SÔ-PHÔ-NI
MỤC LỤC
01. CÓ MỘT NGÀY LỚN ĐANG ĐẾN
02. SỰ VINH HIỂN CỦA VƯƠNG QUỐC ĐỨC
CHÚA TRỜI
1. CÓ MỘT NGÀY LỚN ĐANG
ĐẾN! (So 1:1-2:15)
Lần cuối cùng bạn hát
vài thánh ca về sự đoán phạt trong tương lai của thế gian là khi nào? Hầu hết
những quyển thánh ca hiện đại không có những bài hát về “Ngày của Đức
Giê-hô-va”, và chắc chắn bạn không thấy cụm từ này trong bất kỳ tờ báo hay tạp
chí nào. Ngay cả nếu họ tin Chúa, thì hầu hết mọi người cũng không liên hệ Ngài
với những biến cố hiện tại hay tương lai. Cái gần gũi nhất mà chúng ta liên hệ
đến Chúa trong những biến cố của loài người là khi cảnh sát an ninh đề cập
“những hành động của Chúa trên những gì chúng ta không thể kiểm soát được.”
Nhưng điều đó khác xa với “Ngày của Đức Giê-hô-va” trong sứ điệp của Sô-phô-ni.
Người biết suy nghĩ
thường hiểu cách nghiêm túc về sự đoán phạt của Đức Chúa Trời trên thế gian và
còn hát những bài thánh ca về nó. Một bài
thánh ca xưa rất nổi tiếng được viết bằng tiếng La-tinh đã dựa theo So 1:15, “Ngày ấy là
ngày thạnh nộ, ngày hoạn nạn và buồn rầu …”. Hai câu đầu tiên được viết là:
Ngày của thạnh nộ, Ngày
của tang chế!
Lời cảnh cáo của tiên
tri được ứng nghiệm,
Trời và đất chìm trong
đống tro tàn!
Loài người sợ hãi kinh
hoàng
Khi từ trời Vị Quan Xét
đến thế gian
Đoán xét tất cả con
người lầm than.
Tôi không biết ngày nay
người hướng dẫn chương trình thờ phượng nào chọn bài hát nầy chắc sẽ nổi tiếng
như thế nào?
“Ngày của Đức Giê-hô-va”
là một khái niệm hết sức quan trọng trong Kinh Thánh là chúng ta phải hiểu một
cách thấu đáo, vì nó cho chúng ta biết những sự việc đã xảy ra đến đâu và chúng
đi đến kết thúc như thế nào. Trong suốt “Ngày của Đức Giê-hô-va”, Đức Chúa Trời
sẽ giáng nỗi cực khổ xuống thế gian, đoán phạt các nước, giải cứu dân
Y-sơ-ra-ên của Ngài, và sau đó thiết lập vương quốc công bình của Ngài. Đức
Chúa Trời cảnh báo cho thế gian rằng sự đoán phạt đang đến, và thật ngu xuẩn
cho những ai chưa chuẩn bị sẵn sàng. Câu hỏi lớn được đặt ra là, “Bạn sẽ trốn ở
đâu trong ngày lớn đó? (2:3)
Trong hai đoạn đầu của
sách mình, tiên tri Sô-phô-ni nói về “Ngày của Đức Giê-hô-va” cho cả dân Do
Thái và các nước ngoại bang.
1. “Ngày của Đức
Giê-hô-va” và dân Do Thái (So 1:1-18) (So 1:1-2:3)
Bạn hẳn đã nghĩ rằng
chít của vua Ê-xê-chia phải sống an nhàn ờ Giê-ru-sa-lem, và hưởng thụ cuộc
sống sung sướng. Nhưng không, bạn sẽ thấy ông ta đang phục vụ với tư cách là
một tiên tri của Đức Chúa Trời, đây là một sự kêu gọi nguy cấp. Người đồng thời
với ông là Giê-rê-mi đã bị bắt và bị nhốt trong ngục tù tăm tối vì dám khuyên
những lãnh đạo Giu-đa đầu hàng Ba-by-lôn.
Đức Chúa Trời cho
Sô-phô-ni thấy rằng sự đoán phạt đang đến gần trên Giu-đa dưới hình thức Sự
Đánh Chiếm của quân Ba-by-lôn, và tiên tri phải rao truyền sứ điệp nầy cho dân
sự. Tuy nhiên, sự xâm chiếm của Ba-by-lôn chỉ là
một ví dụ nhỏ của những gì sẽ xảy ra trong “Ngày của Đức Giê-hô-va”, mà cuối
cùng sẽ xảy đến. Sô-phô-ni mở đầu quyển sách của mình bằng cách trình bày ba bức tranh sinh động về “Ngày của Đức Giê-hô-va”.
Bức tranh thứ nhất nói
về một trận lụt tàn phá
khắp đất (1:2-3). Từ
Hy-bá-lai được dịch là “tàn phá” còn có nghĩa là “quét sạch mọi thứ”. Hình ảnh
nầy chỉ về sự huỷ diệt tất cả những loài thọ tạo của Đức Chúa Trời và có thể là
một ngụ ý về trận lụt trong thời Nô-ê. (Bạn thấy cách dùng từ tương tự trong Sa 6:1-7:23 7:4
9:8-10.) Đức Chúa Trời ban cho con người có
quyền trên mọi loài động vật dưới nước và trên cạn (So
1:28 Thi 8:7-8), nhưng con người đánh
mất cái quyền ấy, A-đam không vâng lời Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, qua Chúa Cứu
Thế Giê-xu, sẽ có một ngày con người được khôi phục quyền đã mất đó (He 2:5-9).
