâm đến cả gia đình chớ
không chỉ về cha mẹ. Nếu những đứa con quý báu trong
các gia đình Do Thái không được bảo vệ bởi huyết và không được nuôi dưỡng bởi
thức ăn thì chúng không thể được giải cứu khỏi xứ Ai Cập và đó sẽ là kết cuộc
của dân tộc [40]
Dù có nhiều gia đình Do
Thái trong xứ Gô-sen, Đức Chúa Trời nhìn xem họ chỉ như một hội chúng (c.3-6).
Khi những hội chúng Cơ Đốc địa phương ngày nay nhóm lại để kỷ niệm Tiệc Thánh,
Đức Chúa Trời nhìn xem mỗi hội chúng như một bộ phận trong cùng một thân, là Hội Thánh. Đó là lý do Phao-lô có thể viết
về “cả cái nhà… cả gia đình… cả thân thể” (Eph 2:21
3:15 4:16
NKJV). Bởi huyết chiên con Y-sơ-ra-ên đã trở nên một dân tộc, và bởi Chúa
Giê-xu Christ Hội Thánh đã trở nên một thể hiệp nhất.
Bữa ăn lễ Vượt Qua không chỉ là một
lễ nghi cần phải tuân giữ (Xu 12:14,17,24,43), nhưng nó còn
là một “kỷ niệm” được lập ra thành một lễ để nhắc nhớ trong Y-sơ-ra-ên câu
chuyện về cuộc hành trình rời khỏi Ai Cập (c.14 13:8-10).
Sau khi Y-sơ-ra-ên tiến vào và chinh phục vùng Đất Hứa, dân sự lo ổn định cuộc
sống và dễ dàng quên đi những việc làm vĩ đại mà Đức Chúa Trời đã làm cho họ.
Việc giữ lễ Vượt Qua hằng năm sẽ cho các bậc cha mẹ người Do Thái có thêm một
cơ hội nữa để dạy cho con cái họ biết về ý nghĩa của sự tự do và về những gì mà
Đức Chúa Trời đã làm cho họ. Những người lớn tuổi phải là “những mắt xích sống
động” liên kết với quá khứ của Y-sơ-ra-ên hầu cho mỗi thế hệ mới sẽ hiểu được ý
nghĩa của việc là một thành viên thuộc tuyển dân của Đức Chúa Trời (Phu 6:1-15 11:18-21
Thi 34:11 78:1-7
145:4).
Vào những năm sau đó, cùng với (Phu 6:8-9) và (Phu
11:18), dân Do Thái chính thống đã hiểu
(Xu 13:8-9,16) theo nghĩa đen. Môi-se nói rằng lễ Vượt Qua
phải “giống như một dấu hiệu” (xem Xu 13:9
NIV), nghĩa là, một sự nhắc nhở họ về điều Chúa đã làm. Ngược lại, những người
chính thống đã giải nghĩa điều này có nghĩa là những người nam Do Thái phải
mang Kinh Thánh lên mình họ. Vì vậy, họ viết những
đoạn Kinh Thánh trên giấy da và đặt chúng trong những chiếc hộp nhỏ và mang
trên cánh tay trái và ở trán. Trong Tân Ước, chúng được gọi là “thẻ bài da” (Mat 23:5) [41]
Việc dự tiệc bị cấm dối với những ai ở
ngoài giao ước (Xu 12:43-51). Không chỉ “vô số người ngoại bang” đi chung với Y-sơ-ra-ên khi
họ rời Ai Cập (c.38), nhưng dân Do Thái cũng gặp nhiều dân tộc khác trên đường
đi và khi họ đến Ca-na-an.
Y-sơ-ra-ên có thể bị cám
dỗ để cho những láng giềng người ngoại bang tham dự cùng với họ trong việc dự
lễ Vượt Qua - “Lễ Quốc Khánh” của họ, nhưng Chúa đã cấm việc làm này. Sau đó,
Ngài cũng sẽ cấm dân Do Thái tham dự với những láng giềng của họ trong những lễ
nghi tôn giáo ngoại bang, vì Y-sơ-ra-ên phải là một dân được biệt riêng cho Ngài (Phu 7:1-11) [42] .
“Những người ngoại bang”
này là ai mà Đức Chúa Trời phán dân Y-sơ-ra-ên không thể mời họ dự lễ Vượt Qua
? Họ không phải là dân Y-sơ-ra-ên, họ chưa bao giờ chịu phép cắt bì và do đó không
phải là con cái của sự giao ước. Họ có thể là những nô lệ trong trại quân
Y-sơ-ra-ên hoặc chỉ là những khách lạ (khách kiều ngụ) sống giữa vòng dân Do
Thái. Bất cứ khách lạ hay tôi tớ nào cũng có thể chịu phép cắt bì và trở nên
một thành viên của dân tộc này và được dự phần vào những đặc quyền của giao
ước, nhưng họ cũng phải chấp nhận những trách nhiệm đi cùng.
3. Lễ Vượt Qua và Đức
Giê-hô-va (Xu 12:29-42,51)
Chúng ta thường gọi sự
kiện này là “Lễ Vượt Qua của dân Do
Thái”, nhưng Kinh Thánh gọi đó là “lễ Vượt Qua của Đức Giê-hô-va” (Le 23:5 Dan 28:16).
Việc giữ lễ này còn hơn cả lễ kỷ niệm “Ngày Quốc Khánh”, vì lễ Vượt Qua được
giữ “cho Đức Giê-hô-va” (Xu 12:48 Dan 9:10,14). “Ấy là tế lễ Vượt Qua của Đức Giê-hô-va” (Xu 12:27). Trung tâm của mọi sự chú ý là Đức
Giê-hô-va, vì những gì đã xảy ra vào đêm đặc biệt đó là vì cớ Ngài. Có ít nhất
17 lần trong (Xu 12:1-50) “Đức Giê-hô-va”
được đề cập đến vì Ngài là Đấng đảm trách mọi sự.
Đức Chúa Trời bày tỏ
quyền năng Ngài (12:29-30). Sau khi dân Do Thái đã giữ lễ Vượt Qua “giữa các buổi chiều
tối” thì họ chờ hiệu lệnh của Đức Chúa Trời để ra đi. Vào giữa đêm, Chúa đánh
các con đầu lòng, sự chết đã đến trên mọi gia đình Ai Cập, có tiếng kêu la inh
ỏi nổi lên khắp xứ (11:6 12:30). Sự chết không
thiên vị một ai, và vào đêm đó nó đã đến trên gia đình của người tù nhân Ai Cập
hèn hạ nhất cũng như của chính Pha-ra-ôn. Tuy nhiên, không có sự chết nào xảy
ra giữa vòng dân Do Thái trong xứ Gô-sen. Bài học ở đây thật rõ ràng. Nếu bạn
không được bảo vệ bởi huyết của Đấng Christ, thì khi sự chết đến, bạn sẽ hoàn
toàn không có sự chuẩn bị, và bạn không
biết khi nào sự chết sẽ đến.
Đức Chúa Trời đã giữ
những lời hứa của Ngài (12:31-36). Đức
Chúa Trời cho Môi-se biết điều sắp xảy ra và Môi-se đã thông báo điều đó cho
Pha-ra-ôn (11:1-8), nhưng Pha-ra-ôn không
tin. Tuy nhiên, lời của Đức Chúa Trời đã không qua đi. Như Ngài đã phán với
Môi-se, các con đầu lòng ở Ai Cập đều chết, có một tiếng lạ rất lớn trong xứ,
Pha-ra-ôn bảo dân Y-sơ-ra-ên phải ra đi, và dân Ai Cập cho đi của cải của họ
cách rời rộng. Những lời hứa được thiết lập với Áp-ra-ham bao thế kỷ trước đây
đã được ứng nghiệm trong đêm hôm đó (Sa 15:13-14).
“Về các lời tốt lành mà Ngài đã cậy miệng Môi-se kẻ tôi tớ Ngài phán ra, chẳng
có một lời nào không ứng nghiệm” (IVua 8:56).
Đức Chúa Trời giải cứu
dân Ngài (Xu 12:37-42,51). Dân
Y-sơ-ra-ên đã dạn dĩ đi ra khỏi Ai Cập trước sự chứng kiến của dân Ai Cập là
những người đang bận rộn chôn người chết của họ (Dan
33:3-4). Nếu có khoảng 600.000 người nam Do Thái tham dự trong cuộc hành
trình rời Ai Cập, vậy tổng số dân Do Thái vào khoảng 2 triệu người. Giống như
quân đội với những sư đoàn (Xu 12:17,50), họ bước đều
nhanh nhẹn trong trật tự cùng những bầy chiên và gia súc của họ. Không một
người Do Thái nào quá yếu mệt để không thể bước đi, và dân Ai Cập vui mừng khi
thấy dân Do Thái ra khỏi xứ họ (Thi 105:37-38).
Có hai từ khác nhau được dùng để mô
tả điều mà bản dịch King James gọi là “đám đông pha tạp” đã rời Ai Cập cùng với
dân Do Thái. Trong (Xu 12:38) từ này chỉ đơn
giản là “đám người” hoặc “đám đông”, nhưng trong (Dan
11:4), từ được dùng là “đám người lộn xộn” (xem NIV). Điều này gợi ý
rằng “đám đông pha tạp” là khởi đầu của mọi sự than phiền trong trại quân và từ
đó đã gây ra nhiều chuyện rắc rối cho Môi-se. Một số người trong đám đông này
có thể là dân Ai Cập đã kết hôn với dân Do Thái, đi ngược lại với luật pháp của
Đức Chúa Trời; những người khác có thể là dân Ai Cập đã rất kính sợ và bị thu
phục bởi quyền năng của Đức Giê-hô-va (Xu 9:20),
và họ muốn cùng hưởng lợi khi ở với tuyển dân của Đức Chúa Trời. Có lẽ họ nghĩ
rằng sẽ còn nhiều hình phạt nữa sẽ giáng trên xứ và
họ muốn thoát khỏi những sự đoán xét ấy.
Dù họ là ai, “đám đông
pha tạp” này cũng là những đại diện cho thế gian - là những người tuy bên ngoài
được đồng nhất với dân sự của Đức Chúa Trời, nhưng bên trong họ thực sự không
phải là con cái Đức Chúa Trời. Họ có thể là thuộc viên trong Hội Thánh và thậm
chí là những người lãnh đạo tôn giáo, nhưng
thái độ và lòng ham muốn của họ về căn bản lại khác với những người thật sự
thuộc về Chúa. Chúa Giê-xu đã cảnh cáo: “Chẳng phải hễ những kẻ nói cùng ta ra
rằng: Lạy Chúa, Lạy Chúa, thì đều được vào nước thiên đàng đâu; nhưng chỉ kẻ
làm theo ý muốn của cha ta ở trên trời mà thôi” (Mat
7:21). Những đoàn dân đông đã đi theo Chúa Giê-xu trong suốt thời gian
Ngài thi hành chức vụ trên đất, nhưng Ngài không có ấn tượng gì với những đám
đông này. Xin xem (Mat 13:1-9,18-23 Lu 14:25-35 Gi 6:60-71).
Những lời hứa của Đức Chúa Trời
không bao giờ lầm lẫn và thời điểm mà Ngài đã định không hề sai trật (Xu 12:40-41). Cuộc hành trình rời Ai Cập đã xảy ra
480 năm trước năm trị vì thứ 4 của triều đại vua Sa-lô-môn (IVua 6:1), là vào năm 966 TC. Điều đó có nghĩa là
niên đại của cuộc hành trình rời khỏi Ai Cập là 1446 TC, và con cháu của
Gia-cốp đã ở Ai Cập từ năm 1876 TC. Cả (Sa 15:13)
và (Cong 7:6) đều cho “400 năm” là một con
số tròn, nhưng (Ga 3:17) ghi rõ là “430
năm”. Hầu hết các học giả Kinh Thánh thận trọng đều chấp nhận 1446 là niên đại
của cuộc hành trình ra khỏi xứ Ai Cập.
Rất nhiều chỗ trong Kinh Thánh đề
cập đến cuộc hành trình của dân Y-sơ-ra-ên rời khỏi Ai Cập như một sự bày tỏ
mạnh mẽ nhất về quyền năng của Đức Giê-hô-va trong lịch sử của Y-sơ-ra-ên. Các
đấng tiên tri nói về cuộc hành trình ra khỏi Ai Cập như một chứng cớ về tình yêu
của Đức Chúa Trời dành cho Y-sơ-ra-ên (Gie 2:1-8
Os 11:1). Họ cũng liên hệ đến cuộc hành
trình rời Ai Cập khi nói về sự giải phóng dân Do Thái ra khỏi cảnh giam cầm ở
Ba-by-lôn (Gie 16:14 23:7-8). Ê-sai đã hứa hẹn về một
tương lai sẽ nhóm họp Y-sơ-ra-ên lại trong xứ của họ và ông đã so sánh
sự kiện này với cuộc hành trình rời Ai Cập (Es
11:15 43:14-21 51:9-11). Nhiều lần Ê-sai đã đề cập đến một “con
đường cái” sẽ làm cho cuộc hành trình trong tương lai của dân Do Thái trở nên
dễ dàng từ chính các dân tộc ngoại bang (11:16
19:23 35:8
62:10).
4. Lễ Vượt Qua và các
con đầu lòng (Xu 13:1-16)
Phân đoạn này giải thích
ý nghĩa của các con đầu lòng trong dân Y-sơ-ra-ên. Không chỉ mỗi năm một lần
tại lễ Vượt Qua dân Do Thái mới được nhắc nhở về ân điển và quyền năng của Đức
Chúa Trời, nhưng mỗi khi con đầu lòng, của con người hay súc vật, ra đời thì
con đầu lòng đó phải được chuộc. Vì Đức Chúa Trời đã có những hành động mạnh mẽ để bảo vệ và cứu con đầu lòng của
con người lẫn gia súc ra khỏi sự chết (12:12-13),
nên mọi con đầu lòng đều thuộc về Đức Chúa Trời. Những con đầu lòng này được
thánh hóa, nghĩa là được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời.
Nghi lễ về sự cứu chuộc sẽ có hiệu
lực khi dân Do Thái đã vào vùng Đất Hứa, và sau đó Môi-se sẽ giải thích cách
thực hiện nghi lễ này (Le 12:1-8 Dan 18:14-19). Lừa là một con vật không thanh sạch
nên con đầu lòng của nó không thể dâng làm của lễ cho Đức Chúa Trời, vì vậy nó
phải được chuộc bởi chiên con. Là một con vật có sức lao động đáng kể, lừa chỉ
được để lại bởi cách này, nhưng nếu con vật này không được chuộc thì nó phải bị
giết đi. Các bậc cha mẹ sẽ đem con trai đầu lòng của họ đến với Chúa và dâng
lên những của lễ thích hợp (Le 12:6-8). Khi
Ma-ri và Giô-sép đến đền thờ để làm lễ chuộc tội cho Đấng Cứu Chuộc, họ đã đem
đến của lễ khiêm nhường của những người nghèo (Lu
2:21-24).
Khi một con trai hay một con vật đầu
lòng được làm lễ chuộc tội thì vào dịp này những người lớn có cơ hội để giải
thích thể nào Đức Chúa Trời đã cứu những con đầu lòng
trong xứ Gô-sen vào đêm lễ Vượt Qua, và thể nào Ngài đã giết tất cả các con đầu
lòng của Ai Cập, cả người lẫn gia súc. Ngay cả khi không phải thực hiện nghĩa
vụ gì có liên quan đến thứ tự ra đời trong gia đình, mỗi con trai đầu lòng
trong gia đình Do Thái cũng rất đặc biệt đối với cha mẹ của họ và với Chúa.
5. Lễ Vượt Qua và
Môi-se (Xu 13:1-16) (He 11:27-29)
Chúng ta không được quên
rằng chính Môi-se, từng là một người nhút nhát và hay viện dẫn lý do, đã cùng
A-rôn anh mình chạm trán với Pha-ra-ôn
hết lần này đến lần khác và cuối cùng đã chiến thắng được Pha-ra-ôn cùng mọi
thế lực của Ai Cập. (He 11:1-42) nhắc nhở
chúng ta rằng Môi-se đã thực hiện mọi điều này bởi đức tin nơi Đức Chúa Trời
hằng sống. Lễ Vượt Qua và cuộc hành trình rời khỏi Ai Cập là những mốc kỷ niệm
cho quyền năng của đức tin.
(He
11:27) đề cập đến (Xu 10:28-29) lúc
Pha-ra-ôn đe dọa sẽ giết Môi-se nếu người đến gặp ông ta một lần nữa. Môi-se
tin những lời hứa của Đức Chúa Trời và chẳng hề sợ hãi về những điều vua có thể
làm. Đức tin đơn giản chỉ là việc chúng ta nhờ cậy Đức Chúa Trời và vâng theo
Lời Ngài, bất kể những cảm xúc, hoàn cảnh hay hậu quả. Bởi đức tin, Môi-se đã
giữ lễ Vượt Qua cho dù việc giết chiên con và bôi huyết trên cửa có vẻ buồn
cười đối với dân Ai Cập và chắc chắn đã gây xúc phạm đến họ. Bất cứ lúc nào, Pha-ra-ôn
cũng có thể sai quần thần của ông ta đến cùng Môi-se và giết người, nhưng Đức
Chúa Trời đã giữ người luôn được an toàn.
Chính đức tin nơi Lời Đức Chúa Trời
đã đem Môi-se trở lại Ai Cập để dẫn dắt dân sự ông;
chính đức tin đã đem ông ra khỏi Ai Cập; và chính đức tin đã phân cách ông cùng
dân sự khỏi Ai Cập khi họ vượt qua Biển Đỏ. Dù hoàn cảnh có thế nào đi chăng
nữa thì chúng ta cũng có thể tin cậy Đức Chúa Trời sẽ giải cứu và giúp chúng ta
vượt qua.
Chúa Giê-xu đã thiết lập
Tiệc Thánh sau khi Ngài hướng dẫn các môn đồ trong việc giữ lễ Vượt Qua, vì
Ngài là Chiên Con của Đức Chúa Trời, Đấng chết thay tội lỗi của thế gian, và vì
thế Ngài chính là sự ứng nghiệm của lễ Vượt Qua. Mỗi khi chúng ta dự Tiệc
Thánh, chúng ta có dịp nhìn lại và nhớ lại sự chết của Ngài, nhưng chúng ta
cũng phải nhìn lên phía trước và trông đợi sự tái lâm của Ngài. Khi Chúa Giê-xu
tái lâm, một cuộc hành trình kỳ diệu sẽ diễn ra ! Những người chết trong Đấng
Christ sẽ được sống lại và những tín đồ đang sống sẽ được cất lên cùng với họ
và được vào thiên đàng để ở với Chúa (ITe 4:13-18).
Ha-lê-lu-gia ! Ngài thật
là một Cứu Chúa siêu việt !
5. ĐƯỢC CỨU CHUỘC VÀ
VUI MỪNG (Xu 13:17-15:21)
“Lịch sử không giao phó
mãi sự tự do cho những kẻ yếu đuối hoặc những người nhút nhát lo liệu.”
Tổng thống Dwight
D.Eisenhower đã nói những lời này trong bài diễn văn khai mạc đầu tiên của ông,
ngày 20/1/1953. Với tư cách là người lãnh đạo các nước Đồng minh đi đến chiến
thắng trong cuộc Thế Chiến thứ 2, tướng Eisenhower hiểu rất rõ về cái giá phải
trả của sự chiến thắng cũng như về gánh nặng tự do luôn đeo theo đó. Nhà viết
tiểu thuyết người Anh Charles Kingsley đã phát biểu rất hợp lý rằng: “Có hai sự
tự do: sự tự do sai trật - con người tùy ý làm theo những điều ưa thích; và sự
tự do thật - con người được tự do để làm những điều cần phải làm”. Suốt lịch sử
của họ, dân Y-sơ-ra-ên đã phải vật lộn với cả hai sự tự do này, và dân sự Đức
Chúa Trời ngày nay vẫn như thế.
Sẽ là một dấu hiệu về sự
trưởng thành khi chúng ta học biết rằng sự tự do là một công cụ để xây dựng,
không phải là một món đồ để chơi, và sự tự do đó còn đòi hỏi việc phải nhận lấy
những trách nhiệm. Những kinh nghiệm về cuộc hành trình rời khỏi Ai Cập của
Y-sơ-ra-ên đã dạy họ rằng sự thành công trong
tương lai của họ tùy thuộc vào việc thực hiện ba trách nhiệm quan trọng: bước
theo Chúa (13:17-27), tin cậy Chúa (14:1-31), và ngợi khen Chúa (15:12-21).
1. Bước theo Chúa (Xu 13:17-22)
Cuộc hành trình rời Ai
Cập của Y-sơ-ra-ên không phải đã kết thúc những kinh nghiệm của họ với Đức Chúa
Trời, nhưng đây lại là một sự khởi đầu mới. George Morrison đã nói: “Chỉ mất
một đêm để đem Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, nhưng phải mất 40 năm để đem Ai Cập
ra khỏi Y-sơ-ra-ên” [43] . Nếu Y-sơ-ra-ên vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời, Ngài sẽ
đem họ vào Đất Hứa và ban cho họ sản nghiệp của họ. Bốn mươi năm sau đó, Môi-se
sẽ nhắc nhở thế hệ mới rằng “Ngài đã đem các ngươi ra khỏi Ai Cập… để đem các
ngươi vào Đất Hứa,
ban cho các ngươi xứ làm sản nghiệp” (Phu
4:37-38 NKJV).
Chúng ta cũng có thể nói
về sự cứu chuộc mà chúng ta có trong Đấng Christ rằng: Đức Chúa Trời đã đem
chúng ta ra khỏi ách nô lệ để Ngài có thể đem chúng ta đến với sự phước hạnh. A.W.Tozer thường nhắc nhở chúng
ta rằng “chúng ta được cứu để đến với cũng
như chúng ta đã được cứu ra khỏi [44] . Người tin nhận Chúa
Giê-xu Christ được tái sinh trong gia đình Đức Chúa Trời, nhưng đó chỉ là sự
khởi đầu của một cuộc mạo hiểm mới đầy thú vị sẽ dẫn đến sự tăng trưởng và đầu
phục. Đức Chúa Trời giải phóng chúng ta và dẫn dắt chúng ta qua nhiều kinh
nghiệm của cuộc sống, từng ngày từng giờ, hầu cho chúng ta có thể học biết Ngài
rõ hơn và bởi đức tin cầu xin cho mình tất cả những gì Ngài muốn chúng ta có.
Đồng thời, chúng ta sẽ ngày càng được biết về chính mình rõ hơn; chúng ta khám
phá ra những điểm mạnh cùng những điểm yếu của mình và được tấn tới trong sự
thông biết ý muốn Đức Chúa Trời và trong sự tin cậy nơi những lời hứa của Ngài.
Đức Chúa Trời vạch ra
đường đi cho dân sự Ngài (Xu 13:17-18). Không điều
gì ngoài ý chỉ của Đức Chúa Trời, vì trong sự định liệu của Ngài, Ngài vạch ra
đường lối tốt nhất cho dân sự Ngài. Chúng ta không phải lúc nào cũng có thể
hiểu được đường lối Ngài đã chọn, hay thậm chí không đồng ý với điều đó, nhưng
đường lối của Ngài luôn là đường lối đúng đắn. Chúng ta có thể nói cách quả quyết
rằng: “Ngài dẫn tôi vào các lối công bình vì cớ danh Ngài” (Thi 23:3 NKJV), và chúng ta phải khiêm cung cầu
nguyện: “Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy chỉ cho tôi các đường lối Ngài; xin dạy dỗ
tôi các nẻo của Ngài. Xin hãy dẫn tôi trong lẽ thật của Ngài và dạy dỗ tôi” (25:4-5 NKJV).
Nếu có một nhà chiến
lược quân sự nào ở Y-sơ-ra-ên vào đêm đó, có thể họ sẽ không đồng ý với con
đường tản cư mà Đức Chúa Trời đã chọn vì nó quá dài [45] . Nơi đến gần nhất của
Y-sơ-ra-ên là núi Si-nai, nhưng tại sao phải đưa hằng triệu con người đi qua
một đoạn đường dài thay vì nên chọn một con đường ngắn hơn và dễ đi hơn ? Câu
trả lời là: vì có những trạm quân sự của người Ai Cập nằm dọc theo các con
đường ngắn, và quân lính đóng ở đó sẽ chặn đường tiến của dân Do Thái. Hơn nữa,
việc vượt qua biên giới Phi-li-tin sẽ rước lấy sự tấn công từ phía quân đội của
nước này, và điều cuối cùng Y-sơ-ra-ên cần là
tránh một cuộc
chiến với các nước láng giềng. Đức Chúa Trời biết việc Ngài đang làm khi Ngài
chọn cho Y-sơ-ra-ên con đường dài hơn.
Nếu bạn để Chúa hướng
dẫn những bước đi của bạn (Ch
3:5-6), hãy chuẩn bị để có lúc bạn sẽ được dẫn
dắt để bước đi trên những con đường dường như loanh quanh và xa xôi một cách
không cần thiết. Hãy tự nhắc nhở mình rằng Đức Chúa Trời biết rõ việc
Ngài đang làm, Ngài không vội vàng, và cho đến khi bạn còn bước đi theo Ngài
thì bạn vẫn được an ninh và ở trong nơi phước hạnh của Ngài. Ngài có thể đóng
một vài cánh cửa rồi bất ngờ mở ra những cánh cửa khác, và chúng ta cần phải
tỉnh thức (Cong 16:6-10 IICo 2:12-13).
Đức Chúa Trời khích lệ
đức tin của dân sự Ngài (Xu 13:19). Trước khi chết, Giô-sép đã bắt các anh
em của ông hứa rằng khi Đức Chúa Trời giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi Ai Cập, con cháu
họ sẽ đem hài cốt của ông đến Đất Hứa (Sa 50:24-25
He 11:22). Giô-sép biết rằng Đức Chúa Trời
sẽ giữ lời hứa của Ngài và cứu con cái của Y-sơ-ra-ên (Sa
15:13-16). Giô-sép cũng biết rằng ông thuộc về xứ Ca-na-an cùng với dân
sự ông (49:29-33).
Hài cốt này có ý nghĩa gì đối với
các thế hệ dân Do Thái là những người đã sống qua những năm tháng dưới ách nô
lệ khủng khiếp ở Ai Cập ? Chắc chắn là dân Do Thái có thể nhìn xem hài cốt của
Giô-sép và được khích lệ. Xét cho cùng, Chúa đã gìn giữ Giô-sép qua suốt những
hoạn nạn thử thách của ông, và sau cùng Ngài đã giải cứu ông, và rồi Ngài cũng
sẽ gìn giữ dân tộc Y-sơ-ra-ên và cuối cùng giải phóng họ. Suốt những tháng năm
trong đồng vắng, Y-sơ-ra-ên đã nhìn xem hài cốt của Giô-sép như một điều nhắc
nhở với họ rằng Đức Chúa Trời có những thời điểm của Ngài và sẽ giữ những lời
hứa của Ngài. Giô-sép đã chết, nhưng ông vẫn đang làm chứng cho sự thành tín
của Đức Chúa Trời. Khi đã đến trong xứ mình, dân Do Thái giữ lời hứa của họ và
chôn Giô-sép cùng với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp (Gios
24:32).
Phải chăng những vật được dùng để
nhắc nhở chúng ta về sự thành tín của Đức Chúa Trời là những thần tượng ? Sẽ
không nhất thiết là như vậy, vì bạn sẽ thấy có nhiều tượng đài kỷ niệm quan
trọng trong sách Giô-suê. Khi dân Y-sơ-ra-ên vượt qua sông Giô-đanh, họ đã dựng
lên một đài kỷ niệm bằng đá trên bờ biển bên kia để kỷ niệm những điều mà Đức
Chúa Trời đã làm cho Y-sơ-ra-ên (Gio 4:1-24).
Họ cũng đặt những hòn đá trên núi Ê-banh và núi Ga-ri-xim để nhắc nhở họ về
luật pháp Đức Chúa Trời (Xu 8:30-35). “Một
đống đá” đã làm chứng cho sự giả dối của A-can (Gios
7:25-26), và “hòn đá làm chứng” là vật nhắc nhở về sự tái dâng hiến của
Y-sơ-ra-ên sau khi chinh phạt xứ (Gio 24:24-28).
Sa-mu-ên dựng lên một hòn đá để kỷ niệm chiến thắng của Y-sơ-ra-ên đối cùng dân
Phi-li-tin và gọi nó là “Ê-bên Ê-xe, hòn đá giúp đỡ” (ISa
7:12).
Khi chúng ta còn tiếp tục vâng lời
Chúa thì những vật nhắc nhở như thế vẫn có thể khích
lệ đức tin của chúng ta. Điều quan trọng là những vật đó phải hướng về Chúa chớ
không phải về một quá khứ chết, và ngày hôm nay chúng ta vẫn phải tiếp tục bước
đi bởi đức tin và vâng giữ Lời Chúa.
Đức Chúa Trời đi trước
dân sự Ngài để dẫn đường (Xu 13:20-22). Y-sơ-ra-ên được
dẫn dắt bởi một trụ (cột) mây vào ban ngày và trở thành một trụ lửa vào ban
đêm. Trụ này được xem là Thiên Sứ của Chúa đã dẫn đường cho dân sự (14:19 23:20-23 Ne 9:12). Đôi khi Đức Chúa Trời phán từ trụ mây (Dan 12:5-6 Phu
31:15-16 Thi 99:7), và trụ mây cũng che chở cho dân sự khỏi ánh nắng gay gắt khi họ ra đi
vào ban ngày (Thi 105:39). Khi áng
mây di chuyển thì trại quân di chuyển; khi áng mây dừng lại thì trại quân dừng
lại (Xu 40:34-38).
Ngày nay tuy không có sự hướng dẫn
có thể trông thấy giống như vậy nhưng chúng ta thật sự có Lời Đức Chúa Trời là
ánh sáng (Thi 119:105), và là lửa (Gie 23:29). Thật đáng chú ý rằng trụ lửa ban ánh sáng
cho dân Do Thái nhưng là lại sự tối tăm cho dân Ai Cập (Xu 14:20). Dân sự Đức Chúa Trời được soi sáng bởi Lời Chúa (Eph 1:15-23), nhưng những người chưa được cứu
không thể hiểu được lẽ thật của Đức Chúa Trời (Mat
11:25 ICo 2:11-16).
Thánh Linh của Đức Chúa Trời, là
Thần Lẽ thật, sẽ dẫn dắt chúng ta qua việc dạy dỗ Lời Chúa cho chúng ta (Gi 16:12-13). Như Đức Chúa Trời đã phán với Môi-se
từ trụ mây, Chúa cũng giao thông với chúng ta qua Lời Kinh Thánh bằng cách
khiến Lời ấy trở nên rõ ràng với chúng ta. Có những khi chúng ta không chắc
chắn về con đường mà Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải đi, nhưng nếu chúng ta
biết chờ đợi Ngài thì cuối cùng Ngài cũng sẽ dẫn dắt chúng ta.
Sẽ thật là dại dột nếu dân Do Thái dừng lại giữa chuyến đi của họ và bốc thăm để biết được
con đường đi đến núi Si-nai ! Chắc chắn là sẽ có một nơi để mọi người cùng bàn
luận và trưng cầu dân ý (Cong 6:1-7), nhưng khi Đức Chúa Trời đã phán bảo thì không cần đến sự
tham vấn nữa. Hơn một lần trong Kinh Thánh cho thấy số đông đã sai lầm.
2. Tin cậy Chúa (Xu 14:1-31)
“Ngài cho Môi-se biết những đường lối của Ngài, cho con cái
Y-sơ-ra-ên biết những hành động của Ngài” (Thi
103:7 NKJV). Dân Do Thái được cho biết điều Đức Chúa Trời muốn họ làm,
nhưng Môi-se được cho biết lý do Đức Chúa Trời làm điều ấy. “Bí mật của Chúa ở
cùng những người kính sợ Ngài” (25:14). Chức lãnh đạo của Môi-se là một yếu tố chính trong sự thành
công của Y-sơ-ra-ên.
Sự đuổi bắt của đội
quân Ai Cập (Xu 14:1-9). Pha-ra-ôn và
quần thần của ông ta nhận ra rằng khi để cho các nô lệ Do Thái trốn thoát thì
sự đe dọa sẽ đến, nếu không muốn nói là phá hoại, toàn bộ nền kinh tế của Ai
Cập, vì thế điều hợp lý cần phải làm là đuổi theo dân Do Thái và đem họ trở về.
Giờ đây chúng ta được cho thấy một lý do khác vì sao
Chúa đã chọn con đường này: những lời thuật lại sẽ thuyết phục Pha-ra-ôn tin
rằng dân Do Thái đang lang thang như những chiên đi lạc trong đồng vắng và do
đó là mồi ngon cho quân đội ông ta đuổi theo và bắt lại. Chúa đang đưa người Ai
Cập vào bẫy của Ngài.
Điều dường như là một
chiến thắng dễ dàng đối với Ai Cập sẽ trở thành một sự thất bại nhục nhã, và
mọi vinh hiển sẽ thuộc về Chúa. Một lần nữa, Ngài sẽ chiến thắng Pha-ra-ôn cùng
các thần của Ai Cập. Pha-ra-ôn đã trưng dụng mọi xe ngựa của Ai Cập, cưỡi trên
cỗ xe ngựa hoàng gia của ông ta và đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên.
Sự hoảng sợ của Y-
sơ-ra-ên (Xu 14:10-12). Khi dân Y-sơ-ra-ên vẫn còn hướng mắt về phía trụ lửa và bước đi
theo Chúa thì họ vẫn đang bước đi bởi đức tin và không kẻ thù nào có thể gây
hại cho họ. Nhưng khi họ rời mắt khỏi Chúa và nhìn lại, và rồi nhìn thấy dân Ai
Cập đang đến đuổi gần, họ trở nên hoảng sợ và bắt đầu than vãn.
Những câu này cho chúng
ta biết về thái độ cư xử đáng buồn của dân Y-sơ-ra-ên trong suốt hành trình của
họ từ Ai Cập đến xứ Ca-na-an. Khi mọi việc vẫn còn tiến triển theo chiều hướng
tốt đẹp thì họ thường vâng theo Chúa và Môi-se, và được tấn tới. Nhưng nếu gặp
phải hoàn cảnh khó khăn hay thiếu thốn thì họ lập tức phàn nàn với Môi-se và
với Chúa và đòi được trở lại xứ Ai Cập. Tuy nhiên, trước khi chỉ trích dân Do
Thái, có lẽ chúng ta nên xem xét chính lòng mình. Sự thất vọng và nản lòng nào
đã khiến chúng ta không vui mừng với ý muốn của Chúa đến nỗi chúng ta không còn
tin tưởng nơi Ngài và bắt đầu phàn nàn ? “Vì chúng ta bước đi bởi đức tin, chớ
chẳng phải bởi mắt thấy” (IICo
5:7).
Khi
bạn quên đi những lời hứa của Đức Chúa Trời, bạn sẽ bắt đầu tưởng tượng ra câu
chuyện tồi tệ nhất có thể xảy ra. Dân Do Thái tin chắc rằng họ và con cái họ sẽ
chết trong đồng vắng ngay khi đội quân Pha-ra-ôn bắt kịp họ. Những con người sợ
hãi nhắc nhở Môi-se rằng họ đã bảo ông hãy để mặc họ (Xu 5:20-23), nhưng
ông cứ nhất quyết thách thức Pha-ra-ôn. Y-sơ-ra-ên giờ đây ở trong một tình thế
thật đáng kinh khiếp, và Môi-se thật đáng bị khiển trách. Sự vô tín có thể xóa
bỏ khỏi ký ức chúng ta mọi sự bày tỏ chúng ta đã được xem thấy về quyền năng vĩ
đại của Đức Chúa Trời và mọi điều chúng ta đã được biết về sự thành tín của Đức Chúa Trời đối với Lời Ngài.
Quyền năng của Đức
Chúa Trời (Xu 14:13-31). Môi-se là một người có đức tin, ông biết rằng quân đội của
Pha-ra-ôn chẳng phải là một sự đe dọa đối với Đức Giê-hô-va. Ông đưa ra nhiều
mệnh lệnh cho dân sự và mệnh lệnh đầu tiên là “chớ sợ chi” (c.13) [46] Đôi khi sự sợ hãi tiếp thêm nghị lực cho
chúng ta và chúng ta nhanh chóng tìm cách tránh khỏi sự nguy hiểm, nhưng đôi
khi sự sợ hãi lại làm chúng ta tê liệt và chúng ta không biết phải làm gì.
Y-sơ-ra-ên đã rất bối rối và muốn chạy trốn vì vậy Môi-se đã ra mệnh lệnh thứ
hai của ông: “Hãy đứng yên và xem sự giải cứu của Đức Giê-hô-va” (c.13). Bởi
đức tin, dân Do Thái đã ra khỏi Ai Cập, và giờ đây bởi đức tin, họ sẽ đứng yên
và quan sát Đức Chúa Trời tiêu diệt những kẻ đánh xe ngựa của Ai Cập.
Môi-se không chỉ bảo họ
đứng yên, mà còn bảo “hãy yên lặng” (c.14). Sẽ rất dễ để chỉ khóc lóc, phàn nàn
và tiếp tục chỉ trích Môi-se, nhưng không một việc làm nào trong những điều đó
giúp họ thoát khỏi tình thế khó khăn. Sự vô tín gây điều phàn nàn, nhưng đức
tin luôn vâng lời và đem sự vinh hiển đến cho Chúa. “Hãy yên lặng và biết rằng
ta là Đức Chúa Trời” (Thi
46:10). Có gì để phàn nàn khi chúng ta đã có lời hứa kỳ diệu: “Đức
Giê-hô-va sẽ chiến cự cho các ngươi” ? (Xu 14:14).
Sau này trong cuộc hành trình của họ, Chúa sẽ giúp Giô-suê và đội quân Do Thái
đánh trận (17:8). Nhưng lúc này, Đức Chúa
Trời sẽ đánh bại dân Ai Cập mà không cần đến sự hỗ trợ của dân Y-sơ-ra-ên.
Mệnh lệnh tiếp theo dành
cho Môi-se đến từ Đức Chúa Trời: “Hãy đi tới !” (c.15). Việc Y-sơ-ra-ên đối
diện với biển cả chẳng là vấn đề gì đối với Đức Chúa Trời, và Ngài đã cho
Môi-se biết chính xác việc cần phải làm. Khi Môi-se giơ cây gậy của ông lên,
dòng nước sẽ chia ra và dân Y-sơ-ra-ên có thể băng qua trên khoảng đất khô và
thoát khỏi đội quân Ai Cập. Theo hiệu lệnh của Môi-se, khi ấy nước sẽ dồn lại,
nhận chìm các tên lính của Ai Cập, và ngăn không cho dân Y-sơ-ra-ên trở lại Ai
Cập. Trong những năm sau đó, mỗi khi dân Do Thái bày tỏ ước muốn được trở lại
Ai Cập, lẽ ra họ phải nhớ lại rằng Đức Chúa Trời đã ngăn lại những con nước và
khóa chặt những cánh cửa.
Vì sao Đức Chúa Trời
thực hiện các phép lạ này cho dân Do Thái ? Chắc chắn là họ không xứng đáng để
nhận lãnh điều này khi họ đang đứng đó khúm núm trong sự sợ hãi và phàn nàn
rằng Đức Chúa Trời dường như không biết điều Ngài đang làm. Trước hết, Ngài đang giữ lời hứa của Ngài rằng Ngài sẽ giải cứu dân
Y-sơ-ra-ên và nhận họ làm dân sự của Ngài (3:7-8).
Trong những năm sau đó, những người Do Thái mộ đạo sẽ đo lường mọi sự bằng sự
bày tỏ về quyền năng vĩ đại của Đức Chúa Trời qua cuộc hành trình rời Ai Cập.
Nhưng Đức Chúa Trời nghĩ đến một mục đích khác, đó là: bày tỏ một lần nữa quyền
năng và sự vinh hiển của Ngài qua sự thất bại của đội quân Ai Cập. “Và dân Ai
Cập sẽ biết rằng ta là Đức Giê-hô-va” (14:18).
Cột lửa di chuyển giữa dân
Y-sơ-ra-ên và Ai Cập cho thấy rằng Đức Chúa Trời đã trở nên một bức tường che
chắn giữa dân sự Ngài và kẻ thù của họ. Cột lửa này ban ánh sáng cho dân
Y-sơ-ra-ên nhưng đem lại sự tối tăm cho kẻ thù vì dân Ai Cập vô tín không thể
hiểu được đường lối của Đức Chúa Trời. Khi Môi-se giơ tay ra, Chúa giáng một
luồng gió mạnh dồn nước biển lại và mở ra một con đường cho dân Do Thái vượt
qua. (Thi 77:16-20) cho thấy có một cơn mưa bão dữ dội đi kèm với những cơn gió cấp
cao, và sau khi dân Y-sơ-ra-ên đã đi qua, cơn mưa bão này biến con đường khô
ráo của Y-sơ-ra-ên thành một con đường bùn lầy. Khi quân lính Ai Cập cố sức
đuổi theo, bùn lầy đã vô hiệu hóa những cỗ xe ngựa và ngăn trở bước tiến của
họ, rồi khi nước biển đổ ập xuống trở lại, quân lính của Ai Cập đều bị nhận
chìm vào trong biển cả. Đó thật sự là một đêm đáng nhớ.
Biết kẻ thù đang đuổi
theo mình, và nghe gió thổi cả đêm, dân Y-sơ-ra-ên chắc đang tự hỏi điều gì sắp
xảy ra và vì sao Đức Chúa Trời lại hành động quá lâu. Nhưng khi chúng ta có đức
tin nơi lời hứa của Đức Chúa Trời thì chúng ta sẽ có sự bình an trong lòng.
Chúa Giê-xu đã hỏi các môn đồ sau khi Ngài làm yên một cơn bão: “Vì sao các
ngươi quá sợ hãi ? Các ngươi không có đức tin sao?”
(Mac 4:40 NKJV). Đức tin và sự sợ hãi không
thể ngự trị trong cùng một tấm lòng, vì điều này sẽ hủy
hoại điều kia. Đức tin thật tùy thuộc vào lời Đức Chúa Trời phán bảo, không
phải dựa trên điều chúng ta thấy hay cách chúng ta cảm nhận. Thật là một điều
hợp lý khi cho rằng đức tin không phải là sự tin tưởng bất chấp chứng cớ - đây
là một sự mê tín; nhưng đức tin là sự vâng lời bất chấp hậu quả. dân sự.
