TỔ CHỨC
Đức Chúa Trời chẳng phải là Chúa sự loạn lạc... Mọi sự....
Mọi sự đều nên
làm cho phải phép và theo thứ tự.
I Côrinhtô 14:33,40
I. TỔ CHỨC LÀ GÌ ?
Có phải đó là một cơ cấu cứng nhắc không?
Có phải đó là áp đặt một hệ thống không phù hợp lên những
người không muốn làm không?
Có phải đó là giới hạn sự tự do để làm cho xong việc không?
Nếu những câu trả lời của bạn với các câu hỏi trên là "phải"
thì có lẽ bạn đã là một nạn nhân của một tổ chức không đúng
đắn, không lành mạnh rồi. Trong phần này bạn sẽ thấy thể nào
sự tổ chức có
thể và phải là một kinh nghiệm thỏa lòng
và
thể nào đây là
một công cụ quí báu để hỗ trợ cho bạn
trong
việc hồn thành mục
tiêu của bạn.
Định nghĩa: Tổ chức là quá trình đặt người vào một cơ cấu
để hồn thành các mục tiêu.
Có bốn chữ then chốt trong định nghĩa này:
A. Quá trình:
Tổ chức là một quá trình năng động. Do những yếu tố như thay
đổi môi trường,
sự tăng trưởng của tổ chức và chuyển đổi
nhân sự, nên bạn
sẽ cần thường xuyên tái đánh giá sự tổ
chức
của bạn.
Tổ chức không phải được hon thành một lần là đủ cả, nhưng
nó phải có tính cách liên tục.
B. Nhân sự:
Không có người, bạn không có tổ chức. Điều này đã rõ, nhưng
thường khi chúng ta quá lo trang bị đến biểu đồ tổ chức và
sự mô tả công tác đến nỗi chúng ta quên rằng chúng ta đang
làm việc với những
con người thực sự đang sống - những con
người đang có
cá tính nhất định, sự cảm hứng nhất định,
sức
mạnh và sự yếu đuối nhất định.
Chúa đã phán về thân thể
của Ngài - tức
Hội Thánh - như là một "tổ chức"
tập thể đã
được Đức Thánh
Linh kết hợp với Đấng Christ để Ngài làm
đầu.
Đồng thời Ngài cũng rất quan tâm đến từng cá nhân chi thể
và vai trò của
họ trong thân thể. Chúng ta phải cẩn thận
duy trì quan điểm này
và không hề bỏ qua yếu tố nhân sự
trong
việc tổ chức.
C. Cơ cấu:
Một ngôi nhà chọc trời có thể đứng vững trước gió và hàng
ngàn ký áp lực khác bởi vì nó đã được trang bị bằng một khung
thép chắc chắn. Chính cơ cấu này đã tăng cường sức mạnh cho
ngôi nhà và liên kết nó lại với nhau hoặc nói cách khác nó
hiệp nhất các thành
phần riêng với nhau. Cũng một thể ấy,
một cơ cấu tổ
chức phục vụ cho việc nối kết các
cá nhân lại
với nhau và cung cấp
những đường dây thông tin cần thiết
trong tổ chức đó.
D. Các mục tiêu:
Mục đích của bạn trong việc tổ chức nhân sự phải là để hồn
thành một số những
mục tiêu đã định trước. Tổ chức chỉ để
tổ chức mà
không có mục tiêu định trước là điên rồ.
Điều
đó cũng tương tự
như thực hiện một chuyến đi, đưa gia đình
lên xe, đổ xăng
đầy, ra xa lộ và lái quanh không biết đi
đâu.
Tóm lại, tổ chức là một công cụ để thực hiện được các mục
tiêu của kế hoạch thông qua việc sử dụng đúng mức những con
người trong một cơ cấu thích đáng.
II. TẠI SAO PHẢI TỔ CHỨC ?
A. Nếu bạn không tổ chức thì những việc quan trọng sẽ thực
hiện không có
hiệu quả hoặc không thực hiện được gì cả.
Một vấn đề như thế đã xảy ra với Hội Thánh đầu tiên trong
lúc Hội Thánh tăng
trưởng nhanh chóng. Ở Công vụ 6:1-3
chúng
ta đọc thấy một
số người gố bụa đã bị bỏ bê trong việc
cung
cấp thực phẩm. Điều
này khiến các Sứ đồ để ý thấy và họ lập
tức nhận thấy nhu cầu phải xử lý cách có hệ thống hơn về những
trách nhiệm đang gia tăng của Hội Thánh. Kết quả là họ đã
họp hội chúng lại
và giao nhiệm vụ mới cho những người có
đủ phẩm chất. Hội Thánh "đã tổ chức" để bảo đảm những hoạt
động cần thiết
sẽ không bị bỏ bê.
Việc thiếu tổ chức không phải đem lại hậu quả là không làm
xong việc nhưng
thường là một công việc được làm không
có
hiệu quả. Họp
hành nhiều, "cần được cấp cao hơn
chuẩn thuận"
- thường là một
số những dấu hiệu của sự tổ chức kém cỏi.
Hậu quả là nhân
công chán nản, quản lý bỏ cuộc. Đôi khi
chúng
ta quên rằng Đức
Chúa Trời đã truyền lệnh cho chúng ta phải
làm những nhà quản
trị giỏi về những gì Ngài đã ban
cho chúng
ta và điều này bao gồm
những ai đã được Ngài kêu gọi vào
các tổ chức và các
chức vụ của chúng ta.
