CHƯƠNG
1
SỰ LINH
CẢM CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI TRÊN KINH THÁNH
(Inspiration
of the Bible)
Sự
Linh Cảm(hà hơi) (Inspiration) của Thượng-Đế trên Kinh Thánh có tầm
quan trọng
rất lớn, vì tất cả những tín lý Cơ-Đốc đếu được khai triển từ Kinh
Thánh
và dựa trên Kinh Thánh làm thẩm quyền tối hậu. Lòng xác tín rằng Thượng-Đế
hằng hữu
mặc khải chính mình Ngài cho con người luôn luôn là trọng tâm trong
niền
tin Cơ-Đốc. Vì cớ con người tự mình không thể khám phá ra Thượng-Đế, Cơ-Đốc
Nhân
luôn luôn tin rằng Đức Chúa Trời chính mình Ngài cho con người qua cách
siêu
nhiên. Những quyển sách đã tạo thành quyển Kinh Thánh nguyên thủy của Tân
Cựu Ước
đều được Thượng-Đế linh cảm toàn thể và hoàn toàn không sai lầm. Những
quyển
sách này làm thành Lời văn của Đức Chúa
Trời, là khuôn vàng thước ngọc
duy nhất
không sai trật của niềm tin và sự sống đạo Cơ-Đốc.
Chấp nhận sự linh cảm của Đức Chúa Trời
trên Kinh Thánh không có nghĩa
rằng mỗi
phân đoạn trong đó đều có thể giải thích và thông hiểu được hết. Có
những
chiều sâu trong Quyển Sách của Đức Chúa Trời mà trí óc loài người không
thể dò
thấu; nhưng thay vì là những dấu chỉ của khuyết và nhược điểm, những
chiều
sâu khó hiểu này đóng vai trò chứng minh sự nguyên thủy thần hựu của Kinh
Thánh từ
đầu chí cuối, thì những nghi về nguồn gốc thần hựu của Kinh Thánh đáng
được đặt
ra. Thượng-Đế đã bày tỏ một tri thức vừa đủ về tình yêu và ân sủng Ngài
cho Cơ-Đốc
Nhân để họ có cả niềm tin và hy vọng nơi Ngài, và họ được đảm bảo
rằng: "Nếu ai làm theo ý chỉ của Thượng-Đế, thì sẽ biết đạo lý Ngài" (Phúc-Âm
Giăng
7: 17). Nếu Cơ-Đốc Nhân học Kinh Thánh, không phải với định kiến và sự chỉ
trích,
nhưng với niềm tin và lòng yêu mến những vị tác giả của Kinh Thánh, thì
họ sẽ
hiểu được sứ điệp của Kinh Thánh là như thế nào.
Có sự khác biệt giữa Măïc Khải và Linh Cảm.
Mặc Khải là bản ghi nhận về
việc Thượng-Đế
truyền đạt qua con người. Linh Cảm là quyền năng của Thượng-Đế
làm cho
con người có thể ghi nhận cách đúng đắn chân lý được bày tỏ. Chữ "Linh
Cảm"
chỉ được dùng hai lần trong Kinh Thánh (Gióp 32: 8; II Ti-mô-thê 3: 16), có
nghĩa
là Đức Chúa Trời "thở hơi vào" trong con người để con người nói và viết
xuống sự
mặc khải chân lý của Đức Chúa Trời với thẩm quyền và xác thực (II
Phi-e-rơ
1: 21).
Không phải tất cả những sự việc trong
Kinh Thánh đều được mặc khải trực
tiếp
trong con người. Kinh Thánh ghi chép bằng ngôn ngữ lịch sử của con người,
thậm chỉ
bằng cả những ngôn ngữ của những con người gian ác, nhưng không có phần
nào lại
không được Đức Chúa Trời linh cảm. Đức Thánh Linh ảnh hưởng và soi dẫn
các tác
giả để họ tránh khỏi bất cứ những sai trật gì về dữ kiện hoặc về tín lý.
Linh cảm không có nghĩa là Thượng-Đế tán
thành mọi câu văn được ghi lại
trong đó.
Kinh Thánh ghi lại những lời nói dối của Sa-tan (thí dụ "người sẽ
chẳng
chết đâu"), và hành vi sai trật của những kẻ ác, một vài người trong số
này được
Thượng-Đế dùng để truyền đạt sứ điệp của
Ngài, thí dụ, sách Gióp chứa
đựng
chân lý của Đức Giê-hô-va, những lời của Sa-tan, bài nói chuyện của
Ê-li-hu,
và sự tranh luận của Gióp với ba người bạn. Sa-tan, Gióp và ba bạn của
ông
không nói bởi sự linh cảm của Đức Chúa Trời. Những người này nói ra ý kiến
riêng của
họ. Sự linh cảm có nghĩa là không ai trong bọn họ bị hiểu sai trật với
vai trò
riêng từng người, nhưng là mỗi người nói những lời dựa theo cá tính của
họ
trong Kinh Thánh. Những dữ kiện về các hành động tội ác như việc Sau-lơ sát
hại các
thầy tế lễ, việc Vua Đa-vít kiểm tra dân số, việc Vua Hê-rốt thảm sát
những đứa
trẻ vô tội được ghi lại trong Kinh Thánh, không hàm ý rằng Đức Chúa
Trời
tán thành hành vi của họ, nhưng sự ghi chép thần hựu đảm bảo sự xác thực
của những
dữ kiện này.
TẦM MỨC
CỦA SỰ LINH CẢM
Trong khi sự linh cảm được hầu hết các
giáo phái Cơ-Đốc Nhân công nhận,
nhưng
không phải tất cả đều nhất trí về tầm mức sự linh cảm. Có nhiều thuyết
khác
nhau về sự linh cảm.
Linh Cảm
Tự Nhiên (Natural Inspiration)
Thuyết này đồng hóa sự linh cảm với một đẳng
bậc cao của khả năng con
người.
Họ phủ nhận bất cứ sự siêu nhiên nàotrong viện chuẫn bị hình thành của
Kinh
Thánh. Thuyết này cho rằng các tác giả của Kinh Thánh được sự cảm ứng không
khác hơn
sự cảm ứng của thuyết gia Milton ,
văn hào Shakespear, hoặc lãnh tụ tôn
giáo
Mohammed .
Tuy nhiên, khi Vua Đa-vít nói: "Thần của Đức Giê-hô-va đã cậy miệng ta
mà
phán,
và lời của Ngài ở nơi lưỡi miệng
ta." (II Sa-mu-ên 23: 2), ông ta ta nói
đến một
việc gì đó vượt hơn cả xảo năng con người. khi tiên tri Ê-sai tuyên bố:
"Đức
Giê-hô-va phán" (Ê-sai 43: 1), ông ta cho rằng có một điều gì đó trội hơn
tài
hùng biện của thi sĩ hùng mạnh nhất. Khi sứ đồ Phao-lô nói với người thành
Cô-rinh-tô: "Chúng ta nói về ơn đó, không cậy lời
nói mà sự khôn ngoan của lời
người đã
dạy đâu, song cậy sự khôn ngoan mà Đức Thánh Linh đã dạy" (I Cô-rinh-tô
2: 13),
ông ta sử dụng ngôn ngữ mà không thể tìm thấy được nơi khả năng con
người.
Khi người ta so sánh các văn phẩm của các
tác giả nổi tiếng ngoài đời của
Kinh
Thánh, sự khác nhau giữa hai bên không phải chỉ là thuộc về trình độ, nhưng
còn là
hạng loại. Kinh Thánh không những là một văn phẩm cao cấp nhưng còn là
một
khung cảnh hoàn toàn khác hẳn. Nếu giả sử những phẩm chất của các tác giả
Kinh
Thánh đều giống như của các tác giả ngoài đời, thì sẽ không có gì đảm bảo
cho độc
gia ûcủa Kinh Thánh rằng Môi-se, Vua Đa-vít, và sứ đồ Phao-lô đã không
phạm những
lỗi lầm của con người hoặc không dạy những quan điểm của con người về
đời sống.
Thuyết "linh cảm tự nhiên" phủ nhận thay vì ủng hộ lời Thượng-Đế.
Linh Cảm
Máy Móc (Mechanical Inspiration)
Thuyết này bỏ qua tính cách con người là
một công cụ trong việc chuẩn bị
hình
thành của Kinh Thánh họ cho rằng các tác giả Kinh Thánh giống như những
người
máy, làm việc cách vô tri vô giác không khác chi những phím đàn dương cầm
khi bàn
tay nhạc sĩ đụng đến. Hãy thử nghĩ đến một Môi-se cương quyết, một Vua
Đa-vít đầy
thi vị, một sứ đồ Giăng khả ái, và một Phao-lô học thức. Cẫn thận
nghiên
cứu Thánh Kinh cho ta thấy rằng Đức Chúa Trời đã sử dụng cá tính của các
tác giả
để đến với mọi tầng lớp dân chúng.
Linh Cảm
Từng Phần (Partial Inspiration)
Thuyết Linh Cảm Từng Phần chủ trương bởi
một số người có một kiến thức
nông cạn
về Thánh Kinh, họ chấp nhận những lí thuyết của khoa học gia làm dữ
kiện thật.
Dựa trên những cái không hòa hợp bề ngoài giữa những lí thuyết khoa
học và
Kinh Thánh, họ kết luận rằng Kinh Thánh chứa đựng lời Thượng-Đế nhưng
phần lớn
không phải là Lời Ngài, và vì thế không cần phải chính xác. Do đó, họ
có thể
chấp nhận thuyết tiến hóa và phủ nhận sự linh cảm của những phân đoạn
Kinh
Thánh chống lại thuyết này. Nếu kinh nghiệm của tiên tri Giô-na có vẻ không
thích hợp
với các khám phá khoa học, hoặc nếu các đọan văn về sự đồi trụy của
bản chất
con người và hình phạt đời đời dành cho những kẻ ác không thể chấp nhận
được,
thì thuyết linh cảm từng phần cung cấp một lối thoát thuận lợi. Nhưng ai
là người
có phẩm quyền quyết định phân đoạn nào được linh cảm và phân đọan nào
không được
linh cảm? Lý thuyết linh cảm từng phần làm cho người ta mơ hồ lưỡng
lự.
Linh Cảm
Toàn Phần (Plenary Inspiration)
Đây là niềm tin của giáo hội Cơ-Đốc. Thuyết
linh cảm toàn phần hay toàn
diện đối
nghịch với thuyết linh cảm từng phần. Thuyết này tin là cả Kinh Thánh
đều được
linh cảm như nhau, dựa trên sách II Ti-mô-thê 3: 16: "cả Kinh Thánh
đều được
Đức Chúa Trời linh cảm vào".
Nhiều điều đã được nói và viết để trả lời
cho câu hỏi: "Có phải từng chữ
một của
Thánh Kinh được linh cảm không? " Có phải Đức Thánh Linh đọc từng chữ
một,
hay là những tác giả được chọn chính chữ của họ? Nếu toàn thể nội dung Kinh
Thánh
hoàn toàn xác thực, thì tất nhiên phải nhận rằng những chữ cũng ý tưởng
trong đó
phải được linh cảm. Vài đoạn văn Kinh Thánh ghi y nguyên Lời của chính
Thượng-Đế
viết hoặc nói. Mười điều răn được viết bằng "Ngón tay của Đức Chúa
Trời"
(Xuất 31: 18; 32: 16). Một chữ viết tay trên bức tường của cung điện Vua
Bên-xát-sa
được viết bằng "những ngón tay của bàn tay một người" (Đa-ni-ên 5:
5).
Trong Kinh Thánh Tân Ước, giọng nói được nghe thấy tại phép Báp-têm và sự
hòa
hình của Chúa là những lời không thể lầm lẫn được.
Ngoài
những lời chính xác này, thì không thể có sự chính xác nào khác, đặc biệt
là sự
chính xác nhưng không đòi hỏi Kinh Thánh. Sự tuyên bố của các tác giả, là
những
người được Thượng-Đế tuyển lựa để ghi chép Kinh Thánh, khẳng định sự thật
rằng họ
có trách nhiệm với những lời chứ không phải là với quan niệm.
Kết quả của thuyết linh cảm toàn phần là
sự vô ngộ của Kinh Thánh.
TÍNH CHẤT
CỦA SỰ LINH CẢM (Nature of Inspiration)
Nghiên cứu kỹ lưỡng sẽ cho thấy Thượng-Đế
truyền đạt lời Ngài qua nhiều
cách
khác nhau.
Lời
Chúa Phán (Divine Utterances)
Trong cả Tân Ước và Cựu Ước từng lời một
của Thượng-Đế được ghi lại bằng
chữ viết
(Xuất. 32: 16; I Sử. 28: 19; Đa-ni-ên 5: 5). Dân của Thượng-Đế rất
thích được
phép nghe giọng nói Ngài, về điều đó Môi-se đã nói: "Há có một dân
tộc nào
nghe tiếng Đức Chúa Trời từ trong lửa phán ra như ngươi đã nghe, mà vẫn
còn sống
chăng?" (Phục. 4: 33). Những lời nói linh thiêng nầy sau đó được ghi
trên tảng
đá "bằng ngón tay của Thượng-Đế" (Xuất. 31: 18; Phục 4: 33), và được
mang
trong hòm giao ước. Trong Kinh Thánh Tân Ước,
Đức Chúa Trời làm vinh dự
con
Ngài qua việc nói xuống từ trời tại phép Báp-tem (Mat. 3: 17), tại núi hóa
hình
(Mat. 17: 5), và trước khi Chúa Giê-xu chịu đóng đinh ( Giăng 12: 28).
Những lời
nói linh thiêng này đã được các tác giả ghi chép lại kỹ lưỡng và đúng
đắn.
Lời
Chúa Truyền (Divine Dictation)
Thượng-Đế đặt để trong môi miệng của một
số người những chữ nào đó mà họ
sẽ phải
nói và viết y như vậy (Xuất. 4: 10-15; 34: 27; Ê-sai 8: 1,11,12; Giêr.1:
7; 7:
27; 13: 12; 30: 1,2; Ê-xê. 3: 10,11; 24: 2; Hab. 2: 2). Phi-e-rơ nói rằng
khi các
tiên tri viết về Chúa Cứu Thế họ thật sự phải suy xét tìm hiểu các lời
tiên
tri mà chính họ đã viết, thậm chí họ không thấu hiểu hết các lời nầy.
(Phi-e-rơ
1: 10-12).
Quan trọng hơn nữa, Đa-ni-ên nói về việc
Chúa trực tiếp đọc cho ông: "Tôi
nghe,
nhưng tôi không hiểu". Trả lời câu hỏi cho việc giải thích sau nầy, Chúa
phán: "Hỡi Đa-ni-ên hãy đi; bởi vì những lời nầy
đã đóng lại và đóng ấn cho đến
kỳ cuối
cùng" (Đa-ni-ên 12: 9). Tiên tri Đa-ni-ên được ban cho quyền phép để ghi
lại những
lời chính xác không sai trật những gì ông đã nghe, mặc dù ông không
hiểu.
Tuy thế tiên tri Đa-ni-ên vẫn là người khôn ngoan thông giải giấc mộng của
vua
Nê-bu-cát-nết-xa và đọc được dòng chữ viết tay trên bức tường. Việc ghi chép
của Đa-ni-ên
về những gì Chúa trực tiếp nói mà ông không hiểu biết, không phải
đơn thuần
là những cảm ứng của ý tưởng, hoặc là sự cao diệu của trí tuệ, hay là
sự gia
tăng của năng lực trí thức. Nó là một sự mặc khải trực tiếp và đặc biệt
về chân
lý từ Thượng-Đế.
Sự Diễn
Tả Của Con Người
Cá tính và cách hành văn của các tác giả
Kinh Thánh không bị loại bỏ bởi
sự linh
cảm thiên thượng. Thí dụ, tác giả của bốn sách Phúc-Âm ghi lại khác nhau
về những
gì quan tổng đốc Phi-lát viết trên Thập tự giá. Tuy thế, qua sự so sánh
kỹ lưỡng
những bản tường thuật của họ (Mat. 27: 37; Mác 15: 26; Lu. 23: 38;
Giăng
19: 19,20), cách dùng chữ chính xác, thì chúng ta có thể xác định được
những
phần gì trong đó mà Đức Chúa Trời muốn ghi lại. Toàn phần hàng chữ ghi
xuống rỏ
ràng là: "Đây là Giê-xu người
Na-za-rét, Vua đân Do Thái", dữ kiện
quan trọng
hơn hết được ghi lại tất cả bởi các tác giả là Giê-xu là: "Vua dân
Do
Thái". Đây là dòng chữ làm phiền lòng dân Do Thái, vì họ yêu cầu quan tổng
đốc
Phi-lát đừng viết như vậy. Sự thật người Do Thái đã trưng dẫn chính xác
những
chữ này khi họ tranh luận buộc tội Chúa và loại bỏ phần cuối. Đó là những
gì các
tác giả của Phúc-Âm đã làm dưới sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh. Đức
Thánh
Linh đã sử dụng sự chú ý, điều tra, ký ức, cá tính, lý luận - thật ra là
tất cả
những năng lực của các tác giả - và làm việc qua các điều này.
LỜI
TUYÊN XƯNG VỀ SỰ LINH CẢM (The claims for Inspiration)
Chính các tác giả đã tuyên xưng rằng họ
viết Kinh Thánh dưới sự ảnh hưởng
trực tiếp
của Đức Thánh Linh.
Các Tác
Giả Cựu Ước
Không người nào đọc Kinh Thánh Cựu Ước mà
không chú ý đến sự lặp đi lặp
lại của
những câu như "Đức Giê-hô-va phán. ." xuất hiện 1900 lần. Câu này hầu
hết xuất
hiện trong các sách tiên tri, cũng có xuất hiện trong các sách sử ký,
bày tỏ
cho Thượng-Đế tiếp xúc gắn bó với dân Ngài.
Những câu như " Đức Giê-hô-va nói.
." "Đức Giê-hô-va phán. ." " Lời của
Đức
Giê-hô-va đến. ." được thấy 3808 lần trong Kinh Thánh Cựu Ước. Những tác
giả
nầy nói
rằng họ có sự mặc khải của ý chỉ Đức Chúa Trời,
gần như họ luôn luôn
bắt đầu
sứ điệp bằng những chữ "Đức Giê-hô-va phán. .". Các lờøi tuyên xưng của
họ được
xác chứng bằng các biên bản và chi tiết của những tên tuổi, thời điểm,
địa điểm
biểu thị đặc tính những sứ điệp của họ, và những ứng nghiệm chính xác
của các
lời tiên tri họ.
Khi ông Môi-se giải thích về sự sáng tạo
thế giới, ông đã không đề cập gì
đến những
lí thuyết về sự khởi nguyên của các vũ trụ được tin nhận trong thời cổ
Ai Cập
hoặc Ba-tư mà chắc chắn ông rất quen thuộc.
Việc nầy chỉ có thể hiểu
được rằng
Môi-se thật sự được điều khiển bởi Đức Thánh Linh. Trong một chương
ngắn ngủi
về sự sáng tạo thế giới(Sáng. 1), không dưới 14 lần Môi-se tuyên bố
rằng đã
chép lại lời Thượng-Đế. Các chỗ khác được chép đi chép lại câu " Đức
Giê-hô-va
phán cùng Môi-se rằng. ." " Đức
Giê-hô-va truyền lệnh cho Môi-se
rằng.
.".
Trong các sách lịch sử, Đức Chúa Trời
phán với Giô-suê, Ghi-đê-ôn,
Sa-mu-ên,
Đa-vít, Ê-li, Ê-li-sê, Ê-xơ-ra, Nê-hê-mi và nhiều người khác nữa. Các
tác giả
Tân Ước không những xác nhận những câu nói trong Thánh Kinh Cựu Ước,
nhưng
còn nói rõ ràng rằng đó là những lời nói của Thượng-Đế. (Mat. 1: 22,23; 2:
15;
Mác. 12: 36; Lu.1: 70; Công 1: 16).
Các Tác
Giả Tân Ước
Kinh Thánh Tân Ước chứa hơn 280 câu thích
dẫn từ 30 trong số 39 sách của
Kinh
Thánh Cựu Ước, các câu trích dẫn xuất hiện ở 18 trong số 27 sách của Tân
Ước(Mat.
10: 20; Mác 13: 14). Sứ đồ Phao-lô, một học giả Do Thái và là một thành
viên của
tòa công hội San-hê-rin, khi trở thành môn đệ Chúa đã không thay đổi
lòng
tin tưởng tuyệt đối về sự linh cảm của Kinh Thánh Cựu Ước. Thánh Kinh Cựu
Ước
luôn luôn là bộ Kinh Thánh có cùng một thẩm quyền linh thiêng trong việc
thiết lập
chân lý Cơ-Đốc cũng như những tác phẩm của Phao-lô mà ông tin là sự
linh cảm
của Đức Chúa Trời (I Cô. 2: 13; 14: 37; I Tê. 2: 13). Phao-lô trích dẫn
Kinh
Thánh từ Phúc-Âm Lu-ca cùng một cách với việc ông trích dẫn Kinh Thánh rừ
sách Phục
Truyền Luật Lệ Ký(I Ti. 5: 18; Phục. 25: 4; Lu-ca 10: 7). Sứ Đồ
Phi-e-rơ
xếp loại các tác phẩm của Phao-lô chung với "các phần Kinh Thánh
khác"
(II
Phi. 3: 1,2,16). Những bài giảng của Phi-e-rơ, Ê-tiên, và Phao-lô trong sách
Công-vụ
được soạn thảo gần như toàn là của các câu trích dẫn của Kinh Thánh Cựu
Ước.
Ở đây và các phân đoạn khác, rõ ràng các
tác giả của Thánh Kinh Tân Ước ý
thức rằng
những người được dùng viết ra Kinh Thánh Chúa, cũng như chính họ, đã
nhận sự
mặc khải từ Thượng-Đế và xem mình được Thượng-Đế linh cảm để hòan thành
quyển
Kinh Thánh. Họ cảm thấy rằng khi đặt bút xuống viết họ diễn tả chân lý vô
ngộ của
Thượng-Đế qua sự vận hành của Đức Thánh Linh. Điều nầy giải thích tại
sao
Kinh Thánh lại không có mâu thuẫn trong khi các tác giả sống rất xa cách
nhau về
phương diện thời gian cũng như không gian.
Đức
Chúa Giê-xu Chí-tôn
Mục tiêu của Chúa Giê-xu Chí-tôn đến thế
gian là "Làm nhân chứng cho chân
lý"
(Giăng 18: 37). Ngài không nói tự mình, nhưng Cha sai Ngài đến và đã truyền
lịnh
cho Ngài phải nói điều chi và phải nói thế nào (Giăng 12: 49). Trong lời
cầu
nguyện từ biệt Chúa Giê-xu đã nói, "Con đã truyền cho họ những lời Cha đã
truyền
cho Con". (Giăng 17: 6, 8). Những phần sau đây giải thích thái độ của
Chúa
Giê-xu đối với Kinh Thánh.
* Chúa Xem Toàn Thể Kinh Thánh Là Xác Thực(Authentic
in their Entirety)
Ngài tỏ
ra điều này bằng cách trích dẫn Kinh Thánh từ các sách Ngũ Kinh, Tiên
Tri, và
Thi Thiên (Lu-ca24: 27).
*Chúa Aùp Dụng Toàn Bộ Kinh Thánh Cho
Chính Ngài. Ngài dùng Ê-sai 61: 1
trong
nhà hội Do Thái tại Na-za-rét (Lu-ca 4: 16-21). Ngài cũng quở trách người
Do Thái
vì họ tìm kiếm trong Kinh Thánh mà họ không nhận ra Ngài, Chúa phán,
"Aáy
là Kinh Thánh làm chứng về Ta" (Giăng
5: 39)
* Chúa Trích Dẫn Từ Tất Cả Các Phần Của
Kinh Thánh Và Xem Các Phần Này Có
Thẩm
Quyền Bằng Nhau. Đối với Đức Chúa Giê-xu và với những kẻ đối nghịch Ngài,
thì một
chữ của Kinh Thánh cũng đủ để chấm dứt bất
cứ cuộc tranh luận nào. Sự
trích
dân của Chúa từ sách Phục Truyền đã làm cho quỉ Sa-tan im miệng (Mat. 4:
4,7,10).
Chúa hỏi các kẻ chỉ trích Ngài, "trong luật pháp có chép gì?" với câu
hỏi này
cũng đủ rõ ràng minh bạch rồi, không cần biện luận thêm nữa. Khi có
người
than phiền về việc các con trẻ ca tụng Ngài (Mat. 21: 16), Chúa chỉ đáp,
"Các
ngươi có bao giờ đọc thấy rằng, từ miệng con trẻ và các con đang bú Ngài có
sự toàn
hảo không?" (Thi. 8: 2).
* Chúa Xác Nhận Sự Linh Cảm Từng Lời Nói
Của Kinh Thánh. Chúa quả quyết
mạnh mẽ
sự linh cảm qua lời nói của Thánh Kinh:
" Đang khi trời đất chưa qua
đi, thì
một chấm một nét trong luật pháp cũng không qua đi được cho đến khi mọi
sự được
trọn" (Mat. 5: 18). "chấm" (Jot : chữ thứ chín trong mẫu tự Do Thái) là
mẫu tự
nhỏ nhất của chữ Do Thái, "Nét" (Tittle) là một nét nhô ra của mẫu tự
làm
chữ này
khác với chữ kia. Theo Chúa thì không phải chỉ những chữ nhưng màchính
từng mẫu
tự của Kinh Thánh cũng được Thượng-Đế linh cảm vào.
* Chúa Chấp Nhận Những Phép Lạ Trong Kinh
Thánh. Chúa Giê-xu Chí-tôn nói
về trận
lụt và sự hủy diệt thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ (Lu. 17: 26-32) là những dữ
kiện
xác thực cũng như con người ngày nay nói về việc làm của các phi hành gia
là những
sự kiện xác thực vậy. Chúa ám chỉ sự chết kỳ dị của vợ Lót là một tai
nạn được
nhiều người biết đến. Ngài chấp nhận kinh nghiệm kỳ diệu của ông Giô-na
(mat.
12: 40), cũng như sách Đa-ni-ên với những diễn biến lạ lùng của nó (Mat.
24:
15).
TỔNG KẾT
Giáo lý về sự linh cảm của Kinh Thánh vô
cùng quan trọng vì tất cả các tín
lý Cơ-Đốc
đều được khai triển từ Kinh Thánh và dựa vào đó làm thẩm quyền. Chữ
"linh
cảm" được định nghĩa là "quyền
năng của Thượng-Đế khiến con người có thể
ghi lại
chính xác chân lý được mặc khải".
Nhiều thuyết của sự linh cảm đã được đem
ra biện luận. Thuyết Linh Cảm Tự
Nhiên
(natural inspiration) nhận biết sự linh cảm với một đẳng bậc cao của khả
năng
con người. những ủng hộ thuyết này nói rằng các tác giả Kinh Thánh đó được
những cảm
hứng không khác gì những cảm hứng của các văn sĩ ngoài đời. Chấp nhận
thuyết
nầy sẽ chối bỏ Lời của Thượng-Đế.
Một thuyết khác là thuyết Linh Cảm Máy
Móc (mechanical inspiration).
Thuyết
nầy bỏ qua phần của con người trong việc sửa soạn cho Kinh Thánh và cho
rằng
các tác giả Kinh Thánh như những người máy được Chúa dùng để viết xuống
những
gì Ngài đọc ra. Thuyết nầy không chấp nhận nhiều loại văn thể thấy trong
Thánh
Kinh.
Thuyết thứ ba là thuyết Linh Cảm Một Phần (partical inspiration), là
thuyết
kết luận rằng Kinh Thánh chứa đựng lời của Thượng-Đế nhưng phần lớn Kinh
Thánh
không phải là lời Ngài, nhất là khi Kinh Thánh không đồng ý với các tư
tưởng
hiện đại của các khoa học gia. Nan đề hiển nhiên là ai sẽ quyết định là
phần
nào được linh cảm và phần nào không? Thuyết nầy làm cho người ta có một sự
lưỡng lự
lớn lao.
Thuyết thứ tư được giáo hội Cơ-Đốc giữ vững - thuyết Linh Cảm Toàn Phần
(plenary
inspiration). Dựa vào II Ti-mô-thê 3: 16 thuyết nầy cho rằng toàn thể
Kinh
Thánh đều được Đức Chúa Trời linh cảm. Thượng-Đế hướng dẫn các tác giả,
ngay cả
những thứ họ dùng cũng được linh cảm và chính xác cho toàn bộ sự ghi
chép
không sai trật.
Khi Thượng-Đế truyền đạt lời Ngài đến các
tác giả Thánh Kinh Ngài dùng
nhiều
phương pháp. Vài phần của Thánh Kinh được thực hiện qua Lời Chúa
Nói(Divine
utterances). Những phần này là bản sao y chính xác của lời Đức Chúa
Trời.
Những phần nầy được thực hiện qua Lời Chúa Đọc Trực Tiếp cho chép (Divine
dictation).
Trong các phần nầy Thượng-Đế đặt chính từng chữ vào môi miệng các
tác gỉa.
Điều nầy giải thích cho những điểm khác nhau thấy trong các sách
Phúc-Âm.
Đức Thánh Linh sử dụng tất cả khả năng của các tác giả Kinh Thánh và
làm việc
qua các khả năng này.
Các tác giả của Kinh Thánh Tân Ước và Cựu
Ước cho rằng họ viết Kinh Thánh
dưới sự
hướng dẫn trực tiếp của Đức Thánh Linh. Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn cũng xác
nhận sự
linh cảm của Kinh Thánh và còn bày tỏ rằng mục tiêu của sự Ngài đến thế
gian là
"làm nhân chứng cho chân lý".
Thái độ của Chúa Chí-tôn đối với Kinh
Thánh được bày tỏ qua sự thật rằng:
Ngài xem
toàn bộ Kinh Thánh là xác thực; Ngài áp dụng Kinh Thánh cho chính Ngài;
Ngài
trích dẫn từ tất cả các phần của Kinh Thánh và cho các phần nầy có thẩm
quyền bằng
nhau. Ngài xác nhận sự linh cảm bằng lời nói của Kinh Thánh; và Ngài
chấp nhận
những phép lạ được ghi lại trong Kinh Thánh.
BÀI LÀM
1. Tại sao thẩm quyền của Kinh Thánh quan trọng,
thiết yếu như thế?
2. Định nghĩa và so sánh các chữ :
sự mặc khải (revelation), sự linh cảm
(inspiration),
và sự soi sáng (illumination).
3. Định nghĩa và bác bẻ lại các thuyết linh cảm
tự nhiên, linh cảm mày móc,
và linh
cảm từng phần?
4. Sự linh cảm toàn phần có ý nghĩa là gì?
5. Tại sao sự linh cảm không thể bị giới hạn trong phạm vi "tư tưởng"
hoặc
trong
phạm vi "quan niệm" của Kinh Thánh?
6. Kể tên hoặc cho thí dụ của ba tính chất
quan trọng biểu thị bản chất của
sự linh
cảm.
7. Các tác giả Tân Ước và Cựu Ước cùng lời chứng
của Chúa Giê-xu Chí-tôn
tuyên
nhận gì về sự linh cảm của Kinh Thánh?
8. Làm cách nào bạn biện giải (Justify) niềm
tin nơi sự linh cảm của Kinh
Thánh
cho người không chịu tin vào giáo lý nầy?
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
Hannah, Jonh (ed). Inerrance and the
church. Chicago: Moody Press, 1984.
Pache, Rene. The Inspiration and
Authority of Scripture. Chicago: Moddy
press,1979.
Saucy, Robert L. Is the Bible Reliable?
Wheaton, IL: Victor Book, 1983.
Top
Top of
Form
Trang Đầu
| Mục Lục | << CHƯƠNG 1 | CHƯƠNG 3 >>
CHƯƠNG
2
SỰ TẠO
DỰNG VÀ SA NGÃ CỦA CON NGƯỜI
(Creation
and Fall of Man)
SỰ TẠO
DỰNG LOÀI NGƯỜI
Trong khi các học giả Thánh Kinh có những sự diễn giải khác nhau về phương cách
và thời điểm mà Thượng-Đế tạo dựng thế giới, Kinh Thánh rõ ràng xác nhận rằng
Thượng-Đế đã tạo dựng thế giới và đặt loài người trong đó.
Nguồn Gốc
loài Người
Kinh Thánh nói rằng Thượng-Đế tạo dựng loài người tự bụi đất và ban cho người sự
sống (Sáng. 2: 7). Hành động tạo dựng nầy xảy ra hòan toàn cách biệt với việc
Ngài tạo dựng các loài thú. Loài người hoàn toàn cách biệt, trổi vượt lên loài
thú cao cấp. Kinh Thánh ghi lại là có bàn tay Thượng-Đế đụng vào đặc biệt trái
ngược với quan điểm cho loài cho người có nguồn gốc từ loài vật hay phát triển
dần dần từ cấp thấp lên cấp cao hiện nay.
* Tác Động Trực Tiếp Của Thượng-Đế
Không chỉ Sáng Thế Ký (5: 2) mà những chỗ khác (Phục Truyền 4: 32; Thi Thiên
100: 3) cũng dạy rằng loài người ra từ một tác động sáng tạo riêng biệt của Thượng-Đế.
Lời dạy này tách biệt loài người ra khỏi thú vật ở cấp thấp hơn; dù cho con người
thời sơ khai cũng khác biệt hẳn với các loài vật. Thuyết tiến hóa không giải
thích được bản chất thiêng liêng cao cấp của con người. sự thật về quyền tể trị
của loài người trên tất cả các loài khác sẽ khó có thể xảy ra nếu loài người
chỉ là một trong các loài đó.
* Con Của Thượng-Đế
Gia phả trong Kinh Thánh truy nguồn gốc loài người đến A-đam, nhưng cẩn thận
chú thích rằng con người đầu tiên, như những thiên sứ, là con trai của Thượng-Đế
(Lu. 3: 38). Người Hy-lạp qúa kiêu hãnh và thông minh không thể nhận là họ có
nguồn gốc động vật. Khi sứ đồ Phao-lô trích dẫn thi sĩ Hy-lạp (Công. 17: 28),
ông đã thiết lập một chổ đứng chung cho lịch sử Hy-lạp và dữ kiện Kinh Thánh,
và chứng minh rằng hai bên tương hợp nhau.
Đặc Tính Của Loài Người
Loài người được tạo dựng sau cùng trong tất cả muôn loài, nên không thể hãnh diện
là mình có đóng góp gì cho công cuộc sáng tạo. Là
tạo vật cuối cùng của công cuộc tạo dựng, con người được vinh dự và được chỉ định
làm cai quản muôn loài.
* Bản Chất, Vật Chất Của Con Người
Loài người được tạo ra bởi bụi đất( Sáng. 2: 7a), một chất liệu mà khó tưởng tượng
có thể được dùng để tạ dựng loài người. thân thể được hình thành bằng những chất
liệu do quả đất cung cấp. Kinh Thánh nói những gì mà ngành hóa học hiện đại xác
nhận, rằng tất cả các yếu tố của cấu trúc vật lý của thân thể loài người được
tìm thấy trong lớp đất bao phủ qủa đất( Gióp 33: 6). Tại phút lâm chung thân thể
trở về với cội nguồn của nó - "Ngươi là bụi đất, ngươi sẽ trở về với bụi đất"
(Sáng. 3: 19b); nhưng thần linh trở về chỗ khởi nguyên nó - " Về nơi Thượng-Đế
là Đấng đã ban nó" (Truyền. 12: 7).
* Bản Chất Thiêng Liêng Của Loài Người
Thân thể được tạo dựng, và Thượng-Đế hà sinh khí vào(Sáng. 2: 7b; Gióp
33: 4). Tiến trình nầy không được làm với các loài thú, mà chỉ với loài người.
Thượng-Đế đặt hởi thở của Trời vào trong bụi của đất. Thần Linh ở trong nhà bằng
đất sét, là sự sống và nâng đỡ thân xác. Thân xác sẽ vô giá trị và vô dụng nếu
không có Thần Linh làm cho nó sống. Khi chết, thân thể bị chôn trong mồ mả, nhưng
Thần Linh được trả về tay Thượng-Đế, vì nó được ban cho từ tay Thượng-Đế.
* Ảnh Tượng Của Thượng-Đế Trong Loài Người
Sáng Thế Ký 1: 27 nói rằng Thượng-Đế tạo dựng loài người theo ảnh tượng Ngài.
Loài người không được tạo dựng theo hình dung của bất cứ hình dung của Đất Tạo
Hóa. Tuy thế, giữa Thượng-Đế và loài người có một khoảng cách vô hạn. Chỉ Chúa
Giê-xu Chí-tôn là ảnh tượng của ngôi vị Thượng-Đế(God s Person), có cùng một bản
tính với Thượng-Đế(Giăng 14: 9; Hê. 1: 3). Vậy loài người giống Thượng-Đế như
thế nào?
Nhân Cách (Personality) - làn hơi thở linh
thiêng ban cho người một linh hồn (soul) cũng như một tâm thần(Spirit) (I Tê.