Các tác giả Thi Thiên sau này sẽ ca tụng Chúa về những công việc lớn lao của
Ngài tại Biển Đỏ (Thi 66:78,80-81,105-106,136), và các tiên
tri sẽ dùng cuộc hành trình rời Ai Cập để khích lệ những phu tù người Do Thái
khi họ trở về xứ sau khi đã bị giam cầm tại Ba-by-lôn (Es
43:1-7)
Một loạt các phép lạ từ
trời chắc chắn là một sự mặc khải về sự vĩ đại và quyền năng của Đức Chúa Trời,
về sự thành tín của Ngài đối với những lời
hứa, và về mối quan tâm của Ngài dành cho 52:11-12
55:12-13 Gie
16:14-15 23:7-8), cũng như để thúc
đẩy dân tộc sa ngã trở lại cùng Chúa (Gie 2:2-3
Exe 20:1-44 Os2:14-23
Am 3:1-15 Mi
6:3-4) [47]
Vị trí của Môi-se (Xu 14:31 ICo
10:1-2). Phao-lô nhìn xem sự vượt biển của Y-sơ-ra-ên như một “sự làm
phép báp-tem” vì nước ở hai bên giống như một bức tường và áng mây tượng trưng
cho sự hiện diện của Đức Chúa Trời ở phía sau và bên trên họ. Như đã xảy ra,
dân Y-sơ-ra-ên được “nhận chìm” khi họ nhanh chóng vượt qua lòng biển khô ráo.
Sự giải cứu họ chắc chắn là một hành động của Đức Chúa Trời, nhưng sự giải cứu
này chỉ được thực hiện qua sự lãnh đạo biết vâng phục của Môi-se, kết quả là
“Dân sự… tin Chúa và tôi tớ Ngài là Môi-se” (14:31).
Giờ đây họ được lập thành một dân tộc có Môi-se là lãnh đạo của họ. Qua “phép
báp-tem” này, dân Y-sơ-ra-ên đã được hiệp làm một với Môi-se, cũng như qua phép
báp-tem bằng nước mà dân sự Đức Chúa Trời ngày nay được hiệp nên một thể với
Chúa Giê-xu Christ. Phép lạ về Cuộc Hành Trình rời Ai Cập đã trở nên một phần
trong sự xưng nhận đức tin của Y-sơ-ra-ên khi họ đem những của lễ dâng lên cho
Chúa (Phu 26:1-11).
3. Ngợi khen Chúa (Xu 15:1-21)
Kẻ thù đã bị nhận chìm
và sự tự do được bảo đảm, dân Y-sơ-ra-ên giờ đây cùng cất cao tiếng hát ca ngợi
Chúa. Chúng ta không thấy dân Y-sơ-ra-ên ngợi khen Đức Chúa Trời trong lúc họ
bị bắt làm nô lệ ở Ai Cập, và khi ra khỏi xứ này, họ vẫn tiếp tục phàn nàn cùng
Môi-se và đề nghị ông cho họ quay trở lại. Nhưng cần phải có sự trưởng thành để
dân sự Đức Chúa Trời có thể cất lên “bài ca trong đêm” (Giop 35:10 Thi 42:8 Mat 26:30
Cong 16:25) mà dân Do Thái lại có đức tin
rất non nớt vào thời điểm đó.
Bài thánh ca tôn vinh này có 4 phổ
thơ, bao gồm: sự chiến thắng của Đức Chúa Trời được rao ra (Xu 15:1-5), những vũ khí của Đức Chúa Trời được mô
tả (c.6-10), đặc tính của Đức Chúa Trời được ca tụng
(c.11-16a), và những lời hứa của Đức Chúa Trời được thực hiện (c.16b-18).
Chiến thắng của Đức
Chúa Trời được rao ra (Xu 15:1-5). Chúa
đã được đề cập đến 10 lần trong thánh ca này khi Y-sơ-ra-ên hát cho Chúa và hát
về Chúa vì sự thờ phượng thật cần có những lời chứng
trung thực về bản chất của Đức Chúa Trời và về những gì Đức Chúa Trời đã làm
cho dân sự Ngài.
Chiến thắng của Đức Chúa
Trời là một chiến thắng đầy vinh hiển vì đây hoàn toàn là công việc của tay
Chúa. Đội quân Ai Cập bị nhận chìm dưới biển (c.1-4), quân lính bị chìm như
những hòn đá (c.5) và như cục chì (c.10). Họ bị thiêu cháy như rơm rạ bị đốt
(c.7). Pha-ra-ôn đã hạ lệnh nhận chìm các bé trai Do Thái, vì vậy Đức Chúa Trời
đã đáp trả lại ông ta và nhận chìm các đội quân của ông ta.
Câu nhận định “Đức
Giê-hô-va là một chiến sĩ” (c.3) có thể gây khó chịu cho những người có cảm
nghĩ rằng bất cứ điều gì có liên quan đến chiến tranh đều là xa lạ đối với Phúc
Âm và đời sống Cơ Đốc. Một số giáo phái đã đem những thánh ca mang tính “chiến
đấu” ra khỏi những sách thánh ca của họ, kể cả bài “Hãy Tiến Lên Hỡi Những
Chiến Sĩ Cơ Đốc” (Onward Christian Soldiers). Nhưng Môi-se đã hứa với dân sự
rằng: “Đức Giê-hô-va sẽ chiến cự cho các ngươi”
(14:14 Phu 1:30), và một trong những danh của Đức Chúa Trời là
“Jehovah-Sabaoth” nghĩa là “Đức Giê-hô-va vạn quân, Chúa của các đội quân”, một
danh hiệu đã được sử dụng 285 lần trong Kinh Thánh Cựu Ước. Martin Luther đã
viết trong Thánh ca cải cách của ông “A Mighty Fortress is Our God” (Đức Chúa
Trời Chúng Ta Là Đồn Lũy Kiên Cố) rằng:
“Nếu chúng ta dựa vào
sức riêng của mình,
Nỗ lực của chúng ta sẽ
thất bại,
Chẳng phải Con Người
công bình ở cạnh chúng ta đó sao,
Là Người do chính Đức
Chúa Trời chọn lựa.
Hãy hỏi xem đó có thể là
ai ?
Christ Giê-xu, ấy là
Ngài;
Danh Ngài là Chúa vạn
quân,
Và Ngài phải thắng mọi
chiến trận”.
Nếu trên thế giới này có
một kẻ thù như Sa-tan, và nếu tội lỗi và điều ác thật đáng căm ghét đối với Đức
Chúa Trời thì khi đó Ngài phải tiến hành cuộc chiến chống lại chúng. “Đức
Giê-hô-va sẽ đi ra như người mạnh dạn, Ngài sẽ giục lòng sốt sắng mình như người lính chiến; Bằng một tiếng reo hò Ngài sẽ tuyên
chiến và sẽ đắc thắng trên các kẻ thù mình” (Es
42:12 NIV). Chúa Giê-xu Christ vừa là Chiên Con chết thay tội lỗi chúng
ta, vừa là Sư Tử xét đoán tội lỗi (Kh 5:5-6)
và một ngày nào đó Ngài sẽ cưỡi ngựa chinh phục những kẻ thù của Ngài (19:11). Nếu chỉ nhấn mạnh đến “Đức Chúa Trời là
tình yêu” (IGi 4:8,16) và bỏ qua “Đức Chúa Trời là sự sáng” (IGi 1:5) thì chúng ta đã tước đoạt của Đức Chúa
Trời những thuộc tính về sự công nghĩa, sự thánh khiết và công chính của Ngài.
Có ba trường hợp đặc biệt được ghi
lại trong Kinh Thánh mà dân Do Thái đã hát “Đức Giê-hô-va là sức mạnh và bài ca
của tôi, và Ngài đã trở nên sự cứu rỗi của tôi” (Xu
15:2), đó là: khi Đức Chúa Trời giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi Ai Cập, khi
những người Do Thái còn sót lại đặt nền của đền thờ thứ hai (Thi 118:14) [48] , và khi dân Do Thái được nhóm lại và trở về xứ của họ để
hưởng những phước hạnh của vương quốc (Es
12:2) [49]. Trong mỗi trường hợp, Chúa đều ban sức mạnh,
sự giải cứu và một bài ca cho dân sự [50].
Những vũ khí của Đức
Chúa Trời được mô tả (Xu 15:6-10). “Đức
Giê-hô-va là một chiến sĩ” không chiến đấu bằng những vũ khí thông thường. Sử
dụng các đặc điểm của con người để mô tả về những thuộc tính của Đức Chúa Trời [51] , những người ca hát đã ngợi khen rằng tay
hữu Ngài thật vinh hiển trong năng quyền, sự oai nghi của Ngài đánh đổ những kẻ
dấy nghịch Ngài, và cơn giận của Ngài phừng phừng như lửa đốt cháy rơm rạ. Hơi
thở từ mũi Ngài là gió dồn nước và làm chúng đông lại và dựng đứng lên như một
bức tường thành. Khi những tên lính Ai Cập quá tự tin nghĩ rằng sẽ đuổi kịp dân
Do Thái, Đức Chúa Trời chỉ thở ra thì nước lại đổ ập xuống và nhận chìm đội
quân. Ngài thật là một Đức Chúa Trời mạnh mẽ !
Đặc tính của Đức Chúa
Trời được ca tụng (Xu 15:11-16a). Trong
10 tai vạ Chúa giáng trên xứ, Ngài đã chứng minh chính Ngài vĩ đại hơn các thần
của Ai Cập. Chẳng có gì ngạc nhiên khi dân sự Ngài hát rằng “Hỡi Đức Giê-hô-va,
trong vòng các thần, ai giống như Ngài ?” (c.11 Mi
7:18). Dĩ nhiên câu trả lời là không có ai cả, vì không vị thần nào khác
trong vũ trụ “oai nghi trong sự thánh khiết, đáng sợ trong sự vinh hiển, hay
làm các phép lạ” (Xu 15:11 NIV). Khổ thơ này
tiếp tục ngợi khen Đức Chúa Trời về quyền năng của Ngài (c.12), về sự thương
xót giải cứu cho dân sự Ngài, sự khôn ngoan để dẫn dắt họ (c.13), và sự đáng
kinh sợ của chính Ngài trước những kẻ thù của Ngài (c.14).
Dân Y-sơ-ra-ên mong đợi cuộc ra đi
đến vùng Đất Hứa, và họ biết rằng tin tức về cuộc hành trình rời Ai Cập sẽ
nhanh chóng lan đến các quốc gia khác và khiến những kẻ thù của họ đầy lòng sợ
hãi (c.14-16a). Khi các thám tử của Y-sơ-ra-ên đi vào xứ Giê-rê-cô, họ khám phá
ra rằng dân trong vùng thật sự đã bị tê liệt bởi sự sợ hãi khi dân Y-sơ-ra-ên
vào đến xứ ấy (Gio 2:8-13,24 Dan 22:3 Thi 114:1-8).
Những dân tộc ngoại đạo biết rằng Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống đầy quyền năng hơn các thần của họ và sẽ ban chiến
thắng cho Y-sơ-ra-ên.
Những lời hứa của Đức
Chúa Trời được thực hiện (Xu 15:16b-18). Khổ thơ
này diễn tả sự mong đợi của Y-sơ-ra-ên về cuộc chinh phạt xứ Ca-na-an và chỉ ra
rằng Đức Chúa Trời đã chuộc Y-sơ-ra-ên, và họ là dân của Ngài. Các dân tộc ở
Ca-na-an sẽ yên lặng và bất động như đá khi quân đội Do Thái chinh phạt xứ và
các chi phái của Y-sơ-ra-ên sẽ giành lấy sản nghiệp của họ. Đức Chúa Trời đã
đem dân sự ra khỏi Ai Cập để Ngài có thể dẫn họ vào xứ Ca-na-an và lập họ trong
xứ của họ (Thi 44:2 80:8
Es 5:1-30). Đức Chúa Trời sẽ đặt nơi thánh
của Ngài giữa vòng dân sự Ngài và ngự cùng họ trong sự vinh hiển. “Đức
Giê-hô-va sẽ cai trị đời đời kiếp kiếp” (Xu 15:18)
là đỉnh cao của bài ca, nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời là Đấng tối cao và đời
đời.
Khi đọc (15:19)
trong Kinh Thánh Authorized Version, bạn sẽ có cảm tưởng rằng chính Pha-ra-ôn
đã cùng đi với đội quân của ông ta và dẫn họ xuống biển và tất cả đều bị chết
đuối tại đó, nhưng Kinh Thánh NASB đã làm rõ sự hiểu lầm này. Bản này ghi lại
rằng “Vì ngựa của Pha-ra-ôn, binh xa, cùng lính kỵ người đã xuống biển”. Rõ
ràng là Pha-ra-ôn đã có mặt tại nơi đó (14:6),
nhưng chắc chắn là ông ta không dẫn đầu đội quân.
Không chỉ Môi-se hướng
dẫn dân sự trong việc hát bài thánh ca ngợi khen này
(15:1) mà Mi-ri-am
[52] còn lập một đội hợp xướng đặc biệt gồm nhiều phụ nữ Do
Thái để cùng phụ họa khi bà hát lặp lại những lời đầu của bài thánh ca. Sự nhiệt thành vui mừng của họ lộ rõ khi họ ca hát, chơi
trống và nhảy múa trước mặt Chúa (ISa 18:6 IISa 1:20). Mi-ri-am được gọi là “nữ tiên tri”,
điều này giải thích lý do sau đó bà đã dám nói hành Môi-se (Dan 12:1-2) [53]
“Vả nước chụp phủ những kẻ thù của
họ, chẳng còn lại một người nào. Bấy giờ họ tin Lời Ngài. Họ hát ngợi khen
Ngài” (Thi 106:11-12). Tuy nhiên, đó không
phải là kết thúc của câu chuyện, vì sự ca hát của dân Y-sơ-ra-ên chẳng bao lâu
đã trở nên sự phàn nàn khi họ đi vào đồng vắng và đi đến núi Si-nai. “Họ đã sớm
quên những công việc của Ngài. Họ chờ đợi không phải vì lời khuyên của Ngài,
nhưng tham muốn quá mức tại trong đồng vắng, và thử Đức Chúa Trời trong sa mạc”
(Thi 106:13-14).
Thật không dễ dàng cho
họ để mang lấy gáng nặng về sự tự do, và Đức Chúa Trời đã dạy họ phải sống qua
mỗi ngày như thế nào.
6. TRƯỜNG ĐỜI (Xu 15:22-16:36)
“Đừng cầu nguyện để có
một đời sống dễ chịu. Hãy cầu nguyện để trở nên người nam và người nữ mạnh mẽ
hơn. Đừng cầu xin những nhiệm vụ tương xứng với sức của bạn; Nhưng hãy cầu xin
cho được sức lực đáp ứng với nhiệm vụ của bạn”.
Lời khuyên khôn ngoan đó
là của Phillips Brooks, nhà truyền giáo kiêm giám mục người Mỹ (1835-1893). Khi
ông phát biểu những lời này với hội chúng ở Boston, có lẽ ông đang nghĩ đến dân
Y-sơ-ra-ên vì mỗi khi đường đi trở nên càng gay go, dân Y-sơ-ra-ên lại bắt đầu
lằm bằm và bàn về việc trở lại Ai Cập. Dân Do Thái đứng cạnh Biển Đỏ và vui
mừng hát những bài ca ngợi khen Chúa là một vấn đề, còn việc họ tin cậy Đức
Chúa Trời để mỗi ngày bước đi trong đồng vắng hoàn toàn là một vấn đề khác. Họ
chẳng khác gì dân sự Đức Chúa Trời ngày nay. Cuộc đời vẫn là một trường học, và
những kinh nghiệm đau đớn của đời sống đã dạy chúng ta nhiều bài học vô cùng
quan trọng.
Khi theo dõi những hoạt
động của dân Y-sơ-ra-ên, chúng ta học được một số lẽ thật quan trọng giúp chúng
ta trong cuộc hành trình đức tin của mình.
1. Hãy đón chờ những
thử thách sắp đến (Xu 15 :1-21) (Xu 15:22-16:3)
Ông
Andrew Bonar thánh thiện đã viết rằng: “Chúng ta phải thận trọng sau cuộc chiến
thắng cũng như đã từng cảnh giác trước các chiến trận”. Có thể thắng trận nhưng
lại đánh mất sự chiến thắng, đó là điều dân Do Thái đã phạm phải khi họ vượt
qua Biển Đỏ và khởi hành đi đến núi Si-nai. Họ đã quên rằng cuộc đời là một
cuộc hành hương mà trong suốt khoảng thời gian đó chúng ta cần phải học những
bài học mới và đánh những trận chiến mới. Một chiến thắng vĩ đại không giải
quyết được tất cả; chúng ta cần đối diện với những kinh nghiệm mới để được
trưởng thành và làm vinh hiển Đức Chúa Trời. Vâng, đời sống là một trường học
và Chúa biết rõ sẽ cho chúng ta một kỳ thi vào thời điểm nào. [54]
“Chúng tôi sẽ uống chi
?” (15:22-27). Trong tâm trí
của dân Y-sơ-ra-ên, điều quan trọng hơn hết không phải là làm cách nào để làm
đẹp lòng Đức Chúa Trời nhưng là “chúng tôi sẽ ăn chi ?” và “chúng tôi sẽ uống
chi ?”. Theo Chúa Giê-xu, những câu hỏi này cho thấy một tâm trạng lo lắng chớ
không phải là một tấm lòng tin cậy (Mat 6:21,25-33), và điều
này đã đưa dẫn đến nhiều vấn đề khác nhau.
Chỉ một ngày trong đồng vắng mà
không có nước thì còn có thể chịu đựng được, hai ngày
sẽ trở nên khó khăn, nhưng ba ngày là không thể được, đặc biệt đối với trẻ con hay
súc vật. Và khi ấy sự thất vọng bởi việc chỉ tìm thấy nước đắng càng làm cho
tình hình trở nên tồi tệ hơn. (Từ “ma-na” nghĩa là “đắng”, và có liên quan đến
từ “myrrh” nghĩa là nhựa trầm hương có vị đắng.) Nhưng Đức Chúa Trời đang thử
nghiệm dân sự Ngài: không phải vì Ngài không biết lòng họ, nhưng vì chính họ
không biết lòng mình. Người ta thường nói: “Ồ, tôi hiểu được lòng mình mà”,
nhưng chúng ta quên rằng “lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu
xa, ai có thể biết được ?” (Gie 17:9).
Chúa thử nghiệm để giúp chúng ta
tăng trưởng về mặt thuộc linh và chỉ ra điều tốt nhất trong mỗi chúng ta, nhưng
ma quỷ lại cám dỗ để chúng ta chỉ nhìn thấy được điều tồi tệ nhất trong chúng
ta và nó ủng hộ cho sự non nớt về mặt thuộc linh của chúng ta. Thái độ mà chúng
ta chọn để đối phó với những khó khăn sẽ quyết định hướng đi cho cuộc đời của
chúng ta vì cuộc sống ảnh hưởng trên chúng ta như thế nào tùy thuộc vào sự đáp
ứng của chúng ta đối với cuộc sống ấy. Nếu chúng ta tin cậy Đức Chúa Trời và
vâng lời Ngài, chúng ta sẽ vượt qua được cuộc thử nghiệm và tăng trưởng; nhưng
nếu trong sự vô tín của mình, chúng ta phàn nàn và không vâng phục Chúa thì
chúng ta sẽ thất bại và cứ mãi ở trong tình trạng non nớt về thuộc linh (Gia 1:12-18 He 12:1-11).
Dân Y-sơ-ra-ên là dân
luôn luôn lằm bằm và phàn nàn (Xu 16:1-12 Dan 14:2,27-28 16:41 17:1-10 Phu 1:27 Thi 78:17
106:14). Trong lúc Đức Chúa Trời thử nghiệm
họ, họ đã thử Ngài lại bằng chính thái độ và lời nói của họ. Thử Đức Chúa Trời
nghĩa là cố tình chọn lấy thái độ bất tuân và thách thức Ngài đáp trả lại. Đã
hơn một lần khi đang lang thang trong đồng vắng, dân Y-sơ-ra-ên đã chuốc lấy sự
xét đoán của Đức Chúa Trời bởi thái độ bướng bỉnh và sự lằm bằm dai dẳng của
họ. Cha trên trời của chúng ta nhẫn nại và nhân từ nhưng đôi khi Ngài phải
“đánh” con cái Ngài để dạy dỗ chúng ta về cách cư xử.
Sự phàn nàn không giải quyết được
vấn đề, và nếu chúng ta tìm cách chạy trốn một hoàn cảnh khó khăn (“Hãy trở lại
Ai Cập !”) thì chúng ta sẽ gặp những vấn đề tương tự trong môi trường mới và
vẫn phải giải quyết chúng. Dĩ nhiên, cốt lõi của mọi nan đề là sự khúc mắc
trong tấm lòng, và lòng của nhiều người Do Thái đã sai trật đối với Đức Chúa
Trời. Họ nhớ đến thức ăn họ đã ăn ở Ai Cập nhưng quên những phép lạ Đức Chúa
Trời đã làm cho họ (Thi 106:7), và vài người
trong số họ bắt đầu thờ phượng các thần của Ai Cập mà Đức Giê-hô-va đã sỉ nhục
và đưa ra sự đoán xét (Gios 24:14 Exe 20:6-9 23:8).
Hãy tưởng tượng việc thờ lạy những hình tượng và sau
đó đến phàn nàn với Đức Chúa Trời về những nan đề của bạn !
Môi-se đã chọn giải pháp
đúng đắn - giải pháp của đức tin: ông kêu khóc với Chúa và sau đó làm theo
những mệnh lệnh của Đức Chúa Trời, Đức
Chúa Trời có thể giải quyết những vấn đề của chúng ta bằng cách thay đổi mọi sự
(như là khiến nước đắng trở nên ngọt), hay ban cho chúng ta những điều gì khác
(như các giếng nước tại Ê-lim), hoặc ban cho chúng ta ơn để chúng ta có thể
chịu đựng những khó khăn của mình và không phàn nàn. Giải pháp thứ ba sẽ dẫn
đến sự tăng trưởng bền lâu về mặt thuộc linh (IICo
12:7-10).
Việc khiến một “cái cây” trở nên
hình ảnh về thập tự giá của Đấng Christ là đã đi xa hơn điều mà đoạn Kinh Thánh
này muốn dạy dỗ. Chắc chắn là con cái Đức Chúa Trời sẽ tìm thấy chiến thắng
trong những thử thách của họ qua việc đồng chết với Đấng Christ (Ro 6:1-23) và đồng sống lại với Ngài (8:1-39), nhưng đó không phải là bài học của đoạn
Kinh Thánh này. Phân đoạn này nhấn mạnh đến sự tin cậy Đức Chúa Trời và vâng
lời Ngài, và biết rằng ý muốn của Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ dẫn chúng ta đến
nơi mà ân điển Ngài không thể gìn giữ chúng ta. Khi chúng ta trải qua những thử
thách thì sự phàn nàn của chúng ta là bằng chứng của sự vô tín, nhưng sự vâng
lời của chúng ta sẽ là chứng cớ cho đức tin.
Qua sự thử thách này, dân Do Thái
không chỉ biết được vài điều về chính họ và về cuộc sống nhưng họ còn được biết
rõ hơn về Đức Chúa Trời và rằng Ngài là “Jehovah Ropha – Giê-hô-va Đấng chữa
lành” (Xu 15:26) [55]. Đức Chúa Trời đã hứa ban
cho Y-sơ-ra-ên những phước hạnh dư dật về vật chất nếu họ vâng lời Ngài, nhưng
sẽ là những hoạn nạn về thuộc thể nếu họ bất tuân Ngài (Phu 7:12-15 28:1-68). Những lời hứa này là một phần trong Giao
Ước Cũ của Đức Chúa Trời với Y-sơ-ra-ên và không được nhắc lại trong Giao Ước Mới cho các tín đồ ngày nay. Nếu đó là
ý muốn của Ngài, Đức Chúa Trời chắc chắn có thể chữa lành mọi bệnh tật ngoại trừ căn bệnh cuối cùng, nhưng thái độ của
chúng ta phải luôn là: “Không phải ý muốn của con nhưng ý Ngài sẽ được thực
hiện”.
Nếu đời sống chỉ là
những cuộc thử nghiệm, chúng ta sẽ dễ nản lòng. Nếu đời sống chỉ là sự vui thú,
chúng ta sẽ chẳng bao giờ học được sự kỷ luật và để được phát triển về nhân
cách. Chúa biết cách làm cân bằng những sự từng trải trong đời sống của chúng
ta, vì Ngài đã đem dân sự Ngài đến Ê-lim nơi họ có thể tìm thấy được nhiều nước
và có cơ hội được nghỉ ngơi. Chúng ta hãy biết ơn Chúa đã ban cho chúng ta
những phước hạnh có đủ để khích lệ chúng ta và những gánh nặng vừa đủ để khiến
chúng ta biết hạ mình, và Ngài biết mức độ mà chúng ta có thể chịu đựng được.
“Chúng tôi sẽ ăn gì ?” (Xu 16:1-3). Đồng vắng Sin nằm trên bờ biển
phía đông của Biển Đỏ, chúng ta không nên lẫn lộn với Đồng vắng Sin nằm ở hướng
nam của Palestine và hướng đông của Ê-đôm (Dan
13:21 33:11-12). Từ “Sin” không nên
được hiểu theo nghĩa tiếng Anh, như thể Y-sơ-ra-ên đang đi qua một nơi “tội lỗi”. Từ “Sin” này có liên hệ với “Si-nai” nhưng ý nghĩa
thì không được rõ.
Cả hội chúng đã than vãn
vì bị đói. Họ mới chỉ ra khỏi Ai Cập một tháng và vẫn còn nhớ đến những “nồi
thịt” ở Ai Cập và những thức ăn mà họ đã ăn “no nê”. Nhưng vì lý do nào đó, họ
đã quên đi ách nô lệ cùng những trận đánh và những sự lao khổ của kiếp nô lệ.
Họ lên án Môi-se và A-rôn đã cố tình đưa dẫn họ vào đồng vắng để giết hại họ.
Họ nói họ ước mong Chúa giết họ ở Ai Cập khi họ còn được no nê hơn là lại bị
chết đói ở trong sa mạc ! Dân Do Thái này chẳng biết rằng một ngày nào đó họ sẽ
đạt được nguyện vọng của mình, vì toàn bộ thế hệ đi trước sẽ chết trong đồng
vắng và không bao giờ vào được vùng Đất Hứa.
Xu 16 :1-3; xem giải nghĩa Xu 15:1-21
2. Hãy tin cậy Đức Chúa
Trời sẽ đáp ứng nhu cầu (Xu 16:4-18)
Đức Chúa Trời nghe những
lời lằm bằm của dân sự và đáp ứng những nhu cầu của họ trong ân điển cùng sự
thương xót của Ngài. Ngài bảo họ rằng vào buổi chiều họ sẽ có thịt để ăn (c.8)
và buổi sáng Ngài sẽ làm mưa bánh từ trời (c.4). Bằng cách chu cấp một cách đặc
biệt cho họ, Ngài cũng thử nghiệm để biết họ có tin cậy và vâng lời Ngài hay
không.
Lời hứa của Đức Chúa
Trời (16:4-5,8,11,12). Trong cuộc hành hương ở đời này, chúng ta sống nhờ vào những lời hứa chớ
không phải những lời giải thích. Khi bị tổn thương,
phản ứng bình thường của chúng ta là hỏi “Tại sao?”, nhưng đây là một giải pháp
sai lầm. Trước hết, khi hỏi Đức Chúa Trời câu hỏi đó, chúng ta đang có thái độ
trịch thượng và tạo ra cảm tưởng rằng chúng ta đang nắm quyền và Đức Chúa Trời
phải có trách nhiệm với chúng ta. Đức Chúa Trời là tối cao và không cần phải
giải thích điều gì với chúng ta trừ khi Ngài muốn. Việc hỏi “Tại sao ?” cũng
ngụ ý rằng nếu Đức Chúa Trời giải thích những kế hoạch và mục đích của Ngài cho
chúng ta, chúng ta sẽ hiểu hết được mọi sự và sẽ cảm thấy dễ chịu hơn.
Khi bạn đọc sách Gióp,
bạn thấy Gióp thất vọng nơi Đức Chúa Trời và liên tục nói “Tôi muốn gặp Đức
Chúa Trời để hỏi Ngài một số việc !” Nhưng cuối cùng khi Đức Chúa Trời đến với
ông, Gióp
bị trấn áp đến nỗi ông không hỏi Đức Chúa Trời được một điều gì ! (Giop 40:1-5). Chúng ta có thể khởi đầu để hiểu được những đường lối và
kế hoạch của Đức Chúa Trời khi những đường lối ấy vượt xa trí hiểu của chúng ta
và sự khôn ngoan của Ngài là không thể dò xét được chăng ? (Es 55:8-0 Ro 11:33-36).
Những lời giải thích không chữa lành được những tấm lòng tan vỡ, nhưng những lời hứa lại chữa lành được, vì những lời hứa tùy thuộc nơi
đức tin, và đức tin sẽ đưa chúng ta vào trong ân điển của Đức Chúa Trời.
Vinh hiển của Đức Chúa
Trời (Xu 16:6-7,9-10). Điều quan trọng là
dân Y-sơ-ra-ên phải hướng về sự vinh hiển của Đức Chúa Trời chớ không phải nơi
những ham muốn riêng của họ. Nếu họ bước đi bởi đức tin, họ sẽ làm vinh hiển
Chúa và đem sự tôn trọng đến cho danh của Ngài. Việc chúng ta được thoải mái,
tiện nghi trong cuộc sống không quan trọng, nhưng điều quan trọng là Đức Chúa
Trời được vinh hiển.
Khi hoàn cảnh trở nên
khó khăn, chúng ta có xu hướng cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa, làm sao con có thể
thoát ra khỏi điều này ?”, trong khi điều mà chúng ta cần cầu nguyện phải là:
“Lạy Chúa, con có thể rút ra được điều gì từ đây ?” Việc chúng ta
theo ý riêng mình không quan trọng, nhưng điều quan trọng là Đức Chúa
Trời sẽ thực hiện mục đích của Ngài và nhận lấy mọi sự vinh hiển về Ngài (Mat 6:33). Đức Chúa Trời
cho phép những thử thách xảy ra để có thể tạo nên lòng tin kính trong con cái
Ngài và khiến chúng ta được trở nên giống Chúa Giê-xu hơn. Sự tin kính không
phải là kết quả tự nhiên của việc đọc sách và tham dự những buổi nhóm; nó cũng
đòi hỏi việc mang lấy những gánh nặng, tham gia vào những trận chiến và cảm
nhận được những nỗi đau đớn.
Sự thành tín của Đức
Chúa Trời (Xu
16:13-15). Chiều hôm đó, chim cút bay bên trên
trại quân Y-sơ-ra-ên và dân sự đã bắt chúng làm thịt và nấu lên. Họ đã cầu xin
cho được thịt tươi sống, và Đức Chúa Trời đã chu cấp cho họ. Dân Do Thái trước
đó đã nhìn thấy thịt chim rừng, nhưng điều xảy ra sáng hôm sau là hoàn toàn
mới, vì ma-na xuất hiện dưới lớp sương trải trên mặt đất. Đức Chúa Trời đã dọn
bàn ăn cho dân sự Ngài trong đồng vắng và ban cho họ “bánh của các Thiên Sứ” (Thi 78:17-25).
Từ “ma-na” có xuất xứ từ
câu hỏi mà dân Do Thái đã hỏi vào buổi sáng đầu tiên ấy. “Vật chi vậy ?” (tiếng
Hê-bơ-rơ là man hu) Ma-na sẽ là lương thực của họ trong suốt 40
năm sắp tới, cho đến khi thế hệ sau đi vào Đất Hứa thì ma-na mới chấm dứt (Xu 16:35 Gios 5:11-12). Mỗi buổi sáng dân Do Thái được tham
dự vào một phép lạ khi từ các căn lều bước ra, họ đã thấy nguồn thực phẩm của
họ có sẵn trên lớp sương. Ma-na nhỏ, giống như một hạt giống, nhưng có vị ngọt
như mật (Xu 16:31).
Con Đức Chúa Trời (Gi 6:22-59). Ngày
hôm sau khi xảy ra sự kiện Chúa Giê-xu cho hơn 5000 người ăn chỉ với 5 ổ bánh
lúa mạch và 2 con cá nhỏ, Ngài đã giảng một bài giảng về “bánh của sự sống” cho
một đám đông trong nhà hội ở Ca-bê-na-um. Họ muốn Chúa Giê-xu chứng minh Ngài
là Đấng Mê-si-a bằng cách làm lại phép lạ về Ma-na (c.30-31), nhưng thay vào
đó, Ngài đã tuyên bố rằng Ngài là “bánh thật” đến từ trời. Ma-na thời Cựu Ước
là một kiểu mẫu [56] hay là một hình ảnh về Con Đức Chúa Trời,
Đấng đã đến để ban chính mình Ngài làm Bánh Sự Sống cho những tội nhân đang
khao khát Bánh ấy.
Những người Do Thái
trong nhà hội đi theo Chúa Giê-xu chủ yếu là vì Ngài đã ban thức ăn cho thuộc
thể của họ, nhưng điều họ còn cần hơn đó là thức ăn cho linh hồn (Es 55:2). Chúa Giê-xu là
Bánh của Sự Sống, và cách duy nhất để được cứu là tiếp nhận Ngài vào con người
bên trong của chúng ta giống như thân thể tiếp nhận thức ăn. Đức Chúa Trời chỉ
ban ma-na cho dân Y-sơ-ra-ên, nhưng Ngài ban Chúa Giê-xu cho cả thế giới. Ma-na
chỉ duy trì sự sống thuộc thể của họ trong đồng vắng nhưng Con Đức Chúa Trời
ban sự sống đời đời cho cả thế gian. Như dân Do Thái đã phải cúi xuống lượm
ma-na và ăn nó, thì tội nhân cũng phải hạ mình và tiếp nhận Chúa Giê-xu Christ
vào lòng mình. Dân Do Thái ăn ma-na và cuối cùng cũng đã chết, nhưng những ai
tiếp nhận Chúa Giê-xu Christ sẽ sống đời đời.
Có một ứng dụng thứ hai cho phép lạ
về ma-na: mỗi ngày bạn và tôi phải “sống nhờ Chúa Giê-xu Christ” bằng cách đọc
Lời Chúa, suy gẫm và làm theo lời ấy. Những người Do Thái trong nhà hội nghĩ
rằng Chúa Giê-xu đang nói về việc ăn thịt và huyết Ngài theo nghĩa đen (Gi 6:52-56) là điều có
vẻ mâu thuẫn với luật pháp Do Thái [57]. Chúa Giê-xu giải thích
rằng Ngài đang nói bằng ngôn ngữ thuộc linh và đề cập đến việc tiếp nhận Lời
Ngài (c.61-63). Tuy nhiên, Phi-e-rơ đã hiểu được sứ điệp này (c.67-68) và chúng
ta cũng phải như vậy. Lời Đức Chúa Trời là lương thực từ trời nuôi dưỡng sự
sống thuộc linh của chúng ta, và chúng ta phải sống nhờ vào Lời Chúa mỗi ngày (Giop 23:12 Gie 15:16 Mat 4:4
IPhi 2:2 He
5:12-14).
3. Vâng theo những lời
chỉ dẫn của Đức Chúa Trời (Xu 16:16-31)
Vì Đức Chúa Trời chẳng
phải là Chúa của sự loạn lạc (ICo 14:33) nên bất cứ khi nào tiến hành một điều
gì đó mới mẻ, Ngài luôn đưa ra những chỉ dẫn cần thiết để giúp cuộc mạo hiểm
được thành công. Nếu chúng ta vâng theo những chỉ dẫn của Ngài thì Ngài sẽ chúc
phước, nhưng nếu chúng ta bất tuân, sẽ có sự thất vọng và kỷ luật. Nguyên tắc
vẫn là “mọi sự đều nên làm cho phải phép và theo thứ tự” (ICo 14:40).
Thu lượm ma-na (16:18,21). Trước
tiên, dân Do Thái được hướng dẫn phải thu lượm ma-na mỗi ngày, nhưng chỉ vừa đủ
ăn cho mỗi người trong gia đình (c.16). Một ô-me là đơn vị đo lường của dân
Hê-bơ-rơ tương đương với hai ga-lông. Ma-na rất bổ dưỡng vì khi ăn vào sẽ giúp
một người lớn đi được một ngày trong đồng vắng. Dường như những thành viên trong mỗi gia đình góp chung phần lương
thực vào mỗi ngày và chưa bao giờ không có đủ thức ăn cho họ [58]. Vì dân Do Thái di chuyển và cắm trại theo chi
phái (Dan
1:1-2:34) nên chắc chắn là mỗi thị tộc và mỗi
gia đình đều góp chung phần ma-na họ đã thu lượm và bảo đảm cho mọi người đều
có đủ ma-na để ăn.
Điều quan trọng là dân
Do Thái phải dậy sớm để thu lượm ma-na, vì
mặt trời nóng bức của sa mạc sẽ làm tan chảy những hạt ma-na (Xu 16:21). Trong trại quân Y-sơ-ra-ên không có chỗ
cho kẻ lười biếng nằm dài trên giường trong lúc những người khác phải thu lượm
thức ăn cho anh ta. Có một bài học dành cho tín đồ ngày nay; chúng ta phải bắt
đầu một ngày mới với Chúa, thu nhặt thức ăn thuộc linh từ Lời Chúa, vì nếu
chúng ta gặp Chúa quá trễ thì ngày sẽ trở nên huyên náo, chúng ta sẽ bị phân
tâm, và sẽ bị suy dinh dưỡng thuộc linh. “Những người dậy sớm” trong Kinh Thánh
gồm có Áp-ra-ham (Sa 19:27 21:14 22:3),
Gia-cốp (28:18), Môi-se (Xu 8:20 9:13 24:4), Giô-suê (Gios
3:1,6),
Sa-mu-ên (ISa 15:12), Gióp (Giop 1:5), Đa-vít (Thi
57:8 108:2) và Chúa Giê-xu Christ của
chúng ta (Mac 1:35).
Bảo quản ma-na (Xu 16:19-21). Những người Y-sơ-ra-ên lười biếng có thể có ý định để dành phần
ma-na lại để họ có thể ngủ vào buổi sáng hôm sau, nhưng Môi-se đã cảnh cáo họ
không được làm như vậy. Tuy nhiên, một số người vẫn làm việc ấy, và ma-na của
họ đã bị chua, có mùi hôi, sinh giòi bọ và phải bỏ đi. Những người này không
những không vâng theo lời chỉ dẫn của Đức Chúa Trời mà họ còn đang sống trái
lại với thông lệ của Ngài vì Chúa đã cho phép mặt trời làm tan chảy ma-na nào
vẫn còn nằm trên mặt đất. Thật không ích chi khi chống đối lại điều Đức Chúa
Trời đã phán bảo trong Lời Ngài và mẫu mực Ngài đã thiết lập trong sự sáng tạo
của Ngài.
Một lần nữa, lại có sự
cảnh cáo riêng cho dân sự Đức Chúa Trời ngày nay: Chúng ta không thể tích trữ
Lời Ngài và tìm cách sống nhờ vào nguồn dinh dưỡng thuộc linh của ngày hôm qua.
Việc nghe chia sẻ Kinh Thánh vào Ngày của Chúa là một việc làm tốt, nhưng chúng
ta cần ma-na tươi mới mỗi ngày nếu chúng ta muốn là những Cơ Đốc Nhân khoẻ
mạnh. Không có sự thay thế tương xứng nào cho thời gian ở riêng với Chúa mỗi
ngày để được hấp thu nguồn dinh dưỡng tươi mới từ Lời Ngài.
Ma-na cho ngày Sa-bát (16:22-31). Trong
c.23, đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh ngày Sa-bát được đề cập đến bằng tên
gọi. Nó được gọi là “ngày thứ bảy” trong (Sa 2:1-3)
và để kỷ niệm sự nghỉ ngơi của Chúa sau 6 ngày sáng tạo. Dường như dân Do Thái
đã được dạy phải giữ ngày Sa-bát ngay cả trước khi
Đức Chúa Trời ban cho Môi-se 10 Điều Răn.
Mặc dù nhiều người thật
thà gọi Chúa nhật là ngày Sa-bát nhưng điều
này không đúng với Kinh Thánh vì ngày Sa-bát là ngày thứ bảy còn Chúa nhật lại
là ngày đầu tuần. Ngày Sa-bát là một ngày đặc biệt được Chúa ban cho dân Do
Thái như một sự nhắc nhở về giao ước của Ngài với họ (Xu
20:8-11 31:12-17 Ne 9:13-15). Từ “sa-bát” trong tiếng Hê-bơ-rơ
nghĩa là “ngưng làm việc, nghỉ ngơi” và có liên hệ với từ “số bảy” trong tiếng
Hê-bơ-rơ.
Vì vậy dân Do Thái không phải làm
việc vào ngày Sa-bát, nhưng họ phải có nhiệm vụ chuẩn bị trước bữa ăn của họ,
bao gồm cả việc thu lượm ma-na. Họ được phép lượm ma-na gấp đôi vào ngày thứ 6,
và những gì họ dự trữ sẽ không trở nên ôi thối. Việc ban ma-na 6 ngày một tuần
không chỉ là một phép lạ, nhưng việc bảo quản ma-na cho ngày thứ bảy cũng là
một phép lạ nữa. Luôn có một số người không thật sự hiểu được sứ điệp này. Một
số người Do Thái ra ngoài vào ngày Sa-bát để tìm ma-na, và họ đã chẳng tìm thấy
gì cả. Họ đã không vâng theo những chỉ dẫn của Môi-se ! Hãy nhớ rằng việc thu
lượm ma-na là một thử nghiệm của Đức Chúa Trời để biết dân sự có tuân thủ theo
Luật Pháp mà Ngài sắp ban cho họ hay không (Xu 16:4).
Nếu họ không vâng theo một việc đơn giản như là việc
lượm ma-na 6 ngày một tuần, làm sao họ sẽ vâng theo những quy chế và luật pháp
mà Môi-se sẽ đem xuống từ núi Si-nai ! Được ăn “bánh của các thiên sứ” ban xuống
từ trời là một đặc quyền, và bất tuân những chỉ dẫn mà Chúa đã ban ra là một sự
xúc phạm đối với Ngài.
4. Hãy nhớ những bài
học mà Đức Chúa Trời đã dạy bạn (Xu 16:32-36)
Những lời chỉ dẫn trong
các c.33-34 báo trước về việc ban Luật Pháp
(hoặc“bảng chứng” 31:18 32:18) và việc tạo ra hòm bảng chứng (25:16,22 26:33) cùng
việc xây cất đền tạm. Thông tin ở (16:35)
được thêm vào những năm sau đó để bổ sung cho câu chuyện được đầy đủ. Vào thời
điểm đó, Môi-se vẫn chưa biết Y-sơ-ra-ên sẽ đi trong đồng vắng bao nhiêu năm.