B. Nếu bạn biết tổ chức, tiềm năng thành đạt của bạn sẽ lớn
hơn.
John Wesley, Dwight L. Moody và John Mott đều được công nhận
như là những người
đã được Đức Chúa Trời sử dụng để
truyền
bá Phúc Âm về
Con Ngài cho hàng vạn người. Không một
ai trong
số họ nỗ lực truyền
bá Tin Lành một mình cả và kết quả
là
họ có lẽ đã giúp đưa
dân chúng về với Đấng Christ nhiều
hơn
bất cứ người nào khác
trong thế kỷ của họ. Tại sao? Họ đã
biết vận động một cách có hệ thống mọi người sẵn sàng tình
nguyện. Nói về sự thành công của họ, Tấn sĩ Paulus Scharpff
trong quyển Lịch
sử Truyền bá Phúc Âm, đã viết:
John Wesley
Tầm quan trọng của Wesley phát xuất chỉ một phần nào trong
sự rao giảng của
ông, nhưng nó còn phát xuất nhiều
hơn từ
tài tổ chức của ông...
Mỗi cộng đồng tôn giáo được chia
ra
thành các nhóm, nghĩa là thành các lớp học 12 người, mỗi tuần
họp lại một lần với người nhóm trưởng... Nhiều lần Wesley
đã sử dụng sự
giúp đỡ của hơn cả chục các hạng nhân sự chuyên
môn khác nhau để chuẩn bị, gây dựng và chăm sóc cho những
cộng đồng này.
Dwight L. Moody
Còn bí quyết về sự thành công lớn lao và kết quả lâu dài trong
công tác của Moody là gì? Ngồi sự hành động của Đức Thánh
Linh, Moody là
một nhà tổ chức đầy ơn, mỗi một chiến dịch
ông đều theo một
kế hoạch nhất định.
... Moody lập lên những nhóm công tác để thảo luận các đề
tài thường kỳ
như làm cách nào để hướng dẫn các buổi
nhóm
cầu nguyện, làm
thế nào để chăm sóc tân tín hữu,
làm thế
nào để nuôi dưỡng
người mới tin Chúa, làm thế nào để
huấn
luyện tín đồ thành các
nhân sự, làm thế nào để đến với
những
người không đi nhà
thờ được... Ông tin rằng chinh phục
được
mười người làm
việc còn tốt hơn là làm công việc của mười
người.
Ông Moody có tài tìm được những người có phẩm chất và đưa
họ vào công việc phục vụ Chúa.
John Mott
Từ Moody, John Mott đã học cách chuẩn bị mọi sự cho đến chi
tiết nhỏ nhất
trong việc tổ chức các buổi nhóm của
ông.
Ông Mott có tài đặc biệt để khám phá những người đặc biệt
đưa vào công tác đặc biệt.
Nói tóm lại, Đức Chúa Trời tôn trọng sự tổ chức và đã sử
dụng nó để giúp hồn thành các mục tiêu của Ngài trong việc
chinh phục thế
giới về cho Đấng Christ. Dầu vậy, điều
quan
trọng cần biết
là sự tổ chức chỉ là một công cụ.
Nếu không
có được quyền năng
từ Thánh Linh của Chúa thì sự tổ chức
sẽ không có hiệu
quả.
III. NHỮNG NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC
A. Chiến lược có trước cơ cấu.
Một trong những sai lầm chung trong việc tổ chức là cứ bắt
đầu tổ chức trước
khi quyết định các mục tiêu và kế hoạch.
Thật là khó, thực
ra là không được, để vận động người ta
làm gì nếu
chính bạn còn chưa rõ trong trí mình
những gì
cần phải hồn thành. Tuy nhiên, điều ngược lại cũng đúng
- sự tổ chức sẽ là sản phẩm phù hợp với việc lập kế hoạch
tốt.
Nê-hê-mi đã nêu gương về nguyên tắc này khi ông quyết định
xây lại vách
thành Giêrusalem. Một công tác lớn như vậy
rõ
ràng sẽ đòi hỏi
sự tham gia của nhiều người. Thế nhưng
Nê-hê-mi
đã không kêu gọi
người khác hiệp lực lại với nhau cho đến
khi ông xem xét tình
trạng sụp đổ của vách thành để lập
chương
trình làm việc cho thời gian sắp tới.
"Tôi chẳng cho ai hay biết sự gì Đức Chúa Trời đã khiến lòng
tôi toan làm vì
Giêrusalem... Ban đêm tôi bắt đường khe đi
lên, xem xét
vách thành... Tôi bèn nói với chúng
rằng...
"Hãy đến, xây cất các vách thành Giêrusalem lại..."
(Nêhêmi
2:12,15-17).
B. Tổ chức quanh các Nhóm Tự Nhiên.
Đôi khi bạn nghe câu nói, "Bạn không thể hòa trộn táo với
cam" nguyên
tắc tương tự rất đúng với sự tổ
chức. Trong bất
cứ kế hoạch nào
cũng thấy có khuynh hướng các nhóm hoạt động
"tự nhiên"
hoặc những nhóm người dương như đi
chung với nhau.