5: 23; Hê. 4: 12). Qua các giác quan con người có ý thức về thế giới
(world-consciousness). Nhưng qua linh hồn con người có được ý thức về
mình(self-consciousness) hay có nhân cách. Nhân cách gồm có lý trí, tình cảm
và, ý chí (intellect, emotion and will). A-đam không phải là một loài sơ
khai, từ từ lần mò lên bập bẹ tiếng nói, nhưng mà là một người khôn ngoan, biết
suy nghĩ, có thể cung cấp một tên thích hợp cho mỗi loài vật (Sáng. 2: 19). Ông
cũng có sự tự do thi thố năng lực của ý chí trong những lựa chọn thuộc linh và đạo
đức. Người không thể đánh mất điểm giống nhau nầy với Đấng Tạo Hóa mà vẫn còn
là người.
Đạo Đức (morality) - loài người được tạo ra
trong sạch và ngay thẳng. Bản tính của con người hòa hợp với những lý tưởng của
các cư xử đúng đắn của nhân sinh. Dù gì đi nữa, giai đoạn của loài người giống Đấng
Tạo Hóa mình có thể bị lấy lại, và thật sự thì loài người đã đánh mất nó. A-đam
được tạo dựng với khuynh hướng hướng về Thượng-Đế ; vì sự sa ngã của A-đam,
loài người sanh ra với khuynh hướng xoay khỏi Thượng-Đế. Khi một người trở
thành "một tạo vật mới trong Chúa Chí-tôn", người ấy được hồi phục lại
về phương diện đạo đức. Người ấy được mời "lột bỏ người cũ cùng công việc
nó"; và " Mặc lấy người mới là người đang đổi mới theo hình tượng Đấng
dựng nên người ấy" (Cô. 3: 9,10).
Người Bạn Giúp Đỡ
Ban đầu A-đam chỉ có một thân một mình,
không thuộc thế giới cao cấp của các thiên sứ hoặc là thế giơí hạ đẳng của loài
thú. Thượng-Đế nhận biết điều nầy khi Ngài nói. "Loài người ở một mình thì
không tốt" (Sáng. 2: 18a). vì thế Thượng-Đế đã ban cho A-đam một người bạn.
Người nữ, cũng như người nam, được tạo dựng
bởi một hành động đặc biệt của Thượng-Đế (Sáng. 2: 21,22; I Ti. 2: 13). Tuy
nhiên, người nữ không được làm ra từ bụi đất, nhưng người từ người nam. Người
nam là bụi đất tinh luyện thành, những người nữ là bụi đất tinh luyện đến hai lần,
một bước xa hơn từ quả đất. Trong khi Ê-va được tạo dựng thì Chúa làm cho A-đam
ngủ, không phải vì muốn cho A-đam khỏi cảm thấy đau đớn khi Chúa lấy xương sườn
của ông, nhưng nhằm cho ông biết rằng chỉ có Thượng-Đế là tác giả của tạo vật mới
nầy thôi.
Sáng Thế Ký mô tả mối liên hệ chân thật giữa
người nam với người nữ (2: 23,24). Người nầy là sự bổ túc cho người kia. Hai người
với nhau tạo thành một sự hiệp nhất toàn hảo(Mat. 19: 4-6). Học giả Matthew
Henry nói: "Đàn bà được tạo thành từ người đàn ông, không phải từ
cái đầu để cai trị người đàn ông, cũng không phải từ bàn chân để bị người đàn
ông chà đạp, nhưng từ bên hông để thành bình đẵng với người đàn ông".
Quyền Thống Trị Của Loài Người
Loài người là vị đại diện của Thượng-Đế.
Loài người cai trị trên vạn vật thiên nhiên. Đấng Taọ Hóa chỉ định loài người
vào vị trí ưu việt nầy(Sáng. 1: 26-30; 2: 19,20; Thi Thiên 8: 3-8).
* Quyền Hạn Của Loài Người
Có nhiều bằng chứng sống về thẩm quyền của
loài người trên thiên nhiên. Những tiến bộ không ngững của khoa học, đặc trưng
của thời đại không gian của chúng ta, như sự du hành vòng quanh quỹ đạo, sự
truyền thông thế giới, và những sự phát triển của khoa học kỹ thuật, phản ánh
quyền lực thiên định (God - ordained power) của loài người để khống chế những
mãnh lực huyền bí của thiên nhiên.
* Trách Nhiện Của Loài Người
Trong việc nhận lãnh thẩm quyền trên vườn
Ê-đen, A-đam được ban cho một trách nhiệm. Ông được truyền lệnh "trồng và
giữ làm cho chúng ta dể hiểu tại sao Sa-tan cố gằng chiếm quyền cai trị trên A-đam,
ở trong cái vương quốc mà trước đây nó cầm quyền, Sa-tan ghen tức đến tột độ và
tìm đủ mọi cách đánh bại Thượng-Đế và đoạt lấy gia sản khỏi tay loài người.
SỰ SA
NGÃ CỦA LOÀI NGƯỜI
Trong câu chuyện của ông Gióp, chúng ta được đưa vào hội đồng thiên thượng và
nghe Thượng-Đế cho phép Sa-tan thử thách Gióp. Có lẽ một quang cảnh tương tự như
vậy đã diễn ra trước sự sa ngã của A-đam, vào thời điểm mà Sa-tan nói rằng A-đam
không thể chống lại điều ác. Nó có thể đã tranh luận rằng một loài yếu ớt sa
ngã trước cám dỗ sẽ không là đối tượng thích hợp để thay chổ một thiên sứ làm
cai quản quả đất. Như Thượng-Đế sau đó cho phép Sa-tan thử Gióp, Ngài chắc
hẳn cũng đã cho phép Sa-tan thử A-đam.
Sự Cám
Dỗ
Sa-tan bày bố kế hoạch thật kỹ lưỡng. Nó tấn công Ê-va trong sự vắng mặt của A-đam,
vì biết rằng một người sẽ dễ bị khuất phục hơn là hai. Có lẽ cảm dỗ Ê-va gần
cây biết điều thiện và điều ác. Bà có thì giờ để hồi tưởng và suy nghĩ. Sa-tan
cẩn thận giấu bản chất thật của nó là kẻ thù của Thượng-Đế. Nó không bắt đầu bằng
cách kể về sự sa ngã của chính nó, hoặc là nó khoe khoan về sự dấy loạn của nó.
Nó giả vờ thân thiện với Ê-va.
* Nghi Ngờ Sự Tốt Lành Của Thượng-Đế
Sa-tan nói cách lễ phép về Thượng-Đế, Đấng Tạo Hóa, nhưng bằng một câu hỏi xảo
quyệt nó gợi sự bất hảo của Thượng-Đế ẩn dật dưới dạng một sự cấm đoán
không cần thiết và vô lý. Nó làm như thật khó mà tin rằng Thượng-Đế lại có thể đối
xử với họ một cách không tốt như vậy. Nó gieo vào tâm trí của Ê-va sự
nghi ngờ về sự công bằng của Thượng-Đế. Điều nầy thể hiện rõ ràng trong câu trả
lời của Ê-va. Mặc dù bà nói cho Sa-tan biết toàn bộ luật lệ mà Thượng-Đế đưa
ra, bà đã thay đổi một số điều trong câu nói của bà, chứng tỏ rằng bà nghi ngờ
trong lời dò hỏi của Sa-tan có sự thật. Thượng-Đế đã phán. "Ngươi được tự
do ăn các thứ cây trong vườn" (Sáng. 2: 16,17);nhưng khi lặp lại thiên lịnh
(3: 1-3) Ê-va lại bỏ chữ "tự do", do đó ám chỉ sự cấm đoán của Thượng-Đế
thay vì lòng rộng lượng của Ngài.
Bà cũng thêm vào những chữ "cũng chẳng nên đá động đến". Đức Chúa Trời
không dò hỏi điều nầy nhưng bà đã cắt bớt lời cho phép của Thượng-Đế và thêm
vào lời cấm đoán.
Điểm thứ ba. Bà giảm nhẹ hình phạt đối với sự không vâng phục. Thượng-Đế đã
phán. "Vì một mai người ăn, chắc chắn sẽ chết" nhưng Ê-va làm
nhẹ bớt "E khi ngươi phải chết chăng"
* Phủ Nhận Sự Chân Thật Của Thượng-Đế
Sa-tan, được khích lệ mạnh mẽ bởi câu trả lời của Ê-va, thấy rằng bà đã nao
núng, nó bèn bạo dạn tuyên bố rằng A-đam và Ê-va sẽ không chết (Sáng. 3: 4). Rồi
Ê-va đã nghe theo những lời gải dối của Sa-tan.
Ma qủi không làm được gì đáng kể vào thời đó cũng như ngày nay (the devil could
do little then, and he can do little now) ngoại trừ lúc những kẻ bị nó cảm dỗ mở
cửa cho nó vào. Chính là vì lòng vô tín ban đầu của Ê-va, thể hiện qua câu
"E khi hai người phải chết chăng" của bà, đã khuyến khích Sa-tan tấn
công. Nó nói rằng mặc dù Thượng-Đế không có lòng tốt để A-đam và Ê-va được trọn
sự tự do trong vườn Ê-đen, Ngài cũng không nỡ giết hại họ vì sự không vâng lời.
* Khám Phá Những Bí Mật Của Thượng-Đế
Sa-tan gợi dậy lòng tò mò và kiêu ngạo của Ê-va bằng cách nói bóng gió rằng Thượng-Đế
giấu diếm bà một điều gì. Nó còn khiến bà tin rằng Thượng-Đế đưa ra sự cấm đoán
vì sợ loài người ngang bằng với Ngài (Sáng. 3: 5). Sa-tan đã làm hại chính nó
vì muốn giống như Thượng-Đế (Eâs. 14: 14) và tìm cách tàn hại A-đam và Ê-va bằng
cách tiêm nhiễm cho họ cùng một ước muốn như nó.
SỰ QUÁ
PHẠM (Transgession)
Ấn Tượng Bất Khả Kháng Của Tội Lỗi (Unresisted Impression Of Sin)
Sa-tan sử dụng ba phương cách tiến công và đã không gặp sự chống đối nào. Những
bước đầu tiên của Ê-va tiến đến sự cố ý không vâng lời và lắng nghe, ngắm nhìn,
và ham muốn.
Ê-va đã mất lập trường ngay khi và bắt đầu tranh cãi với Sa-tan(Sáng. 3: 2,3).
Nếu bà nói sự tốt lành của Thượng-Đế thì chắc bà đã trả lời khác hẳn.
Kế đến Sa-tan mở đôi mắt thèm thuồng của Ê-va hướng về phía trái cấm(Sáng. 3:
6a). Qua đôi mắt, ngọn lửa sùng kính hay những tia cám dỗ sẽ cháy bừng lên.
Độc chiêu cuối cùng là đánh vào tấm lòng. Ê-va đã nghe, đã thấy, vào lúc nầy bà
thèm muốn trái cấm đầy quyến rũ đó(Sáng. 3: 6b). nếu bà yêu mến Chúa hết lòng
thì chắc bà đã loại bỏ ý nghĩ làm buồn lòng Thượng-Đế. Nhưng Sa-tan đã làm lung
lạc lòng tin của bà nơi tình yêu của Chúa.
Biểu Hiện
Bất Khả Kìm Chế Của Tội Lỗi(Unrestranned Expression Of Sin)
Lúc ban đầu thèm muốn có thể chỉ là một tội lỗi thầm kín bên trong: nhưng
nếu không chống cự, nó sẽ dẫn đến sự biểu lộ ra bề ngoài. Đây là ba bước đi xuống
(Sáng. 3: 6c); sờ, nếm và cám dỗ.
Sau khi nói cho Sa-tan biết Thượng-Đế đã truyền lệnh rằng không được đụng đến
cây biết điều thiện và điều ác, Ê-va còn tin rằng bà chắc sẽ không chết nếu bà ăn
trái cây đầy quyến rủ nầy.
Cầm trái cấm trong tay cũng chưa đủ, bà phải ăn nó nếu bà muốn nhận được lời hứa
mở trí khôn của Sa-tan. Ê-va thấy rằng bà phải có sự thông sáng, phải có bằng bất
cứ giá nào, không thể trì hoãn được.
Ngay khi Ê-va sa ngã, bà đã trở thành kẻ cám dỗ người khác. Thay vì hội ý với
A-đam trước khi bà bước cái bước kinh khủng đó, hoặc cảnh cáo A-đam sau khi bà
bị sa ngã, bà lại quyến rũ A-đam chia sẽ tội lỗi với bà. Nhưng giờ phút cặp vợ
chồng phạm nhân phải chịu tội cũng đến theo.
TÒA ÁN
Sự Truy
Tố
Hai bị
cáo bất tuân bị buộc tội trược vị quan tòa công chính của Trời đất (Sáng. 3:
9-11). Trước câu trách vấn của Đức Chúa Trời "Ngươi ở đâu?", A-đam
run rẩy không suy nhận tội, nhưng thể hiện tình trạng mắc tội của mình bằng
sự sợ hãi và xấu hổ. A-đam sợ phải đứng trước mặt Đức Chúa Trời vì ông đã lõa lồ.
Quan tòa hỏi cặp phạm nhân rằng. "Ai nói cho ngươi biết rằng ngươi lõa lồ?"
"ngươi có ăn trái cây mà ta đã truyền lệnh người đừng nên ăn không?"
Sự Biện
Hộ
Cặp phạm nhận có cơ hội để trả lời tại sao không nên phạt tội lỗi của họ. Nhưng
thay vì nhận tội, A-đam đỗ lỗi cho Ê-va và Ê-va đỗ lỗi cho con rắn (Sáng. 3:
12,13).
A-đam không nói gì cho mình cả. A-đam không những chỉ đỗ lỗi cho Ê-va mà còn đổ
lỗi cho Thượng-Đế. " người nữ mà Chúa để gần bên tôi cho tôi cây đó và tôi
đã ăn rồi." Thượng-Đế không đáp lại lời bào chữa ngu xuẫn ấy nhưng xây qua
hỏi Ê-va, "người có làm điều chi vậy?"
Ê-va cũng không chịu thành thật nhận tội. "con rắn dỗ dành tôi và tôi đã ăn
rồi", là câu trả lời của Ê-va. Nhưng sự xảo trá và lường gạt của Sa-tan
không thể bào chữa cho bà trước mặt Chúa. Lời biện minh của bà cũng không khá
gì hơn của A-đam.
Hình Phạt
Vị quan tòa tiến hành việc thông qua bản án (Sáng. 3: 14-19). Sự giáng cấp dành
cho chính con rắn. Không có loài vật nào có sự tương phản rõ rệt giữa khả năng
khôn ngoan sắc sảo với sự bò trườn, vặn vẹo hạ cấp như con rắn. Sự phán quyết
cuối cùng cũng dành cho Sa-tan, kẻ xúi dục những hành động của con rắn. Đấng
Chí-tôn, giòng giống của người đàn bà, một ngày nào đó sẽ chà đạp đầu con rắn.
Thượng-Đế tiên đoán sự đau khổ và phục tùng của người đàn bà. Sự thai nghén và
sinh nở sẽ bị đau đớn. Người đàn bà cũng sẽ phục tùng dưới chồng mình.
Những cực khổ thể chất, làm lụng mệt nhọc, những nan đề đầy chán
nãn, và đấu tranh gian khỗ đã được định cho số phận người đàn ông, là người cũng
bị xử là một tội phạm. Trước đây đất sanh hoa quả dễ dàng và dư dật. Bây giờ người
đàn ông phải làm lụng khó nhọc để khiến đất sanh ra các thứ cần dùng cho đời sống.
Gai gốc sẽ sanh sản thêm nhiều cho đến khi chúng trở thành một gánh nặng trong
người và loài thú. Sách Gióp 31: 38-40 và Ê-sai 7: 23,24 đề cập đến gai góc nhưng
là sự đoán phạt, và Chúa chúng ta nói về chúng như sự độc hại (Mat. 13: 7).
Hơn nữa, tội của A-đam đã làm cho tội lỗi truyền vào trong lòng giống
loài người, khiến tất cả mọi người đều phải mắc tội.
TỔNG KẾT
Chỉ có Thượng-Đế biết chính xác thế giới đã được tạo dựng khi nào và như thế
nào. Chính Ngài đã tạo dựng nên thế giới và đặt để loài người trong đó. Loài người
hiện hữu bởi hành động tạo dựng trực tiếp của Thượng-Đế khiến loài người là tạo
vật cao cấp vượt lên trên thế giới của động vật.
Cá tính của loài người có một bản chất bao gồm ba khía cạnh - thân thể, tâm thần,
và linh hồn. Thượng-Đế hình thành thân thể loài người từ bụi đất. Tâm thần và
linh hồn của loài người hiện hữu khi Thượng-Đế hà sinh khí vào trong loài người.
Linh hồn thể hiện chính nó trong nhân cách và đạo đức của con người.
Không có ai bên cạnh san sẻ vui buồn trong đời sống khiến A-đam-đam cảm thấy cô
đơn. Thượng-Đế biết điều nầy và ban cho một người đàn bà làm bạn với ông. Người
đàn bà cũng được tạo dựng bởi Thiên Chúa. Nàng được tạo dựng trong lúc người đàn
ông ngủ, cho thấy chỉ có Thượng-Đế là Đấng Tạo Hóa.
Là vị đại diện của Thượng-Đế, loài người cai quản các loài thú và giữ khu
vườn nơi họ ở.
Nhưng Sa-tan tranh giành quyền sở hữu của loài người. Sa-tan, lấy hình con rắn,
đến cảm dỗ người đàn bà. Nó làm cho người đàn bà nghi ngờ sự tốt lành của Thượng-Đế
, phủ nhận sự chân thật của Ngài, và cố khám phá những bí mật của Thượng-Đế.
Kết quả là người đàn bà không chống nổi sự cám dỗ và ăn trái cấâm của cây biết điều
thiện và điều ác. Và rồi A-đam-đam cũng làm đúng như vậy.
Thượng-Đế giáng hình phạt trên các bên liên hệ đến tội lỗi đầu tiên nầy. Con rắn
bị nguyền rủa vàphải bò bằng bụng. Sau khi, Chúa Cứu Thế đến, Ngài sẽ chà đạp đầu
con rắn. Người đàn bà phải chịu đau đớn trong sự sanh nở và phải phục tùng người
đàn ông. Người đàn ông sẽ phải làm lụng vất vả lâu dài mới đáp ứng được nhu cầu
đời sống.
BÀI LÀM
1.
Dựa trên sự nghiên cứu của bạn trong câu chuyện sáng tạo thế giới của sách Sáng
Thế Ký, bạn trả lời thuyết tiến hóa như thế nào?
2.
Ba đặc điểm có thể quan sát được trong sự tạo dựng loài người là gì?
3.
Tại sao Sa-tan ganh ghét với loài người?
4.
Khung cảnh của chương 1 của sách Gióp gợi lên một khung cảnh tương tự như thế
nào trước khi sự sa ngã của A-đam xảy ra?
5.
Bằng những cách nào Sa-tan đã tạo nghi ngờ sự tốt lành của Chúa?
6.
Làm thế nào Sa-tan đã gây dậy lòng tò mò của Ê-va?
7.
Mô tả ba bước đầu tiên trong sự cố ý không vâng lời của Ê-va?
8.
Mô tả ba bước hoàn thành sự biểu lộ không kìm chế được của Ê-va đối với tội lỗi?
9.
A-đam và Ê-va đã có những lời nào bào chữa cho tội lỗi của họ?
10.
Thảo luận mức độ hậu quả của sự không vâng phục của A-đam?
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
Flynn, Leslie B. What Is Man? IL : Vistor Books, 1983.
Youngblood,
Ronald. Now It All Began. Ventura, CA: Regal Books, 1980.
Top
Bottom
of Form
Top of
Form
Trang Đầu
| Mục Lục | << CHƯƠNG 2 | CHƯƠNG 4 >>
CHƯƠNG
3
ĐỨC TIN
VÀ TÁI SINH
(Faith
and Regenneretion)
ĐỨC TIN
Bản dịch Kinh Thánh "Tiếng Việt" định nghĩa đức tin trong sách
Hê-bê-rơ 11: 1 là "sự biết chắc những điều mình đang trông mong, là bằng
chứng của những điều mình chẳng xem thấy". Bản dịch Kinh Thánh "New
American Standard" dịch là "Bấy giờ đức tin là sự đảm bởi của những điều
trông mong, là sự tin chắc của những vật chẳng xem thấy".
Đức tin là niềm tin dựa trên dữ kiện thật. Phúc-Âm là một xác nhận của những dữ
kiện lịch sử rõ ràng mà các vị thánh thời Tân Ước tin rằng đã xảy ra. Sứ Đồ
Phao-lô nói "Tôi công bố với anh em Phúc-Âm mà tôi đã rao giảng cho anh
em" và rồi ông giải thích chính xác Phúc-Âm là gì, "Aáy là Chúa
Chí-tôn chịu chết vì tội chúng ta theo Kinh Thánh; Ngài đã bị chôn, đến
ngày thứ ba, Ngài sống lại, theo lời Kinh Thánh" (I Cô. 15: 1-4). Đây
là ba sự kiện vĩ đại ; sự chết chuộc tội của Đấng Chí-tôn ; sự chôn; và sự phục
sinh của Ngài.
Nhưng đức tin vượt hơn cả việc nhận biết những sự kiện. Một người có thể biết tất
cả về Đấng Chí-tôn như đã bày tỏ trong Kinh Thánh, có thể tin cả lời
trong Kinh Thánh là thật, nhưng vẫn có thể không có Đức tin thật nơi Chúa
Chí-tôn là Chúa Cứu Thế của cá nhân mình. Sự đồng ý bởi tâm trí thì không
giống như sự đầu phục của tấm lòng. Sa-tan và các thiên sứ sa ngã cũng tin nơi
Thượng-Đế, tin đến mức độ họ run rẩy vì sợ Ngài (Gia-cơ 2: 19). Đức tin không
phải chỉ là chấp nhận nhưng mà còn tin tưởng và ứng dụng những dữ kiện. Đức tin
liên quan đến tình cảm và ýchí, lẫn lý trí. Đức tin hòa hợp ý chí và sự
thông hiểu.
Đức tin là "sự tin chắc của những điều chắng xem thấy" Đức tin làm
cho một linh hồn tìm kiếm đủ sức xâm nhập vào thế giới thiêng liêng. Đức tin là
cội nguồn của mọi thành đạt thiêng liêng. "Aáy là nhờ Đức tin mà các đấng
thuở xưa đã được lời chứng tốt" (Hê. 11: 2). A-bên, Hê-nóc, Nô-ê,
Aùp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp, và nhiều vị khác nữa mà tên tuổi của họ đã được khắc
ghi trong danh sách của Kinh Thánh, không phải vì sự giàu có hoặc là sự
khôn ngoan hay là những thành đạt thế gian của họ, nhưng vì đức tin họ. Đức tin
là đòi hỏi tối cao để nhận lãnh mọi ân huệ của Thiên Đàng. "Không có đức
tin, thì chẳng hề có thế ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Thượng-Đế phải tin rằng
có Thượng-Đế, và Ngài là Đấng hay thưởng cho những kẻ tìm Ngài" (Hê.
11: 6)
Đức Tin
Cứu Rỗi (Saving Faith)
Tội lỗi của A-đam đã đem sự chết vào trong dòng giống loài người. "Vì ngươi
là cát bụi, ngươi sẽ trở về với cát bụi" (Sáng. 3: 19) là thiên lệnh ban
cho đôi cha mẹ đầu tiên. Câu hỏi tối trọng mà mỗi người phải hỏi là, "Nếu
một người chết, người đó sẽ sống lại nữa không?" (Gióp. 14: 14). Người ta
có thể muốn điều nầy hôm nay và điều khác ngày mai, nhưng vào phút lâm chung một
điều mà họ muốn hơn mọi điều khác là sự sống. Là điều chỉ có thể có qua Chúa
Giê-xu Chí-tôn. "Ta đến hầu cho chiên được sự sống" (Giăng 10: 10)
Đức tincứu rỗi đem lại sự cứu rỗi khỏi hình phạt của tội lỗi (Giăng 3:
16-18), và niềm tin nơi một Chúa Cứu Thế duy nhất được chỉ định cho mục đích nầy.
Không có đức tin nơi Chúa Giê-xu Chí-tôn, người ta sẽ bị tước mất vĩnh viễn
hạnh phước của thiên đàng(Giăng 3: 36). Người ấy phải vĩnh viễn chịu chung hình
phạt đã được dành cho ma quỉ và các sứ thần của nó (Mat. 25: 41).
Những người có đức tin cứu rỗi thì tin bằng tấm lòng (Công. 16: 3), và xưng nhận
bằng môi miệng (Mat. 10: 32). Với tấm lòng thì có sự nhận biết rằng Chúa Giê-xu
Chí-tôn là đấng chết thế cho tội nhân; và với môi miệng thì có sự xưng nhận là
mình đang ở trong một tình trạng tuyệt vọng, và xưng nhận Chúa Giê-xu Chí-tôn
là Chúa Cứu Thế cho cá nhân mình (Rô. 10: 8-11).
Tại ba thập tự gía trên đồi sọ treo ba người đại diện cho dòng giống loài người
(Lu. 23: 39-43). Hai kẻ bất lương có tội giống nhau, hình phạt giống nhau. Nhưng
trong phút cuối cùng của họ, một người chế nhạo Chúa cách độc ác, gọi
Ngài là một kẻ dối gạt, không thể tự cứu chính mình và cứu hai tội phạm cùng bị
chung một hình phạt; trong khi người kia quở trách sự phạm thượng của bạn mình
và làm những điều cần thiết để sự cứu rỗi. Ông ta nhận biết công lý và sự đoán
phạt của Thượng-Đế, nhìn nhận tội lỗi của mình, xưng nhận Chúa Cứu
Thế, và nài xin sự cứu rỗi. Ở đây chúng ta thấy một người đang hấp hối có đức
tin đủ để nhìn nhận Chúa Giê-xu là vua. Do đó Chúa nói với ông ta rằng:
"Hôm nay người sẽ ở với ta trong thiên đàng" (Lu. 23: 43).
Đức Tin
Sống (Living Faith)
Đòi hỏi cần phải có đức tin không những để gìn giữ khỏi hình phạt tội lỗi mà
còn để giải phóng khỏi quyền lực tội lỗi nữa. Một khi người ta hiểu được tình
yêu của Thượng-Đế như đã thể hiện trong Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn, thì họ không
nên tiếp tục sống trong tội lỗi. Vậy họ làm thế nào khi gìn giữ mình khỏi bị
cám dỗ?
Thượng-Đế dùng sự cảm dỗ để thử thách đức tin. Đức Chúa Trời không cám dỗ người
ta vì Ngài không phải là tác gải của điều ác (Gia-cơ 1: 13,14), nhưng Ngài cho
phép Sa-tan là như vậy. Thượng-Đế thử thách, nhưng Sa-tan cám dỗ. Hơn nữa,
chúng ta có thể nhận biết những sự cám dỗ của Sa-tan, vì chúng quen thuộc với tất
cả mọi người và chúng ta có thể chống lại được, vì có một lối thoát khỏi sự cám
dỗ đã được hứa ban (I Cô. 10: 13). Người tin Chúa phải vui mừng giữa sự cám dỗ
vì đó là bằng chứng của sự kỷ luật yêu thương của Thượng-Đế. (Gia-cơ 1: 2,3)
Đấng duy nhất có thể giải phóng chúng ta khỏi cám dỗ là Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn
(Hê. 2: 18; II Phi. 2: 9), là nguồn gốc và cuối cùng của đức tin chúng ta
(Hê12: 2). Ngài đã bị cám dỗ đủ mọi cách như chúng ta và Ngài không phạm tội. Đức
Tin nơi chiến thắng và quyền lực của Ngài là tấm khiên mà chúng ta "có thể
chống lại những tên lửa của ma qủi" (Êph. 6: 16)
Đức Tin
Hành Động (Working Faith)
Tội nhân được cứu rỗi bởi đức tin, không phải bởi việc làm công đức, nhưng
chính bởi việc làm mà họ thể hiện và chứng minh đức tin của mình. Cơ-Đốc Nhân
là "việc Thượng-Đế làm ra, đã được dựng nên trong Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn để
làm việc lành mà Thượng-Đế đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo" (Êph.
2: 10). Mặc dù không được dựng nên trong Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn bởi việc lành,
người tin Chúa được tạo dựng cho hoặc để làm việc lành (Tít 2: 14). Việc làm
lành không khiến ngưòi ta được nên công chính, nhưng người công chính thì
làm việc lành (works do not justify people, but justified people work).
Việc làm là bông trái của đức tin. Đời sống của một Cơ-Đốc nhân thụ động thì trống
vắng và không có kết quả. Việc làm không phải là nền tảng nhưng là sự hoàn
thành của đức tin. Ông Gia-cơ được gọi là sứ đồ của việc làm, nhưng ông
không hạ thấp sự quan trọng của đức tin(2: 14-16). Đức tin thật sẽ thể hiện
chính nó bằng hành động. Gia-cơ dạy rằng nơi nào không cóviệc lành thì nơi đó
không có một tôn giáo chân chính, và đức tin không có hành động thì không cógiá
trị. Hành động phải được xem là bằng chứng của một người được xưng công chính.
SỰ TÁI
SINH
Đức tin cứu rỗi và sự tái sinh không thể nào tách biệt được. Ngay giây phút người
ta tin nhận Chúa Giê-xu Chí-tôn thì họ được sinh ra bởi Thượng-Đế. Sự yếu đuối
của đức tin họ có thể khiến họ không biết sự thay đỗi, giống như những trẻ sơ
sinh biết rất ít hoặc không biết gì về chính chúng. Nhưng nơi nào có đức
tin cứu rỗi, nơi đó luôn có sự sinh lại, và nơi nào không có đức tin thì
nơi đó không có sự tái sinh.
Cần Thiết
Của Sự Tái Sinh
* Sự Bại Hoại Của Con Người
Sự sa ngã của A-đam trở thành quan trọng
hơn khi chúng ta khám phá đó là sự sa ngã của chúng ta, vì dòng giống loài người
đã thừa hưởng bản chất tội lỗi của A-đam(Giê. 17: 9). Như vua Đa-vít, một người
hết sức yêu mến Thượng-Đế, đã xưng nhận: "Tôi sinh ra trong sự
gian ác" (Thi. 51: 5). Phao-lô còn nói mạnh mẽ hơn khi ông nói rằng:
"vì sự chăm về xác thịt nghịch với Đức Chúa Trời" (Rô. 8: 7).
Không phải chỉ có tính chất bại hoại thôi đâu, nhưng là sự bại hoại tận trong gốc
rễ. Không phải chỉ có tính chất gian ác tận trong huyết phản (Rô. 7: 18). (It
is not on ly corrupt, but corruption. It is not only wicked, but wickedness
itself).
* Sự Thánh Khiết Của Thượng-Đế
Khi A-đam và Ê-va đánh mất sự công chính
nguyên thủy, họ tức khắc mất đi mối tương giao với Đấng Tạo Hóa mình (Hab. 1:
13). Không hề có ai nhận được thiên đàng cùng với tội lỗi mình. Không ai có thể
thấy Chúa nếu không có tấm lòng trong sạch (Mat. 5: 8). Không ai có thể vào
trong sự hiện diện thiêng liêng của Thượng-Đế nếu không phải là người dự phần
trong bản tánh thiêng liêng (II Phi. 1: 4). Sự thánh khiết của Thượng-Đế đòi hỏi
con cái Ngài phải thánh khiết.
Chỉ khi nào loài người bắt đầu hiểu được bản
tính thánh khiết bất biến của Thượng-Đế thì lúc đó họ mới nhận thức rằng với
tình trạng tự nhiên thì họ hoàn toàn không xứng đáng để có mối thông công với
Ngài.
* Tính Chất Chắc Chắn Của Sự Chết
Mọi người đều phải chết(Rô. 5: 12; 7: 5).
Như Kinh Thánh đã chỉ rõ, một trong những hậu quả trực tiếp của tội lỗi là sự
chết. Giữa sách Sáng Thế Ký chương I ghi lại sự tạo dựng A-đam và chương 3 ghi
lại sự chết của ông ta, nỗi bậc là sự sa ngã của loài người và sự xâm nhập của
tội lỗi.
Loài
người không thể làm gì để thắng hơn sự chết. Mặc dù có những tiến bộ khoa học,
họ vẫn phải chết.
Tuy nhiên, Thượng-Đế đã dự liệu cho
tình trạng nầy của loài người. toàn bộ chương trình được trình bày cách đơn sơ
và kỳ diệu trong một câu Kinh Thánh quen thuộc, Giăng 3: 16. Sự sống vĩnh phước
được ban cho những ai chấp nhận món quà yêu thương của Thượng-Đế bày tỏ trong Đức
Chúa Giê-xu Chí-tôn. Phần trình bày trong sách Rô-ma chương 5 nói rằng trong
khi A-đam đem sự chết vào trong dòng giống loài người, thì Đức Chúa Giê-xu
Chí-tôn lại đem đến sự sống. Một chỗ khác trong sách Rô-ma 6: 23, cũng phác họa
rõ ràng sự tương phản giữa sự chết và sự sống.
BẢN CHẤT
CỦA SỰ TÁI SINH (Natural Of The New Birth)
Nói chính xác khi nào sự tái sinh diễn ra thì cũng khó như là chứng minh ngay
giây phút nào trong bóng đêm biến thành buổi rạng đông. Sự tái sinh diễn ra thế
nào thì không thể giải thích được(Giăng 3: 7,8), nhưng Kinh Thánh nói rằng nó xảy
ra ngay tức khắc cũng giống như việc sáng tạo thế giới của Thượng-Đế.
"Ngài phán, thì liền có y như vậy". Dù không biến sự tái sinh diễn ra
khi nào bằng cách nào nhưng chúng ta biết chắc chắn sự tái sinh diễn ra bởi những
bằng chứng đi kèm theo phép lạ nầy.
Có thể là người ta cải tiến tình trạng con người họ đến một mức độ mà họ có thể
bị đánh lừa để tin tưởng rằng họ đã có kinh nghiệm tái sinh. Có hàng ngìn người
tốt nhưng chưa bao giờ được tái sinh và vẫn đang "chết trong sự quá phạm
và tội lỗi mình". Vì thế cần phải biết về bản chất của sự tái sinh.
Hơn Hẳn
Cả Dòng Dõi Tự Nhiên
Người Do Thái là dân tuyển chọn của Thượng-Đế nhưng được sinh ra bởi cha mẹ Do
Thái thì vẫn không có đảm bảo của sự cứu rỗi. Ê-sai là con của sự giao ước nhưng
ông ta đã bán quyền trưởng nam đổi lấy một bữa ăn (Hê. 12: 16,17). Na-đáp và
A-bi-hu là hai con trai của thầy tế lễ thượng phẩm nhưng họ sống bất kính trước
mặt Thượng-Đế đến nỗi phải bị tiêu hủy bằng lửa (Lê. 10: 1,2).
Phước hạnh của việc được sinh ra trong gia đình tin kính Chúa không tự động ban
cho chúng ta sự cứu rỗi. Sự tái sinh không phải là kết quả từ việc sinh sản của
loài người hay từ quan hệ trần thế.
Hơn Hẳn
Cả Quyết Định Của Loài Người
Sự tái sinh không phải là sự tự cải cách, mặc dù nhiều người muốn suy nghĩ như
vậy. Sự giáo dục và khai sáng sẽ không làm cho tội nhân trở nên thánh. Loại người
vô lại đê tiện nhất là vô loại có học thức, và nên tội phạm ghê tởm nhất chính
là những kẻ đạo đức giả thông sáng (the meanest kind of scoundrel is an
educated scoundrel . and the most detestable criminal is the enlightened
hypocrite). Vua Giô-ách được giáo dục kỹ lưỡng bởi thầy tế lễ thượng phẩm
Giê-hô-gia-da, nhưng vừa khi bị quân sư tín cẩn nầy qua đời, Giô-ách liền đi
vào đường lối gian ác( II Sử . 24: 2,17,18). Sau-lơ ở thành Tạt-sơ cũng được sự
giáo dục kỹ lưỡng nhưng điều đó không giữ ông ta khỏi bách hại Hội Thánh (Phi.
3: 4-6).
Hơn Hẳn
Cả Quyết Tâm Loài Người
Nhiều bậc cha mẹ tin Chúa muốn và thúc hối con cái họ kinh nghiệm sự tái sinh,
nhưng sự tái sinh chỉ đến từ Thượng-Đế mà thôi. Nhưng cha mẹ, là người tin Chúa
và muốn cho con cái cũng có cùng một kinh nghiệm tái sinh như mình, không nên
ép buộc con cái quyết định tin Chúa quá sớm. Tốt hơn hết là tuân theo mạng lệnh
của Thượng-Đế "trưởng dưỡng con cái trong sự nuôi nấng và khuyên dạy của
Chúa" và làm theo lời Chúa trong sách Châm Ngôn 22: 6 "Hãy dạy trẻ thơ
con đường nó phải theo, để khi nó già thì cũng không lìa khỏi con đường đó".