Như chúng ta sẽ thấy sau đó, hòm
bảng chứng là ngôi của Đức Chúa Trời trong trại quân. Nó nằm ở nơi chí thánh
trong đền tạm là nơi sự vinh hiển của Đức Chúa Trời ngự vào, và trong hòm là
hai bảng luật pháp, cây gậy của A-rôn và bình đựng ma-na bằng vàng (He 9:4). Chỉ có thầy tế lễ cả mới có thể vào nơi
chí thánh, và chỉ một lần trong năm, nhưng dân Do Thái biết được những gì ở
trong hòm và đã dạy lẽ thật này cho con cái họ. Mỗi một vật trong hòm này nhắc
nhở dân Y-sơ-ra-ên về một lẽ thật quan trọng rằng Đức Chúa Trời là Vua và là
Đấng ban Luật Pháp, rằng Ngài đã thiết lập chức tế lễ
và đã nuôi nấng dân sự Ngài vì Ngài quan tâm đến họ.
Đức Chúa Trời ban luật
pháp cho Y-sơ-ra-ên vì Ngài yêu dân sự Ngài. Họ
cần có ánh sáng để soi dẫn họ, và Luật Pháp Đức Chúa Trời là ngọn đèn và là ánh
sáng cho họ, và vâng theo Luật Pháp nghĩa là đi theo con đường của sự sống (Ch 6:23). Khi dân sự bất tuân, họ cần một thầy tế
lễ giúp họ được tha thứ và được làm hòa với Đức Chúa Trời. Họ cũng cần được
nhắc nhở rằng chính Đức Chúa Trời là Đấng đã chu cấp lương thực cho họ, và họ
sống không phải chỉ nhờ bánh nhưng còn bởi Lời Đức Chúa Trời (Phu 8:1-3).
Hầu hết mọi người có xu hướng quên
đi cách Đức Chúa Trời đã đối đãi với họ, và họ phải học lại những bài học mà họ
đã quên. Một số người ghi nhật ký và thường xuyên mở ra xem lại, trong khi
những người khác có “nhật ký thuộc linh” ở lề quyển
Kinh Thánh của họ, ghi chú lại những câu Kinh Thánh và những kinh nghiệm đặc
biệt có liên quan đến họ. Một bức ảnh có thể chẳng có ý nghĩa gì đối với chúng
ta nhưng nó lại chứa đựng châu báu của lẽ thật thuộc linh đối với người sở hữu
bức ảnh, là người biết rõ vì sao bức ảnh ở trên giá sách. Dù chúng ta có những
cách thức khác nhau thì chúng ta cũng cần phải “giữ lại” những bài học quan
trọng của cuộc sống và để chúng có thể giúp chúng ta bước đi với Đức Chúa Trời
và vâng giữ Lời Ngài.
Khi chúng ta bước đi với
Chúa bởi đức tin, thì cuộc sống là một trường học; và những người hành hương
hay những học viên thành công là những người đã cùng cầu nguyện với Môi-se
rằng: “Cầu xin Chúa dạy chúng tôi biết đếm các
ngày chúng tôi , hầu cho chúng tôi được lòng khôn ngoan” (Thi 90:12).
Bạn có là một trong số
họ hay không ?
7. “ĐỨC GIÊ-HÔ-VA VẠN
QUÂN Ở CÙNG CHÚNG TA” (Xu
17:1-18:27)
Vào ngày 18/4/1874, thi
hài của nhà truyền giáo cũng là nhà
thám hiểm David Livingstone được đặt yên nghỉ trong một ngôi mộ ở trung tâm
giáo đường tại Westminster Abbey. Trong suốt tang lễ, hội chúng cùng hát thánh
ca của Philíp Doddridge và John Logan, lấy ý từ (Sa 28:20-21)
Lạy Đức Chúa Trời của
Bê-tên, Đấng mà bởi tay Ngài
Dân sự Ngài vẫn được
nuôi dưỡng;
Đấng mà suốt cuộc hành
hương trên đất này
Đã dẫn dắt các tổ phụ
của chúng tôi:
Qua mỗi nẻo đường đời
đầy gian khó
Đã chỉ lối cho các bước
chân lang thang của chúng tôi;
Xin hãy ban cho chúng
tôi đồ ăn mỗi ngày
Và chu cấp quần áo thích
hợp cho chúng tôi.
Suốt những năm tháng khó
khăn và vất vả tại Châu Phi, Livingstone đã đặt đức tin và tương lai của ông
nơi những lời nhắn nhủ của Chúa Giê-xu: “Và này, ta thường ở cùng các ngươi
luôn cho đến tận thế” (Mat
28:20). Nói về câu Kinh Thánh này, Livingstone đã viết trong nhật ký của
ông ngày 14/1/1856: “Đây là lời của một người nghiêm túc và đáng kính trọng nhất, vì thế phải có
một mục đích về lời này !” Ông đã biết rằng lời của Chúa mình là đáng tin cậy !
Chính sự hiện diện của
Chúa đã ban cho Môi-se sức mạnh và sự tin quyết cần có trong suốt khoảng thời
gian ông dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên đi trong đồng vắng. Môi-se có một nhiệm vụ khó
khăn là phải lãnh đạo một đội quân vô ơn gồm những người nô lệ trước đây, và
ông đang cố gắng kết hợp họ lại thành một dân tộc, nhưng ông vẫn kiên trì vì
Chúa ở cùng ông. Những sự kiện được ghi lại trong 2 chương này cho chúng ta
thấy ý nghĩa về sự hiện diện của Chúa đối với dân sự Ngài và những người lãnh
đạo khi họ đang trên đường hành hương.
1. Đức Chúa Trời hướng
dẫn những bước đi của chúng ta (Xu 17:1-7)
Khi đi đến núi Si-nai,
dân Y-sơ-ra-ên vẫn được dẫn dắt bởi trụ mây vào ban ngày và trụ lửa vào ban
đêm. Nhưng Chúa vẫn đang dẫn Y-sơ-ra-ên vào trong những hoàn cảnh khó khăn và
thử thách để bày tỏ quyền năng của Ngài và để gây dựng đức tin cùng tính cách
của dân sự. Xét cho cùng, hành trình của đời sống còn bao gồm nhiều yếu tố khác
ngoài việc chỉ tìm cách đạt được mục tiêu. Nếu chúng ta không tăng trưởng trong
đức tin, trong sự hiểu biết Đức Chúa Trời và trong sự tin kính thì chúng ta
đang lãng phí đi những cơ hội của mình.
Một thử nghiệm cũ được
lặp lại (17:1-3) Cần phải mất một thời gian
khá lâu để Y-sơ-ra-ên có thể trở nên một dân tộc tin kính. Cho đến thời điểm này mọi thử thách mới mà họ phải trải qua chỉ cho thấy
điều tồi tệ nhất nơi họ. Khi dân sự đến Rê-phi-đim, trong đồng vắng Si-nai, họ
lại thấy mình không có nước. Họ đã thất bại trong cuộc thử nghiệm này một lần
trước đó, vì thế Đức Chúa Trời phải thử nghiệm họ một lần nữa. Ngài đã cho thấy
rằng Ngài có thể cung cấp nước và thức ăn cho họ, vậy tại sao họ vẫn tranh cãi
cùng Môi-se ? Vì lòng họ vẫn ở Ai Cập. Họ phạm tội vô ơn và vô tín, muốn trở
lại với đời sống cũ, và kết quả là họ lại không vượt qua được cuộc thử nghiệm.
Mọi sự khó khăn Đức Chúa
Trời cho phép chúng ta đối mặt sẽ trở nên một cuộc thử nghiệm có thể khiến
chúng ta trở nên tốt hơn hoặc là một cám dỗ có thể khiến chúng ta trở nên tồi
tệ hơn, và chính thái độ của
chúng ta sẽ quyết định cho điều này.
Nếu chúng ta bắt đầu phàn nàn và oán trách Đức Chúa Trời trong sự vô tín thì sự
cám dỗ sẽ ngăn chúng ta lại và cướp đi của chúng ta một cơ hội tăng trưởng về
thuộc linh. Nhưng nếu chúng ta tin cậy Đức Chúa Trời và làm theo đường lối của Ngài
thì thử thách sẽ có lợi chớ không gây hại cho chúng ta (Ro 8:28 Gia 1:12-15) và giúp chúng ta được tấn tới trong
ân điển.
Khi con người ở ngoài
mối giao thông với Chúa, tức giận và cay đắng, họ thường muốn làm những điều
trái lẽ chỉ khiến hoàn cảnh trở nên tồi tệ hơn. Trong trường hợp này, dân sự
lại muốn ném đá người lãnh đạo của họ ! (Xu 17:5). Việc đó có làm
thay đổi hoàn cảnh của họ hay không thì họ không nhận thức được, nhưng những
người bất tuân thường tìm kiếm người để chịu tội thay cho họ [59]
Một nguồn năng lực
không bao giờ cạn (17:4-7). Môi-se đã làm điều ông thường
phải làm với tư cách là một người lãnh đạo: ông kêu cầu Chúa giúp đỡ (15:25 32:30 Dan 11:1-2 12:13
14:13). “Đức Chúa Trời là nơi nương náu và
sức lực của chúng tôi, Ngài sẵn giúp đỡ trong cơn gian truân” (Thi 46:1). Chúa đã hướng dẫn ông đem theo một số
trưởng lão cùng với cây gậy tượng trưng cho quyền năng của Đức Chúa Trời (7:20) và đập hòn đá
trước mặt dân sự và bầy gia súc. Khi Môi-se làm theo thì nước phun ra từ hòn đá
giúp cho dân sự và bầy gia súc qua khỏi cơn khát (Thi 78:15-16 105:41
114:8 Es 48:21).
Một Đức Chúa Trời nhân từ đã đáp ứng cho nhu cầu của
một dân hay phàn nàn [60]
Hòn đá là một điển hình
về Chúa Giê-xu Christ đã bị “đập” vì chúng ta trên thập tự giá (ICo 10:4) [61] và dòng nước là một điển hình về Đức Thánh Linh
mà bởi sự chết, sự phục sinh và thăng thiên của Đấng Christ mà Ngài đã có thể
đến với chúng ta (Gi
7:37-39). Điều này giải thích lý do Môi-se đã sai lầm khi đập vào hòn đá
mà lẽ ra ông cần phải nói với hòn đá ấy (Dan
20:1-13) vì “(Đấng Christ) đã chết cho tội lỗi một lần đủ cả” (Ro 6:10 NKJV He 7:27
9:26-28).
“Ma-sa” nghĩa là “thử”
và “Mê-ri-ba” nghĩa là “bất hòa, cãi lộn”. Dân Do Thái chưa biết rằng Đức Chúa
Trời thử nghiệm dân sự Ngài
trong mọi từng trải của đời sống.
Ngài dùng những từng trải gian nan của đời sống để củng cố đức tin chúng ta và
hoàn thiện tính cách chúng ta. Nhưng đức tin của Y-sơ-ra-ên nơi Đức Chúa Trời
rất yếu đuối, vì họ nghĩ Đức Chúa Trời của họ đã dẫn họ đến một nơi mà Ngài
không thể chăm sóc cho họ ! Sự rắc rối với dân Y-sơ-ra-ên là họ có tấm lòng
cứng cỏi không muốn đầu phục Chúa, vì vậy họ đã chống nghịch lại ý muốn của
Ngài. Thật ra, trong suốt cuộc hành trình từ Ai Cập đến Ca-na-an, thế hệ đi
trước cũng đã có những tấm lòng vô tín (Thi 95:6-11 He 3:1-19)
[62]. Lúc khởi đầu cuộc hành hương họ đã phàn nàn về nước và 40
năm sau khi gần cuối cuộc hành hương họ cũng tiếp tục phàn nàn như vậy (Dan 20:1-13).
Trên biểu đồ của đời
sống chúng ta, có bao nhiêu chỗ phải được đặt tên là “Thử nghiệm và Tranh cãi”
vì cách thức mà chúng ta phàn nàn về hoàn cảnh của mình và không tin cậy nơi
Đức Chúa Trời ? Ngồi thoải mái trong nhà thờ và hát “Suốt đường Cứu Chúa tôi
dẫn dắt tôi, tôi còn cầu xin điều gì hơn ?” là một việc, nhưng phải đối diện
với sự khốn cùng và tuyệt vọng và nói cách khiêm cung rằng “không phải ý con
nhưng ý Ngài được nên” hoàn toàn là một việc khác. Corrie ten Boom thường nói:
“Không cần phải đưa ra những lời chỉ dẫn cho Đức Chúa Trời, chỉ hãy nhận lãnh
lấy nhiệm vụ của mình.”
2. Đức Chúa Trời đánh
bại những kẻ thù của chúng ta (Xu 17:8-16)
Trong cuộc hành trình
của đức tin, chúng ta không chỉ trải qua những thử thách có liên quan đến những
nhu cầu thiết yếu của đời sống, như là bánh và nước, mà chúng ta còn phải đương
đầu với những cuộc chiến khi kẻ thù tấn công chúng ta. Chúng ta là những kẻ
hành hương và cũng là những chiến sĩ, và điều này có nghĩa là đôi khi chúng ta
phải chịu đựng sự hoạn nạn khi chúng ta bước theo Chúa (IITi 2:3-4).
Kẻ thù (Xu 17:8). Ma quỉ là kẻ
thù lớn nhất của chúng ta (IPhi 5:8), nó sử
dụng thế gian và xác thịt để chống lại chúng ta (Eph
2:1-3). Như dân Y-sơ-ra-ên đã được giải phóng khỏi Ai Cập bởi quyền năng
của Đức Chúa Trời, thì dân sự Đức Chúa Trời ngày nay cũng được giải cứu khỏi
“đời ác này” (Ga 1:3-4) nhờ chiến thắng của Đấng Christ. Chúng ta đang ở trong thế giới vật chất chớ không thuộc về thế giới
thuộc linh (Gi 17:14-16), và vì thế
chúng ta không được làm theo đời này (Ro 12:2).
Chúng ta phải từ bỏ những điều thuộc về xác thịt (Ga
5:16-21) và chống cự lại những sự tấn công của ma quỉ (Gia 4:7 IPhi 5:8-9).
Dân A-ma-léc là con cháu Ê-sau, anh
của Gia-cốp (Sa 36:12,16), ông là một “người khinh
lờn” (He 12:16). Từ được dịch là “khinh lờn”
(“bất kính”, NIV) đến từ một từ Hy Lạp có nghĩa là “ngưỡng cửa”; nó liên hệ đến
một người nào đó dễ bị ảnh hưởng và có thể được “thay
thế” bởi bất cứ ai đó hay bất cứ điều gì đó. Từ tiếng Anh “khinh lờn” có xuất
xứ từ tiếng La-tinh có nghĩa là “bên ngoài đền thờ”, tức là không được thánh
hóa và tầm thường. Ê-sau đã sống cho thế gian
và cho xác thịt, xem thường những điều thuộc linh (c.17). Ê-sau đã đối
chọi cùng Gia-cốp em mình và dọa giết Gia-cốp (Sa
27:41), con cháu Ê-sau cũng đối nghịch với con cháu Gia-cốp (Y-sơ-ra-ên)
và đe dọa hủy diệt họ.
Không có ghi chép nào cho biết dân
Do Thái phải đánh bất kỳ cuộc chiến nào ở Ai Cập, nhưng khi đã được giải phóng
khỏi ách nô lệ, họ lại khám phá ra rằng họ có những kẻ thù. Điều này cũng xảy
ra trong đời sống Cơ Đốc Nhân. Khi chúng ta hiệp cùng Chúa Giê-xu, thì những kẻ
thù của Ngài trở thành những kẻ thù của chúng ta (Lu
12:49-53) và chúng ta phải “đánh trận đức tin tốt lành” (ITi 6:12). Nhưng chúng ta cũng cần có những cuộc
chiến để giúp quân bình những phước hạnh của đời sống; nếu không, chúng ta sẽ
trở nên quá tự tin và quá hanh thông đến nỗi không còn tin cậy nơi Chúa nữa.
Chiến lược (Phu 25:17-19). Dân
A-ma-léc đã tấn công Y-sơ-ra-ên bất ngờ từ phía sau, tại nơi yếu nhất trong
trại quân, vì họ nhắm vào những người Do Thái yếu đuối nhu nhược đang ở phía
sau đoàn người. Dân A-ma-léc đã tấn công sau khi Y-sơ-ra-ên vừa kinh nghiệm
được một phước hạnh lớn lao trong sự chu cấp nước từ hòn đá. Sa-tan và đội quân
ma quỉ của nó (Eph 6:10-12) biết rõ đâu là
điểm yếu nhất của chúng ta và khi nào chúng ta vẫn còn chưa sẵn sàng cho một
cuộc tấn công. Đó là lý do chúng ta phải “tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa
vào chước cám dỗ. Tâm thần thật sự sẵn sàng nhưng xác thịt thì yếu đuối” (Mac 14:38 NKJV).
Kẻ thù thường tấn công
dân sự Đức Chúa Trời sau khi họ kinh nghiệm được những phước hạnh đặc biệt,
nhưng Chúa có thể dùng những cuộc tấn công đó để khiến chúng ta không được đặt
lòng tin nơi những phước hạnh được ban cho thay thế Đấng ban cho. Chính ngay sau chiến
thắng trên bốn vua mà Áp-ra-ham đã bị cám dỗ để thu gom chiến lợi phẩm (Sa 14:17-24), và sau chiến thắng Giê-ri-cô,
Giô-suê trở nên quá tự tin và đã bị bại trận tại A-hi (Gios
7:1-26). Sau khi Ê-li đánh bại các thầy tế lễ của Ba-anh, ông trở nên
nản lòng và bị cám dỗ để rút lui (IVua 18:41-19:18),
và chính sau những phước hạnh tại phép báp-têm của Ngài mà Chúa chúng ta được
dẫn vào đồng vắng để chịu cám dỗ (Mat 3:13-4:1).
“Vậy ai tưởng mình đứng vững hãy giữ kẻo ngã” (ICo
10:12).
Chiến thắng (Xu 17:9-13). Không
có bằng chứng nào về việc Y-sơ-ra-ên đã tiến hành bất cứ cuộc chiến nào ở Ai
Cập. Thậm chí vào đêm họ được giải phóng khỏi Ai Cập, họ không phải chiến đấu
với đội quân đang tấn công của Ai Cập vì Chúa đã chiến cự thay họ. “Chớ sợ chi,
và hãy xem sự giải cứu của Đức Giê-hô-va sẽ làm cho các ngươi ngày nay” (Xu 14:13). Nhưng giờ đây Y-sơ-ra-ên đang ở trong
cuộc hành hương và họ sẽ phải nhiều lần bước vào cuộc chiến và tin cậy Chúa để
chiến thắng. “Và đây là chiến thắng chế ngự cả thế gian, thậm chí với cả đức
tin của chúng ta” (IGi 5:4).
Đây là sự đề cập đầu tiên về Giô-suê
trong Kinh Thánh, nhưng trước khi kết thúc Kinh Thánh, tên ông sẽ được nhắc đến
hơn 200 lần nữa [63] Ông sinh
ra tại Ai Cập và được đặt tên là Hô-sơ, nghĩa là “sự cứu rỗi”. Sau này, Môi-se
sẽ đổi tên lại cho ông là “Giô-suê – Đức Giê-hô-va là sự cứu rỗi” (Dan 13:8,16;), chính là từ Hê-bơ-rơ tương đương với
“Giê-xu” (Mat 1:21 He
4:8;). Ông biết được sự khắc nghiệt của kiếp nô lệ ở Ai Cập, và chắc hẳn
ông cũng có khả năng về lãnh đạo quân sự để Môi-se lập ông làm tướng lãnh quân
đội. Ông đã trở nên tôi tớ hầu việc của Môi-se (Xu
24:13 33:11 Gios
1:1), vì đường lối của Đức Chúa Trời là trước hết chúng ta phải chứng tỏ
mình là tôi tớ trung thành trước khi có thể được cất nhắc làm lãnh đạo (Mat 25:21,23). Giô-suê chỉ có một ngày để tập hợp đội quân
để sẵn sàng cho cuộc tấn công nhưng ông đã làm được điều ấy.
Chiến thắng huy hoàng
của Y-sơ-ra-ên trước dân A-ma-léc đòi hỏi phải có ba yếu tố: quyền năng của
Chúa ở trên trời, tài khéo léo của Giô-suê và đội quân trên chiến trường, và sự
cầu thay của Môi-se, A-rôn và Hu-rơ [64] trên đầu nổng. Đức Chúa
Trời có thể sai các thiên sứ hủy diệt kẻ thù (Es 37:38), nhưng Ngài đã
cho con người cơ hội được Ngài sử dụng như những công cụ để thực hiện mục đích
của Ngài. Giô-suê và quân đội của ông phải tin cậy Đức Chúa Trời và chiến đấu,
Môi-se và các cộng sự của ông phải tin cậy Đức Chúa Trời và cầu thay, còn Đức
Chúa Trời sẽ làm phần việc còn lại. Bằng cách này, dân sự Đức Chúa Trời sẽ được
lớn lên trong đức tin và danh Đức Chúa Trời sẽ được vinh hiển.
Dân Do Thái giơ tay lên
khi họ cầu nguyện là một điều thông thường (Thi 28:2 44:20 63:4 134:2 IVua 8:22,38,54 ITi 2:8), và
vì Môi-se cầm gậy của Đức Chúa Trời trong tay tức là ông đang xưng nhận sự phó
thác nơi quyền lực và sức mạnh của Đức Giê-hô-va. Không phải Môi-se là người
ban quyền phép cho Giô-suê và quân đội ông; nhưng đó là Đức Chúa Trời của
Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, là “Đức Giê-hô-va vạn quân”. Khi Môi-se vẫn còn
giơ cây gậy trong tay của ông lên, Y-sơ-ra-ên vẫn thắng thế, nhưng khi ông hạ
tay xuống, quân A-ma-léc sẽ thắng thế.
Chúng ta có thể hiểu được Giô-suê và
đội quân Y-sơ-ra-ên sẽ trở nên rất mệt mỏi khi đánh trận, nhưng tại sao Môi-se
lại mệt mỏi khi giơ gậy của Đức Chúa Trời lên ? Cho đến tận ngày ông qua đời,
Môi-se vẫn không mất đi sức mạnh tự nhiên của mình (Phu
34:7), vì thế nguyên nhân không thuộc về vấn đề thể xác. Sự cầu thay là
một hoạt động đòi hỏi nhiều nơi người cầu thay. Việc phải tập trung mọi sự chú
ý nơi Đức Chúa Trời và “cầu nguyện không thôi” (ITe
5:17) có thể làm bạn đuối sức cũng như đối với một công việc căng thẳng.
Giống như Ê-pháp-ra, chúng ta phải “luôn lao động nhiệt thành” trong sự cầu
nguyện của chúng ta (Cong 4:12) [65], chớ không chỉ là việc đề cập qua loa đến những
lời thỉnh cầu của chúng ta đối với Chúa. Samuel M.Zwemer là nhà truyền đạo cho
thế giới Hồi giáo, ông thường gọi sự cầu nguyện là “sự luyện tập của linh hồn”,
và John Bunyan đã viết: “Trong sự cầu nguyện thì một tấm lòng không nói nên lời
còn đáng giá hơn là những lời nói không có tấm lòng”. Bạn phải trả giá khi đặt
trọn tấm lòng mình vào sự cầu thay, nhưng điều đó cũng sẽ đem đến sự phước hạnh
cho bạn.
Giô-suê không thể thành
công nếu không có Môi-se, nhưng Môi-se không thể thắng
thế nếu không có sự hỗ trợ của A-rôn và Hu-rơ. Không phải mọi người đều có thể
là một Môi-se hay Giô-suê, một D.L.Moody hay Billy Graham, nhưng tất cả các Cơ
Đốc Nhân đều có thể như A-rôn và Hu-rơ giúp giữ tay họ khi họ làm theo lời Đức
Chúa Trời. Đức Chúa Trời đang tìm kiếm những người sẳn lòng dự phần trong cuộc
chiến và chiến thắng vì họ vẫn đang bền lòng trong sự cầu nguyện (Ro 12:12 Es 59:16).
Có một lời nhắc nhở cho chúng ta tại
đây: Cứu Chúa hằng sống của chúng ta ở trên trời đang cầu thay cho chúng ta khi
chúng ta đang chiến trận với cuộc sống mỗi ngày, và sức lực của Ngài thì chẳng
bao giờ cạn (He 7:25). Hơn nữa, Đức Thánh
Linh trong lòng cũng đang cầu thay cho chúng ta và hướng dẫn chúng ta trong sự
cầu nguyện (Ro 8:26-27). Đức Chúa Trời hứa
ban chiến thắng cho những ai cầu nguyện và sử dụng gươm Thánh Linh (Eph 6:17-18).
Lời chứng (Xu 17:14-16). Môi-se không xây một đài kỷ niệm cho chính ông hay cho
Giô-suê, hoặc thậm chí cho đội quân chiến thắng của Y-sơ-ra-ên. Thay vào đó,
ông biết dành mọi vinh hiển về chiến thắng của Y-sơ-ra-ên cho Đức Chúa Trời
bằng cách xây một bàn thờ và đặt tên là “Giê-hô-va Cờ xí của tôi”. Ở Ai Cập, có
lẽ Môi-se đã nhìn thấy nhiều đội quân khác nhau và mỗi đội quân được biết đến
như một trong nhiều vị thần của họ, vì vậy ông giương cờ để tôn cao Đức Chúa
Trời chân thật duy nhất của mình. Môi-se cũng đưa ra lý do cho đài kỷ niệm này
rằng:“Vì tay đã được giơ lên trước ngôi của Chúa” (c.16 NIV), đề cập đến sự cầu
thay của Môi-se trên đồi [66] Đức Chúa Trời đã đáp lời cầu nguyện và cứu giúp
cho dân sự Ngài, và Môi-se muốn ngợi khen danh Ngài.
Nhưng Môi-se cũng đã ghi
vào sử sách (Xu24:4-7 34:27 Dan 33:1-2
Phu 25:17-19 31:9-24).
rằng Y-sơ-ra-ên phải chiến đấu với A-ma-léc cho
đến khi dân tộc này hoàn toàn bị tiêu diệt. Y-sơ-ra-ên chiến trận với họ một
lần nữa tại Ca-đe ba-nê-a nhưng bị thất bại (Dan 14:45), Ghê-đê-ôn đã chiến thắng dân này cùng
với dân Ma-đi-an (Cac 6:33). Vua Sau-lơ đã
không vâng lời Đức Chúa Trời mà tiêu diệt dân A-ma-léc, nên bị mất ngôi (ISa 15:1-25) và chính ông bị giết hại bởi một
người A-ma-léc (IISa 1:1-16). Vua Đa-vít đã
đánh bại dân A-ma-léc là những người đã đột kích trại quân của ông (ISa 30:1-31), và khi ông trở thành vua thì cuối
cùng ông đã chinh phục được họ (IISa 8:11-12).
Trong suốt thời trị vì của vua Ê-xê-chia, các đội quân của ông đã tiêu diệt một
số ít dân A-ma-léc còn sót lại. Sự đoán xét của Đức Chúa Trời trên dân A-ma-léc cho chúng ta một bài học rằng bạn không
thể phạm đến ngôi Đức Chúa Trời mà thoát khỏi sự trừng phạt.
3. Đức Chúa Trời đáng
được ngợi khen (Xu 18:1-12)
Sau khi đọc về những thử
thách, những sự phàn nàn và những cuộc chiến của dân Y-sơ-ra-ên, thật là một sự
thư giãn để đi vào một chương mô tả trại quân Y-sơ-ra-ên như một nơi yên tĩnh
của sự giao thông trong gia đình và của công việc hằng ngày. Cuộc sống không
phải luôn luôn là sự đói khát và chiến tranh, dù đó là những điều mà chúng ta
thường hay nhớ đến. Charles Spurgeon nói rằng dân sự Đức Chúa Trời có xu hướng
khắc những hoạn nạn của họ vào đá hoa cương và viết những phước hạnh của họ
trên cát, và có lẽ ông ấy đã nói đúng.
Nhưng điều tuyệt vời
nhất về phân đoạn này đó là mọi người đều ngợi khen Chúa về những việc Ngài đã
làm cho dân sự Ngài. Ngợi khen Đức Chúa Trời thật tốt hơn là phàn nàn Đức Chúa
Trời; thật ra, sự ngợi khen là liều thuốc giải độc hay cho một tinh thần hay
than vãn. Nhà truyền giáo D.L.Moody đã nói rằng: “Có rất nhiều điều trong Kinh
Thánh nói về sự ngợi khen hơn là sự cầu nguyện, nhưng chúng ta lại có quá ít
buổi nhóm họp ngợi khen !”
Sứ điệp của Giê-trô (Xu 18:1-6). Chúng
ta đã gặp cha vợ của Môi-se (2:11-22), nhưng
sự hiện diện của ông ở đây nêu lên hai câu hỏi quan trọng:
1. Giê-trô đã được nghe về những
công việc kỳ diệu của Đức Chúa Trời tại Ai Cập như thế nào?
2. Vợ và hai con trai của Môi-se đã trở về nhà khi nào ?
Có thể Môi-se đã đưa gia
đình ông trở về xứ Ma-đi-an trước khi Chúa tuyên chiến trên Ai Cập. Rồi sau
cuộc hành trình rời Ai Cập, Môi-se đã sai một sứ giả đến cùng Giê-trô và yêu
cầu ông dẫn theo Sê-phô-ra với hai cậu con trai và gặp ông tại núi Si-nai. Một số học giả bác bỏ tình tiết
này vì Môi-se chắc chắn muốn gia đình ông nhìn thấy sự đoán xét của Chúa trên
Ai Cập và được tham gia vào sự giải cứu vĩ đại của Y-sơ-ra-ên. Môi-se sẽ là một
người lãnh đạo như thế nào nếu chỉ muốn gia đình mình được yên ổn tại Ma-đi-an
trong khi dân sự đang chịu cảnh khốn cùng ở Ai Cập ?
Nếu gia đình cùng ở với
Môi-se tại Ai Cập thì sau cuộc hành trình rời Ai Cập, có thể đôi lúc Môi-se đã
đưa Sê-phô-ra và hai con trai của họ về Ma-đi-an để báo tin mừng cho gia đình
bà. Sê-phô-ra và những người cùng đi với bà có thể đi nhanh hơn rất nhiều so
với cả đoàn dân cùng với con cái và gia súc của họ, vì vậy gia đình này sẽ đến
Ma-đi-an trước khi dân Y-sơ-ra-ên đi đến khu vực núi Si-nai. Sau khi nghe tin
mừng, Giê-trô sai một sứ giả đến chỗ Môi-se để cho biết rằng ông sắp đến trại
quân cùng với Sê-phô-ra và các con trai của nàng.
Giê-trô đến (Xu 18:7-8).
Ở Đông phương, những người trong gia đình và bạn bè dành khá nhiều thời gian để
chào hỏi khi họ gặp mặt nhau (Lu 10:4), đặc
biệt là khi họ đã không được gặp nhau trong suốt một thời gian dài (Sa 29:9-14 33:1-7
45:1-15). Môi-se bày
tỏ sự kính trọng của ông đối với cha vợ bằng cách đi ra đón người, nhưng thật
lạ khi Sê-phô-ra và hai người con trai không được đề cập đến tại đây [67].
Sự
hiếu khách là một phép tắc trên hết cần phải tuân giữ tại Đông phương, và
Môi-se đã mời Giê-trô cùng những vị khách vào trại của ông. Ở đó ông thuật lại
cho họ nghe một lần nữa những công việc kỳ diệu Đức Chúa Trời đã làm cho dân sự
Ngài. Giê-trô đã biết một số sự việc về sự thất bại của Ai Cập, nhưng Môi-se trình
bày lại cho ông những chi tiết và trả lời những câu hỏi của ông. Đó không phải
là sự tường thuật về những điều Môi-se đã làm nhưng là điều Đức Chúa Trời đã
làm!
Sự thờ phượng của
Giê-trô (Xu 18:9-12). Giống như
Mên-chi-xê-đéc (Sa 14:17-24), Giê-trô là một
thầy tế lễ người ngoại (Xu 2:16) mà những
lời chứng của ông cho thấy rằng ông đã biết Đức Chúa Trời chân thật và hằng
sống. Ông cũng biết tầm quan trọng của Y-sơ-ra-ên trong kế hoạch của Đức Chúa
Trời, vì ông nói rằng Chúa đã trừng phạt dân Ai Cập bởi họ đã “đối xử với
Y-sơ-ra-ên một cách kiêu ngạo” (18:11 NIV).
Chức tế lễ vẫn chưa được
thiết lập một cách chính thức trong Y-sơ-ra-ên, nên Môi-se, A-rôn và các trưởng
lão Do Thái không phạm tội khi cùng Giê-trô dâng của lễ cho Đức Chúa Trời và
sau đó dự một bữa tiệc thông công với nhau. Suốt những năm sống ở Ma-đi-an,
chắc chắn Môi-se đã tham dự nhiều bữa ăn về của lễ cùng với cha vợ của ông.
Hình thức thông công này báo trước thời điểm Đấng Mê-si-a sẽ chết thay tội lỗi
của cả thế gian và thực hiện sự cứu chuộc cho muôn dân muôn nước. “Vì từ nơi mặt trời mọc cho đến nơi mặt trời lặn,
danh ta sẽ là lớn giữa các dân ngoại” (Mat 1:11).
4. Đức Chúa Trời phân
bổ những gánh nặng của chúng ta (Xu 18:13-27)
Môi-se lẽ ra phải có một tuần vui chơi
với gia đình và tiếp đón cha vợ của ông, nhưng là một người chăn bầy trung tín,
ngay hôm sau ông đã trở lại để giúp đỡ dân sự giải quyết những vấn đề của họ.
Nhiệm vụ (18:13-16). Dân tộc
Y-sơ-ra-ên đã có những trưởng lão (c.13 4:29),
nhưng họ không giúp đỡ Môi-se trong những công việc hằng ngày của trại quân,
hoặc nếu họ giúp thì cũng có những vấn đề họ không thể tự giải quyết mà phải
nhờ đến Môi-se. Trại quân của Y-sơ-ra-ên đã có những quy định cơ bản về sự quản
lý (18:16), vì hai triệu dân không thể sống
hòa hợp và đồng hành với nhau mà không tuân theo một số điều lệ nào đó. Nhóm từ
“mạng lệnh và luật pháp” trong c.16 có thể chỉ về ý muốn của Đức Chúa Trời nói
chung cũng như về những mệnh lệnh cụ thể của Chúa. Từ rất lâu trước khi Luật
Pháp được ban ra, Đức Chúa Trời đã chúc phước cho Áp-ra-ham vì ông đã làm theo
những mạng lệnh, quy tắc và luật lệ của Ngài (Sa
26:5).
Những điều khoản trong Luật Pháp cần
thiết cho tình hình trật tự và an ninh trong xã hội, nhưng các điều khoản này
cũng luôn cần phải được giải thích, ngay cả khi những điều này đến từ Chúa. Sau
này, các thầy tế lễ sẽ giúp đỡ trong nhiệm vụ này (Mat
2:4-7), nhưng vào lúc đó chức tế lễ vẫn chưa được thiết lập. Từ thời
E-xơ-ra (Exo 7:10), các thầy thông giáo đã
trở thành những người nghiên cứu và giải thích luật pháp.
Hiểm họa (Xu 18:17-18). Giê-trô
biết rằng chức lãnh đạo của Môi-se mang tính quyết định cho sự thành công trong
tương lai của Y-sơ-ra-ên và bất cứ hoạt động nào làm cạn kiệt sức lực hay lãng
phí thời giờ của ông đều có hại cho dân tộc. Thêm nữa, ông cũng không muốn con
rễ của mình bị kiệt sức để Sê-phô-ra phải góa bụa và hai cháu nội của ông không
có cha. Không ai có thể tự mình giúp đỡ cho hai triệu dân mà kéo dài được tuổi
thọ. Thậm chí sau khi đã có những sự xếp đặt mới thì Môi-se vẫn phải thú nhận rằng
việc điều hành cả dân sự là quá sức cho ông (Dan
11:4), vậy dưới hệ thống điều hành cũ thì gánh nặng này còn nặng nề đến
mức độ nào ? Từ Hê-bơ-rơ được dịch là “dễ hơn” trong (Xu
18:22) có nghĩa là “lấy hàng hóa ra từ một chiếc tàu.” (“Điều đó sẽ
khiến gánh của con nhẹ hơn”, NIV).
Lời đề nghị (Xu 18:19-27). Lời đề nghị của Giê-trô rất hay. Môi-se phải tổ chức trại quân
để cứ 10 người thì phải có người để họ trình bày về những vấn đề của họ. Nếu
người phụ trách nhóm 10 người không thể giải quyết được vấn đề thì có thể giao
lên cho người chịu trách nhiệm nhóm 50 người, rồi 100 người, rồi 1000 người [68] Sau mọi việc đó, (nếu vấn
đề vẫn chưa được giải quyết) thì nó sẽ được giao cho chính Môi-se quyết định.
D.L.Moody có thể đã nghĩ đến điều này khi ông nói: “Tôi thà để 10 người làm
việc hơn là làm công việc của 10 người”.
Một hệ thống điều hành
như thế sẽ tách những vấn đề đơn giản khỏi những vấn đề phức tạp hơn để Môi-se
không lãng phí thời gian của ông vào những vấn đề không quan trọng. (Nếu dân
Y-sơ-ra-ên cũng giống như con người ngày nay thì tức là mọi người đều nghĩ vấn
đề của mình là quan trọng nhất !). Sự sắp đặt này cũng sẽ thử nghiệm sự nghiêm
túc của dân sự, vì không phải tất cả mọi người đều muốn người trưởng nhóm đem
vụ kiện của họ lên tòa án cấp cao hơn để giải quyết”.
Nhưng Giê-trô không
khuyên Môi-se “đẩy trách nhiệm cho người khác”. Không, chính Môi-se sẽ dạy dỗ
cho dân sự các luật lệ, và chắc chắn ông cần đến sự hỗ trợ của những trưởng
nhóm đã được chọn lựa, vì thế họ có thể thực hiện được những quyết định khôn
ngoan. Ông cũng phải là người đại diện cho dân sự trước mặt Đức Chúa Trời, điều
này có nghĩa là phải cầu thay cho họ và tìm kiếm sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời
trong những trường hợp khó khăn. Môi-se là người lãnh đạo được Đức Chúa Trời chỉ
định, và không ai có thể thay thế ông cho đến khi công việc của ông đã được
hoàn tất, nhưng ông không phải làm mọi công việc một cách đơn độc.
Có người nói rằng
Giê-trô là một người xen vào việc của người khác, và lẽ ra ông nên quan tâm đến
công việc riêng của mình vì Đức Chúa Trời đã có thể giúp Môi-se làm xong công
việc mỗi ngày. Họ lý luận: “Nếu Chúa muốn Môi-se có sự hỗ trợ, chính Ngài sẽ
cho Môi-se biết.” Nhưng Giê-trô không ra lệnh
Môi-se phải làm theo những mệnh lệnh của ông. Ông đã giục Môi-se thưa với Chúa
về vấn đề này và làm theo bất cứ điều gì Đức Chúa Trời phán dạy (c.23). Vì
Môi-se đã tiếp thu lời đề nghị của cha vợ ông, ông chắc đã hỏi ý Chúa và nhận
được sự chấp thuận của Đức Chúa Trời.
Môi-se không hỏi Giê-trô
cách xây đền tạm hay cách dâng của lễ, vì những vấn đề đó đã được Chúa bày tỏ
cho ông. Nhưng trong những vấn đề về tổ chức và quản lý, dân sự Đức Chúa Trời
có thể học hỏi từ những người bên ngoài, vì “con đời này trong việc thông công
với người đồng đời mình thì khôn khéo hơn con sáng láng” (Lu 16:8). Dĩ
nhiên chúng ta không được làm theo một thói quen hay một cách giải quyết nào đó
cho đến khi chúng ta hiểu được nguyên tắc xử lý của nó và biết chắc rằng nó phù
hợp với lời Kinh Thánh (Gia 3:13-18).
Điều quan trọng trong việc giao phó
trách nhiệm là bạn phải có những người lãnh đạo có khả năng và nghị lực, “những
người có năng lực, kính sợ Đức Chúa Trời, chơn thật, ghét sự tham lợi” (Xu 18:21) [69], những phẩm chất này nhắc nhở chúng ta về kinh
nghiệm của Hội Thánh đầu tiên trong việc tìm người giúp đỡ các Sứ Đồ và đỡ đần
những công việc nhẹ cho họ (Cong 6:1-7). Những người phụ tá này phải có tiếng
tốt, đầy dẫy Đức Thánh Linh cùng sự khôn ngoan, và được dân sự chấp thuận.
Theo (Phu
1:9-18), Môi-se đã nói về lời khuyên của Giê-trô cùng dân sự, ông thừa
nhận sự yếu đuối và mệt mỏi của mình, và yêu cầu họ chọn ra những người lãnh
đạo để giúp đỡ ông. Họ tán thành kế hoạch này và chọn ra những người sẽ phụ
trách công việc, sau đó Môi-se đã giao trách nhiệm cho họ để cùng gánh vác. Khi
Y-sơ-ra-ên vào Đất Hứa, họ bổ nhiệm các quan chức trong mỗi tỉnh để giúp trong
việc giải quyết những việc kiện tụng (16:18-20).
Đức Chúa Trời là Chúa của sự trật tự, và Ngài muốn dân sự của Ngài có được sự
an ninh và công bằng trong trại quân và trong xứ.
Bất cứ khi nào chức vụ và cơ cấu mâu
thuẫn với nhau, và chức vụ bị ngăn trở thì dân sự của Chúa phải điều chỉnh lại
cơ cấu để chức vụ được tấn tới. Khi Hội Thánh Giê-ru-sa-lem dành cho các Sứ đồ
sự hỗ trợ mà họ cần đến thì công việc được tiến triển và nhiều người trở lại
quy đạo (Cong 6:7). Trong thế giới đang thay
đổi nhanh chóng này, những người đứng trong các chức vụ Cơ Đốc phải rất linh
động để giải quyết các vấn đề và nắm bắt những cơ hội của mình. Kinh Thánh
không nhấn mạnh các vấn đề về mặt tổ chức nhưng chú trọng về loại hình tổ chức
bao gồm những người có phẩm chất để hoàn thành công việc. Những tổ chức thất
bại cứ giữ nguyên cơ cấu của họ và không chịu thay đổi. Những chức vụ mà Đức
Chúa Trời chúc phước luôn sẵn sàng để được thay đổi, miễn là các nguyên tắc của
Lời Đức Chúa Trời phải được vâng giữ.
8. HÃY LẮNG NGHE TIẾNG
CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (Xu
19:1-20:21)
Khi Đức Chúa Trời phán
với Môi-se ở bụi gai cháy, Ngài ban cho ông một lời hứa đầy khích lệ: “Khi
ngươi đem dân sự ra khỏi Ai Cập, các ngươi sẽ hầu việc Đức Chúa Trời trên núi
này” (9:12 NKJV). Lời hứa đó giờ đây đã được ứng nghiệm. Dân Do Thái
đang ở tại núi Si-nai, “núi của Đức Chúa Trời”, (c.1 4:27
18:5 24:13),
và sẽ cắm trại ở đó trong 7 tháng tiếp theo [70]. Đức Chúa Trời đã cứu chuộc dân sự Ngài, và giờ đây Ngài sẽ tuyên
bố họ thuộc về Ngài và sẽ bắt đầu một mối liên hệ giao ước với họ (19:1-24:17)
y như lời Ngài đã hứa (6:6-7).