Đức Chúa Trời sẽ không
chỉ huỷ diệt loài thọ tạo của Ngài, Ngài còn tiêu diệt những thần tượng con
người thờ lạy “sự gian ác làm cho vấp phạm” đó đã xúc phạm đến Đức Chúa Trời (Exe 14:1-8),
trong thời Sô-phô-ni, sự thờ lạy tần tượng lan tràn trong xứ Giu-đa, do ảnh
hưởng xấu của vua Ma-na-se. Khi Đức Chúa Trời giơ tay Ngài ra, thì có nghĩa là
sự đoán phạt đang đến (Es 9:12,17,21). Tiên tri nêu
tên hai trong số các thần giả đang chế ngự tấm lòng của dân sự: Ba-anh, thần
mưa của người Ca-na-an (So 1:4), và Mô-lóc,
thần gớm ghiếc của dân Am-môn (IVua 11:33 Am 5:26). Dân sự cũng thờ các cơ binh trên trời (Phu 4:19 Gie 19:13
32:29) và bắt chước theo gương xấu của những
thầy tế lễ thờ thần tượng (So 1:4 IIVua 23:5,8 Os 10:5).
Những người thờ lạy thần
tượng nầy có thể cho rằng họ vẫn trung thành với Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời
chân thật và hằng sống, nhưng Đức Giê-hô-va sẽ không chia sẻ sự thờ phượng và
vinh quang với bất kỳ thần nào khác. Quay về hướng các thần tượng, dân sự đã
xoay bỏ Đức Chúa Trời và không tìm kiếm Ngài và những ơn lành của Ngài (So 1:6). Họ đã phạm tội thờ thần tượng và lãng quên Đức Chúa Trời.
Trong suốt thời gian bị
Ba-by-lôn bắt đi, dân Do Thái bị mê hoặc bởi các thần tượng của các nước ngoại
bang, Đền thờ của họ bị phá huỷ, chức tế lễ của họ bị tan rã, và trong bảy mươi
năm họ không thể thờ phượng theo cách Môi-se đã qui định cho họ. Cuối cùng họ
đã được trở về xứ mình, và khi đó một trong những điều dân Do Thái làm đầu tiên
là xây lại đền thờ và khôi phục việc dâng tế lễ.
Bức tranh thứ hai nói về
một sự tế lễ lớn (c.7-13). Vì dân Do Thái quen dâng của lễ hàng năm, hình ảnh nầy
không xa lạ gì với họ. Nhưng sự tế lễ nầy sẽ khác, vì chính Đức Chúa Trời là
Đấng đang làm chủ việc đó, khách của Ngài là người Ba-by-lôn; và những của lễ
được dâng lên là dân Giu-đa! Không ngạc nhiên khi tiên tri cần sự yên lặng khi
ông tiên báo biến cố đáng kinh sợ như vậy! (Am 6:10 8:3 Ha 2:20).
Bạn nghĩ khách dự yến
tiệc của Đức Chúa Trời sẽ là những hoàng
thân và các lãnh đạo tôn giáo trong xứ, nhưng những người đó lại là những của
lễ! (So 1:8-9) Đức Chúa Trời trừng phạt họ
vì họ từ bỏ Lời Ngài và chấp nhận những tập tục của người ngoại bang, kể cả mặc
quần áo của người ngoại bang và thờ những thần tượng của người ngoại bang (Dan 15:38 Phu 22:11-12).
Sau khi vua Giô-sia băng hà năm 609, bốn vị vua sau của đất nước toàn là những
người yếu đuối, họ đã thuận theo những chính sách của khối ủng hộ Ai-cập. Thay
vì tin cậy Đức Chúa Trời, họ đã tin nơi những đồng minh của mình, và điều đó
dẫn họ đến chỗ thất bại.
Sô-phô-ni chắc là một cư
dân của Giê-ru-sa-lem, vì ông biết rõ sơ đồ của thành
đó (So 1:10-13). Khi quân Ba-by-lôn, những
vị khách của Đức Chúa Trời, sẽ đến dự tiệc dâng tế lễ, họ sẽ vào thành, cướp
bóc nó,và sau đó phá huỷ nó. Cửa Cá là nơi những người đánh cá lập chợ cá; những người giàu sống ở đó, họ xây cho mình những ngôi nhà
sang trọng bằng mô hôi và nước mắt của dân lao động. “Maktesh” là chợ và khu
buôn bán của thành phố, nơi đó những thương buôn và người đổi bại sinh sống.7
Nhưng thành nầy sẽ bị
huỷ diệt, và của cải của những thương buôn bị tịch thu. Quân Ba-by-lôn đã cướp
bóc hết sạch, họ lục soát từng ngóc ngách của thành phố và không ai trốn thoát
được.
Thảm kịch là cuộc xâm
chiếm nầy có thể tránh được nếu dân sự không quá tự mãn và thờ ơ với những gì
Đức Chúa Trời đang phán bảo qua các tiên tri Ngài. Giu-đa chắc rằng Đức Chúa Trời ở về phía họ vì họ là dân giao ước
của Ngài. Họ giống như rượu ủ lâu ngày (Gie 48:11
Am 6:1) và đông cứng lại vì nó không được đổ
ra từ bình nầy sang bình khác để loại bỏ những cặn bả đắng. Sự thờ phượng các
thần giả đã làm ô uế xứ và rượu tinh khiết đã trở thành rượu đắng.
Bức tranh thứ ba của
tiên tri về “Ngày của Đức Giê-hô-va” nói về một trận chiến lớn (So
1:14-18). Sự mô tả nầy thật sống động: Bạn có thể nghe tiếng than khóc
của những người bị bắt cà tiếng gào thét của những chiến binh; bạn có thể thấy
mây dông của sự đoán phạt và tia chớp sang loè; bạn thấy máu của nhiều nạn nhân
đổ ra như bụi và “thịt như phân” (c.17). Cảnh tượng thật hoang tàn và chết
chóc, và tất cả vì đất nước không vâng phục Lời của Đức
Chúa Trời. Lửa thạnh nộ của Đức Chúa Trời sẽ thiêu sạch mọi thứ, và không ai
thoát được. Ngay cả những người giàu cũng không làm gì để cứu được mình, và kẻ
thù sẽ cướp đi những của cải phi nghĩa của họ.