Thay vì quyết tâm của con người mình thì hãy cho con cái tiếp xúc với đức tin sống
động và đức tin hành động, hãy cầu nguyện thường xuyên và tin cậy nơi Thượng-Đế.
Được
Sinh Ra Bởi Thượng-Đế
Sự tái sinh bắt đầu với Thượng-Đế và chấm dứt với Ngài. Đức tin xưng công chính
là công việc Thượng-Đế, bởi đó bản chất cũ bị đóng đinh trên Thật Tự Giá
và người tin Chúa được khiến trở nên giống ảnh tượng của Chúa Giê-xu Chí-tôn
(Êph. 2: 1,4,5), vì thế trở thành tạo vật mới là con cái của Thượng-Đế. Sự
tái sinh là một tạo dựng mới. Người tin Chúa được sinh lại từ trên cao, không bởi
giống hư nát, nhưng bởi giống không hư nát. Sự tái sinh là công việc siêu nhiên
của Đức Thánh Linh (Giăng 3: 5)
TÍNH
CAO QUÝ CỦA SỰ TÁI SINH
A-đam không phải là con được sinh ra bởi dòng dõi tự nhiên, cũng không bởi
quyết định hay bởi quyết tâm của loài người, nhưng bởi Thượng-Đế. Một người con
được phục chức hay được tái sinh là một tạo vật kỳ diệu như A-đam . Không có gì
cao quý cho bằng được nhận làm con của Thượng-Đế.
Kẻ Dự
Phần Của Bản Tình Thiêng Liêng (II Phi.1: 4)
Những người không được tái sinh thì về mặt tri thức họ bị mù lòa bởi những đặc
quyền thiêng liêng và về mặt tình cảm họ bị bại hoại. Trong sự tái sinh, Thượng-Đế
ban truyền chính sự khôn ngoan và bản tính thánh khiết của Ngài. Là một bản
tính suy nghĩ như là Thượng-Đế suy nghĩ, cảm xúc như là Thượng-Đế cảm xúc, và muốn
như Thượng-Đế muốn.
Thân Thể
Trở Thành Đền Thờ Của Đức Thánh Linh (I Cô. 6: 19)
Thật là điều gần như không thể tin rằng Đức Thánh Linh hiện xuống ngự
trong loài người. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng món quà chia tay của chúa cho
các môn đồ là sự hiện diện vĩnh viễn của ngôi ba Thượng-Đế. Kễ từ lễ Ngũ Tuần
Ngài không những là vị thống lãnh và hướng dẫn của Hội Thánh, mà còn là bạn đồng
hành của mỗi cá nhân tín hữu.
Người Được
Tái Sinh Có Thể Chiến Thắng Thế Gian (I Giăng 5: 4)
Trên con đường thẳng tiến đến thiên đàng, những Cơ-Đốc Nhân chân chính có một
thách thức phải vượt qua. Họ phải vượt thắng thế gian vì thế gian ở dưới quyền
thống trị của Sa-tan. Là vua chúa cầm quyền trên thế gian, Sa-tan nhận thấy sự
cám dỗ thích hợp cho mọi người. Nụ cười của thế gian và trông mong những ân huệ
từ Sa-tan đã khiến nhiều người phản nghịch Thượng-Đế. Nhiều người không công nhận
Chúa Giê-xu Chí-tôn vì sợ hãi cái chau mày nhíu mặt của ma quỉ. Nhưng Cơ-Đốc
Nhân đãlột bỏ lòng yêu thế gian và những vật của thế gian, và xưng nhận rằng họ
là lữ hành, là khách lạ trên dất, đang hướng về một thành do Thượng-Đế tạo lập.
Người Được
Tái Sinh Trở Thành Kẻ Chinh Phục Tội Lỗi (IGiăng 3: 9)
Được tái sinh không có nghĩa là đã đạt đến mức toàn hảo. Tội lỗi vẫn còn đó, nhưng
nó không có quyền lực gì nữa. Bản tính mới được truyền qua trong sự tái sinh
khiến thói quen tiếp tục tội lỗi không thể xảy ra được. Sống trong tội lỗi là
trái nghịch với bản tính mới mà người ấy trở thành kẻ dự phần trong bản tính mới
đó. Như toàn thể bản tính của Thượng-Đế ghét tội lỗi, thì những kẻ dự phần của
bản tính thiêng cũng gướm ghét và xoay khỏi tội lỗi.
Ngưòi Được
Tái Sinh Yêu Thương Nhau (I Giăng 3: 14; 4: 7)
Bầu không khí của thiên đàng là tình yêu thương. Đức Chúa Trời không bao giờ
nói, "không nên, không được, hay đừng" với các thiên sứ vì họ
luôn luôn yêu thương Ngài với cả sự sống của họ. Những người từng trải sự tái
sinh yêu thương kẻ thù cũng như bạn của họ và vì vậy minh chứng rằng họ là những
kẻ dự phần của bản tính thiêng liêng. "Hãy nhìn xem các Cơ-Đốc Nhân yêu thương
nhau thế nào?" là câu nhận xét của những người theo dõi đặc tính của các
tín hữu Hội Thánh đầu tiên.
TỔNG KẾT
Đức tin và sự tái sinh là cách của Thượng-Đế cho loài người chiến thắng bản
tính tội lỗi mà họ thừa hưởng từ A-đam.
Đức tin là niềm tin dựa trên những sự kiện. Có ba loại đức tin: Đức tin cứu
rỗi, đức tin sống động, và đức tin hành động.
Đức tin cứu rỗilà nhìn nhận sự cứu rỗi khỏi hình phạt tội lỗi. Để cho loài người
có được đức tin cứu rỗi họ phải trước nhất nhận biết công lý và sự đoán xét của
Thượng-Đế. Thứ hai, họ phải thú nhận tỗi lỗi. Và thứ ba, họ phải xưng
nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu trước mặt những người khác.
Đức tin rất cần yếu không những để cứu khỏi sự chết, nhưng còn để sống cuộc
đời Cơ-Đốc. Đức tin sống giải thoát người tin Chúa khỏi quyền lực tội lỗi, những
cám dỗ của Sa-tan thử thách đức tin của chúng ta. Trong lúc chịu thử thách, người
tin Chúa cần phải đến gần hơn với Thượng-Đế và Ngài sẽ ban sức mạnh cần thiết để
đứng vững trong mọi cám dỗ đó.
Đức tin hành động là sự biểu lộ bên ngoài của Đức tin sống. Đức tin hành động
không thể hiện chính nó nhiều qua lời nói nhưng qua việc làm. Việc làm không
khiến con người trở nên công chính, nhưng con người công chính thể hiện qua việc
làm.
Đức tin cứu rỗi và sự tái sinh không thể tách riêng được. Nơi nào có Đức tin
chân thật nơi đó luôn có sự tái sinh.
Sự tái sinh rất cần thiết vì sự bại hoại của loài người, sự thánh khiết của Thượng-Đế,
và tính chất chắc chắn của sự chết đòi hỏi con người phải đươc tái sinh.
Giăng 1: 13 giải thích bản tính của sự tái sinh. Nó hơn hẳn cả dòng giỏi tự
nhiên, hơn hẳn sự quyết định hay là quyết tâm của loài người. Nó là sự sinh ra
bởi Thượng-Đế. Tái sinh là một công việc siêu nhiên của Đức Thánh Linh.
Người được tái sinh trở thành kẻ dự phần của bản tính thiêng liêng, thân thể họ
là đền thờ của Đức Thánh Linh, họ có thể chiến thắng và chinh phục quyền lực của
tội lỗi và thế gian, và họ yêu thương những người khác.
BÀI LÀM
1.
Định nghĩa đức tin trong Kinh Thánh là gì?
2.
Hãy định nghĩa đức tin cứu rỗi (saving faith)
3.
Đức tin cứu rỗi được minh chứng như thế nào trong trường hợp của người tội phạm
biết ăn năn trên Thập tự giá ở Đồi Sọ?
4.
Cho một thí dụ cụ thể của Đức tin sống (living faith)?
5.
Hãy định nghĩa đức tin hành động (working faith)?
6.
Có quan hệ gì giữa Đức tin và sự tái sinh?
7.
Tại sao tái sinh là điều cần thiết?
8.
Sự bại hoại của loài người có nghĩa gì?
9.
Sử dụng Giăng 1: 13 để giải thích bản tính của sự tái sinh?
10.
Loài người đã cố gắng thế nào để cứu họ?
11.
Về phương diện nào Cơ-Đốc Nhân là một tạo vật kỳ diệu như A-đam?
12.
Người được tái sinh có thể chiến thắng những gì?
13.
Làm thế nào bạn giải thích về sự tái sinh cho một người chưa được cứu?
14.
Làm thế nào một người có thể kinh nghiệm sự cứu rỗi trong Chúa Giê-xu Chí-tôn?
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
Chafer, Lewis S . Salvation . Grand Rapids : Zondervan Pub. House.
1972.
Ryrie, Charles C. A-dam Survey of Bible Doctrine. Chicago: Moody
Press,1972
Top
Top of
Form
Trang Đầu
| Mục Lục | << CHƯƠNG 3 | CHƯƠNG 5 >>
CHƯƠNG
4
SỰ XƯNG
CÔNG CHÍNH VÀ NHẬN LÀM CON
(Justification
and Adoption)
SỰ XƯNG
CÔNG CHÍNH
Sự xưng công chính là một từ ngữ luật pháp ám chỉ sự làm minh bạch cho thanh
danh một người nào đó, đạt được một bản án thuận lợi, hoặc là của tòa án, của dư
luận, hay là của lương tâm. Sự xưng công chính là việc dành cho người ác chứ
không phải cho người công chính. Kể từ đây, sự xưng công chính là hành động
pháp lý của Thượng-Đế bởi đó tội nhân nào đặt đức tin nơi Chúa Giê-xu Chí-tôn
nhận Ngài làm Chúa Cứu Thế và chủ của mình thì sẽ được tuyên bố là công
chính trước mặt Thượng-Đế và được giải phóng khỏi tội lỗi và hình phạt.
Tiến
Trình Của Việc Xưng Công Chính
Tiến trình của sự xưng công chính rất đơn giản cho tất tất cả những ai hiểu và đón
nhận và ân điển của Thượng-Đế. Nhưng bản chất tội lỗi đã làm cho loài người khó
nhận biết được tầm mức của tình yêu và sự nhận từ của Thượng-Đế, khó tiếp nhận
những ân huệ mà mình không đáng nhận từ Thượng-Đế.
Tiến trình của sự xưng công chính gồm có sự tha tội, việc áp dụng sự công chính
của Chúa Giê-xu Chí-tôn, và sự đòi hỏi phải có đức tin.
Sau đây là các câu Thánh Kinh cho biết Thượng-Đế
sẵn lòng tha tội và thay đổi hình phạt chết cho con người: Thi. 130: 4;
Mi.7: 18,19; Công. 13: 38,39; Rô.8: 1,33,34; Côl. 2: 13,14.
Mọi người đều đã phạm tội. mọi tội đều xúc phạm đến Đức Chúa Trời. Bản tính
thánh thiện của Ngài chống lại tội lỗi. Nếu tất cả tội lỗi của một đời người được
ghi lại, thì người ta sẽ có được một bản liệt kê dài gần như vô tận, vì
"chẳng có một người công chính nào hết, dẫu một người cũng không"
(Rô. 3: 10).
Chính Thượng-Đế là Đấng xưng công chính cho loài người. loài người không thể tự
mình xưng mình công chính được. Chỉ nhờ sự chết và chuộc tội của Chúa Giê-xu
Chí-tôn mà Thượng-Đế có thể tẩy sạch tội nhận và xưng họ công chính hoàn toàn.
Thật là kỳ diệu, Thượng-Đế, Đấng kịch liệt ghét tội lỗi mà lại có thể yêu thương
tội nhân nhiều đến như thế. Sự xưng công chính hơn cả sự xưng ân xá. Tội nhân rất
cần được giải thoát khỏi tội để được cứu khỏi sự đáng phạt của một Thượng-Đế
thánh và công chính. Tội nhân đã được tha thứ thì nhận lãnh nhiều quyền lợi hơn
cả một can phạm được thả. Sự công chính của Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn, con yêu
quý của Thượng-Đế, được kể vào cho người tội được tha ấy (Rô. 3: 22; 5:
17-21).
Một thí dụ cụ thể của nguyên tắc này được thấy trong lá thư sứ đồ của Phao-lô gỏi
cho ông Phi-lê-môn tại thành Cô-lô-se đề cập đến ông Ô-nê-sim, người nô lệ bỏ
trốn khỏi Phi-lê-môn. Ô-mê-sim đã ăn cắp một số tiền của chủ mình và trốn đến
thành La Mã tiêu xài phung phí. Nhưng trong khi Ô-nê-sim đủ sức trốn chủ mình trong
thành phố đồ sộ này, thì ông vẫn không thể trốn khỏi Đức Chúa Trời. Qua sự giảng
dạy của Phao-lô, Ô-mê-sim tin Chúa. Ăn năn về tội lỗi của mình, Ô-nê-sim chuẫn
bị trở về và đến bù lại cho chủ. Ông mang theo một lá thư quan trọng của
Phao-lô viết cho Phi-lê-môn về sự thay đổi lớn lao đã xảy ra cho ông Ô-nê-sim
và có lời yêu cầu như sau: "Nếu người có làm hại anh hoặc mắc nợ anh
điều chi, thì hãy cứ tính cho tôi" (Phi-lê-môn 18).
Thượng-Đế chập nhận người tin Chúa qua Chúa Giê-xu Chí-tôn, và trong bất
cứ trường hợp nào người tin Chúa có làm điều gì sai trật với Thượng-Đế thì Chúa
Giê-xu Chí-tôn đã gánh chịu tội lỗi và hình phạt thay cho rồi (I Cô. 1: 30). Những
gì người tin Chúa thiếu nợ Thượng-Đế về sự vâng phục trọn vẹn mà không thể nào
trả nổi, thì Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn đã trả thay hết.
Đức tin cứu rỗi là điều kiện cho tất cả sự tái sinh lẫn sự xưng công chính.
Phao-lô dùng cuộc đời Áp-ra-ham làm thí dụ của sự xưng công chính bởi đức tin
(Rô. 4). Ông nói rằng sự công chính đã được áp dụng, kể vào, và qui cho
phụ tổ phụ Áp-ra-ham không dựa vào việc làm công đức. Áp-ra-ham không bao giờ
chất vấn những lời hứa của Thượng-Đế, dù những lời hứa này trông dường như
xa vời và không thể xảy ra được. Ông hoàn toàn tin cậy rằng bất cứ điều gì Thượng-Đế
đã hứa Ngài sẽ làm thành điều đó(v. 21). Đây là loại lòng tin cậy Thượng-Đế mà
người tin Chúa phải có thể được xưng công chính.
Sự công chính là một quà tặng miễn phí của Đức Chúa Trời (I Cô. 6: 11),
do ân sủng của Chúa mà quà tặng này được miễn phí(Rô. 3: 24). Thượng-Đế
"làm cho chúng ta đồng sống lại và đồng ngồi trong các nơi trên trời trong
Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn, dầu cho về đời sau tỏ ra sự giàu có vô hạn của
ân điển này, mà Ngài đã bởi lòng nhân từ đã dùng ra cho chúng ta trong Đức
Chúa Giê-xu Chí-tôn" (Êph. 2: 6,7).
Cách duy nhất để một Thượng-Đế công chính và công bình có thể tha tội là phải
cung cấp một Đấng Vô Tội để thay thế (Ês. 53: 11). Bỏ qua tội lỗi sẽ làm tiêu hủy
sự thành khiết của Ngài và sẽ đem sự hỗn độn đạo đức vào trong thế gian. Chỉ bởi
sự chết của Vị Con toàn hảo của Thượng-Đế mới có thể thay hình phạt cho cả nhân
loại (Rô. 5: 9,11; II Cô. 5: 21). Những lễ vật thời Cựu Ước báo trước một lễ vật
tối cao sẽ đến vì "không có sự đổ huyết thì không có sự tha tội" (Hê.
9: 22-28; I Giăng 1: 7).
Kỳ Diệu
Của Sự Xưng Công Chính
Sự xưng công chính của Thượng-Đế có nghĩa hơn cả sự ân sá. Sự xưng công chính đem
lại cứu rỗi và an ninh, bao gồm cả sự bình an, vui tươi, và vinh hiển đời
đời.
Thập tự giá đã chấm dứt sự thù địch giữa Thượng-Đế và loài người. ngay giây
phút tội nhân tin nhận Chúa Giê-xu Chí-tôn, họ liền được xưng công chính và hòa
thuận lại với Thượng-Đế. Điều nầy không phải là một cuộc đình chiến hay là sự
giải giáp, nhưng là một mối tương giao liên tục và trường tồn.
Niềm vui được xưng công chính xuất phát từ hy vọng chắc chắn của một tương lai
rực rỡ và là di sản đặc biệt của Cơ-Đốc Nhân. Trái lại, "vô vọng" là đặc
điểm của những ai không có Chúa Giê-xu Chí-tôn. Trong tất cả mọi người thì người
tin Chúa là người vui sướng và hạnh phúc nhất. Họ được hòa thuận với Thượng-Đế
và sẽ vui hưởng Ngài mãi mãi.
Chúa đã bảo cho các môn đệ Ngài: "Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong
thế gian" (Giăng 16: 33), và những người đã được xưng công chính hiểu mục đích
của Ngài. Nhận biết được quyền làm con của Thượng-Đế sẽ thay đổi thái độ của người
tin Chúa đối với sự đau khổ. Người công chính biết rằng "Những sự đau khổ
bây giờ chẳng đáng so sánh với sự vinh hiển hầu đến, là sự sẽ được bày ra cho
chúng ta". (Rô-ma 8: 18).
Chúa Giê-xu Chí-tôn trong lời cầu nguyện tạm biệt của Ngài đã xin cho các môn đồ
được ở với Ngài để làm kẻ dự phần của vinh hiển Ngài (Giăng 17: 22-24). Không
gì có thể so sánh với ân điển kỳ diệu của Chúa Cứu Thế Giê-xu là Đấng bằng lòng
cho phép loài nguời dự phần trong sự vinh hiển Ngài.
SỰ NHẬN
LÀM CON
Đây là một từ ngữ La Mã vì sự nhận làm con nuôi được ít biết đến giữa vòng người
Do Thái. Từ ngữ nầy có nghĩa là sự tình nguyện nhận một đứa trẻ của cha mẹ khác
làm con của mình, và ban cho nó mọi đặc quyền của một đứa con ruột. Chữ nầy được
dùng cho người tin Chúa khi câu hỏi về quyền hạn, đặc ân, và sự thừa hưởng gia
sản được đặt ra. Sự việc người tin Chúa được Thượng-Đế nhận vào làm con trong
gia đình Ngài bày tỏ ân sủng của Thượng-Đế và ban cho người tin Chúa một địa vị
mới. Họ không phải là nô lệ nhưng là con, có mọi quyền của con cái cũng như được
thừa hưởng gia tài từ cha.
Những
Người Được Nhận Làm Con
*
Quốc Gia Do Thái
Sứ Đồ Phao-lô nói: " Những người dân Do Thái, là dân được sự
nhận làm con nuôi" (Rô. 9: 4). So sánh câu nầy với Phục Truyền 43: 1, rõ
ràng đây là sự đề cập đến người Do Thái là dân tuyển chọn của Thượng-Đế. Thượng-Đế
phán cùng dân Do Thái, "Ta đã chuộc ngươi, Ta đã gọi tên ngươi bằng
tên Ta; ngươi thuộc về Ta".
Quyền năng bảo vệ và giải phóng kỳ diệu của Thượng-Đế đã được thi thố trên dân
Do Thái. Những lời hứa quý giá của Ngài ban cho họ. Họ là con cái bởi sự lựa chọn
của Ngài. Nhưng họ đã chọn điều khác. Họ xây lưng nghịch cùng Thượng-Đế là Cha
họ, và hoàn tất sự phủ nhận Thượng-Đế qua việc chối bỏ Đấng Cứu Chuộc mà Ngài đã
hứa, Con của Thượng-Đế.
* Nguời
Tin Chúa
Tấm lòng yêu thương của Thượng-Đế vẫn luôn mong mỏi có một dân riêng của Ngài,
là dân mà Ngài đổ xuống ân điển tràn tuôn. Vì thế Thượng-Đế mở cánh cửa cho người
ngoại bang. "Nhưng hể ai tin nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền phép trở nên
con cái Thượng-Đế, và ban cho những kẻ tin Danh Ngài" (Giăng 1: 12).
Dân Do Thái là con của Thượng-Đế nhưng bây giờ dưới ánh sáng Phúc-Âm thì mỗi cá
nhân tín hữu, dù là Do Thái hay ngoại bang đều được nhận làm con.
Được nhận làm con sẽ được ban cho một bản tính tin kính (Ga. 4: 6) - Tất cả những
ai được nhận vào làm con trong gia đình của Thượng-Đế đều được dự phần trong bản
tính Ngài vì Ngài sẽ làm cho các con cái Ngài đều giống Ngài.
Được nhận làm con sẽ được ban cho quyền bình đẳng với tất cả mọi người con (Ga.
4: 7) - Tất cả con cái Thượng-Đế đều là kẻ kế tự. Trong một vài quốc gia, các
người con không được chia gia tài của cha cách đồng đều trừ khi cha làm di chúc
như vậy; thường người con cả sẽ là người kế tự. Trong gia đình của Thượng-Đế tất
cả con cái Ngài được tuyên bố là kẻ đồng kế tự với Chúa Giê-xu Chí-tôn, là Con đầu
lòng của Thượng-Đế (Rô. 8: 17).
Được nhận làm con thì được ban cho mối tương giao với Chúa (II Cô. 6: 17,18) -
Sự nhận làm con liên hệ đến mối thông công Cha con. Sự nhận làm con là một định
ước đời đời; chỉ khi nào người tin Chúa phân rẽ khỏi tội lỗi, hướng lòng yêu mến
về những điều trên trời, thì họ mới có thể biết được mối tương giao giữa cha với
con .
Thời Điểm
Của Sự Nhận Làm Con
Khi nào sự nhận làm con trong gia đình thiên đàng xảy ra? sự nhận làm con là một
hành động ở quá khứ, hiện tại, và tương lai.
* Đời Sống
Trong Chương Trình Của Thượng-Đế
Sự chết hy sinh của Chúa Giê-xu Chí-tôn và sự nhận người tin Chúa làm con đã được
Thượng-Đế hoạch định lâu đời trước khi các việc nầy xảy ra. Thượng-Đế, trước
khi tạo lập thế giới, không những đã chọn có mọt gia đình thiên thượng của những
người sanh ra trên đất, nhưng Ngài còn biết trước ai sẽ được nhận làm con (Êph.
1: 4,5).
*
Được Nhận Khi Tin
Hành động nhận làm con thật sự không thể xảy ra cho một người cho đến khi người
ấy được tái sinh, có nghĩa là cho đến khi người ấy tin chọn vẹn nơi Đức Chúa
Giê-xu Chí-tôn để được sự cứu rỗi. Một Thượng-Đế thánh khiết không thể nào
nhận vào gia đình Ngài một đứa con không biết ăn năn. Tuy nhiên, sự nhận làm
con xảy ra ngay giây phút người ấy tin nhận Chúa Giê-xu Chí-tôn. Người tin Chúa
có quyền được làm có ngay trong hiện tại. (Ga. 3: 26; I Giăng 3: 2).
Nhưng làm thế nào sự tiền định của Thượng-Đế cho những người được nhận làm con
(Êph. 1: 5) có thể điều hòa với ý chí tự do của con người quyết định chọn
sự nhận làm con? (Giăng 1: 12). Giả sử trên cánh cửa của một tòa nhà đồ sộ có
viết hàng chữ: BẤT CỨ AI MUỐN HÃY CỨ VÀO. Một người nhận lời mời ấy mới bước
vào. Nhưng khi vào người ấy thấy phía bên trong cánh cửa có hàng chữ khác như:
ĐƯỢC TIỀN ĐỊNH ĐỂ NHẬN LÀM CON. Người ấy cảm thấy thỏa lòng. Người ấy chẳng có
hàng chữ nào sai cả. Kẻ không tin không thể hiểu được sự nhận làm con này. Mối
quan tâm trước hết của người chưa được tin là sự cứu rỗi, nhưng một khi
chấp nhận chương trình đại lượng của Thượng-Đế người ấy học biết rằng không những
mình được tái sinh và xưng công chính, mà còn được nhận vào làm con trong gia đình
của Thượng-Đế.
* Hoàn
Tất Khi Chúa Tái Lâm
Sự mặc khải trọn vẹn của địa vị làm con Đức Chúa Trời của tín hữu được dành cho
một ngày trong tương lai (Êph. 1: 10,11). Ngay trong thế gian nầy người tin
Chúa chưa được người ta chấp nhận là con của Thượng-Đế toàn năng, nhưng một
ngày nào đó trong tương lai họ sẽ xuất hiện giống như Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn
(Cô. 3: 4; I Giăng 3: 1,2).
KẾT QUẢ
CỦA SỰ NHẬN LÀM CON
Không
Còn Ở Dưới Gia-sư Hoặc Nô Lệ (No Longer Under Tutors Or Bondage)
" Nhưng sau khi đức tin đã đến, chúng ta không còn ở dưới gia sư nữa"
(Ga. 3: 25). Từ ngữ Hy-lạp "gia sư" (tutor) dùng để chỉ một người
nô lệ tín cẫn được giao phó chăm sóc một đứa con của chủ cho đến khi nó tròn 12
tuổi. Người nầy, sẽ gìn giữ đứa trẻ khỏi những điều xấu về mặt đạo đức và thể
chất, và thường xuyên theo sát đứa trẻ. Người nầy ra lệnh. cấm đoán đứa trẻ, và
giới hạn sự tự do của nó, nhằm huấn luyện cho đứa trẻ trách nhiệm của người trưởng
thành. Như vậy, luật pháp được dùng dẫn người ta đến Đấng Chí-tôn để chỉ cho họ
thấy tội lỗi và sự đoán phạt, và qua đó họ có thể nhận biết nhu cầu cần có một Đấng
Cứu Chuộc. Mục đích nầy đã được hoàn tất, người ta không còn ở dưới luật pháp nữa
nhưng được nhận làm con trưởng thành khi họ được tái sinh.
Dân Do Thái bị đặt dưới luật pháp và như vậy thường xuyên ở dưới sự nô lệ và sự
hãi do thiếu sự vâng phục trọn vẹn. Đức Giê-hô-va dạy một dân tộc tội lỗi về sự
thánh khiết của Ngài, và họ chỉ có thể đến gần Ngài bằng cách dâng tế lễ
mà thôi. Nhưng khi Chúa Chí-tôn đến, mọi sự đều khác hẳn.
Nhưng
Bây Giờ Là Con Của Thượng-Đế
"Lại nếu chúng ta là con cái, thì cũng là kẻ kế tự; kẻ kế tự Thượng-Đế và
là kẻ đồng kế tự với Đấng Chí-tôn" (Rô. 8: 17). Nếu một người thật sự là
con của Thượng-Đế người ấy sẽ trở thành kế tự của Thượng-Đế. Con cái thừa hưởng
gia sản của cha mẹ vì chúng được sanh ra trong gia đình đó, chứ không phải vì
chúng có công trạng gì. Cha mẹ chúng để lại gia tài cho chúng. Trong câu chuyện
vị quan trẻ giàu có, vị quan này đã hỏi Chúa Giê-xu, " Tôi phải làm
gì để được thừa hưởng sự sống đời đời?" Đây là một câu nói mâu thuẫn! Chúa
đã ban ơn phước tuôn tràn muôn đời cho những người tin Chúa là những người đồng
kế tự với Chúa Giê-xu Chí-tôn.
PHƯỚC HẠNH
CỦA SỰ NHẬN LÀM CON
Một Gia
Đình Thiên Thượng
Được nhận làm con trong gia đình thiên thượng sẽ được ban cho tên, cho giống,
và cho tình yêu thương của gia đình.
Làm thế nào một người có thể giống Thượng-Đế? điều nầy thường không thể xảy
ra được cho loài người, nhưng giống Đức Chúa Trời là giống của Đức Chúa
Giê-xu Chí-tôn, là "hình bóng của bản thể Ngài" (Hê. 1: 3). Chúa
Giê-xu Chí-tôn là Thượng-Đế bày tỏ chính Ngài trong ngôn ngữ mà loài người có
thể hiểu được. Chúa Giê-xu Chí-tôn là khuôn vàng thước ngọc gia đình thiên thượng.
Làm "kẻ bắt chước Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn, Chúa chúng ta, theo ý nghĩa
chân chính của Kinh Thánh tức là để lộ ra những đặc tính của gia đình thiên thượng.
Cơ-Đốc Nhân không thể cầu nguuyện "lạy Cha của chúng con" và rồi
khinh thường anh em mình. Tình yêu thương gia đình đòi hỏi họ sống và cư sử với
nhau như là anh chị em. Giống như Chúa, họ phải yêu thương những người khác
ngôn ngữ và phong tục, ngay cả những người chưa biết Cha trên trời (Giăng 13:
35; Rô. 5: 5; I Giăng 3: 14).
Cha
Thiên Thượng
Chúa Giê-xu Chí-tôn dạy các môn đồ của Ngài cầu nguyện rằng, "Lạy Cha
chúng con ở trên trời", để họ có thể hiểu và thích nghi với sự quan phòng,
yên ủi, và sửa trị của Thượng-Đế. Vì Thượng-Đế là Cha Của Cơ-Đốc Nhân nên Ngài
nghe, Ngài đáp lời cầu nguyện và cung cấp mọi sự cần dùng của họ. (Mat. 7: 11).
"Đức Giê-hô-va thương xót kẻ kính sợ Ngài, khác nào cha thương xót con cái
mình vậy" (Thi. 103: 13). Sự thương xót của Ngài đi cùng với sự yên ủi
trọn vẹn của Ngài. "Ta, chính ta, là Đấng Yên Ủi các ngươi" (Ê-sai
51: 12). Sự yên ủi của một người cha trần gian nhiều lắm cũng chỉ có thể là tạm
thời. Trong cuộc sống không thể nào tránh khỏi sự buồn rầu và khổ sở, nhưng
"Thượng-Đế của mọi sự yên ủi. .yên ủi chúng tôi" (II Cô. 1: 3,4).
Nếu Chúa Giê-xu Chí-tôn, là con Thượng-Đế, mà phải chịu đau khổ để những
người tin Chúa có thể được nhận vào làm con trong gia đình của thiên đàng, thì
những người con nuôi làm sao có thể mong được đối xử tốt hơn? "Đầy tớ chẳng
lớn hơn chủ mình". Tại sao Cơ-Đốc Nhân lại mong rằng Thượng-Đế sẽ trưởng dưởng
những đứa con nuôi của Ngài với tình thương ít hơn và kỹ luật nghiêm minh hơn
là Ngài đối với con độc sanh của Ngài? Thượng-Đế phán, "Phàm những kẻ yêu
ta thì ta quở trách sửa phạt" (Khải. 3: 19; Hê. 12: 5-11), và Ngài thường
xuyên sửa trị con cái dấu yêu của Ngài vì lợi ích của họ.
Di Sản
Thiên Thượng
Vì Cơ-Đốc Nhân là con nuôi của Thượng-Đế nên thiên đàng là tài sản thừa kế của
họ. Sự di sản Thiên Phụ ban cho để làm bằng chứng của tình yêu Ngài, thì
không hề hư nát và hoen ố.
Di sản nầy sẽ không hư mất như những gia sản trần gian. Nó là một sở hữu đời đời
mà không có mối mọt hay ten rét nào có thể ăn mòn, hoặc là trộm cướp nào có thể
lấy mất được.
Di sản này sẽ không bao giờ mất vẻ sáng chói và huy hoàng của nó. Mão miện vinh
hiển, dù đã đội hàng triệu đời, vẫn không hề phai tàn. Những con đường bằng
vàng sẽ không bao giờ mất nước bóng láng của nó. Con cái Thượng-Đế sẽ không hề
mệt mỏi trên Thiên Đàng.
TỔNG KẾT
Sự công chính là môït hành vi của Thượng-Đế mà nhờ đó những tội nhân tin nhận
Chúa Chí-tôn làm Chúa Cứu Thế và Chủ thì được tuyên bố là công chính trước mắt
Ngài và được tự do khỏi tội lỗi và hình phạt.
Tiến trình của sự xưng công chính gồm ba bước. Bước thứ nhất, là sự tha tội. Vì
mọi người đều đã phạm tội nên mọi người cần sự tha tội của Thượng-Đế. Bước thứ
hai, là việc áp dụng sự công chính của Chúa Chí-tôn cho người tin. Sự xưng
công chính hơn cả sự tha tội. Khi tội nhận chấp nhận sự tha tội của Thượng-Đế họ
khám phá ra rằng sự công chính của Đức Chúa Giê-xu đã được kể vào cho họ. Cuối
cùng, tiến trình của sự công chính đặt điều kiện trên đức tin. Khi tội nhân được
xưng công chính, họ trở nên tin tưởng hoàn toàn rằng bất cứ điều gì Thượng-Đế đã
hứa, Ngài sẽ làm thành. Họ chấp nhận sự xưng công chính là một món quà miễn phí
của Thượng-Đế qua sự đổ huyết của Chúa Giê-xu Chí-tôn.
Khi tội nhân được xưng công chính thì họ nhận được nhiều ơn phước. Trong số các
ơn phước nầy thì có: Sự hòa thuận với Đức Chúa Trời, niềm vui, và được
ban cho sự vinh hiển đời đời. Họ được nhận vào trong gia đình của Thượng-Đế
với đầy đủ quyền hạn và đặc ân của con cái.
Những kẻ dự phần của sự nhận làm con trong thời Cựu Ước là dân Do Thái. Nhưng
khi họ từ chối Đức Chúa Chí-tôn, Thượng-Đế mở rộng ra cho hết thảy mọi người
tin.
Từ buổi ban đầu Thượng-Đế đã hoạch định sự nhận làm con. Ngài hoạch định rằng sự
nhận làm con sẽ xảy ra vào giây phút một người tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa
Giê-xu Chí-tôn. Tuy nhiên, sự măïc khải trọn vẹn của địa vị làm con sẽ
không hoàn tất cho đến khi Chúa Chí-tôn trở lại, lúc đó những người tin Chúa sẽ
được làm cho trở nên giống như Ngài.
Khi một người tin Chúa được nhận vào trong gia đình của Thượng-Đế họ không còn ở
dưới luật pháp nữa, nhưng họ được nhận làm con. Họ không còn nô lệ cho sự sợ
hãi vì không giữ luật pháp trọn vẹn, nhưng bây giờ họ là con của Thượng-Đế và
là kẻ đồng kế tự với Chúa Giê-xu Chí-tôn.
Khi những người tin được Thượng-Đế nhận làm con, thì họ trở thành thi thể
của gia đình thiên thượng. Họ mang tên họ của Đức Chúa Trời, có những nét giống
gia đình Ngài, và chia sẻ tình yêu thương của gia đình Ngài. Là con cái
Thượng-Đế Cơ-Đốc nhận được sự quan phòng, yên ủi, và sửa trị của Ngài. Sau cùng
là Cơ-Đốc nhân được một di sản thiên thượng. Để làm bằng chứng của tình yêu
Ngài, vị Cha Thiên Thượng ban cho con cái Ngài Thiên Đàng, một di sản
không hư nát không ô uế, và không phai tàn.
BÀI LÀM
1.
Sự xưng công chính có nghĩa gì trong liên hệ với vị trí của tội nhân trước mặt
Thượng-Đế?
2.
Mô tả tiến trình mà nhờ đó tội nhân được xưng công chính?
3.
Aùp dụng sự xưng công chính của Chúa Giê-xu Chí-tôn nghĩa là gì?
4.
Đức tin liên hệ như thế nào với sự xưng công chính?
5.
Sự nhận làm con nuôi có nghĩa gì trong liên hệ với người tin Chúa?
6.
Trong sự nhận làm con nuôi của người tin Chúa thì họ được ban cho những quyền lợi
gi?
7.
Sự nhận làm con nuôi liên hệ như thế nào nào với quá khứ, hiện tại và tương
lai?
8.
Viết định nghĩa của bạn về sự xưng công chính và sự nhận làm con nuôi?
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
Henry, Carl H. F. (ed) . Fundemental of the faith . Grand Rapids:
Zondervan Pub . House, 1969. Chapter 9.
Ryrie, Charles C.A Survey os the Bible Doctrine. Chicago: Moody Press,
1972. Chapter 7.
Top
Top of
Form
Trang Đầu
| Mục Lục | << CHƯƠNG 4 | CHƯƠNG 6 >>
CHƯƠNG
5
THỜ PHƯỢNG
VÀ CẦU NGUYỆN
(Worship
and Prayer)
THỜ PHƯỢNG
Một chức năng quan trọng của Hội Thánh là lễ thờ phượng chung (Public worship
service). Hàng ngày các phần tử trong trong gia đình nhóm họp lễ bái với
nhau(family worship). Nhiều người dành ra thì giờ nhất định mỗi ngày cho sự thờ
phượng riêng Tân Ước. Thờ phượng là gì? Đọc lời Chúa, lắng nghe một bài giảng,
cầu nguyện, và ca hát là những yếu tố đóng góp cho sự thờ phượng, nhưng những điều
nầy có thể được thực hiện mà không có sự thờ phượng, nhưng những điều nầy có thể
được thực hiện mà không có sự thờ phượng.