Có ít nhất 8 lần [71] Môi-se đã xin phép Pha-ra-ôn để
dắt dân sự vào đồng vắng nơi họ có thể thờ phượng Đức Giê-hô-va, và mỗi lần như
thế Pha-ra-ôn đều từ chối. Nhưng giờ đây Y-sơ-ra-ên sẽ gặp Đức Chúa Trời của họ
tại núi thánh và thờ phượng Ngài. Nhiều việc kỳ diệu đã xảy ra tại Si-nai ngày
ấy, nhưng việc vĩ đại nhất đó là dân sự Đức Chúa Trời đã nghe tiếng của Đức
Chúa Trời phán trực tiếp với họ. “Có việc nào lớn như việc này đã xảy ra, hay
người ta có nghe việc gì giống như vậy chăng ? Có dân tộc nào khác nghe tiếng
Đức Chúa Trời phán ra từ lửa như các ngươi đã nghe mà còn sống chăng ?” (Phu 4:33 5:23-27).
Khi Đức Chúa Trời phán
với dân sự Ngài, thì bởi ân điển, Ngài đã kêu gọi họ đến một đời sống rất đặc
biệt.
1. Một đời sống trưởng
thành (Xu 19:1-4)
Nếu tự do không dẫn đến
sự trưởng thành, vậy chúng ta sẽ đi đến chỗ bị giam cầm trong một ách nô lệ còn
tồi tệ hơn điều chúng ta đã có trước đó, một ách nô lệ từ bên trong chớ không
phải từ bên ngoài. Bị một đốc công Ai Cập bắt làm nô lệ cũng đủ tồi tệ, nhưng
sẽ tồi tệ hơn khi một người tự nô lệ hóa mình và trở nên đốc công của chính mình.
Môi-se đã đi lên núi để
gặp Đức Chúa Trời, và ông đã đi xuống để chia sẻ với dân sự điều Đức Chúa Trời
đã dạy bảo ông [72] Hình ảnh của sự trưởng thành mà Đức Chúa Trời sử dụng là hình ảnh
của chim ưng, mang con nó trên đôi cánh và dạy cho chúng sự tự do tuyệt vời của
việc bay lượn. Môi-se đã sử dụng hình ảnh tương tự trong bài ca ông dạy cho dân
Y-sơ-ra-ên vào lúc cuối đời của ông. Hãy đọc kỹ (Phu 32:10-12).
Loài chim ưng đã dạy chúng ta điều gì về một đời sống trưởng thành? [73]
Vào giai đoạn nào đó
trong sự phát triển của chim ưng con, những chim ưng cha mẹ đã phá vỡ chiếc tổ ấm cúng và buộc những
chim ưng con phải bay lên. Những chú chim con có thể chẳng lo lắng khi rời bỏ
chiếc tổ an toàn, nhưng chúng phải học cách bay nếu chúng muốn thực hiện những
mục đích của mình trong cuộc đời. Những chim lớn ở gần các chim non, và nếu
chim non rơi xuống thì chim mẹ sẽ mang chúng trên đôi cánh mạnh mẽ của mình cho
đến khi chim non biết cách sử dụng đôi cánh của chúng, lướt trên những luồng
khí, và tận hưởng những khả năng mà Đức Chúa Trời đã ban cho chúng.
Chim ưng con là ví dụ
minh họa cho ba khía cạnh của sự tự do: sự tự do được ra khỏi (chúng được ra khỏi tổ, điều mà đối với chúng ta là sự cứu
chuộc); sự tự do ở bên trong (chúng ở nhà trên không, đối với chúng ta đó là sự trưởng thành),
và sự tự do được đến (chúng có thể được thực hiện những
mục đích trong đời sống, điều mà đối với chúng ta là chức vụ). Sự tự do thật có
nghĩa là chúng ta được giải cứu khỏi việc làm những điều xấu xa, chúng ta có
thể làm được những điều tốt đẹp, và chúng ta đang thực hiện ý muốn của Đức Chúa
Trời trên đất.
Theo cái nhìn của Đức Chúa Trời thì
Ai Cập là một lò lửa hoạn nạn đối với Y-sơ-ra-ên (Phu
4:20 IVua 8:51 Gie 11:4), nhưng dân Do Thái thường xem Ai Cập như
một “cái tổ” nơi mà ít nhất họ cũng có được lương thực, có chỗ nương thân và sự
an ninh (Xu 16:1-3 Dan
11:1-9). Đức Chúa Trời đã giải cứu họ khỏi Ai Cập vì Ngài có điều khác
tốt đẹp hơn để họ vui hưởng và thực hiện, nhưng điều
này có nghĩa là họ phải “thử nghiệm đôi cánh của mình” và phải trải qua những
cơn đau đớn trước khi họ thực sự trưởng thành.
Khi chúng ta trưởng
thành trong Chúa, cuộc sống là những cánh cửa mở tiếp nối nhau, đưa đến ngày
càng nhiều cơ hội cho sự tự do có trách nhiệm. Nhưng nếu chúng ta không để Đức
Chúa Trời hoàn thiện con người chúng ta thì cuộc sống sẽ trở thành một hàng rào
sắt giam hãm chúng ta. Một đứa bé sẽ được an toàn và dễ chịu trong tử cung của
người mẹ, nhưng đến thời điểm nào đó đứa bé đó phải được sinh ra để bước vào
một thế giới mới mẻ và khắc nghiệt của sự tăng trưởng và chín chắn. Từ lúc sinh
ra cho đến lúc chết, “những bước ngoặt” của cuộc sống đã đưa đến những sự tự do
mới; sự tự do này làm nảy sinh những đặc quyền và những trách nhiệm mới: có thể
tự bước đi thay vì được bồng ẵm; chạy xe đạp, rồi lái xe hơi, làm việc và kiếm
tiền; học cách để sử dụng tiền cách khôn ngoan; kết bạn; lập gia đình; nuôi dạy
con cái; nghỉ hưu. Ở mỗi “bước ngoặt”, chúng ta phải mất đi điều gì đó khi
chúng ta đạt được điều gì đó, và đây chính là cách thức hoạt động của quá trình
trưởng thành.
Mỗi khi dân Do Thái phàn
nàn về cách Đức Chúa Trời đã đối xử với họ và mong mỏi được trở lại Ai Cập là
họ đang hành động như con trẻ, vì vậy Đức Chúa Trời phải kỷ luật họ. Câu nói mà
tôi đã trích dẫn trước đó của George Morrison cần được trích dẫn lại lần nữa:
“Chỉ cần một đêm để đem Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập, nhưng phải mất 40 năm để đem
Ai Cập ra khỏi Y-sơ-ra-ên”. Chúa phải mất bao lâu để khiến chúng ta có thể bay,
hay phải chăng chúng ta là những chim non không muốn bị làm cho kinh sợ ?
2. Một đời sống có phẩm
cách (Xu 19:5-8)
Ở Ai Cập, dân Do Thái
chỉ là những con người kiệt quệ, là những nô lệ chỉ biết thực hiện theo mệnh
lệnh của chủ mình, nhưng Chúa đã hoạch định những điều tốt đẹp hơn cho họ. Họ
phải là một dân đặc biệt của Ngài và Ngài sẽ dùng họ để làm một nguồn phước cho
cả thế giới (Sa 12:3).
Dân thuộc riêng về Đức
Chúa Trời (Xu 19:5 NIV). Tất cả các dân tộc trên đất
đều thuộc về Chúa vì Ngài là Đấng tạo dựng và gìn giữ họ (9:29 Thi 24:1 50:12 Cong 14:15
17:24-28), nhưng Ngài đã chọn Y-sơ-ra-ên làm
dân tộc thuộc riêng về Ngài (Phu 7:6 14:2 26:18 Thi 135:4 Mat 3:17).
Sự chọn lựa này không phải vì Y-sơ-ra-ên xứng đáng hay bởi họ không có gì cả (Phu 26:5-11), nhưng chỉ bởi tình yêu và ân điển
lớn lao của Đức Chúa Trời (7:6-8).
Việc dân Do Thái là
tuyển dân của Đức Chúa Trời không có nghĩa là họ tốt lành hơn bất cứ dân tộc nào khác, chỉ vì họ rất khác biệt, được Chúa
biệt riêng ra cho công tác đặc biệt của Ngài. (Ro
9:4-5) nhắc nhở chúng ta về một số của báu thuộc linh Đức Chúa Trời đã
ban cho Y-sơ-ra-ên để họ có thể làm một nguồn phước cho cả thế giới, vì “sự cứu
rỗi thuộc về dân Do Thái” (Gi 4:22).
Y-sơ-ra-ên có những của báu và những đặc quyền này nên họ cũng có nhiều trách
nhiệm hơn để yêu mến và vâng lời Đức Chúa Trời, vì “ai đã được giao cho nhiều,
sẽ bị đòi lại nhiều hơn” (Lu 12:48 NIV) [74]
Nước của các thầy tế
lễ (Xu 19:6). Sau này A-rôn
và các con trai ông sẽ được phong chức để hầu việc với tư cách là những thầy tế
lễ của dân tộc (28:1-29:46), nhưng ý định của Đức Chúa Trời là cả dân tộc Y-sơ-ra-ên đều phải sống như những thầy tế lễ, bày tỏ lẽ thật của Ngài
và chia sẻ những ơn phước của Ngài cho thế gian. Y-sơ-ra-ên phải là “người giới
thiệu” về Đức Chúa Trời cho dân ngoại, cho họ thấy rằng chỉ có một Đức Chúa
Trời chân thật và hằng sống, và rằng hầu việc Ngài là con đường dẫn đến phước
hạnh tràn đầy (Es 42:6 49:6). Tiếc thay, lẽ ra Y-sơ-ra-ên phải gây ảnh
hưởng trên các dân tộc khác để họ thờ phượng Đức Giê-hô-va thì các dân tộc đó
lại tác động đến Y-sơ-ra-ên khiến thờ lạy các hình tượng của họ ! Dân Do Thái đã
tiếp nhận các tôn giáo cùng lối sống của dân ngoại và vì thế đã báng bổ chính
bản thân họ, xứ sở và đền thờ của họ đến nỗi Đức Chúa Trời phải trừng phạt họ
thật nghiêm khắc và đưa họ vào cảnh lưu đày tại Ba-by-lôn. Tuy nhiên, sẽ đến
ngày mà Y-sơ-ra-ên được nhìn thấy Đấng Mê-si-a của họ, được tẩy sạch những tội
lỗi (Xa 12:10-13:1), và trở nên một dân tộc
có những thầy tế lễ thánh để hầu việc Chúa (Es 61:6).
Một dân tộc thánh (Xu 19:6). “Các ngươi phải là dân thánh của ta” (22:31) nghĩa là một dân được biệt riêng cho Đức
Chúa Trời, một dân thật khác biệt. “Hãy nên thánh, vì ta là thánh” được tìm
thấy ít nhất 6 lần trong Lê-vi ký (Le 11:44-45
19:2 20:7,26 21:8) và được lặp lại 2 lần trong (IPhi 1:15-16). Trong mọi lãnh vực của đời sống,
những hoạt động của Y-sơ-ra-ên được điều khiển bởi sự kiện họ là dân thuộc về
Đức Chúa Trời, và điều đó bao gồm cả việc họ ăn gì, mặc gì, kết hôn với ai,
chôn người chết như thế nào, và đặc biệt là họ thờ phượng như thế nào.
Qua những tai vạ ở Ai Cập, Đức Chúa
Trời đã đặt ra một sự khác biệt giữa dân Do Thái và dân Ai Cập (Xu 11:7), vì dân Do Thái không được sống như những
dân tộc ngoại bang. Các thầy tế lễ Do Thái phải nêu gương và cũng dạy cho dân
sự “phân biệt điều thánh và điều chẳng thánh, sự khiết và sự chẳng khiết” (Le 10:10 11:47).
Các thầy tế lễ đã không thể làm được điều này (Exe
22:26 42:20 44:23
48:14-15) và tội lỗi của họ đã dẫn dân tộc
vào tình trạng ô uế và hủy diệt (Ca 4:13).
Khi Môi-se chia sẻ với dân sự tin
mừng này, họ nhiệt tâm hứa vâng theo mọi điều Đức Chúa Trời bảo họ làm (Xu 19:7-8). Có thể họ thành tâm, nhưng Đức Chúa
Trời biết rằng lòng họ có xu hướng làm ác (Phu
5:27-29). Sự kiện họ đã lập lại lời thề nguyện này hai lần nữa cũng
không làm thay đổi tấm lòng hay củng cố được ý chí của họ (Xu 24:3,7). Chẳng bao lâu Y-sơ-ra-ên sẽ khuất phục trước
sự thờ lạy hình tượng ngấm ngầm trong lòng họ và đã làm một con bò vàng rồi thờ
lạy nó (32:1-35).
Dân sự Đức Chúa Trời
ngày nay (IPhi 2:5,9). Phi-e-rơ
đã mượn hình ảnh (Xu 19:6) và gọi Hội Thánh
ngày nay là “chức tế lễ thánh … là dân thuộc riêng về Ngài, hầu cho anh em có
thể rao ra những sự ngợi khen về Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm đến nơi
sáng láng lạ lùng của Ngài” (IPhi 2:5,9 NKJV). Giống
như dân Y-sơ-ra-ên ngày xưa, dân sự Đức Chúa Trời
ngày nay phải hướng mọi người về Chúa và bày tỏ ra sự kỳ diệu của Ngài qua lời
nói và việc làm của mình. Chúng ta phải là “những quảng cáo sống động” về ân
điển và quyền năng của Đức Chúa Trời. Phải không thưa các bạn ?
3. Một đời sống thánh
khiết (Xu 19:9-25)
Môi-se trở lại với Chúa
trên núi và thuật lại lời hứa của dân sự sẽ vâng theo những điều răn của Ngài.
Việc Đức Chúa Trời trực tiếp phán với Môi-sẽ lẽ ra phải cho dân sự lòng tin nơi
người lãnh đạo của họ, nhưng các sự kiện xảy ra sau đó lại khác hẳn. Quả là một
đặc quyền cho Y-sơ-ra-ên để có một người lãnh đạo như Môi-se, và thật là bi
kịch khi họ đã nhiều lần làm cho ông phải khổ sở !
Chương này chú trọng đến
sự thánh khiết của dân tộc Y-sơ-ra-ên với tư cách là dân thánh của Đức Chúa
Trời, và có ba hình ảnh nổi bật ở đây: việc thay đổi quần áo của dân sự, khoảng
cách được thiết lập giữa dân sự với Đức Chúa Trời, và cơn bão trên núi Si-nai.
Việc thay quần áo và
tắm rửa (19:10-11,14-15). Ngày nay
chúng ta đã quen với việc có sẵn xà bông và nước, cùng những bộ quần áo khác
treo trong tủ, nhưng dân sự trong thời Kinh Thánh không có được những thứ xa xỉ
đó. Họ không thể tắm mỗi ngày, và chỉ người giàu mới có nhiều quần áo để thay
đổi. Đó là lý do mà việc tắm rửa và thay quần áo thường đánh dấu một sự khởi
đầu mới, chẳng hạn như khi Đức Chúa Trời phục hồi lại cho A-đam và Ê-va (Sa 3:21) hay khi Gia-cốp và gia đình ông trở về
Bê-tên (35:2). Những ví dụ khác đó là khi
Giô-sép được ra khỏi ngục (41:14), những
người phung được chữa lành và trở lại với xã hội (Le
14:8-9), Đa-vít trở lại với Đức Chúa Trời (IISa
12:20), và vua Giê-hô-gia-kin được những người bắt giữ bày tỏ lòng
thương xót (Gie 52:31-34). Việc tắm rửa và
thay quần áo là một vấn đề trong Cựu Ước tương đương với (IGi 1:9) và (IICo 7:1)
trong Tân Ước [75]
Khoảng cách giữa Đức
Chúa Trời và dân sự (Xu 19:12-13,20-25). Việc phải
tránh xa núi Si-nai là một vấn đề có liên quan đến sự sống còn của cả dân sự vì
sự hiện diện của Đức Chúa Trời đã thánh hóa ngọn núi. Vì vậy Môi-se đã dựng lên
những vật cản để giữ cho dân sự không được lại gần. Ông cũng đặt những lính
canh có quyền giết bất cứ người nào vượt qua rào cản từ xa, và không ai được
đụng đến xác chết. Khi tiếng kèn vang lên, Môi-se tiến lên núi để gặp Đức Chúa
Trời, nhưng ngay cả vào thay điểm đó, Đức Chúa Trời đã sai ông trở về để cảnh
cáo dân sự đừng đến quá gần núi Si-nai.
Một cách nghiêm khắc, Đức Chúa Trời
đã dạy cho dân sự biết khoảng cách giữa một Đức Chúa Trời thánh khiết và những
người nam và người nữ tội lỗi, cũng như hiểm họa của việc xông lên núi một cách
đường đột khi đang có sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Sau này Na-đáp và A-bi-hu
đã quên nguyên tắc này, và Đức Chúa Trời đã giết họ (Le
10:1-20). Sự thờ phượng trong thời Cựu Ước
nhấn mạnh đến sự phạm tội của con người và “sự khác biệt” của Đức Chúa Trời về:
hàng rào bao quanh đền tạm; bức màn trước nơi chí thánh; sự kiện chỉ những thầy
tế lễ mới có thể hầu việc trong đền tạm, chỉ thầy tế lễ cả mới có thể vào nơi
chí thánh, và chỉ có thể được vào một lần trong năm. Sự nhấn mạnh luôn là “Hãy
giữ khoảng cách của các ngươi !”
Nhưng Tân Ước nhấn mạnh việc đến gần
Đức Chúa Trời, vì Con Đức Chúa Trời đã trở nên xác thịt và đến ở trên đất (Gi 1:14), và danh Ngài là “Em-ma-nu-ên – Đức Chúa
Trời ở cùng chúng ta” (Mat 1:23). Bởi sự
chết và sống lại của Ngài, Chúa Giê-xu đã mở một con đường mới và sống động vào
trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời (He 10:1-25),
và câu tiêu đề trong Tân Ước ghi lại rằng: “Chúng ta hãy đến gần !” Điều này
không có nghĩa là chúng ta trở nên “thân mật” với Đức Chúa Trời hơn và hành
động giống như chúng ta ngang hàng với Ngài, nhưng Ngài là Cha của chúng ta và
Ngài muốn đón nhận tình yêu của chúng ta dành cho Ngài. Xin hãy xem (He 12:18-29).
Sấm chớp (Xu 19:16-19 20:18-20). Trong
Kinh Thánh, sấm chớp thường là biểu tượng về sự hiện diện kinh khiếp và đầy
quyền năng của Đức Chúa Trời (Thi 18:1-15 29:1-11 Ha 3:1-16).
Mây và sự tối tăm, sấm và ánh chớp, cơn động đất và lửa, tất cả đều bày tỏ sự
vĩ đại của Đức Chúa Trời (Phu 5:22-23,27) và tạo nên
một sự kính sợ thánh khiết trong lòng dân sự. Cả Môi-se cũng run rẩy sợ hãi và
ông đã thừa nhận điều đó ! (He 12:21 Phu 9:19). Đức Chúa Trời sẽ dạy cho dân sự Luật
Pháp của Ngài, và “sự kính sợ Đức Giê-hô-va là khởi đầu sự tri thức” (Ch 1:7). Dân Do Thái cũng đã nhìn thấy những tai
vạ ở Ai Cập, và sự bày tỏ mạnh mẽ về quyền năng lần này của Đức Chúa Trời lẽ ra
cũng đã sửa soạn tấm lòng của họ để vâng lời Ngài (Thi
105:26-45).
Sự kết hợp của việc tắm
rửa và thay quần áo, việc chứng kiến cơn
sấm chớp, và việc họ phải tránh xa núi Si-nai, không
thể không gây ấn tượng cho dân sự về tội lỗi của chính họ và sự thánh khiết uy
nghi của Đức Chúa Trời. Họ được kêu gọi làm một dân thánh, không sống giống như
những dân tộc quanh họ. Chỉ khi họ vâng lời Đức Chúa Trời, họ mới có thể thật
sự hưởng được những đặc ân của việc làm một nước của các thầy tế lễ, là dân
thuộc riêng về Đức Chúa Trời và là một dân thánh của Ngài.
4. Một đời sống có
trách nhiệm (Xu 20:1-17)
[76] Đặc quyền về sự tự do dẫn đến trách nhiệm phải sử dụng sự tự do đó
một cách khôn ngoan vì vinh hiển của Đức Chúa Trời và vì ích lợi của những
người khác. Tuy nhiên, Mười Điều Răn không chỉ là những luật lệ điều phối đời
sống của dân tộc Y-sơ-ra-ên. Chúng còn là một phần trong giao ước mà Đức Chúa Trời đã lập với Y-sơ-ra-ên khi chính Ngài nhận họ
làm một dân thuộc riêng về Ngài (6:1-8 19:5-8). Trong Giao Ước lập cùng Áp-ra-ham Đức
Chúa Trời đã ban cho dân Do Thái quyền sở hữu vùng Đất Hứa (Sa 12:3 13:14-18),
nhưng việc Y-sơ-ra-ên được sở hữu và được hưởng vùng đất đó tuỳ thuộc vào sự vâng lời của họ đối với giao ước lập cùng Môi-se.
Bi kịch ở đây là dân tộc đã bất tuân Luật Pháp, làm ô uế xứ, và làm buồn lòng
Chúa, vì vậy họ phải bị sửa phạt.
Luật Pháp chưa bao giờ
được ban ra như là một phương cách của sự cứu rỗi dành cho
dân Do Thái hay dân ngoại, vì “không xác thịt nào bởi việc làm của luật pháp mà
được xưng công bình” (Ga 2:16). Sự cứu rỗi
không phải là một phần thưởng cho việc làm thiện nhưng là sự ban cho của Đức
Chúa Trời bởi đức tin nơi Đức Chúa Giê-xu Christ (Ro
4:5 Eph 2:8-9). Luật Pháp bày tỏ sự
công bình của Đức Chúa Trời và đòi hỏi sự công bình, nhưng Luật Pháp không thể
ban sự công bình (Ga 2:21), chỉ Chúa Giê-xu
Christ mới có thể làm điều đó (IICo 5:21).
Luật Pháp là một chiếc gương cho thấy bạn bị dơ bẩn ở đâu, nhưng bạn không thể
rửa mặt mình trong gương (Gia 1:22-25). Chỉ
huyết Chúa Giê-xu mới có thể tẩy sạch chúng ta khỏi tội lỗi (IGi 1:7,9 He 10:22).
Đức Chúa Trời ban Thánh Linh Ngài
cho chúng ta không phải vì cớ chúng ta vâng phục Luật Pháp (Ga 3:2), nhưng vì chúng ta tin Đấng Christ (4:1-7), và Ngài cũng không ban cơ nghiệp cho chúng
ta qua Luật Pháp (3:18). Điều duy nhất một
tội nhân hư mất cần đến là sự sống (Eph 2:1-3),
nhưng Luật Pháp không thể ban sự sống (Ga 3:21).
Vậy mục đích của Luật pháp là gì ? Đó là cách Đức
Chúa Trời chỉ cho chúng ta thấy tội lỗi của chúng ta và cởi bỏ sự công bình
riêng của chúng ta để chúng ta kêu cầu sự thương xót và ân điển của Đức Chúa
Trời [77] Đức Chúa Trời ban Thánh Linh Ngài cho tất cả những ai tin
nơi Con Ngài, và Đức Thánh Linh giúp chúng ta có thể vâng phục ý muốn Đức Chúa
Trời và bởi đó làm trọn vẹn sự công bình của Luật Pháp (Ro 8:1-3) [78]
Một trong những nhiệm vụ
chính của Luật Pháp là chuẩn bị cho sự Giáng sinh của Đấng Christ (Ga 4:1-7). Dân tộc
Y-sơ-ra-ên giống như một đứa trẻ non nớt cần đến một người “bảo hộ” để chăm
sóc, chỉ dạy và bảo hộ cho nó, và đây là cách mà người nô lệ trong thời của
Phao-lô phải chăm sóc cho con cái của người chủ. Nhưng khi đứa trẻ trưởng
thành, người bảo hộ này không còn cần thiết nữa. Hệ thống lễ nghi Do Thái được
trình bày trong sách Xuất Ê Díp Tô ký và Lê-vi ký đã được Đấng Christ thực
hiện, nhưng nội dung đạo đức của Luật Pháp Đức Chúa Trời vẫn còn tồn tại, và 9
trong số 10 Điều Răn đã được nhắc đến trong các thư tín thời Tân Ước để Hội
Thánh tôn trọng và làm theo. Điều răn về ngày Sa-bát không được lặp lại, và sau
này chúng ta sẽ bàn đến nhiều hơn về vấn đề đó.
Mặc dù Mười Điều Răn đề cập đến
những trách nhiệm của chúng ta đối với Đức Chúa Trời nhưng bốn điều răn đầu
tiên đặc biệt hướng về Đức Chúa Trời và sáu điều răn cuối nói đến con người.
Cách chúng ta liên hệ với những người khác tùy thuộc vào cách mà chúng ta tương
giao với Đức Chúa Trời, vì nếu chúng ta yêu mến Đức Chúa Trời và vâng giữ lời
Ngài thì chúng ta cũng yêu mến những người lân cận của chúng ta và phục vụ họ (Mat 22:34-40 Ro
13:1-14).
Nhận biết một Đức Chúa
Trời chân thật (Xu 20:1-3). Nhóm từ
“Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi” được lặp lại 5 lần trong phân đoạn này
(c.2,5,7,10,12) để nhắc nhở dân sự về thẩm quyền phía sau những điều răn này.
Môi-se không phải đang thuật lại “mười ý kiến” ông đã nghe từ một người cố vấn
thân cận, nhưng là Mười Điều Răn do Đức Chúa Trời toàn năng phán ra. Dân Do
Thái đang sống trong một thế giới mù lòa và giữa những dân tộc mê tín thờ lạy
nhiều thần khác nhau, là điều mà Y-sơ-ra-ên vẫn thường thấy hàng bao thế kỷ tại
Ai Cập [79]. Y-sơ-ra-ên phải làm chứng về Đức Chúa Trời chân thật và
hằng sống (Thi 115:10-18) và mời gọi
những người lân cận của họ đặt niềm tin nơi Ngài.
Nhóm từ “trước mặt Ta” có thể có
nghĩa là “trong sự đối lập với ta”. Đối với dân Do Thái, việc thờ lạy thần khác
có nghĩa là tuyên chiến cùng Đức Giê-hô-va và phải gánh lấy cơn thạnh nộ của
Ngài. Mỗi buổi sáng, một người Do Thái trung tín sẽ rao lên rằng:“Hỡi
Y-sơ-ra-ên, hãy nghe: Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là Giê-hô-va có một
không hai” (Phu 6:4).
Thờ phượng chỉ một
mình Chúa (Xu 20:4-6) [80]. Một hình tượng sẽ là một
sự thay thế cho Đức Chúa Trời và do đó không phải là một thần, vì chỉ có một
Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống. Thuyết đa nguyên trong tôn giáo thời nay
(“bạn thờ thần của bạn và tôi sẽ thờ thần của tôi, vì cả hai đều đúng”) vừa
không đúng với Kinh Thánh và vừa mang tính phi lý, vì làm sao có hơn được một
thần ? Nếu Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời thì Ngài là Đấng vô hạn, đời đời, tối
cao và không thể chia sẻ ngôi vị với một thần nào khác cũng vô hạn, đời đời và
tối cao.
“Ta là Đức Giê-hô-va, ấy
là danh Ta. Ta chẳng nhường sự vinh hiển Ta cho một đấng nào khác, cũng không nhường sự tôn
trọng Ta cho những tượng chạm !” (Es 42:8).
Sự thờ hình tượng của các dân tộc ngoại bang không những phi lý và không đúng
với Kinh Thánh, mà còn hết sức đồi bại (về những kỹ nữ trong đền thờ và những
nghi lễ liên quan đến khả năng sinh sản), vô nhân đạo (giết con cái), và thuộc
về ma quỉ (ICo 10:10-22). Chẳng có gì đáng
ngạc nhiên khi Chúa ra lệnh Y-sơ-ra-ên phải phá hủy những đền thơ, bàn thờ và
hình tượng của dân ngoại bang khi họ vào chiếm xứ Ca-na-an (Phu 7:1-11).
“Hỡi các con cái bé mọn, hãy giữ
mình khỏi những hình tượng” (IGi 5:21) là
lời khuyên sau cùng của sứ đồ Giăng đối với Cơ Đốc Nhân trong thời của ông, và
lời khuyên này vẫn cần được lưu ý trong thời đại ngày nay. Nếu một hình tượng
là điều gì đó chiếm vị trí của Đức Chúa Trời, là điều
gì đó mà chúng ta dành sức lực và thời gian cho nó, hoặc dành những của lễ cho
nó vì chúng ta yêu mến và hầu việc cho nó, do vậy lời cảnh cáo của Sứ đồ Giăng
vẫn cần thiết vào ngày nay. Những hình tượng đã cám dỗ dân sự Đức Chúa Trời
ngày nay là những thứ như: tiền bạc, danh vọng, sự thành công, tài sản vật chất
(xe cộ, nhà cửa, thuyền bè, những thứ có thể tích góp được), tri thức, hoặc
thậm chí đó là những người khác.
Đức Chúa Trời là một
“Đức Chúa Trời ghen tương” không phải trong ý nghĩa Ngài ghen về các thần khác,
vì Ngài biết rằng tất cả các “thần” khác đều là những điều tưởng tượng và không
thật sự tồn tại. Từ “ghen” bày tỏ tình yêu của Ngài đối với dân sự Ngài vì Ngài
muốn điều tốt đẹp nhất cho họ. Giống như cha mẹ ghen về con cái của họ và vợ
chồng ghen về nhau,
Đức Chúa Trời cũng ghen về những con cái yêu dấu của Ngài và sẽ không tha thứ
cho sự bất trung (Xa 1:14 8:2). Trong Kinh Thánh, sự thờ hình tượng đồng
nghĩa với sự mãi dâm và sự tà dâm (Os 1:1-3:5
Gie 2:1-3:25 Exe
16:1-63 23:1-49 Gia 4:4-5). Đức Chúa trời muốn có và đáng nhận
được tình yêu duy nhất của dân sự dành cho Ngài (Xu
34:14 Phu 4:24 5:9 6:15).
Đức Chúa Trời cũng rất nghiêm túc về
việc chỉ chấp nhận sự thờ phượng và sự yêu mến duy Ngài đến nỗi Ngài sẽ trừng
phạt những ai khước từ vâng theo lời Ngài. Đức Chúa Trời không trừng phạt con
cháu vì cớ tội lỗi của ai đó (24:16 Exe 18:4), nhưng những hậu quả đáng buồn do tội
lỗi của tổ tiên có thể truyền từ đời này sang đời khác và con cháu vô tội phải gánh chịu hậu quả vì những gì cha mẹ hay ông bà họ
đã gây nên. Trong thời Kinh Thánh, không có gì khác thường khi bốn thế hệ chung
sống trong một gia đình đông đúc và vì thế rất dễ để gây tác động và làm ảnh
hưởng đến nhau.
Đồng thời, sự tin kính
của tổ tiên có thể đem lại phước hạnh cho những thế hệ sau. Đức tin của
Áp-ra-ham đã đem phước hạnh đến cho con cháu ông, và chức vụ của Đa-vít vẫn
giúp ích cho dân sự khi ông qua đời đã lâu. Ông cố tôi đã cầu nguyện để qua mỗi
thế hệ trong gia đình sẽ có một người rao giảng Phúc Âm, và Đức Chúa Trời đã
đáp lời cầu nguyện đó !
Tôn trọng danh Đức
Chúa Trời (Xu 20:7). Tên của
bạn thể hiện cho tính cách và thanh danh của bạn, cho bản chất của bạn và điều
bạn làm (Gi 17:6,26). Khi bạn nói rằng ai đó có một “tên xấu” thì
bạn không chỉ đang phê bình những gì được viết trên khai sinh của người đó. Bạn
đang cảnh giác tôi rằng người này không thể tin cậy được. Nếu Đức Chúa Trời là
Đấng vĩ đại nhất trong vũ trụ, vậy danh Ngài là danh vĩ đại nhất và phải được
tôn trọng. Lời cầu xin đầu tiên trong bài cầu nguyện của Chúa là “Danh Ngài
được tôn thánh” (Mat 6:9). Con người đã báng bổ danh Đức Chúa Trời qua việc phát ngôn
thô tục. Nhưng việc sử dụng danh Đức Chúa Trời để hứa nguyện hay thề nguyền, mà
sau đó không thực hiện lời cam kết là đã xem thường danh Ngài và báng bổ Đức
Chúa Trời (Le 19:12).
Tôn trọng ngày Sa-bát (Xu 20:8-11). Từ
“sa-bát” nghĩa là “nghỉ ngơi”. Việc giữ lễ Sa-bát đã là một phần trong đời sống
của Y-sơ-ra-ên (16:23,25), nhưng giờ đây nó trở
thành một bộ phận trong Luật Pháp của Y-sơ-ra-ên và trong mối liên hệ giao ước
của họ với Đức Chúa Trời. Mặc dù ngày Sa-bát có nguồn gốc từ buổi sáng thế (Sa 2:1-3), nó cũng là một dấu hiệu đặc biệt giữa
Y-sơ-ra-ên và Chúa (Xu 31:12-17 Ne 9:13-15 Exe 20:12,20). Và không có
chứng cớ nào trong Kinh Thánh cho rằng Đức Chúa Trời đã ra lệnh bất cứ dân tộc
nào cũng phải giữ lễ vào ngày thứ bảy (Thi
147:19-20). Sau này, Môi-se đã kết hợp ngày Sa-bát với sự giải cứu
Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập (Phu 5:12-15), đây
là một sự mường tượng trước về sự nghỉ ngơi họ sẽ được hưởng trong cơ nghiệp đã
hứa ban cho họ (3:20 12:10 25:19).
Khi dân Do Thái giữ ngày Sa-bát, đó
không chỉ là một dấu hiệu về sự tận tuỵ của họ đối với Chúa, nhưng đó còn là
một lời chứng cho những người lân cận ngoại đạo mà đối với họ ngày thứ bảy chỉ
như một ngày khác. Qua việc nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy, dân Do Thái đang bồi bổ
lại sức lực cho chính họ cũng như cho tôi tớ và gia súc của họ, họ cũng nhận
biết được uy quyền của Đức Giê-hô-va trên thời gian và trên tạo vật (Xu 23:12). Từ những ngày đầu tiên, dân sự Đức Chúa
Trời đã nhóm lại vào ngày đầu tuần để tôn vinh sự phục sinh của Chúa Giê-xu
Christ (Gi 20:19,26 Cong 20:7 ICo 16:2), nhưng nguyên tắc về một ngày trong bảy
ngày vẫn không thay đổi (Co 2:16-17 Ga 4:1-11 Ro 14:1-15:7).
Đáng tiếc rằng dân Y-sơ-ra-ên đã
không tôn trọng ngày Sa-bát như Đức Chúa Trời đã chỉ dạy và phải bị kỷ luật (IISu 36:14-21 Exe
20:1-44 Es 58:13-14 Gie 17:19-27). Cũng thật đáng tiếc rằng các thầy
thông giáo và người Pha-ri-si đã thêm 39 hành động bị cấm vào điều răn này đến
nỗi việc giữ ngày Sa-bát trở thành một gánh nặng thay vì một phước hạnh (Mac 2:23-3:5).
Tôn kính cha mẹ (Xu 20:12). Trong một thế giới đang tôn thờ
và làm theo những người trẻ tuổi, sử dụng đến phương pháp “tự sát có sự trợ
giúp” (chết không đau đớn) để loại bỏ những người già vô ích thì điều răn này
nghe như có một sự sai lệch nào đó về thời gian. Nhưng dân Do Thái được dạy dỗ
phải tôn kính người già cả và chăm sóc những người cao niên (21:15,17 Le 19:3,32 Phu 27:16 Ch 1:8
16:31 20:20
23:22 30:17),
đây là một gương tốt cho chúng ta noi theo ngày nay (Eph
6:1-3 ITi 5:1-12) [81]. Ai đó đã nói rằng những người già là nhóm người
duy nhất bị ruồng bỏ mà mọi người đều muốn gia nhập vì không ai muốn bị chết
sớm. Nhưng cách chúng ta đối xử với họ hôm nay sẽ quyết định cách chúng ta được
đối xử trong tương lai vì chúng ta gieo giống chi thì sẽ gặt giống ấy.
Quí trọng nhân mạng (Xu 20:13). Sự sống là một món quà từ Đức
Chúa Trời, và chỉ có Ngài mới có quyền để cất đi sự sống. Vì chúng ta được dựng
nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời nên sát nhân tức là chống lại Đức Chúa Trời (Sa 1:26-27 9:6).
Bảo vệ sự sống là trách nhiệm của mọi người trong xã hội, không chỉ là trách
nhiệm của các quan chức (Ro 13:1-14). Vấn đề
ở đây là tội sát nhân có mưu tính trước, là điều mà Chúa Giê-xu đã nói rằng nó
có thể phát xuất trong cơn nóng giận (Mat 5:21-26).
Dân Do Thái được phép tự bảo vệ mình (Xu 22:2)
và Luật Pháp có sự nhân nhượng về cái chết không chủ ý, nhưng tội sát nhân là
một tử tội (Xu 21:12-14).
Trân trọng hôn nhân (Xu 20:14). Tà dâm là một tội nghiêm trọng
đến nỗi nó bị ghép vào tội tử hình (Le 20:10
Phu 22:22). Gia đình là đơn vị cơ bản của
quốc gia, và sự chung thủy đối với giao ước hôn nhân là nền tảng cho gia đình.
Tà dâm là trộm cướp (ITe 4:1-8), nhưng cuối
cùng, những ai phạm tội tà dâm đều cướp đi chính bản thân mình (Ch 6:20-35). Mặc dù Chúa có thể tha thứ cho tội tà
dâm (ICo 6:9-11 Gi
8:1-11) như Đa-vít, nhưng người nam và người nữ phạm tội tà dâm phải
sống với những hậu quả đau buồn của tội đã được tha (IISa
12:13-14 Thi 51:1-16). Tội tà dâm
khởi đầu bằng sự ham muốn trong lòng phát xuất từ cái nhìn thứ hai (Mat 5:27-30).
Tôn trọng tài sản
riêng (Xu 20:15). Đức Chúa Trời đã ban cho
Y-sơ-ra-ên một bộ luật tỉ mỉ để chi phối cách họ sử dụng đất vì đất thuộc về
Ngài và họ chỉ là những người quản gia (Le 25:2,23,38). Đây là cơ sở cho ngành sinh thái học ôn hòa, (Eph 4:28) cho biết rằng chỉ có ba cách để có được
của cải, đó là: làm việc, được ban cho, hoặc trộm cắp nó, và việc trộm cắp là sai trật.
Nói sự thật (Xu 20:16). Nói sự thật và tôn trọng lời hứa là
chất kết dính làm vững các mối quan hệ trong xã hội. Việc nói dối trong một
phiên tòa chính là phá hoại Luật Pháp, điều này giải thích lý do Môi-se đòi hỏi
những người làm chứng phải là những người sẽ hành hình trong các án xử tử (Phu 17:6-13). Nói dối là một việc, nhưng giết
người để bảo vệ sự giả dối của bạn hoàn toàn là một việc khác. Điều răn này
cũng nghiêm cấm việc vu cáo cho người khác (Xu 23:1
Ch 10:18 12:17
19:9 24:28
Tit 3:1-2 Gia
4:11 IPhi 2:1).
Kiềm chế những tham
muốn (Xu 20:17). Điều răn thứ
nhất và thứ 10 đề cập đến những điều diễn ra trong lòng, còn 8 điều răn còn lại
tập trung vào những hành động bên ngoài phát xuất từ trong lòng. Những người
tham lam sẽ vi phạm tất cả các điều răn của Đức Chúa Trời để thỏa mãn cho những
tham muốn của họ, vì tâm điểm của tội lỗi chính là tội lỗi ở trong lòng (Mat 15:19). Thèm muốn tức là nuôi dưỡng cho các
tham muốn trong lòng về bất cứ điều gì Đức Chúa Trời cho là tội lỗi. Chính điều
răn này đã “giết chết” Sau-lơ ở thành Tạt-sơ và khiến người Pha-ri-si thành đạt
này thừa nhận rằng ông là một tội nhân (Ro 7:1-14
Lu 12:15 Eph 5:3
Co 3:5).
Mười Điều Răn đã kết thúc với sự
nhấn mạnh đến việc làm một người láng giềng tốt, vì điều răn quan trọng thứ nhì
đó là yêu kẻ lân cận của bạn như chính bạn (Mat
22:34-40 Le 19:18). Nếu chúng ta yêu
những người lân cận của mình, chúng ta sẽ không tham những gì họ có, không ăn
cắp của họ, nói dối về họ, hoặc làm bất cứ điều gì khác Đức Chúa Trời răn cấm
trong Lời Ngài. Đây là lý do vì sao sự yêu thương là sự làm trọn Luật Pháp (Ro 13:8-10). Nhưng chỉ Đức Chúa Trời mới có thể
thay đổi tấm lòng tội lỗi của chúng ta (He 10:14-18)
và ban cho chúng ta tình yêu để có thể vâng lời Ngài
và quan tâm đến những người khác (Ga 5:22-26
Ro 5:1-5) [82]
9. QUYỂN SÁCH GIAO ƯỚC
(Xu 20:22-24:8)
Phân đoạn này bao gồm
những luật lệ căn bản có liên hệ đặc biệt đến sự bảo vệ nhân mạng và tài sản.
Bằng cách tiếp nhận “Quyển sách giao ước” (24:3-4), dân sự đã bước
vào một mối liên hệ đặc biệt với Đức Giê-hô-va và ràng buộc chính họ trong sự
vâng giữ Lời Ngài. Các luật lệ này không mang tính độc đoán; chúng dựa trên đặc
tính của Đức Chúa Trời và những nguyên tắc đạo đức không thay đổi đã được trình
bày trong Mười Điều Răn.
Luật pháp không có quyền
năng làm thay đổi bản chất con người; nó chỉ có thể bảo vệ sự sống và tài sản
của con người qua việc điều chỉnh hành vi của họ. Một trong những giai đoạn
nguy hiểm và thảm khốc nhất trong lịch sử Do Thái là vào thời của các quan xét
khi mà “mọi người làm điều đúng theo mắt mình” (Cac 17:6 18:1 19:1 21:25).