Những nhóm "tự
nhiên" này cần được tổ chức
lại. Bạn có thể
hình dung ra sự tổ
chức giống một loạt các sô nước
liên kết
với nhau bằng những ống dẫn có thể dẫn truyền những thông
tin, tài liệu, và dữ kiện cần thiết. Những hoạt động giống
nhau nhất đòi hỏi
tập trung nhất và thường tác động lẫn
nhau
cần được ở cùng
một sô nước mà chúng ta gọi là một
"nhóm
tự nhiên".
Nê-hê-mi đã áp dụng nguyên tắc này khi ông tổ chức dân chúng
thành các đơn vị
gia đình. Ông rút ra một nhóm tự nhiên vốn
có sẵn. Rồi ông
tiến tới việc chia ra các trách nhiệm một
cách chính xác, điều
này đưa chúng ta đến nguyên tắc
thứ
ba.
C. Phải rõ ràng.
Hãy giao những công tác nhất định. Lần nữa chúng ta hãy xem
gương của
Nê-hê-mi. Ông đã dành cả một chương
sách để ủy
nhiệm những
trách nhiệm rõ ràng cho những người
làm việc
trên vách thành (Nêhêmi 3).
Một thí dụ khác của nguyên tắc này được thấy trong Dân số
ký 3 là chỗ
Chúa ban cho Môi-se "sự mô tả công
tác" với đầy
đủ chi tiết cho
người Lê-vi.
D. Hãy tránh những sự cực đoan.
Là người quản trị, bạn cần biết việc gì xảy ra ở tầng lớp
những người
bình dân nhất trong tổ chức của bạn. Mỗi
tầng
lớp thuộc về tổ
chức hiện diện giữa bạn và tầng lớp người
thấp nhất sẽ có
khuynh hướng làm méo mó hình ảnh của bạn
về những gì đang
thực sự diễn ra.
Mặt khác, những người báo cáo với bạn mong muốn bạn cung cấp
sự hướng dẫn và
sự hỗ trợ trong việc họ lập kế hoạch, tổ
chức và kiểm
tra. Mỗi người xin bạn hướng dẫn thêm sẽ
làm
giảm thiểu khả
năng hướng dẫn thích đáng của bạn.
Vì vậy, cần có sự quân bình giữa tổ chức mặt bằng trong đó
mọi người báo
cáo với một người và hệ thống cấp bậc đa
tầng
với nhiều tầng
mức độ của tổ chức. Sự quân bình tùy thuộc
vào nhiều yếu tố
- tầm vóc của tổ chức, sự sinh sôi nẩy nở
của các hoạt động
đang diễn tiến và tài năng quản trị
trong
tổ chức.
Nói tóm lại, hãy tránh những sự cực đoan và hãy tìm kiếm sự
quân bình trong những tầng lớp thuộc về tổ chức.
IV. CÁCH TỔ CHỨC.
Cách tổ chức gồm có ba phần:
A. Tổ chức từ kế hoạch.
B. Mô tả công tác.
C. Sự Ủy quyền.
V, VI và VII., tương đối soạn kỹ ở trên.
V. TỔ CHỨC TỪ KẾ HOẠCH.
Bố cục này được soạn để dùng với tờ Phiếu Tổ chức trong Phần
8.
A. Các hoạt động.
Hãy liệt kê ra tất cả các hoạt động từ thời biểu kế hoạch
của bạn. Hãy bao gồm trong danh sách này các hoạt động thêm
vào, nếu có, mà
chưa xuất hiện trong kế hoạch của bạn -
tức
là lập kế hoạch, các
nhiệm vụ hành chánh v.v...
B. Các Nhóm Tự Nhiên.
Hãy nhận dạng các nhóm hoạt động có khuynh hướng liên hệ với
nhau cách tự
nhiên.
Khi bạn làm việc hướng về các mục tiêu của bạn, bạn sẽ khám
phá ra một số
các hoạt động đòi hỏi một mức độ cộng
tác chặt
chẽ. Chúng ta gọi những nhóm hoạt động này là "các nhóm tự
nhiên". Những nhóm đó thường rơi vào các đề tài thuộc về
nhiệm vụ hoặc thuộc về địa lý, chẳng hạn tài chánh, hành chánh,
chức vụ cho Đại
học, Khu vực Tỉnh, Quận, vùng Tây Nam , Bắc
Trung v.v...
C. Biểu đồ nhiệm vu.:
1. Hãy dùng các biểu tượng sau đây để kiến tạo các mối liên
hệ giữa mỗi nhóm tự nhiên:
<$&3.VC1[-]>
2. Hãy sử dụng những biểu tượng như trên để kiến tạo những
mối liên hệ giữa
các hoạt động bên trong từng nhóm.
D. Nhân sự.
Hãy liệt kê ra tất cả các nhân sự có sẵn. Hãy đánh giá sơ
lược những điểm mạnh, điểm yếu và kinh nghiệm có trước của
từng cá nhân.
E. Đưa vào cương vị công tác.
Hãy bắt đầu từ đỉnh
của biểu đồ nhiệm vụ và sắp trở
xuống,
đưa người thích
hợp vào mỗi nhóm. Phải luôn luôn
cố gắng
sắp cho đúng một cá nhân vào các hoạt động sẽ tận dụng được
các thế mạnh và những
kinh nghiệm sẵn có của họ.
Lý tưởng nhất là một
người phải hợp với mỗi nhóm tự
nhiên.
Tuy nhiên, trong một số các trường hợp (chẳng hạn, khi các
nhân sự không
có sẵn), một người có thể có một vài
nhóm.