Từ ngữ "thờ phượng" ra chữ Do Thái trong Cựu Ước có nghĩa là
"cúi xuống". Tuy nhiên, thờ phượng không phải một hành động của
thân thể hay sự vận động trí óc. Thờ phượng, như đãđược dùng trong Thánh
Kinh, là tập trung tư tưởng hướng về Đức Chúa Trời, suy nghĩ về sự quyền
năng và uy nghi của Ngài, và như vậy là xoay sự chú ý ra khỏi con người mình.
Thờ phượng là một sinh hoạt thiêng liêng. "Thượng-Đế là thần; ai thờ lạy
Ngài phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy" (Giăng 4: 24).
Nhu cầu thờ phượng thì cũng tự nhiên như nhu cầu được bảo vệ yêu thương. Loài
người thờ phượng nhiều thứ để cố gắng thõa mãn cho nhu cầu nầy mới được đáp ứng
đầy đủ.
Đối Tượng
Của Sự Thờ Phượng
* Thượng-Đế
Rõ ràng ngay từ đầu của 10 điều răn đã cho biết là loài người thờ lạy các thần
khác (Xuất. 20: 3). Do Thái, một dân tộc được rất nhiều sự ưu đãi, được
Thượng-Đế bày tỏ cho biết uy nghiêm và sức mạnh của Ngài, đã bị cấm thờ
phượng các thần khác (Mat. 4: 10). Mặc dù có sự cảnh cáo nghiêm trọng bằng bất
cứ người nào thờ phượng mặt trời, mặt trăng hoặc là thiên binh đều bị ném
đá cho chết (Phục. 17: 2-5), sự thờ phượng mặt trời vẫn tái diễn giữa vòng tuyển
dân của Thượng-Đế.
Các quốc gia chung quanh nước Do Thái thờ rất nhiều thần, một vật thống trị mạnh
mẽ nhất trong thiên nhiên, được thờ lạy trên khắp các nước của thế giới ngày xưa.
Người Ả Rập dường như tỏ lòng tôn kính trực tiếp với mặt trời mà không cần
xen vào những bức tượng hay là dấu hiệu gì cả (Gióp 31: 26-28). Tại Ai Cập, mặt
trời được thờ lạy dưới danh hiệu là Ra. Thần Ba-anh của dân Phê-ni-xiên, thần
Mô-lóc của dân Am-môn, thần Ha-đát của dân Sy-ri, và thần Bên của dân
Ba-bi-lôn, cũng đều là những vị thần của mặt trời.
Người Do Thái không những bị cấm thờ phượng tạo vật, kể cả loài người và
thiên sứ (Khải Huyền 22: 8-9) thay cho thờ Đấng Tạo Hóa, mà còn không được phép
làm các ảnh tượng hay vật gì giống Thượng-Đế để thờ lạy. Đây là mục đích của điều
răn thứ hai.
Nhiều người ngày nay có thể không cúi thờ hình tượng, tuy nhiên, sự thờ phượng
Chúa của họ không được Đức Chúa Trời vui nhận vì họ đã để các đối tượng khác cướp
mất tình yêu và sự cảm mến của họ đối với Chúa. Có một nhà văn kể tên chín vị
thần mà loài nguời đã thờ lạy: vàng, thời trang, danh vọng, cuộc sống dễ
dãi, trí thức; du lịch, cơ hội, đam mê, và rược chè. Khi bất cứ gì trong
các điều trên đây hay các điều khác chế ngự cuộc đời, thì nó trở thành như các
thần tượng khác, và khi nó chiếm ngự tâm trí của một người nào trong thờ phượng
Chúa, thì người đó không để cho Thượng Đế chiếm ngự trọn vẹn.
* Chúa
Giê-xu Chí-tôn
Vì Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn là Thượng-Đế, nên Ngài vui nhận sự thờ phượng (Mat.
14: 33; 28: 17; Giăng 9: 38). Khi người ta kiếm cách thờ lạy các sứ đồ Phi-e-rơ,
Phao-lô và Ba-na-ba, thì các vị nầy nỗi giận (Công. 10: 25,26; 14: 11-15). Hãy
so sánh phản ứng của họ với việc Chúa chấp nhận sự thờ phượng (Mat. 14: 33; Lu.
5: 8; 24: 52; Giăng 20: 28). Phi-e -rơ và Thô-ma công khai làm chứng thần tánh
của Chúa Giê-xu. (Mat. 16: 16; Giăng 20: 28,29). Và vì Chúa Giê-xu Chí-tôn là
Thượng-Đế, nên Ngài vui nhận những lời chứng nầy. Chúa Giê-xu đã nói
"để ai nầy đều tôn kính Con, cũng như tôn kính Cha vậy" (Giăng 5: 23;
10: 30). Điều nầy hàm ý Chúa Giê-xu Chí-tôn đòi hỏi phải thờ phượng Ngài.
Sứ Đồ Phao-lô trong các sách thư tín của ông giải nghĩa rõ rằng "hầu cho
nghe đến danh Đức Chúa Giê-xu, mọi đầu gốc trên trời, dưới đất, bên dưới đất,
thảy đều quỳ xuống, và mọi lưởi thảy đều xưng Chúa Giê-xu Chí-tôn là
Chúa, mà tôn vinh Thượng-Đế, là Đức Chúa Cha" (Phi. 2: 10).
* Sự Thờ
Phượng Được Nhận
Thượng-Đế là Đấng toàn năng, tòan
chi, và tồn tại( omnipotent, omniscient, omnipresent), và sự thờ phượng của người
tin Chúa, phải làm vui lòng Ngài, không bao giờ được thờ phượng một
cách hời hợt hay cẩu thả. Để được Chúa vui nhận, sự thờ phượng phải cử hành
trong danh Chúa Chí-tôn, hướng dẫn bởi Đức Thánh Linh, và đúng theo lời của
Thượng-Đế .
Cơ-Đốc Nhân có thể trực tiếp cầu nguyện
vàthờ phượng Thượng-Đế vì Chúa Giê-xu Chí-tôn đã chết và phục sinh (Hê. 9:
7,14). Tấm màn đền thờ ngăn cách tất cả mọi người, ngoại trừ thấy tế lễ thượng
phẩm, khỏi nơi chí thánh đã bị xé ra từ đầu đến cuối khi Đức Chúa Giê-xu tắt hơi
trên Thập tự giá. Chúa Giê-xu đã mở ra một con đường vào sự hiện diện chí thánh
của Đức Chúa Trời, để cho người tin Chúa bây giờ có thể tiến vào thờ phượng
Ngài.
Sự thờ phượng thật, được Thượng-Đế
vui nhận, phải là sự thờ phượng được linh cảm bởi Thánh Linh. "Những kẻ sống
bởi xác thịt thì không thể làm vừa lòng Thượng-Đế" (Rô. 8: 7,8). Thượng-Đế
đang tìm kiếm những người thờ phượng trong Đức Thánh Linh và "không cậy
xác thịt". Để làm vừa lòng Thượng-Đế trong sự thờ phượng, Cơ-Đốc
Nhân phải xoay mắt khỏi chính mình và nài xin Đức Thánh Linh dạy dỗ và
"giúp cho sự yếu đuối của mình" (Rô. 8: 26,27).
Thượng-Đế không bao giờ vui nhận sự thờ phượng
giả dối. Người ta có thể cuối đầu và cuối cả người mà không cuối linh hồn trong
sự kính sợ trước mặt Thượng-Đế. Người thờ phượng chân chính lại gần Thượng-Đế với
sự mong muốn tôn vinh Ngài và vui hưởng Ngài. Người ấy đến không với sự phô trương
kiêu ngạo nhưng đến với lòng chân thật và lễ vật là lòng biết ơn và lời cầu
nguyện ( Giăng 4: 24; I Giăng 3: 18).
* Đáp Ứng
Lại Trong Sự Thờ Phượng
Sự thờ phượng thật tạo một sự đáp ứng trong
lòng người thờ phượng. Khuôn mặt của Môi-se chói sáng như thế nào sau khi ông
nói chuyện với Chúa (Xuất. 34: 29,30), thì hào quang Thiên Đàng cũng sẽ chói
sáng như vậy trong đời sống của người thờ phượng chân lý. Thật sự không có niềm
vui nào cao hơn, sâu đậm hơn, thánh khiết hơn là niềm vui phát ra từ sự
suy niệm chiêm ngưỡng Thượng-Đế. Niềm vui như thế tràn ngập linh hồn Cơ-Đốc
Nhân cúi mình trong sự thờ phượng, được Thượng-Đế chiếm ngự và làm cho thõa
mãn. Đây là điều duy nhất mà vua Đa-vít ước muốn hơn tất cả các điều khác (Thi.
27: 4) và thúc giục ông viết, "trước mặt Chúa có trọn sự khoái lạc"
(Thi. 16: 11).
SỰ CẦU
NGUYỆN
Đọc lời Chúa và cầu nguyện chiếm một vị trí quan trọng trong lễ thờ phượng. Khi
một người tin Chúa đọc Kinh Thánh, Đức Chúa Trời nói chuyện với người ấy;
khi người ấy cầu nguyện, người ấy nói chuyện với Đức Chúa Trời. Thượng-Đế ban
cho lời của Ngài ; con của Ngài phải đọc và nghiên cứu nó để nghe được giọng
nói của Ngài. Thượng-Đế ban cho lời cầu nguyện: Con của Ngài sẽ liên lạc
với Ngài qua lời cầu nguyện để hiểu và áp dụng lời của Ngài.
Lý Do Cầu
Nguyện
Một trong những sách xưa nhất trong Kinh Thánh đưa ra câu hỏi "Nếu chúng
tôi cầu khẩn Ngài thì được ích gì?" (Gióp 21: 15). Thượng-Đế có thể hành động
mà không cần lời cầu nguyện của Cơ-Đốc Nhân, và thông thường là như vậy nhưng
Ngài thích Cơ-Đốc Nhân cùng cộng tác xúc tiến các chương trình của Ngài.
"Chúng tôi là bạn cùng làm việc với Thượng-Đế", bạn đồng
gánh, bạn dồng công( I Cô. 3: 9; Phi 4: 3).
Có Nhiều
Lý Do Tại Sao Cơ-Đốc Nhân Cầu Nguyện
* Sự
Mong Muốn Của Thượng-Đế
Thượng-Đế mong muốn Cơ-Đốc Nhân có mối tương giao thường xuyên với Ngài. Bất cứ
hoàn cảnh hay bất cứ lời yêu cầu gì cũng đều có thể trình dâng lên Ngài bất cứ
lúc nào. Thượng-Đế đã hứa, " Nếu các người nhơn danh Ta xin điều chi
Ta sẽ làm cho", (Giăng 14: 14). Thượng-Đế làm việc khi Cơ-Đốc Nhân cầu
nguyện. Qua những lời cầu nguyện, Thượng-Đế cảm động tấm lòng con người, phá vỡ
những chướng ngại hé mở lối thoát, chu cấp sự cần dùng. Cả hai sự đảm bảo trong
lời Chúa và bằng chứng của lời cầu nguyện được đáp ứng, bảo đảm lòng ước muốn của
Ngài cho sự cầu nguyện và sự sử dụng lời cầu nguyện.
* Nhu Cầu
Và Sự Khao Khát Của Cơ-Đốc Nhân
Chỉ có Thượng-Đế mới có thể cung cấp đủ mọi sự cần dùng của Cơ-Đốc Nhân. Ngài
ban cho sự dư dật hơn cả những gì Cơ-Đốc Nhân suy tưởng hay cầu xin (Êph. 3:
20). Nhu cầu cá nhân không phải là lý do duy nhất của Cơ-Đốc Nhân cầu nguyện.
Mùa gặt thì trúng, song con gặt thì ít; vì thế Ngài cầu nguyện trong nhu cầu của
toàn thể thế giới (Lu. 10: 2). Mọi người cần được cứu rỗi: vì thế
Ngài cầu nguyện cho tất cả mọi người (I Tim. 2: 1-4). Hội Thánh của Chúa Giê-xu
Chí-tôn cần sự nâng đỡ liên tục vì thế Ngài cầu nguyện cho tất cả Cơ-Đốc Nhân
(Êph. 6: 18). Chỉ có Thượng-Đế mới có thể thõa mãn những sự khao khát. Nơi
nào có sự vui mừng trong ý chỉ của Thượng-Đế thì nơi đó Ngài sẽ ban cho sự khát
khao của tấm lòng (Thi. 37: 4).
* Năng
Quyền Thiêng Liêng( Mat. 6: 13; 26: 41)
"Tâm thần thì muốn lắm, nhưng xác thịt thì yếu đuối". Cơ-Đốc Nhân thường
xuyên bị kẻ thù chung quanh là thế gian cám dỗ; xác thịt là kẻ thù ở trong Cơ-Đốc
Nhân; ma quỉ là kẻ thù bên cạnh họ. Sức lực của một người không thể thắng hơn
nhiều về sự tham muốn gian ác. Nhưng Thượng-Đế đã ban cho lời cầu nguyện để qua
đó Cơ-Đốc Nhân liên lạc với Ngài và tiếp nhận sức mạnh chống cự lại sự cảm dỗ.
* Đánh
Bại Sa-tan (Êph. 6: 11,12: Gia. 4: 7,8)
Lời cầu nguyện không phải chỉ là một sự kêu cầu Thượng-Đế, nhưng còn là một sự
xung đột với ma quỉ. Để chống lại sự tấn công của ma quỉ, Cơ-Đốc Nhân phải đến
gần hơn với Thượng-Đế trong sự cầu nguyện.
Những Đòi
Hỏi Cho Sự Cầu Nguyện (Requirements for Pârayer)
* Biết
Mối Quan Hệ Với Chúa (I Giăng 1: 9).
Đặc ân cầu nguyện chỉ dành cho ai biết Chúa Giê-xu Chí-tôn là Chúa Cứu Thế của
mình và biết rằng tội lỗi của mình đã được tha. Nhưng ngay cả lời cầu nguyện của
con cái Thượng-Đế cũng có thể bị ngăn trở vì tội lỗi dấu kín (Thi. 66: 18). Nếu
thật như vậy, người ấy có đặc ân xưng tội đó với Đấng thành tín và công bình để
tha tội và làm cho người ấy sạch mọi điều gian ác. Sự cầu nguyện làm cho Cơ-Đốc
Nhân có thể thấy những điều sai: cầu nguyện điều chỉnh linh hồn lại.
Không phải chỉ có những tội lỗi lớn rõ ràng ngăn trở mói tương giao thật sự với
Thượng-Đế. Thông thường thì chính những chướng ngại nhỏ nhặt làm hư hỏng sự
thông công với Thượng-Đế và vô hiệu hóa sự cầu nguyện. Vua Sô-lô-môn nói nó
là: "Những con chồn nhỏ làm hư vườn nho" (Nhã. 2: 15).
Phải có sự hiệp nhất toàn hảo giữa Chúa và con cái Ngài. Cơ-Đốc Nhân chân chính
ở trong Chúa và vâng lời Ngài. Việc trả lời cho sự cầu nguyện được đặt điều kiện
trên sự vâng lời của Cơ-Đốc Nhân. Cơ-Đốc Nhân không gian xảo cãi lại chỉ
ý được bày tỏ của Thượng-Đế, nhưng phải tích cực cố gắng thi hành những mệnh lệnh
của Chúa Giê-xu Chí-tôn.
* Với
Thái Độ Đúng (Giê. 29: 13; Gia 5: 16b).
Sự cầu nguyện sốt sắng hiệu quả thì có ích lợi nhiều. Cầu nguyện với "tất
cả tấm lòng" là đúng hết tất cả năng lực thiêng liêng trong sự cầu
nguyện, nhớ rằng ma quỉ, nếu có thể được, sẽ ngăn chặn không cho cầu nguyện
được nhậm. Ông Charles Finney đã nói, " Lời cầu nguyện đắc thắng, hay hiệu
qủa, là lời cầu nguyện đạt được ơn phước mà nó tìm kiếm đó là lời cầu
nguyện làm động lòng Thượng-Đế. Lời cầu nuyện có hiệu qủa là lời cầu nguyện ảnh
hưởng đối tượng cầu nguyện".
Ông " Hyde cầu nguyện", vị giáo sĩ mà đời sống cầu nguyện đã khuấy động
cả sứ Ấn Độ, thấy rằng trở ngại cho một lời cầu nguyện được nhận là vị thiếu sự
ca ngợi. Rồi ông xưng điều nầy ra như là một tội, và nài xin sự tha thứ
và một tinh thần ca ngợi Chúa. Khi ông ca ngợi Chúa về những linh hồn,
thì những linh hồn luôn đến với ông. Cùng với việc cho Chúa nghe nhu cầu và ước
muốn của mình, Cơ-Đốc Nhân không được quên lãng ca ngợi và tạ ơn Ngài.
* Không
Ngừng Nghĩ (I Tê. 5: 17; Rô. 12: 12).
Người ta có thể cầu nguyện không ngừng nghĩ cũng như hít thở không ngừng nghĩ vậy.
Linh hồn cần những thì giờ nhất định mỗi ngày. " Giờ tĩnh nguyện" nầy
đổ đầy linh hồn với năng quyền thiêng liêng và ơn phước, dẫn đến tinh thần cầu
nguyện và thông công với Chúa. Khả năng của Cơ-Đốc Nhân với Chúa trong giờ
tĩnh nguyện đo lường khả năng họ bước đi với Chúa trong mọi lúc khác.
Chữ tiếng Anh "ejaculatory prayer" (sự cầu nguyện ngắn mà khẩn thiết),
đến từ tiếng La Tinh "Jaculum", có nghĩa là một mũi tên hay mũi
dao nhọn thích hợp diễn tả sự cầu nguyện được "phóng" lên Thượng-Đế bất
cứ lúc nào. Lời cầu nguyện ngắn, khẩn cấp đạt được hiệu quả là nhờ những lời cầu
nguyện lâu dài trước đó. Vì thế, cầu nguyện vừa là hành vi vừa là thái độ.
* Theo
Ý Chỉ Của Thượng-Đế (I Giăng 5: 14).
Tất cả những lời cầu nguyện đều dựa trên sự mặc khải của Đức Chúa Trời về chính
Ngài và ý chỉ của Ngài. Những lời hứa của Ngài khuyến khích và những mệnh lệnh
của Ngài phát động Cơ-Đốc Nhân cầu nguyện, nhưng ý chỉ của Ngài sẽ đặt ra giới
hạn cần thiết cho sự cầu nguyện. Cơ-Đốc Nhân cầu xin trong đức tin kẻo họ giống
như sóng biển đưa đi (Hê. 11: 6; Gia 1: 6) họ cầu xin trong sự tuân phục Chúa kẻo
họ cầu xin trái lẻ (Gia 4: 3). Một ý chỉ hoàn toàn đầu phục Chúa thì có thể nói
rằng, " không phải ý con nhưng ý Cha được nên".
Lời cầu nguyện bằng sức lực xác thịt sẽ đem đến hậu quả xác thịt, "vì những
gì sanh bởi xác thịt sẽ là xác thịt". Đức Chúa Trời là Đấng duy nhất ban
cho sự sống. Chức năng cao nhất của Cơ-Đốc Nhân là truyền sự sống của Chúa cho
người khác. Việc nầy được hoàn thành do sự cầu nguyện. Sự cầu nguyện nối kết một
người với nguồn của sự sống và sức mạnh.
* Trách
Nhiệm Cầu Nguyện
Đối với Cơ-Đốc Nhân " ngưng cầu nguyện" là tội lỗi ( I Sa. 12: 23).
Thượng-Đế giao cho Cơ-Đốc Nhân trách nhiệm thực hiện mọi việc bằng sự cầu nguyện.
Cơ-Đốc Nhân nào có những khoản trống to lớn trong đời sống cầu nguyện sẽ
mất "cảm giác được Chúa nắm tay" trong lời cầu nguyện mình. Thượng-Đế
bảo người ấy " Bắt hết các lý tưởng làm nô lệ vâng phục Chúa Giê-xu
Chí-tôn" (II Cô. 10: 5). Có vài người sẽ nói, "trả giá như vậy
thì đắt quá!" nhưng hãy xem mua được với giá đó thì thật là quá rẻ!
TỔNG KẾT
Thờ phượng là tập trung tư tưởng hướng về Thượng-Đế, suy nghĩ quyền năng
và sự oai nghi của Ngài. Thờ phượng là một hành động thiêng liêng, và nhu cầu
thờ phượng chỉ có thể được thỏa mãn khi Cơ-Đốc Nhân thờ phượng Thượng-Đế như
Ngài đã truyền dạy. Những đồ vật hay con người không phải bao giờ cũng thay thế
vị trí của Thượng-Đế . Là Thượng-Đế, Chúa Giê-xu Chí-tôn vui nhận sự thờ
phượng trong một ngày tới đây toàn thể vũ trụ sẽ nhìn nhận Ngài là Chúa và phủ
phục mình trước mặt Ngài.
Cơ-Đốc Nhân không nên thờ phượng một cách cẩu thả . Sự thờ phượng thật là thờ
phượng trong danh của Chúa Giê-xu Chí-tôn, được hướng dẫn bởi Đức Thánh Linh,
và theo đúng với lời Chúa. Sự thờ phượng tạo nên sự đáp ứng của một niềm vui
thanh khiết vì người thờ phượng được thõa mãn và được chiếm ngự bởi chính một
mình Thượng-Đế mà thôi.
Khi Cơ-Đốc Nhân đọc Kinh Thánh, Thượng-Đế nói chuyện với họ. Khi Cơ-Đốc
Nhân cầu nguyện, họ nói chuyện với Thượng-Đế. Cầu nguyện rất là thiết yếu
cho Cơ-Đốc Nhân. Thượng-Đế mong muốn sự cầu nguyện và hành động qua sự cầu nguyện;
Cơ-đốc nhân bày tỏ nhu cầu và ước muốn trong sự cầu nguyện; bởi sự cầu
nguyện Cơ-Đốc Nhân nhận được linh lực và đánh bại được Sa-tan.
Khi cầu nguyện, Cơ-Đốc Nhân phải để cho Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời
hướng dẫn mình. Những tội lỗi không xưng ra sẽ ngăn trở sự cầu nguyện, và như vậy
Cơ-Đốc Nhân phải xưng tội và nhận thức sự tha thứ. Trong nỗ lực phục vụ Chúa
Giê-xu Chí-tôn, Cơ-Đốc Nhân ở trong sự liên kết với Thượng-Đế - vâng lời
và tuân giữ Lời Ngài. Để có thể tuân giữ lời Ngài, Cơ-Đốc Nhân cần phải cầu
nguyện liên tục. Thêm vào trong những thì giờ cầu nguyện nhất định mà trong đó
linh hồn được đổ đầy linh lực. Cơ-Đốc Nhân phải ở trong mối tương giao thường
xuyên với Chúa. Lời cầu nguyện hiệu quả được dâng lên với tất cả tấm lòng, đầy
sự ca ngợi và cảm tạ, và theo ý chỉ của Thượng-Đế.
Đối với Cơ-Đốc Nhân không cầu nguyện là phạm tội. cầu nguyện là một trách nhiệm
và là một ơn phước từ nơi Thượng-Đế.
BÀI LÀM
1.
Sự thờ phượng thật là gì?
2.
Bạn nghĩ tại sao nhiều người cẩu thả trong sự thờ phượng?
3.
Ba điều được đòi hỏi để làm cho sự thờ phượng của chúng ta được Chúa vui nhận
là gì? Tại sao?
4.
Làm thế nào Đức Thánh Linh hướng dẫn trong sự cầu nguyện?
5.
Lời của Chúa và sự cầu nguyện liên hệ với nhau như thế nào?
6.
Giải thích sự cầu nguyện của chúng ta bị ngăn trở như thế nào?
7.
Làm thế nào mà Cơ-Đốc Nhân có thể "cầu nguyện không thôi?"
8.
Tại sao sự ca ngợi và cảm tạ phải bao gồm trong sự cầu nguyện?
9.
Chúng ta đã biết tất cả những nhu cầu của chúng ta trước khi chúng ta xin Ngài,
thì sao chúng ta phải cầu nguyện?
10.
Mối quan hệ của sự thờ phượng thật và sự cầu nguyện là gì?
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
Gibbs, Alfred P.Worship, the Christian s Highest Occupation. Kansas City, KS:
Walterrick Pubishers, .d.
Lavender, John Allan. Why prayers are Unanswered. Wheaton, IL: Tyndale
House, 1981.
Top
Top of
Form
Trang Đầu
| Mục Lục | << CHƯƠNG 5 | CHƯƠNG 7 >>
CHƯƠNG
6
NGUỒN GỐC
VÀ MỤC ĐÍCH CỦA HỘI THÁNH
(Origin
and Purpose of the Church)
Chữ "Hội Thánh" được dịch từ chữ Hy-lạp "ecclesia". Nó có
nghĩa là " những người được kêu gọi ra". Những thành viên của Hội
Thánh được kêu gọi ra từ sự tạo dựng cũ để rồi tạo sự tạo dựng mới(II Cô. 5:
17). Dù họ đang ở trong thế gian, nhưng họ không thuộc về trong thế gian. Từ
trong thế gian Đức Chúa Cha đã ban họ cho Đức Chúa Con (Giăng 17:
6,11,14,16). Họ là thân thể của Chúa Giê-xu Chí-tôn.
Hội Thánh không phải chỉ là một tổ chức. Hội Thánh là một sinh thể hữu cơ
(organism). Tổ chức là một nhóm người cùng tập hợp lại với nhau trong một hành động
hiệp nhất. Sinh thể hữu cơ là một thân có sự sống bên trong, với những bộ phận
nương tựa hổ trợ nhau, tất cả đồng chuyển vận cho cùng một mục đích chung. Và mục
đích chung của Hội Thánh là truyền bá Phúc-Âm cho mọi ngưòi.
Hội Thánh có một thành tích phục vụ qua nhiều thời đại. Cách mà Hội Thánh
bành trướng, từ những bắt đầu nhỏ bé trong một tỉnh lụy xa xôi của một đế quốc
La Mã đã trở thành một cơ chế vĩ đại trên toàn thế giới, đã khiến Hội Thánh có
một địa vị lịch sử mà không một tổ chức quốc tế nào có thể sánh kịp. Lịch sử thời
trung cổ phần lớn xoay quanh Hội Thánh, Hội Thánh là một thành tố vĩ đại trong
nền văn minh Âu Châu. Lịch sử hiện đại tập trung vào những mối quan hệ quốc tế
và liên chủng tộc và đã đi theo dấu chân của phong trào truyền giáo thế giới của
Hội Thánh. Hội Thánh chịu trách nhiệm việc khai sáng của nhiều dịch vụ từ thiện
bao gồm các cô nhi viện, nhà dưỡng lão, và các chương trình thanh niên. Việc
giáo dục quần chúng bắt đầu bởi Hội Thánh. Thật đúng như vậy, những phong trào
nầy tất cả tuy đã không còn duy trì những tiêu chuẫn nguyên gốc Cơ-Đốc, nhưng đã
được bắt đầu bởi những người tin kính Chúa vàđược Chúa sử dụng cho công việc tốt
lành.
NGUỒN GỐC
CỦA HỘI THÁNH
Hội Thánh là một cơ chế Tân Ước được khai sanh với sự đổ đầy Đức Thánh
Linh tại Lễ Ngũ Tuần, nhưng sự thai ngén Hội Thánh thì đã có từ lâu trước
đó.
Phát Xuất
Từ Thượng-Đế
Hội Thánh phát sinh ra từ trong trí của Thượng-Đế và là một phần quan trọng của
chương trình của Ngài cho thế gian. Chương trình của Hội Thánh đã được ấn định
và các thuộc viên Hội Thánh được lựa chọn "trước khi sáng tạo thế giới
trong Chúa Giê-xu Chí-tôn" (Êph. 1: 4). Sự kiện nầy xác chứng tầm
quan trọng của Hội Thánh. Ở đây hoàn toàn không có vấn đề may rủi hay là mập mờ.
Chương trình của Thượng-Đế là toàn diện và mục đích Chúa rõ ràng.
Đức Chúa Cha là tác giả của sự cứu rỗi mà Hội Thánh rao truyền. Cơ-Đốc Nhân
không thể làm công trạng gì để đạt được ân sủng của Thượng-Đế. Họ có được
"mọi ơn phước thiêng liêng từ các nơi trên trời" không phải nhờ
những việc họ đã làm. Chính Thượng-Đế đã lựa chọn các thuộc viên của Hội Thánh,
định trước cho họ trở thành phù theo hình ảnh của Con Ngài, và nhận họ
trong Chúa Giê-xu Chí-tôn(Êph. 1: 3-6).
Những thành viên của Hội Thánh được cứu chuộc bởi Con Của Thượng-Đế. Sự chết và
sự phục sinh của Chúa Giê-xu Chí-tôn mở đường cho chúng ta đến gần Thượng-Đế và
bày tỏ ra chương trình hiệp nhất toàn thể vũ trụ của Ngài trong Chúa Giê-xu
Chí-tôn (Êph.1: 7-11).
Nhưng chúng ta không thể tin những điều được sự ghi chép của Thượng-Đế về Chúa
Giê-xu Chí-tôn nếu chúng ta không có lòng tin cậy Ngài. Đức tin đến bởi việc
nghe chân lý của Phúc-Âm, và Thượng-Đế tôn trọng đức tin của những thuộc
viên Hội Thánh bằng cách ấn chứng họ với Đức Thánh Linh Ngài. "Aáy là
trong Ngài mà anh em đã tin và được ấn chứng bằng Đức Thánh Linh là Đấng Chúa đã
hứa" (Êph. 1: 13,14).
Tuyên Bố
Bởi Chúa Giê-xu Chí-tôn
Lần đầu tiên Hội Thánh được đề cập đến trong Kinh Thánh Tân Ước là trong sách
Ma-thi-ơ 16: 16-18. Trong mấy câu nầy không thấy có ưu thế đặc biệt nào dành
cho sứ đồ Phi-e-rơ cả; so sánh những câu nầy với các phần khác của Kinh Thánh
(Mat. 18: 15-20; Giăng 21: 19-23) cho thấy rõ ràng rằng các môn đồ khác,
và toàn Hội Thánh cũng được đặc ân buộc và mở như vậy. Hòn đá mà trên đó Hội
Thánh xây lên là Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn, là "đá góc nhà" (Êph.
2: 20). "Chẳng ai có thể lập một nền khác ngoài nền đã lập, là Đức Chúa
Giê-xu Chí-tôn" (I Cô. 3: 11).
THÀNH LẬP
HỘI THÁNH
Hội Thánh nhận được nhũng người qui đạo đầu tiên vào ngày Lễ Ngũ Tuần (Công.
2). Lễ Ngũ Tuần được biết đến qua tên Lễ của các Tuần, và luật pháp Do Thái đòi
hỏi tất cả mọi người nam phải có mặt tại buổi lễ trong đên thờ (Xuất. 13:
14-17;34: 22). Thành Giê-ru-sa-lem là nơi tụ họp chính yếu của cuộc sống, không
những trong sứ Pa-lét-tin, nhưng mà còn toàn cỏi đế quốc La Mã. Điều nầy giải
thích sự hiện diện của những nhóm người đông đảo, và nhất là những người từ các
xứ khác, người Do Thái vẫn trung thành với luật của họ và triệt để tuân theo
các luật nầy và kết quả là hàng ngàn người đến thành Giê-ru-sa-lem dự lễ nói
trên. Những người Do Thái nầy nghe các sứ đồ nói tiếng của những người mà họ kiều
trú. Là những người đại diện cho các xứ ngoại quốc, họ đã trở thành những vị
giáo sĩ đầu tiên của Hội Thánh mà thành viên là những người được Chúa Giê-xu
Chí-tôn ủy nhiệm đi rao truyền Phúc-Âm "cho đến tận cùng trái đất"
(Công. 1: 8).
Những người đàn ông và đàn bà trở thành tín hữu đầu tiên của Hội Thánh tất cả đều
xuất thân từ Do Thái giáo. Tuy nhiên, họ chia thành ba tầng lớp: người
Do Thái thuần tộc(Hebrew), người Hê-lê-nít(Hellenists), và người ngoại
tòng(Proselytes).
Người Do Thái thuần tộc là người mà tổ tiên đã sinh sống lâu đời trong sứ
Pa-lét-tin. Họ trung tín đọc Kinh Thánh bằng tiếng Do Thái trong nhà hội, và diễn
giải từng câu một ra tiếng A-ram(Aramaic) là thứ tiếng phổ thông nhất thời ấy.
Người Hê-lê-nít là người Do Thái Hy-lạp, họ là những người nếu không có tổ tiên
thì cũng không có nhà cửa, tại các xứ ngoại quốc. Sau khi A-lịch-sơn đại đế
(Alexander the Great). Chinh phục các nước Đông Phương, tiếng Hy-lạp trở thành
ngôn ngữ chính của thế giới, bởi đó người Do Thái có tổ tiên ngoại quốc được
gọi là Grecians, hay là người Hê-lê-nít. Họ đại diện cho nhóm người thông minh
và giàu có nhất của dân Do Thái.
Người ngoại tòng là người ngoại bang theo Do Thái giáo. Mặc dù là một nhóm thiểu
số giữa vòng dân Do Thái, họ có nhiều nhà hội trong đế quốc La MaÕ.
MỤC ĐÍCH
CỦA HỘI THÁNH
Thế giới có nhiều quốc gia và thứ tiếng khác nhau, nhưng Thượng-Đế đã phân chia
thành ba nhóm người chính yếu: dân Do Thái, ngoại bang, và Hội
Thánh (I Cô. 10: 32). Chương trình cứu chuộc của Thượng-Đế có ba mục đích cho
dân Do Thái. Dân Do Thái được ủy thác Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời ; họ
là một phương tiện để giới thiệu Đấng Cứu Chuộc của thế gian.
Nghiên cứu Kinh Thánh Cựu Ước cho thấy rằng trong khi dân Do Thái thực hiện hai
mục đích đầu tiên mà họ đã được biệt riêng ra, thì họ lại thất bại trong mục đích
thứ ba. Kinh Thánh Tân Ước giới thiệu Hội Thánh với các tín hữu được ủy nhiệm
thực hiện mục đích thứ ba, làm những nhân chứng cho kế họach cứu rỗi của Đức
Chúa Trời, nhân chứng cho người Do Thái lẫn người ngoại bang. Nhưng đó không phải
là sứ vụ duy nhất mà Hội Thánh đã được ủy thác.
Mầu Nhiệm
Được Bày Tỏ
Chữ "mầu nhiệm" được xuất hiện 47 lần trong Kinh Thánh Tân Ước, với
khoảng phân nữa số nầy là đề cập đến Hội Thánh. Trong Kinh Thánh Tân Ước chữ nầy
có nghĩa là môït bí mật được lộ ra, hay là một chân lý thiên thượng trước được
giấu kín nay lại được bày tỏ. "Theo sự tỏ ra về lẽ mầu nhiệm, là lẻ kín giấu
từ mọi đời trước mà bây giờ được bày ra" (Rô . 16: 25,26).
Hội Thánh được "giấu trong Chúa" từ lúc ban đầu của thế giới. Ngay cả
những thiên sứ hoặc các tiên tri cũng không biết "Hội Thánh" hay là
những phần chính yếu trong kế hoạch của Đức Chúa Trời.
Những gì cất giấu khỏi các thiên sứ và các tiên tri thì được bày tỏ ra cho sứ đồ
Phao-lô để ghi lại. Sự mầu nhiệm "giấu trong Đức Chúa Trời" chính là
mục đích thiêng liêng nhằm khiến người Do Thái và người ngoại thành một tạo vật
mới, hình thành thân thể của Chúa Giê-xu Chí-tôn, hình thành bởi phép Báp-tem của
Đức Thánh Linh. Tạo vật mới nầy làm tan biến sự khác biệt về mặt trần
gian của người Do Thái và người không phải Do Thái (I Cô. 12: 12,13; Cô 3:
10,11).
Chuyện người ngoại được cứu thì không phải là sự bí mật. Những người có Kinh
Thánh Cựu Ước thì đã biết rằng đấng Cứu Thế Chí-tôn phải đến để cứu rỗi người
Do Thái lẫn người ngoại. Điều nầy đã báo trước rõ ràng (Eâs 42: 4; 49: 6; Rô.
9: 24-33). Nhưng chưa bao giờ có một sự công bố kỳ diệu như vậy "Chúa
Giê-xu Chí-tôn ở trong anh em là sự trông cậy về vinh hiển" (Côl. 1: 27).
Sự mầu nhiệm được tỏ ra là Chúa Giê-xu Chí-tôn gom lựa ra một dân, sống trong họ,
và hành động qua họ.