Những gì Sô-phô-ni mô tả
ở đây là một minh hoạ cho những việc xảy xảy ra trong ngày sau rốt khi sự đoán
phạt của Đức Chúa Trời giáng trên thế gian
gian ác, “Ngày của Đức Chúa Trời” sẽ còn kinh khiếp hơn nhiều (Kh 6:1-19:21). Sẽ có những sự rối loạn trên toàn
cầu, chúng ảnh hưởng đến trật tự thiên nhiên và khiến con người phải kêu gào
tìm nơi trú ẩn (Am 5:18 8:9 Gio 2:1-2,10,30-32 Kh 6:12-17). Nếu bạn không nhận biết Chúa Cứu Thế
Giê-xu, bạn không có một chỗ ẩn núp nào (So 2:3).
Điều nầy giải thích tại
sao tiên tri kết thúc sứ điệp nầy bằng lời kêu nài dân sự ăn năn tội lỗi mình
và trở về để được Ngài tha thứ (c.1-3). Giống tiên tri Giô-ên (2:16), ông khuyên họ
hãy nhóm họp lại và tìm kiếm Đức Chúa Trời. Sô-phô-ni đặc biệt kêu gọi dân sót trung
tín (mọi kẻ nhu mì của đất) cầu nguyện và tìm kiếm mặt Đức Chúa Trời, có lẽ ngụ
ý lời hứa trong IISu 7:14. Nhưng ngay cả khi
đa số dân chúng đi theo các thần giả và khước từ Đức Chúa Trời, Ngài cũng sẽ
bảo vệ dân sót của Ngài khi Ngày Đoán Phạt đến (Ma
3:16-18).
Sô-phô-ni và Giê-rê-mi
cùng thi hành chức vụ trong cùng một giai đoạn lịch sử, và cả hai người đều nài
xin các lãnh đạo tin cậy Đức Chúa Trời và xoay khỏi tội lỗi, nhưng các vua, các
quan chức, và các thầy tế lễ không nghe theo. Đức Chúa Trời chắc đã cứu dân sự
ờ phút cuối cùng, nhưng các lãnh đạo vẫn vô tâm trước sự kêu gọi của Ngài và
bất tuân Lời Ngài.
Nhưng Đức Chúa Trời đã
gìn giữ dân sót tin kính, là những người vẫn thật lòng với Ngài trong suốt bảy
mươi năm lưu đày. Họ là những người biết qua tâm và trở thành những hạt nhân
của đất nước được khôi phục khi họ trở về xứ mình. Trong mỗi giai đoạn lịch sử,
chính dân sót đã giữ cho ngọn lửa còn cháy sáng khi bóng đêm gần như bao phủ cả
đất. Ngay nay, Đức Chúa Trời cần “dân sót” ấy, là những người chịu bước đi trên
đường hẹp bất kể những người khác làm gì, là những người vâng Lời Đức Chúa
Trời, và chia sẻ Phúc Âm cho người hư mất. Đức Chúa Trời đang giữ “sách để
ghi-nhớ” (Ma
3:16-17), và bạn và tôi muốn có tên của mình
trong sách đó
So 2:1-3; xem giải nghĩa So 1:1-18
2. “Ngày của Đức
Giê-hô-va” và các Dân Ngoại (So 2:4-15)
Sự đoán phạt của Đức
Chúa Trời bắt đầu từ nhà của Đức Chúa Trời (IPhi 4:17), điều nầy giải thích lý do Sô-phô-ni
bắt đầu từ dân Giu-đa; nhưng giờ ông giải thích “Ngày của Đức Giê-hô-va” sẽ ảnh
hưởng đến các dân ngoại bang xung quanh Giu-đa. Mặc dù họ không bao giờ được
ban Luật Pháp của Đức Chúa Trời như dân Do Thái (Thi
147:19-20), các dân ngoại bang vẫn có trách nhiệm trước mặt Đức Chúa
Trời; vì Đức Chúa Trời đã mặc khải chính Ngài cho họ trong sự sáng tạo và lương
tâm (Ro 1:18). Hơn nữa, những nước nầy không
phải lúc nào cũng đối xử tử tế với dân Do Thái, và
giờ đến lúc Đức Chúa Trời trừng phạt họ.
Các dân được kể tên có
thể đại diện cho tất cả các nước ngoại bang, vì những nước này ứng với bốn
hướng của la bàn A-si-ri (phía Bắc), Ê-thi-ô-bi (phía Nam ), Mô-áp và
Am-môn (phía Đông) và Phi-li-tin (phía Tây). Suốt “Ngày lớn của Đức Giê-hô-va”,
tất cả các nước trên thế gian sẽ nếm sự đoán phạt của Đức Chúa Trời.
Phi-li-tin (So 2:4-7). Dân Phi-li-tin là kẻ thù cố hữu của dân Do Thái (Sa 20:1-21:33 26:1-35).
Theo Am 1:6-8, họ bắt dân Do Thái từ các
thành ở miền Nam
Giu-đa, và bán họ cho các nước khác làm nô lệ. Nhưng đến lúc, những thành phố
đông dân của nó sẽ nên hoang vu, và đất của nó sẽ bị bỏ hoang và trở thành nơi
chăn thả gia súc. Những thành phố ven biển của nó sẽ bị kẻ thù phá huỷ và trở
thành đống đổ nát. Vua Nê-bu-cát-nết-sa xâm lược Phi-li-tin và thu phục nó, và
ngày nay đất nước lớn nầy chỉ còn sót lại một số dân ít ỏi mang tên là
“Phi-li-tin” (Exe 25:15-28:26).
Tuy nhiên, dân Do Thái
sẽ sống ở đất của Phi-li-tin khi vương quốc được thiết lập, và Đức Chúa Trời sẽ
giúp họ có thể sống trong hòa bình. Sô-phô-ni sẽ nói nhiều về điều nầy hơn khi
ông mô tả những ơn phước của vương quốc Đức Chúa Trời
(So 3:9-20).