Trong những trường hợp
khác, một cá nhân sẽ không thể nhận
tất cả trách nhiệm cho tồn thể một nhóm tự nhiên. Như vậy,
bạn có thể chia
nhỏ nhóm tự nhiên ra và cử người đó vào
các
hoạt động phụ thuộc đã được lựa chọn.
F. Biểu đồ tổ chức.
Hãy dùng các biểu tượng sau đây để chỉ ra các mối liên hệ
của các nhân sự
của bạn với nhau.
<$&3.VF[-]>
Bên cạnh mỗi tên người, hãy liệt kê các nhóm hoặc các hoạt
động người đó sẽ chịu trách nhiệm.
VI. BẢNG MÔ TẢ CÔNG TÁC.
A. Một bảng mô tả công tác là gì ?
Bước kế tiếp trong sự
tổ chức là định nghĩa rõ hơn và
soạn
ra thật kỹ những trách nhiệm rõ rệt mà mỗi người trong tổ
chức của bạn sẽ có. Bảng mô tả công tác là một công cụ đã
được hoạch định cho mục đích này.
Định nghĩa: Một bảng mô tả công tác là một tài liệu làm việc
trả lời các câu hỏi sau:
1. Những trách nhiệm của tôi là gì?
2. Tôi có thẩm quyền gì?
3. Tôi tìm sự chỉ dẫn với ai?
4. Ai tìm sự chỉ dẫn với tôi?
Điều quan trọng ở điểm này là định nghĩa ba tài liệu sẽ rất
có ý nghĩa khi
chúng ta thảo luận về sự mô tả công tác.
1. Nhiệm vụ:
Một hoạt động đã được
giao phó cho một cá nhân.
2. Thẩm quyền:
Quyền hành để thi hành một nhiệm vụ.
3. Chịu trách nhiệm:
Nghĩa vụ bắt buộc để thi hành nhiệm vụ.
B. Những nguyên tắc của bảng mô tả công tác.
1. Một bảng mô tả công việc phải được xem như một bản hợp
đồng.
Một hợp đồng là một tài liệu để thiết lập một sự kết ước
giữa hai thành phần về một số biện pháp phục vụ hoặc hồn
thành. Cả hai
thành phần đồng ý với bảng hợp đồng bằng
cách
ký tên vào đó.
Trong khi bảng mô tả công tác không đòi
hỏi
sự ký kết chính
thức, nhưng cũng phải xem là có sự
kết ước
với nhau như vậy. Điều
này có nghĩa là cả bạn và người
báo
cáo với bạn đồng ý với
nhau về những nhiệm vụ và những
thẩm
quyền đã được liệt kê
trong bảng mô tả công tác.
Để hồn tất mức độ kết ước của một người nào đó trong tổ
chức của bạn, điều tốt nhất là hãy liên hệ người đó vào việc
phát triển bảng mô tả
công tác riêng của người đó. Điều
này
có thể được thực
hiện bằng cách yêu cầu người ấy lập
bản
thảo mô tả công tác
riêng và nhắc lại cho bạn hay. Một phương
pháp khác có hiệu quả là cùng thảo luận nội dung của bảng
mô tả công tác
với nhau, cố gắng đồng ý về các khái niệm
chung rồi bạn hãy
để cho người đó cơ hội lập bản thảo
riêng
của người đó để
bạn xem xét lại.
Không kể đến quá trình rõ rệt, ở một số điểm cả bạn và người
báo cáo với bạn phải
đồng ý về những nội dung của bảng
mô
tả công tác. Việc này có thể làm đi làm lại vài lần, nhưng
kết quả thì rất tốt đẹp cho mối liên hệ làm việc của bạn,
bởi vì qua quá
trình này bạn sẽ phát huy được một sự kết
ước và hiểu biết
về những gì bạn mong đợi nơi người đó.
Lưu ý: Bạn không nên có một bảng mô tả công tác cho đến khi
cả bạn và người
<_><_><_><_><_><Ạ>báo cáo với bạn đồng ý với
nhau về nội dụng
rõ rệt của nó.
2. Những bảng mô tả công tác phải được phát triển từ trên
trở xuống trong một tổ chức.
Về khía cạnh lý thuyết, không ai có một trách nhiệm mà người
cao cấp hơn của người đó lại không có. Điều này phát triển
một bộ khung
theo hình kim tự tháp về sự chịu trách
nhiệm
ở trong tổ chức
để cho tồn bộ sức nặng của mọi sự
cần thực
hiện được gánh
trên vai của vị lãnh đạo (hoặc giám đốc).
Khi bạn chịu trách nhiệm về tất cả các hoạt động ở trong khu
vực trách nhiệm,
thì trước hết bạn phải biết mọi sự có thể
được tiến hành.
Vì vậy, bảng mô tả công tác của bạn phải
chứa đựng (theo
nghĩa rộng) tất cả những gì sẽ xảy ra dưới
quyền của bạn.
Khi bạn phát triển các bảng mô tả
công tác
cho những người dưới
quyền (người phải báo cáo với bạn)
thì
thực ra bạn sẽ là người mở rộng (diễn rộng) những gì đã chứa
đựng trong bảng mô
tả công tác của chính bạn.