Thân Thể
Của Đấng Chí-tôn
Hội Thánh bắt đầu tại Lễ Ngũ Tuần khi tất cả nhóm họp lại dựa theo sự hướng dẫn
thiên thượng (Công. 1: 4). Chúa Giê-xu Chí-tôn ngự bên hữu Thượng-Đế, nhưng
Ngài gởi Đức Thánh Linh đến ngự trong lòng mỗ tín hữu. Đức Thánh Linh hiệp
một những tín hữu lại với Chúa Giê-xu Chí-tôn và với nhau, và như vậy
thân thể, là Hội Thánh, được ra đời (Rô. 12: 4,5; Cô 12: 12-27)
Thân thể của Chúa Giê-xu Chí-tôn được hình thành "để tôn ngợi sụ vinh hiển
của hồng ân Ngài đã ban cho chúng ta trong Con yêu dấu của Ngài"
(Êph. 1: 6). Chúa Giê-xu Chí-tôn là đầu được hiệp một bởi sự ràng buộc
thiêng liêng gần gũi nhất với các thành phần của thân thể Ngài. Một tinh thần
yêu thương hiệp một lại trong mối thông công trọn ven. Chúa Giê-xu Chí-tôn
không những cai trị chúng ta, mà còn ngự trong chúng ta là những chi thể của
thân Ngài. Quan hệ giữa Chúa Giê-xu Chí-tôn và Hội Thánh không phải là quan hệ
giữa ông vua và thuộc hạ, nhưng là quan hệ giữa chồng với vợ, một quan hệ mật
thiết toàn hảo và liên kết thiêng liêng. Chúng ta được gọi vào trong mối thông
công của Con Thượng-Đế (Êph. 3: 14-19; Côl. 1: 12-18).
Thân thể của Chúa Giê-xu Chí-tôn có công tác để làm trên đất. Một số viên chức được
chọn bởi Hội Thánh "để các thánh đồ được trọn vẹn về công việc của chức dịch
và sự gây dựng thân thể của Chúa Giê-xu Chí-tôn" (Êph. 4: 12). Về phần
của mỗi tín hữu thì mục tiêu của sứ vụ tổng quát là xây dựng thân thể của Chúa
Giê-xu Chí-tôn, gia tăng số lượng thuộc viên, hoàn thành Hội Thánh như một
sinh thể hữu cơ (Êph4: 15,16).
Cô Dâu
Của Đấng Chí-tôn
Số lượng thuộc viện của Hội Thánh phải được hoàn thành trước khi Đức Nhân Tử
(Son of Man) trở lại trong vinh hiển (Khải. 19: 7; II Cô 11: 2). Cơ-Đốc Nhân
làm việc khó nhọc cho sự hoàn thành của Hội Thánh; vì khi mục đích nầy được
thành đạt thì Chúa sẽ trở lại. Chàng rể sẽ gặp cô dâu, nàng sẽ được trình
diện chàng rể và được kết hợp với chàng rể .
Hội Thánh sẽ ở với Chúa Giê-xu Chí-tôn trên thiên đàng, vì Đức Chúa Trời
"làm cho chúng ta đồng sống lại và đồng ngồi các nơi trên trời trong Chúa
Giê-xu Chí-tôn, hầu cho về sau tỏ ra sự giàu có vô hạn của ân điển Ngài,
mà Ngài bởi lòng nhơn từ đã dùng ra cho chúng ta trong Chúa Giê-xu
Chí-tôn" (Êph. 2: 6,7). Sự liên kết giữa Chúa Giê-xu Chí-tôn và Hội
Thánh của Ngài là thiêng liêng và sẽ tiếp tục đời đời.
TỔNG KẾT
Chữ "Hội Thánh" có nghĩa là "những người được kêu gọi ra".
Những thuộc viên của Hội Thánh được kêu gọi ra khỏi thế gian để làm thân thể của
Chúa Giê-xu Chí-tôn và làm người rao truyền Ngài trong thế gian.
Khởi đầu trong trí của Thượng-Đế, Hội Thánh đã được ấn định trước
khi khai sáng thế giới. Đức Chúa Cha khai sinh ra kế hoạch ; Đức Chúa Con chịu
chết cho sự cứu rỗi của Cơ-Đốc Nhân ; và Đức Thánh Linh ấn chứng cho Cơ-Đốc
Nhân và bày tỏ chân lý. Từ đây, cả ba ngôi Thượng-Đế tham gia trong sự sinh
thành và tăng trưởng của Hội Thánh. Chính Chúa Giê-xu Chí-tôn công bố Hội Thánh
đầu tiên.
Hội Thánh được khai sinh và ngày Lễ Ngũ Tuần. Người Do Thái từ khắp đế quốc La
Mã tề tụ tại thành Giê-ru-sa-lem tham dự Lễ của các Tuần, và trong ngày ấy Đức
Thánh Linh phán qua nhóm nhỏ các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng ngoại quốc. Những
người Do Thái tin Chúa trở về quê hương sứ sở rao truyền tin mừng: Người
Do Thái thuần tộc - ngưòi Do Thái ở xứ Pa-lét-tin nói tiếng A-ram;
người Hê-lê-nít - người Do Thái có tổ tiên ngoại quốc và sống các nới khac
nhau; người ngoại tòng - người ngoại bang theo Do Thái giáo.
Sau cùng, được kêu gọi vào đời làm chứng nhân cho sự cưú rỗi của Thượng-Đế, Hội
Thánh là một sự mầu nhiệm, một sự bí mật "giấu trong Thượng-Đế" từ
khi sáng tạo thế giới. Không một thiên sứ hay là tiên tri nào biết về kế hoạch
thiên thượng nhằm kéo người Do Thái và người ngoại lại với nhau thành một thân
mà đầu là Chúa Giê-xu Chí-tôn. Thêm vào đó, Đức Thánh Linh sẽ ngự trong tất
cả tín hữu, hiệp một họ với Chúa Giê-xu Chí-tôn và với nhau.
Khi số lượng thuộc viên của Hội Thánh đã đầy đủ, Chúa Giê-xu Chí-tôn sẽ kết hiệp
Hội Thánh với Ngài, như cô dâu với chàng rể. Các tín hữu sẽ được ở với
Ngài trên Thiên Đàng, tôn vinh Ngài đời đời.
BÀI LÀM
1.
Giải thích ý nghĩa của chữ "Hội Thánh"?
2.
Giải thích nguốn gốc của Hội Thánh?
3.
Dựa theo Ma-thi-ơ 16: 18, hòn đá mà Chúa Giê-xu Chí-tôn nói Ngài sẽ xây Hội
Thánh của Ngài lên trên là nói về ai?
4.
Tại sao có nhiều quốc gia được đại diện tại thành Giê-ru-sa-lem và ngày Lễ Ngũ
Tuần?
5.
Mô tả ba tầng lớp trong hàng ngũ thuộc viên đầu tiên của Hội Thánh?
6.
Tại sao Hội Thánh được Chúa thiết lập?
7.
Chữ "Mầu Nhiệm" trong Kinh Thánh Tân Ước có nghĩa là gì?
8.
Giải thích sự mầu nhiệm của Hội Thánh như đã bày tỏ cho Phao-lô?
9.
Mô tả Hội Thánh "thân thể của Chúa Giê-xu Chí-tôn".
10.
Mô tả Hội Thánh là "cô dâu của Chúa Giê-xu Chí-tôn"?
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
Beyer, Douglas, Basic Beliefs of Christians. Valley Forge, PA: Judson
Press, 1981. Chapter 9.
Demaray, Donald E. Basic Beliefs. Grand Rapids: Baker Book House, 1958.
Chapter 8.
Dowley, Tim, (ed). Eerman s Handbook to the History of Christianity.
Grand Rapids: Wm. B. Eermans Pub. Co., 1977.
Shelley,
Btuce L. What is the Church? God s People. Wheaton, IL: Victor
Books, 1983.
Top
Top of
Form
Trang Đầu
| Mục Lục | << CHƯƠNG 6 | CHƯƠNG 8 >>
CHƯƠNG
7
SỰ TĂNG
TRƯỞNG, ĐẶC TÍNH, VÀ TỔ CHỨC CỦA HỘI THÁNH
(Growth,
Character, and Organization)
SỰ TĂNG
TRƯỞNG CỦA HỘI THÁNH
Hội Thánh Chúa được thành lập trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Công. 2: 1), khi Đức
Thánh Linh vận hành một cách kỳ diệu trong lòng mọi người. Các biến cố lạ lùng
tiếp diễn sau đó và sự hình thành lịch sử đầu tiên của Hội Thánh (Công. 4: 31;
5: 32; 13: 2; 16: 6) thật ra là do tác động của Đức Thánh Linh.
Sứ
Điệp
Hội Thánh giữ vững ba niềm tin văn bản như sau:
* Đức
Chúa Giê-xu Là Đấng Mê-si-a (Jesus Is Messiah) (Công. 2: 36; 5: 31; 17: 3).
Tất cả môn đồ đều làm chứng rằng Đức Chúa Giê-xu người Na-za-rét là Đấng
Mê-si-a mà dân Do Thái trông đợi từ lâu; Ngài đã chết, phục sinh, và được tôn
lên bên hữu Đức Chúa Cha. Mỗi tín hữu của Hội Thánh được đòi hỏi phải trung
thành, kính sợ, và tuân phục Ngài là đấng Cứu Thế.
* Chúa
Giê-xu Từ Chết Sống Lại (Jesus Rose From The Deal) (Công. 4: 33; 13: 33; 17:
31)
Sự phục sinh được rao truyền không chỉ như là bằng chứng của thần tính Chúa
Giê-xu Chí-tôn, mà còn là bằng chứng rõ ràng rằng Thượng-Đế đã vui nhận sự
chết chuộc tội của Ngài cho tội lỗi của nhân loại và đã chỉ định Ngài đoán xét
thế gian trong sự công chính.
* Chúa
Giê-xu Sẽ Trở Lại (Jesus Will Return) (Công. 1: 11; 15: 16).
Các môn đồ tin và dạy rằng Chúa Cứu Thế Giê-xu đã về trời Ngài sẽ trở lại thế
gian và cai trị muôn vật. Niềm hy vọng phước hạnh nầy nâng đỡ các tín hữu giữa
cảnh thiếu thốn, nguy hiểm,và bách hại lớn lao.
Phương
Cách (Công. 1: 8,22; 5: 32; 10: 39; 13: 31).
Phương cách Hội Thánh dùngđể chinh phục thế gian là sự làm chứng đạo của các
thành viên trong Hội Thánh. Khi số lượng thuộc viên gia tăng thí số lượng
thuộc viên gia tăng thì số người làm chứng về Chúa cũng gia tăng, vì mỗi
thuộc viên dều thấy trách nhiệm của họ phải tích cực tiến hành công tác chứng đạo.
Việc toàn thể Hội Thánh làm chứng nầy là một ảnh hưởng mạnh mẽ trong sự tăng trưởng
nhanh chóng của Hội Thánh.
Dầu vậy, tiến trình xây dựng không phải chỉ đơn thuần là sự gia tăng số lượng,
Hội Thánh đầu tiên cũng gây dựng tín hữu bằng sự dạy dỗ họ qua một chương trình
Cơ-Đốc giáo dục liên tục. Các môn đồ vâng sát theo lời ủy nhiệm vĩ đại của Chúa
là đi và dạy. Chữ "dạy" xuất hiện hai lần trong lời nói chuyện từ biệt
của Chúa, và chỉ dẫn trong việc ngày dỗ là " làm theo mọi điều mà Ta đã
truyền cho ngươi".
Phong
Trào (Công. 4: 4; 5: 14; 6: 7; 9: 31; 14: 1; 16: 5; 17: 4).
Số lượng tín hữu thêm vào hằng ngày, và chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày lễ
Ngũ Tuần con số nầy đã lên năm ngàn. Vào cuối thế kỷ đầu tiên, Quan Pliny nói
cho hoàng đế Trojan rằng "có râùt nhiều người tin theo Chúa Giê-xu Chí-tôn
đến nỗi các đền thờ tà thần bị bỏ hoang". Vào cuối thế kỷ thứ ba có độ 5
triệu tín hữu trở lên. Vào cuối thế kỷ thứ mười chín có khoảng 200 triệu người
xưng nhận Giê-xu Chí-tôn.
Lịch sử cổ điển của La Mã xa xưa được Gibbon trình bày trong quyển sách tựa đề
"Sự Suy Yếu và Sụp Đổ Của Đế Quốc La Mã"(Decline and Fall Of the
Roman Empire), viết vào thế kỷ mười tám bởi một học giả chống nghịch Cơ-Đốc
giáo ra mặt. Gibbon kể ra bốn lý do đặc thù tại sao Cơ-Đốc giáo phát triển
nhanh chóng trong thế giới ngày xưa:
* Lòng
Nhiệt Thành
Những Cơ-Đốc Nhân tin và áp dụng lời dạy dỗ của Chúa Cứu Thế Giê-xu và từ chối
thỏa hiệp với bất cứ tôn giáo thế gian hay quy tắc trần tục nào khác.
* Giáo
Lý Về Đời Sống Tương Lai
Những Cơ-Đốc Nhân có một hy vọng về sự vinh hiển trong tương lai mà khôngthể hiểu
được bằng tri thức loài người. Những Cơ-Đốc Nhân đầu tiên giữ mối hy vọng nầy
và chia xẽ nó với các lòng tin quyết.
* Quyền
Phép Lạ Lùng
"Các môn đồ lại lấy quyền phép rất lớn mà làm chứng" (Công. 4: 33).
Các môn đồ làm phép lạ, minh chứng chân lý của sự dạy dổ của họ.
* Đạo Đức
Tinh Khiết
Họ đã không thõa hiệp với những sự vô đạo đức của trần gian. Họ từ bỏ tội lỗi
khi trở thành Cơ-Đốc Nhân, sống đời gương mẫu, và phô bày tiêu chuẫn đức
hạnh chưa từng có trong thế giới cổ xưa. Những Cơ-Đốc Nhân phô bày điều mà
Phao-lô gọi là, "mầu nhiệm của sự tin kính Chúa". Mục tiêu của họ là
trở nên giống như Chúa Giê-xu Chí-tôn trong mọi khía cạnh của cuộc đời.
ĐẶC ĐIỂM
CỦA HỘI THÁNH
Ngày nay, đặc điểm của Hội Thánh trung bình khác biệt nhau rất nhiều. Trong các
buổi nhóm của Hội Thánh địa phương có cả người đã được cứu lẫn người chưa được
cứu. Đặc điểm của Hội Thánh địa phương là tổng hợp đặc điểm của các thuộc viên
của họ. Đặc điểm của những tín hữu đầu tiên là:
Đoàn Kết
(United) (Công. 2: 44; 4: 32; Êph. 4: 1-7)
"Những ngưòi tin Chúa đều hiệp lại với nhau, lấy mọi vật làm của
chung". Những Cơ-Đốc Nhân nầy đoàn kết với nhau không những như là một Hội
Thánh, mà còn như là một gia đình và bạn bè từ bỏ, nên các Cơ-Đốc Nhân
giúp đỡ và động viên lẫn nhau. Có cùng một đức tin đặt nơi Thượng-Đế đã nối kết
lại họ lại thành một nhóm. Kết quả của sự đoàn kết của họ là Đức Thánh Linh đã
làm việc mạnh mẽ.
Vững
Vàng (Steadfast) (Công. 2: 42; Êph. 4: 14-16)
Giáo lý
của các Cơ-Đốc Nhân đầu tiên không soay từ sự kiện có thật qua những chuyện
hoang đường. Họ vững vàng trong niềm tin nơi Lời Chúa và sự dạy dỗ của các sứ đồ.
Họ nhận thức được nhu cầu thông công với nhau và kiên trì giữ sự thông công đó.
Nếu các tín hữu dừng lại để chỉ trích nhau, thì hiển nhiên là họ có thể tìm thấy
lỗi lầm của nhau.
Ngược lại họ nhận thấy lỗi lầm của mình rất nhanh, nhưng lại rất chậm chỉ trích
người khác.
Chúa Giê-xu Chí-tôn là nội dung của những bài giảng và là trọng điểm của sự thờ
phượng. Sự thiết lập của Lễ Tiệc Thánh và Lễ Báp-tem tiêu biểu cho công việc của
ân điển trong lòng của những tín hữu đầu tiên và họ kiên tâm giữ các lễ nầy.
Các tín hữu đầu tiên kiên trì tiếp tục cầu nguyện, "đồng một ý" mà cầu
nguyện với nhau (Công, 1: 14). Hội Thánh đầu tiên nhận thức được sức mạnh của sự
cầu nguyện và sự thành tín của Chúa trong việc đáp lời cầu nguyện.
Từ Thiện (Charitable) (Công. 2: 45; 4: 34,35; Êph. 4: 28)
Họ "bán hết gia tài điền sản mình mà phân phát cho nhau, tùy sự cần dùngcủa
từng người". Các tín hữu ban cho một cách tự phát. Tình yêu Chúa và lòng
khát khao ra ỏtuyền Phúc-Âm của họ thật lớn đến nỗi họ thấy tài sản vật chất của
họ là quà tặng Chúa ban để dùng cho Chúa. Sự chia xẻ của họ là kết quả của lòng
yêu thương và đức tin Cơ-Đốc, chứ không do luật lệ hay áp lực nào. Lòng từ thiện
của họ là một lời chứng kỳ diệu của tình yêu Chúa Giê-xu Chí-tôn trong đời sống
họ. Những người nhìn cuộc sống ấy có thể khen: : Hãy xem những người tin
Chúa, họ yêu thương nhau vô cùng".
Vui Mừng
(Joyful) ( Công. 2: 46,47; Êph. 5: 18-21)
Họ tiếp tục "chăm chỉ đến đền thờ. .vui vẻ thật thà". Chính lòng thật
thà thuần nhất đã làm cho họ vui vẻ. Họ không bị phân tâm giữa Chúa Giê-xu
Chí-tôn và thế gian, họ hoàn toàn là của Chúa, họ mừng rỡ trong Chúa và đầy
sự vui vẻ Ngài.
Thành
Công (Successful) (Công. 2: 41; 5: 14; 6: 7; 13: 44; 16: 5; 17: 6; 18: 8).
Trong hai thế kỷ đầu tiên, Hội Thánh phát triển nhanh như một đám cháy lan rộng
đến nỗi làm "đảo lộn" cả toàn thế giới.
Hội Thánh đầu tiên rất được lòng Thượng-Đế và Ngài cho nhiều người thêm vào Hội
Thánh. Ngày nay chúng ta thường chỉ có tên của các tín hữu được thêmvào Hội
Thánh. Những cái tên nầy làm gia tăng con số, nhưng không tăng sức mạnh của Hội
Thánh. Nhưng khi Chúa thêm người vào Hội Thánh thì các tín hữu sẽ đoàn kết, vững
vàng giúp đỡ nhau và đầy vui mừng. Kết quả là sự hiện diện của họ làm cho Hội
Thánh thành công.
Điều đáng chú ý là mặc dù gặp sự chống phá và bách hại của các quan lại và
chính quyền. Hội Thánh đầu tiên cũng được lòng mọi người, sự chân thật và vui mừng
của các Cơ-Đốc Nhân đầu tiên đã gây một ấn tượng mạnh mẽ cho mọi người trên thế
giới.
TỔ CHỨC
CỦA HỘI THÁNH
Từ sự kiện Phao-lô gởi nhiều lá thư đến cho các nhóm tín hữu ở nhiều địa phương
khác nhau cho thấy rõ ràng có những Hội Thánh tổ chức quy củ trong thế kỷ đầu
tiên. Lá thư đầu tiên gởi đến Hội Thánh tại Cô-rinh-tô cho thấy có những hình
thức của sự phụng vụ (I Cô. 12: 4-11). Các lá thư sau nầy của Phao-lô gởi đến
Ti-mô-thê và Tít chứa đựng những chỉ dẫn cho một Hội Thánh có tổ chức quy củ. Sự
điều hành của Hội Thánh địa phương bởi những chức viên được thừa nhận, và Giáo
Hội Nghị tại thành Giê-ru-sa-lem (Công. 15), cho thấy chúng ta thấy một tôn tri
trật tự đã được thiết lập trong Hội Thánh đang phát triển nầy.
Các Chức
Viên
Trong buổi ban đầu của Hội Thánh không có hàng giáo phẩm. Phẩm trật nầy và các
và các chức vụ khác được đặt ra khi nhu cầu nầy xuất hiện. Cũng như các vị
vua, quan xét, và các tướng lãnh đạo có mặt để đáp ứng nhu cầu của xã hội
dân sự (civil society), thì hàng giáo phẩm cũng được đặt ra để đáp ứng nhu cầu
và trách nhiệm của Hội Thánh đang tăng trưởng.
* Trưởng
Lão (Elders) (Công. 11: 29,30; 14: 23; 20: 17; I Ti. 5: 17; Tít 1: 5).
Trong khi Kinh Thánh không nói rõ về định chế của chức vụ trưởng lão, thì chức
vụ nầy đã được nhiều người biết đến và được thông hiểu nhiều đến nỗi đã được
nhiều người ta tin rằng nó là một các thức quản trị quen thuộc trong những nhà
hội Do Thái giáo (Mat. 15: 2; 21: 23; 26: 57).xuất phát từ sự tổ chức của nước
Do Thái ngày xưa (Xuất 19;7; 24: 1; Giô-suê23: 2). Chữ "trưởng lão" gợi
lên hình ảnh của người cao tuổi, nhưng chữ nầy được dùng để chỉ chức vụ thích ứng
với một người có sự khôn ngoan và trưởng thành của một người cao tuổi. Một
vinh dự tương tự được người La Mã ban tặng cho các vị nghị sĩ hoặc bô lão, là những
người tạo thành guồng máy cai trị nghị sĩ hoặc bô lão, là những người tạo thành
guồng máy cai trị. Những viên chức của Hội Thánh đầu tiên mang tước vị
quen thuộc nầy tự gợi lên sự kiện họ là những người thi hành bổn phận quản lý
và cai trị.
Các sứ đồ được gọi là trưởng lão (I Phi. 5: 1), nhưng con số các sứ đồ bị giới
hạn trong vòng những người đã thấy Chúa Giê-xu sau khi phục sinh (Công. 1:
21,22), và những người nầy không bao lâu sẽ qua đời. Do đó sự lãnh đạo của họ
chỉ là tạm thời.
Các trưởng lão cũng được gọi là giám mục (bishop) hay là giám thị (overseer(
Tít 1: 5,7). Tước hiệu thứ nhất là một tên quen thuộc hơn đối với các tín hữu
Do Thái tước hiệu thứ nhì thì quen thuộc với người dân ngoại. Đối với những người
dân ngoại nó gợi lên ý cai trị, vì từ ngữ nầy đã thông dụng dưới thời cai trị của
người La Mã.
Các trưởng lão thường được chỉ định làm mục sư (Êph. 4: 11) nhằm nhấn mạnh
sự kiện họ là những người được được Chúa bổ nhiệm làm người chăn bầy "để
nuôi bầy chiên của Thượng-Đế". Vì thế họ là thầy giáo được bổ nhiệm,
là vị linh hướng trong Hội Thánh đầu tiên.
* Chấp
Sự (Deacons) (Công. 6: 1-6; Phi-líp. 1: 1; I Ti.3: 8).
Chức vụ chấp sự bắt đầu với bổ nhiệm Phi-líp, Ê-tiên, và năm bạn đồng lao của họ.
Chức vụ nầy chính yếu được đặt ra để gánh vác thay cho các sứ đồ những công tác
phục vụ khác để cho các sứ đồ có thể chuyên lo về sự cầu nguyện và giảng đạo.
Các chấp sự không có bổn phận tuyên giảng hoặc dạy dỗ, dầu vậy họ đã ở trong số
những người giảng đạo đầu tiên (first preachers)(Công. 6: 8-10; 8: 5). Họ cũng
là những người truyền giáo đầu tiên(first evangelists), vì những bổn phận đặc
biệt của chấp sự khiến họ phải đến những nhà của dân nghèo và truyền giảng cho
những người nầy. Họ tạo thành khuôn mẫu (Frame Work) cho các cơ quan từ thiện
trong Hội Thánh. So sánh với số lượng của các trưởng lão, thì số lượng chấp sự
ít hơn, nhưng điều nầy là tăng thêm giá trị của chức vụ họ hơn là giảm.
Phẩm Chất
(Qualifications)
Các trưởng lão được lựa chọn rất kỹ lưỡng. Phẩm chất cho chức vụ quan trọng nầy
được liệt kê trong I Ti-mô-thê 3: 1-7. Người trưởng lão phải không chổ trách được
và phải có tiếng tốt. Người ấy phải chứng minh khả năng cai trị Hội Thánh qua
việc trước hết cho thấy khả năng cai trị chính gia đình mình. Thêm vào đó, người
ấy phải tiết độ, tài trí, hiếu khách, khéo dạy dỗ. Người ấy không hay cải
cọ, không tham lam, và không là người mới tin Chúa vì có thể tự kiêu.
Cũng giống như vậy, phân đoạn I Ti-mô-thê 3: 8-13 mô tả phẩm chất của các
chấp sự. Chấp sự, giống như trưởng lão, phải là chồng của một vợ (người vợ
phải đứng đắn, thật thà, tiết độ và trung tín trong mọi sự), là một người cha
có thể quan lý con cái và cai trị chính nhà mình. Nếu phải chọn từ những người
trẻ tuổi, thì người trẻ nầy phải trước tiên chịu một thời kỳ tập sự thử thách,
và khi được thừa nhận hoàn toàn thì sẽ bổ nhiệm làm chấp sự.
Trách
Nhiệm
Trong Hội Thánh đầu tiên không có sự phân biệt giữa trưởng lão, giám mục,
và mục sư như ngày nay. Ngay cả chức chấp sự cũng không luôn luôn bị hạn chế
trong việc săn sóc người nghèo, nhưng thường bao gồm cả các trách nhiệm chỉ định
cho các trưởng lão, như trong trường hợp của Ê-tiên và Phi-líp. Tuy
nhiên, những trách nhiệm điều hành bởi các chức vụ nầy được chia thành ba
công tác riêng biệt.
* Truyền
Đạo (evangelizing)
Các nhà truyền đạo thành lập Hội Thánh. Họ là những giáo sĩ và nhân viên phát
triển. Các Sứ Đồ phục vụ trong cương vị nầy. Phao-lô vị sứ đồ duy nhất mà công
việc của ông được tường thuật chi tiết, du hành từ nơi nầy sang nơi kia.
Mục tiên chính yếu của ông là "rao giảng Tin Lành ở nơi nào danh Chúa
Giê-xu Chí-tôn chưa được truyền ra" (Rô. 15: 20), và các bức thư của ông
cho một danh sách dài của những Hội Thánh mà ông đã thành lập.
* Chăn
Bầy ( shepherding)
Mục sư lo chăm sóc hoặc cai quản Hội Thánh. Ông ta được phân chức cho những Hội
Thánh mà các sứ đồ đã thành lập và tiếp nối công việc của các nhà truyền đạo đã
khai sáng trước đây. Công việc nầy gồm có giám sát, giảng dạy, và thăm viếng.
Chúa Giê-xu Chí-tôn tóm tắt viện giám thị khi Ngài nói về sự chỉ định
"công việc của mỗi người" (Mat. 13: 34) và công tác cho "mỗi người
tùy khả năng" (Mat. 25: 15). Sự thành công không tiền khoáng hậu của Hội
Thánh đầu tiên phần lớn là do sự kiện mỗi tín hữu tham gia tích cực và công việc
Hội Thánh. Các sứ đồ nhận thức rằng Chúa Giê-xu Chí-tôn thiếp lập Hội Thánh nhằm
để phát triển những người làm việc cũng như để thực hiện công việc (Êph.
2: 10).
Phao-lô nói về việc giảng luận trong II Ti-mô-thê 4: 2 và Tít 2: 1. Ti-mô-thê
là mục sư của Hội Thánh tại thành Ê-phê-sô, Tít là mục sư tại thành Cơ-rêùt.
Trong lá thư có nói đến hai vị trẻ tuổi nầy, Phao-lô quan tâm dến bổn phận mục
vụ của họ, nhất là về nội dung giảng dạy.
Sự thăm viếng các tín hữu của Hội Thánh, nhất là khi họ đau ốm hoặc buồn
bã, là một bổn phận đặc biệt của mục sư. Là người chăn bầy, ông ta
phải phục vụ kẻ yếu đuối và người cô thế, kẻ nghèo và người thiếu thốn.
* Dạy Dỗ
(teaching)
Người thầy cũng cố, hoặc gây dựng Hội Thánh. Trong Hội Thánh đầu tiên người
ta thường dạy hơn là giảng. Trong khi Giăng-báp-tít là thầy giảng, thì Chúa
Giê-xu Chí-tôn là thầy giáo. Sáu mươi trong số chín mươi là người ta xưng gọi
Chúa Giê-xu thì Ngài được gọi là giáo sư. Và Ngài ủy nhiệm các môn đồ dạy dỗ cũng
như giảng luận (Mat. 28: 19,20). Trong khi chữ "giảng luận" xuất hiện
khoảng 150 lần trong Thánh Kinh, chữ "dạy dỗ" được đề cập đến độ
250 lần. Hội Thánh đầu tiên đã thấy tầm quan trọng chính yếu của dạy dỗ liên tục
lời Chúa cho những tín hữu của họ.
TỔNG KẾT
Hội Thánh Cơ-Đốc được hành hình trong ngày lễ Ngũ Tuần và Đức Thánh Linh đã
hành động trong sự tiếp tục phát triển và tăng trưởng của Hội Thánh. Cần nắm vững
3 điều cơ bản nầy: 1.- Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a, phục sinh, và sẽ hồi
lai. 2.- Hội Thánh phát triển mạnh mẽ bởi việc chứng đạo và 3. Các tín hữu tăng
trưởng nhờ sự dạy dỗ liên tục mà họ nhận được.
Cơ-Đốc giáo tràn lan nhanh chóng. Gibbon đưa ra 4 lý do chính: lòng
nhiệt thành, giáo lý về đời sau, quyền phép lạ lùng, và đạo đức thanh khiết.
Các tín hữu đoàn kết, vững vàng, yêu thương, vui mừng, và thành công. Những
yếu tố nầy là nỗi bậc hẳn sự tương phản với lối sống tà giáo đang vây quanh Hội
Thánh.
Sau ngày khai sinh tại lễ Ngũ Tuần, Hội Thánh nhanh chóng trở thành tổ chức có
qui củ các chức vị được đặt ra khi có nhu cầu về đáp ứng những trách nhiệm về Hội
Thánh tăng trưởng.
Chức vụ trưởng lão có thể đã xuất phát từ chức vụ quen thuộc trong nhà hội Do
Thái, có lẽ từ những thượng nghị sĩ trong chính quyền La Mã. Chức vụ nầy gợi ra
sự khôn ngoan, trưởng thành về tuổi tác. Các sứ đồ được gọi là trưởng lão. Giám
mục, giám thị, và mục sư và những tên khác của chức vụ nầy.
Chấp nhận nhiều công tác phục vụ khác nhau cho phép các sứ đồ tập trung chuyên
lo sự cầu nguyện và chức vụ giảng đạo. Ê-tiên và Phi-Líp hai vị chấp sự đầu
tiên. Và những người truyền đạo cũng như giảng Tin Lành chức vụ nầy hình thành
một khuôn mẫu cho những cơ quan từ thiện trong Hội Thánh.
Phẩm chất đòi hỏi cho mỗi chức vụ được mô tả trong I Ti-mô-thê 3. Bổn phận của
họ gồm có truyền giảng, chăm sóc, và dạy dỗ.
BÀI LÀM
1.
Mô tả ba điều căn bản của Hội Thánh đầu tiên?
2.
Mô tả hai phương pháp của sự tăng trưởng trong Hội Thánh đầu tiên?
3.
Tại sao Cơ-Đốc giáo lan rộng nhanh như vậy?
4.
Giải thích tầm quan trọng của năm đặc tính của Hội Thánh đầu tiên?
5.
Trong ánh sáng của năm đặc tính nầy, hãy so sánh Hội Thánh đầu tiên và Hội
Thánh ngày nay?
6.
Phân biệt giữa chức vụ trưởng lão và chấp sự?
7.
Tại sao Phao-lô quá quan tâm đến phẩm chất của hai chức vụ nầy?
8.
Mô tả bổn phận chính của các chức viên trong Hội Thánh đầu tiên?
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
Shelley, Bruce L. What id the Church: God s Pepple. Wheaton,
IL: Victor Books, 1983.
Werning, Waldo J. Vision and Strategy for
Church Growth. Chicago: Moody Press, 1975.
Top
Top of
Form
Trang Đầu
| Mục Lục | << CHƯƠNG 7 | CHƯƠNG 9 >>
CHƯƠNG
8
THIÊN SỨ
(Angels)
Kinh Thánh có nhiều phân đoạn nói về thiên sứ. Tuy thế, ngay cả Cơ-Đốc Nhân lâu
năm cũng biết rất ít về giáo lý Thiên sứ trong Kinh Thánh. Vì sự thiếu hiểu biết
nầy, mà những hình ảnh méo mó và mê tín khác nhau đã làm hư hoại giáo lý liên
quan đến các thiên thần. Kinh Thánh nói nhiều về nguồn gốc, bản tính, và
sự công việc của các Thiên sứ.
SỰ TẠO
DỰNG CÁC THIÊN SỨ
Các Thiên sứ không phải tự nhiên mà có. Họ có một sự khởi đầu. Họ được tạo dựng
ra bởi một thiên lệnh (Nê-hê-mi 9: 6; Cô-lô-se 1: 16).
Số Lượng
Và Đẵng Cấp ( Gióp 25: 3; Mat 26: 53; I Tê. 4: 16; Hê. 12: 22; I Phi. 3: 22; Khải.
5: 11).
Những từ ngữ như "hàng muôn hàng ngàn Thiên sứ", "một đám đông
thiên binh", và " muôn vàn Thiên sứ" đề cập đến số lượng vượt cả
sự tính toán của loài người nếu không muốn nói là không thể biết được.
Có những loại hoặc cấp bậc khác nhau của các Thiên sứ, với nhiều chức vụ và khả
năng khác nhau. Mặc dù Thượng-Đế tạo dựng họ rất giống nhau đủ để nhìn biết nguồn
gốc Thiên Thượng của họ, Ngài cũng cho thấy nhiều sự khác nhau giữa các vị nầy.
Thiên sứ được gọi là quyền lực (Powers), thiên sứ trưởng (archangels)
Sê-ra-phin, Chê-ru-bin, và Thiên binh của đấng Chí Cao.
Cao Cấp
Hơn Loài Người (Superior to humans) (Thi. 8: 4,5; II Vua 19: 35; Công. 5:
19; Lu. 20: 36).
Loài người được tạo dựng thấp hơn các Thiên sứ. Thiên sứ vô hình và bất tử,
và hơn nữa không bị giới hạn vào trong thế gian nầy như loài người. Thiên sứ là
những thần linh được tạo dựng riêng rẽ. Thượng-Đế ban thiên đàng làm nơi ở cho
các Thiên sứ, nhưng " Ngài đã ban trái đất cho con cái loài người".
chúng ta sẽ thấy thêm những sự tương phản giữa đặc tính giữa Thiên sứ và loài
người.
Phục Dưới
Quyền Thượng-Đế (Subordinate to God) (Êph. 1: 20, 21; Côl. 2: 18; Hê . 1:
6-8,13; Khải 19: 10; 22: 8,9).
Thiên sứ cao hơn loài người rất nhiều, nhưng họ thấp hơn Thượng-Đế rất xa. Chủ đề
của sách Hê-bơ-rơ. Chương 1 là Chúa Giê-xu cao trọng hơn các thiên sứ. Ngài
"nhập thể và sống ở giữa chúng ta", và như vậy trở thành
"thấp hơn các thiên sứ một chút". Tuy thế, khi trở về thiên đàng Ngài
ngự bên hữu Thượng-Đế. "xâu xa hơn mọi chủ quyền, thế lực, sức mạnh, và sự
thống trị".
Thiên sứ không bao giờ cho phép loài người thờ lạy họ. Một trong những lý do
chính của Phao-lô viết lá thư đến người Cô-lô-se là để sửa sai lối thờ lạy
Thiên sứ đang thịnh hành mà một số tín hữu đầu tiên đã học đòi từ những người
thờ tà thần - lối hành đạo nầy chứng minh rằng thế giới ngày xưa tin tưởng nơi
sự thờ lạy Thiên sứ.
ĐẶC ĐIỂM
CỦA THIÊN SỨ (characteristics of angles)
Thánh Khiết (Holy) (Mat. 25: 31; Lu. 9: 26; Công. 10: 22; Khải. 14: 10).
Các Thiên sứ trong tình trạng chưa sa ngã thì hoàn toàn thuần khiết. Họ ở vào
tình trạng thánh khiết cao cả được thiết định, và không bị cảm dỗ bởi điều ác.
Việc họ phủ nhận sự thờ lạy từ phía loài người là một bằng chứng của một điều nầy.