Mô-áp và Am-môn (2:8-11). Dân Mô-áp và Am-môn là con cháu của Lót bởi sự loạn luân
với hai con gái ông (Sa 19:30-38) và là
những kẻ thù đáng ghét của dân Do Thái (Dan 22:1-41
Cac 3:1-31 10:1-18
ISa 11:1-5 IISa
12:26). Nhưng hai nước ngạo mạn nầy sẽ có kết cuộc như Sô-đôm và
Gô-mô-rơ, bị xóa sổ khỏi mặt đất (Sa 19:1-37
lưu ý sự liên hệ ở đây với Lót). Họ sẽ không còn sỉ nhục nước Y-sơ-ra-ên hay
Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên nữa. (Am 1:13-2:3
để thấy bằng chứng về sự gian ác và tàn nhẫn của hai nước nầy.) Một lần nữa,
tiên tri hứa rằng dân Do Thái sẽ chiếm được xứ của các kẻ thù họ khi vương quốc
được thiết lập (Exe 25:1-11).
Ê-thi-ô-bi (So 2:12). Đất nước nầy nằm ở thượng nguồn sông Nin. Một số học giả
nghĩ câu nầy ngụ ý cả Ai Cập, một kẻ thù lâu đời khác của dân Do Thái. Chính
Nê-bu-cát-nết-sa và gươm của binh lính Ba-by-lôn đã chinh phục đất nước dày dạn
nầy (Exe 30:4-5).
A-si-ri (So 2:13-15). Trước khi Ba-by-lôn dấy lên, A-si-ri
có quyền chi phối, ai cũng biết dân thô lỗ ấy vì tính kiêu ngạo và độc ác của nó với các kẻ thù của nó. 150 năm trước, Đức Chúa Trời đã
sai tiên tri Giô-na đến Ni-ni-ve, thủ đô của A-si-ri để cảnh báo cho họ về sự
đoán phạt của Đức Chúa Trời, và dân chúng đã ăn năn, nhưng những thế hệ sau đó
lại quay về với lối sống gian ác cũ, và Ni-ni-ve bị phá huỷ năm 612. Trong vòng
một vài năm sau đó, một đế quốc A-si-ri từng hùng mạnh đã biến mất khỏi mặt
đất, và Sô-phô-ni đã thấy trước việc đó.
Vì Ni-ni-ve nghĩ nó là
một thành không ai cự nổi, các cư dân của nó bất cẩn và không quan tâm đến
những lời tiên báo của Sô-phô-ni, nhưng Đức Chúa Trời đã khiến cả con người và
thành phố nầy sụp đổ thành cát bụi. (Xem sách Na-hum
và Es 45:1-25 47:10).
Vì những lời tiên tri về
sự sup đổ của các nước nầy đều ứng nghiệm, vậy có phải là hợp lý khi cho rằng
những lời tiên báo khác của Sô-phô-ni cũng sẽ được ứng nghiệm? Mỗi một sự xâm
lược và cuộc chinh phục mang tính cục bộ nầy là điềm báo về “Ngày của Đức
Giê-hô-va” trong kỳ sau rốt, ngày ấy sẽ đến trên cả thế gian. Nhưng khi “Ngày
của Đức Giê-hô-va” trên đường tiến của nó, dân Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu, và Đức
Chúa Trời sẽ lập vương quốc vinh hiển của Ngài trên đất. Trong đoạn cuối của
sách tiên tri của ông, Sô-phô-ni giải thích “Ngày của Đức Giê-hô-va” sẽ liên hệ
thế nào với vương quốc đã được hứa nầy.
Trước khi chúng ta bước sang đoạn
cuối cùng của sách tiên tri nầy, chúng ta phải lưu ý một số lẽ thật thực tế có
ứng dụng cho các tín đồ ngày nay. Thứ nhất, Đức Chúa Trời trừng phạt dân sự
Ngài khi họ cố tình không vâng giữ luật pháp của Ngài. Dân sự Ngài phải khác
với các nước khác và không được bắt chước cách sống của các nước khác và sự thờ
lạy thần tượng của họ (Dan 23:9 Xu 33:16 Phu 32:8).”Đừng
làm theo đời nầy” là lời cảnh cáo cho tất cả tín đồ ngày nay (Ro 12:2 IICo 6:14-7:1).
Thứ hai, lời hứa của Đức
Chúa Trời với Áp-ra-ham vẫn có hiệu lực: Ai chúc phước Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa
Trời sẽ ban phước cho; ai rủa sả Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời sẽ rủa sả lại (Sa 12:1-3). Các nước
đã phạm tội nghịch cùng Đức Chúa Trời vì đã ngược đãi dân Do Thái rồi sẽ chịu
sự trừng phạt của Ngài.
Cuối cùng, Lời của Đức
Chúa Trời là thật và sẽ ứng nghiệm trong hạn định của nó. Dân sự Đức Chúa Trời
có thể tin nơi những lời hứa của Ngài và biết rằng Ngài sẽ thành tín, và những kẻ thù của Đức Chúa Trời có thể chắc chắn rằng những
lời cảnh cáo của Ngài mang theo những hình phạt thích đáng. “Sa vào tay Đức
Chúa Trời hằng sống là sự đáng kinh khiếp thay!” (He
10:31).
2. SỰ VINH HIỂN
CỦAVƯƠNG QUỐC ĐỨC CHÚA TRỜI (So 3:1-20)
Tại sao các tiên tri
luôn kết thúc sách của mình bằng những sứ điệp tràn đầy hy vọng? Ít nhất vì ba
lý do. Trước hết, hy vọng là một động lực lớn cho sự vâng phục, và các tiên tri
muốn dân sự Đức Chúa Trời đầu phục ý muốn của Ngài và làm theo những gì Ngài
phán dặn. Những ơn phước trong giao ước của Ngài đến với dân sự Ngài chỉ khi họ
vâng theo những điều khoản của giao ước.