Việc thi hành các luật lệ tốt lành không bảo đảm cho
một xã hội toàn hảo, nhưng nó thật sự thúc đẩy trật tự trong xã hội và ngăn
ngừa tình trạng vô chính phủ.
1. Đức Chúa Trời là vô
hình: Hãy nghe Lời Ngài (Xu 20:22-26)
Bốn mươi năm sau đó khi
Môi-se ôn lại Luật Pháp với thế hệ mới, ông nhắc nhở họ rằng tổ tiên họ đã nhìn
thấy những sự bày tỏ về vinh hiển và quyền năng của Đức Chúa Trời tại núi
Si-nai và đã được nghe Lời Ngài, nhưng họ “không thấy có một hình trạng nào” Phu 4:15 NIV). Đức
Chúa Trời đã không tỏ mình ra trong bất cứ hình dạng nào để dân Do Thái không
thể biến Đức Chúa Trời hằng sống thành một hình tượng chết. “Vậy các ngươi sẽ
ví Đức Chúa Trời với ai ? Hay các ngươi sẽ so sánh Ngài với ảnh tượng nào ?” (Es 40:18 NKJV).
Dân Do Thái được gọi là một dân có
Lời Chúa. Sự thành công của dân tộc tùy thuộc vào việc nghe Lời Đức Chúa Trời,
tin cậy và vâng lời. Các dân tộc lân cận Y-sơ-ra-ên đã lập ra những tôn giáo
của họ dựa trên những điều họ có thể thấy được, là những
hình tượng do tay người làm ra, nhưng Y-sơ-ra-ên phải thờ phượng một Đức Chúa
Trời không thấy được [83]. và không có liên hệ đến những hình tượng. Nhà triết gia
Cơ Đốc Jacques Ellul đã viết: “Những thần giả dối luôn là những thần mà một
người có thể thấy (và chạm vào) được và chính đặc điểm này đã phơi bày ra sự
giả dối và sự không tồn tại của họ với tư cách là những vị thần.” [84]
Học giả Do Thái Abraham
Joshua Heschel đã tóm tắt thần học của Y-sơ-ra-ên về Kinh Thánh khi ông viết
rằng: “Để tin, chúng ta cần có Đức Chúa Trời, một linh hồn, và Lời Ngài” [85]
Đức Chúa Trời đã cảnh
cáo Y-sơ-ra-ên đừng làm ra những hình tượng
và đừng xây nên những bàn thờ công phu như những bàn thờ của các dân ngoại xung
quanh họ (IIVua 16:10-20). Một bàn thờ đơn
giản bằng đất hoặc đá không đẽo vẫn được Chúa chấp nhận. Nếu đá được đục đẽo,
chúng sẽ trở nên giống như những hình tượng, và công trình do con người tạo ra
sẽ trở nên quan trọng hơn sự thờ phượng Đức Chúa Trời. Đá tự nhiên do Chúa chu
cấp là tất cả những gì Ngài sẽ tiếp nhận cho chúng ta.
Sự lõa lồ và sự giao hợp với kỹ nữ
đền thờ là một hình thức trong nhiều nghi lễ ngoại giáo, và những điều này rõ
ràng bị Chúa nghiêm cấm. Đức Chúa Trời đã ra lệnh các thầy tế lễ Do Thái mặc
vào chiếc áo đặc biệt để che phủ sự lõa lồ của họ (Xu
28:42-43 Le 6:10), và nếu họ không
vâng lời, họ sẽ có nguy cơ bị giết chết (Xu 28:35,43).
Mặc cho những lời hứa nhiệt tình của
họ, Y-sơ-ra-ên đã nhanh chóng bất tuân những điều răn này. Trong lúc Môi-se ở
với Đức Chúa Trời trên núi, dân sự đã làm một bò con vàng và dự phần vào cuộc
truy hoan mang tính thờ hình tượng đã dẫn đến cái chết của 3.000 người (32:1-6,25-29). Bất cứ điều gì
trong nghi thức tế lễ tôn giáo khuyến khích các vấn đề có liên quan đến thuộc
thể thay vì thuộc linh thì không thể đến từ Đức Chúa Trời hay sẽ được Đức Chúa
Trời chúc phước cho.
2. Đức Chúa Trời là
công chính: Hãy vâng theo những luật lệ của Ngài (Xu 20:20-26) (Xu 21:1-23:19)
Công lý là việc làm thực
tế thể hiện sự công bình của Đức Chúa Trời trong lịch sử
của nhân loại, vì “Chúa yêu chuộng sự công bình và chánh trực” (Thi 33:5 Es 30:18
61:8). Có thể có rất nhiều sự bất công trong
thế giới chúng ta ngày nay, nhưng cũng đến thời điểm khi Đức Chúa Trời trong sự
công bình Ngài sẽ đoán xét thế gian bởi Chúa Cứu Thế mà thế gian đã chối bỏ, và
sự xét đoán của Ngài là công chính (Cong 17:31).
Luật về tôi mọi (Xu 21:1-11 Le 25:39-43 Phu
15:12-18). Mặc dù dân Do Thái được phép có tôi mọi từ các
dân khác, thường là tù binh, nhưng họ không được phép bắt người trong dân tộc
của họ làm nô lệ. Hai chuỗi sự kiện được trình bày ở đây: một người đàn ông
tình nguyện làm tôi tớ (Xu
21:1-7), và một cô gái bị bán để làm một con đòi (c.8-11).
Nếu vì bần cùng, một
người Do Thái phải trở nên một tôi tớ bị ràng buộc bằng giao kèo, chủ người ấy
phải đối xử nhân đạo với anh ta và sẽ thả ra sau 6 năm phục vụ. Nếu vì cớ tình
cảm gia đình, người này muốn ở lại phục vụ cho chủ, và đã được các quan xét cho
phép, vậy người ấy sẽ được đánh dấu ở trái tai và cứ làm một đầy tớ suốt đời.
Tuy nhiên, người ấy không bao giờ bị đối xử như một tôi mọi.
Một đầy tớ gái sẽ không
được thả tự do sau 6 năm hầu việc. Nếu một người nghèo bán con gái mình làm con
đòi hay nàng hầu [86], vậy cha của cô gái này sẽ nhận được tiền bán
con, cô gái sẽ có một gia đình tươm tất hơn và chồng cô sẽ không phải tốn kém
cho của hồi môn đắc giá. Nếu sau khi trở thành vợ lẽ của người đàn ông mà nàng
không vừa lòng người, ai đó trong gia đình cha mẹ nàng có thể chuộc nàng và
nàng sẽ được tự do.
Nếu người đàn ông chọn
nàng cho con trai ông, và đến một lúc nào đó người con trai trở nên ghét nàng
rồi cưới một cô gái khác, vậy cha của người con trai phải bảo đảm cho nàng được
đối xử như một con gái đã lập gia đình. Điều này có nghĩa là bảo đảm cho nàng
có quần áo, thức ăn và mọi quyền lợi trong cuộc hôn nhân của nàng (ICo 7:1-6). Nếu
người cha không làm điều này, người con gái được tự
do trở về gia đình nàng và không bị xem là một tôi mọi nữa.
Những tội xử tử (Xu 21:12-17). Những luật lệ này là sự ứng dụng hợp
lý cho điều răn thứ sáu, “Ngươi chớ giết người” (20:13
Le 24:17). Chúng ta được dựng nên theo hình
ảnh Đức Chúa Trời, do đó việc giết hại một đồng loại nghĩa là công kích hình
ảnh của Đức Chúa Trời (Sa 9:6). Nếu một
người bị phát hiện đã phạm tội giết người dựa trên lời chứng của hơn hai nhân
chứng (Dan 35:30-31), thì kẻ sát nhân sẽ bị
xử tử.
Luật pháp phân biệt giữa tội giết
người có mưu tính trước và tội ngộ sát. Nếu bạn vô tình giết chết ai đó, bạn có
thể chạy trốn đến bàn thờ Đức Chúa Trời để được sự an toàn (IVua 2:29) cho đến khi các trưởng lão có thời gian
để xem xét vấn đề. Một khi dân Y-sơ-ra-ên vẫn còn ở trong xứ họ, họ đã dành ra
6 thành ẩn náu để kẻ giết người có thể chạy trốn và được bảo vệ cho đến khi vấn
đề được điều tra (Dan 35:1-34 Phu 19:1-21 Gios
20:1-9). Vào thời ấy, Y-sơ-ra-ên không có lực lượng cảnh sát; gia đình
của nạn nhân chắc chắn mong đợi công lý sẽ được thực hiện. Nhưng trong cơn nóng
giận, họ có thể mong muốn được trả thù hơn là trông vào công lý, vì vậy luật
này can thiệp vào nhằm bảo vệ bị cáo cho đến khi anh ta được chứng minh là có tội.
Con cái và cha mẹ (Xu 21:15-17). Sau khi liên hệ đến tội sát nhân nói
chung, luật này đề cập đến những trường hợp cụ thể. Trường hợp đầu tiên nói về
việc một người ngược đãi cha mẹ, đánh đập hoặc chửi rủa họ, vi phạm đến điều
răn thứ năm (c.15,17 Le 20:9 Phu 27:16). Có thể áp dụng “luật về đứa con bội
nghịch”(Phu 21:18-21) ở đây và đứa con này
rất cần đến sự kỷ luật. Những đứa con không kính trọng cha mẹ thường không có
sự tôn trọng đối với bất cứ quyền hạn nào khác và chỉ muốn làm theo ý riêng ích
kỷ của mình. Đặc điểm “không có tình cảm tự nhiên” (IITi
3:3) nói về một số người trong những ngày sau
rốt, nhưng trong thời của Môi-se cũng có những loại người đó.
Việc bắt cóc bị nghiêm
cấm (Xu
21:16 Phu 24:7). Việc ăn cắp tài sản
đã là sai trái (Xu 20:15), thì việc bắt cóc
những người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời và bán họ làm nô lệ là một tội ác còn nghiêm trọng hơn.
Những sự đả thương (21:18-32). Con người không nên tranh cãi đến độ phải xô xát nhau (Ch 15:1 25:15),
nhưng điều đó đã xảy ra, và khi nó xảy ra sẽ gây ra nhiều điều tác hại. Nếu nạn
nhân chết, kẻ gây hấn sẽ đền mạng, nhưng nếu nạn nhân
hồi phục và cuối cùng có thể bước đi được thì kẻ gây hấn được miễn những trách
nhiệm có liên quan. Tuy nhiên, người ấy phải bồi hoàn cho nạn nhân về khoản
thời gian bị mất việc và các chi phí thuốc men.
Tôi mọi (Xu 21:20-21). Nguyên tắc này giờ đây được
áp dụng cho một người chủ và tôi tớ của người ấy. Chúa không muốn tôi tớ bị xem như những món đồ, nhưng họ phải được đối xử
như những con người được dựng nên theo hình ảnh Đức Chúa Trời và đáng
được hưởng những quyền con người của họ. Nếu trong việc kỷ luật một tôi tớ (Ch 10:13 13:24),
người chủ đã quá tay và giết người tôi tớ ấy thì người chủ này phải bị phạt.
Chúng ta không được cho biết hình phạt này là gì. Điều này có thể do các quan
án quyết định (Xu 21:22) và tùy thuộc vào việc
người chủ có ý định giết người thật sự hay không. (Thật khó tin rằng một người chủ lại muốn hủy hoại tài sản riêng của mình và
để phải mất đi một nguồn lợi tức từ người này). Nếu sau một vài ngày người tôi
tớ bình phục trở lại, chủ người ấy sẽ không bị phạt, vì ông ta đã mất đi nguồn
lợi từ người đầy tớ trong khoản thời gian người này phục hồi sức khoẻ.
Làm bị thương một
người đàn bà có thai (Xu
21:22-23). Chúng ta không được biết người đàn bà này có phải là vợ của
một trong những người đánh nhau và chồng bà ta có thua trận hay không ? Các học
giả không đồng ý về cách dịch của c.22. Phải chăng câu ấy là: “và người phải
sanh non” (NIV), hay là: “và người bị sẩy thai”? (ghi chú của Kinh Thánh NIV,
NASB). Mệnh đề “nhưng không có sự tổn hại nghiêm trọng nào” (đối với mẹ hoặc
con) gợi ý rằng cách dịch thứ nhất hợp lý hơn, vì sẩy thai chắc chắn là một sự
kiện nghiêm trọng.
Cho dù không có sự tổn
hại nghiêm trọng nào xảy ra cho người mẹ hoặc đứa con, tòa xử án cũng phải phạt
người có lỗi về hành động gây hấn của người ấy đối với một ai đó không phải là
người tham gia vào cuộc đánh nhau. Nếu không nói đến ý định của người này thì
điều mà người ấy đã làm có thể gây nên cái chết của đứa con hay của người mẹ,
hoặc cả hai. Nhưng nếu có sự tổn hại nghiêm trọng, tức là người mẹ hoặc đứa con
bị thương tật hoặc bị chết thì tòa án sẽ xét xử theo luật ăn miếng trả miếng (c.23-25), nghĩa là “hình phạt phải tương ứng với tội ác” [87]
Nguyên tắc này đã bị một
số người chỉ trích gay gắt là “dã man”, nhưng sự việc có ý nghĩa trái ngược
hẳn. Trong một thời đại mà hệ thống Luật pháp đang được đẩy mạnh thì luật này
bảo đảm rằng hình phạt do các quan án định đoạt tương xứng với sự nghiêm trọng
và khắc nghiệt của tội ác, không hơn không kém. Nếu kẻ gây hấn có tội đã làm mù
mắt kẻ thù mình, thì mắt hắn phải bị làm cho mù. Không điều gì có thể công bằng
hơn. Nếu bạn bẻ gãy ngón tay kẻ thù mình và tòa xử bạn phải bị mù thì điều đó
sẽ không công bằng gì cả, vì án phạt phải thật thích đáng với tội ác. Nguyên
tắc này chỉ duy nhất một lần không được áp dụng đó là khi một người chủ gây
thương tích cho một tôi tớ, và sự đền bù cho người đầy tớ này là sự tự do của
chính người ấy (c.16-27).
Chúa Giê-xu cấm các môn
đồ Ngài trả thù những ai làm tổn thương họ (Mat 5:38-44 IPhi
2:19-21). Ngài đang đề cập đến sự trả thù cá nhân (“Ta sẽ trả thù ngươi
!”) và khuyến khích sự tha thứ cá nhân. Ngài không chỉ trích Môi-se, và cũng
không can thiệp vào hệ thống Luật pháp, vì Ngài đến để làm trọn Luật pháp chớ
không phải để hủy hoại nó (Mat 5:17-20). Là
những Cơ Đốc nhân chúng ta có đặc quyền khước từ “những quyền lợi hợp pháp” của
chúng ta vì vinh hiển của Đức Chúa Trời mà không cần đòi hỏi một sự đền bù nào
(ICo 6:1-8). Tuy nhiên, một quan án phải bảo
đảm rằng công lý được thực hiện và luật pháp phải được tôn trọng.
Bị đả thương bởi một
con vật (Xu 21:28-32). Luật pháp cho biết rõ rằng người chủ
có trách nhiệm bảo đảm cho con vật của mình không đả thương người khác. Một con
bò nguy hiểm trước đây đã tấn công con người thì phải bị nhốt lại. Nếu nó không
bị nhốt lại và làm chết ai đó thì người chủ phải chịu trách nhiệm, và cả chủ
lẫn con vật đều phải bị xử tử. Người ta không được làm thịt con vật để ăn vì nó
đã bị ô uế bởi hành động kinh khiếp của nó. Tuy nhiên, tòa án có thể phạt người
chủ và cho phép người này trả một khoản tiền chuộc và được thả ra (Dan 35:31). Hãy chú ý rằng luật pháp không phân
biệt giữa cái chết của một người nam hay người nữ (Xu
21:29,31).
Tuy nhiên, có một sự khác biệt khi sự việc xảy ra với những người nô lệ vì
người sở hữu con vật có thể trả cho người chủ nô lệ 30 miếng bạc để đền bù cho
sự mất mát này (Mat 26:14-16).
Thiệt hại về tài sản (Xu 21:33-22:15). Trong vùng Đất Hứa, Y-sơ-ra-ên sẽ là một xã hội nông nghiệp, và
súc vật có vai trò rất quan trọng đối với một người nông dân vì nếu không có
chúng, anh ta sẽ không thể cày xới đất đai được.
Những con vật bị
thương hoặc bị giết chết (Xu 21:33-34). Nếu sự bất cẩn và lơ đễnh của một người (mở miệng hầm hoặc
đào hầm) khiến một con vật bị thương hoặc chết, thì người ấy phải bồi thường
cho người chủ của con vật, nhưng người chủ hầm có thể giữ lại con vật đó cho
mình. Nếu một con vật giết hại con vật khác, hai người chủ sẽ chia nhau xác con
vật đã chết và tiền có được từ việc bán con vật còn sống. Luật này không chỉ
cho thấy rằng Đức Chúa Trời quan tâm đến công lý nhưng Ngài cũng mong rằng con
người cần phải cẩn thận và đừng khiến cho những con vật dễ bị thương và do đó
phải bị giết đi.
Ăn cắp súc vật (22:1-4). Luật pháp phân
biệt giữa những con vật bị đánh cắp đã bị giết hoặc bị bán, và những con vật bị
ăn cắp vẫn còn ở trong tay của kẻ cắp. Khi kẻ cắp bị bắt gặp đang phạm tội,
trong trường hợp đầu tiên, hắn phải bồi thường 5 con bò cho một con và 4 con
chiên cho một con (bị đánh cắp). Trong trường hợp thứ hai, hắn phải trả hai con
vật cho một con. Ăn cắp một con vật cũng đã là xấu xa, nhưng việc giết hoặc bán
đi những gì không phải của bạn là nhận lấy những quyền hạn không thuộc về bạn.
Nếu kẻ cắp không thể bồi thường, hắn sẽ bị bán làm nô lệ và tiền được giao lại
cho người bị mất cắp.
Luật này cũng phân biệt
giữa hành động ăn trộm ban đêm và ăn trộm ban ngày. Vào ban ngày, người chủ có
thể nhận diện tên trộm đột nhập vào chuồng súc vật của mình và thậm chí có thể
kêu gọi sự giúp đỡ của những người láng giềng. Việc giết kẻ trộm vào ban ngày
sẽ là một hành động trả thù không cần thiết. Nhưng vào ban đêm, người chủ không
thể nhận diện ra kẻ đột nhập, cũng không biết được kẻ này có vũ trang hay
không, và do đó mạng sống của người chủ rất nguy hại; thêm nữa, vào ban đêm
cũng phải mất thời gian lâu hơn để kêu cầu sự giúp đỡ.
Luật về sự bồi thường
súc vật bị mất cắp nhắc chúng ta nhớ đến lời của Đa-vít trong (IISa 12:6) và
lời hứa của Xa-chê trong (Lu 19:8). Tiên tri
Na-than nhìn thấy vua Đa-vít như một kẻ đánh cắp chiên và Bát-sê-ba như con
chiên bị đánh cắp, vì tội tà dâm là tội trộm cắp (ITe
4:1-7). Đa-vít đã phải bồi thường gấp bốn lần: con trẻ bị chết, Am-nôn
và Áp-sa-lôm đều bị giết, và Ta-ma bị cưỡng hiếp (IISa
12:15-13:33 18:1-18).
Mùa màng (Xu 22:5-6). Ranh giới đồng ruộng được đánh dấu bởi những hòn đá
đặt ở các góc, chớ không phải là những hàng rào quanh khu vực này (Phu 19:14 27:17
Ch 22:28 23:10).
Những súc vật ăn cỏ sẽ không phân biệt được đồng ruộng này với đồng ruộng khác
và sẽ lang thang bất cứ nơi nào có sẵn cỏ. Người chủ phải luôn ở bên cạnh để
trông chừng súc vật. Nếu người chủ lơ là để cho súc vật của mình ăn cỏ trong
đồng ruộng của người láng giềng thì phải bồi thường thỏa đáng cho người láng
giềng, và hãy chú ý giao cho người này hoa lợi tốt nhất của mình, vì vật bồi
hoàn không phải là một thứ có thể xem thường được.
Trong mùa khô, đồng ruộng luôn có
nguy cơ bị hỏa hoạn làm hủy hoại mùa màng (Xu 22:6). Những chữ “bồi thường” và “sự hoàn trả” được dùng đến sáu
lần trong đoạn 22 (c.1,3-6,12) đã được dịch từ tiếng Hê-bơ-rơ “shalam” nghĩa là
“làm cho trọn vẹn, làm cho hoàn toàn”, và có liên hệ với từ Hê-bơ-rơ tương tự
là “shalom” (“hòa bình, sức khỏe”). Người phạm tội không phải chỉ xưng nhận tội
lỗi của mình là có thể giải quyết được mọi sự; bản thân anh ta cũng cần phải nỗ
lực rất nhiều để đền bù cho những người bị nạn. Chỉ khi đó những mối liên hệ bị
đỗ vỡ mới có thể được hàn gắn và xã hội mới có thể trở nên trọn vẹn.
Vật sở hữu của người
khác (Xu 22:7-15). Sự thành
thật và liêm chính tạo nên chất kết dính trong một xã hội lành mạnh và thịnh vượng.
Nếu những người lân cận không thể tin cậy nhau thì cuộc sống sẽ trở nên rất khó
khăn. Nếu bạn nhờ tôi giữ gìn tiền bạc, vật dụng hay súc vật của bạn thì tôi
phải trung tín làm phần việc của mình. Mặc cho sự cần mẫn của tôi, một kẻ trộm
có thể đột nhập vào nhà và ăn cắp tài sản của bạn, nhưng khi hắn bị bắt, hắn
phải bồi thường gấp đôi. Nếu kẻ trộm không bị bắt, vậy tôi phải chứng minh
trước tòa rằng tôi đã không bất cẩn và tôi không phải là thủ phạm. Khi điều này
xảy ra thì có thể nghĩ đến một trong ba khả năng sau: tôi phải đưa ra những
nhân chứng có thể xác nhận cho sự cần mẫn của tôi; cho thấy những mảnh còn lại
của súc vật để chứng minh chúng đã bị những con thú giết hại (Sa 31:39 Am 3:12),
hoặc nếu không có những bằng chứng này thì tôi phải
thề trước Chúa về sự vô tội của mình, đây là một vấn đề nghiêm trọng khi cần
phải thực hiện. Các quan tòa, là những người đại diện của Đức Chúa Trời trước
cả dân tộc sẽ nhận biết được tôi có nói sự thật hay không. Nếu người ta chứng
minh được rằng súc vật của người láng giềng của tôi đã chết, bị lạc hay bị đánh
cắp bởi sự cẩu thả của tôi, vậy tôi sẽ phải bồi thường thỏa đáng.
Nếu tôi mượn một con
trong bầy gia súc của bạn để làm công việc đồng áng của tôi và con vật lại bị
thương tích hoặc chết trong sự bảo dưỡng của tôi, vậy tôi phải bồi thường sự
tổn thất cho bạn. Nếu bạn ở cùng tôi lúc đó, điều khiển chính con vật của bạn
thì tôi không bị buộc phải bồi thường bất cứ khoản nào. Nếu tôi thuê con vật
của bạn và trả tiền, vậy số tiền này bao gồm cả khoản bồi thường thiệt hại.
Những luật khác (Xu 22:16-23:19). Đa số những luật này không cần sự giải thích đặc biệt nào,
nhưng chúng ta sẽ chú ý đến một số lẽ thật gắn liền với những luật lệ này.
Sự cưỡng hiếp (c.16-17). Những cô gái chưa kết hôn thuộc về cha của họ, và một
cô gái không đồng trinh sẽ không được hỏi để làm vợ, vì vậy sự mất trinh tiết
của cô ấy là một sự thiệt hại về tiền sính lễ cho người cha. Kẻ phạm tội buộc
phải cưới người con gái này, nhưng nếu cha nàng không muốn nhận anh ta làm con
rễ thì kẻ này có thể trả khoản tiền sính lễ và được tự do. Nếu người con gái đã
được hứa gả thì sự cưỡng hiếp bị xem là tội tà dâm và sẽ áp dụng một luật khác
để giải quyết (Phu
22:23-29).
Phù phép (Xu 22:18). Điều mà ngày nay chỉ bị xem như một sự
giải trí vô hại thì trong thời Môi-se đã được nhận định một cách đúng đắn là
việc làm tà ma nguy hại. Dân Do Thái được lệnh phải tránh xa mọi thứ có liên hệ
đến những điều huyền bí (Le 20:6 Phu 18:10-14 ISa
28:1-24 Es 47:12-14). (Ga 5:20) đã liên hệ đến ma thuật là thờ hình
tượng.
Hành động thú tính (Xu 22:19) cũng là một trong những tập tục
tôn giáo của các dân tộc ngoại bang và bị Chúa lên án (Le
18:23 20:15-16 Phu 27:21). Nó cũng là
một sự phỉ báng về món quà sinh lý kỳ diệu mà Chúa đã ban.
Sự thờ hình tượng (Xu 22:20 23:13).
Dân sự không được tế các thần khác, nếu trái nghịch thì sẽ bị diệt, và họ
cũng không được nhắc đến danh của các thần này. Sự thờ hình tượng là sự cám dỗ
lớn nhất cho Y-sơ-ra-ên trong suốt cuộc hành trình trong đồng vắng và sau khi
họ vào Đất Hứa, và Chúa đã cảnh cáo họ phải hủy phá các đền thờ và bàn thờ
ngoại giáo (Phu 4:14-24).
Sự ích kỷ (Xu 22:21-27 23:9)
Những luật này khuyên bảo dân Do Thái phải cư xử tử tế với khách lạ và khách
kiều ngụ, người góa bụa và trẻ mồ côi cùng người nghèo. Dân Do Thái từng là khách
lạ ở Ai Cập và trong suốt nhiều năm đã được đối xử tử tế, góa phụ và cô nhi
cũng còn là mối quan tâm đặc biệt của Chúa (Le
19:9-10 Phu 14:28-29 16:11,14 24:19-21 26:12-13 Thi 10:14,17-18 68:5 82:3 146:9 Es 1:23 10:2 Gie 7:6 22:3 Xa 7:10 Ma 3:5). Người giàu không nên bóc lột người nghèo
nhưng phải sẵn sàng giúp họ (Le 25:35-38 Phu 15:7-11 23:19-20
24:6 10:13
Ch 28:8). Đức Chúa Trời nghe thấu tiếng kêu
van của người khốn khổ (Xu 22:23,27).
Rủa sả nhà cầm quyền (22:28). Họ có thể báng
bổ Đức Chúa Trời qua môi miệng của họ hay qua việc xem thường những luật lệ
Ngài ban cho vì lợi ích của họ, đặc biệt là những luật lệ có liên quan đến sự
rời rộng đối với người khác (c.21-27). Báng bổ Đức Chúa Trời là một tội phạm
phải bị xử tử (Le 24:10-16). Việc nói xấu một
người cai trị là chống lại Luật pháp (Ch 24:21-22
IPhi 2:17). Phao-lô đã phải xin lỗi khi ông
không cố ý nói điều xấu về thầy tế lễ cả (Cong
23:4-5 IISa 19:19 IVua 21:10). Đức Chúa Trời đã thiết lập chính thể
của loài người (Ro 13:1-14), ngay cả khi chúng ta không tôn trọng các quan chức thì chứng ta
cũng phải tôn trọng chức vụ của họ.
Trì hoãn việc vâng lời (Xu 22:29-30). Trái đầu mùa thuộc về Chúa,
dù đó là con trai đầu lòng, con đực đầu lòng (13:1-22),
hay quả đầu mùa của đồng ruộng và vườn cây ăn quả (Ch
3:9-10). Việc cầm giữ áo xống (22:26-27),
hay tiền công (Gia 5:4) của một người là không hợp lẽ. Sẽ tệ hại là dường nào nếu giữ lại
của Chúa những món quà Ngài đã ban cho để chúng ta dâng lên cho Ngài ?
Thịt bị ô uế (Xu 22:31). Lý do đằng sau luật này vừa mang
tính tôn giáo vừa mang tính vệ sinh. Xác của những con vật bị giết bừa bãi vẫn
còn đọng huyết, và việc ăn huyết đã bị cấm (Le 22:8).
Hơn nữa, một xác súc vật ở trong đồng ruộng chẳng bao lâu sẽ trở nên hôi thúi và gieo rắc mầm bệnh. “Thịt miễn phí”
có thể phải trả giá rất đắt. Một người tinh sạch sẽ không muốn chạm đến thịt
ấy, đừng nói gì đến việc ăn nó.
Sự công bình (Xu 23:1-8). Đây là điều răn thứ 9 được mở
rộng (20:16), một lời cảnh cáo không được
làm chứng dối và hùa theo sự bất công như số đông vẫn đang làm (Le 19:15-16 Phu
22:13-19). Dân sự Đức Chúa Trời không nên để bị tác động bởi sự giàu có
hay nghèo khổ của bị cáo hoặc bởi của hối lộ mà người
ta đút lót để xét xử thiên vị (Phu 16:18-20
Es 1:23 Mi 3:11). Kết án một người vô tội để tư lợi là có tội trước mặt Đức
Chúa Trời, và Ngài sẽ không tha thứ cho tội lỗi này (Xu 23:7 NIV) [88] . Nhưng Môi-se cũng
nhắc nhở họ phải đối xử tử tế với kẻ thù và súc vật của kẻ ấy (c.4-5 Phu 22:13-15). Những việc làm tốt lành của chúng
ta phải là kết quả của việc tuân thủ luật lệ nhưng có
vận dụng đến tình yêu thương.
Giữ những kỳ lễ (Xu 23:10-17). Đức Chúa Trời quản lý thời giờ và Ngài truyền cho
dân Do Thái phải nghỉ làm việc vào mỗi tuần để kỷ niệm ngày Sa-bát. Cứ 7 năm
một lần họ phải kỷ niệm một Năm Sa-bát, trong suốt khoảng thời gian đó đất sẽ
được nghỉ ngơi và người nghèo có thể dùng lượng lương thực đang cho hoa lợi mà
không cần phải gieo trồng nữa (Le 25:1-7).
Đã từ lâu, dân Do Thái đã được ban cho những luật lệ
có cơ sở về phương diện sinh thái. Nhưng vào năm đặc biệt này, đức tin và sự
vâng lời của họ sẽ được thử nghiệm.
Khi dân sự đã định cư
trong xứ, các người đàn ông phải nhóm họp lại để thờ phượng ba lần trong một năm, vào
lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần và lễ Lều Tạm (Le 23:1-44
để biết về lịch tôn giáo của Do Thái). Những người nam này thường đi cùng với
gia đình họ (ISa 1:1-28 Lu 2:40).
“Chớ nên nấu dê con trong sữa mẹ nó”
(Xu 23:19 NIV 34:26
Phu 14:21). Dê con là một món ăn ưa thích
của dân sự, và khi nấu trong sữa sẽ làm cho món ăn ngon hơn. Việc dùng sữa mẹ
để nấu con của nó cho thấy được một cách nhìn nhận trong lòng có thể dẫn đến mọi thứ tội lỗi. Hơn nữa, việc nấu dê con cách
này là một phần trong nghi lễ ngoại giáo của dân Ca-na-an, và Đức Chúa Trời
không muốn dân sự Ngài tranh đua với những kẻ thờ lạy hình tượng. Vì luật này
có liên hệ với lễ Lều Tạm, lễ Mùa Gặt, nên có lẽ nghi lễ này có liên quan đến
sự thịnh vượng. Sữa khi ấy được rắc trên cây cối và đồng ruộng để làm gia tăng
sự màu mỡ, đây là một hành động ma thuật bị ngăn cấm đối với Y-sơ-ra-ên [89]
3. Đức Chúa Trời là
khôn ngoan: Hãy theo sự dẫn dắt của Ngài (Xu 20:20-26) (Xu 23:20-24:8).
(Xu 23:20-26). Dân Y-sơ-ra-ên sẽ ở tại núi Si-nai khoảng 11 tháng, sau đó họ
sẽ đi đến Ca-đe Ba-nê-a trước khi vào trong xứ (Dan
10:11-14:45). Họ đã không tin cậy Đức Chúa Trời để giành lấy cơ nghiệp
cho mình nên họ bị kết án phải lang thang trong đồng vắng cho đến khi thế hệ từ
20 tuổi trở lên đều đã chết, ngoại trừ Ca-lép và Giô-suê. Trong 38 năm, Đức
Chúa Trời sẽ dẫn dắt dân sự Ngài và sau đó đem họ trở về biên giới Ca-na-an để
tiến vào và giành lấy xứ.
Vị thiên sứ ở đây là Chúa Giê-xu
Christ, Con Đức Chúa Trời, Thiên Sứ Của Giao Ước (Xu
14:19). Chỉ có Ngài mới có thể tha thứ những vi phạm và chỉ trong Ngài
là danh kỳ diệu của Chúa. Đức Chúa Trời đã chuẩn bị một nơi cho dân trên đất
của Ngài (23:20) như Chúa Giê-xu đang chuẩn
bị một nơi ở trên trời cho dân của Ngài (Gi 14:1-6).
Nếu họ vâng theo Chúa, Ngài sẽ đáp ứng tất cả những nhu cầu của họ và đánh bại
mọi kẻ thù của họ.
Một lần nữa, Chúa cảnh cáo họ về tội
thờ hình tượng, thờ lạy những tà thần của các dân tộc quanh họ là những dân mà
họ sẽ đánh bại. Nếu Y-sơ-ra-ên dâng mình hoàn toàn cho Chúa, Ngài sẽ đi trước
họ, đánh bại kẻ thù của họ, và giúp họ chinh phạt xứ. Thật vậy, “sự kinh khiếp
của Đức Chúa Trời” đã đi trước Y-sơ-ra-ên và làm suy yếu dân trong xứ (Gios 2:11 Xu 15:16).
“Ong lỗ” trong (23:28) rất có thể là loài
côn trùng mà chúng ta đã biết vì dân Đông phương rất coi trọng loài ong lỗ (Phu 7:20 Gios 24:12).
Từ Hê-bơ-rơ này tương tự với từ có nghĩa là Ai Cập (zirah / mizraim), vì vậy
một số nhà nghiên cứu tin rằng đây là hình ảnh có liên hệ đến những đội quân Ai
Cập thường xuyên xâm lấn xứ Ca-na-an trước khi dân Do Thái đến. Trong (Es 7:18), Ai Cập đã được ví sánh với con ruồi và A-si-ri được ví sánh với con ong.
Giô-suê và đội quân của
ông đã mất gần 7 năm để có thể chinh phục xứ, và theo sau chiến thắng này là
một đợt “càn quét”. Đức Chúa Trời hoạch định rằng dân sự sẽ từ từ chiếm lấy xứ
để có thể kiểm soát được mọi sự, nhưng một số chi phái không thể chinh phục được trọn vẹn phần lãnh thổ đã được giao cho họ (Cac 1:1-2:23). Đức Chúa Trời đã đặt ra ranh giới
của xứ này (Sa 15:18-21), và các ranh giới
này được trải dài ra trong suốt thời của Đa-vít và Sa-lô-môn (IISa 8:1-14 IVua
4:20-25), nhưng đến khi dân tộc Y-sơ-ra-ên bị chia cắt, họ bắt đầu để
phần lãnh thổ của mình rơi vào tay của kẻ thù.
Xu 21:1-36; xem giải nghĩa Xu 20:20-26
Xu 22:1-31; xem giải nghĩa Xu 20:20-26
Xu 23:1-33; xem giải nghĩa Xu 20:20-26
4. Đức Chúa Trời là
thành tín: Hãy tin cậy giao ước của Ngài (Xu 24:1-8)
Hai câu đầu có liên hệ với (Xu 20:21), khi Đức
Chúa Trời gọi Môi-se lên núi Si-nai, mang theo 70 trưởng lão, A-rôn và Na-đáp
với A-bi-hu, con trai của A-rôn. Môi-se chia sẻ những lời của Đức Chúa Trời với
dân sự, và một lần nữa họ đã hứa sẽ vâng theo mọi điều Đức Chúa Trời bảo họ làm
(24:3 19:8).
Sau đó ông viết xuống tất cả những gì Đức Chúa Trời đã phán dạy, tức là Mười
Điều Răn và Quyển Sách Giao Ước.
Nhưng sẽ cần nhiều hơn những lời hứa
để Quyển Sách Giao Ước được thông qua, và Môi-se đã thực hiện điều đó vào sáng
hôm sau. Ông dựng nên một bàn thờ cho Chúa và dựng 12 hòn đá như các cây trụ để
đại diện cho 12 chi phái Y-sơ-ra-ên. Những người trai trẻ đứng qua một bên để
phục vụ khi các thầy tế lễ dâng của lễ cho Chúa vì giao ước phải được đóng dấu
bởi huyết. Một ít huyết được rảy trên bàn thờ, biểu thị rằng Đức Chúa Trời đã
tha thứ cho tội lỗi của dân sự Ngài.
Tiếp đó, Môi-se đọc Quyển Sách Giao
Ước cho dân sự và họ xác nhận sự vâng phục tự nguyện của họ. Môi-se lấy phần
huyết còn lại trong các chậu và rảy trên Quyển Sách và trên dân sự (24:8 He 9:19-20),
đó là nghi lễ chuẩn nhận giao ước. Y-sơ-ra-ên phải nhận biết trách nhiệm của họ
để vâng theo những luật lệ của Chúa. Giao ước giờ đây đã được phê chuẩn bằng
huyết, và Đức Chúa Trời sẽ giữ lời hứa của Ngài đã lập cùng dân sự ! Xét cho
cùng, dân sự cũng chỉ biết trông mong rằng Đức Chúa Trời sẽ giữ lời hứa của
Ngài !
Lời hứa của Chúa trong (Xu 6:6-8) giờ đây sắp bước vào giai đoạn thứ ba.
Đức Chúa Trời đã chuộc dân sự Ngài (Xu 1:1-18:27)
và chính Ngài đã nhận họ làm dân sự của Ngài; giờ đây Ngài sẽ đến và ngự giữa
vòng họ và làm Đức Chúa Trời của họ (Xu 25:1-40:38).
Phần cuối của sách Ai Cập tập trung vào sự thiết kế, xây dựng và dâng hiến đền tạm, và đây là một phần ghi chép phong phú về lẽ thật
thuộc linh và những bài học thực tiễn.
PHẦN CHUYỂN TIẾP
Khi chúng ta bắt đầu
phần nghiên cứu về đền tạm và chức tế lễ, chúng ta phải dừng lại để xem xét một
số vấn đề sơ bộ.
Trước tiên, vì sách Xuất
Ê Díp tô ký không được sắp xếp theo chủ đề nên thông tin về đền tạm và chức tế
lễ đã được phân bố qua sách Xuất Ê Díp Tô ký(Xu 25:1-39:43), cũng như
qua các sách Lê-vi, Dân số và Phục truyền. Có lẽ Đức Chúa Trời đã hướng dẫn
Môi-se viết theo cách ấy để các thầy tế lễ (và các tín hữu ngày nay) sẽ phải đọc tất cả các tài liệu này để
biết về điều Đức Chúa Trời muốn nói. Cả Kinh Thánh được Đức Chúa Trời thần cảm
và cả Kinh Thánh phải được xem xét khi nghiên cứu bất cứ chủ đề nào. Để việc
nghiên cứu những chương này dễ dàng hơn, tôi đã đối chiếu tài liệu trong Xuất Ê
Díp Tô ký dưới nhiều đề mục chính, và tôi cũng sẽ đề cập đến ba sách khác của
Môi-se.
Hai là, việc xem xét
từng chi tiết trong mỗi phần của đền tạm và quần áo tế lễ sẽ dễ làm chệch hướng
việc nghiên cứu, vì thế tôi đã tập trung vào những lẽ thật thuộc linh chính yếu
mà tôi tin rằng Đức Chúa Trời muốn chúng ta học biết. Một khi đã nắm được những
lẽ thật này, bạn có thể nghiên cứu những vấn đề khác bằng sự am hiểu thuộc linh
hơn.
Cuối cùng, đền tạm là
một chiếc lều di động, nó không phải là một nơi để nhóm họp lại như nhà thờ.
Mỗi khi Y-sơ-ra-ên nhổ trại, người Lê-vi tháo dỡ lều một cách cẩn thận, gói
ghém đồ đạc trong những vật che phủ, và mang chúng đi cho đến khi Chúa bảo dân
sự dừng lại (màn và khung được chở trên xe ngựa).
Tại nơi ở mới, đền tạm được lắp ráp và đồ đạc được xếp đặt vào đúng chỗ (Dan 3:1-4:49). Mỗi món đồ có những cái khoen để
luồn vào những cây đòn để mang gánh đồ đạc qua suốt cuộc hành trình trong đồng
vắng, những cây đòn trên cái hòm không bao giờ được rút ra (Xu 25:15 IVua 8:8).
10. NƠI ĐỨC CHÚA TRỜI
NGỰ VÀO - Phần I (Xu 24:9-25:40 27:20-21 30:11-16 31:1-11 35:3-36:38 37:1-24 38:21-31)
(Xu
24:9-18). Thành tín với những lời hứa của Ngài trong (6:6-8), Chúa đã giải cứu dân sự Ngài ra khỏi Ai
Cập (1:1-18:26) và tại núi Si-nai “tiếp
nhận” họ cho chính Ngài như của báu đặc biệt của Ngài (19:24
Ro 9:4). Giờ đây Ngài sắp thực hiện phần còn
lại của lời hứa đó bằng cách đến trại quân của Y-sơ-ra-ên và ngự giữa vòng dân
sự Ngài (Xu 25:1-40:38).
Để làm việc này, Chúa cần đến hai điều:
một nơi cho sự vinh hiển của Ngài ngự vào, và những người hầu việc Ngài tại nơi
đó. Vì vậy, Ngài ra lệnh dân Do Thái dựng đền tạm và biệt riêng chi phái Lê-vi
để hầu việc Ngài. Việc dựng đền tạm và việc phong chức tế lễ là hai chủ đề
chính của (25:1-40:38).
Trải qua suốt Sáng Thế ký, Chúa đã
đồng đi với dân sự Ngài – A-đam và Ê-va (Sa 3:8),
Hê-nóc (5:22-24), Nô-ê (6:9), và các trưởng tộc (17:1
24:40 29:44-46),
nhưng giờ đây Ngài sẽ ở cùng họ. Việc có Chúa ngự trong trại quân là một đặc
quyền đối với dân tộc Y-sơ-ra-ên (Ro 9:4-5),
vì không một dân tộc nào khác có Đức Chúa Trời hằng sống ở giữa họ. Nhưng đặc
quyền mang theo nó một trách nhiệm lớn lao, vì điều
đó có nghĩa là trại quân Y-sơ-ra-ên phải là một nơi thánh mà một Đức Chúa Trời
thánh khiết có thể ngự vào.
Mười sáu chương này
không chỉ ghi lại những sự kiện lịch sử xoay quanh việc xây dựng đền tạm và tấn
phong chức tế lễ. Những điều Môi-se ghi chép lại đã bày tỏ một số lẽ thật thuộc
linh sâu sắc về một Đức Chúa Trời thánh khiết và cách chúng ta phải đến gần Ngài trong sự thờ phượng và “lấy lòng kính sợ hầu việc
Đức Chúa Trời một cách đẹp lòng Ngài” (He 12:28).