Toàn thể bản chất họ ghớm ghét những điều ác. Sự hoàn hảo đạo đức của họ biểu lộ
qua những câu như "các thiên sứ thánh" và "các thiên sứ được lựa
chọn".
Các Thiên sứ là những hữu thể sáng láng. Chỉ có vài chỗ thì sự xuất hiện của
các Thiên sứ đối với loài người được kèm theo sự mô tả nhân cách của họ. Để ý
chúng ta thấy rằng Chúa Giê-xu Chí-tôn, lúc nói về sự tái lâm của Ngài, đề
cấp đến vinh quang của các Thiên sứ cũng như của Ngài( Lu. 9: 26).
Thông
Minh (Intelligent) (II Sa. 14: 20; I Cô. 13: 1; Ga. 1: 8).
Cả Cựu Ước và Tân Ước đánh giá cho sự thông minh của các Thiên sứ. Học giả
Phao-lô cũng công nhận sự thông minh vượt bực của thiên sứ. Tuy nhiên, họ không
phải là toàn tri (omniscient) như Thượng-Đế. Chúng ta đọc thấy rằng Hội Thánh
là sự mầu nhiệm cho các Thiên sứ cũng như cho các tiên tri thời Cựu Ước ( I
Phi.1: 12), và họ cũng như chúng ta không hề biết ngày giờ Chúa tái lâm ( Mác.
13: 32).
Mạnh Mẽ
Và Quyền Năng ( Mighty and powerful) (Thi. 103: 20; II Tê. 1: 7).
Không những các Thiên sứ có "sức mạnh vượt bực", mà còn được gọi là
có "quyền năng" (mighty). Trong sách Khải Huyền, các Thiên sứ được chỉ
định thi hành những sự đoán phạt khác nhau ảnh hưởng đến hàng triệu người. dù họ
quyền năng nhưng không phải là toàn năng (almighty). Họ phải tuân phục dưới Thượng-Đế
(I Phi. 3: 22).
Các Thiên sứ chắc chắn vận hành nhanh hơn vận tốc ánh sáng(vận tốc ánh sáng là
186,000 dặm trong một giây). Có lẽ họ di chuyển nhanh như vận tốc của tư
tưởng. Đa-ni-ên được báo cho biết rằng vào lúc bắt đầu lời cầu nguyện của
ông, Thiên sứ Gáp-ri-ên được sai bay cấp tốc để có thể gặp Đa-ni-ên trong
đoạn cuối của bài cầu nguyện.
Khiêm
Nhường Và Vâng Lời (Eâs. 6: 2; II Phi. 2: 11; Giu. 9).
Sê-ra-phin mà Ê-sai thấy là một thiên sứ cao cấp, nhưng họ khiêm nhường
che mặt lại trước sự hiện diện của Chúa. Thiên sứ trưởng Mi-ca-ên khi chiến đấu
với một quyền lực lớn hơn, đã biểu lộ sự khiêm nhường bằng cách kêu cầu Chúa quở
trách quyền lực nầy. Sự kiện Chúa Giê-xu dạy các môn đồ cầu nguyện xin ý
Cha được nên trên đất cũng như trời, cho thấy trên thiên đàng tất cả đều vâng lời.
Và sự vâng lời nầy được thôi thúc bởi tình yêu. Vì các thiên sứ thánh yêu Chúa,
nên họ vâng lời Ngài.
PHỤNG VỤ
CỦA CÁC THIÊN SỨ (Ministry of Angles).
Thiên sứ có các tính hoàn hảo. Mỗi Thiên sứ cung hiến sự chúc tụng lên Thượng-Đế.
Thiên sứ vừa thờ phượng Thượng-Đế vừa là tôi tớ của loài người (Hê. 1: 4). Chúa
Giê-xu bày tỏ chân lý nầy khi Ngài phán rằng các thiên sứ của con trẻ thường thấy
mặt Đức Chúa Cha trên thiên đàng ( Mat. 18: 10).
Dẫn Dắt
(Lu. 2: 10-12; Công. 8: 26; 10: 3,7,8).
Các Thiên sứ đôi khi xuất hiện trước con dân của Đức Chúa Trời để tuyên bố chương
trình của Ngài cho đời sống họ hoặc là để chỉ đạo công việc mà Ngài dành cho họ
làm. Điều đặc biệt đáng chú ý là các thiên sứ rất thích công việc của Cơ-Đốc
Nhân. Trong trường hợp của Phi-e-rơ và Cọt-nây một thiên sứ hướng dẫn Cơ-Đốc
Nhân Phi-e-rơ đến gặp tội nhân và ngược lại. Thiên sứ theo dõi những mối quan hệ
của tín hữu và những người chưa tin Chúa. Thiên sứ vui mừng mỗi khi có người ăn
năn tội và trở lại với Chúa . (Lu. 15: 10).
Yên Uûi
(Mat. 4: 11; Lu. 22: 43)
Công tác yên ủi các thiên sứ thấy rõ ràng trong đời sống của A-ga, Ê-li, và
Phao-lô . A-ga, khi bà lần đầu tiên chạy trốn khỏi Sa-ra (Sáng. 16: 7,8);
Ê-li, khi ông chạy vào đồng vắng tránh cơn giận của hoàng hậu Giê-sa-bên
(I Vua. 19: 2-8); Phao-lô, khi ông bị đắm tàu (Công. 27: 23,24).
Nhà truyền đạo Spurgeon nói : "Lòng tin vững chắc của tôi là các Thiên sứ
thường được Thượng-Đế dùng để đem những ý tưởng yên ủi vào trong lòng dân Ngài.
Các Thiên sứ đến và hầu việc Chúa Giê-xu, và tôi quả quyết rằng họ cũng hầu việc
chúng ta nữa. Vài người trong chúng ta có lòng tin lớn nơi sự hiện hữu của các
Thiên sứ".
Bảo Vệ
(Thi. 91: 11; Eâs. 63: 9)
Các thiên sứ làm tròn công tác bảo vệ trên dân của Đức Chúa Trời. Các thiên sứ
cũng là những vị bảo vệ nước Do Thái (Xuất 14: 19) và Đa-ni-ên (Đa. 6: 22).
Những phần nầy của Kinh Thánh biểu lộ tình yêu vĩ đại của Thượng-Đế. Được các
Thiên sứ của Thượng-Đế bảo vệ khỏi mọi nguy hiểm thì thật là một ơn phước vô
cùng lớn lao cho Cơ-Đốc Nhân.
Giải Cứu
(Thi. 34: 7)
Rõ ràng là nhiều lần các thiên sứ giải thóat các sứ đồ khỏi sự bách hại đang
khi thi hành chức vụ.
Khi người Do Thái bỏ tù Phi-e-rơ và các sứ đồ khác, thì một Thiên sứ đến vào
ban đêm, mở cửa tù, và dẫn họ ra ngoài (Công. 5: 17-19).
Sau đó khi vua Hê-rốt bỏ tù Phi-e-rơ dự định sẽ giết ông thì một Thiên sứ xuất
hiện trong ngục thất, đánh thức ông dậy, bứt đứt xiềng và giải thoát ông
(Công. 12: 6-9).
Các bức tường của nhà tù, cổng sắt và 4 binh lính canh gác không thể ngăn
cản các thiên sứ giải cứu các sứ đồ đang lâm nguy.
Đoán Phạt
(II Tê. 1: 7-9).
Nhiều sự tường thuật trong Kinh Thánh nói về công tác đoán phạt của các Thiên sứ.
Trong sách Sáng Thế Ký. 19, sự đoán phạt của Thượng-Đế giáng trên hai thành độc
ác Sô-đôm, Gô-mô-rơ được thi hành bởi hai vị thiên sứ .
Vua Đa-vít có sự lựa chọn trong 3 hình phạt về tội kiêu ngạo trong việc kiểm kê
dân số để ước tính sức mạnh quân đội của ông. Đa-vít chọn hình phạt dịch hạch
thay vì cơn đói kém hay là sự bại trận. Đa-vít phó mình vào sự nhân từ của Thượng-Đế
và vị Thiên sứ thi hành án lệnh (II Sa. 24: 15,16).
Quân đội A-si-ri dường như vô địch. Hết thành phố nầy đến thành phố khác lần lượt
rơi vào tay đạo quân bách chiến bách thắng của thế lực đang lên trên thế giới.
Thành Giê-ru-sa-lem đứng trước nguy cơ sụp đỗ. Nhưng nội trong đêm đó khi cả
thành phố đang chìm trong tuyệt vọng, Ê-xê-chia cầu nguyện, và thiên sứ của
Thượng-Đế tàn sát 185.000 quân A -si-ri ( II Vua 19: 35).
SỰ BẠI
HOẠI CỦA THIÊN SỨ
Nghiên cứu về bản chất thánh khiết và công chính của Đức Chúa Trời khiến chúng
ta không thể nào tin rằng Ngài sẽ tạo dựng một thứ gì đó có bản chất ác, xấu từ
khởi thủy. Nghiên cưú về loài người ta thấy họ được tạo dựng nên một cách hoàn
hảo, nhưng chỉ bởi một hành động cố ý không vâng lời, là người đã làm hư hoại bản
tính của họ và trở nên tội lỗi. Các thiên sứ sa ngã cũng lâm vào một tình trạng
giống Phi-e-rơ nói rằng họ đã phạm tội (II Phi 2: 4), trong khi Gui-de tuyên bố
rằng các thiên sứ "không giữ các thứ bậc và bỏ chỗ riêng mình" (Gui.
6).
Thật khó khám phá ra tất cả sự cư xử của Thượng-Đế đối với các tạo vật oai quyền
này mà Ngài đã cho họ được chầu phụng chung quanh Ngài làm những bậc dự phần
trong sự thánh khiết và vinh hiển của Ngài. Tuy nhiên, từ những lời nói bóng
gió rải rác khắp nơi trong Kinh Thánh, chúng ta có thể chắp nối lại được những
sự kiện xảy ra liên quan đến vấn đề này.
Thiên sứ
Chê-rúp (Cherub) Được Xức Dầu (Êx. 28: 14).
"Chê-rúp" là cấp bậc cao nhất trong thế giới thiên sứ. Nghiên cứu chữ
"Chê-bu-bim" (Số nhiều của chữ Chê-rúp) trong Kinh Thánh (Eâx. 1:
5-14; 10: 8-22; Khải. 4: 6-11;5: 11-14). Cho thấy trong các tạo vật của Thượng-Đế
thì cấp bậc cao cấp nầy ngồi sát bên ngai Ngài và hướng dẫn sự thờ phượng của
toàn vũ trụ. Chữ "được xức dầu" ở đây chỉ tỏ rằng Lu-xi-phe (Lucifer)
Là trưởng của các thiên sứ Chê-ru-bim cao cấp, một địa vị đặc biệt được
Thượng-Đế chỉ định.
Dấy Loạn
Kinh Thánh kể lại nguyên nhân sự bất mãn, và dấy nghịch cuối cùng của
Lu-xi-phe. Lu-xi-phe thấy sự vinh quang của địa vị và sự huy hoàng của nó quá lớn.
Sự kiêu ngạo ngự trị và tràn ngập tấm lòng nó(I Ti. 3: 6). Vẽ mỹ lệ làm cho
lòng nó tôn lên, những lý lẽ của đầu óc thông sáng nó làm hư hỏng sự khôn
ngoan của nó. Giống như Aùp-sa-lôm, người con đẹp trai của Đa-vít (II Sa.
15:3-6),ông nầy tìm cách lấy lòng những người kiện thưa trong vương quốc để đạt
ngôi vua.
Ê-sai mô tả một cách hết sức tượng hình tham vọng của tên vương tử Lu-xi-phe ngạo
mạn nầy. Vì khi Ê-sai đề cập đến Vua Của Ba-bi-lôn, ông cũng mô tả một
Lu-xi-phe mạnh mẽ cường thịnh, có tham vọng làm Thượng-Đế (Eâs. 14: 12-15;
Công. 12: 21-23).
Khi Lu-xi-phe tưởng tượng đến việc nó sẽ là Thượng-Đế, thì lòng dấy loạn chiếm
ngự tâm trí nó, và nó âm mưu chống lại Chúa là Đấng nó đã từng trung thành và
vâng phục. Chắc chắn là có sự bất mãn xuất hiện trong lòng các thiên sứ ;
sự bất mãn chỉ khiến cho nó càng thêm khinh thường và không vâng lời.
Thua Bại
Như Thượng-Đế đã biết trước, sự dấy lọan của Lu-xi-phe bị thất bại. Kết quả của
sự chiến đâùu giữa các thế lực trên trời là sự đại bại của Lu-xi-phe và đồng bọn
nó. Chúng nó " không thắng, và chẳng còn thấy nơi chúng nó ở trên trời nữa"
(Khải. 12: 8). Kết quả của sự phản loạn ấy là Sa-tan mất địa vị, và một vị kế
nghiệp được lập lên để thế vào chỗ trống của nó trên thiên đàng.
Nhóm dấy loạn trên thiên đàng được xét xử nhanh chóng và nghiêm khắc. " Thượng-Đế
chẳng tiếc các phạm tội, quăng vào trong vực sâu địa ngục" (II Phi.
2: 4). Mặc dù chúng rất mạnh mẽ và đông đảo Thượng-Đế không vì thế mà giữ chúng
lại. Ngay cả số lượng đông đảo của chúng cũng không nghĩa lý gì. Không chần chờ,
hình phạt tiếp theo liền với tội phạm (Eâs. 14: 15; Eâx. 28: 17).
Vì sự kiêu ngạo là nguyên nhân của hành động bất chánh kinh khủng đầu
tiên, hành động nầy đã làm hoen ố sự thánh khiết và hạnh phước của thiên đàng,
cho nên Thượng-Đế trong sự toàn tri của Ngài đã sắp đặt một hình phạt tương
xứng sự quá phạm. Tội kiêu ngạo được hình phạt bởi sự phô bày của ân điển. Một
dòng giống thấp hơn được tạo dựng và đặt xuống đất. Đức Chúa Trời tấy thích hợp
để "truyền thụ sức mạnh" cho những tạo vật yếu hơn và thấp hơn (Sáng.
1: 26-28; Thi. 8: 2-5).
TỔNG KẾT
Đề tài thiên sứ không được biết đến nhiều trong vòng các Cơ-Đốc Nhân. Kết quả
là có nhiều quan niệm sai lầm và mê tín đã làm méo mó giáo lý này. Nhưng Kinh
Thánh nói nhiều về các thiên sứ.
Thiên sứ là những hữu thể được tạo dựng nên. Họ có nhiều cấp bậc khác nhau và được
Kinh Thánh đề cập qua nhiều từ ngữ. Các thiên sứ cao hơn loài người, nhưng thấp
hơn Thượng-Đế.
Kinh Thánh nói nhiều về những đặc tính của Thiên sứ : thánh khiết, khôn
ngoan, mạnh mẽ, và quyền năng, khiêm nhường và vâng phục.
Các thiên sứ có nhiều công tác và mục đích khác nhau. Họ tiến hành công tác hướng
dẫn, yên ủi, bảo vệ, giải cứu và trừng phạt.
Các thiên sứ, cũng như loài người,
được tạo dựng ra hoàn hảo và phải giống như là người, bởi một hành vi cố ý
không vâng lời mà trở thành suy bại. Kinh Thánh nói rằng Lu-xi-phe là thiên sứ
trưởng, phản nghịch lại Thượng-Đế và tìm cách trở thành Đức Chúa Trời.
Lu-xi-phe (còn gọi là Sa-tan) bị đại bại, mất địa vị quyền thế, bị phạt và quăng
ra khỏi thiên đàng.
BÀI LÀM
1.
Tại sao tín hữu ít biết về vấn đề các thiên sứ?
2.
Kinh Thánh nói cho chúng ta biết gì về số lượng và cấp bậc của thiên sứ?
3.
Đưa ra những dẫn chứng trong Kinh Thánh nói về địa vị của các thiên sứ trong mối
liên hệ với loài người và với Thượng-Đế?
4.
Kể ra những đặc tính của các thiên sứ?
5.
Khi nào và tại đâu mà các thiên sứ phục vụ trong công tác hướng dẫn?
6.
Kể ra vài nhân vật trong Kinh Thánh được bảo vệ bởi các thiên sứ?
7.
Liệt kê vài dịp các thiên sứ thi hành công tác giải cứu?
8.
Điều gì đưa đến sự dấy loạn và đại bại của Lu-xi-phe?
9.
Kết quả của việc Sa-tan bị đại bại là gì?
10.
Thảo luận địa vị và sự phụng vụ của các thiên sứ kể từ thời đại Kinh Thánh?
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
Beyer, Douglas, Basic Beliefs of Christians. Valley Forge, PA: Judson
Press, 1981. Chapter 6.
Dickason, C. Fred. Angles: Elect and Evil. Chicago: Moody Press, 1975.
Ryrie, Charles C. A Survery of Bible Doctrine. Chicago: Moody Press,
1972. Chapter 5
Top
Top of
Form
Trang Đầu
| Mục Lục | << CHƯƠNG 8 | CHƯƠNG 10 >>
CHƯƠNG
9
ĐẶC
TÍNH, CÔNG VIỆC VÀ SỰ THỜ PHƯỢNG SA-TAN
(
Character, Work, and Worship Of Satan)
Sự chết và phục sinh của Chúa Giê-xu Chí-tôn đã chiến thắng Sa-tan, dầu vậy nó
vẫn còn hiện diện như là kẻ cai trị thế gian. Các chương trước luận giải địa vị
trước kia của Sa-tan là thiên sứ được xức dầu của Đức Chúa Trời, sự sa ngã của
nó, và việc nó cám dỗ loài người đầu tiên. Đặc tính của Sa-tan, công việc
của nó trên đất, và nó được thờ lạy trên thực tế sẽ được xem xét trong chương nầy.
ĐẶC
TÍNH CỦA SA-TAN
Nhiều phân đoạn Kinh Thánh nói rõ ràng về bản tính thật của Sa-tan. Trong Kinh
Thánh Cựu Ước có nó được gọi là "Bê-li-an" (Belial) có nghĩa là vô luật
pháp, và cho thấy đặc tính của nó hoàn toàn gian ác. Trong Kinh Thánh Tân Ước
nó được gọi là "Bê-ên-xê-bun" (Beelzebul) kẻ cai trị những tà linh và
"A-pô-li-ôn" (Apollion) kẻ hủy phá. Tên "Sa-tan" có nghĩa
là địch thủ "Qủy ma" có nghĩa là kẻ báng bổ, kẻ phỉ báng.
Gian
Aùc (Wicked)
Chúa dạy môn đồ Ngài xin sự giải thoảt khỏi "kẻ ác" (the evil one)
(Mat. 6: 13). Chúa Giê-xu Chí-tôn cũng gọi Sa-tan là "quỉ dữ" trong ẩn
dụ của người gieo giống (Mat. 13: 19). Sa-tan là một kẻ giết người và kẻ nói dối
từ lúc ban đầu (Giăng 8: 44). Nó khích động người con đầu lòng của cặp cha mẹ đầu
tiên giết em mình, và kể từ đó nó xông sáo gia tăng mọi điều ác (I Giăng 3:
8,12). Sa-tan làm đủ điều trong quyền hạn nó để làm hư hỏng sự công chính của
những tín hữu và làm gia tăng những sự gian ác của loài người.
Đầy Quyền
Lực (Powerful)
Nhìn thoáng qua về Sa-tan trong Kinh Thánh cho thấy "quyền lực, dấu kỳ về
việc giả dối" (II Tê. 2: 9). Dưới quyền lực nó, những người không tin Chúa
bị làm mù lòa và ở trong tăm tối (Công. 26: 18). Chỉ có đức tin nơi Chúa Giê-xu
Chí-tôn người ta mới có thể nhận được ánh sáng và sự tha tội. các tín hữu bị ngăn
trở phục vụ bởi quyền lực của Sa-tan (II Tê. 2: 18). Chỉ khi chống cự nó và đến
gần Chúa tín hữu mới đạt được chiến thắng (Gia. 4: 7,8a)
Sa-tan có quyền trên một vương quốc và cai trị những hữu thể cao cấp gọi là chủ
quyền, thế lực, vua Chúa của thế gian, các thần giữ ở các miền trên trời(Êph.
2: 2; 6: 11,12). Sa-tan bị gọi là " con rồng đỏ vĩ đại" (Khải. 12: 3)
biểu thị đặc tính khủng khiếp cũng như quyền lực đáng sợ của nó.
MƯU MÔ
QUỈ QUYỆT (Scheming)
Sa-tan là kẻ mưu mô quỉ quyệt. Nó sẽ lợi dụng mọi cơ hội và có mưu kế tấn công
trong mọi điều kiện và mọi hoàn cảnh sau khi Chúa ở 40 ngày trong đồng vắng,
Sa-tan đến cám dỗ Ngài qua sự yếu mệt thể xác (Mat. 4: 2,3). Tại tột đỉnh danh
tiếng của Chúa Giê-xu, Sa-tan lại cố gắng cám dỗ Ngài qua ước muốn của đám đông
tôn Ngài lên làm vua (Giăng 6: 15). Nhược điểm của loài người là mục tiêu cho
ma quỉ đánh vào. Sa-tan nhấn mạnh những nhược điểm nầy và cố sử dụng nó cho việc
ác. Sức mạnh và sự thành công cũng có thể được tô điểm cách khéo léo đáp ứng
các mục đích của Sa-tan. Ma quỉ chưa bao giờ đáng nguy hiểm hơn khi nó giả vờ
là "thiên sứ sáng láng" (II Cô. 11: 14), dối gạt mọi người với điều dường
như tốt, trong sạch, và đúng đắn. Sa-tan sẽ tấn công tín hữu trưởng thành cũng
như tín hữu non nớt. Tất cả tín hữu phải luôn luôn coi chừng sự quỉ quyệt của
Sa-tan và đề cao cảnh giác không bao giờ cho ma quỉ có lợi thế tấn công ( II
Cô. 2: 11).
CÔNG VIỆC
CỦA MA QUỈ
Cám Dỗ
( Temptation)
Những hoạt động của Sa-tan bày tỏ cá tính của nó. Sách Gióp cho thấy một vài điều
nó đang làm trên đất. Trong sách Gióp chương 1 & 2 các thiên sứ hiện diện
trước mặt Đức Chúa Trời để tường thuật công việc của họ. Sa-tan cũng có mặt giữa
vòng các thiên sứ này. Khi được hỏi đến, nó tuyên bố rằng nó đã mở cho một
điều tra kỹ lưỡng về loài người và các vấn đề trên đất Đức Chúa Trời chỉ cho nó
thấy Gióp là "một người công chính và hoàn toàn", và hỏi Sa-tan có thấy
điều gì để cáo giác không. Sa-tan thách Đức Chúa Trời để cho nó thử lòng trung
tín của Gióp và Ngài chấp nhận lời của nó.
Đầu tiên Sa-tan được phép tàn hạ gia đình và tài sản của Gióp bằng những quân đội,
sấm sét, và cuồng phong. Nhưng Gióp vẫn một mực trung tín. Một cuộc họp lần thứ
hai được diễn ra trên thiên đàng và Đức Chúa Trời lại chỉ cho Sa-tan thấy lòng
trung tín của Gióp bất kể tai ương do Sa-tan đem đến. Về việc nầy, Sa-tan đáp rằng
Đức Chúa Trời đã không cho phép nó thử Gióp hết sức. Nếu Đức Chúa Trời chỉ cho
phép nó đụng đến thân thể Gióp và với các tai họa khác, Sa-tan chắc chắn rằng
Gióp sẽ nguyền rủa Đức Chúa Trời. Và Sa-tan được cho phép thử thách Gióp nhiều
hơn, nhưng " trong mọi việc đó Gióp không phạm tội bởi môi miệng
mình" (2: 10).
Tuy nhiên, Sa-tan không phải lúc nào cũng cám dỗ, thử thách con người bằng
những hoạn nạn. Nó biết con người sẽ từ bỏ Đức Chúa Trời nếu họ bị cám dỗ yêu mến
thế gian. I Giăng 2: 15,16, nói đến "tất cả mọi sự trong thế gian" gồm
có sự mê tham của xác thịt, sự mê tham của mắt, sự kiêu ngạo của đời.
Sa-tan khêu gợi tính dục trong con người, thôi thúc họ thõa mãn những tham muốn
nhục dục với bất cứ giá nào. Sa-tan sẽ làm cho mọi người tin rằng sự làm thõa
mãn mình vào khoái lạc là cứu cánh của cuộc sống.
Những người tự trọng không phí phạm cuộc đời họ trong việc tìm thỏa mãn những
ham muốn tình dục, thì Sa-tan lại cảm dỗ họ bằng vô số những vật chất xung
quanh, nó thường rất thành công trong việc sữ dụng tài sản để cứu con người xây
bỏ Chúa.
Người nào không thể bị quyến rủ bởi khoái lạc và tài sản, thì Sa-tan thổi phồng
cái tôi của họ lên kém với một sự ham muốn được trở thành quan trọng. Sa-tan
tán tụng con người sa đọa khiến họ tin rằng năng lực và lí lẽ để sống là nằm
trong chính họ. Như một nhà thần học đã nói, "sứ điệp của Sa-tan cho thời đại
ngày nay là cải cách và tự phát triển trong khi sứ điệp của Đức Chúa Trời là
tái sanh bởi quyền năng Thánh Linh".
Dối Gạt
(Deception)
Sa-tan là vua nói dối. Tài lừa dối của nó đạt tột đỉnh khi nó có thể lường gạt
người ta chối bỏ sự hiện hữu của nó(Vô thần), hay là khi nó hành động như
"thiên sứ sáng láng" để người ta không thấy nó đang hoạt động. Sa-tan
len lỏi lên bục giảng hoặc là vào các lớp thần học và giả vờ dạy dỗ Cơ-Đốc
giáo, nhưng trong thực tế nó lại pháù hại cho Cơ-Đốc giáo. Kẻ lừa dối trình bày
điều giả trá như sự thật. Phúc-Âm mà Sa-tan dùng để đánh lừa mọi người. Gia. 1:
6,7 là ca tụng cuộc đời của Chúa Giê-xu Chí-tôn nhưng gạt bỏ sự chết của Ngài.
Phúc-Âm này tán dương Ngài làm thầy những không dành chỗ cho Ngài làm Chúa Cứu
Thế của mình. Là "Chúa đời này", Sa-tan làm mù "tâm trí của những
người không tin, kẻo sự vinh hiển chói lói của Tin Lành Chúa Giê-xu
Chí-tôn...chiếu sáng vào trong họ (II Cô. 4: 4).
Trong ẩn dụ của người gieo giống, chính là"trong khi những người làm ruộng
ngủ" Sa-tan lẻn vào gieo cỏ lùng vào trong lúa mì(Mat. 13: 25-30,37-40).Có
lùng giống như lúa mì, thật khó mà phân biệt được. Sa-tan gài con cái của nó
vào trong lòng các tín hữu trong Hội Thánh, và thường thì không thể nhận dạng
chúng nó.Chúng làm suy yếu và ô uế Hội Thánh nhưng Đức Chúa Trời hứa sẽ đoán phạt
chúng (Phải. 12: 9).
Gây Thống
Khổ (Torment)
Sa-tan như "sư tử rống đi rình mò chung quanh anh em, tìm kiếm người
nào nó có thể nuốt được" (I Phi.5: 8). Không ai có thể thoát khỏi cơn giận
của Sa-tan chúng nghịch lệnh những ngườiđược tạo nên để thay thế chỗ của nó ở
trên thiên đàng (Khải . 12: 12).
*
Sa-tan Tạo Ra Bệnh Hoạn Và Chết Chóc (Lu.13: 16; Hê. 2: 14).
Xét cho cùng Sa-tan chịu trách nhiệm trong hầu hết mọi bệnh tật. Những bệnh tật
mà Chúa Giê-xu chữa lành là do ma quỉ gây ra. Chính Chúa Giê-xu Chí-tôn giải
thoát người phụ nữ bị Sa-tan hành hạ đau đớn trong 18 năm trường. Mọi chết chóc
chia ly đều do nó gây ra.
*
Sa-tan khích động sự bách hại (Khải . 2: 10.
Sa-tan khích đôïng người Do Thái và sau đó là người Hy-lạp, La Mã để bắt bớ Hội
Thánh. Nó xui dục bạo chúa Nê-rô tiêu diệt các tín hữu. nó sáng lập ra tôn giáo
Pháp Đình (Inquisition Chamber) và những lối tra tấn dã man trong thời kỳ cải
chánh Tin Lành.
*
Sa-tan Khiến Tín Hữu Chối Chúa (Lu. 22: 31,61,62).
Phi-e-rơ khóc lóc nức nỡ sau khi Sa-tan khiến ông phải chối Chúa.
SỰ THỜ
PHƯỢNG SA-TAN
Thờ phượng Sa-Tan là một cách có ý thức là chuyện dường như không thể nào xảy
ra được. Dầu vậy, trên thế giới ngày nay số người thờ lạy Sa-tan còn đông hơn số
người thờ lạy Đức Chúa Trời .
Thờ phượng hình tượng không chỉ là thờ gỗ thờ đá, trong thực tế thờ hình tượng
chính là thờ lạy Sa-tan, và Kinh Thánh cảnh cáo chống lại việc dâng lễ vật
"cho những ma quỉ chẳng phải là Đức Chúa Trời" (Phục. 32: 17). Những
người tuân phục theo tà thần đã "đổi chân lý của Đức Chúa Trời lấy sự dối
trá, kính thờ và hầu việc loài được tạo dựng thay cho Đấng Tạo Hóa" (Rô.
1: 25). Chúng ta cần công bố chân lý để họ tỉnh ngộ mà gở mình khỏi lưới ma qủy
vì đã được ma quỉ bắt lấy đặng làm theo ý nó" (II Ti. 22: 26).
Sự Tin
Tưởng Qủy Thần (Demonism)
Sự thờ lạy quỉ thần là việc qủy ám xuất hiện không những trước khi Chúa Giê-xu
Chí-tôn giáng sinh (Lê. 17: 7; Thi. 106: 37) mà vẫn còn có sau khi Chúa Cứu
Thế chịu hy sinh trên Thập tự giá.
Cần phân biệt giữa chữ "qủy vương"(devil) và chữ "qủy sứ"(demon)
hay là "quỉ thần(spirit). Trong những bản dịch Kinh Thánh Tân Ước chữ ma
quỉ luôn luôn được dùng để chỉ Sa-tan, tức "quỉ vương" kẻ chỉ huy hay
là lãnh tụ của đạo binh quỉ sứ. Người ta không bị ám bởi quỉ vương(devil) như bởi
các quỉ thần (spririts) hay là các quỉ sứ (demons). Dù có quyền năng, Sa-tan
không phải là toàn năng (omnipotent) hay là toàn lại (omnipresent): nhưng
nó hoạt động qua nhiều quỉ sứ(demons). Trong các vấn đề tối quan trọng,
chính Sa-tan có thể xuất hiện đây là trường hợp cám dỗ Chúa Giê-xu Chí-tôn.
* Chúa
Giê-xu Chí-tôn Đuổi Qủy.
Các tác giả Phúc-Âm ghi lại ít nhất sáu phép lạ đuổi qủy của Chúa Giê-xu.
Qủy thần bất khiết (Mat. 1: 23-26; Lu. 4: 33-37).
Qủy ám người mù và câm (Mat. 12: 22)
Đạo binh quỉ sứ (Mat. 5: 1-20; Lu. 8: 26-39)
Qủy ám một người người câm (Mat. 9: 32,33; Lu. 11: 14)
Qủy ám một người con gái (Mat. 15: 22-28;Mác 7: 24,30 ).
Qủy ám một bé trai (Mat. 17: 14-21; Mác 9: 14-29)
Những trường hợp trên không phải là những trường hợp điên hay kinh phong, sức mạnh
và tri thức siêu nhân (superhuman) của qủi sứ trong người đó trong nhận biết Đức
Chúa Giê-xu là con Đức Chúa Trời, và xin phép nhập vào trong các thú vật. Các
quỉ sứ, chứ không phải là người bị ám, nói với Chúa Giê-xu. Và Ngài nói với quỉ
sứ chứ không nói với người bị quỉ ám.
* Các Sứ
Đồ Đuổi Qủy
Chúa Giê-xu Chí-tôn ủy quyền cho các môn đồ đuổi quỉ (Mat. 10: 8; Mác 16: 17).
Các lãnh tụ của Hội Thánh đầu tiên đương đầu với hiện tượng quỉ ám tại nhiều nơi
mà họ dạy dỗ.
Phi-e-rơ, tại thành Giê-ru-sa-lem (Công. 5: 14-16).
Phao-lô tại thành Phi-líp (Công. 16: 12-18)
Phao-lô tại thành Ê-phê-sô (Công. 19: 11-17)
Thêm vào với những trường hợp trên, hiện tượng quỉ ám còn được thấy ở Sa-ma-ri
và Pa-phô cho thấy đây là kinh nghiệm thông thường thời bấy giờ. Những quỉ thần
này thể hiện một sự hiểu biết và quyền năng siêu nhân, nhưng qua Đức Thánh Linh
các sứ đồ luôn luôn có khả năng cao vượt hơn các quỉ thần ( I Giăng 4: 4).
Thuật
Chiêu Hồn
Chiêu hồn thật là sự tin tưởng rằng thần linh của người chết có thể liên lạc và
hiện ra với người ta. người ta thường cho rằng quỉ thần làm việc nầy qua một người
trung gian gọi là "đồng cốt"(Medium). Hồn(sprist) của người chết
không thể sống lại. Chính là quỉ thần lấy hình dạng thân thể con người để dối gạt
những người muốn liên lạc với người chết.
Kinh Thánh nói rất mạnh mẽ về chiêu hồn thuật.
*
Cấm Đoán Rõ Ràng (Lê. 19: 31; Eâs. 8: 19; Mi. 5: 12).
Kinh Thánh kết án chiêu hồn thuật. Phù thủy và bói khoa được xem là những thực
tại kinh khủng và được khẳng định là hoàn toàn ác. Toàn bộ việc thực hành chiêu
hồn thuật bị Kinh Thánh kết án.
* Kết
Aùn Tử Hình (Xuất. 22: 18;Lê. 20: 27).
Đức Chúa Trời quy định án tử hình cho những ai liên hệ đến tà thần. Mệnh lệnh của
Đức Chúa Trời cho Giô-suê tiêu giệt dân Ca-na-an (Phục. 18: 9-14) là một sự thi
hành bản án công chính của Đức Chúa Trời trên một dân gian ác. Dân Do Thái trở
thành những đao phủ thi hành án lệnh này của Đức Chúa Trời, và họ bị cảnh cáo
"không được học theo các điều gớm ghiếc của các quốc gia đó" kẻo họ cũng
bị chung cùng một số phận tương tự.
Những điều gớm ghiếc được liệt kê là bói toán(divination), bùa
chú(enchantment), phù phép(sorcery), cầu với các thần (cầu hồn)quen thuộc(consulting
with familiar), ma thuật(witchcraft), và chiêu hồn thuật(necromancy
spiritism). Chắc chắn dân Ca-na-an là những kẻ tà dâm, trộm cắp và sát
nhân, nhưng chính sự can hệ của họ với các tà thần đã dẫn đến sự tuyệt diệt cuối
cùng.
Sau khi Sa-mu-ên qua đời và Sau- lơ tàn nhẫn giết các thầy tế lễ của nước Do
Thái thì không còn ai nữa để Sau-lơ có thể cầu vấn. Oâng ta truyền lệnh cho thuộc
hạ tìm cho một người đàn bà biết cầu vong(a woman possessed of a familiar
spirit) để Sau-lơ có thể cầu vấn và kết quả của cuộc chiến tranh tàn khốc với
người Phi-li-tin. Người ta tìm được một bà đồng bóng ở Eân-đô-rơ. Được yêu cầu
gọi hồn Sa-mu-ên, bà liền bắt tay vào việc. Nhưng Đức Chúa Trời khống chế quyền
lực Sa-tan và cho Sa-mu-ên thật sự xuất hiện thay vì dung mạo của ông. Ông vua
bất hạnh này đã tự giết hại mình, và không chỉ vì những tội giết người, nhưng
mà còn vì "đã cầu vấn đồng bóng" (I Sử. 10: 13, 14; I Sa. 28: 3-20).
Thuật
Chiêm Tinh (Astrology)
Thuật chiêm tinh tin rằng các vì sao ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Những
chiêm tinh gia không cần viễn vọng kính(telescope), quang phổ
kính(spectroscope), thước trắc vi(micrometer), hoặc là các bản cửu chương(multiplication),
để định đoạt số mạng con người. một trí tưởng tượng nẩy nở và một quần chúng nhẹ
dạ và tất cả những dụng cụ mà các chiêm tinh gia này cần đến.
Sự chính xác của các lời tiên đoán của những tiên tri của Đức Chúa Trời so sánh
với các lời tiên đoán của các chiêm tinh gia được thấy trong cách thức lạ lùng
của Ê-sai với Ba-bi-lôn ngay trước khi ông tiết lộ Sy-ri-u là người chiến thắng
sau nầy: "vậy những kẻ hỏi trời, xem sao, xem trăng mới mà đoán việc
ngày sau, bây giờ hãy đứng lenm và cứu ngươi cho khỏi những sự xảy đến trên ngươi"
(Eâs. 47: 12,13).