Lý do thứ hai là sự nhấn
mạnh của các tiên tri trên sự thành tín của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời sẽ giữ
lời hứa Ngài và đến một ngày sẽ thiết lập vương quốc; và vì Đức Chúa Trời thành
tín giữ những lời hứa của Ngài, chúng ta phải trung thành vâng theo Lời Ngài.
Nếu chúng ta vâng phục, Đức Chúa Trời sẽ thành tín ban phước cho; nếu chúng ta
không vâng phục, Ngài sẽ thành tín đoán phạt chúng ta. Nếu chúng ta xưng tội
mình, Ngài sẽ thành tín tha thứ cho chúng ta.
Cuối cùng, sứ điệp tràn
đầy hy vọng ở cuối sách là sự khích lệ dành cho dân sót trung thành trong xứ,
những người thật lòng với Đức Chúa Trời và chịu nhiều đau khổ vì sự tận hiến
cho Đức Chúa Trời. Thật khó để làm “một người biết quan tâm”, hết lòng trung
thành với Đức Chúa Trời và Lời Ngài bất chấp người khác làm hoặc nói gì. Biết
Đức Chúa Trời sẽ đánh bại kẻ thù họ và cai trị trong sự công bình sẽ khích lệ
dân sót vững lòng trong bước đường trung tín của họ với Đức Chúa Trời.
Trong đoạn cuối nầy, Đức
Chúa Trời mặc khải những hoạch định của Ngài cho Giê-ru-sa-lem, các dân ngoại
bang, và dân sót trung thành. Đồng thời, Đức Chúa Trời mặc khải chính Ngài và
việc làm nhân từ của Ngài vì dân sự Ngài trong mọi lúc mọi nơi.
1. Giê-ru-sa-lem: Cơn
thạnh nộ của Đức Chúa Trời (So 3:1-8)
Giê-ru-sa-lem thường
được gọi là ”thành thánh,”1 nhưng trong thời Sô-phô-ni, thành nầy
không tỏ ra gì là thánh cả! Ê-sai (Es 1:21), Giê-rê-mi (Gie
29:12), và Ê-xê-chi-ên (Exe 4:1-6:14 9:1-11) đều đánh giá như vậy trong thời của họ.
Ngay cả người ngoại bang cũng gọi Giê-ru-sa-lem là “thành phản nghịch hung ác”,
và họ có thể nêu ra bằng chứng về lời nhận định của mình.
Dân sự phạm tội (So 3:1-2). Thay vì là thành thánh, Giê-ru-sa-lem đã bị ô uế bời
những tội lỗi đáng hỗ thẹn; và thay vì đem lại hoà bình (“Giê-ru-sa-lem” có
nghĩa là “thành phố hoà bình”), thành ấy đã phạm tội chống nghịch và bạo ngược.
Đức Chúa Trời đã sai người của Ngài đến để mặc khải chính mình Ngài trong Lời
Ngài và những hành động quyền năng của Ngài, nhưng họ không tin Ngài và tìm
kiếm Ngài. “Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài
sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm
sạch lòng đi” (Gia 4:8).
Cấp lãnh đạo không tin
kính (So 3:3-4). Đức
Chúa Trời mong đợi các lãnh đạo dân sự và tôn giáo nghiêm túc nghe và hiểu được
Lời Ngài và dẫn dắt dân sự đi trong đường lối công
bình. Nhưng, các lãnh đạo đã hành động như những con thú tham ăn trong cách họ
áp bức dân sự và cướp đoạt của dân sự những gì họ muốn. Các tiên tri không
trung thành với Đức Chúa Trời và Lời Ngài và lừa dối dân sự. Họ không rao ra lẽ
thật của Đức Chúa Trời; họ chỉ rao truyền những gì dân sự thích nghe.
Còn các thầy tế lể, chức
vụ của họ là chất độc hại và làm ô nhiểm nơi thánh! (Mat 23:25-28 cho thấy
những gì Chúa Giê-xu nói về người Pha-ri-si trong thời của Ngài.) Thay vì hầu
việc Đức Chúa Trời vì sự vinh hiển của Ngài, các thầy
tế lễ đã bóp méo Luật Pháp để làm vui lòng chính mình và để đạt được những thứ
mà họ muốn.
Thảm kịch là Đức Chúa
Trời phàn với dân sự và nắn sửa trong kỷ luật, nhưng họ không nghe và vâng theo (So 3:2).” Dẫu đến những việc ấy mà các ngươi cứ không phục sự sửa
phạt ta, cứ phản đối cùng ta, thì ta đây cũng sẽ nghịch lại cùng các ngươi, và
vì cớ tội lỗi, sẽ giáng tai vạ cho các ngươi gấp bảy lần nữa” (Le 26:23-24). Đây là sứ điệp của Giê-rê-mi cho
thành Giê-ru-sa-lem ngay trong lúc Ba-by-lôn sẵn sàng tấn công (Gie 2:30 5:3 7:28 17:23 32:33).
Đức Chúa Trời thành
tín (So 3:5-8). Danh Đức Chúa
Trời được đồng nhất với thành và đền thờ đó (IISa
7:13 IVua 5:5 Ne 1:9), và cả hai nơi đó đều trở thành ô uế và tội lỗi. Vì
vậy, Ngài sẽ ra tay trừng phạt vì danh của Ngài. Những quan chức gian ác hội
họp ở cổng thành mỗi sáng để thực hiện những phi vụ kinh doanh gian manh của họ, và Đức Chúa Trời ở đó nhìn thấy việc họ làm. Ngài
đã kiên nhẫn chờ đợi, nhưng họ vẫn không ăn năn và trở lại với Ngài để được tha
thứ.
Vì Đức Chúa Trời nhắc
dân sự Ngài rằng Ngài đã trừng phạt các dân ngoại và diệt sạch cách nước (So 3:6),
Ngài cũng có thể làm như vậy với dân Giu-đa. Thật ra, dân Do Thái còn phạm tội
nặng hơn các nước ngoại bang vì Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-ên nhiểu lẽ thật
và ơn phước. Dân sự đang phạm tội nghịch cùng nguồn
của sự sáng. Lẽ ra sự đoán phạt của Đức Chúa Trời trên các nước khác sẽ làm dân
Do Thái tỉnh ngộ, nhưng họ không hề quan tâm. Dù gì đi nữa, họ là dân giao ước
của Đức Chúa Trời, và Ngài sẽ bảo vệ họ khỏi tay các kẻ thù. Họ quên rằng những
đặc ân của giao ước luôn đi kèm những trách nhiệm theo giao ước.