3. Các bảng mô tả công tác phải năng động.
Một bảng mô tả công tác phải được chính thức ôn lại, xem
lại ít nhất mỗi năm một lần để mở rộng các trách nhiệm và
thẩm quyền của
những nhân sự của bạn. Tuy nhiên, bạn sẽ
thấy
rằng trong năm
bạn cần phải bao gồm thêm những trách
nhiệm
mới. Những trách nhiệm
này có thể thêm vào tài liệu hiện
có rất dễ dàng. Mức độ thay đổi trong một bảng mô tả công
tác trong nhiều
khía cạnh, có thể là một sự chỉ dẫn về sự
năng động và sự
tăng trưởng của tồn bộ tổ chức.
C. Cách viết một bảng mô tả công tác.
1. Hãy nêu lên đề mục của công việc. Đề mục phải phản ánh
những gì một người làm và địa vị liên hệ của người đó trong
tổ chức.
2. Hãy quyết định mục đích tổng quát của công việc.
Biểu đồ tổ chức sẽ cho
bạn một sự tóm lược tốt về những
thành
phần chính trong công
việc. Mục đích phải được nêu ra
trong
một câu tóm lược ngắn. Thông thường, một hay hai câu là đủ.
3. Hãy nêu lên lãnh vực của công việc.
Lãnh vực chỉ về biên giới địa lý hay nhiệm vụ của công việc.
Chẳng hạn, trong một tổ chức quốc tế, bạn sẽ cần phân biệt
giữa các hoạt động
ở Hoa Kỳ và Anh Quốc (về phương diện địa
lý) và giữa các
trách nhiệm thuộc về tài chánh và tiếp
thị
(thuộc nhiệm vụ).
4. Hãy liệt kê ra các lãnh vực trách nhiệm rõ rệt mà công
việc đó bao gồm
cũng như thẩm quyền thích đáng dành cho
mỗi
trách nhiệm đó.
Từ biểu đồ tổ chức
hãy liệt kê ra các nhóm trách nhiệm
theo
nghĩa rộng nhất. Rồi dưới mỗi nhóm, hãy liệt kê các trách
nhiệm chi tiết
hơn để mô tả những gì phải được thực hiện
trong nhóm đó.
Mỗi trách nhiệm đòi hỏi một mức độ quyền hành để nhân sự
của bạn biết được phạm
vi quyền hạn mà họ có trong khi họ
thi hành nhiệm
vụ được giao.
Trong bảng mô tả công tác có ba dạng quyền hành:
a. Hành động:
Quyền này giúp cho một cá nhân thực hành nhiệm vụ đặc biệt
theo sáng kiến riêng của người đó. Người đó không cần tìm
sự chấp thuận của
cấp cao hơn cũng không cần báo cáo kết
quả cho thượng
cấp.
b. Hành động và báo cáo:
Một người có thể thi hành nhiệm vụ được giao, nhưng phải
báo cáo kết quả với thượng cấp.
c. Hành động sau khi được chấp thuận:
Không được hành động
gì cho đến khi được thượng cấp chấp
thuận rõ rệt.
Để định rõ thẩm quyền
thích đáng, bạn cần nhớ trong trí
hai
yếu tố trách nhiệm và nhân sự. Một số trách nhiệm cần có nhiều
quyền hạn hơn các nhiệm vụ khác. Chẳng hạn trách nhiệm càng
nhiều chi tiết
và càng giới hạn trong lãnh vực thì càng
cần
nhiều quyền hạn
hơn.
Thật hợp lý khi người có nhiều kinh nghiệm và khả năng hơn
thì nên được
giao cho nhiều quyền hạn hành động hơn. Điều
này sẽ giúp bạn
trao nhiệm vụ hợp với sự huấn luyện và bối
cảnh của người đó.
Một mục đích của tất cả các nhà quản trị
phải là tăng gia
số trách nhiệm có thẩm quyền tương
ứng để
hành động.
<$&4.c[-]>
5. Hãy liệt kê những người liên hệ trách nhiệm trong công
việc với những
ý sau:
a. Tôi báo cáo với:
b. Người báo cáo trực tiếp với tôi:
c. Tôi làm việc chặt chẽ với:
VII. SỰ ỦY QUYỀN
A. Sự ủy quyền là gì ?
Trong phần trước chúng ta đã học cách làm thế nào để viết
bảng mô tả công
tác. Những bảng mô tả công tác này sẽ
cho
dân sự của bạn
những con đường để đi và một cảm tưởng
là
họ "đang được
tổ chức". Tuy nhiên, sau một thời
gian bạn
sẽ khám phá ra
nhu cầu cần trao thêm trách nhiệm cho
nhân
sự của bạn - tức những
nhiệm vụ mà cho đến nay bạn vẫn đang
tự làm. Đây là quá trình mở rộng trách nhiệm và quyền hành
cho người dưới quyền mà chúng ta gọi là sự ủy quyền.
Sự ủy quyền không phải là trao những nhiệm vụ thường làm cho
bất cứ người
nào có sẵn. Việc này đôi khi cần thiết,
nhưng
không nên nhầm lẫn
nó với quá trình ủy quyền.
Khi sử dụng đúng đắn thì sự ủy quyền sẽ luôn luôn có một hiệu
quả rõ rệt trên người được trao thêm trách nhiệm và quyền
hành. Cá nhân đó
phải cảm thấy trách nhiệm bản thân về
nhiệm
vụ họ được
giao. Chưa thấy có hiệu quả đó thì
sự ủy quyền
vẫn chưa xảy ra.