Cuộc
tranh hùng của Đa-ni-ên với các chiêm tinh gai của Ba-bi-lôn cũng quen thuộc với
chúng ta. vua Nê-bu-cát-nết-sa tỏ cho thấy sự hời hợt khoa tử vi của thời ông bằng
cách đòi " các nhà thông thái" tiết lộ giấc mơ đã quên của ông
cũng như thông giải nó. Hãy lắng nghe sự đánh giá của vua Nê-bu-cát-nết-xa về
những người nầy: "Nếu các ngươi không tỏ cho ta biết chiêm bao, ... vì các
ngươi đã điều đình với nhau đem những lời giả dối bậy bạ nói cùng ta" (Đa.
2: 9). Các chiêm tinh gia xem sự đòi hỏi đó là hết sức phi lý, và dù mạng sống
họ ở trong tình trạng chỉ mành treo chuông, họ phải thú nhận giới hạn sở thuật
và nghành nghề của họ mà các nước đã tôn kính quá mức. Chỗ đứng thật của các
chiêm tinh gia trong quá khứ và hiện tại, được tỏ ra qua câu trả lời quan trọng
của Đa-ni-ên cho vua Nê-bu-cát-nêt-xa: "sự bí mật mà vua đã đòi hỏi, các
nhà thông thái, các chiêm tinh gia, các thuộc sĩ, các thầy bói không thể tỏ ra
cho vua được. Nhưng có một Đức Chúa Trời ở trên trời tỏ ra những điều kín nhiệm,
và đã cho vua Nê-bu-cát-nét-xa biết điều sẽ tới trong những ngày sau rốt"
(Đa. 2: 27,28).
Khoa chiêm tinh ngày nay, cũng như khi xưa, gắn liền với Sa-tan và đưa ra những
lời tiên đoán tương lai thay thế cho đức tin nơi một Đức Chúa Cha trên trời. Đức
Chúa Trời " làm trật các điềm của kẻ nói dối, và khiến thầy bói ngu muội"
(Ês 44: 25).
TỔNG KẾT
Mặc dù Sa-tan đã bị chế ngự, nó vẫn là kẻ cầm quyền trên thế gian. Đặc tính của
nó hoàn toàn ác. Nó khuấy động đủ loại gian ác ; nó che mắt người vô tín và ngăn
trở sự hầu việc Chúa của Cơ-Đốc Nhân. Là kẻ cầm quyền, Sa-tan sử dụng một quyền
lực đáng sợ. Qua sự bày mưu tựu kế của nó, Sa-tan có thể lợi dụng mọi
hoàn cảnh, tốt hoặc xấu, cho mục đích của nó. Lợi dụng ưu điểm của con người cũng
như khuyết điểm họ là một chiến thuật lừa dối khác của nó. Sa-tan đặc biệt nguy
hiểm khi nó xuất hiện là một "thiên sứ sáng láng" .
Là một kẻ cám dỗ, Sa-tan dùng sự đau khổ cũng như "sự đam mê của xác
thịt, ham mê của mắt, và sự kiêu ngạo của đời" kéo con người xa cách
Đức Chúa Trời. Nó khiến người ta yêu thế gian và các vật trong thế gian. Nó là
kẻ lừa dối, phô bày sự dối trá làm sự thật, tạo ra một phúc-âm chối bỏ
công việc cứu chuộc của Chúa Giê-xu Chí-tôn. Bằng cách gieo " cỏ
lùng" lẫn lộn với "lúa mì", Sa-tan làm suy yếu Hội Thánh.
Nó còn là kẻ làm khổ người khác, gây ra bệnh tật và chết chóc, bách hại,
và chối Chúa.
Co ùnhiều người thờ lạy Sa-tan. Sự thờ hình tượng, sự tin tưởng nơi quỉ
thần, sự chiêu hồn, và khoa chiêm tinh là tất cả những thí dụ của việc liên can
đến tà thần, và tất cả bị Đức Chúa Trời cấm đóan. Cơ-Đốc Nhân cần rao truyền
chân lý để chống lại sự dối gạt của Sa-tan.
BÀI LÀM
1.
Những danh hiệu Kinh Thánh đặt cho Sa-tan cho thấy gì về đặc tính của nó?
2.
Giải thích ba đặc tính nữa của Sa-tan?
3.
Mưu đồ của Sa-tan được chứng minh thế nào trong Kinh Thánh?
4.
Chúng ta có thể học hỏi gì về công việc của Sa-tan ở trong sách Gióp?
5.
Ba sự lôi cuốn dùng trong tất cả sự cám dỗ là gì?
6.
Sa-tan là kẻ phỉnh dổ trong phương diện nào?
7.
Mô tả bốn cuốn sách mà Sa-tan lộ nguyên hình là kẻ làm người khác đau khổ?
8.
Giải thích làm thế nào thờ hình tượng lại là thờ lạy Sa-tan?
9.
Giữa quỉ vương (devil) và quỉ sứ(demon) có sự khác nhau nào?
10.
Làm thế nào chúng ta biết những người bị quỉ ám trong các sách Phúc-Âm không phải
là những trường hợp điên khùng hoặc phong cùi?
11.
Kinh Thánh dạy gì về thuật chiêu hồn?
12.
Quan điểm Cơ-Đốc về việc sử dụng khoa chiêm tinh là gì?
13.
Thảo luận mối quan hệ của những hoạt động của Sa-tan với những biến cố thời sự
trên thế giới?
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
Beyer, Douglas, Basic Beliefs of Christians. Valley Forge, PA: Judson
Press, 1981. Chapter 6.
Bubeck, Mark I. The adversary. Chicago: Moody Press 1975.
Dickson, C. Fred. Angles: Elect and Evil. Chicago: Moody Press,
1975.
Sanders,
J. Osward. Sa-tan is no Myth. Chicago Moody: Press 1983.
Top
Top of
Form
Trang Đầu
| Mục Lục | << CHƯƠNG 9 | CHƯƠNG 11 >>
CHƯƠNG
10
SỰ PHỤC
SINH VÀ PHÁN XÉT
(Resurrection
and judgment)
Sự phục sinh là một sự thật được đảm bảo chắc chắn. Xem xét kỹ lưỡng Lời của Đức
Chúa Trời cho thấy có đầy dẫy bằng chứng về sự phục sinh. Người ta không thể phủ
nhận sự phục sinh nếu trước hết không loại bỏ được những bằng chứng cụ thể. Những
bằng chứng nầy nằm trong bốn sách Phúc-Âm với những chương kết thúc chép về sự
phục sinh của Chúa Giê-xu Chí-tôn, nằm trong tính chất lịch sử đáng tin của các
sách Công-vụ Các Sứ Đồ, và trong từng văn kiện khác còn lưu lại từ thế kỷ thứ
nhất nói về sự phục sinh của Chúa. Phủ nhận tất cả những bằng chứng nầy tất là
phủ nhận chính Cơ-Đốc giáo. Sự phục sinh của Chúa Giê-xu Chí-tôn là nền tảng Cơ-Đốc
giáo. Phủ nhận sự phục sinh là phủ nhận lịch sử và phủ nhận chân lý.
SỰ PHỤC
SINH CỦA TÍN HỮU
Sự phục sinh và sự sống đời đời là những lời hứa quý báu. Những người mà tên tuổi
được ghi trong sách sự sống là những người nhận được những lời hứa nầy (Đa.12:
1; Khải 21: 27).
Dành cho Con Cái Đức Chúa Trời
Những người thuộc phái Sa-đu-sê là những người tự do (liberals) trong thời Chúa
Giê-xu. Theo cách suy nghĩ của họ, tôn giáo là một điều quan trọng cho đời nầy
mà thôi. Thiên đàng là một nơi mù mờ, và tất cả những ý tưởng về một sự hiện hữu
tương lai chỉ là một giấc mộng vu vơ. Khi đặt nghi vấn với Chúa Giê-xu bằng một
câu hỏi liên quan đến hôn nhân trong sự sống lại đời sau, những người Sa-đu-sê
tưởng rằng họ đã hỏi Ngài một câu khôngthể trả lời được (Mat.22: 22-33). Họ hy
vọng rằng Ngài sẽ phủ nhận sự phục sinh hoặc là đưa ra vài mâu thuẫn với luật
pháp Môi-se về vấn đề hôn nhân của người đàn bà góa. Nhưng, như thường lệ, Chúa
Giê-xu đã đáp lại một cách khôn ngoan. Sự khôn ngoan kỳ diệu của câu trả lời
Ngài khiến họ hòan toàn câm miệng. Nhưng điều lý thú nhất là câu nói của Ngài về
sự phục sinh đặc biệt của tín hữu. "Song những kẻ đã được kể xứng đáng dự
phần đời sau và được sống lại từ cõi chết thì không còn cưới gả. Bởi họ sẽ
không chết nữa, mà giống như các thiên sứ, và là con của Đức Chúa Trời vì
là con của sự phục sinh " (Lu.20: 35,36).
Dành cho người công chính
Trong ẩn dụ của Phúc-Âm Lu-ca 14: 12-14, Chúa Giê-xu đang nói chuyện với các
tín hữu. Người của thế gian thiết đãi bạn bè với sự mong muốn rằng rồi đây họ sẽ
được đáp lễ lại. Nhưng con cái Đức Chúa Trời nên ban cho những người không thể đáp
trả lại. Tại sao? Vì "ngươi sẽ được phước, vì họ không thể trả lại
cho ngươi; cho đến kỳ sống lại của kẻ công chính ngươi sẽ được đáp trả"(Lu.
14: 14). Nếu những người thế gian dược kể vào trong kỳ sống lại của những kẻ
công chính nầy thì không cần phải phân biệt rõ là "kỳ sống lại của kẻ công
chính." Các chữ "của kẻ những công chính" sẽ trở thành dư thừa
trong phân đoạn nầy trừ khi chúng đề cập đến một sự sống lại riêng biệt dành
cho người tin Chúa.
Hy vọng của Tín hữu
Phao-lô đã bỏ mọi sự vì Đức Chúa Giê-xu
Chí-tôn (Phi.3: 5-8). Oâng là một học giả tiếng tăm, giữ một địa vị rất cao, và
có nhiều bè bạn trong phái Pha-ri-si quyền thế, mà chính ông là một thành viên.
Nhưng tất cả những vinh dự nầy không có nghĩa lý gì sau khi gặp được Chúa
Giê-xu Chí-tôn và sau đó ao ước duy nhất của ông là được kinh nghiệm hiệp
thông trong sự chịu khổ của Chúa Giê-xu Chí Tôn và trong quyền phép của sự sống
lại của Ngài. như đã bày tỏ, hy vọng duy nhất của ông là ông "được đạt đến
sự sống lại từ cõi chết" (Phi 3: 11). Sự sống lại mà Phao-lô ham muốn
không thể là sự sống lại tổng quát của thiện và ác. Vì sự sống lại tổng quát
cho cả người thiện lẫn kẻ ác là sự sống lại chung cho cả mọi người mà ai cũng sẽ
kinh nghiệm dù người đó sống thế nào đi nữa. Đay phải là sự sống lại mà kẻ dự
phần là những người đã biết Chúa Giê-xu Chí-tôn mà thôi.
Sự an ủi của Tín hữu
Một phân đoạn Thánh Kinh quen thuộc trong
sách I Tê-sa-lô-ni-ca 4: 13-18 thường được nghe tại các đám tang. Đó là lời an ủi
của Phao-lô cho những Cơ-Đốc nhân bị mất những người thân yêu. Trong số những
môn đồ ở thành Tê-sa-lô-ni-ca có nhiều người vui mừng tiên đoán sự tái
lâm sớm của Chúa. Rồi ngày qua tháng lại, vài người trong bọn họ qua đời mà chưa
thấy Chúa tái lâm và không được dự phần vui mừng và vinh hiển của Chúa tái lâm;
những người Tê-sa-lô-ni-ca nầy lo lắng sợ những người thân yêu của họ đã
chết không được chia xẻ sự vui mừng và vinh hiển của Chúa tái lâm. Vì thế
Phao-lô an ủi họ với lời đảm bảo rằng những người còn sống lúc Chúa tái lâm
không hơn gì những tín hữu đã qua đời. Nhưng cần chú ý rằng, khi ông nói cho những
tín hữu, sống và chết, lẫn lộn nhau trong mối thông công với Chúa, ông không
nói gì về những kẻ không tin. Thật rõ rằng là những người không thuộc về Chúa
Giê-xu Chí-tôn sẽ không sống lại với các tín hữu lúc Chúa tái lâm.
Thứ Tự Của Sự Sống Lại
Trong I Cô-rinh-tô 15 có chỉ dạy quan trọng
về sự sống lại; đây là một trong những chương dài nhất của Kinh Tân Ước. Có dữ
kiện kỳ thú nhất tìm thấy ở đây là thứ tự của những biến cố trong tương lai. Lịch
trình của những biến cố, bắt đầu với sự sống lại của Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn.
Diễn tiến như sau
Sự sống lại của Chúa Giê-xu Chí-tôn (c.23)
Sự sống lại của các tín hữu (c.23)
Sự trị vì của Chúa Giê-xu Chí-tôn (c.25)
Sự tiêu diệt sự chết (c.26)
Sự hòan tất sự trị vì của Chúa Giê-xu
Chí-tôn (c.24)
Ông James M. Gray, cựu viện trưởng của viện
thần học Moody đã nói:
"Sự sống lại của Chúa Giê-xu Chí-tôn đảm
bảo cho tất cả mọi người (c.20-22); cho cả người gian ác cũng như người hiền lương,
tín hữu cũng như kẻ vô tín, sẽ được sống dậy, một số sẽ vào sự sống đời đời và
một số khác sẽ vào sự hổ thẹn và khinh miệt đời đời (cũng xem trong Giăng 5:
28,29). Nhưng tất cả không sống dậy ngay tức khắc. Chúa Giê-xu Chí-tôn là trái đầu
mùa, sự sống lại của Ngài đã xảy ra rồi. Đợt sống lại thứ hai gồm có những
tín hữu thật, là những người sẽ bước ra trong lần trở lại thứ hai của Chúa. Đợt
thứ ba và là đợt chót sẽ gồm có những người chết còn lại, là những người sẽ bước
ra sau một ngàn năm bình an (millenium) vào lúc tận thế."
Sách Khải Huyền 20: 4-6 không những xác nhận
sách I Cô-rinh-tô 15, mà còn nói rõ ràng chi tiết và thời điểm. Câu nói,
"một ngàn năm," được dùng sáu lần trong bảy câu, đầu của sách Khải
Huyền 20, và nó phải được thông giải theo nghĩa đen. Điểm quan trọng cần chú ý
là sự sống lại đầu tiên (first resurrection) phải đi trước sự trị vì của Chúa
Giê-xu Chí-tôn và những người dự phần trong đó là những người vui mừng và thánh
khiết. Hơn nữa, những người chết còn lại "sẽ không sống lại cho đến khi hạn
một ngàn năm đã mãn" (c.5)
SỰ SỐNG
LẠI CỦA NHỮNG KẺ VÔ TÍN
Chỉ có hai hạng người liên quan đến sự sống lại. Một bên là những người bị thu
hút vào sự theo đuổi giàu sang, khoái lạc, hoặc những lợi lộc vật chất
khác, và khôngbiết gì hơn là những vật thế gian nầy.
Phía bên kia là những người tin nơi sự tái lâm của Con Đức Chúa Trời và làm hết
sức để sẵn sàng chờ đón Ngài. họ cũng làm việc sinh sống trên thế gian, nhưng
xem những công việc của Hội Thánh Chúa Giê-xu Chí-tôn là quan trọng hơn, và mục
đích chính yếu của họ là hoàn thành công tác của Hội Thánh trên thế gian.
Hai hạng người nầy không thể được phân biệt dễ dàng nhưng trong ngày của sự sống
lại sẽ không còn lẫn lộn họ. Những người đã"làm lành" vì đức tin cá
nhân đặt nơi Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn là Chúa Cứu Thế thì sẽ tiến ra trong sự sống
lại lần thứ nhất, và những ai "làm ác" sẽ tiến ra trong sự sống lại lần
thứ nhì (Giăng 5: 29)
Phân đoạn Thánh Kinh trong sách Khải Huyền 20: 5 nói rằng những người vô tín -
những người chết còn lại - "sẽ không sống lại cho đến khi hạn một ngàn năm
đã mãn." Có những đặc tính khác đánh dấu sự sống lại lần thứ nhì.
Sự Đóan xét (Judgment) (Đa 12: 2; Giăng 5: 28,29; Khải 20: 13)
Tất cả những phân đoạn Kinh Thánh trên liên quan đến sự sống của những người vô
tín có dính líu đến sự đóan xét trước ngai trắng lớn (the great white throne).
Sự đóan xét nầy xảy ra vào phần cuối chứ không phải phần khởi đầu của sự trị vì
của Chúa Giê-xu Chí-tôn trên thế gian. Sự sống lại nầy có thể không bao giờ được
nhắc đến trong Kinh Thánh vì sự đề cao nầy không cần thiết để giải thích sự hiện
diện của tội nhân trước ngai đóan xét của Đức Chúa Trời.
Hình Phạt (punishment) (Khải.20: 15)
Sự sống lại đề cập trong Sách Khải Huyền 20: 15 có liên đến hình phạt. Vì thế
nhất định những kẻ dự phần trong sự sống lại nầy sẽ là những người không tin
Chúa.
SỰ ĐÓAN
XÉT CHO NGƯỜI CÔNGBÌNH
Hầu hết mọi người nghĩ rằng tất cả những sự đóan xét sẽ xảy ra sau sự sống lại.
Ít nhất có một sự đóan xét xảy ra trước khi chết. "Theo như đã định cho
loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét, cũng vậy Chúa Giê-xu Chí-tôn đã
dâng mình chỉ một lần đặng cất tội lỗi của nhiều người; Ngài sẽ hiện ra lần thứ
hai, không phải để cất tội lỗi đi nữa, nhưng để ban sự cứu rỗi cho những kẻ chờ
đợi Ngài" (Hê.27,28). Vì tội lỗi mà sự chết đã được ấn định trên mọi người,
và tội lỗi phải chịu đóan phạt. Sự đóan phạt cho những tín hữu mà trước đây là
tội nhân đã được thực hiện xong qua công trình cứu chuộc của Chúa Giê-xu
Chí-tôn trên thập tự giá (Giăng 3: 18; 4: 24)
Sự Đóan Xét Tại Thập tự giá (Giăng 5: 24; 12: 31, 47,48; Công.13: 39; Rô.8: 1;
II Cô 5: 21; Ga.3: 13; I Phi.2: 24)
Phán xét trong những trường hợp tội phạm (criminal case) là giải quyết cho việc
vi phạm luật lệ xã hội. Phán xét trong trường hợp dân sự (civil case) là một sự
giải quyết cho việc tranh cãi giữa hai cá nhân. Nhưng không ai bị đưa ra xét xử
trước một vị quan tòa nếu người đó đã nhìn nhận tội lỗi.
Đáng Chí-tôn đã được chỉ định xét xử thế gian, và vào ngày phán xét của Ngài tội
nhân sẽ bị xét xử vì tội của họ. Nhưng nếu tội nhân đã nhìn nhận tội và đón nhận
sự tha tội được ban tặng qua Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn, thì theo Kinh Thánh
"cho nên hiện nay chẳng còn có sự đóan phạt nào cho những kẻ ở trong Đức
Chúa Giê-xu Chí-tôn," vì bởi Chúa Giê-xu Chí-tôn "tất cả những kẻ tin
đều được xưng công chính trong mọi sự, vì họ không được xưng công chính bởi luật
pháp Môi-se." ngay khi loài người tự thú tội và chấp nhận sự dự phòng đại
lượng (God s gracious provision) của Đức Chúa Trời cho tội lỗi họ. Chúa Giê-xu
Chí-tôn sẽ trả lời thay cho họ. Những tín hữu sẽ không bị đóan xét tội trong tươnglai.
Sự đóan xét đó đã thực hiện xong tại thập tự gía. Sự bình an và tha tội bắt đầu
ngay tại cõi trần này, và tương lai chỉ có thể định án, "kẻ nào ô uế, cứ
còn ô uế nữa; kẻ nào công bình cứ làm điều công bình nữa" (Khải.22: 11).
Cuộc đời tương lai của chúng ta chỉ là một sự tiếp tục của thái độ hiện thời của
chúng ta đối với tội lỗi và sự công chính.
Sự Đóan Xét và Phần Thưởng (I Cô.3: 9-15; 4: 5; II Cô. 5: 10)
Những phân đoạn Kinh Thánh nầy trong sách Cô-rinh-tô chỉ dành cho người tin
Chúa mà thôi. Trong ba chương nầy hòan toàn không nói gì về kẻ gian ác, vì thế
có thể nói là Phao-lô đang nói về những Cơ-Đốc nhân hiện diện trước ngai đóan
xét của Chúa Giê-xu Chí-tôn. Tuy nhiên, đây không phải là một sự đóan xét tội
nhưng là đoán xét công việc làm. Sự đóan xét tội cho Cơ-Đốc nhân đã hòan thành
bởi Chúa Giê-xu Chí-tôn. Sự cứu rỗi là một món quà tặng không. Còn phần thưởng
thì phải tạo lập (earn). Đây là đóan xét sự hòan thành công việc của một người.
Cơ-Đốc nhân là "côngviệc do tay Chúa Giê-xu tạo nên...để làm việc
lành."
Tất cả tín hữu đặt nền tảng trên Chúa Giê-xu Chí-tôn, nhưng có người đặt
"vàng, bạc, và đá quí" vào thượng tầng kiến trúc của họ, và người khác
chẳng thêm gì hơn là "gỗ, cỏ khô, rơm rạ." Sự đoán xét nầy sẽ thử
nghiệm công việc của các tín hữu bằng lửa. Người xây cất không ngoan và xứng đáng
sẽ nhận được phần thưởng. Còn người ngu muội, mặc dù xây trên Chúa Giê-xu
Chí-tôn làm nền tảng giống như những người khác, "sẽ mất phần thưởng, còn
về phần mười đó, sẽ được cứu, song dường như qua lửa vậy" (I Cô.3: 15).
Như mỗi một người tha thứ riêng rẽ, thì họ cũng được ban thưởng riêng từng người
một. Kết quả của việc tin nhận cách cá nhân sự tha thứ của Đức Chúa Trời là sự
cứu rỗi đời đời, nhưng kết quả của sự phục vụ cá nhân là hưởng gia tài cá nhân được
chất chứa ở nơi không có mối mọt hay rỉ rét làm cho hư mất, và không có kẻ trộm
đào lẻn vào lấy mất.
Phao-lô nói thường xuyên về mão miện được ban thưởng trong ngày đóan xét nầy.
Ông phác họa một quang cảnh trong thế vận hội nơi có nhiều vận động viên tranh
tài chạy bộ, dù chỉ có một người giựt giải Nhưng, như Phao-lô đã nói, có
một sự khác biệt trong cuộc chạy đua nầy. Các tín hữu không chạy bá vơ, vì Đức
Chúa Trời sẽ ban thưởng không những cho kẻ thắng cuộc, mà còn cho tất cả những
người đã chạy theo sức mình.hơn nữa, phần thưởng không phải là một tràng hoa
phai tàn, nhưng là một mão triều không hay hư nát (I Cô.9: 23-27).
SỰ ĐÓAN
XÉT CHO NGƯỜI VÔ TÍN
Hai sự đóan xét đầu tiên liên quan đến sự tha tội và phần thưởng của người
công chính, hai sự đóan xét sau liên quan đến kẻ gian ác. Chắc chắn kẻ gian ác
sẽ chết và sẽ sống lại, và hiện diện trước tòa đóan xét trắng lớn. Trong khi sự
đóan xét đầu tiên của tín hữu diễn ra ngay lúc họ còn sống, thì để ý chúng ta cũng
thấy rằng sự đóan xét đầu tiên dành cho người vô tín cũng diễn ra trước khi họ
qua đời.
Sự Đóan Xét Các Quốc Gia ( Judgement of the living Nations) (Mat.25: 31-46).
Sự đóan xét nầy thường được nói đến như là sự đóan xét tổng quát, và cho rằng sẽ
diễn ra ở trên trời trong ngày tận thế! Nhưng sách Ma-thi-ơ 25 không hề nói vậy.
Nên chú ý rằng trong chương 24 Chúa Giê-xu Chí-tôn đang nói về sự tái lâm của
Ngài, và chương 25 đánh dấu những biến cố liên quan đến sự tái lâm của
Ngài. Trước hết là tiệc cưới Chiên Con (cc.1-13); thứ hai, sự đóan xét của các
Thánh đồ (cc.14-30); thứ ba, sự đóan xét của các quốc gia (cc.31-46).
Sự đóan xét của các quốc gia sẽ diễn ra sau sự xét thưởng và ngay khi Chúa
Giê-xu Chí-tôn trở lại với các thánh đồ (Giu.14,15). Trong khoảng thời gian giữa
sự đóan xét để ban thưởng và sự tái lâm của Chúa Giê-xu Chí-tôn để đóan xét thế
gian, sẽ xảy ra cơn đại nạ, như đã trình bày trong sách Khải Huyền 6: 19
Tiên tri Giô-ên viết rằng Chúa Giê-xu Chí-tôn sẽ lập ngai đoán xét của Ngài
trong trũng Giê-hô-sa-phát, có nghĩa là tại xứ Pa-lét-tin. Như vậy sự đóan xét
nầy sẽ diễn ra trên thế gian (Giô-ên 3: 11, 12; Sô.3: 8). Điều nầy có lý và rất
có ý nghĩa bởi vì xứ Pa-lét-tin là trung tâm lịch sử, địa lý và tôn giáo của thế
giới, và người Do Thái lâu nay đã trở về nơi nầy thật đông.
Đây không phải là một sự đóan xét tổng quát của thiện và ác, vì có ba hạng người
được đề cập đến - hạng người thứ ba là những anh em(Mat.25: 32,40) "Anh em
của ta" không thể là Hội Thánh, vì Hội Thánh đã được rước đi và ban thưởng
rồi. Họ cũng không phải là trong những quốc gia bị qui tụ lại cho việc đóan
xét. Trong những lời tiên tri của Ba-la-am có nói rằng nước Do Thái
"sẽ không được nhận biết giữa các nước" (Dân.23: 9). Vậy thì rõ ràng
"anh em của ta" là những người Do Thái đã tin Chúa và nhận mệnh lệnh đi
giảng Tin Lành của nước trời sau khi Hội Thánh được cất lên khỏi mặt đất.
Chủ đề của sự đóan xét trong sách Ma-thi-ơ 25 là mối quan hệ của các nước
đối với những người Do Thái tin Chúa trong thời kỳ đại nạn. Các nước gian ác
còn lại trên đất sẽ bách hại và chống lại người Do Thái và Chúa Giê-xu Chí-tôn
khi Ngài trở lại với các thiên sứ và các thánh đồ sẽ gọi các nước nầy đến đóan
xét tùy sự đối đãi của họ đối với người Do Thái. Những người đã ngược đãi người
Do Thái thậm tệ sẽ bị tách riêng ra và bị kết án trong hình phạt đời đời. Còn
những người hậu đãi người Do Thái-những người nầy phần lớn là những Mục sư và
Giáo sĩ (Eâs. 66: 18,19)-sẽ tham gia trong một ngàn năm trị vì của sự công
chính. Họ sẽ lập thành vươngquốc của Chúa Giê-xu Chí-tôn trên đất, và các thánh
đồ, người Do Thái và người ngoại bang, sẽ đồng trị với Ngài.
Sự Đóan Xét Tại Ngai Trắng Lớn (Khải.20: 11-15)
Hãy chú ý những sự khác biệt giữa sự đóan xét của các nước, như vừa mô tả, và sự
đóan xét cuối cùng diễn ra vào lúc khởi đầu của một ngàn năm trị vì của Chúa
Giê-xu Chí-tôn trên đất, và sự đóan xét cuối cùng diễn ra vào đoạn kết của một
ngàn năm ấy. Sự đóan xét trước dành cho những người sống, sự đóan xét sau dành
cho những người chết. Không có sự sống lại trong sự đóan xét trước; nhưng có sự
sống lại trong sự đóan xét sau cùng. Sự đóan xét trước diễn ra trên thế gian; sự
đóan xét sau cùng diễn ra trên thiên đàng. Sự đóan xét trước xử những hành vi đối
với các anh em, sự đóan xét sau cùng xử những công việc đã được ghi nhận trong
những sách.
Sau khi Chúa Giê-xu Chí-tôn đã cai trị một ngàn năm khải hòan trên thế gian và đánh
bại mọi kẻ thù, quyền tể trị của Ngài sẽ không đạt đến tột đỉnh cho đến khi tất
cả những người trước đây đã từ chối Ngài bị đem ra xét xử. Vì mục đích nầy nên
tất cả những kẻ cả gian ác của mọi thời đại sẽ bị cho sống lại từ cõi chết và bị
dẫn đến trước mặt Ngài. Đã có một lần trong đời sống họ trên đất, mỗi một người
đã đối diện với cùng một câu hỏi làm bối rối Phi-lát, "Vậy Giê-xu gọi là Đáng
Chí-tôn, thì ta sẽ xử thế nào? (Mat.27: 22). Nhưng những người vô tín nầy sẽ
không nhìn nhận tội lỗi họ. Họ không nhận sự khoan hồng trong Chúa Giê-xu
Chí-tôn. Lúc bấy giờ họ sẽ bị xét xử bởi Chúa. Những quyển sách sẽ được mở ra,
và họ sẽ khai ra mọi lời hư không đã nói (Mat.12: 36).
Chúa phán: " Thật như ta hằng sống mọi đầu gối sẽ quỳ trước mặt ta và mọi
lưỡi sẽ tôn ngợi Đức Chúa Trời" (Rô.14: 11). Có một Đức Chúa Trời hằng sống,
thì nhất định sẽ có sự đóan xét xảy ra. Không có điều nào quả quyết mạnh mẽ
trong Kinh Thánh hơn điều nầy. Ngài đã sáng tạo thế giới và Ngài sẽ đóan xét
nó.
Vào ngày ấy, "chẳng có việc gì giấu mà chẳng phải bày ra, cũng chẳng có việc
gì kín nhiệm mà sau sẽ chẳng biết" (mat.10: 26). Người ta có thể đã lừa dối
gia đình và bạn bè họ, nhưng họ không thể nào lừa dối Đức Chúa Trời. Họ đã có
thể nói dối với những ngưòi cọng tác trong côngviệc làm ăn, nhưng không thể nói
dối Đức Chúa Trời.
Vào ngày ấy "mỗi người trong chúng ta sẽ khai trình việc mình với Đức Chúa
Trời" (Rô 14: 12). Nhiều người quên đi những lời cảnh báo nầy. Họ cố đổ lỗi
cho người khác đã gây ra tội lỗi của họ. Họ đã khinh thường một Chúa Cứu Thế bị
đóng đinh. Họ đã chế nhạo luật pháp của Đức Chúa Trời. Nhưng họ sẽ không mở miệng
chế nhạo được khi những quyển sách được mở ra và phô bày tội lỗi họ.
"Không còn tế lễ chuộc tội nữa, nhưng chỉ có sự đợi chờ kinh khiếp về sự
phán xét, và lửa hừng sẽ đốt cháy kẻ bội nghịch mà thôi" (Hê.10: 26,27).
TỔNG KẾT
Lời Chúa cung cấp bằng chứng bảo đảm có sự sống lại. Để phủ nhận sự sống laiï,
con người phải biết trước hết làm sao phủ nhận được mọi bằng chứng về sự sống lại
và phải chứng minh rằng những bằng chứng nầy là sai lầm.
Các tín hữu được gọi là "con cái của sự sống lại." Họ được đề cập
là những kẻ dự phần trong sự sống lại của người công bình. Phao-lô trông mong
và làm việc hướng về sự sống lại vì ông biết rằng có một sự sống lại riêng biệt
cho các tín hữu. Khi Chúa tái lâm những người còn sống sẽ không hơn gì những người
đã qua đời; tất cả sẽ liên hiệp với nhau. Đấng Chí-tôn sống lại trước hết, các
tín hữu sẽ sống lại vào một thời điểm sau nầy, Chúa Giê-xu Chí-tôn sẽ cai trị,
sự chết sẽ bị đánh bại, vf Chúa Giê-xu Chí-tôn sẽ cai trị hòan toàn.
Những người vô tín sẽ liên quan đến một sự sống lại thứ hai. Vào hồi kết cuộc
cuae sự trị vì của Chúa Giê-xu Chí-tôn trên đất, họ sẽ sống lại để chịu đóan
xét và hình phạt.
Sự đóan xét của những tín hữu đã thực hiện xong tại thập tự giá, và vì các tín
hữu đã biết tội của họ và tiếp nhận sự tha thứ trong Chúa Giê-xu Chí-tôn cho
nên không cần sự đóan xét. Chỉ việc làm của họ được xét đến và được ban thưởng.
Vào lúc khởi đầu của sự trị vì của Chúa Giê-xu Chí-tôn trên đất, Ngài sẽ đóan
xét các nước tùy theo sự đối xử của họ đối với dân của Ngài, là người Do Thái.
Sự phán xét cuối cùng vào phần kết thúc của sự cai trị thế gian của Ngài sẽ xét
xử tất cả người chết dựa theo việc làm của họ. Mọi sự sẽ được bày ra và mỗi người
sẽ nhận sự đóan phạt của Đức Chúa Trời.
BÀI LÀM
1.
Bằng chứng hùng hồn nào khiến cho sự sống lại là một sự kiện được đảm bảo chắc
chắn?
2.
Lòng trông mong của Phao-lô về sự sống lại có ý nghĩa gì?
3.
Hãy viết một thứ tự (Schedule) của các biến cố liên quan đến sự sống lại bắt đầu
từ sự sống lại của Chúa Giê-xu Chí-tôn.
4.
Khi nào sự sống lại của những người vô tín xảy ra?
5.
Sự đóan xét của thập tự giá có nghĩa là gì?
6.
Hãy giải thích sự đóan xét của sự ban thưởng (judgement of rewards)
7.
Khi nào và tại đâu sự đóan xét dành cho các nước sẽ diễn ra?
8.
Sự khác nhau giữa sự đóan xét dành cho các nước và sự đóan xét của ngai trắng lớn
là gì?
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
Ryrie, Charles C. Dispensationalism Today. Chicago: Moody Press. 1973.
_____________. A Survey of Bible Doctrine. Chicago: Moody Press. 1972.
Chapter 2.
Walvoord, John F. The Rapture Question. Grand Rapids: Zondervan Pub.
House, 1970.
Top
Top of
Form
Trang Đầu
| Mục Lục | << CHƯƠNG 10 | CHƯƠNG 12 >>
CHƯƠNG
11
PHẦN THƯỞNG
CỦA NGƯỜI CÔNG CHÍNH
(Rewards
of the Righteous)
Trong Kinh Thánh người tin Chúa học biết rằng
có nhiều phần thưởng cho những tín hữu trung tín. Trái ngược với những
tôn giáo khác, chỉ có Kinh Thánh mới trình bày về đời sống sau khi chết với phẩm
chất cao cả và thánh khiết, điều nầy cho biết đây là một sự mặc khải thiên thượng.
Rõ ràng chương trình của Đức Chúa Trời không phải là mặc khải tất cả những gì
Ngài đã chuẩn bị cho con cái Ngài, nhưng Ngài cho chúng ta vừa đủ ánh sáng để đáp
ứng nhu cầu hy vọng, an ủi, và khích lệ. Có ba nhân chứng được phép nhìn thoáng
qua những sự vinh hiển sắp đến.
Chúa Giê-xu biết rõ những điều thấy được
và những điều không thấy được. Ngài có từ ban đầu tất cả mọi dữ kiện. "Ban
đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời. Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi làm nên
mà không bởi Ngài" (Giăng 1: 2,3)
Phao-lô được đưa lên từng trời cao nhất và
dù Đức Thánh Linh không cho phép ông tiết lộ tất cả những gì ông thấy và nghe,
nhưng với kinh nghiệm như thế ông làm chứng rằng ra đi để ở với Chúa thì tốt hơn
ở tại trên đất nầy (Phi.1: 23).
Sứ đồ Giăng được Chúa chỉ định tiết lộ những
điều nầy. Trên đảo Bát-mô, ông nhận một khải tượng về sự vinh quang trên thiên đàng,
mà bởi sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh ông đã ghi lại trong sách Khải huyền (Khải
1: 19: 11,19).
SẼ ĐƯỢC
ĐI Ở VỚI CHÚA
Tại phút lâm chung, các tín hữu tức khắc ra đi ở với Chúa.thật là một phần thưởng
quý giá ! Họ sẽ không đi vào một bóng tối vô định hoặc vào một trình trạng vô
thức, nhưng họ sẽ đi "ở với Chúa" (II Cô.5: 8).