Đức Chúa Trời kết thúc
sứ điệp dành cho Giê-ru-sa-lem bằng cách mô tà một phiên toà, trong đó Ngài
đứng làm nhân chứng chống lại dân sự Ngài (c.8). Trong khi Sự Lưu Đày sang
Ba-by-lôn sắp xảy ra được nói đến ở đây, vẫn có một ngụ ý về cuộc chiến
Ha-ma-ghê-đôn, khi các nước trên thế giới qui tụ chống nghịch Giê-ru-sa-lem.
Đức Chúa Trời sẽ trút cơn thạnh nộ Ngài
trên các nước, giải cứu dân sự Ngài, và lập vương quốc của Ngài (Xa 14:1-9). Cơn thạnh nộ của Ngài giống như lửa
thiêu đốt những kẻ chống lại lẽ thật của Ngài và không vâng giữ Lời Ngài. “Ngày
kinh khiếp của Đức Giê-hô-va” sẽ đến và không ai có thể trốn thoát (So 1:2).
2. Các nước ngoại bang:
sự tha thứ bởi lòng nhân từ của Đức Chúa Trời (So 3:9-10)
Cần phải ghi nhớ rằng sự kêu gọi
Áp-ra-ham của Đức Chúa Trời đem lại ơn Ngài cho cả thế gian (Sa 12:1-3). Đức Chúa Trời thực hiện điều nầy bằng
cách cho dân Do Thái biết một Đức Chúa Trời chân thần, Lời thành văn của Đức
Chúa Trời, và Chúa Cứu Thế Giê-xu (Ro 9:1-5).
Vì vậy, họ phải chia sẻ những ơn phước nầy cho các
dân ngoại bang.
Dân Do Thái có trách
nhiệm làm vinh hiển danh Đức Chúa Trời trước các nước ngoại bang. Nhưng họ không như vậy, họ đã bắt chước các nước vô
đạo và làm ô danh Đức Chúa Trời (Es 52:5 Ro 2:24). Sân của người ngoại ở trong đền thờ của
người Do Thái được cho là nơi dân ngoại có thể nói chuyện với dân Do Thái về
Đức Chúa Trời chân thần và thậm chi có thể cầu nguyện
với Đức Chúa Trời, nhưng các lãnh đạo tôn giáo biến nó thành một cái chợ để bán
các của lễ và đổi tiền. Những người ngoài ao ước tìm kiếm Đức Chúa Trời có thể
thấy được gì?
Những ơn phước nào Đức
Chúa Trời hứa ban cho các dân ngoại trong ngày sau rốt? Thứ nhất, Ngài hứa rằng
dân ngoại bang sẽ được
cải đạo (So 3:9). Thay vì kêu cầu các thẩn
giả của họ, dân ngoại sẽ kêu cầu Đức Chúa Trời chân thật và hằng sống và môi
miếng họ đã thánh sạch. Vì những gì chúng ta nói ra xuất phát từ tấm lòng chúng
ta (Mat 12:34-35), môi miếng thánh sạch cho
thấy tội lỗi được tha và tấm lòng thánh sạch (Es
8:1-8).
Nhưng các dân ngoại bang
không chỉ kêu cầu Đức Chúa Trời và được Ngài thanh tẩy, họ sẽ còn hầu việc Đức Chúa Trời và không đổi lòng (So 3:9). Các tiên tri dạy rằng suốt Thời Đại của
Vương Quốc Đức Chúa Trời, các nước ngoại bang sẽ kéo về Giê-ru-sa-lem để thờ
phượng và hầu việc Đức Chúa Trời (Es 2:1-5 4:1-6 Exe 40:1-48:35
Xa 14:9). Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên sẽ là
Đức Chúa Trời của cả thế gian, và các nước ngoại bang sẽ tôn vinh và hầu việc
Ngài. Cùng với dân Y-sơ-ra-ên bị tản lạc trở về xứ mình, các nước ngoại bang sẽ dâng của lễ cho Đức Chúa Trời và được gọi là
“những người thờ phượng” Đức Chúa Trời.
Trước khi Chúa Giê-xu
chết trên thập tự giá, có sự khác biệt lớn giữa mối quan hệ của dân Do Thái và
các nước ngoại bang đối với nhau và với
Đức Chúa Trời. Nhưng bức tường ngăn cách họ nay đã sụp đổ (Eph 2:11),và cả hai có thể chia sẻ nhau những ơn
phước thuộc linh có bởi đức tin nơi Chúa Cứu Thế. Trong người Giu-đa và người
Gờ-réc không có sự phân biệt gì hết, vì họ có chung một Chúa, giàu ơn đối với
mọi kẻ kêu xin Ngài. Vì ai kêu cầu danh Chúa thì sẽ được cứu” (Ro 10:12-13). Phép lạ
bởi ân điển Đức Chúa Trời nầy sẽ được chứng tỏ trong Thời Đại của Vương Quốc
khi các dân ngoại tin cậy và thờ phượng Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
3. Dân sót: ơn phước dư
dật của Đức Chúa Trời (So
3:11-20)
khi “Ngày kinh khiếp của
Đức Chúa Trời” trôi qua, Y-sơ-ra-ên sẽ là một nước mới. Dân Do Thái sẽ nhìn xem
bởi đức tin nơi Đấng Mê-si-a, là Đấng mà họ đã đóng đinh, tin cậy Ngài, và bước
vào một đời sống mới trong vương quốc đã được hứa.