Định nghĩa: Sự ủy quyền là quá trình đang tiếp diễn qua đó
người quản trị trao thêm trách nhiệm và quyền hành. Hành động
trao thêm quyền
này phải được thực hiện như thế nào để
cho
cá nhân nhận
lãnh có được một mức độ gánh nặng hay một
ý
thức về trách
nhiệm mới thì sự ủy quyền này mới có hiệu
quả.
Sự ủy quyền thực sự được nhìn thấy nơi gương của Môi-se là
người lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên. Sau khi vượt qua Biển Đỏ, Môi-se
đã bị dân Y-sơ-ra-ên
bao vây từ sáng đến chiều tối. Vì ông
là người lãnh đạo
của họ nên họ đều chạy đến với ông để
xin
đủ loại quyết định.
Khi tính kỹ số người dưới quyền lãnh đạo của Môi-se lên đến
hơn hai triệu người thì ta không lạ gì khi hầu như tồn bộ
thời giờ của
Môi-se đều dùng cho các sự hội họp với
dân chúng.
Ông Giê-trô, nhạc phụ của Môi-se, thấy tình trạng đó và tuyên
bố rằng nếu tiếp tục như vậy thì Môi-se lẫn dân sự của ông
đều sẽ hư mất.
Giê-trô đã đề nghị đặt
những nhà cai trị trên hàng ngàn,
hàng trăm, hàng năm mươi và hàng mười người. Nhưng việc này
không mà thôi vẫn chưa giải quyết được vấn đề. Vì chúng ta
đọc thấy trong
Dân số ký 11:11, Môi-se vẫn cảm thấy
trách
nhiệm về tất cả
dân chúng. Gánh nặng quá lớn đến
nỗi Môi-se
thậm chí đã nài
xin Đức Chúa Trời cất mạng sống của
ông đi
hơn là để ông tiếp
tục ở trong những hồn cảnh đó
(Dân số
ký 11:15).
Tuy nhiên, Chúa có một giải pháp. Bảy mươi người lãnh đạo
từ tổ chức ban đầu của Môi-se đã được chọn để nhận lãnh Thánh
Linh của Đức Chúa Trời. Tại sao? "Để họ chịu gánh nặng về
dân sự với ngươi và ngươi không phải gánh một mình" (Dân số
ký 11:17). Chỉ sau khi bảy mươi trưởng lão này chịu gánh nặng
với Môi-se thì
Môi-se mới lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên một
cách
có hiệu quả trong việc vượt qua đồng vắng.
Trừ khi quá trình ủy quyền có kết quả trong cá nhân nhận nhiệm
vụ mới bằng sự chia sẻ gánh nặng hay một ý thức trách nhiệm
nơi bản thân của người ấy thì sự ủy quyền vẫn chưa xảy ra.
Cho đến lúc đó
sẽ không ích lợi gì cho cả người quản trị
lẫn người được ủy
quyền.
B. Tại sao phải ủy quyền ?
1. Nếu bạn không ủy quyền:
a. Công việc của bạn nhiều lần sẽ trở nên quá lớn cho bạn.
Điều này đặc biệt đúng nếu bạn đang ở trong một tổ chức đang
phát triển.
b. Bạn sẽ có khuynh hướng gánh tất cả gánh nặng trên vai của
bạn mà thôi,
khi những người khác đang tìm cơ hội để
chia
thêm gánh nặng
cho bạn.
c. Nhân sự của bạn sẽ trở nên lãnh đạm và không chịu làm
việc đồng thời họ không cảm thấy được thách thức và hứng
thú làm việc.
2. Nếu bạn ủy quyền:
a. Chính bản thân bạn sẽ có lợi là có người khác chia sẻ
gánh nặng về chức vụ với bạn.
b. Dân sự của bạn sẽ phát huy sự tự tin và khả năng nhận
thêm trách nhiệm.
c. Tồn bộ công việc đã hồn thành sẽ gia tăng.
C. Những nguyên tắc của sự ủy quyền:
1. Khả năng của bạn để động viên người mà bạn đang ủy quyền
trong nhiều cách sẽ quyết định thành công hay thất bại của
người đó.
Trong khi kỹ thuật của sự ủy quyền rất quan trọng, thì thái
độ mà bạn bày tỏ
ra có thể phủ định bất cứ lời nói nào bạn
có thể nói ra.
Nếu bạn có thái độ tích cực về bất cứ lầm
lỗi nào mà người
ấy làm, thì người đó sẽ biết rằng bạn đứng
về phía người ấy. Bạn cần truyền thông cho người ấy biết tầm
quan trọng của
công việc mà bạn giao cho người ấy và
cách
nó liên hệ đến
hình ảnh to lớn hơn. Bạn cần cho người ấy
biết bạn sẵn sàng
giúp đỡ người đó và giải quyết mọi
vấn
đề xảy ra.
Những thái độ này về phần bạn và cách bạn truyền thông, sẽ
ảnh hưởng mạnh đến sự sẵn sàng của người đó trong việc đảm
nhận những trách nhiệm mới.
Một em bé sẽ làm sao học đi được nếu mỗi lần ngã xuống em
lại bị đánh đòn? Và làm sao một người được thúc giục để đảm
nhận một công tác mới
mẻ, khó khăn hơn nếu người đó cảm
biết
thái độ khiển trách từ
cấp lãnh đạo về mỗi lần sai phạm
của
mình.