Thân thể đời đời và vinh hiển được ban cho khi Chúa Giê-xu Chí-tôn tái lâm. Và
tất cả cac tín hữu đã "ngủ" trong Chúa sẽ được nhập với những người còn
sống lại, và cùng với nhau họ sẽ gặp Chúa trên không trung và như vậy sẽ ở với
Ngài đời đời (I Tê.4: 15-17). Nếu sự phân cách đời đời khỏi Đức Chúa Trời là sự
đau khổ tột cùng của địa ngục, thì chắc chắn sự hiệp nhất đời đời với Ngài là
niềm vui lớn nhất trên thiên đàng.
VÀO MỘT
NHÀ MỚI
Nhà dưới đất chỉ là tạm bợ; nhưng tất cả các tín hữu sẽ ở đời đời trong nhà của
Đức Chúa Trời. Nhà mới đã được đặc biệt sửa soạn cho các tín hữu bởi Đức Chúa
Trời (giăng 14: 1-3). Những người biết Chúa sẽ không phải là người lạ hoặc
khách trú trên thiên đàng.
Phao-lô nói trong bức thư thứ nhất gởi đến người Cô-rinh-tô (I Cô.2: 9) rằng chỉ
có Thánh Linh của Chúa mới có thể biết những điều Đức Chúa Trời sửa sạon cho
con dân Ngài.
Thành Thánh (Khải.21: 1-17)
Vinh quang của nền văn minh nhân loại là những thành phố, nhưng tất cả sẽ bị
tiêu hủy (II Phi.3: 10). Thành phố không những là sản phẩm nền văn minh nhân loại
mà còn là nơi ngự trị của tội lỗi con người. Khi Aùp-ra-ham rời bỏ sự văn minh
suy đồi của U-rơ để cư trú trong lều với Y-sác và Gia-cốp,"người chờ đợi một
thành có nền vững chắc, mà Đức Chúa Trời đã xây cất và sáng lập" (Hê.11:
10). Đây là thành Giê-ru-sa-lem do sự chinh phục của Đa-vít, nhưng (theo luật đề
cập đôi, double reference) cũng là thành Giê-ru-sa-lem trên trời, sẽ được lộ ra
trong thời kỳ cuối cùng.
Bởi sự lật đổ Sa-tan lần cuối cùng và sự xét đóan của ngai trắng lớn, thế gian
sẽ được thanh lọc hết mọi kẻ ác. Một thiên đàng mới và trái dất mới sẽ
thay thế cái củ; chuẩn bị cho sự xuất hiện của Thành Thánh (Holy City). Hãy chú
ý đến những đặc điểm của thành nầy:
* Vĩ đại
Chiều cao sẽ bằng với chiều dài và chiều rộng,trong đó nó sẽ được xây giống như
một kim tự tháp (Khải.21: 16,17). Sự vĩ đại của thành Ni-ni-ve, Ba-bi-lôn,
La-mã, Pa-ri, Luân-đôn sẽ bị lu mờ bởi thành của Đức Chúa Trời. Thành nầy sẽ là
trung tâm của mọi loài tạo vật.
Mười hai cổng, mỗi cổng mang tên của một chi phái Do Thái, được các thiên sứ
canh giữ chỉ có các thánh đồ mới có thể vào. Mười hai nền của bức tường thành
mang tên mười hai vị sứ đồ đã đặt nền tảng cho nước của chiên con (Khải.21:
12-21).
* Tinh sạch
Thành nầy được tạo bởi vàng ròng và tô điểm với mọi loại đá qúi. (Khải.21:
18-21). Cả khung cảnh của thành đều là thanh khiết, vĩnh cữu, và hào quang chói
lòa. Mặt trời và mặt trăng không còn cần thiết nữa. Thành thánh sẽ chói lọi hơn
ánh mặt trời, hay là ánh sáng của các vì sao lớn nhất. Vinh quang của Đức Chúa
Trời soi sáng thành và "Chiên con là ngọn đèn thành" (Khải. 21: 11,23;
22: 5). Chúa Giê-xu Chí-tôn sẽ luôn luôn là Đấng bày tỏ Đức Chúa Cha ra cho mọi
người.
* Đền thờ
Vì thành nầy là một đền thờ nên không cần có một đền thờ đặc biệt khác. Tất cả
những ngăn trở giữa Đức Chúa Trời và loài người đều không còn nữa; đấng Quyền Năng
và Chiên Con ngự ở giữa như một đền thờ (Khải.21: 3,22). Em-ma-nu-ên, "Đức
Chúa Trời ở cùng chúng ta," trở thành thực tế trọn vẹn một cách cao cả mật
thiết nhất.
Đền thờ là nơi hội ngộ giữa Đức Chúa Trời và dân Ngài và là nơi quy vinh hiển
tôn kính cho Ngài. Nhưng bấy giờ thế gian đã được tẩy thanh khỏi tội lỗi, Đức
Chúa Trời sẽ trở lại thế gian và ngự giữa dân Ngài. sẽ có một ngai thay vì một đền
thờ. Đây là một ngai độc vị; ngai nầy không chia xẻ với ai và là vĩnh viễn.
Thay vì đem lễ vật đến đền thờ, các vua chúa thế gian sẽ đem vinh hiển và tôn
kính dâng lên tại ngai Đức Chúa Trời.
•
Dân Cư
Chỉ những người có tên được viết trong
sách sự sống của Chiên con mới được sống trong Thành Thánh mà thôi (Khải.21:
7,27). Người "công bình" trong thời Cựu Ước trông mong một thành như
thế. Chắc chắn tất cả các thánh đồ của Chúa sẽ sống tại đó (Hê.11: 10,13-16).
Nơi "Phước lạc của Đức Chúa Trời
" (The Paradise of God) (Khải.22: 1-5).
Sứ đồ Giăng mô tả trong sách Khải Huyền nơi
phước lạc Đức Chúa Trời trong đó có Thành Thánh tọa lạc. Trong nơi nầy thấy có
sông nước vĩnh sinh chảy ra từ ngôi trời, và có cây sự sống. Sự nguyền rủa đã được
cất đi và con người có thể tự do sử dụng cả nước vĩnh sanh lẫn trái cây sự sống.
Tuy thế họ vẫn phải tùy thuộc vào Đức Chúa Trời.
Trên hai bên bờ sông nầy sẽ trồng cây sự sống,
lá của nó sẽ được dùng để giữ gìn sức khỏe của các dân. "Kẻ nào thắng, ta
sẽ cho ăn trái cây sự sống ở trong nơi phước lạc của Đức Chúa Trời" (Khải.2:
7).
NHẬN PHẦN
THƯỞNG
Trong khi đúng là mỗi tín hữu sẽ được ở trong Thành Thánh, thì không phải tất cả
sẽ hưởng cùng một vinh dự, và đội cùng một mão triều như nhau, hay là nhận cùng
một sự khen thưởng, "được lắm". Chỉ những ai trung tín trong đời sống
và sự phục vụ sẽ nhận phần thưởng đặc biệt.
Người tin Chúa đang thêm vào trong gia tài của họ những công việc mà sẽ tồn tại
sau khi thử lửa và sẽ được ban thưởng, hoặc là thêm vào những rơm rác sẽ bị
tiêu hủy, họ được cứu dường như qua lửa với hai bàn tay trắng. Những hành động
trong đời sống hằng ngày là những vật liệu xây trên nền tẳng của Chúa Giê-xu
Chí-tôn - xây bằng vàng, bạc, bửu thạch, hoặc là bằng gỗ, cỏ khô, và rơm rạ (I
Cô.3: 12-15). Nhiều khúc Kinh Thánh đề cập đến sự ban thưởng trong tương lai:
"Quả hẳn có phần thưởng cho kẻ công chính" (Thi.58: 11).
"Con gặt đã lãnh tiền công mình và thâu chứa hoa lợi cho sự sống đời đời"
(Giăng 4: 36).
"Mỗi người đều sẽ nhận lãnh của Chúa tùy việc lành mình đã làm" (Êph.
6: 8).
"Biết rằng anh em sẽ bởi Chúa mà được cơ nghiệp làm phần thưởng: vì
anh em hầu việc Chúa Chí-tôn " (Cô.3: 24).
Căn bản của phần thưởng
Một người không thể nhờ việc làm để đạt được sự cứu rỗi. "Vả, ấy là nhờ ân
điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là
sự ban cho của Đức Chúa Trời. Aáy chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai
khoe mình" (Êph. 2: 8,9); nhưng sau sự cứu rỗi, Đức Chúa Trời
hứa ban thưởng cho mỗi công việc lành. Có một sự khác biệt giữa những câu Kinh
Thánh đề cập về sự cứu rỗi, "món quà miễn phí" và về phần thưởng do
công việc mà đạt được. Sứ đồ Phao-lô không nghi ngờ gì về sự cứu rỗi chính mình
khi ông sợ rằng ông có thể bị "bỏ" (hoặc là không được chấp nhận), nhưng
ông cảm thấy rằng, dù giảng cho người khác, ông có thể giảng bằng năng lực của
xác thịt hơn là giảng cho sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, và vì thế sẽ bị mất
phần thưởng (I Cô.9: 26,27)
Người tin Chúa sẽ được thưởng tùy theo lối sống của họ. Hãy chú ý những lời của
Chúa, "ta biết công việc ngươi, lòng yêu thương ngươi, đức tin ngươi, sự hầu
việc trung tín ngươi,lòng nhịn nhục ngươi, và công việc sau rốt ngươi còn nhiều
hơn công việc ban đầu nữa" (Khải.2: 19). Người tin Chúa sẽ ban thưởng vì
cách sống cũng như công việc họ làm. Bởi sự bước đi "cách xứng đáng với
Chúa, đặng đẹp lòng Ngài mọi đường, nẩy ra đủ các việc lành" (Cô.1: 10),
và thêm sự sống đạo vào trong đức tin nơi Chúa Giê-xu, họ sẽ được thênh
thang vào trong nước đời đời của Đức Chúa Giê-xu Chí-tôn là Chúa và là Đấng Cứu
Thế (I Phi.1: 5-11).
Người tin Chúa cũng sẽ nhận phần thưởng tùy theo công việc của họ (I Cô.3:
8,13-15; Khải.14: 13). "Nầy, ta đến mau chóng đem phần thưởng theo với ta,
để trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm" (Khải.22: 12) là lời hứa của
Con Đức Chúa Trời. Khi các tín hữu đứng trước ngai đóan xét của Chúa Chí-tôn để
được xét thưởng, họ sẽ được ban thưởng không theo thiện chí, tham vọng thánh,
hoặc theo lời hứa lớn lao của họ, nhưng họ được ban thưởng tương xứng với lòng
trung tín làm gia tăng Ta-lâng họ đã nhận được (Mat.25: 21). "Hễ ai gieo
ít thì gặt ít, ai gieo nhiều thì gặt nhiều" (II Cô.9: 6). Người ta không
thể xét định điều gì là có giá trị thật trước mắt Đức Chúa Trời, vì con mắt
loài người bị mù lòa bởi những sự phục vụ đẹp mắt bề ngoài và nhận định có thể
sai lầm.
Có thể làm nhiều điều trong danh Chúa Chí-tôn hoặc trong danh của Hội Thánh nhưng
đó không phải làm cho Chúa Chí-tôn gì cả. Cũng có thể làm những công việc khiêm
tốn và phục vụ âm thầm vì tình yêu thương đối với Chúa Chí-tôn mà thế gian
không bao giờ nìn thấy. Một bài giảng thật hay được giảng với sự khôn ngoan và
tài hùng biện của loài người làm hài lòng một hội chúng đông đảo, có thể không đứng
nổi trong ngày thử lửa của Đức Chúa Trời, trong khi một bài làm chứng đơn sơ,
giản dị về quyền năng cứu rỗi của Chúa Chí-tôn có thể chiếu sáng như kim cương.
Mão Triều Làm Phần Thưởng
* Mão Triều không hư nát (Incorruptible of Victor s Crown) (I Cô.9: 25-27)
Khi thi tài các bộ môn thể thao Hy-lạp kết thúc, những vận động viên điền kinh đoạt
giải tụ họp trước lễ đài của các giám khảo, các giám khảo ngồi trên một dãy ghế
cao, và trong những vận động viên đoạt giải sẽ được ban tặng mão triều bằng lá
nguyệt quế (crown of laurel leaves). Mặc dù đây là một mão triều có thể hư
nát và chóng phai tàn. Phao-lô có lẽ có ý nầy trong đầu khi ông nói về mão triều
chiến thắng không hư nát. Một người tranh tài trong các bộ môn thể thao sẽ từ
chối những khoái lạc của thân thể để thắng cuộc đua. Và như vậy Phao-lô nói với
chúng ta, mão triều không hư nát là cho những kẻ "gìn giữ thân thể họ"
có nghĩa là, cho những ai không chiều theo những ham muốn xác thịt. Những người
chiến thắng nầy không cho phép mình để những ham muốn ích kỉ làm mình trở
thành yếu đuối trong sự phục vụ, hoặc là để những khoái lạc trần gian chuyển hướng
mình khỏi công việc Chúa.
* Mão
Triều Sự Sống (Crown of Life) (Gia.1: 12; Khải. 2: 10; Mat.5: 12;Rô. 8: 17,18)
Mão triều nầy đôi lúc được gọi là mão
triều tuận đạo và được đề cập trong sách Gia-cơ và Khải Huyền. Tuy nhiên, ngoài
hai sách nầy còn có nhiều phân đoạn Kinh Thánh khác đề cập đến phần thưởng đặc
biệt đang chờ đợi những người chịu khổ nhiều vì Chúa Chí-tôn. Đức Chúa Trời
dành một mão triều sự sống cho những ai chịu được sự bách hại. Những người tuận
đạo của mọi thời đại, và đặc biệt trong cơn đại nạn, sẽ được nhận mão triều
nầy.
* Mão Triều
vinh hiển (Crown of Glory) ( I Phi.5: 2-4)
Đây là mão niện của các trưởng lão và Mục sư
được ban cho bởi đấng Chăn Chiên Trưởng khi Ngài hiện ra. Mão niệm nầy dành cho
sự trung tín phục vụ Chúa. Lời Chúa đã nói nhiều về những kẻ chăn chiên thật
và gia. Mục sư trung tín chỉ hướng về một phía duy nhất - là phía của thập
tự giá. Nhiều Mục sư ngày nay phục vụ những lời ca ngợi hư nát từ khán thính giả
của họ, hoặc sự giàu có của tín hữu họ, hoặc sự nhìn nhận của giới học thức hơn
là tìm khiếm mão triều vinh hiển của Đức Chúa Trời. có những người khác trung
tín giảng lời vô ngộ của Đức Chúa Trời và sứ điệp về sự đổ huyết của con Đức
Chúa Trời, đấng đã bị bách hại tàn nhẫn. Mão triều vinh hiển chỉ dành cho những
người chăn trung tín nầy.
* Mão Triều Vui Mừng (Crown of Rejoicing) (I
Tê.2: 19; Đ.12: 3; Phi.4: 1)
Không phải tất cả mọi người đều đọat được
mão triều vinh hiển, nhưng mỗi người tin Chúa đều có thể có được mão triều vui
mừng, vì đây là mão triều của những kẻ chiếm hữu linh hồn cho Chúa. Không phải
mọi tín hữu đều được kêu gọi để giảng dạy, nhưng mỗi người đều được kêu gọi để
gieo hạt giống quý báu của Lời Đức Chúa Trời và thường xuyên tìm cách dắt dẫn
người khác đến với Chúa Giê-xu Chí-tôn. Sự vui mừng của chúng ta trên thiên đàng
sẽ lớn lắm khi thấy những người trước đây được dẫn đến sự cứu rỗi qua sự
làm chứng và kiên nhẫn dạy dỗ lời Đức Chúa Trời của chúng ta.
* Mão Triều Công Chính (Crown of
Righteousness) (II Tim.4: 7,8)
Đây là mão triều dành cho những người yêu mến
sự hiện ra của Chúa Chí-tôn. Tại sao có một mão triều cho những người yêu mến
và trông mong sự tái lâm của Chúa? Giăng trả lời câu hỏi nầy trong
sách I Giăng 3: 2,3: "Hỡi kẻ rất yêu dấu, chính lúc bây giờ chúng ta
là con cái Đức Chúa Trời, còn về sự chúng ta sẽ ra thể nào, thì điều đó chưa được
bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Ngài hiện đến, chúng ta sẽ giống như Ngài, vì sẽ
thấy Ngài nhưvốn có thật vậy. Ai có sự trông cậy đó trong lòng, thì tự mình làm
nên thanh sạch, cũng như Ngài là thanh sạch."
TỔNG KẾT
Có nhiều lời hứa trong Kinh Thánh liên quan đến những phần thưởng trong tương
lai cho người công chính. Chúa Giê-xu Chí-tôn, Phao-lô và Giăng có thể nói về những
sự vinh hiển nầy - Chúa Giê-xu Chí-tôn đã biết rõ, Phao-lô và Giăng cũng được
cho thấy thoáng qua.
Lúc chết, các tín hữu về với Chúa và sẽ ở với Ngài đời đời. Ngôi nhà mới của Đức
Chúa Trời có một vẻ đẹp không thể nào diễn tả nổi được đặc biệt sửa sạon cho
các tín hữu. Nó là một Thành Thánh, không giống như những thành của thế gian.
Chỉ những người có tên trong sách sự sống mới được làm dân cư trong đó. Đền thờ
sẽ không cần nữa vì sự hiện diện của Đức Chúa Trời đầy dẫy trong thành. Aùnh
sáng sẽ chiếu rọi từ Đức Chúa Trời, và Chiên con sẽ sáng chói hơn mặt trời hay
bất cứ ngôi sao nào. Bức thành và các cổng được làm bằng châu báu. Nền tảng của
thành mang tên mười hai sứ đồ, mỗi cánh cổng mang tên một chi phái của Do Thái.
Đồ sộ về kích thước; chiều dài, chiều ngang, chiều cao bằng nhau. Sự thanh khiết
lan tỏa trong thành.thành nầy tọa lạc trong nơi Phước lạc của Đức Chúa Trời, nơi
mà nước nầy hằng sống tuôn chảy, và cây sự sống ban lá gìn giữ sức khỏe của các
dân.
Những tín hữu đã tiếp nhận sự cứu rỗi, tất cả sẽ sống trong thành Thánh; nhưng
phần thưởng cá nhân sẽ được ban cho tùy theo lối sống và công việc của mỗi Cơ-Đốc
Nhân. Các hành động trong mỗi ngày sẽ bị đốt và thanh lọc tại sự xét thưởng nầy.
Có thứ sẽ bị tiêu hủy, có thứ sẽ còn lại.
Mão triều là phần thưởng. Đây là những mão triều không hư nát và vĩnh viễn dành
cho những ai không cho phép những sự ham muốn ích kỷ ngăn trở sự phục vụ Đức
Chúa Trời. mão triều sự sống là một phần thưởng dặc biệt cho những người bị
bách hại. Đối với các vị mục sư và các nhà lãnh đạo Hội Thánh thì sẽ được ban
cho mão triều vinh hiển. Những người chiến thắng linh hồn sẽ được ban tặng một
mão triều vui mừng. Mão triều công chính đặc biệt cho những ai yêu mến và trông
mong sự tái lâm của Chúa.
BÀI LÀM
1.
Điều gì xảy ra cho các tín hữu vào lúc lâm chung?
2.
Hãy mô tả ngôi nhà mới của các tín hữu?
3.
Hãy liệt kê những đặc tính của Thành Thánh?
4.
Tại sao không có đền thờ trong Thành Thánh?
5.
Các tín hữu có những phần thưởng chắc chắn nào ở trên thiên đàng?
6.
Những phần thưởng nầy được ban cho dựa theo những căn bản nào?
7.
Mão triều chiến thắng không hư nát có nghĩa gì?
8.
Hãy so sánh mão triều vinh hiển và mão triều sự sống.
9.
Tại sao mão triều vinh hiển lại còn gọi là mão triều của các Mục sư?
10.
Mão triều của những kẻ chiếm hữu linh hồn cho Chúa là gì?
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
Smith, Wilbur M. The Biblical Doctrine of Heaven. Chicago: Moody
Press,1980.
Top
Top of
Form
Trang Đầu
| Mục Lục | << CHƯƠNG 11
CHƯƠNG
12
HÌNH PHẠT
KẺ ÁC
(Punishment
of the Wicked)
Một số tin rằng không có địa ngục. Quan niệm của họ về một Đức Chúa Trời
yêu thương sẽ mâu thuẫn với một nơi như thế. Họ nói rằng hình ảnh về địa ngục
quá kinh khủng, không thể có thật được. Trong vườn Ê-đen, Sa-tan đưa ra một
thay đổi nhỏ trong lời Chúa bằng cách thêm chữ "không" vào
trong mệnh lệnh của Đức Chúa Trời làm mẹn lệnh nầy trở thành: "Ngươi
chắc sẽ không chết" (Sáng.3: 4; 2: 7). Sự thêm vào chữ nhỏ của Sa-tan được
chấp nhận và thế gian đã bị hư vong.
Một số khác không tin địa ngục là đời đời. Họ giải thích rằng một Đức Chúa Trời
đầy tình thương sẽ không hình phạt loài người đến đời đời. Quan niệm nầy rất lợi
cho Sa-tan.
Rồi cũng có một số người tin có địa ngục, nhưng không đồng ý là sẽ có người đi
vào nơi đó. Đối với họ, tất cả mọi người đều tốt khi họ qua đời. Tất cả mọi người
đều thành thật, tốt và hy vọng tất cả vào thiên đàng. Đây là một ảo tưởng
chung. Thật dễ hiểu cảm xúc của một bé gái hỏi mẹ rằng những người ác bị chôn tại
đâu, vì trong nghĩa trang em không thấy một bia mộ nào ghi người ác cả, chỉ
toàn là người tốt.
Đây không phải là một giáo lý thú vị. Môi-se không hứng thú gì khi phải đứng trước
Pha-ra-ôn và tuyên bố sự sụp đổ của Ai Cập; Ê-li cũng không hứng thú gì khi phải
đứng trước vua A-háp và tuyên bố hình phạt trên dân Do Thái; Giê-rê-mi cũng
không hứng thú gì khi phải nói tiên tri về sự sụp đổ của thành Giê-ru-sa-lem; cũng
như Ê-tiên, Phi-e-rơ, Phao-lô khi phải giảng cho những kẻ bắt bớ họ.
Không vị thầy nào đầy lòng yêu thương như Chúa Cứu Thế của chúng ta, dầu
vậy, không có ai quả quyết về hình phạt của kẻ ác cho bằng Ngài. Địa ngục và sự
tàn diệt luôn ở trước mặt Ngài. đối với Ngài, thì hình phạt của kẻ ác là quá rõ
ràng và thiết yếu. Đối với những người nhờ cậy Ngài làm Chúa Cứu Thế để giải
thoát họ khỏi địa ngục thì những gì Chúa để lại dương thế là chân lý và đầy ý
nghĩa.
Thật kinh khiếp khi nghĩ đến sự đau đớn khốn khổ vĩnh viễn, nhưng điều nầy phải
là sự thật, nếu không thì chắc Chúa đã chẳng nói đến. Cùng một môi miệng vàng
ngọc đã tuyên giảng các phước lành và nói nhiều chỗ trên thiên đàng, cũng đã đề
cập đến "hồ lửa đời đời" và nơi "có khóc lóc và nghiến răng."
Không còn nghi ngờ gì về sự có thật của địa ngục cả. Chúa Giê-xu Chí-tôn đã xác
định sự thật về hình phạt trong tương lai dành cho kẻ ác.
NHỮNG KẺ
LÃNH CHỊU HÌNH PHẠT
Tất cả những người tên không được viết trong sách sự sống sẽ bị hình phạt (Khải.20:
15). Những người nầy sẽ sống lại trong kỳ sống lại thứ hai và chịu xét tội tùy
theo tội lỗi họ. Trong đám người đông đảo nầy sẽ có những người mà Kinh
Thánh gọi là: con cái Sa-tan, bọn giả hình, những người vô tín.
Chúa Chí-tôn (Christ) đặc biệt chỉ ra rằng Sa-tan có con cái trong
thế gian. Đặc điểm của chúng là không yêu thích sự công chính, trái lại chúng
là kẻ thù của sự công chính. Và vì sự công chính của Đấng Chí-tôn không ở
trong lòng chúng, nên sự ganh ghét, ác độc, giết người, và gỉa dối cai trị cuộc
đời của chúng (Mat.13: 38-42; Giăng 8: 44).
Không ai nói nhiều về sự giả hình bằng Chúa Chí-tôn. Ngài thường xuyên phơi bày
sự giả dối của chúng. Sa-tan là tên đại lừa dối (khải.12: 9), và những kẻ, giống
như Sa-tan, giả vờ là điều nầy nhưng thật ra là điều khác, đương nhiên cũng phải
bị hình phạt với Sa-tan (mat.23: 13-15; 24: 51). Người ta không cần phải là sát
nhân hay là kẻ giả hình mới bị vào địa ngục. Mỗi một người phạm tội thì sẽ ở dưới
sự đoán phạt. Chỉ có ai có tên trong sách sự sống, vì họ tin nơi sự chuộc tội của
Chúa Giê-xu Chí-tôn, sẽ được cứu rỗi. Tất cả những kẻ vô tín đều bị hình phạt
(Lu.12: 46; Giăng 3: 18; 8: 24).
MỤC ĐÍCH
CỦA HÌNH PHẠT
Kinh Thánh nói kẻ ác "chết trong trong tội lỗi của chúng" (Giăng 8:
21). Chúng đeo theo tội lỗi cho đến giờ phút cuối. Chữ "Cơn thịnh nộ"
chỉ về ý đã định của Đức Chúa Trời đối với bọn ngoan cố làm ác (Giăng 3: 36);
"giận dữ" là bộc phát của cơn thạnh nộ ấy trong ngày đóan xét.
Nhưng Đức Chúa Trời cũng "nín chịu mọi sự" và dẫn dắt tội nhân đến sự
ăn năn (Rô.2: 4-9). Ngài không muốn cho một người nào chết mất, song muốn cho mọi
người đều ăn năn" (II Phi.3: 9). Ngài không vui sướng gì trong việc hình
phạt kẻ ác (Eâx.18: 23,32;33: 11). Ngài không những đã cho con người cơ hội
trong lúc ban đầu để sống vĩnh viễn, mà cũng cung cấp sự chuộc tội cho con người
sau khi họ sa ngã. Là Đấng cai trị công chính, Ngài có thể làm gì hơn được nữa?
Một Đức Chúa Trời công chính phải trừng phạt tội lỗi.
CHỖ
HÌNH PHẠT
Kẻ hoài nghi hỏi,"Địa ngục ở đâu? " câu trả lời là,"Bất cứ nơi
nào ngoài thiên đàng". Thật đúng khi cho rằng ở ngoài thiên đàng là ở
trong địa ngục, và rằng sự đau khổ đời đời có thể do nhận biết chân lý quá trễ;
nhưng không phải "bất cứ chỗ nào cũng
là địa ngục.
Địa ngục (Hell, Sheol, Hades) (Gióp 2: 2; I Phi.5: 8);Khải.20: 2,3,10)
Hiện giờ Sa-tan không ở trong địa ngục. Nó là Chúa của thế gian nầy, và nó cũng
như các thiên sứ của nó đang rất bận rộn trên thế gian. Chữ "địa ngục"
trong tiếng Hy-Lạp là "Hades" và trong tiếng Do Thái là
"Sheol" có nghĩa là nơi của những linh hồn đã lìa đời.
Hồ lữa (Lake of Fire) (Gehenna) (Mat. 10: 28; Khải.19: 20; 20: 14)
Bằng những lời thật rõ ràng và giản dị Chúa tuyên bố rằng trong đời tương lai
người ta sẽ có thân thể, và thân thể của những người hư vong sẽ còn lại trong một
nơi hành hạ thể chất đúng theo nghĩa đen. Chữ "Gehenna" mà Chúa dùng,
tiêu biểu cho cùng một nơi và cùng một hình phạt là "hồ lửa" đề cập
trong sách Khải huyền. "Gehenna" nghĩa là hình phạt sau khi chết.
Gehenna là tên của một thung lũng gần thành Giê-ru-sa-lem nơi mà rác rưới và cặn
bã của thành phố bị đốt liên tục. Chúa Giê-xu dùng nó tiêu biểu điều mà Kinh
Thánh gọi là "đám lửađời đời" (Eâs.33: 14), "ngọn lửa đời đời"
(Mat.25: 41), ngọn lửa không thể dập tắt được (Mác 9: 43; Eâs. 66: 24) và hồ lửa.
THỜI GIAN
HÌNH PHẠT
Các chữ "vĩnh viễn" và "đời đời" được dùng lặp lại để cho
biết rằng hình phạt kéo dài vô tận. Kinh Thánh dùng những chữ trên để nói đến
phần thưởng của người công chính và cũng dùng chúng để chỉ rõ khoảng thời gian
hình phạt của kẻ ác (Đa.12: 2; Mat.25: 46; Giu 13; Khải.14: 11; 19: 3;
20: 10). Thời gian hình phạt kẻ ác ở địa ngục cũng kéo dài bằng thời gian vui sướng
của người công chính trên thiên đàng và chỉ khi có sự chấm dứt niềm vui sướng
trên thiên đàng thì mới có sự bãi bỏ tình cảnh khổ não dưới địa ngục.
Một số người thay đổi Kinh Thánh và tìm kiếm sự an ủi cho chính họ trong sự tin
tưởng rằng chữ "hủy hoại" (destruction) Kinh Thánh dùng có nghĩa là
tiêu diệt khôngcòn gì nữa (annihilation). Nhưng đây là hủy hoại của cơ hội hơn
là hủy hoại sự hiện hữu. Làm thế nào có thể nói những người bị tiêu diệt
(annihilated) không còn hiện hữu nữa lại bị thống khổ, khóc lóc và than
vãn? làm sao mà nói được là họ nài xin được vào thiên đàng, mà đối nại vấn
đề? (Lu.16: 23,24)
BẢN CHẤT
CỦA HÌNH PHẠT
Mục sư Spurgeon đã nói "Có thể nào bạn chịu đựng được khi thấy cảnh
một đồng loại của mình chìm trong đau khổ? Sự khổ ải của người ấy khơi dậy
lòng trắc ẩn trong chúng ta. Nhưng bạn không thể so sánh những sự đau đớn của đời
nầy với những đau đớn sẽ đến."
Đày ải (Banishment) (Mat. 13: 49, 50; 25: 41; Lu.16: 26; II Tê.1: 9)
Hiện nay Đức Chúa Trời ban nhiều phước lành cho kẻ ác. "Ban mưa xuống cho
người công chĩnh lẫn kẻ gian ác," Nhưng một khi Ngài đã nói, "Hãy lui
khỏi mặc ta, các ngươi là những kẻ làm ác," thì đó sẽ lần cuối cùng họ thấy
điều tốt, công chính và đáng yêu. Sẽ không có những lời cầu nguyện, không một
bài thánh ca khen ngợi trong địa ngục. Sẽ không có sự theo đuổi tri thức, không
có thu hoạch, không có nghề nghiệp, không có giúp dỡ, không có hy vọng. Địa ngục
đầy mọi đều ác và là nơi bị từ bỏ.
Tối Tăm (Darkness) (Mat.8: 12; 22: 13; 25: 30; Giu.13)
Đây là bức tranh của một buổi dạ tiệc. Kẻ ác bị đuổi ra khỏi sự vui vẻ của buổi
tiệc để vào trong sự tối tăm và buồn thảm bên ngoài. Những người đã từng ở bắc
cực nói rằng cái lạnh buốt xương cũng không làm cho ta khổ bằng những tháng dài
triền miên trong bóng đêm làm sa sút tinh thần. Bóng đêm của địa ngục sẽ không
thể dò thấu được và kéo dài vĩnh viễn.
Lửa (Fire) (Mal.4: 1; Mat.3: 12; 13: 40,50; Lu.16;23,24)
Ai cũng nhìn nhận cho rằng ngôn ngữ hình dung (figure of speech) thì ít mạnh mẽ
hơn thực tế. Không có sự đau đớn nào giống như bị thiêu đốt. Lửa là một thứ
thiêu nuốt và tàn hại nhất trong tất cả mọi thứ. Lửa là thứ chống lại sự sống hơn
cả. Các loài tạo vật có thể sống trong không khí, đất và nước, nhưng loài nào
có thể sống trong lửa.
Nhưng đặc tính khủng khiếp nhất của lửa địa ngục là nó không tiêu hủy. Không
làm diệt mất những người phải ở trong lửa. Họ bị tra tấn trong ngọn lửa hừng,
người giàu có mà Chúa phác họa, van nài một cách đáng thương hại xin cho một giọt
nước để làm mát lưỡi bị phỏng của ông.
Hối Hận (Remorse) (Eâs. 66: 24; Mat 8: 12; 13: 43, 50; 22: 13)
Câu "vì sâu chúng nó chẳng hề chết" có nghĩa gì? Con sâu có lẽ là ký ức.
Khi đct nói,"Nầy con, hãy nhớ" thì con người không bao giờ có thể
quên được. Họ sẽ ghi nhớ tội lỗi của họ. Họ sẽ ghi nhớ mãi tình thương của
Chúa. Họ sẽ chẳng bao giờ có thể quên rằng họ đã nghe Phúc-Âm và đã bỏ qua đặc
ân cứu rỗi. Chính những ký ức nầy sẽ mang lại sự đau khổ đắng cay vì hối hận. Sẽ
có sự than khóc đời đời cho những cơ hội đã đánh mất.
Đấng Chí-tôn nói đến địa ngục và dường như người ta muốn hết sức làm đủ mọi thứ
để trốn tránh nơi đó. Nhưng trường hợp nầy không phải như thế. Mặc dù Đức Chúa
Trời đã làm tất cả mọi cách để cứu loài người khỏi định mệnh cay nghiệt nầy, nhưng
họ vẫn cố tình bỏ qua sự cứu rỗi. Chúa Chí-tôn phacù họa cách sinh động bức
tranh của người giàu mà ác ở trong địa ngục hết lòng van xin cho một người nào đó
sống lại từ trong cõi chết để cảnh cáo những thân nhân còn sống trong vòng tội
lỗi. Nhưng loài người có lắng nghe những người từ chết sống lại không?
La-xa-rơ đã sốnglại nhưng người Do Thái có lắng nghe ông không? Không, họ
còn tìm cách giết ông. Chúa Chí-tôn đã sống lại nhưng người ta vẫn không chịu
nghe Ngài, không chịu nghe Phúc-Âm cứu rỗi của Ngài.
TỔNG KẾT
Nhiều người cố phủ nhận sự hiện hữu của địa ngục, chối bỏ rằng địa ngục không tồn
tại đời đời và không ai sẽ vào nơi đó. Nhưng chính Chúa Chí-tôn đã thường nói đến
địa ngục và hình phạt dành cho kẻ ác.
Những người mà tên không được viết vào sách sự sống sẽ bị hình phạt. Họ gồm có
con cái của Sa-tan là những người không yêu mến sự công chính, những kẻ giả
hình, và tất cả những ai không tin nhận Chúa Chí-tôn làm Chúa Cứu Thế của họ.
Những người nầy phải bị hình phạt vì Đức Chúa Trời là thánh, và vì thế Ngài phải
trừng phạt tội lỗi.
Sa-tan hiện thời được phép vận hành trong thế gian, nhưng một ngày tới đây nó sẽ
bị quăng vào địa ngục và hồ lửa đời đời. Những kẻ ác sẽ bị hình phạt chung với
Sa-tan mãi mãi.hình phạt nầy không có nghĩa là hoàn toàn bị tiêu diệt, nhưng bị
khổ hình với sự ý thức. Sự thống khổ nầy bao gồm việc bị tách khỏi mọi điều tốt
lành, ở trongbóng tối không thể dò được,lửa cháy không tàn, và sự hối hận triền
miên vì đã bỏ mất cơ hội tiếp nhận Chúa Chí-tôn.
BÀI LÀM
1.
Bằng những cách nào Sa-tan đã cố gắng che giấu sự hiện hữu của một nơi hình phạt?
2.
Hãy mô tả những kẻ dự phần trong hình phạt.
3.
Đặc tính chính yếu của con cái Sa-tan là gì?
4.
Mục đích chính của hình phạt là gì?
5.
Hãy trình bày nơi cho những kẻ ác.
6.
Trong phương diện nào Gehenna là biểu hiện của hồ lửa?
7.
Hãy mô tả bốn hình phạt của kẻ ác.
8.
Kinh Thánh mô tả lửa địa ngục như thế nào?
9.
Hãy giải thích hình phạt hối hận.
10.
Bài học nầy có ý nghĩa gì cho chính bạn?
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
Demary,
Doanld E. Bassic Belief. Grand Rapids: Baker Book House, 1958. Chapter
14.
<%Response.Clear%>
Top
Bottom
of Form
Bottom of Form
Bottom of Form
Bottom of Form
Bottom of Form
Bottom of Form
Bottom of Form
Bottom of Form
Bottom of Form
Bottom of Form