1. Đức Chúa Trời kêu
gọi chúng ta đến sự thờ phượng Ngài (Xu 24 :9-18)
Thờ phượng Đức Chúa Trời
là đặc quyền cao nhất và là trách nhiệm lớn nhất của một đời sống Cơ Đốc, vì
Đức Chúa Trời là Đấng Chí Cao trong vũ trụ và là Đấng mà một ngày nào đó chúng
ta phải khai trình. Mọi điều chúng ta có và làm đều bắt nguồn từ mối liên hệ
của chúng ta với Chúa. Đức Chúa Trời đã tạo nên chúng ta theo hình ảnh của Ngài
để chúng ta có thể yêu Ngài và có mối giao thông với Ngài, không vì chúng ta
phải làm nhưng vì chúng ta muốn làm. Đức Chúa Trời đang tìm kiếm những người
thờ phượng Ngài “bằng tâm thần và lẽ thật”
(Gi 4:23-24).
Bước lên càng cao. Tại chân núi, dân Y-sơ-ra-ên thận trọng không tiến đến quá gần và
chờ đợi Lời của Chúa. Môi-se, A-rôn, Na-đáp và A-bi-hu cùng 70 trưởng lão đã
lên cao hơn và được gặp Chúa (Xu
24:9-11), sau đó Môi-se với Giô-suê còn lên
cao hơn nữa (c.13-14). Sau cùng chỉ một mình Môi-se tiến lên cao hơn và tại nơi
đó ông đã nhìn thấy sự vinh hiển của Chúa (c.15-17).
Mọi điều này là sự minh
hoạ về một lẽ thật quan trọng là chúng ta cần phải lớn lên trong kinh nghiệm về
sự thờ phượng Chúa, và chính chúng ta là những người quyết định chúng ta sẽ
lên “cao” đến mức độ nào. Dân sự đứng dưới chân núi đã rất sợ hãi khi tiếng Chúa phán và họ
an tâm khi nghe Môi-se nói với họ (20:18-19), nhưng Môi-se không chỉ nghe tiếng Đức
Chúa Trời mà ông còn trông thấy sự vinh hiển của Ngài. Thật đáng buồn khi dân sự Đức Chúa Trời chỉ muốn dừng lại ở mức
thấp nhất khi vẫn có những độ cao mới của phước hạnh cho những ai tìm kiếm Đức
Chúa Trời bằng cả tấm lòng của họ.
Y-sơ-ra-ên phải thờ
phượng từ đàng xa, vì đó là mệnh lệnh của Đức Chúa Trời, nhưng Đức Chúa Trời
kêu gọi những tín hữu ngày nay bước vào
trong sự hiện diện của Ngài “một cách mới mẻ và sống động” (He 10:19-25). “Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài
sẽ đến gần anh em” (Gia 4:8). Chúng ta không
đến gần một ngọn núi bão táp cách sợ hãi nhưng đang dạn dĩ tiến đến một thành
vinh hiển trên trời nơi tên chúng ta được ghi lại như những công dân của nước
trời (He 12:18-24).
Giao thông với Đức
Chúa Trời (Xu 24:9-11). Khi Kinh Thánh nói rằng 74
người “thấy Đức Chúa Trời” thì điều này không có nghĩa là họ đã nhìn thấy diện
mạo của Ngài vì điều này không thể xảy ra (Gi 1:18).
Họ chỉ nhìn thấy một phần vinh hiển của Đức Chúa Trời và có thể họ đã được nhìn
thấy ngôi của Đức Chúa Trời trên nền bích ngọc (Exe
1:26), nhưng Đức Chúa Trời không thể thấy được
đã ẩn khỏi họ. Sau sự hiện thấy này về Đức Chúa Trời, họ đã cùng dự một bữa ăn
thông công với nhau mà đỉnh điểm là việc chuẩn nhận giao ước. Ăn với nhau là
một dấu hiệu của tình bằng hữu và sự hiệp nhất. Đức Chúa Trời là vinh hiển, cao
trọng và được tôn cao, nhưng Ngài cũng hạ mình để dự vào sự thông công với
chúng ta ! [90]
Lưu lại với Đức Chúa
Trời (Xu
24:12-18). Đức Chúa Trời gọi Môi-se lên cao hơn nữa để Ngài có
thể ban cho ông những bảng đá trên đó Ngài đã viết Mười Điều Răn. Đây là sự đề
cập lần đầu tiên đến những bảng Luật pháp trong Kinh Thánh. Đám mây vinh hiển ở
lại trên núi Si-nai, và từ Hê-bơ-rơ được dịch “ở lại” là “shekinah”, một từ mà
những nhà thần học Do Thái và Cơ Đốc đều sử dụng để mô tả sự hiện diện của Đức
Chúa Trời. Trong (Xu 25:8) và (29:45-46), nó được dịch là “ở giữa”. Đám lửa hừng
trên núi nhắc nhở chúng ta rằng “Đức Chúa Trời chúng ta là đám lửa hay thiêu
đốt” (He 12:29). Môi-se ở lại trên núi với
Đức Chúa Trời trong 40 ngày và 40 đêm (Mat 4:1-2),
và suốt thời gian đó, Đức Chúa Trời cho ông biết những kế hoạch về đền tạm và chức tế lễ.
2. Đức Chúa Trời lập kế
hoạch (Xu 24 :9-18) (Xu 25:9,40 26:30)
[91] .Xu 24:9-18. Mỗi khi Đức Chúa Trời làm việc gì, Ngài đều có kế hoạch cho công
việc ấy, dù đó là việc xây cất đền tạm hay đền thờ
(ISu 28:11-12,18-19), một Hội Thánh địa phương (Phi 2:12-13), hay đời sống và chức vụ của một Cơ
Đốc nhân (Eph 2:10). Đức Chúa Trời cho
Môi-se biết rằng ông phải làm mọi thứ theo như kiểu mẫu đã được tỏ ra cho ông ở
trên núi (Xu 25:40 He
8:5).
Đền tạm trên đất là một bản sao của
đền tạm trên trời, nơi Chúa chúng ta giờ đây đang thi hành chức vụ cho dân sự
Ngài (He 8:1-5 9:1).
Sách Khải Huyền đề cập đến một bàn thờ bằng đồng (Kh
6:9-11), một bàn thờ xông hương (8:3-5),
một ngôi (4:2), các trưởng lão/ thầy tế lễ
(c.4,5), những ngọn đèn (c.5), “biển” (c.6) và Chê-ru-bin (c.6-7), tất cả đều
giống với những đồ đạc chính yếu của đền tạm trên đất. Một nguyên tắc cơ bản về
chức vụ là chúng ta phải làm theo kiểu mẫu được ban cho từ trời, không phải
kiểu mẫu của thế gian này (Ro 12:2).
3. Đức Chúa Trời cung
cấp vật liệu để xây cất (Xu 24 :9-18) (Xu 25:1-9 30:11-16 35:4-29)
Chúng ta chỉ có thể dâng
lên Đức Chúa Trời những gì Ngài đã ban cho chúng ta trước, vì mọi thứ đều đến
từ Ngài. Đa-vít đã nói trong lời cầu nguyện của ông:“và chúng tôi đã dâng cho
Chúa chỉ những gì đến từ tay Ngài” (ISu 29:14 NIV).
Đức Chúa Trời không chỉ
tạo ra những vật liệu mà dân sự đã đem
đến cho Ngài (Es 66:1-2), nhưng Ngài cũng
làm việc trong lòng họ để họ vui lòng dâng cách rời rộng (IICo 8:1-5,12). Trong thực tế thì dân sự đã đem đến quá nhiều
đến nỗi Môi-se phải bảo họ ngưng lại ! (Xu 36:6-7).
Nhiều loại vật liệu khác nhau được
cần đến: kim loại quý (vàng, bạc), đồng thiếc, vải (chỉ, vải gai mịn, và lông
dê), gỗ, da, dầu ô-liu, hương liệu, và đá quý. Người ta ước tính rằng một tấn
vàng và trên 3 tấn bạc đã được sử dụng trong đền tạm. Tất cả của cải này đến từ
đâu ? Trước hết, dân Do Thái đã “tước đoạt” của dân Ai Cập trước khi họ rời
khỏi xứ ấy (12:35-36), và không có gì lạ khi
cũng có những chiến lợi phẩm từ cuộc chiến thắng dân A-ma-léc (17:8-16). Đức Chúa Trời bảo đảm rằng họ có mọi thứ
họ cần để xây dựng đền tạm như Ngài đã thiết kế sẵn cho họ vậy.
Theo (Xu
30:11-16), Môi-se đã thu nửa siếc-lơ của mỗi người ở tuổi quân ngũ, và
theo (38:21-31), tất cả số bạc này đã lên
đến 100 ta-lâng cộng với 1.775 siếc-lơ, tổng cộng là 301.775 siếc-lơ (một
ta-lâng có 3.000 siếc-lơ). Khoản này do 603.550 người ở độ tuổi 20 trở lên đóng
góp. Số bạc này đã được dùng để làm những cái lỗ cột trụ của đền thờ và những
cái móc để treo các bức màn.
4. Đức Chúa Trời trang
bị cho những người làm việc (Xu 24 :9-18) (Xu 31:1-11 35:30-36:7)
Dù là việc xây dựng đền
tạm trong thời Cựu Ước, xây Hội Thánh trong thời Tân Ước, hay việc gây dựng đời
sống và chức vụ của chúng ta ngày nay, Thánh Linh Đức Chúa Trời phải trang bị
cho chúng ta và giúp chúng ta có thể làm được công việc. Đức Chúa Trời đã ban
cho Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp kỹ năng và sự khôn ngoan cần có, nhưng Ngài cũng
trang bị cho những người thợ làm việc dưới quyền của
họ, được dẫn dắt bởi Thánh Linh, trong sự vâng lời Chúa để xây nên đền tạm và
những vật dụng ở trong đó.
Đức Chúa Trời đã chỉ định
Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp điều khiển công việc xây cất vì nếu không có những
người lãnh đạo thì sẽ có sự lộn xộn, nhưng Ngài cũng kêu gọi những người thợ
tình nguyện để giúp đỡ họ (35:10). Chúng ta
được sinh ra với những khả năng khác nhau, và khi được biến đổi, chúng ta nhận
được những sự ban cho khác nhau của Đức Thánh Linh để được sử dụng vì ích lợi
của Hội Thánh và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời (ICo
12:1-3 Eph 4:1-16 Ro 12:1-21). “Vì ấy chính Đức Chúa Trời hành động
trong anh em để vừa muốn vừa làm theo ý muốn tốt lành của Ngài” (Phi 2:13 NKJV). Dân Do Thái đã xây một lều tạm mà
từ lâu đã biến thành bụi đất, nhưng chúng ta đang góp phần xây dựng “nhà ở của
Đức Chúa Trời trong Thánh Linh” (Eph 2:2) sẽ đời đời quy vinh hiển cho Đức Chúa Trời.
5. Đức Chúa Trời phải
được đặt ưu tiên trên hết mọi sự (Xu 24 :9-18) (Xu 25:10-22 37:1-9)
Có sáu vật dụng liên
quan đặc biệt tới đền tạm, và hòm giao ước đã được đề cập đến trước hết [92] Đây là một hòm gỗ dài 45
inch, rộng 27 inch và cao 27 inch, nó được đặt trong nơi Chí Thánh có sự hiện
diện “shekinah” của Đức Chúa Trời ngự ở đó. Phía
trên hòm giao ước là nắp thi ân bằng vàng là ngôi của Đức Chúa Trời (Thi 80:1 99:1 Cac 19:15 cả NIV).
Chiếc hòm này có nhiều tên gọi ngoài
tên là “hòm giao ước” (Dan 10:33). Nó được
gọi là “hòm của Đức Chúa Trời” (ISa 31:3),
“hòm của Đức Giê-hô-va” (Gios 3:15), “hòm
của Giê-hô-va Đức Chúa Trời” (IVua 3:26),
“hòm bảng chứng” (Xu 25:22) vì có những bảng
Luật pháp ở trong đó, “hòm thánh” (IISu 35:3)
và “hòm sức mạnh của Đức Chúa Trời” (Thi 132:8).
Hòm này đại diện cho sức mạnh và uy quyền của Đức Chúa Trời trong trại quân
Y-sơ-ra-ên, và đây là lý do nó được kể đến trước tiên. Đây là minh họa Cựu Ước
của (Mat 6:33) trong Tân Ước.
Hòm giao ước cũng dạy cho chúng ta
biết về Chúa Giê-xu Christ. Nó được làm bằng gỗ, nói về nhân tính Ngài, nhưng
lại hoàn toàn được phủ bằng vàng, nói về thần tính của Ngài. Theo (He 9:4), bên trong hòm là những bảng Luật pháp (Xu 25:16), một bình đựng ma-na (16:32-34), và cây gậy trổ hoa của A-rôn (Dan16:1-17:13). Những đồ vật cho chúng ta biết
rằng Luật pháp của Đức Chúa Trời ở trong lòng Đấng Christ, và Ngài đã vâng phục
trọn vẹn và làm trọn Luật pháp (Thi 40:6-8 He 10:5-9). Ngài là Bánh Sự Sống, là Đấng ban sự
sống đời đời cho tất cả những ai tiếp nhận Ngài (Gi
6:32); và Ngài sống bởi năng quyền của sự sống vĩnh cữu để chúng ta có
thể kết quả cho Đức Chúa Trời (He 7:16).
Ở mỗi đầu của nắp thi ân bằng vàng
đặt trên hòm có một chê-ru-bin và đôi cánh của chúng che phủ chiếc hòm. Một lần
trong năm, vào ngày lễ Chuộc tội, thầy tế lễ được phép vào nơi Chí thánh, tại
đây ông sẽ rảy huyết của con sinh tế trên nắp Thi ân (Le
16:1-24) để thực hiện sự chuộc tội của Y-sơ-ra-ên cho năm sau (c.29-34).
Kiểu thực hành mẫu này đã được ứng nghiệm khi Chúa Giê-xu Christ chịu chết một
lần đủ cả cho tội lỗi thế gian và cất đi mọi tội lỗi bằng sinh tế của chính
Ngài (He 9:11-10:14)
Thường trong Kinh Thánh bạn sẽ thấy
hình ảnh tìm được sự an toàn “dưới cánh Ngài”. Đôi khi điều này liên hệ đến
hình ảnh chim mẹ bảo vệ cho con nó (Thi 57:1
63:7 Mat 23:37
Lu 13:34), nhưng cũng có thể chỉ về việc ở
dưới cánh chê-ru-bin trong nơi thánh (Ru 2:12
Thi 17:8 36:7-8
61:4 91:1,4).
Môi-se được phép vào nơi Chí thánh,
nơi Đức Chúa trời đã phán với ông từ nắp Thi ân và bày tỏ ý muốn của Ngài cho
dân Y-sơ-ra-ên (Xu 25:21-22 29:42 30:6,36 Dan 7:89 Thi 91:1).
Dân sự Đức Chúa Trời ngày nay có thể bước vào trong sự hiện diện của Đức Chúa
Trời nhờ huyết của Chúa Giê-xu Christ (He 10:19-25),
vì Ngài là “ngôi thương xót” của chúng ta (sự phục hòa, Ro 3:25 IGi 2:2). Bởi huyết
Ngài đã đổ ra vì chúng ta nên ngôi Đức Chúa Trời đối với chúng ta là một ngôi
ân điển.
Hòm của Đức Giê-hô-va và trụ mây dẫn
đường khi dân Do Thái di chuyển từ nơi này sang nơi khác (Dan 10:33-36). Trong hành trình hành hương, dân sự Đức Chúa Trời được ngôi Đức Chúa Trời hướng dẫn và bước
đi theo sự vinh hiển của Ngài.
6. Đức Chúa Trời hiện
diện để nuôi nấng dân sự Ngài (Xu 24:9-18) (Xu 25:23-29 37:10-16).
Khi thầy tế lễ từ sân
ngoài đi vào nơi thánh, ông sẽ thấy bàn để “bánh trần thiết” ở bên phải, chân
đèn bằng vàng ở bên trái, và trước mặt ông là bàn thờ dâng hương bằng vàng được
đặt trước bức màn xinh xắn phân cách nơi Thánh với nơi Chí thánh.
Chiếc bàn dài ba bộ
(foot), rộng một bộ rưỡi và cao 27 inch. Giống như chiếc hòm, nó được làm bằng
gỗ keo dát vàng, điều này cũng nhắc nhở chúng ta về nhân tính và thần tính của
Cứu Chúa chúng ta. Chúa Giê-xu là Bánh Sự Sống,
là Đấng đã mặc lấy thân xác loài người để có thể đến đất này và chết thay cho
tội lỗi của chúng ta (Gi 6:26).
Mười hai ổ bánh được làm
vào mỗi tuần, theo công thức đã được cho trong (Le 24:5-9). Bản văn
không giải thích những ổ bánh này lớn cỡ nào, nhưng từ lượng bột cần có thì có
lẽ chúng phải rất lớn [93] . Dường như bột mì là do dân sự cung cấp như một món quà cho
Chúa. Mỗi kỳ Sa-bát, các thầy tế lễ lấy đi những ổ bánh cũ và ăn chúng trong
nơi Thánh, và thay vào đó là những ổ bánh mới.
Khi bánh được đặt trên bàn, nó luôn được đặt cùng với nhũ hương, và nhũ hương có lẽ
sẽ được đốt lên trong một đồ dùng đặc biệt (Xu
25:29). Việc dùng nhũ hương gợi ý rằng bánh thật sự là một “của lễ chay”
cho Chúa (Le 2:1-11) để tạ ơn Ngài vì “đồ ăn
mỗi ngày”. Nếu bột là một món quà của dân sự thì đó là của lễ tạ ơn dâng lên
cho Đức Chúa Trời vì sự chu cấp của Ngài đối với những nhu cầu của họ.
Những ổ bánh được gọi là
“bánh trần thiết” (Xu 25:30), hoặc “bánh về sự hiện diện”, theo nghĩa
đen là “bánh bề mặt”. Sự có mặt của 12 ổ bánh trong nơi thánh không khỏi nhắc
nhở các thầy tế lễ rằng họ đang phục vụ cho 12 chi phái Y-sơ-ra-ên, tuyển dân
của Đức Chúa Trời. Qua những ổ bánh này, 12 chi phái được trình lên trước mặt
Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời ở với họ trong trại quân, nhìn xem sự thờ phượng
và cách ăn ở hằng ngày của họ. Các chi phái này cũng được thể hiện qua những
viên bích ngọc gắn trên bảng đeo ngực và vai của thầy tế lễ cả (28:6-21). Khi bạn kết hợp hình ảnh những viên bích
ngọc và những ổ bánh bạn sẽ thấy rằng Chúa nuôi nấng dân sự Ngài, mang họ trên
vai Ngài, và đặt để họ nơi lòng Ngài.
Nhưng các ổ bánh cũng nhắc nhở chúng
ta rằng Y-sơ-ra-ên đã được kêu gọi để đem bánh thuộc linh mà Chúa đã ban cho họ
đến với một thế giới đang đói khát. Họ đã đem đến cho thế giới Lời Đức Chúa Trời,
là bánh (Mat 4:4), và Chúa Giê-xu là Bánh Sự Sống [94] Nhưng tiếc thay, họ đã xoay bỏ khỏi Chúa và ăn tại các bàn
thờ của người ngoại đạo, và Đức Chúa Trời đã phải trừng phạt họ.
Phao-lô đã so sánh Hội
Thánh với một ổ bánh không men (Cong 5:1-8 10:16-17), và nhiệm vụ của chúng ta là phải rao ra
Lời Chúa và cho các tội nhân biết về Chúa Giê-xu Christ, là Bánh Sự Sống. Vì 12
ổ bánh được xem như của lễ chay nên trong bột bánh phải không có men (Le 2:1-11), và dân sự của Đức Chúa Trời phải giữ
mình khỏi mọi sự bất khiết. Chúng ta không hiện diện trên thế gian này để nuôi
dưỡng chính chúng ta, nhưng cho một thế giới đang đói khát.
Những ổ bánh mang ý nghĩa rất đặc
biệt và không thể được ăn một cách khinh suất, ngay cả bởi các thầy tế lễ. Thầy
tế lễ nào đã bị ô uế lại ăn bánh hoặc bất cứ của tế lễ nào thuộc về các thầy tế
lễ đều có thể bị chết (Le 22:3-9).
7. Đức Chúa Trời hướng
dẫn sự thờ phượng và hầu việc của chúng ta (Xu 24:9-18) (Xu 25:31-40 27:20-21 37:17-24 Le 22:3-9)
Chân đèn được làm bằng
vàng đánh giát nặng khoảng 75 cân vàng, nhưng chúng ta không biết về kích thước
của nó. Không nghi ngờ gì đây là một tác phẩm nghệ thuật rất đẹp có sáu nhánh
được trang trí bởi những cái đài hình quả hạnh nhân cùng nụ và hoa. Sáu nhánh
và thân đèn sẽ có các đèn được thắp dầu và được giữ cho cháy luôn luôn (Xu 27:20-21 Le 24:1-4).
Vì không có cách nào để đưa ánh sáng
tự nhiên từ bên ngoài vào nên chân đèn vàng là nguồn ánh sáng duy nhất trong
nơi Thánh. Không có nó, các thầy tế lễ không thể thực hiện được phần việc của mình.
Đức Chúa Trời muốn chúng ta dành cho Ngài sự thờ phượng khôn ngoan, chớ không
phải sự thờ phượng thiếu hiểu biết (Gi 4:19-24
Cong 17:22-31 Ro
1:18-25), và để làm điều đó, chúng ta cần ánh sáng của Lời Đức Chúa Trời
hướng dẫn chúng ta (Thi 119:105 130:1-8 Ch 6:23).
A-rôn và các con trai của ông phải
thắp đèn mỗi khi họ dâng hương trên bàn thờ bằng vàng (Xu
20:7-8). Chúng ta sẽ thấy rằng mùi thơm của hương xông tượng trưng cho
lời cầu nguyện dâng lên Đức Chúa Trời, và Lời Chúa phải đi cùng với sự cầu nguyện
(Cong 6:4). Sự cầu nguyện được soi sáng bởi
Lời Chúa (Gi 15:7), và Lời Chúa được mở ra
cho chúng ta khi chúng ta cầu nguyện (Thi 119:18
Eph 1:15-23). Việc nghiên cứu Lời Chúa và cả
sự thực hành cầu nguyện phải được thêm sức bởi Đức Thánh Linh, Đấng được tượng
trưng bởi dầu (chơn đèn, Xa 4:1-7) và lửa
(bàn thờ, Cong 2:3-4).
Nhưng chân đèn cũng làm chúng ta nhớ
đến dân Y-sơ-ra-ên, được Đức Chúa Trời chọn để làm “sự sáng cho dân ngoại” (Es 42:6 49:6).
Tuy nhiên, chân đèn không được đặt ở sân ngoài đền tạm nơi mà mọi người có thể
thấy nó, nhưng trong nơi Thánh mà chỉ Đức Chúa Trời
và các thầy tế lễ mới có thể nhìn thấy. Vậy làm thế nào nó lại tượng trưng cho
lời chứng của Y-sơ-ra-ên trước dân ngoại ? Mối tương giao của
Y-sơ-ra-ên với Đức Chúa Trời qua của lễ và sự thờ phượng sẽ quyết định cho sức
mạnh và mức độ làm chứng của họ. Chính khi họ xoay bỏ việc thờ
phượng Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống, bắt đầu thờ lạy hình tượng thì họ
đã không thể làm chứng trước các dân ngoại.
Chúa Giê-xu Christ cũng đã đến để
làm “sự sáng cho dân ngoại” (Lu 1:79 Gi 8:12), và sự sáng đó đã lan tỏa ra qua lời
chứng của Hội Thánh (Cong 13:47-48 Phi 2:14-16 Mat
5:14-16). Trong (Kh 1:9-20), Chúa
chúng ta đứng giữa 7 chơn đèn tượng trưng cho 7 Hội Thánh của A-si Miệc-nơ
(vùng Tiểu Á) trong thời của Giăng. Trong đền tạm, có một chơn đèn được đánh
giát bởi một ta lâng vàng, tượng trưng cho một dân tộc Y-sơ-ra-ên và sự làm
chứng của họ. Dù Hội Thánh là một dân nhưng nó đã chiếu ra sự sáng qua nhiều
buổi nhóm họp đặc biệt tại nhiều nơi trên thế giới.
Ánh sáng ở 7 ngọn đèn trên chân đèn
được châm bởi dầu đã được chuẩn bị riêng cho mục đích đó (Xu 27:20-21). Dân sự đã đem đến bột mịn để làm
những ổ bánh và họ cũng đã đem đến dầu tinh khiết để dùng cho việc thắp đèn
trên chơn đèn (Xu 25:27-28 35:10,14). Trong (Xa 4:1-4)
cho chúng ta biết rằng dầu này tượng trưng cho Thánh Linh Đức Chúa Trời, nếu
không bởi quyền năng của Ngài, chúng ta không thể làm vinh hiển Đấng Christ (Gi 16:14), hoặc làm chứng về Ngài một cách hiệu
quả (Cong 1:8). Chúa Giê-xu đã phán: “ngoài
ta, các ngươi không thể làm chi được” (Gi 15:51
NKJV).
Những gì được các thầy tế lễ làm
trong nơi Thánh là được thực hiện cho Chúa (Xu 28:1,3,4,41 29:1) và trước mặt Chúa (27:21
40:25 Le 24:4).
Việc dân sự ở trong trại quân không được biết về những việc làm của các thầy tế
lễ không quan trọng vì Đức Chúa Trời đã nhìn thấy tất
cả, và nhiệm vụ của họ là làm đẹp lòng Ngài. Phần quan trọng nhất
trong đời sống của một Cơ Đốc nhân chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể nhìn thấy. Nếu Đức Chúa Trời đẹp lòng bởi điều Ngài nhìn
thấy, và lương tâm chúng ta thanh sạch trước mặt Ngài, vậy chúng ta không cần
phải lo lắng về những điều người khác nghĩ hay nói về chúng ta (ICo 4:1-5). Ngài sẽ
chấp nhận chức vụ của chúng ta và chúc phước cho chức vụ ấy.
Xu 25:1-40; xem giải nghĩa Xu 24:9-18
11. NƠI ĐỨC CHÚA TRỜI
NGỰ VÀO - Phần II
(Xu 26:1-37 27:1-19 30:1-10,17-21 37:25-29 38:1-20)]
Chúng ta có 3 vật dụng
nữa trong đền tạm để nghiên cứu: bàn thờ xông hương, chậu rửa và bàn thờ bằng
đồng. Sau đó chúng ta cần nhìn qua cấu trúc của đền tạm, khung, những tấm che
và những bức màn trong đền. Khi nghiên cứu, chúng ta sẽ tiếp tục nhấn mạnh về
Đức Chúa Trời của đền tạm và việc Ngài làm cho dân sự của Ngài.
1. Đức Chúa Trời nghe
lời cầu nguyện của dân sự Ngài (Xu 26 :1-37) (Xu 30:1-20,34-38 37:25-29)
Bàn thờ xông hương được
làm bằng gỗ si-tim bọc vàng ròng, có diện tích một bộ rưỡi, cao 3 bộ. Đó là vật
dụng cao nhất trong nơi Thánh. Nó có một đường viền (“vương miện”) trang trí
bằng vàng xung quanh bề mặt và “những chiếc sừng” bằng vàng tại mỗi góc. Bàn
thờ được đặt trước bức màn phân cách nơi chí thánh với nơi thánh, và thầy tế lễ
xông hương trên đó mỗi buổi sáng và chiều tối khi ông thắp đèn.
Trong Kinh Thánh, xông
hương thường là hình ảnh về sự cầu nguyện. Đa-vít đã cầu nguyện: “Nguyện lời
cầu nguyện tôi thấu đến trước mặt Chúa như hương” (Thi 141:2), và Giăng đã
nhìn thấy các trưởng lão trên trời với “những bình vàng đầy hương, đó là những
lời cầu nguyện của các thánh” (Kh 5:8 8:3-4) [95] Mỗi khi thầy tế lễ xông hương thì đó là lúc dân sự được triệu tập
lại để dành thời gian cầu nguyện (Lu 1:8-10).
Lửa để xông hương được lấy từ bàn
thờ bằng đồng là nơi các của lễ được dâng lên cho Đức Chúa Trời (Le 16:12-13 Dan 16:46).
Điều này gợi ý rằng lời cầu nguyện chân thành phải căn
cứ vào công tác của Đấng Christ trên thập tự giá và sự dâng hiến trọn vẹn của
chúng ta cho Đức Chúa Trời. Sự nhiệt thành chân thật trong lời cầu nguyện không
phải là một cảm xúc tôn giáo do chúng ta tự tạo nên; mà đúng hơn, đây là một
phước hạnh Đức Chúa Trời ban cho chúng ta khi chúng ta dâng mình cho Ngài. John
Bunyan, tác giả của quyển “Hành Trình Của Người Hành Hương” (The Pilgrim’s Progress)
đã phát biểu: “Trong sự cầu nguyện, việc có một tấm lòng không nói thành lời
vẫtốt hơn những lời nói không có tấm lòng.” Sự cầu nguyện qua loa không phải là
một sự cầu nguyện hữu hiệu (Gia 5:16).
Để làm đẹp lòng Đức Chúa Trời và
thoát khỏi hiểm họa của sự chết, thầy tế lễ phải sử dụng không chỉ đúng loại
lửa trên bàn thờ mà hỗn hợp các hương liệu của hương xông cũng phải như đã được
chỉ định (Xu 30:34-38). Na-đáp và A-bi-hu đã
tìm cách thờ phượng Đức Chúa Trời bằng “lửa lạ” và đã bị giết chết (Le 10:1-20). Bất cứ người Y-sơ-ra-ên nào tìm cách
bắt chước loại hương đặc biệt này để dùng riêng cho mình thì sẽ bị trừ bỏ,
nghĩa là bị giết chết.
Sự cầu nguyện không chỉ đơn giản là
một mớ lời lẽ lộn xộn của chúng ta với hy vọng Đức Chúa Trời sẽ nghe và đáp lời
cho chúng ta. Kinh Thánh kể ra một số “thành phần” của sự cầu nguyện – sự tôn
kính, sự xưng nhận, sự tạ ơn, sự nài xin, sự đầu phục (ITi
2:1 Phi 4:6), và thậm chí còn đưa ra
cho chúng ta một bài cầu nguyện mẫu để làm theo (Mat
6:5-15) [96] Bạn nên biết rõ rằng thầy tế lễ không thể vội vã bước vào
đền tạm, nhanh chóng đốt hương, và sau đó lại vội vã bước ra ngoài. Không, ông
cần phải dọn mình và cung kính đến gần bàn thờ, ý thức được rằng ông đang ở
trong sự hiện diện của một Đức Chúa Trời thánh khiết.
Vì công tác mà Đấng Christ đã thực
hiện trên thập tự giá nên các tín hữu ngày nay có thể bước qua bức màn để bước
vào trong sự hiện diện của chính Đức Chúa Trời, và ở nơi đó, bày tỏ sự thờ
phượng và nài xin trong danh Chúa Giê-xu (He
10:19-25). Chúa Giê-xu Christ, Thầy Tế Lễ - Nhà Vua Hằng Sống và vẫn
đang trị vì của chúng ta đang ngày đêm cầu thay cho chúng ta ở trên trời (Ro 8:33-34 He 4:14-16
7:19-28), và Thánh Linh cũng đang cầu thay
trong lòng của chúng ta (Ro 8:26-27). Sẽ rất
ích lợi khi chúng ta khởi đầu và kết thúc ngày bằng sự cầu nguyện đặc biệt, như
các thầy tế lễ đã làm, và cũng sẽ rất ích lợi để “cầu nguyện không thôi” (ITe 5:17) và ở trong sự giao thông với Chúa suốt
cả ngày.
Các thầy tế lễ đã được cảnh báo
không được sử dụng bàn thờ bằng vàng cho bất cứ việc nào khác ngoài việc xông
hương (Xu 30:9), vì không sự gì có thể thay
thế được cho sự cầu nguyện. Không một lượng tế lễ nào có thể thay thế được cho
lời cầu nguyện chân thành. Bàn thờ bằng vàng không phải là nơi để thực hiện
những sự mặc cả với Đức Chúa Trời hay tìm cách làm thay đổi ý muốn của Ngài (Gia 4:1-4 IGi 5:14-15).
Đó là một nơi để tôn thờ Ngài và cầu nguyện để “ý Ngài sẽ được nên”.
Cũng cần phải lưu ý rằng hương đặc
biệt phải được “ướp muối” (Xu 30:5 NIV), vì
muối là một biểu tượng của sự tinh khiết và của mối liên hệ giao ước (Le 2:13). “Nếu lòng tôi có chú về tội ác, ắt Chúa
chẳng nghe tôi” (Thi 66:18 NKJV). Chúng ta
được truyền lệnh phải giơ “tay thánh” lên khi cầu nguyện, và phải cất bỏ “sự
giận dữ và cãi cọ” ra khỏi lòng mình (ITi 2:8
NIV). Nếu Đức Chúa Trời giết đi mọi tín hữu ngày nay là những người không cầu nguyện như Ngài đã hạ lệnh thì bao nhiêu người trong số
chúng ta sẽ sống sót qua một buổi cầu nguyện? [97]
Một lần trong năm, vào
ngày lễ chuộc tội, thầy tế lễ phải bôi huyết vào bàn thờ xông hương để làm sạch
bàn thờ theo nghi thức trước mặt Đức Chúa
Trời (Xu 30:10). Ngay cả trong khi cầu nguyện chúng ta vẫn
có thể phạm tội.
2. Đức Chúa Trời nhận
của lễ của dân sự Ngài (Xu 26 :1-37) (Xu 27:1-8 38:1-7)
Khi một người thờ phượng
đến đền tạm để dâng của lễ, vật đầu tiên người ấy gặp là một hàng rào bằng vải
gai trắng, dài 150 bộ và rộng 75 bộ, bao quanh đền tạm và tạo thành một khu vực
nơi các thầy tế lễ thi hành chức vụ. Đền tạm nằm ở đầu phía tây của khu vực
này, và ở phía đông là một lối vào dài 30 bộ dẫn đến khu vực được rào lại. Tại
đây các thầy tế lễ gặp những người đến dâng của lễ và khám xét từng con vật
thật kỹ càng để biết chắc là nó được
chấp nhận. Người đến thờ phượng sẽ đặt tay trên đầu con vật để nó sẽ được nhậm
thế cho người ấy (Le 1:1-9), sau đó thầy tế
lễ sẽ giết con vật và dâng nó lên trên bàn thờ bằng đồng theo những luật lệ đã
được qui định trong (Le 1:1-7:28) [98]
Chỉ có một lối để vào
khu vực sân Đền Tạm và do đó chỉ có một cách để đến bàn thờ của Đức
Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời dựng lên một hàng rào và chỉ định con đường để đi vào thì không ai có quyền được
thắc mắc hay thay đổi nó. Chúa Giê-xu đã tuyên bố Ngài là cái cửa duy nhất (Gi 10:9) và là con đường duy nhất để đến với Đức
Chúa Trời (14:6), điều này giải thích lý do
Phi-e-rơ đã nói rằng: “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác; vì ở dưới trời,
chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu”
(Cong 4:12). Trong xã hội đa nguyên ngày
nay, nhiều người thích nghĩ rằng mọi con đường đều được chấp nhận trước mặt Đức
Chúa Trời nhưng thái độ đó sẽ dẫn đến sự chết (Ch
14:12 16:25 Mat
7:13-27).
Bàn thờ bằng đồng là một “cái hộp”
rỗng, rộng 7 bộ rưỡi và cao 4 bộ rưỡi, làm bằng gỗ si-tim được bao phủ bằng
đồng thiếc. Trong Kinh Thánh, đồng thường được xem như là sự đoán xét (Dan 21:4-9 Phu 28:23
Kh 1:15). Từ mặt bàn thờ cao lên 2 bộ rưỡi,
bên trong “cái hộp” là một lưới bằng đồng mà trên đó các thầy tế lễ sẽ giữ cho
lửa luôn cháy (Le 6:8-13), tro củi và tro
của lễ thiêu cũng sẽ rớt xuống qua lưới này. Vì là một phần của những của lễ
được dâng lên cho Đức Chúa Trời, tro này được xem là tinh sạch về mặt nghi lễ
và được thu dọn ở hướng đông của bàn thờ. Thông thường các thầy tế lễ sẽ mang
tro này ra ngoài trại quân đến một nơi sạch sẽ (1:16
4:12 6:10-11).
Không giống như bàn thờ xông hương
bằng vàng trong nơi Thánh, bàn thờ bằng đồng là một nơi của sự đổ huyết và sự
chết, vì “không đổ huyết thì không có sự tha thứ” (He
9:22). Nếu một tội nhân tìm cách vào được bên
trong đền tạm và rửa trong chậu rửa thì việc đó cũng sẽ không cứu được người
ấy, anh ta cũng sẽ không được tha thứ nếu đi vào nơi Thánh và ăn bánh hoặc xông
hương. Con
đường để vào trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời khởi đầu tại bàn thờ bằng
đồng nơi những con sinh tế vô tội chết thay cho tội nhân. Nói tóm lại, bàn thờ bằng đồng
sẽ đưa chúng ta đến thẳng đồi Gô-gô-tha nơi Con Đức Chúa Trời chết thay cho tội
lỗi của thế gian (Mat 26:26-28 Gi 1:29 3:14-16
Ro 5:8 IPhi 2:24).
Mỗi buổi sáng, các thầy tế lễ phải
dâng một của lễ thiêu trên bàn thờ bằng đồng (Xu
29:42-43), đây là hình bóng về sự dâng hiến trọn vẹn cho Chúa (Le 1:1-17). Sẽ là một việc làm ích lợi cho mỗi con
cái Đức Chúa Trời bắt đầu một ngày bằng cách dâng chính mình lên cho Đức Chúa
Trời như những “của lễ sống” (Ro 12:1-2).
Những người dạy đạo và giảng Phúc Âm
đôi khi mời người khác vào giáo đoàn của họ để “đến trước bàn thờ”, nhưng không
có bàn thờ trên đất nào được Đức Chúa Trời chỉ định hay được Ngài chấp nhận.
Tại sao ? Vì sự chết của Chúa Giê-xu Christ đã giải quyết vấn đề tội lỗi một
lần đủ cả (He 9:25-28), không có của lễ nào
khác có thể hay phải được dâng lên nữa. Bữa ăn tối của Chúa (Tiệc Thánh) là một
sự nhắc nhở về sự hy sinh của Ngài chớ không phải là một sự lặp lại về sự hy
sinh của Ngài.
“Bàn thờ” duy nhất mà
tín hữu có được hôm nay chính là Chúa Giê-xu Christ, Đấng đã mang trên thân thể
vinh hiển của Ngài những vết thương của thập tự giá (He
13:10 Lu 24:39 Gi 20:20). Với tư cách là một chức tế lễ thánh,
các tín hữu phải “dâng của tế lễ thiêng liêng được Đức Chúa Trời chấp nhận nhờ
Chúa Giê-xu Christ” (IPhi 2:5 NKJV). Chúng
ta dâng lên cho Ngài thân thể (Ro 12:1-2),
của cải vật chất (Phi 4:18), sự ngợi khen và
những việc lành (He 13:15-16), cùng với tấm
lòng tan vỡ của chúng ta (Thi 51:17).
3. Đức Chúa Trời muốn
dân sự Ngài phải tinh sạch (Xu 26 :1-37) (Xu 30:17-21 38:8).
Trong sân đền tạm, chậu
rửa được đặt giữa bàn thờ bằng đồng và chiếc lều, các thầy tế lễ và người Lê-vi
phải dừng lại đó luôn luôn để rửa tay chân. Nếu họ vào trong lều hay hầu việc
tại bàn thờ bằng đồng mà không tự tẩy rửa trước thì có thể bị giết chết.
Chúa không định rõ kích
thước hay hình dạng của chậu rửa, những lời chỉ dẫn cũng không nói gì về cách
nó được mang đi khi dân Y-sơ-ra-ên chuyển đến một nơi ở mới. Kích thước và hình
dạng của chậu rửa không quan trọng nhưng chất được chứa đựng bên trong mới thật
sự quan trọng. Chậu rửa chứa nước sạch, và nước này được những người Lê-vi làm
đầy trong suốt cả ngày.
Trong Kinh Thánh, nước
dùng để uống là một hình ảnh về Thánh Linh của Đức Chúa Trời
(Gi 7:37-39), còn nước để rửa liên hệ đến Lời Đức Chúa Trời (Thi 119:9 Gi 15:3
Eph 5:25-27). Do vậy, chậu rửa tiêu biểu cho
Lời Đức Chúa Trời làm thanh tẩy tâm trí và tấm lòng của những ai tiếp nhận và
làm theo Lời ấy (Gi 17:17). Việc chậu rửa
được làm từ những tấm gương bằng đồng của các phụ nữ Do Thái (Xu 38:8) càng cho thấy nó là hình ảnh của Lời Đức
Chúa Trời, vì Lời Đức Chúa Trời được ví sánh như một chiếc gương soi (Gia 1:22-26 IICo 3:18).
Dưới cơ cấu tổ chức trong thời Cựu
Ước, có 3 cách để đạt đến sự tinh sạch về mặt nghi lễ: bằng nước, bằng lửa, và
bằng huyết. Chúng ta đã được thanh tẩy khỏi tội lỗi bởi huyết của Chúa Giê-xu
Christ đổ ra vì chúng ta trên thập tự giá, và khi chúng ta xưng nhận tội lỗi
mình thì huyết ấy sẽ tẩy sạch chúng ta (IGi 1:5-2:2).
Nhưng khi chúng ta bất tuân Đức Chúa Trời, lòng và trí chúng ta bị ô uế bởi tội
lỗi (Thi 51:1-19) và chính “sự tẩy rửa của
Lời Chúa” (Eph 5:26) đã giúp chúng ta được phục hồi.
Nhưng các thầy tế lễ
thời Cựu Ước đã trở nên ô uế, không phải bởi phạm tội với Đức Chúa Trời nhưng
bởi sự hầu việc Đức Chúa Trời ! Bàn chân của họ trở nên dơ bẩn
khi họ bước đi trong sân và trong đền tạm (trong đền tạm không có sàn lát) và
tay họ bị ô uế khi họ cầm những con sinh tế và rảy huyết. Do đó, tay và chân họ
cần được tẩy rửa luôn luôn và việc này sẽ được thực hiện tại chậu rửa.