Nói tóm lại, sự thúc đẩy, động viên phải là một phần căn
bản cần thiết của quá trình ủy quyền.
2. Phải biết rõ về sự phát triển bản thân của nhân viên của
bạn và ủy nhiệm cho họ một số trách nhiệm mới cùng với một
thẩm quyền thật
đủ lượng và đúng lúc.
Sẽ có một lúc nào đó
trong sự phát triển của một cá nhân
khi người đó sẵn sàng đảm nhận những trách nhiệm mới. Một
nhà quản trị mà không có khả năng nhận diện đúng lúc sẽ tạo
ra sự thất vọng
không cần thiết cho một cá nhân do sự đòi
hỏi nhận lãnh
quá nhiều quá sớm hoặc do sự nhận
lãnh quá
ít quá trễ. Điều
ích lợi nhất là nên có những buổi
thảo luận
định kỳ với các
nhân viên của bạn để duy trì một
sự hiểu
biết về sự phát triển
của họ và để khám phá ra khả năng
ủy
nhiệm những trách nhiệm mới cho họ.
3. Sự ủy quyền đòi hỏi
bạn phải dành thì giờ và sự theo
dõi.
Ủy thác một trách nhiệm mới cho một người chỉ là khởi đầu
công việc của bạn. Bạn phải luôn luôn thấy rằng bạn cần phải
đầu tư thời giờ
của bạn vào đó. Thực ra, nhiệm vụ khó nhất
sẽ là theo dõi
người khác làm một việc mà chính bạn có
thể
làm nhanh hơn
và hiệu quả hơn. Nhưng nên nhớ rằng
bạn đang
đầu tư thời giờ
cho sự phát triển lâu dài, chứ
không nhất
thiết cho dự án ngắn
hạn.
Là nhà quản trị bạn sẽ luôn luôn chịu trách nhiệm về mọi việc
xảy ra dưới quyền bạn, nên bạn phải duy trì một hệ thống kiểm
sốt. Điều này
cho phép bạn giám sát sự tiến triển của
các
lãnh vực bạn đã
ủy quyền. Điều này cho phép bạn có thái độ
tích cực đối với
các sai lầm, nhưng cũng cho bạn tin tức
cần thiết để biết khi nào bạn nên can thiệp trước khi công
việc bị thiệt hại. Bạn sẽ khám phá rằng khi bạn có được thông
tin cần thiết về những gì đang xảy ra, bạn sẽ sẵn sàng hơn
trong việc ủy
quyền cho những người khác.
4. Phải cẩn thận về những hành động của bạn có khuynh hướng
làm mâu thuẫn hơn là củng cố một sự ủy quyền trước đó của
bạn.
Chúng ta đều là những con người có thói quen -- kể cả người
làm công tác quản
trị. Một số thói quen có thể có hậu quả
tai hại cho quá
trình ủy quyền. Đó là:
a. Nhấn mạnh đến việc tự mình đưa ra tất cả các quyết định
quan trọng.
b. Trao nhiệm vụ thi hành, nhưng không trao quyền hành để
làm xong công việc.
c. Cất đi một vấn đề khỏi tay người phụ tá và đưa ra một
quyết định khi người đó chỉ muốn thảo luận vấn đề đó với
bạn mà thôi.
d. Chiếm quyền của người phụ tá khi trực tiếp chỉ dẫn cho
người dưới quyền
của người đó.
e. Không chịu cung cấp tin tức thích hợp cho người dưới quyền
để người đó tự quyết
định trong lãnh vực của người đó.
f. Hủy bỏ những quyết định của người phụ tá ngay cả khi người
đó làm tốt trong lãnh vực trách nhiệm của mình.
Hãy nhớ: Những trách
nhiệm và quyền hạn được ủy thác
chỉ
trở nên hiện thực thông qua sự thực tế và chúng sẽ không
tồn tại khi chúng không thể thực hiện cách thành công.
D. Cách ủy quyền:
Bố cục này được soạn để dùng với Bài tập Ủy quyền ở Phần
8.
1. Sự chuẩn bị:
Đây là lúc bạn với tư cách nhà quản trị quyết định xem bạn
muốn ủy quyền điều gì và cho ai. Có ba bước để đi đến quyết
định này:
a. Các hoạt động:
Quyết định các hoạt động gì cần ủy quyền.
(1) Hãy liệt kê tất cả các hoạt động mà bạn đã được giao
phó. Hãy dùng bảng mô tả công tác và kế hoạch hằng năm làm
tài liệu tham
khảo.
(2) Hãy liệt kê thứ tự ưu tiên về các hoạt động. Đây là sự
lượng định của bạn về
tầm quan trọng của mỗi nhiệm vụ.
(3) Hãy ước lượng thời
gian cần thiết để thực hiện mỗi
hoạt
động. Hãy suy nghĩ theo giờ, ngày hoặc tháng - tùy theo sự
thích hợp cho một
hoạt động.
(4) Hãy bắt đầu với ưu tiên thấp hơn, các hoạt động tốn thời
gian và hỏi, "Có phải đây là việc mà chỉ một mình tôi làm
được
không?". Nếu không, thì hoạt động
này có thể ủy quyền
cho người khác.
Bằng cách làm như vậy, bạn có thể rút ra
được một danh sách
những hoạt động chính có thể ủy
nhiệm.
b. Nhân sự:
Quyết định xem bạn có thể ủy quyền một số các hoạt động này
cho ai.