Tội lỗi sẽ được cất
khỏi (So 3:11-13). Dân Do Thái
sẽ “không còn xấu hổ” vì, khi họ nhìn thấy Chúa Cứu Thế, họ sẽ xấu hổ vì những
việc họ làm với Đức Chúa Trời và sẽ than khóc cho những vi phạm của họ (Xa 12:10-13:1). Đó sẽ là lúc ăn năn và xưng tội
cách thật lòng và bởi đó nhận được sự cứu rỗi. Đức Chúa Trời sẽ đặc biệt giải
quyết tội kiêu ngạo của Y-sơ-ra-ên mà hàng bao thế kỷ đã khiến họ không hạ mình
đầu phục sự công bình của Đức Chúa Trời (Ro
9:30-10:13 Phi 3:1-12). Sẽ không có
chỗ nào cho đền thánh của Đức Chúa Trời đối với những tội nhân nghĩ rằng họ có
thể tìm thấy sự cứu rỗi bởi những việc lành của mình. Trái với những tội nhân
kiêu ngạo sẽ là dân sót tin cậy Chúa, “một dân khốn cùng nghèo thiếu, nó sẽ ẩn
náu trong danh Đức Giê-hô-va” (So 3:12).
Đức tin nơi Chúa Cứu Thế
sẽ khiến mọi sự nên mới để dân sự sẽ không còn bất tuân Đức Chúa Trời và làm
việc gian dối nữa. Điều nầy gợi ý rằng tất cả sự ưa thích dành cho các thần
tượng sẽ bị cất đi khỏi lòng họ, vì các thần tượng là những kẻ nói dối và thờ
lạy chúng vì tất cả những kẻ thù của họ sẽ bị đánh bại. Trong suốt những năm
sống tản lạc khắp nơi trên thế giới, nhiều
lần dân Do Thái phải bị đe dọa và chèn ép, nguy hiểm cả đến tính mạng của họ (Phu 28:63-68), nhưng điều đó sẽ kết thúc khi Đức
Chúa Trời thiết lập vương quốc và Chúa Giê-xu cai trị mọi dân mọi nước. tức là
làm việc lừa dối. Lần đầu tiên trong nhiều thế kỷ, dân Do Thái sẽ có thể ăn ngon ngủ yên,
Dân sự của Đức Chúa
Trời sẽ vui mừng (So 3:14-17). Đây là một trong những phân đoạn
cảm động nhất trong Kinh Thánh. Nó tiên báo Đức Chúa Trời, như người mẹ thương con, đang hát mừng con mình và vui mừng khi găp
mặt chúng. Dân sự của Đức Chúa Trời ca hát và la hò vì tất cả những điều Đức
Chúa Trời đã làm cho họ. Ngài cất khỏi họ hình phạt của họ, đánh bại những kẻ
thù của họ, và ở cùng họ. Hơn nữa, Ngài bảo đảm rằng dân sự sẽ không còn lo sợ
nữa. Vì Đức Chúa Trời là Vua của Y-sơ-ra-ên, dân sự Ngài không có gì phải lo
lắng.
Khi Phi-lát dẫn Chúa
Giê-xu ra trước các lãnh đạo Do Thái, họ đã khước từ Ngài và la lên rằng,
“Chúng tôi không có vua khác, chỉ Sê-sa mà thôi”
(Gi 19:15). Nhưng
giờ đây dân Do Thái sẽ vui mừng trọn vẹn vì biết rằng Chúa Cứu Thế Giê-xu kà
Vua trên muôn Vua và Chúa trên muôn Chúa (Phi
2:9-11). Thay vì buồn bã như những tù nhân
chiến tranh, dân Do Thái sẽ mừng rỡ va hết lòng ngợi khen Đức Chúa Trời.
Họ phải ca ngợi vì điều
gì? Trước nhất, họ có sự hiện diện của Đức
Chúa Trời ở với mình và quyền năng của Đức Chúa Trời vận hành vì cớ họ (So 3:17). Hơn nữa, Đức Chúa Trời của họ kéo họ vào
lòng Ngài như người mẹ ôm ấp con của mình; Ngài vỗ về
họ bằng tình yêu của Ngài, và Ngài còn hát cho họ nghe nữa! Hình ảnh Đức Chúa
Trời như người mẹ hiền đảm bảo với những tội nhân được tha thứ rằng Đức Chúa
Trời ở cùng họ, rằng Ngài yêu thương họ,và rằng họ không có gì phải lo sợ.
Đức Chúa Trời của chúng
ta là Đức Chúa Trời “hát xướng”. Đức Chúa Cha ca hát vui mừng vì dân sót bước
vào vương quốc (c.17). Đức Chúa Con hát sau
Tiệc ở Lễ Vượt Qua, và sau đó đi vào vườn và cầu nguyện (Mat 26:30). Ngài cũng hát sau sự phục sinh khải
hoàn từ kẻ chết (Thi 22:22 He 2:12) Đức Thánh Linh ngày hôm nay đang hát qua
tấm lòng và môi miếng của những Cơ Đốc nhân ngợi khen Đức Chúa Trời trong Thánh
Linh (Eph 5:18-21).
Đất nước sẽ được phục
hồi (So 3:18-20). Trong suốt bảy mươi năm bị lưu
đày sang Ba-by-lôn, và sau đó trong suốt những năm sống tản lạc khắp nơi trong
vòng các dân ngoại bang sau năm 70 S.C, những người Do Thái tin kính không thể
kỷ niệm những kỳ lễ đã định của họ (Le 23:1-44).
Vì sự sụp đổ đền thờ năm 70 S.C, dân Do Thái đã không có đền thờ, bàn thờ, chức
tế lễ hay sự tế lễ (Os 3:4-5). Dĩ nhiên,
những nghi lễ và tính biểu tượng của Luật Pháp Cựu Ước đã được làm trọn trong
Chúa Cứu Thế, kể cả những lễ tiệc và sự dâng của tế lễ (He 10:1-39), nhưng Sô-phô-ni cho biết rằng những lễ tiệc nầy sẽ
được khôi phục trong Thời Đại của Vương Quốc Đức Chúa Trời, và Xa 14:16-21 dường như
ủng hộ cách hiểu nầy.