Khi Chúa chúng ta ở với
các môn đồ Ngài trong Phòng cao, Ngài đã dạy cho họ bài học tương tự qua việc
rửa chân cho họ (Gi 13:1-15) [99] Khi chúng ta tin Đấng Christ cứu chuộc mình,
chúng ta “được sạch cả” (c.10 ICo 6:9-11) và không cần phải tắm rửa nữa, nhưng
khi chúng ta tiếp tục bước đi trong cuộc sống, bàn chân chúng ta trở nên dơ bẩn
và chúng ta cần phải được tẩy sạch. Nếu chúng ta không được thanh tẩy thì chúng
ta không thể có được mối thông công với Chúa (Gi
13:8), và nếu chúng ta ở ngoài mối thông công với Chúa, chúng ta không
thể hưởng được tình yêu của Ngài hay làm theo ý muốn của Ngài. Khi chúng ta
xưng nhận tội lỗi mình, Ngài tẩy sạch chúng ta, và khi chúng ta suy gẫm về Lời
Chúa, Thánh Linh Ngài sẽ đổi mới và phục hồi cho chúng ta.
Có hai lần Đa-vít đã cầu nguyện:
“Xin hãy rửa sạch tôi” (Thi 51:2,7) và Đức Chúa
Trời đã nhậm lời cầu nguyện ấy (IISa 12:13).
Nhưng Ê-sai đã bảo những tội nhân trong thời của ông: “Các ngươi hãy rửa và làm
cho mình sạch” (Es 1:16 NIV), điều này gợi ý
rằng chúng ta cần thanh tẩy chính đời sống mình và cất bỏ những điều đã làm ô
uế chúng ta. Phao-lô đã nghĩ đến điều này khi ông viết rằng: “Chúng ta hãy làm
cho mình sạch khỏi mọi sự dơ bẩn phần xác thịt và phần thần linh, làm trọn việc
nên thánh trong sự kính sợ Đức Chúa Trời” (IICo 7:1).
Đối với các thầy tế lễ, việc rửa
trong chậu không phải là một sự xa xỉ, đó là một sự
cần thiết. Giữ cho chính họ được tinh sạch là một vấn đề có liên quan đến sự
sống và cái chết !
4. Đức Chúa Trời muốn
dân sự Ngài cảm kích và vui hưởng những phước hạnh của Ngài (Xu 26 :1-37) (Xu 27:9-19 36:8-38 38:9-20).
Tác giả Thi Thiên đã
viết: “Sự tôn vinh và sự oai nghi ở trước mặt Ngài, sự năng lực và sự hoa mỹ ở
nơi thánh Ngài” (Thi 96:6). Năng lực trong nơi thánh của Ngài được bày tỏ qua chính công trình kiến trúc của nó và sự hoa mỹ được bày qua sự trang trí của
nó.
Năng lực. Đền tạm đúng nghĩa là một cấu trúc vững chắc và được treo lên đó
những bức màn xinh đẹp. Hai mươi tấm ván gỗ si-tim cao 15 bộ và rộng 27 inch
được bọc vàng, tạo nên những bức tường ở phía Bắc và phía Nam, và 8 tấm gỗ
tương tự tạo nên bức tường ở phía Tây. Mỗi tấm ván được dựng trên chân đế bằng
bạc được làm từ những đồng siếc-lơ bạc (“tiền chuộc”) thu góp từ những người
nam Do Thái ở trong độ tuổi phải gia nhập quân đội. Vì kiến trúc này nằm trên
vùng đất gồ ghề nên phải cần đến những chân đế để được vững chắc và an toàn.
Nơi Thánh của Đức Chúa Trời không nằm trên mặt cát hay di dời của thế gian này
nhưng trên nền móng vững chắc của sự cứu chuộc. 48 tấm ván được làm cho vững
thêm bằng 4 cây đòn dài (xà ngang) xuyên qua những khoen vàng trên mỗi tấm ván.
Ở đầu phía Đông của đền
tạm sừng sững 5 cột trụ, trên đó có treo một tấm ván bằng vải gai được thêu một
cách tinh xảo bằng các loại chỉ xanh, tím và đỏ điều. Đây là cửa đi vào trong
Nơi Thánh. Một số nhà nghiên cứu tin rằng có một cây đòn đâm thẳng qua những
tấm ván của tường thành ở phía Bắc và phía Nam, nối liền với những cây trụ và
gia cố thêm sự bền chắc cho khung đền.
Sự hoa mỹ. Vàng, xanh, tím, đỏ và trắng là những màu sắc chính được sử dụng
trên những tấm treo và tấm che của đền tạm [100] Hàng
rào vải gai bao quanh khu vực thiêng liêng màu trắng, nhắc nhở chúng ta về sự
thánh khiết của Đức Chúa Trời. Cửa trại 30 bộ ở phía Đông đền tạm được thêu
bằng chỉ xanh, tím và đỏ tương phản với nền trắng. Màu xanh là màu của bầu
trời, nên nó nhắc chúng ta nhớ đến từng trời và Chúa của từng trời. Màu tím là
màu hoàng gia chỉ về Vua, và màu đỏ điều khiến chúng ta nghĩ đến huyết và sự hy
sinh của Chúa Cứu Thế.
Nơi Thánh và nơi Chí
Thánh được che bởi 4 tấm phủ khác nhau (các tấm màn) được treo trên tường và
thòng xuống đến đất. Nếu nhìn vào đền tạm sẽ thấy tấm che ngoài cũng bằng da
làm từ da con lửng (“bò biển”, NIV) để bảo vệ những tấm che khác cũng như bảo
vệ cho đền tạm và những vật dụng trong đó. Dưới tấm che bảo vệ đó là một bức
màn bằng da chiên đực nhuộm đỏ, kế đó là một bức màn được dệt từ lông dê, có
thể là màu đen, và sau hết là một tấm màn xinh đẹp bằng vải gai mịn được thêu
với hình chê-ru-bin màu xanh, tím và đỏ.
Giữa Nơi Thánh và nơi
Chí Thánh, bức màn được treo trên những móc vàng,
và được chống đỡ bởi 4 cây trụ. Trên bức màn có thêu hình chê-ru-bin màu trắng,
đỏ, xanh và tím. (He 10:20) cho biết rằng
bức màn này là hình ảnh tiêu biểu cho thân thể của Chúa Giê-xu Christ, vì khi
thân thể Ngài được dâng lên trên thập tự giá thì bức màn trong đền thờ bị xé
rách từ trên chí dưới (Mac 15:38). Một số
nhà nghiên cứu nhìn thấy một sự tương đồng giữa 4 sách Phúc Âm và 4 cây trụ
chống đỡ bức màn có 4 màu. Màu tím nói về địa vị nhà vua. Phúc Âm Ma-thi-ơ,
Phúc Âm về Vua. Màu đỏ điều nhắc chúng ta về sự hy
sinh, Phúc Âm Mác, Phúc Âm về Người Đầy tớ Chịu khổ. Màu trắng nói về Con Người
trọn vẹn, Phúc Âm Lu-ca, và màu xanh chỉ về trời, Phúc Âm Giăng, Phúc Âm về Con
Đức Chúa Trời đến từ trời để chết thay cho tội lỗi của chúng ta.
Sự cảm kích. Dù đền tạm có vẻ bình thường đối với người bên ngoài, nhưng mọi
thứ bên trong Nơi Thánh đều đắt giá và xinh đẹp, và mọi thứ đều nói về Chúa Cứu
Thế là Đấng mà dân Y-sơ-ra-ên sẽ rao ra cho thế giới.
Những tín hữu tin kính
trong thời Cựu Ước đã nhận biết những của báu mà họ có được trong nhà của Đức
Chúa Trời. Hãy lắng nghe lời chứng của Đa-vít:
“Tôi
đã xin Đức Giê-hô-va một điều, và sẽ tìm kiếm điều ấy ! Ấy là tôi muốn trọn đời
được ở trong nhà Đức Giê-hô-va, và cầu hỏi trong đền của Ngài” (Thi 27:4)
“Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi yêu nơi ở
của nhà Ngài
và nơi sự vinh hiển Ngài ngự vào” (26:8 NKJV)
“Chúng tôi sẽ được thoả mãn với sự
tốt lành của nhà Chúa,
của đền thánh Ngài” (65:4 NKJV)
Và con cháu của Rô-rê đã viết:
“Hỡi Đức Giê-hô-va vạn quân, đền tạm
Ngài đáng yêu thay!
Linh hồn tôi mong ước, vâng, thậm
chí mòn mỏi về hành lang của Đức Giê-hô-va
Lòng và thịt tôi kêu la về Đức Chúa
Trời hằng sống. Phước cho người nào ở trong nhà Chúa; họ sẽ vẫn ngợi khen Ngài”
(Thi 84:1-2,4 NKJV).
Những điều các tín đồ thời Cựu Ước
có được trong đền tạm, và sau đó là trong đền thờ, thì dân sự Đức Chúa Trời
ngày nay có được trong Chúa Giê-xu Christ. Những vật dụng và lễ nghi chỉ về
Đấng Christ và bày tỏ nhiều khía cạnh vinh hiển trong bản tính của Ngài cùng sự
cứ rỗi Ngài đã ban cho tất cả những ai tin nhận Ngài. Mọi nhu cầu thuộc linh
của dân Do Thái được đáp ứng qua những sự chu cấp về đền tạm, và trong Chúa
Giê-xu Christ chúng ta có được mọi sự chúng ta cần cho “sự sống và sự tin kính”
(IIPhi 1:3).
Để có được một đời sống Cơ Đốc mà
phải bổ sung bất cứ điều gì về con người và công tác của Chúa Giê-xu Christ như
đã được bày tỏ trong Kinh Thánh thì không phải là lối tiếp cận đúng. Mọi sự đầy
dẫy đều ở trong Đấng Christ (Co 1:19) cũng
như mọi sự đầy dẫy của Đức Chúa Trời đều ở trong Ngài (2:9).
Trong Đấng Christ “giấu kín mọi của báu về sự khôn ngoan và tri thức” (c.3) và
chúng ta phải “tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa
Trời” (3:1). Trong Đấng Christ, dân sự Đức
Chúa Trời có mọi ơn phước thuộc linh (Eph 1:3)
và Ngài là tất cả những gì họ cần đến.
Đối với những tín đồ yêu mến Đức
Chúa Trời và muốn làm đẹp lòng Ngài, Nơi Thánh là nguồn thức ăn và thức uống
cho linh hồn họ. “Người cao trọng lẫn người thấp hèn giữa vòng loài người tìm
thấy nơi ẩn náu dưới bóng cánh của Chúa (Nơi Chí Thánh). Họ sống nhờ sự dư dật
của nhà Chúa” (Thi 36:7-8).
Cũng vậy, tín đồ ngày nay sống nhờ
cậy vào Chúa Giê-xu Christ và tìm thấy nơi Ngài mọi sự thỏa lòng.
Xu 27:1-19; xem giải nghĩa 26:1-37
12. CHỨC TẾ LỄ THÁNH ( Xu 28:1-29:46 30:22-33 39:1-43)
Ước muốn của Đức Chúa
Trời là dân tộc Y-sơ-ra-ên làm một “nước thầy tế lễ” (19:6) trên thế giới,
bày tỏ vinh hiển Ngài và chia sẻ những phước hạnh của Ngài cho những dân tộc vô
thần quanh họ. Nhưng để bày tỏ một Đức Chúa Trời thánh khiết, Y-sơ-ra-ên phải
là một dân thánh, và đó là nơi chức tế lễ dòng A-rôn bước vào. Nhiệm vụ của các
thầy tế lễ (gia đình A-rôn), và người Lê-vi (gia đình Kê-hát, Ghẹt-sôn,
Mê-ra-ri, Dan 3:1-4:49) là hầu việc trong
Đền Tạm và đại diện cho dân sự trước mặt Đức Chúa Trời. Các thầy tế lễ cũng
phải đại diện Đức Chúa Trời trước dân sự bằng cách dạy họ Luật pháp và giúp họ
vâng lời (Le 10:8-11 Phu 33:10 Ma 2:7).
Nhưng Y-sơ-ra-ên đã không sống như
một nước thầy tế lễ. Ngược lại, sự lãnh đạo thuộc linh trong dân tộc dần dần sa
sút cho đến khi các thầy tế lễ thật sự cho phép dân sự thờ phượng những hình
tượng trong đền thờ của Đức Chúa Trời ! (Exe 8:1-18).
Chúa đã phạt dân sự Ngài bằng cách để cho dân Ba-by-lôn hủy phá Giê-ru-sa-lem
cùng đền thờ và đem lưu đày hàng ngàn dân Do Thái. Tại
sao sự việc này đã xảy ra ? “Nhưng việc ấy đã xảy ra vì cớ tội lỗi của các tiên
tri nó, và sự gian ác của các thầy tế lễ nó” (Ca
4:13 NIV).
Ngày nay, Đức Chúa Trời muốn Hội
Thánh Ngài thi hành chức vụ giữa thế gian như một “chức tế lễ thánh” và một “chức
tế lễ nhà vua” (IPhi 2:5,9) [101] Nếu dân sự Đức Chúa Trời trung tín trong chức vụ tế lễ của mình,
họ sẽ “rao những sự
ngợi khen về Đấng đã gọi (họ) ra khỏi nơi tối tăm vào nơi ánh sáng kỳ diệu của
Ngài” (IPhi 3:9 NKJV) khi nghiên cứu về chức
tế lễ thời Cựu Ước, bạn sẽ thấy được những sự tương đồng đầy ý nghĩa giữa công việc của các thầy tế lễ Do Thái trong
quá khứ và chức vụ về “chức tế lễ thánh” trong Hội Thánh ngày nay [102]
1. Các thầy tế lễ được
chọn để hầu việc Đức Chúa Trời (Xu 28:1-43) (Xu 28 :1,3,41 29:1,44)
Lời của Chúa: “làm chức tế lễ trước
mặt ta” được tìm thấy 5 lần trong hai chương này, và trong (30:30 40:13,15 Le 7:35). Chắc chắn các thầy tế lễ thi hành chức
vụ trước dân sự, nhưng bổn phận trước tiên của họ là phải thi hành chức vụ
trước mặt Chúa, và làm đẹp lòng Ngài. Nếu họ quên bổn phận của mình trước mặt
Chúa, chẳng bao lâu họ sẽ bắt đầu đánh giá thấp những trách nhiệm của mình
trước dân sự, và dân tộc sẽ bị sa sút về mặt thuộc linh (Ma 1:6-2:9).
Việc Đức Chúa Trời chọn A-rôn và các
con trai người làm chức tế lễ là một hành động của ân điển tối cao, vì họ chắc
chắn đã không giành được vị trí này hay xứng đáng được đứng trong vị trí này.
Nhưng việc Đức Chúa Trời cứu những tội nhân như chúng ta, khiến chúng ta trở
nên con cái Ngài và rèn luyện chúng ta trong một “chức tế lễ thánh” cũng là một
hành động của ân điển Ngài, và chúng ta đừng bao giờ đánh mất sự kỳ diệu về đặc
quyền thuộc linh này. “Các ngươi đã không chọn Ta, nhưng Ta đã chọn các ngươi”
(Gi 15:16 NKJV)
Đáng tiếc rằng Na-đáp và A-bi-hu đã
bất tuân Chúa và bị giết chết (Le 10:1-20).
Khi A-rôn chết, Ê-lê-a-sa trở thành người kế nghiệp ông (Dan 20:22-29), và con cháu Y-tha-ma đã tiếp nối
trong chức vụ tế lễ thậm chí sau thời kỳ giam cầm (Exo
8:1-2).
Dân sự Đức Chúa Trời ngày nay phải
nhớ rằng bổn phận đầu tiên của chúng ta là làm đẹp
lòng Chúa và hầu việc Ngài. Nếu chúng ta làm điều này thì Ngài sẽ làm việc
trong chúng ta và qua chúng ta để thực hiện công việc của Ngài trong thế gian
này. Khi Chúa Giê-xu phục hồi chức phận môn đồ của Phi-e-rơ, Ngài đã không hỏi:
“Ngươi có yêu chức vụ không ?”, hay thậm chí “Ngươi có yêu người khác
không ?”. Câu hỏi được lặp đi lặp lại của Ngài là “Ngươi yêu ta chăng ?” (Gi 21:17). Giống như bổn phận quan trọng nhất của
một người cha là yêu người mẹ của con cái mình, thì bổn phận quan trọng nhất
(và đặc quyền) của tôi tớ là yêu Chúa. Mọi chức vụ đều bắt nguồn từ mối liên hệ
đó.
Một phần trong việc làm hài lòng
Chúa là mặc áo tế lễ. Các thầy tế lễ cả, thầy tế lễ và người Lê-vi không thể ăn
mặc theo ý họ khi họ hầu việc tại đền tạm; họ phải mặc quần áo Đức Chúa Trời đã
ấn định cho họ. Đức Chúa Trời đã cung cấp những quần áo này vì ít nhất là 3 lý
do sau đây: 1. Chúng đem đến cho những thầy tế lễ “phẩm giá và sự tôn trọng” (Xu 28:2 NIV), và biệt riêng họ, giống như một bộ
đồng phục sẽ xác định một người lính hay một y tá; 2. Chúng bày tỏ những lẽ
thật thuộc linh có liên quan đến chức vụ của họ và
chức vụ của chúng ta ngày nay; và 3. Nếu các thầy tế lễ không mặc quần áo đặc
biệt, họ có thể chết (c.35,43).
2. Các thầy tế lễ được
chọn để phục vụ dân sự (Xu
28:6-30)
Khi hầu việc Đức Chúa Trời và dân
sự, thầy tế lễ cả mặc 7 lớp áo xống: đồ lót (c.42-43), áo dài bên trong màu
trắng (“áo choàng ngoài”, c.39 39:27 Le 8:6-7) một áo dài màu xanh có những cái chuông
và trái lựu trên đường viền (Xu 28:31-35 39:22-26); ê-phót, là một áo không tay có màu
vàng, xanh, tím và đỏ, được kết lại bởi một cái móc nạm ngọc trên mỗi vai áo (28:6-8 39:1-5 Le 8:7); dây thắt lưng ở chỗ eo (Xu 28:8); bảng che ngực nạm ngọc, được gắn trên
ê-phót bởi những sợi dây chuyền bằng vàng gắn trên đai vai (c.9-30 39:8-21); và một cái mũ vải gai mọi màu trắng (“mũ
tế lễ”, 28:39) với một cái thẻ vàng trên đó ghi “Thánh cho Đức Giê-hô-va” (c.36, NIV).
Ê- phót và thắt lưng (Xu 28:6-14 39:2-7) “Ê-phót” là sự chuyển tự của
một từ Hê-bơ-rơ chỉ về một cái áo đơn giản không tay bằng vải gai, dài đến mắt
cá, thường liên hệ đến sự hầu việc trong tôn giáo (ISa
2:18 IISa 6:14). Ê-phót và thắt lưng
của các thầy tế lễ cả được làm bằng vải gai mịn có thêu cực xảo với chỉ xanh,
tím và đỏ, Ê-phót gồm hai phần, trước và sau, được giữ với nhau trên mỗi vai
bằng một móc vàng nạm ngọc và được giữ ở eo bởi thắt
lưng xinh đẹp.
Điều quan trọng nơi
Ê-phót này không phải là tấm phủ hay màu sắc của nó mà là tên của 6 chi phái Y-sơ-ra-ên
được khắc trên mỗi viên bích ngọc ở hai đai vai, theo thứ tự ngày sinh của họ.
Mỗi khi thầy tế lễ cả mặc những chiếc áo dài đặc biệt, ông mang cả dân sự trên
hai vai mình đến trước mặt Chúa. Hơn nữa, hai viên bích ngọc này nhắc nhở thầy
tế lễ về hai lẽ thật quan trọng: 1. Các chi phái Y-sơ-ra-ên thật quí báu trước
mặt Đức Chúa Trời; 2. Ông ở trong Đền Tạm không phải để phô trương những chiếc
áo đẹp của mình hay để tôn cao địa vị đặc biệt của ông, nhưng để đại diện cho
dân sự trước mặt Chúa và mang họ trên hai vai ông. Ông đã được kêu gọi không
phải để hầu việc chính mình nhưng để hầu việc cho dân sự ông [103].
Nếu Hội Thánh muốn trung
tín với chức tế lễ thánh thì các tín hữu phải hầu việc Đấng Christ qua việc phục vụ lẫn nhau và phục vụ cho một thế giới hư mất.
Chúa Giê-xu đã phán: “Ta ở giữa các ngươi như kẻ hầu việc vậy” (Lu 22:27), và đó là tấm gương của Ngài cho chúng
ta noi theo (Gi 13:12-17). Trong bầu không
khí thuộc linh đầy uy quyền của đền tạm, thầy tế lễ sẽ rất dễ quên đi dân chúng
đang đứng ở bên ngoài, mà nhiều người trong số họ có những gánh nặng và nan đề
cần đến sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời. “Mỗi một người trong anh em chớ chăm về
lợi riêng mình, nhưng phải chăm về lợi kẻ khác nữa” (Phi
2:4).
Bảng đeo ngực (Xu 28:15-30 39:8-21).
Bảng đeo ngực là một tấm vải được thêu cực xảo, cạnh vuông 9 inch. Nó được
treo lên cổ thầy tế lễ cả, được đỡ lấy bởi hai dây chuyền vàng gắn vào hai đai
vai. Trên bảng đeo ngực là 12 viên ngọc thật đẹp được xếp theo 4 hàng, mỗi viên
đại diện cho một chi phái Y-sơ-ra-ên. Những viên ngọc có thể được sắp xếp theo
thứ tự các chi phái khi họ ra đi (28:21 Dan 10:1-26).
Vì vậy thầy tế lễ cả không chỉ mang
dân sự trên hai vai mà ông còn mang họ nơi lòng ông. Nếu chúng ta không có tình
yêu chân thật trong lòng mình, chúng ta sẽ không quan tâm đến nhu cầu của người
khác, và chúng ta sẽ không muốn giúp đỡ họ. “Hỡi các con cái bé mọn, chớ yêu
mến bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật” (IGi 3:18). Là tôi tớ của Đức Chúa Trời, chúng ta
phải có thể nói thành thật với những người chúng ta phục vụ rằng, “Tôi nghĩ đến
hết thảy anh em” (Phi 1:7).
Sự khác nhau của những viên ngọc
trên bảng đeo ngực gợi ý về sự đa dạng của những con người trong Hội Thánh và
trên thế giới, họ đều quý báu trước mặt Đức Chúa Trời. Mỗi chi phái đều có quan
điểm và tính cách đặc biệt của riêng họ, và không có hai chi phái nào lại giống
nhau. Một số người nhanh chóng ra trận, trong khi một số người ở lại nhà (Cac 5:13-18). Một số
người dễ làm việc với họ, trong khi một số khác là những người thích
tranh cãi và hay làm ra vẻ quan trọng (Cac 8:1-25).
Nhưng Chúa yêu tất cả họ và thầy tế lễ cả phải giúp đỡ cho tất cả mọi người.
Một mục sư còn trẻ đã nói với tôi
rằng: “Làm mục sư một Hội Thánh sẽ là một kinh nghiệm kỳ diệu nếu nó không vì
con người !” Tôi nhắc nhở anh ấy rằng giúp đỡ con người và đáp ứng nhu cầu
thuộc linh của họ là tất cả những gì chức vụ ấy nói đến, và điều này đòi hỏi
nhiều tình yêu nhẫn nại về phía chúng ta. Chúng ta là một “chức tế lễ thánh” và
“một chức tế lễ nhà vua”, nhưng chúng ta phải luôn là một “chức tế lễ yêu
thương”.
Bên trong bảng đeo ngực kép có gắn
“U-rim và Thu-min” (“ánh sáng và sự hoàn thiện”) mà thầy tế lễ cả dùng để xác
định ý muốn của Đức Chúa Trời cho dân tộc (Xu 28:30
Dan 27:21 ISa
30:7-8). Chúng ta không biết được thủ tục này là gì, nhưng đây là nhiệm
vụ mà các thầy tế lễ phải thực hiện (Phu 33:8
Exo 2:63 Ne 7:65).
Một số người nghĩ rằng có hai viên ngọc trong túi, một đen và một trắng, và
viên ngọc mà thầy tế lễ rút ra cho biết ý muốn của Đức Chúa Trời. Hoặc có lẽ
chúng là những viên ngọc chiếu sáng một cách đặc biệt để cho biết sự hướng dẫn
của Chúa. Thật vô ích để suy đoán vì những chi tiết đã không được bày tỏ cho
chúng ta.
Tín hữu ngày nay không có những vật
dụng như U-rim và Thu-mim để xác định điều Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm,
nhưng chúng ta có Lời Đức Chúa Trời hướng dẫn những bước đi của chúng ta (Thi 119:105). Lời Đức
Chúa Trời bày tỏ Đức Chúa Trời của Lời Ngài, bản tính của Ngài, những ước muốn
của Ngài, và những mục đích của Ngài cho dân Ngài, và khi chúng ta càng biết
Đức Chúa Trời rõ hơn thì chúng ta có thể khám phá được ý muốn của Ngài tốt hơn.
Lời Đức Chúa Trời chứa đựng những mệnh lệnh để chúng ta vâng giữ, những lời
cảnh cáo để chúng ta chú ý, những lời hứa để chúng ta cầu xin, và những
nguyên tắc để chúng ta làm theo. Nếu chúng ta thành thật muốn vâng lời thì Đức
Chúa Trời luôn sẵn sàng để hướng dẫn cho chúng ta (Gi
7:17 Thi 25:8-11).
Nhưng nếu có được một
phương pháp để xác định ý muốn Đức Chúa Trời không thể nào sai lầm như U-rim và
Thu-mim thì có thể chúng ta sẽ không cầu nguyện, không tra cứu Kinh Thánh
nhiều, hoặc không hạ mình như chúng ta vẫn đang làm ngày nay khi tìm kiếm sự
hướng dẫn của Đức Chúa Trời. Chính việc tìm kiếm và làm theo ý muốn Đức Chúa
Trời là cách giúp chúng ta tăng trưởng trong Chúa, và dự phần trong tiến trình
tìm cầu ý Chúa cũng phước hạnh không kém việc biết được những kết quả.
3. Các thầy tế lễ phải
hầu việc trong sự kính sợ Đức Chúa Trời (Xu 28:6-30) (Xu 28:31-43 39:22-31)
Môi-se liệt kê ra một số
loại quần áo phụ:
Áo dài màu xanh (28:31-35 39:22-26), được mặc bên trong Ê-phót, có
nét đặc biệt trong ít nhất là ba phương diện. Trước hết, nó không có đường nối,
làm gợi nhớ về chiếc áo không đường nối của Chúa chúng ta, tượng trưng cho bản
tính trọn vẹn và chính trực của Ngài (Gi 19:23).
Cổ áo được dệt để không bị tưa rách. Trong suốt thời gian thi hành chức vụ của
Chúa chúng ta trên đất, một số người đã tìm cách “xé
rách” chiếc áo tính cách không đường nối của Ngài và tố cáo Ngài về những điều
sai trật, nhưng họ chưa bao giờ thành công. Sau hết, quanh đường viền của chiếc
áo này có treo những quả lựu làm bằng chỉ xanh, tím và đỏ, cùng những chiếc
chuông vàng treo ở giữa. Những quả lựu tượng trưng cho sự kết quả, và những
chiếc chuông vàng cho biết rằng thầy tế lễ cả đang thi hành chức vụ trong Nơi
Thánh [104] Những chiếc chuông và
những quả lựu nhắc nhở chúng ta rằng sự bước đi trong chức tế lễ của chúng ta
phải kết quả và trung tín, phải luôn chứng tỏ rằng chúng ta đang hầu việc Chúa
với sự chính trực.
Cái mũ (Xu 28:36-38 39:27-31) chỉ
được đội bởi thầy tế lễ cả, còn những thầy tế lễ khác đội mũ tròn bằng vải gai.
Phía trước mũ là thẻ vàng có ghi “Thánh cho Đức Giê-hô-va”. Toàn bộ mục đích
của hệ thống Lê-vi là khiến cho những người nam và người nữ nên thánh và bởi đó
sẽ làm đẹp lòng Chúa.
Một số người rất ngạc nhiên khi biết
rằng Chúa Giê-xu chịu chết không phải để chúng ta vui mừng, nhưng Ngài đã chịu
chết để khiến cho tội nhân nên thánh. “Hãy nên thánh, vì ta là thánh” là một
mệnh lệnh thường xuyên đối với dân Do Thái (Le
11:44-45 19:2 20:7,26
21:8) và nó đã được nhắc lại trong (IPhi 1:15-16) cho các
tín hữu ngày nay. Bước đầu tiên để đi đến
hạnh phúc là sự thánh khiết. Nếu chúng ta ngay thẳng với Đức Chúa Trời thì chúng ta mới
có thể bắt đầu ngay thẳng với những người khác và với những hoàn cảnh của đời
sống vẫn khiến chúng ta phải lo nghĩ. Nếu bạn theo đuổi hạnh phúc thì bạn sẽ
mất nó, nhưng nếu bạn hướng đến sự thánh khiết thì bạn cũng sẽ tìm thấy hạnh
phúc trong Chúa.
Khi đội chiếc mũ thánh
này và “vương miện” bằng vàng của nó, thầy tế lễ cả đang gánh lấy tội lỗi của dân sự khi họ đem
dâng những của lễ lên cho Chúa (Xu 28:38).
Cũng như Cơ Đốc nhân đem của lễ thánh của họ đến cho Đức Chúa Trời qua Chúa
Giê-xu Christ, và điều này khiến những của lễ được chấp nhận (IPhi 2:5), thì những của lễ của dân sự cũng được
Đức Chúa Trời chấp nhận bởi sự cầu thay của thầy tế lễ cả. Tuy nhiên, Chúa
chúng ta và Đấng Cầu Thay của chúng ta trên trời không cần đến bất cứ loại quần
áo đặc biệt nào hay “những vương miện thánh” nào để chức vụ Ngài được chấp
nhận, vì Ngài là Con Thánh của Đức Chúa Trời, và trong Ngài không có tội lỗi.
Hai lần trong phân đoạn này, các
thầy tế lễ được cảnh cáo rằng họ có thể chết nếu họ không vâng phục hoàn toàn
theo những lời chỉ dẫn của Chúa và mặc vào những quần áo thích hợp (Xu 28:35,43). Nói cách khác, tôi tớ Đức Chúa Trời phải bước
đi trong sự kính sợ Chúa, cẩn thận vâng lời Ngài và quy vinh hiển cho Ngài.
Không ai làm việc hết
lòng cho Chúa lại phủ nhận rằng “có niềm vui trong
sự hầu việc Chúa Giê-xu”, nhưng đồng thời, chúng ta cũng phải trau giồi “lòng
kính sợ” của chúng ta (He 12:28). Nếu Chúa
giết mọi tín hữu ngày nay là những người không nghiêm túc khi bước vào sự hầu
việc của mình thì sẽ có bao nhiêu người còn sót lại ? Kính sợ Đức Chúa Trời
không có nghĩa là khúm núm trước một đốc công nghiêm khắc mà là cung kính và
khiêm nhường trước một người Cha yêu thương và một Chúa nhân từ. “Khá hầu việc
Đức Giê-hô-va cách kính sợ, và mừng rỡ cách run rẩy” (Thi
2:11). “Con trai tôn kính cha mình, đầy tớ tôn kính chủ mình, Vậy nếu ta
là cha, nào sự tôn kính thuộc về ta ở đâu ? Và nếu ta là chủ, nào sự kính sợ ta
ở đâu ?” (Ma 1:6).
Chúng ta đã thấy rằng các thầy tế lễ
sẽ chết nếu họ không rửa tay chân tại chậu rửa (Xu
30:20-21), hoặc nếu họ dùng một hương nào khác với hương đã được Đức
Chúa Trời chỉ định (Le 16:13). Nếu các thầy
tế lễ không vâng theo những luật lệ về sự tinh sạch và không tinh sạch, họ cũng
ở trong hiểm họa của sự chết (22:1-9). Các
thầy tế lễ dạy cho dân sự Luật pháp vẫn chưa đủ mà họ phải cẩn thận vâng theo
những sự đó vì trách nhiệm của họ nặng nề hơn. Nhưng thái độ cơ bản quyết định
cho sự vâng lời của chúng ta là sự kính sợ Chúa được Thánh Linh thần cảm.
Tôi đã tham dự một số lễ “thờ
phượng” Cơ Đốc và những buổi nhóm truyền giảng mà sự chú trọng chủ yếu ở những
nơi này là “có một thời giờ ích lợi” chớ không phải là làm vinh hiển Đức Chúa
Trời. Âm nhạc chỉ mang tính giải trí chớ không có sức cảm hóa, còn sự rao giảng lại hời hợt và thiếu nghiêm trang. Những người phát ngôn
quan tâm nhiều đến việc làm cho đám đông cười hơn là giúp họ nhìn thấy Chúa
Giê-xu và ăn năn tội lỗi. Đức Chúa Trời không giết bất cứ ai ở những buổi nhóm
này, nhưng chúng ta đã không nhận được sự sống và quyền năng Thánh Linh qua
những gì đã diễn ra. Vì những người tham dự đã không được hướng đến việc tôn
vinh Đức Chúa Trời nên buổi nhóm đã tự làm hỏng nó.
4. Các thầy tế lễ phải
được phong chức trước mặt Đức Chúa Trời (Xu 28:6-30) (Xu 29:1-37 30:22-33)
Đức Chúa Trời phán bảo
rằng thầy tế lễ cả và các con trai của ông phải tham dự trong một buổi lễ phong
chức công khai, là buổi lễ sẽ biệt riêng họ ra để làm tôi tớ của Đức Chúa Trời.
Có ít nhất 7 giai đoạn trong lễ này:
Các thầy tế lễ được
tắm rửa (29:4 Le 8:6). Môi-se tập trung những vật liệu cần dùng
cho lễ phong chức và đem A-rôn với các con trai ông đến cửa Đền Tạm. Việc dựng
Đền Tạm cho đến (Xu 40:1-38) mới được mô tả,
nhưng dường như việc dâng hiến Đền Tạm và lễ phong chức các thầy tế lễ đã xảy
ra trong cùng một ngày (c.12-15).
Tội lỗi được minh họa bởi nhiều hình
ảnh trong Kinh Thánh, chẳng hạn như bệnh tật (Es
1:4-6), sự tối tăm (IGi 2:1,5 Gi 5:24), nhưng thông thường nhất là sự dơ bẩn và
sự ô uế (Es 1:16,18 Gie 4:14 IICo 7:1 He 9:14
Gia 1:21 4:8).
Việc A-rôn và các con trai ông được tắm rửa kỹ lưỡng tượng trưng cho sự thanh
tẩy hoàn toàn từ Chúa. Họ không cần phải tắm như thế vào những lần khác, tất cả
những gì họ cần phải làm là rửa tay chân tại chậu rửa. Chúa Giê-xu phán
rằng:“một người đã tắm rồi chỉ cần rửa chân thì cả thân thể đều được sạch” (Gi 13:10 NIV), những ai tin Đấng Christ đều kinh
nghiệm được sự thanh tẩy bên trong từ Chúa (ICo
6:9-11).
Các thầy tế lễ được
mặc vào quần áo (Xu 29:5-6,8-9,29-30 Le 8:7-9,13). Môi-se
mặc cho người anh của ông bộ quần áo chúng ta đang nghiên cứu, và ông cũng mặc
cho các con trai A-rôn áo và mũ vải gai. Đây là những bộ “đồng phục” chính thức
của thầy tế lễ và họ sẽ không dám thi hành chức vụ trong Đền Tạm mà lại mặc
những quần áo khác.
Trong Kinh Thánh, việc mặc quần áo
là hình ảnh minh họa cho tính cách và đời sống của người tín hữu. Chúng ta phải
bỏ đi những quần áo dơ bẩn của đời sống cũ và mặc lấy “quần áo ân điển” đẹp đẽ
do Chúa ban cho (Eph 4:17-32 Co 3:1-15). Đấng Christ đã cất đi chiếc áo nhớp
của chúng ta và ban cho chúng ta chiếc áo của sự công bình mà Ngài đã mua cho
chúng ta trên thập tự giá (Es 61:10 IICo 5:17,21).
Các thầy tế lễ được
xức dầu (Xu 29:7,21 Le 8:10-12,30). Loại dầu đặc biệt này (Xu 30:2-33) chỉ được sử dụng để xức cho các thầy
tế lễ, cho Đền Tạm cùng những vật dụng của nó. Trong Kinh Thánh Cựu Ước, các
tiên tri, các thầy tế lễ và các vua đều được xức dầu. Điều này tượng trưng cho
việc Đức Chúa Trời đã ban Đức Thánh Linh cho họ để họ có được năng lực và sự
hầu việc (Lu 4:17-19 Es 61:1-3). Môi-se đã đổ dầu trên đầu A-rôn, anh của ông, và vì
thế dầu cũng sẽ chảy xuống râu của A-rôn và chảy trên tất cả những viên ngọc
trên bảng đeo ngực. Quả là một hình ảnh thật đẹp về sự hiệp nhất trong Chúa ! (Thi 139:2). “Ôi chớ chi cả dân sự của Đức
Giê-hô-va đều là tiên tri và chớ chi Đức Giê-hô-va ban Thần của Ngài cho họ !” (Dan 11:29).
Những ai tin nhận Chúa Giê-xu Christ
làm Chúa Cứu Thế và Chúa đều được sự xức dầu của Thánh Linh Đức Chúa Trời (IGi 2:20,27 IICo 1:21-22),
sự nhấn mạnh của Giăng là về chức vụ dạy dỗ của Thánh Linh trong việc hướng dẫn
các tín đồ trong lẽ thật của Lời Đức Chúa Trời. Sự nhấn mạnh của Phao-lô là về
sự yên ủi và sự vững vàng trong Chúa: chúng ta đã được xức dầu và được ấn chứng
bởi Thánh Linh, và Thánh Linh là “bảo đảm” của sự vinh hiển hầu đến. Nếu Đức
Chúa Trời đã xức dầu cho chúng ta, ấn chứng cho chúng ta, và giúp chúng ta có
thể hình dung trước về Thiên Đàng, vậy tại sao chúng
ta cứ phải thất vọng hay cảm thấy rằng Ngài sẽ lìa bỏ chúng ta ?
Các thầy tế lễ được
tha thứ (Xu 29:10-14). Một con bò đực bị giết làm của lễ chuộc tội (Le 4:1-25 8:14-17) để chuộc tội lỗi của các thầy tế lễ. Của
lễ này được lặp lại mỗi ngày trong một tuần (Xu
29:36-37), không chỉ để thanh tẩy các thầy tế lễ mà còn để thánh hóa bàn
thờ nơi các thầy tế lễ sẽ thi hành chức vụ. Chúa Giê-xu Christ là của lễ chuộc
tội của chúng ta và chỉ nhờ Ngài chúng ta mới tìm thấy sự tha thứ (Es 53:4-6,12 Mat 26:28 IICo 5:21 IPhi 2:24
Kh 1:5-6).
Các thầy tế lễ được
dâng lên cho Đức Chúa Trời một cách trọn vẹn (Xu 29:15-18 Le 8:18-21). Trong việc giết của lễ thiêu, cả con
vật sẽ được dâng lên cho Chúa, đây là một hình ảnh về sự dâng hiến trọn vẹn (Le 1:1-17). Chúa chúng ta đã dâng mình một cách
trọn vẹn, không chỉ qua chức vụ của Ngài trước thập tự giá mà còn qua sự hy
sinh tự nguyện của chính Ngài trên thập tự giá. Thầy tế lễ cả và các cộng sự
của ông phải dâng mình hoàn toàn cho chức việc và nó phải là mối quan tâm trên
hết trong lòng họ. Cơ Đốc nhân ngày nay cần suy gẫm về (Ro 12:1-2 ITi 4:15).
Người ta thường kể câu
chuyện về một ủy ban Anh quốc đang xem xét việc mời nhà truyền giáo D.L.Moody
đến thành phố của họ cho một chiến dịch truyền giảng. Khi một vị mục sư nói về
chức vụ của Moody một cách nhiệt tình thì một thành viên của ủy ban đã hỏi một
cách thiếu nghiêm túc rằng: “Tại sao chúng ta phải mời Moody ? Ông ta độc quyền
về Thánh Linh à ?”
Vị mục sư trả lời:
“Không, nhưng Thánh Linh có độc quyền trên ông.”
Các thầy tế lễ được
đánh dấu bằng huyết (Xu 29:19-22 Le 8:22-24). Ở thời điểm này trong lễ phong
chức, chúng ta mong đợi rằng Môi-se sẽ dâng của lễ chuộc tội (Le 5:1-19), nhưng ngược lại, ông lại dâng lên một
chiên đực làm của lễ thù ân, “chiên đực về lễ phong chức” (Xu 29:22 NIV). Từ Hê-bơ-rơ có nghĩa là “làm đầy”
vì trên tay của các thầy tế lễ có nhiều bánh và thịt.
Môi-se không chỉ rảy huyết trên bàn
thờ, trên A-rôn và các con trai ông, cùng với việc xức dầu, mà mỗi người sẽ
được đánh dấu bằng một chút huyết trên trái tai bên phải, ngón tay cái bên phải
và ngón chân cái bên phải. Đây là một sự nhắc nhở bằng dấu hiệu rằng họ phải
lắng nghe Lời Đức Chúa Trời, làm công việc Đức Chúa Trời, và bước đi trong
đường lối Đức Chúa Trời. Huyết nói về của lễ, vì vậy các thầy tế lễ trở nên
những “của lễ sống” trong sự hầu việc Chúa (Ro 12:1).
Các thầy tế lễ được
chu cấp (Xu
29:22-28,31-34
Le 8:25-29). Một sự việc đáng chú ý
khác là việc đổ đầy tay các thầy tế lễ từ “giỏ bánh” (Xu
29:2-3) và từ bàn thờ (c.22-28). Các thầy tế lễ đưa qua đưa lại các tặng
phẩm này trước bàn thờ của Đức Chúa Trời (c.24, “của lễ đung đưa”) và sau đó
cùng dự với nhau trong một bữa ăn thông công (c.31-34). Phần chia của một số
của lễ, cũng như những phần mười đặc biệt của mùa gặt đều là phần đền bù cho
các thầy tế lễ vì đã hầu việc tại bàn thờ (Le
8:28-36), nhưng họ phải xem những của lễ đó như những của lễ thánh và ăn
chúng trong khu vực của Đền Tạm.
Nếu các thầy tế lễ trung tín trong
việc dạy Lời Chúa và khích lệ Y-sơ-ra-ên vâng lời Chúa, họ sẽ không bao giờ
thiếu phương tiện để sinh sống vì dân sự được thôi thúc bởi Lời Đức Chúa Trời
và sẽ đem đến đền tạm những sinh tế và của lễ được yêu cầu, bởi đó sẽ chu cấp
cho các tôi tớ của Đức Chúa Trời. Đáng tiếc rằng một số thầy tế lễ trong những
năm sau đó đã ích kỷ, đầy lòng ham muốn và đã lấy đi những gì tốt nhất cho bản
thân họ (ISa 2:12-17 Ma 1:6-14).