(1) Hãy liệt kê các nhân sự sẵn có của bạn.
(2) Hãy lượng định ngắn gọn các điểm mạnh và yếu của họ.
(3) Hãy lượng định ngắn gọn giai đoạn phát triển của mỗi người.
Chẳng hạn, tiềm năng dài hạn của người này trong tổ chức là
gì? Người này cần
được huấn luyện gì cho tương lai?
c. Sắp đặt các hoạt động cho hợp với từng người.
(1) Hãy bắt đầu với hoạt động đầu tiên có thể ủy quyền và
giao cho người có đủ khả năng thực hành công việc đó nhất.
Bằng cách giao việc cho người có thế mạnh, bạn giúp củng cố
động lực cho người
đó và tạo thêm lòng tin để người đó có
thể nhận thêm
trọng trách. Khi thời gian trôi qua bạn
có
thể cố gắng phát
triển những điểm yếu của người đó,
nhưng
hãy luôn luôn bắt đầu
bằng sự ủy quyền cho một người có
thế
mạnh.
(2) Hãy quyết định mức độ thẩm quyền nào là cần thiết để
ủy quyền -- hành động, hành động và báo cáo hoặc hành động
sau khi được chấp
thuận.
(3) Hãy quyết định phương cách và thời gian theo dõi. Đây
là một điểm rất
quan trọng. Nếu không quan tâm thì sự ủy
quyền chẳng khác nào
sự bỏ mặc. Bạn phải đưa ra thời
giờ
rõ rệt bên cạnh thời biểu của bạn để gặp gỡ người ấy nhằmđiểmlại
sự tiến bộ của
công tác người ấy được giao.
(4) Hãy quyết định sự huấn luyện gì người ấy cần có trước
khi được ủy quyền. Rất hiếm khi một người đã được chuẩn bị
hồn tồn để đảm nhận một trách nhiệm mới mà không có một
hình thức huấn luyện thêm nào.
2. Sự truyền thông.
Phải dành riêng một thời gian rõ rệt cho việc ủy quyền ban
đầu xảy ra.
Trong lần họp mặt giữa bạn và người mà bạn ủy quyền, bạn
phải truyền thông những điều sau:
a. Một câu nói được định nghĩa rõ về hoạt động cần ủy nhiệm.
b. Mức độ thẩm quyền của người đó trong lãnh vực này.
c. Một sự tin cậy và sự giao phó cho người đó trong thời
gian người đó đảm nhận công việc.
d. Một khải tượng về tầm quan trọng của những gì bạn đang
yêu cầu người đó
làm và một tầm nhìn về ý nghĩa của công
việc này trong
một hình ảnh lớn hơn.
e. Cách bạn sẽ chuẩn bị cho người đó về trách nhiệm mới này
và sự gặp gỡ thường
xuyên cũng như cách gặp gỡ với người
ấy trong tương lai gần.
Khi cả hai đồng ý về trách nhiệm mà bạn đang ủy thác, hãy
ghi trách nhiệm
mới này vào bảng mô tả công tác.
3. Sự theo dõi.
Đây là lúc người được
bạn ủy quyền bắt đầu trách niệm mới
của mình. Điều cần thiết ở đây là qua hệ thống kiểm sốt
của bạn, bạn phải biết rõ các kết quả những nỗ lực của người
đó. Điều quan trọng không kém là bạn nên làm một huấn luyện
viên hơn là một
cầu thủ.
<$&3.VII3[-]>
Bạn có khuynh hướng hay xen vào và giải quyết giùm các vấn
đề của người đó.
Nhưng nếu bạn tiếp tục suy nghĩ đến vai
trò của bạn như
là một huấn luyện viên hơn là một cầu thủ,
thì bạn sẽ để
cho người ấy một cơ hội để tự
phát huy.
Công việc theo dõi tồn bộ của bạn phải thường xuyên và thân
mật. Trong những cuộc họp này, bạn cần hướng dẫn người đó
đến với những kết luận về công việc của người đó. Hãy bắt
đầu với những sự thành
công của người đó, nhưng đừng bỏ
qua
các lãnh vực có vấn đề. Bạn phải vừa thừa nhận họ và gợi
ý về cách họ có thể sửa sai.
Tóm lại, sự ủy quyền là một quá trình có tính tổ chức đang
tiến hành nhằm cố gắng phát triển các cá nhân và gia tăng
sự hiệu quả
chung của những nỗ lực của bạn trong tư
cách
một nhà quản trị.
VIII. SỰ ÁP DỤNG
A. Thí dụ:
Những trang sau đây là những mẫu Phiếu Thực Tập để làm thí
dụ về sự Tổ chức.
Về sự LẬP KẾ HOẠCH, trước hết hãy đọc
một điểm ở mục bố cục "Cách tổ chức" và hãy đọc tiếp câu
trả lời về điểm đó trên mẫu Phiếu Thực tập.
B. Sự Tổ chức của bạn:
Bây giờ hãy áp dụng phần tổ chức vào công việc của bạn. Trước
hết hãy đọc một điểm bố cục, hãy suy nghĩ cách áp dụng vào
hồn cảnh của bạn
và điền câu trả lời vào trong phần tương
ứng của Phiếu
Thực Tập Tổ chức trong Phần 8. Hãy bắt đầu
với mục "V. TỔ
CHỨC TỪ KẾ HOẠCH".