Tại sao Đức Chúa Trời
khôi phục những nghi lễ tôn giáo đã được làm trọn? Có lẽ vì là phương tiện để
dạy dân Y-sơ-ra-ên về ý nghĩa của sự cứu
rỗi qua Chúa Cứu Thế Giê-xu. Những lễ tiệc được mô tả trong Le 23:1-44 phác họa “lịch sử sự cứu rỗi,” từ sự
giết con sinh của Lễ Vượt Qua (Gi 1:29) đến
Đại lễ Chuộc Tội (sự thanh tẩy Y-sơ-ra-ên) và Lễ Lều Tạm (Thời Đại của Vương
Quốc). Tiên tri Ê-xê-chi-ên mô tả chi tiết cơ cấu và những công việc trong đền
thờ lớn ở Y-sơ-ra-ên (Exe 40:1-48:35) và bao
gồm sự dâng của lễ của người Lê-vi. Như những nghi lễ thời Cựu Ước trông đợi
Chúa Cứu Thế giáng sinh, thì có lẽ trong suốt Thời
Đại của Vương Quốc những nghi lễ nầy sẽ tưởng nhớ công việc đã được hoàn tất
của Đức Chúa Trời.
Lời hứa của Đức Chúa
Trời là dân sự tản lạc của Ngài sẽ được nhóm hiệp lại, dân sự hoạn nạn của Ngài
sẽ được giải cứu, và dân sự tội lỗi của Ngài sẽ được tha thứ và không còn mang
sự xấu hổ vì những việc làm gian ác của họ nữa. “Ta sẽ đem các ngươi trở về” (So 3:20) là lời hứa bởi ân điển Ngài, và Ngài sẽ giữ lời hứa đó. Ở những
nơi nào dân Do Thái từng làm ô danh Đức Chúa Trời và từng là tấm gương xấu cho
các dân ngoại, giờ Y-sơ-ra-ên sẽ làm tôn cao và ngợi khen Đức Chúa Trời và cho
các dân ngoại thấy sự vinh hiển của danh Ngài. Y-sơ-ra-ên sẽ được các dân ngoại
tôn trọng và dâng sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời.
Nước Y-sơ-ra-ên được “ra
đời” ngày 14 tháng 5 năm 1948, nhưng sự kiện đó, về mặt ý nghĩa của nó, không
phải là sự ứng nghiệm lời hứa của Đức Chúa Trời về việc tập trung dân sự Ngài
và phục hồi họ. Lời hứa ấy sẽ được ứng nghiệm trong những ngày sau rốt, sau khi
dân Do Thái trải nghiệm “Ngày của Đức Giê-hô-va” và được chuẩn bị để gặp Đấng
Mê-si-a của họ. Nhưng những lời hứa của Ngài sẽ được ứng nghiệm, và dân
Y-sơ-ra-ên của Đức Chúa Trời sẽ được phục hồi và đem vinh hiển lớn lao về cho
Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp, là Đức Chúa Trời, Cha của Đức
Chúa Giê-xu Christ chúng ta.
Nhưng có một bài học
thiết thực ngày nay dành cho mỗi một dân sự của Đức Chúa Trời, là những người
đã xa rời ý muốn của Đức Chúa Trời và kinh nghiệm sự sửa phạt của Ngài. Khi bạn
đến với Ngài bằng tấm lòng tan vỡ, xưng tội lỗi mình, Ngài sẽ chấp nhận bạn như
cách người mẹ chấp nhận đứa con không biết vâng lời của mình. Ngài yêu bạn và
còn hát vì cớ bạn! Ngài sẽ ban sự bình anh cho lòng bạn và “vỗ về bạn trong
tình yêu của Ngài”. Vâng, chúng ta chịu khổ vì sự bất tuân của mình; và đôi lúc
chúng ta đã mang sẹo vì những lần bất tuân trong đời mình. Nhưng Đức Chúa Trời
sẽ tha thứ cho chúng ta (IGi
1:9), quên những tội lỗi của chúng ta, và phục
hồi chúng ta trong mối tương giao đầy tình yêu thương của Ngài.
Ông William Culbertson,
hiệu trưởng quá cố của Viện Kinh Thánh Moody, đôi khi kết thúc lời cầu nguyện
của ông bằng câu, “Và Đức Chúa Trời giúp chúng ta gánh chịu những hậu quả của
tội lỗi đã được tha thứ cho đến cuối cùng.” Có những hậu quả của tội lỗi đã được tha thứ;
vì dù Đức Chúa Trời, trong ân điển của Ngài, thanh tẩy chúng ta, Đức Chúa Trời
trong uy quyền của Ngài phán rằng, “Các ngươi sẽ gặt những gì các người đã
gieo.” Sau khi vua Đa-vít xưng tội mình, tiên tri Na-than đoan chắc với ông
rằng Đức Chúa Trời đã tha tội lỗi ông, nhưng trong quãng
đời còn lại của mình, Đa-vít đã khốn khổ vì những hậu quả bi thảm của những gì
ông đã làm (IISa 12:1-15).
Nhưng khi Đức Chúa Trời
thiết lập vương quốc Ngài trên đất, Ngài sẽ phục hồi dân sự Ngài, làm mới đất,
và ban cho dân sự Ngài một sự bắt đầu mới, qua đó sẽ khiến họ quên những sự bất
tuân trong quá khứ và tập trung ca ngợi Đức Chúa Trời và làm vinh hiển danh
Ngài.
Giê-hô-va là “Đức Chúa
Trời của sự trông cậy.” Vì vậy, Ngài có thể làm đầy chúng ta bằng “mọi điều vui
vẻ và mọi điều bình an trong đức tin” để chúng ta có thể “nhờ quyền phép Đức
Thánh Linh được dư dật sự trông cậy” (Ro 15:13)
Hiện tại bạn có kinh
nghiệm điều đó không?