Xu 29:1-37; xem giải nghĩa Xu 28:6-30
5. Các thầy tế lễ phải
thi hành chức vụ mỗi ngày (Xu 29:38-46)
Trong suốt tuần lễ phong chức, các
thầy tế lễ phải ở trong khu vực Đền Tạm (Le 9:33-36)
và khi tuần lễ này chấm dứt, họ bước ngay vào chức vụ của mình. Không có thời
gian cho một ngày nghỉ hay một kỳ nghỉ ! Trong công việc của mình, họ phải làm
theo thời khóa biểu hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng và hằng năm tất cả những
gì đã được khái quát trong Luật Pháp Đức Chúa Trời ban cho Môi-se trên núi
Si-nai.
Mỗi ngày sẽ bắt đầu bằng việc các
thầy tế lễ giết một chiên con làm của lễ thiêu, biểu thị cho sự dâng mình hoàn
toàn của dân sự trước Đức Chúa Trời, và một ngày kết thúc với của lễ là chiên
con thứ hai làm của lễ thiêu. Đây là một gương mẫu cho chúng ta noi theo, chúng
ta phải bắt đầu và kết thúc một ngày với sự đầu phục Chúa. Cùng với mỗi chiên
con, họ cũng dâng một của lễ chay trộn với dầu (Le
2:1-16 6:14-23) và một của lễ quán
khoảng một phần tư hin rượu được đổ trên bàn thờ (Dan
15:1-13). Với đa số của lễ chay, các thầy tế lễ chỉ đặt một phần bột để
làm chứng cớ trên bàn thờ và dùng phần còn lại trong
những bữa ăn của họ, nhưng với những của lễ vào mỗi buổi sáng và chiều tối thì
điều này không được áp dụng. Mọi thứ đã được dâng lên cho Chúa.
Bột và rượu tượng trưng
cho những kết quả công lao nhọc của dân sự trong
đồng ruộng và vườn nho. Theo ý nghĩa tượng trưng, họ đang trình dâng kết quả về
công khó nhọc của họ lên cho Đức Chúa Trời và tạ ơn Ngài đã ban cho họ sức lực
để làm việc và lương thực để ăn (Phu 8:6-18).
Rượu đổ ra là hình ảnh về đời sống của dân sự dâng trọn lên cho Chúa để hầu
việc Ngài (Phi 2:17 NIV, IITi 4:6 NIV). Tất cả những điều này sẽ làm đẹp
lòng Chúa và Ngài sẽ thấy vui khi ngự trong Đền Tạm và chúc phước cho dân sự
Ngài.
Xu 30:1-10,17-21; xem giải nghĩa 26:1-37
Xu 30:11-16; xem giải nghĩa 24:9-18
Xu 30:22-33; xem giải nghĩa 28:1-43
Xu 31:1-11; xem giải nghĩa 24:9-25:40
13. MỘT TẤM LÒNG TAN VỠ
VÀ MỘT GƯƠNG MẶT RẠNG NGỜI (Xu 32:1-34:35 40:1-38)
Vào tháng 2/1879 ở Hội
Thánh Holy Trinity tại Philadelphia, Mục sư nổi tiếng người Anh Phillips Brooks
đã trình bày một loạt những bài giảng mà sau đó được xuất bản thành cuốn “The Influence of Jesus” (Anh hưởng của Chúa Giê-xu). Trong bài giảng
thứ ba, ông đã đưa ra lời nhận định này về sự hầu việc Đức Chúa Trời:
“Để làm một mục sư đích
thực trước loài người thì phải luôn luôn chấp nhận hạnh phúc mới và sự đau khổ
mới, nếu cả hai điều này càng trở nên gắn bó chặt chẽ và không thể tách rời
nhau thì chức vụ hầu việc sẽ trở nên sâu sắc và thuộc linh hơn. Người phó mình
vì người khác không thể là một người hoàn toàn buồn bã, nhưng người ấy cũng
không thể là một người vui mừng mà không có phiền muộn” [105]
Qua những chương trước,
chúng ta thấy nguyên tắc này đã được minh họa một cách sinh động trong đời sống
của Môi-se. Sự vui mừng của ông nơi Đức Chúa Trời trên đỉnh núi đã bị ngăn trở
bởi sự thất vọng sâu sắc về dân sự của ông. Đó là một trong những kinh nghiệm
đau buồn nhất trong toàn bộ sự nghiệp của ông, nhưng nó đã chỉ ra điều tốt đẹp
nhất trong ông, là điều luôn xảy ra khi chúng ta yêu mến Đức Chúa Trời và sống
bởi đức tin.
1.Tội lỗi: dân sự Đức
Chúa Trời vi phạm luật pháp (Xu 32:1-35) (Xu 32:1-33:11)
Ít nhất ba lần trong
những tháng ở tại núi Si-nai, dân Do Thái đã hứa vâng theo bất cứ điều gì Đức
Chúa Trời bảo họ làm (19:8 24:3,7 20:19). Chúa biết rằng trong lòng không hề giữ
những lời mà họ đã hứa nguyện (Phu 5:28-29),
và bi kịch về bò vàng đã
chứng minh rằng Ngài đã đúng.
Tội trọng (Xu 32:1-6). Môi-se gọi việc họ đã làm là
một “tội trọng” (c.21,30-31), và sự đánh giá của ông là chính xác. Đó là một
tội trọng vì dân đã phạm chính là dân Y-sơ-ra-ên, tuyển dân của Đức Chúa Trời,
của báu được biệt riêng của Ngài. Tội ấy nghiêm trọng vì cớ thời gian và nơi
chốn họ phạm tội là tại núi Si-nai, sau khi họ đã nghe Luật Pháp của Đức Chúa
Trời được tuyên bố và nhìn thấy vinh hiển Đức Chúa Trời được bày tỏ. Họ đã hứa
vâng theo Luật Pháp Đức Chúa Trời, nhưng khi làm bò con vàng và chìm đắm trong
những nghi lễ dâm dục, họ đã phạm đến điều răn thứ nhất, thứ hai, và thứ bảy.
Đó là một tội trọng vì cớ những gì họ đã kinh nghiệm về quyền năng và sự thương
xót của Đức Chúa Trời: những sự đoán xét chống lại Ai Cập, sự giải cứu tại Biển
Đỏ, sự chu cấp thức ăn và nước uống, cùng sự dẫn dắt nhân từ của Đức Chúa Trời
bằng trụ mây và lửa. Điều họ đã làm là sự chống nghịch lại sự nhân từ của Chúa.
Không có gì ngạc nhiên khi tội lỗi của họ đã khiêu khích Đức Chúa Trời nổi giận
(Phu 9:7).
Tại sao Y-sơ-ra-ên phạm vào một tội
gian ác đến thế vào một thời điểm vinh quang như thế
trong lịch sử của họ ? Trước hết, họ thiếu kiên nhẫn với Môi-se là người đã ở
trên núi với Đức Chúa Trời trong 40 ngày đêm (c.11-12), và sự thiếu kiên nhẫn
thường là nguyên nhân gây ra những hành động nông nổi tội lỗi. Y-sơ-ra-ên đã
không biết cách sống bởi đức tin và tin cậy Đức Chúa Trời khi người lãnh đạo
của họ ở đâu đi chăng nữa. Dù Môi-se ở cùng họ hay xa họ, họ đều chỉ trích ông
và bỏ qua những gì ông đã dạy cho họ.
Nhưng A-rôn và các
trưởng tộc rất đáng trách vì họ đã không tìm cầu Đức Chúa Trời ngay lập tức để
nhận được sự giúp đỡ và cảnh cáo dân sự về những
điều sẽ xảy ra. A-rôn và Hu-rơ có thẩm quyền từ Môi-se để hướng dẫn dân sự khi
ông vắng mặt (Xu 24:14), và dù họ là những
người đã nhìn thấy hành động đầy quyền năng của Đức Chúa Trời, họ vẫn quên đi
Đức Chúa Trời và Môi-se. Thay vì ngăn cản dân sự, A-rôn lại đồng tình với họ và
làm thỏa mãn những ham muốn trong tấm lòng tội lỗi của họ. Sau đó, ông đưa ra
một lời bào chữa yếu ớt và tìm cách đổ lỗi cho dân sự (c.22-24), nhưng Đức Chúa
Trời biết rõ mọi sự. Đức Chúa Trời nổi giận đến độ Ngài đã giết A-rôn nếu
Môi-se không cầu thay cho ông (Phu 9:20).
Lòng ham muốn hình tượng của
Y-sơ-ra-ên xuất phát ở Ai Cập và vẫn tiếp tục âm ỉ trong lòng họ (Gios 24:14 Exo 20:4-9
23:3,8). A-rôn đã nuôi dưỡng sự tham muốn đó bằng cách
cho dân sự những gì họ muốn. Ngày nay người ta nói nhiều đến việc “đáp ứng những nhu cầu được cảm nhận của con người”, nhưng đây
lại là một dân tộc còn không biết được nhu cầu của chính mình thật sự là gì. Họ
nghĩ họ cần một hình tượng, nhưng điều họ thật sự cần là đức tin nơi Đức Chúa
Trời vĩ đại của họ, Đấng đã bày tỏ Ngài thật quyền năng đối với họ [106] Y-sơ-ra-ên đã đổi vinh hiển của Đức Chúa Trời chân thật và
hằng sống với hình ảnh của một con vật (Thi
106:19-23), nghĩa là họ đã hành động như những
dân tộc ngoại đạo quanh họ (Ro 1:22-27)
[107] Nhiều người có thể thức dậy sớm để phạm tội chớ không phải
để cầu nguyện.
Cuộc thử nghiệm lớn (Xu 32:7-14). Trong chức vụ lãnh đạo, những
sự từng trải đầy khó khăn với dân sự hoặc là sẽ gây dựng chúng ta hoặc sẽ làm
nản chí chúng ta, và Môi-se sắp được thử nghiệm. Đức Chúa Trời gọi Y-sơ-ra-ên
là “dân của ngươi mà ngươi đã đem ra khỏi xứ Ai Cập” như thể Chúa đã bỏ dân tộc
này cho Môi-se, nhưng Môi-se sớm nhắc Ngài rằng họ là dân Ngài và Ngài đã giải
cứu họ. Hơn nữa, Đức Chúa Trời đã lập một giao ước với tổ phụ họ để chúc phước
cho họ, khiến họ thêm nhiều và ban cho họ xứ của họ (Sa
12:1-3). Môi-se muốn giữ Đức Chúa Trời trong
Lời Ngài, và đó là điều Đức Chúa Trời muốn ông thực hiện.
Sau đó Chúa chọn một
phương cách khác: Ngài đề nghị tiêu diệt Y-sơ-ra-ên và tạo nên một dân mới từ
con cháu Môi-se [108] Một người kém cỏi hơn có thể đã chấp nhận lời
mời này, nhưng Môi-se thì không, ông yêu dân của ông, họ vốn tội lỗi, và hơn
bất cứ điều gì khác ông muốn làm vinh hiển Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và nhìn
xem Ngài thực hiện những lời hứa của Ngài. Môi-se không lo lắng về tương lai
của riêng ông; ông quan tâm đến thanh danh của Đức Chúa Trời. Dân Ai Cập sẽ nói
gì về Đức Chúa Trời nếu họ nghe rằng cả dân Y-sơ-ra-ên đã bị tiêu diệt tại núi
Si-nai ?
Đức Chúa Trời có quyền nổi giận vì
cớ tội thờ hình tượng và dâm dục thật trơ trẽn của Y-sơ-ra-ên (Xu 32:10-12), nhưng Môi-se đã thuyết phục Đức Chúa
Trời không tiêu diệt Y-sơ-ra-ên. Khi viết câu chuyện này, Môi-se đã sử dụng
những thuật ngữ loài người để mô tả những hành động của Đức Chúa Trời, và đây
là lý do mà ông đã ghi lại trong c.14 rằng Đức Chúa Trời “ăn năn”. Từ Hê-bơ-rơ
này nghĩa là “đau buồn, lấy làm tiếc” (Sa 6:6
ISa 15:29) và nó mô tả sự thay đổi phương
cách của Đức Chúa Trời trong việc xử lý dân sự Ngài (Gie
18:1-12 19:26). Bản tính Đức Chúa Trời không hề thay đổi, nhưng Đức Chúa Trời
đáp lại những lời cầu nguyện và xưng tội của dân Ngài.
Kỷ luật nghiêm khắc (Xu 32:15-33:11). Đức Chúa Trời trong ân
điển Ngài tha thứ tội lỗi của chúng ta, nhưng Đức Chúa Trời trong chính thể
Ngài cho phép tội lỗi gây nên những hậu quả kinh khiếp trong đời sống của con
người. Chúng ta phải gặt lấy những gì mình đã gieo ra (Ga
6:7-8). Ví dụ như, Đức Chúa Trời đã cất bỏ tội
lỗi của Đa-vít nhưng cũng cảnh cáo với ông rằng lưỡi gươm sẽ không rời khỏi gia
đình ông, và sự việc đã diễn ra như thế (IISa
12:1-14). Quả là một bi kịch khi phải gặt lấy
những hậu quả của tội lỗi đã được tha thứ !
Môi-se kỷ luật dân sự (Xu 32:15-29). Khi Môi-se xuống núi, ông yêu
cầu Giô-suê đi cùng ông (24:12-13). Một ngày
nào đó Giô-suê sẽ thay thế Môi-se, vì vậy Giô-suê cần phải học cách giải quyết
những vấn đề khó khăn này. Môi-se đã nổi giận (32:19,22), nhưng đó là
cơn giận nổi lên bởi tình yêu, và điều này là một sự đau đớn. Việc đập bể những
bảng đá là một hành động mang tính tượng trưng: Y-sơ-ra-ên đã phá vỡ giao ước
và ắt hẳn sẽ phải đối diện với sự kỷ luật. Nhưng trước khi xử lý dân sự, Môi-se
đã đối chất cùng A-rôn, vì đặc quyền của chức vụ lãnh đạo luôn đi cùng với bổn
phận và trách nhiệm. Nhà truyền giáo Billy Sunday nói rằng một lời bào chữa là
vỏ bọc của một lý do được nhồi nhét bằng sự giả dối, và những lời bào chữa yếu
ớt của A-rôn đã không thuyết phục được Môi-se.
Sau đó Môi-se quay sang dân sự và
hỏi: “Ai đứng về phía Đức Giê-hô-va ?” (Gios 24:15
IVua 18:21). Đây là một cơ hội để cả
Y-sơ-ra-ên ăn năn và tái xác nhận sự phó thác của họ trước Chúa, nhưng chỉ có
người Lê-vi đáp ứng với sự kêu gọi này. Bỏ qua những mối ràng buộc về gia đình
và tình bạn (Mat 10:34-39 Lu 14:26-27), họ đã mạnh dạn giết tất cả những
người có liên quan trong cuộc truy hoan, là khoảng 3.000 người. Nhiều thế kỷ
sau đó, Phao-lô đã sử dụng sự kiện này cùng với những sự kiện khác để cảnh cáo
các tín hữu Cơ Đốc về sự chống nghịch với Đức Chúa Trời (ICo 10:1-12).
Môi-se sau đó đã hủy
diệt bò vàng đáng hổ thẹn bằng cách đốt nó đi (nó có thể được làm bằng gỗ dát
vàng), nghiền vàng thành bột, rải bột xuống một dòng nước gần đó và để dân sự
uống nó (Phu
9:21) [109] Bằng cách này ông đã
hoàn toàn tiêu diệt hình tượng này và cũng buộc dân sự phải nhận biết những tội
lỗi đáng kinh khiếp của họ.
Môi-se đã trở lại với
Đức Chúa Trời trên núi Si-nai nơi ông kiêng ăn và cầu nguyện thay cho dân sự
trong hơn 40 ngày đêm (Xu 32:30-34 34:28
Phu 9:18-20). Ông cho Đức Chúa Trời biết rằng ông sẵn lòng chịu giết
nếu điều đó có nghĩa là dân Do Thái được sống, nhưng Đức Chúa Trời đã từ chối
lời đề nghị của ông [110] Chúa bảo đảm với Môi-se rằng thiên sứ Ngài sẽ
đi trước họ và Môi-se phải lãnh đạo dân sự như trước. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời
sẽ phạt họ theo cách của Ngài và trong thời điểm của Ngài. Nếu dân Do Thái biết
được tất cả những gì Môi-se đã phải chịu đựng vì cớ họ, họ có thể đã cảm kích
ông hơn nữa, nhưng đó là cái giá phải trả của chức lãnh đạo thuộc linh trung
tín.
Đức Chúa Trời kỷ luật
dân sự (Xu 32:35-33:11). Kỷ luật
đầu tiên của Đức Chúa Trời là giáng một tai vạ giữa vòng dân sự, nhưng chúng ta
không được biết có bao nhiêu người đã bị giết. Người Lê-vi đã giết 3.000 người
dự phần trong sự thờ lạy hình tượng và những việc làm đồi bại, nhưng Đức Chúa
Trời biết được tất cả những người phạm tội là ai. Đôi khi Đức Chúa Trời tuyên
án ngay lập tức nhưng sau đó hoãn lại việc thi hành án phạt. Tuy nhiên, trong
Cựu Ước hay Tân Ước thì “cũng có tội dẫn đến sự chết” (IGi
5:16-17 NKJV).
Sự xét đoán thứ hai của Đức Chúa
Trời là từ chối đi trước Y-sơ-ra-ên khi họ đi đến vùng Đất Hứa (Xu 33:1-6). Đức Chúa Trời sẽ giữ những lời hứa
Ngài đã lập với các trưởng tộc, nhưng thay vì đi trước Y-sơ-ra-ên trong thân vị
Con Ngài, thiên sứ của Đức Giê-hô-va (23:20-23),
Ngài sẽ chỉ định một thiên sứ đi cùng dân Do Thái. Lý do ? “Ngươi là dân cứng
cổ” (32:9 33:3,5). Nếu họ là một
dân khổ sở và phiền muộn, Chúa sẽ đến cùng họ trong ân điển và sự thương xót (3:7-10), nhưng một dân cứng cổ chỉ có thể bị kỷ
luật. Thà Đức Chúa Trời rời bỏ họ còn hơn là Ngài đến bất ngờ trên họ và tiêu
diệt họ !
Khi Môi-se rao cho
Y-sơ-ra-ên sứ điệp này, họ đáp ứng bằng cách lột những trang sức của mình và
than khóc. Đây có phải là sự ăn năn thật hay không, chỉ có Chúa biết. Rõ ràng,
họ đã góp đồ trang sức vàng của mình cho việc làm ra một hình tượng, và đây
từng là việc làm đồi bại của họ. Có lẽ họ đang bắt đầu học bài học của mình– theo phương cách khó khăn.
Sự xét đoán thứ ba là dời “hội mạc”
của Môi-se đến một địa điểm bên ngoài trại quân, nơi ông sẽ trực tiếp gặp Đức Chúa
Trời. Đây không phải là đền tạm của Chúa vì đền tạm chưa được dựng lên và dâng
hiến cho Chúa. Đây là một trại đặc biệt Môi-se đã sử dụng khi ông muốn cầu hỏi
ý kiến Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đầy lòng nhân từ đã gặp Môi-se và nói
chuyện với ông mặt đối mặt, theo cách những người bạn nói chuyện với nhau (Dan 12:1-8 Phu 34:10).
Trụ mây dẫn dắt dân tộc trong cuộc hành trình của họ sẽ lơ lửng ở cửa trại, và
dân sự sẽ biết rằng Môi-se và Chúa đang bàn bạc cùng
nhau.
Tội lỗi luôn phải trả
giá đắt, và tội lỗi của Y-sơ-ra-ên không chỉ dẫn đến cái chết của hằng ngàn
người, mà nó còn cướp đi của dân tộc sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong trại
quân và trong hành trình hành hương của họ đến vùng Đất Hứa. Như Charles
Spurgeon đã nói, “Đức Chúa Trời không bao giờ cho phép dân Ngài đạt được ý
nguyện trong sự phạm tội”.
2. Ân điển: tôi tớ của
Đức Chúa Trời cầu thay (Xu
32:1-35) (33:12-34:28)
Trải qua suốt 40 ngày
đêm với Đức Chúa Trời lần thứ hai trên núi Si-nai, Môi-se đã cầu thay cho dân
sự và nài xin Chúa phục hồi những phước hạnh của Ngài đã hứa ban cho họ.
Sự hiện diện của Đức
Chúa Trời với dân tộc (33:12-17). Môi-se
nhắc cho Chúa về lời hứa của Ngài là cùng đi với dân sự trong cuộc hành trình
của họ. Thật ra, khi dân tộc hát những bài ca ngợi Đức Chúa Trời tại Biển Đỏ,
họ đã vui mừng trong lời hứa về sự hiện diện đắc thắng của Đức Chúa Trời (15:13-18). Giờ đây liệu Đức Chúa Trời sẽ trở lại
trong Lời Ngài chăng ?
Môi-se đặt lời khẩn cầu của mình
trên cơ sở ân điển (đặc ân) của Đức Chúa Trời, vì ông
biết rằng Chúa thương xót và nhân từ, còn dân sự thì tội lỗi. Nếu Đức Chúa Trời
giáng cho họ điều họ đáng lãnh, chắc chắn họ sẽ bị tiêu diệt ! Dân Do Thái là
dân của Đức Chúa Trời và Môi-se là tôi tớ của Đức Chúa Trời. Họ không muốn
thiên sứ đi cùng với họ, vì điều này không có gì đặc biệt. Y-sơ-ra-ên có sự
khác biệt so với các dân tộc khác là vì Đức Chúa Trời của họ ở cùng họ, và đó
là điều Môi-se đã thỉnh cầu. Lòng ông chắc đã rộn lên vì vui mừng khi nghe Đức
Chúa Trời hứa đi cùng dân sự và dẫn họ đến nơi yên nghỉ mà Ngài đã hứa.
Con cái Đức Chúa Trời có
quyền “thương lượng” với Đức Chúa Trời như Môi-se đã làm không ? Tất cả đều tùy
thuộc vào mối liên hệ của chúng ta với Đức Chúa Trời. Môi-se biết đường lối Đức
Chúa Trời (Thi 103:7), và là người bạn thân thiết của Đức Chúa Trời, do đó ông có thể trình
bày duyên cớ mình bằng đức tin và sự khéo léo. Mục sư yêu mến Chúa người Ê-cốt
Samuel Rutherford, là người đã nếm trải được sự chịu khổ vì Đấng Christ, đã
viết rằng:“chính đức tin sẽ kêu cầu và thách thức sự yêu thương từ Đức Chúa
Trời”. Đó là điều Môi-se đang làm cho dân sự.
Vinh hiển của Đức Chúa
Trời được bày tỏ (Xu
33:18-23). Tôi tớ thật của Đức Chúa Trời quan tâm đến vinh hiển của
Đức Chúa Trời hơn bất cứ điều gì khác. Môi-se và dân Do Thái đã nhìn thấy vinh
hiển của Đức Chúa Trời qua trụ mây và lửa, cũng như trong “cơn bão” trên núi
Si-nai, nhưng Môi-se muốn nhìn thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời được bày tỏ
trực tiếp với ông. Đức Chúa Trời đã ban cho Môi-se một cái nhìn thoáng qua về
vinh hiển của Đức Chúa Trời và ông đã được thoả mãn, khi những tôi tớ của Đức
Chúa Trời nản lòng và thất vọng vì cớ tội lỗi của dân sự, phương thuốc tốt nhất
cho một tấm lòng tan vỡ là một khải tượng mới về vinh hiển của Đức Chúa Trời.
Sự tha thứ của Đức
Chúa Trời được ban phát (Xu 34:1-28). Môi-se đã có được lời hứa của Đức Chúa Trời sẽ đồng
đi với dân sự trong cuộc hành trình của họ, nhưng Ngài sẽ tha thứ cho dân sự về
tội lỗi của họ chăng ? Ngài sẽ cùng đi với họ như một người cảnh sát trông
chừng một phạm nhân hay như một người cha chăm sóc con cái yêu dấu của Ngài ?
Câu trả lời đã có được khi Chúa ra lệnh cho Môi-se chuẩn bị 2 bảng đá mới, vì
điều này có nghĩa là Ngài sẽ thay thế những bảng đá mà Môi-se đã đập bể ! Đức
Chúa Trời sẽ làm mới lại giao ước Ngài ! Sáng sớm hôm sau, Môi-se đã vâng giữ
cuộc hẹn với những bảng đá cầm trên tay ông.
Nhưng trước khi làm bất
cứ điều gì với những bảng đá, Đức Chúa Trời đều công bố sự vĩ đại của những thuộc tính Ngài (c.5-7), đây là một sự tuyên bố mang
tính cơ bản đối với toàn bộ thuyết thần học của Do Thái và Cơ Đốc, Môi-se đã
lặp lại những lời này trước mặt Đức Chúa Trời ở Ca-đe Ba-nê-a (Dan 14:17-19), dân Do Thái sử dụng chúng trong
thời Nê-hê-mi (Ne 9:17-18), và Giô-na đã
trích dẫn khi ông ngồi bĩu môi bên ngoài thành Ni-ni-ve (Gion 4:1-2). Chúng ta không đọc thấy rằng Môi-se
đã cúi mặt khi ông nhìn thấy sự thoáng hiện vẻ vinh hiển của Đức Chúa Trời,
nhưng ông thật đã cúi lạy và thờ phượng khi ông nghe Đức Chúa Trời phán những
lời long trọng này.
Đức tin đến bởi việc nghe và tiếp
nhận Lời Đức Chúa Trời (Ro 10:17), vì vậy Môi-se bởi đức tin đã cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ cho
dân sự. Những đại từ trong lời cầu nguyện này rất có ý nghĩa: “Xin hãy tha sự
gian ác cùng tội lỗi chúng tôi” (Xu 34:9). Dù không phạm tội bất tuân Đức Chúa
Trời, Môi-se đã đồng nhất chính ông với tội lỗi của dân sự, như E-xơ-ra và
Đa-ni-ên đã làm trong lời cầu nguyện xưng tội của họ (Exo
9:1-28 Da 9:1-27). Chúa chỉ tuyên bố
rằng Ngài đã tha thứ “điều gian ác, sự vi phạm và tội lỗi” (Xu 34:7), và Môi-se đã nắm giữ lẽ thật ấy.
Việc Đức Chúa Trời hồi phục lại giao
ước là bằng chứng Ngài đã tha thứ cho dân sự Ngài và
ban cho họ một sự khởi đầu mới. Nhưng Đức Chúa Trời cũng lặp lại những yếu tố
cần thiết của giao ước, đặc biệt là những luật về sự thờ hình tượng (c.12-17).
Khi Y-sơ-ra-ên đi vào Đất Hứa, họ sẽ rất dễ thoả hiệp với kẻ thù, trước hết qua
việc thực hiện những hiệp ước với họ, sau đó tham dự những kỳ lễ của họ, và
cuối cùng là kết hôn khác chủng tộc và tiếp nhận tình trạng ngoại đạo của họ.
Vấn đề quan trọng là ngay từ đầu Y-sơ-ra-ên phải từ chối và tiêu diệt mọi thứ
có liên quan đến hình tượng và để nhận ra rằng sự ngoại tình có tác động thế
nào đối với cuộc hôn nhân thì sự thờ hình tượng sẽ có tác động thể ấy trong
giao ước với Chúa.
Chúng ta là những người
sống nhiều ngàn năm sau những sự kiện này nên không thể ý thức được sự thờ hình
tượng của dân Ca-na-an gớm ghiếc ra sao khi Y-sơ-ra-ên vào chinh phạt xứ. Nó
đồi bại không thể tả, và giống như những khối ung thư trong cơ thể con người,
những đền thờ và bàn thờ ngoại đạo phải bị cất bỏ và hủy phá trước khi xứ lành
mạnh trở lại. Đức Chúa Trời đã kêu gọi Y-sơ-ra-ên làm nguồn phước cho thế giới,
đạt đến đỉnh điểm qua sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế.
Bởi ân điển của Đức Chúa
Trời, Môi-se đã đạt được những mục đích của ông. Đức Chúa Trời hứa đi cùng dân
sự, Đức Chúa Trời cho Môi-se thấy sự thoáng hiện về vinh hiển Ngài, và Đức Chúa
Trời đã tha thứ cho tội lỗi của dân tộc. Môi-se có thể trở về trại quân với
những bảng luật thứ hai và cho dân sự biết rằng Đức Chúa Trời đã tha thứ tội
lỗi cho họ.
3. Vinh hiển: sự hiện
diện của Đức Chúa Trời ngự cùng dân sự (Xu 32:1-35) (34:29-35 39:32-40:38).
Sách Xuất Ê Díp Tô kýmở
đầu với việc Môi-se nhìn thấy vinh hiển của Đức Chúa Trời trong bụi gai cháy (3:1-5), và kết thúc
với vinh hiển của Đức Chúa Trời giáng xuống trại quân và đầy dẫy Đền Tạm. Sự
hiện diện của vinh hiển Đức Chúa Trời trong trại quân Y-sơ-ra-ên không phải là
một sự xa xỉ: đó là một điều cần thiết. Nó xác nhận Y-sơ-ra-ên như một dân của
Đức Chúa Trời và biệt riêng họ với những dân tộc khác, vì đền tạm được hiến
dâng bởi sự vinh hiển của Đức Chúa Trời (29:43-44).
Những dân tộc khác có những công trình kiến trúc thiêng liêng, nhưng chúng
trống rỗng. Đền tạm của Y-sơ-ra-ên được chúc phước
bằng sự hiện diện của vinh hiển Đức Chúa Trời.
Vinh hiển của Đức Chúa
Trời được phản chiếu (Xu 34:29-35 IICo 3:1-18). Môi-se
kiêng ăn và cầu nguyện trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong 40 ngày đêm,
và ông đã được thấy một hình ảnh thoáng qua về vinh hiển của Đức Chúa Trời. Có
gì ngạc nhiên chăng khi ông có một gương mặt sáng rực ? Ông không nhận ra rằng
ông đã “hấp thu” ít nhiều sự vinh hiển và phản chiếu nó nơi vẻ mặt của ông [111] Bởi sự vinh hiển này, dân sự sợ đến gần ông, nhưng ông gọi họ đến
và họ đã nói chuyện với ông như trước đây. Tuy nhiên, sau khi nói chuyện với
dân sự xong, Môi-se mang vào một lúp che mặt để che đậy sự vinh hiển.
Vì sao Môi-se mang lúp
che mặt ? Không phải vì ông sợ dân sự, nhưng vì sự vinh hiển đang phai dần đi (IICo 3:13). Dân Do
Thái nhìn thấy vinh hiển này như điều gì đó kỳ diệu và thú vị, nhưng họ sẽ nói
gì nếu họ biết nó đang tan biến dần ? Ai sẽ muốn đi theo một người lãnh đạo
đang mất đi vinh quang của mình ? Vì vậy Môi-se sẽ đi vào trong hội mạc để nói
chuyện với Đức Chúa Trời, và vinh hiển sẽ trở lại, nhưng sau đó ông sẽ mang lúp
để dân sự không thấy vinh hiển biến mất.
Trong (IICo
3:1-18), Phao-lô đã thực hiện nhiều ứng dụng về sự kiện đáng chú ý này.
Trước hết, ông chỉ ra rằng vinh hiển của hệ thống Luật pháp Môi-se đang biến
đi, nhưng vinh hiển về Phúc Âm của Ân điển Đức Chúa Trời đang trở nên rực rỡ
hơn (c.7-11). Đây là câu trả lời của ông cho những người theo chủ nghĩa luật
pháp đã dạy rằng sự vâng phục Luật pháp cùng với đức tin nơi Đấng Christ là
phương cách cứu rỗi của Đức Chúa Trời (Cong 15:1).
Tại sao chúng ta cần phải tin nơi điều gì đó khi vinh hiển của nó đang tan biến
?
Phao-lô cũng ứng dụng sự kiện này
cho dân Do Thái hư mất vào thời của ông, họ có tấm lòng bị che đậy bởi mạng che
vô tín đến nỗi họ không thể nhìn thấy vinh hiển của Đấng Christ (IICo 3:14-16). Cách duy
nhất để cất bỏ chiếc mạng che đó là tin nơi Lời Chúa và tin nhận Chúa Giê-xu
Christ.
Cuối cùng, ông áp dụng
kinh nghiệm của Môi-se cho những Cơ Đốc nhân bởi đức tin nhìn thấy vinh hiển
Đức Chúa Trời trong Lời Ngài và kinh nghiệm được sự biến đổi về thuộc linh
(c.17-18). Đây là lý do Cơ Đốc nhân phải đọc Kinh Thánh và suy gẫm về nó, vì
khi con cái Đức Chúa Trời nhìn vào Lời Ngài và thấy Con Ngài, người ấy sẽ được
biến đổi bởi Thánh Linh Ngài để trở nên ảnh tượng của Đức Chúa Trời vì vinh
hiển của Đức Chúa Trời [112]
Vinh hiển của Đức Chúa
Trời ngự vào (Xu 39:32-40:38). Dân
Y-sơ-ra-ên không có ý niệm gì về điều Môi-se đã kinh nghiệm trên núi và thể nào
họ đã tiến đến gần để bị Đức Chúa Trời khước từ và bị Ngài hủy diệt. Đừng bao
giờ đánh giá thấp quyền năng thuộc linh của một người nam hay người nữ tận tuỵ
biết cách phải cầu thay với Đức Chúa Trời như thế nào. Một trong bốn nhu cầu
lớn nhất của chúng ta hôm nay về những người cầu thay; họ là những người có thể
nắm giữ những lời hứa của Đức Chúa Trời và tin cậy Đức Chúa Trời hành động
trong quyền năng mạnh mẽ (Es 59:16 62:1 64:1-7).
Công việc về đền tạm và những vật
dụng của nó giờ đây đã được hoàn tất, vì vậy những người thợ đem mọi thứ đến
cùng Môi-se để ông kiểm tra. Sẽ thật dại dột khi cho xây dựng đền tạm và đặt
những vật dụng cùng đồ đạc vào vị trí để rồi khám phá ra rằng những người thợ
đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng. Từ “truyền lệnh” được sử dụng 18 lần
trong (Xu 39:1-40:38) để nhắc nhở chúng ta
rằng những người làm việc đã làm theo những điều Đức Chúa Trời phán bảo họ làm.
Môi-se là một tôi tớ trung tín đã làm mọi điều Đức Chúa Trời bảo ông làm (He 3:1-6).
Công việc đã được chấp thuận và đền
tạm đã được xây dựng (Xu 40:1-8,17-19,33). Chương này
tóm tắt lại sự tận tuỵ của các thầy tế lễ, được mô tả trong (28:1-29:46), cũng như việc dâng hiến đền tạm và
những thứ bên trong nó. Chính Môi-se bảo đảm rằng mọi thứ vật dụng và mọi đồ dùng đều được xức dầu và được đặt đúng
chỗ. Đức Chúa Trời không thể và sẽ không ngự trong đền tạm nếu mọi sự không
được thực hiện theo kiểu mẫu Ngài đã chỉ cho Môi-se ở trên núi (25:8-9,40 He 8:5 9:9) [113]
Có quá nhiều người chân
thành đã tìm cách làm công việc Đức Chúa Trời theo ý riêng của họ và sau đó cầu
xin Đức Chúa Trời chúc phước cho việc ấy. Nhưng chức vụ không hoạt động theo
cách đó. Trước hết chúng ta phải tìm biết điều Đức Chúa Trời muốn chúng ta làm,
và chúng ta thực hiện việc ấy để làm vinh hiển Ngài. Nếu chúng ta vâng theo ý
muốn Ngài và luôn tìm cầu để được tôn vinh danh Ngài thì Ngài sẽ đến và chúc
phước cho công việc của chúng ta bằng sự hiện diện đầy quyền năng của Ngài.
Sau khi mọi thứ và mọi
người có liên quan đến đền tạm đã được dâng lên cho Chúa thì vinh hiển của Đức
Chúa Trời đầy dẫy đền tạm và ở tại đó. Từ Hê-bơ-rơ được dịch là “ở” trong (Xu 40:35) (“định vị”, NIV) được chuyển tự là “shekinah” trong
tiếng Anh, nghĩa là “sự hiện diện đời đời của Đức Chúa Trời” (24:16
25:8). Sự hiện diện của vinh quang Đức Chúa
Trời đầy quyền năng đến nỗi Môi-se không thể bước vào đền tạm !
Khi đọc lịch sử Do Thái, bạn khám
phá rằng vinh hiển từng ngự trong đền tạm đã rời khỏi đó khi các thầy tế lễ và
dân sự phạm tội nghịch với Chúa (ISa 4:21-22).
“Y-ca-bốt” nghĩa là “sự vinh hiển đã lìa khỏi”. Khi Sa-lô-môn dâng hiến đền
thờ, vinh hiển của Đức Chúa Trời một lần nữa đã đến ngự cùng dân sự Ngài (IVua 8:10-11), nhưng một lần nữa tội lỗi của họ đã
xua đi vinh hiển của Đức Chúa Trời (Exe 8:3 9:3 10:4,18 11:23).
Lần kế tiếp vinh hiển của Đức Chúa
Trời đã đến trên đất trong thân vị của Chúa Giê-xu Christ (Gi 1:14). Trong bản dịch Cựu Ước tiếng Hy Lạp (Bản
bảy mươi), từ “ở” trong (Xu 40:35) là từ Hy
Lạp được sử dụng trong (Lu 1:35) và được
dịch là “che phủ”. Tử cung trinh trắng của Ma-ri là một nơi chí thánh mà vinh
hiển của Đức Chúa Trời đã ngự vào trong thân vị Con
Đức Chúa Trời. Thế gian đã làm gì với sự vinh hiển này ? Đóng đinh sự vinh hiển
ấy vào thập tự giá !
Ngày nay vinh hiển của
Đức Chúa Trời ở đâu ? Thân thể của mọi tín hữu thật, là đền thờ của Đức Chúa Trời (ICo 6:19-20), Hội
Thánh địa phương (ICo 3:10-23) và Hội Thánh
hữu hình (Eph 2:20-22) cũng là nơi ở của
Ngài. Khi Sa-lô-môn hoàn tất đền thờ, vinh hiển của Đức Chúa Trời đã ngự vào,
nhưng khi Đức Chúa Trời hoàn tất việc xây cất Hội Thánh của Ngài thì Ngài sẽ
cất Hội Thánh đi ! Và rồi chúng ta sẽ dự phần vinh hiển Đức Chúa Trời trên
Thiên Đàng suốt cõi vĩnh hằng ! “Thành không cần mặt trời và mặt trăng chiếu
sáng, vì vinh hiển của Đức Chúa Trời đã chiếu sáng nó, và Chiên Con là sự sáng
của nó” (Kh 21:23 NKJV).
Ngày nay Đức Chúa Trời không sống
trong những toà nhà (Cong 7:48-50 IVua 8:7). Những tòa nhà được dâng hiến cho Đức
Chúa Trời để dùng làm công cụ cho công tác của Ngài và những người hầu việc
Ngài. Nhưng Đức Chúa Trời thật sự ngự giữa vòng dân sự Ngài, và trách nhiệm của
chúng ta là làm vinh hiển cho Đức Chúa Trời một cách cá nhân (ICo 6:20) và tập thể (14:23-25).
Sẽ là một bi kịch nếu sự vinh hiển lìa khỏi chúng ta và chúng ta phải viết
“Y-ca-bốt” trên những tòa nhà của mình. Sẽ tốt đẹp hơn biết bao nếu chúng ta,
giống như Môi-se, làm mọi việc theo kiểu mẫu trên trời để vinh hiển của Đức
Chúa Trời sẽ ở giữa vòng chúng ta một cách thân thiết.
Xu 33:1-23; xem giải nghĩa Xu 32:1-35
Xu 34:1-35; xem giải nghĩa Xu 32:1-35
Xu 35:1-35; xem giải nghĩa Xu 24:9-25:40
Xu 36:1-38; xem giải nghĩa Xu 24:9-25:40
Xu 37:1-24; xem giải nghĩa Xu 24:9-25:40
Xu 37:25-29; xem giải nghĩa Xu 26:1-37
Xu 38:1-20; xem giải nghĩa Xu 26:1-37
Xu 38:21-31; xem giải nghĩa Xu
24:9-25:40
Xu 39:1-43; xem giải nghĩa Xu 28:1-29:46
Xu 40:1-38; xem giải nghĩa Xu 32:1-34:45
LỜI BẠT
Khi nghiên cứu sách Xuất
Ê Díp tô ký, chúng ta đã cùng đi với Môi-se từ vinh hiển của Đức Chúa Trời
trong bụi gai cháy đến vinh hiển của Ngài trong đền tạm. Vậy những lẽ thật cơ
bản chúng ta học được ở đây là gì ?
1. Mục đích của Đức Chúa
Trời dành cho con dân Ngài là sự tự do. Ngài không muốn chúng ta ở trong ách nô
lệ của bản ngã, tội lỗi và thế gian.
2. Mục đích của Đức Chúa
Trời trong sự tự do là muốn dân sự Ngài phải bày tỏ cách cư xử và tinh thần hầu
việc có trách nhiệm. Sự tự do không phải là đặc quyền để làm bất cứ điều gì
chúng ta muốn mà đây là cơ hội để thực hiện bất cứ điều gì Đức Chúa Trời muốn
chúng ta làm.
3. Sự tự do có trách
nhiệm (sự trưởng thành) có được khi chúng ta trải qua những hoạn nạn thử thách
và tin cậy Đức Chúa Trời sẽ giúp chúng ta vượt qua.
Sự phàn nàn khi cuộc sống trở nên khó khăn là một dấu hiệu của sự non kém thuộc
linh.
4. Đức Chúa Trời muốn ngự nơi lòng
của mỗi chúng ta (Gi 14:21-24). Tội lỗi của
chúng ta khiến Đức Chúa Trời đau buồn và Ngài rút lại mối thông công và sự chúc
phước của Ngài khi chúng ta chống nghịch cùng Chúa. Ở trên trời chúng ta có một
Đấng Trung Bảo và là Đấng Cầu Thay cho chúng ta, là Đức Chúa Giê-xu Christ,
chúng ta có thể xưng tội mình với Ngài và nhận được sự tha thứ (IGi 1:5-2:2).
5. Tín đồ ngày nay là một nước của
các thầy tế lễ, trách nhiệm trên hết của chúng ta là thờ phượng và làm đẹp lòng
Đức Chúa Trời. Mọi điều chúng ta có được và mọi điều chúng ta làm đều tùy thuộc
vào điều này. Với tư cách thầy tế lễ, chúng ta phải phục vụ cho nhau và cho một
thế giới hư mất.
6. Mục tiêu quan trọng nhất trong
đời sống của một Cơ Đốc nhân là có thể đứng trước mặt Đức Chúa Trời một ngày
nào đó và nói một cách chân thành rằng: “Con đã làm vinh hiển Cha trên đất. Con
đã làm xong việc Cha giao cho con làm” (Gi 17:4
NKJV).


