ĐỀ
TÀI: ĐỨC CHÚA TRỜI KHÔNG ẨN MẶT
KINH
THÁNH: XUẤT 1:1-22
NHẬP
ĐỀ:
Mở đầu sách Xuất-ai-cập là một loạt danh xưng Hê-bơ-rơ của Gia-cốp
và các con ông. Chúng ta có thể hỏi vì sao Kinh Thánh lại ghi chép về phần lịch
sử của một dân tộc với những nhân vật xa lạ như vậy?
Những chuyện cổ đó có liên quan gì đến niềm tin của tôi là những
người đang sống trong thế giới văn minh, hiện đại này? Tại sao tôi cần phải
nghiên cứu sách Xuất-ai-cập?
Mặc dù sách Xuất-ai-cập ghi lại những bước đầu hình thành dân tộc
Do Thái nhưng đây cũng là mặc khải của Ngài về chính Ngài. Và cao điểm của sách
nói về sự giải cứu nhờ con sinh của lễ vượt qua là hình bóng về Chúa Cứu Thế
phải chịu chết để cất tội lỗi của cả thế gian đi. Theo Phúc âm Giăng 1:29 và I
Cô-rinh-tô 5:7.
Vì vậy, ta cần đọc sách này để biết Chúa và nhận biết quá trình
nhận biết Chúa của dân tộc Y-sơ-ra-ên rồi áp dụng cho mình.
Phúc âm Luca ký thuật về Chúa Cứu Thế đã dùng Kinh Thánh Cựu ước
dạy các môn-đồ như sau: Luca
24: 27-32.
Cho nên học Lời Chúa trong Cựu Ước giúp ta biết được chương trình
cứu rỗi của Đức Chúa Trời và làm cho đức tin chúng ta được sống động, mạnh mẽ.
Các học giả Kinh Thánh cho biết sách Xuất-ai-cập do Môi-se viết
vào khoảng năm 1450 T.C cho đến năm 1410 T.C.
Theo chương 24:4 và Dân số ký 33:2; Phục truyền 31:9. Môi se đã
viết sách này trong khoảng thời gian 40 năm, đang khi ông giữ vai trò lãnh đạo
Y-sơ-ra-ên tức là vào những năm cuối đời của Môi-se.
Theo chương 7:7 và Phục truyền 34:7.
Để hiểu rõ từng chi tiết trong sách, chúng ta cần biết bối cảnh
của sách này. Kinh Thánh cho biết thời gian mà Y-sơ-ra-ên cư ngụ tại đất Ai-cập
là 430 năm ( Xuất 12:40).
Mặc dù, nhờ ảnh hưởng của Giô-sép, dân Y-sơ-ra-ên một thời đã được
vua Pha-ra-ôn ưu đãi nhưng sau đó họ bị vua Ai-cập bắt làm nô-lệ.
Đức Chúa Trời đã có một chương trình đặc biệt để giải cứu và dạy
dỗ họ, để họ trở nên một dân tộc thuộc riêng về Ngài. Lúc này, Ai-cập đang được
cai trị bởi những triều đại hùng mạnh.
Môi-se được sinh ra trong bối cảnh đó, được sống trong cung điện
40 năm dưới thời các Pha-ra-ôn đệ nhất và đệ nhị. Công vụ 7:22 cho biết “
Môi-se được học mọi sự khôn ngoan của người Ê-díp-tô, rồi trong 40 năm tiếp
theo chăn chiên trong xứ Ma-đi-an. Môi-se đã trở về Ai-cập theo tiếng gọi của
Đức Chúa Trời đến gặp Pha-ra-ôn đệ nhị để dắt dân tộc Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập
tiến về đất hứa.
Sách Xuất-ai-cập cho thấy dòng dõi của Gia-cốp tại Ai-cập được
tăng trưởng nhanh chóng và được cứu ra khỏi Ai-cập để trở thành một dân tộc
thuộc riêng về Chúa dưới chế độ thần trị tức là được sự lãnh đạo của Đức Chúa
Trời.
Một số chủ điểm quan trọng trong sách Xuất-ai-cập như sau:
I.
CHÚA LÀ ĐẤNG
THÀNH TÍN ( 1:6)
Đọc phần mở đầu của sách Xuất-ai-cập, chúng ta gặp lại tuyển dân
Y-sơ-ra-ên và nhớ lại lời hứa của Chúa dành cho họ. Theo lời hứa của Đức Chúa
Trời với Áp-ra-ham.
Dòng dõi Áp-ra-ham sẽ trở nên một dân lớn và là nguồn phước cho
mọi chi tộc thế gian. Sách Xuất-ai-cập nhắc lại những điểm chính của sách
Sáng-thế-ký chương 46. Để làm bối cảnh tiếp nối cho những sự việc sắp đến trong
lịch sử của tuyển dân Chúa.
Đức Chúa Trời đã kêu gọi Áp-ra-ham ra khỏi quê hương đi đến đất
hứa và nhiều lần phán hứa với ông cũng như con cháu của ông rằng: “ ngươi sẽ
thành một nguồn phước và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước”
Con cháu Áp-ra-ham là Y-sác, Gia-cốp, Giô-sép cũng đi theo tiếng
gọi đó. Chúa đã dùng Giô-sép được ơn trước mặt Pha-ra-ôn và đem phước đến cho
Ai-cập.
Chúa cũng dùng đất Ai-cập để bảo vệ, nuôi dưỡng 70 người trong đại
gia đình Gia-cốp làm cho họ trở thành một dân tộc đông đảo có dân số lên đến
600.000 người nam. Nếu kể cả phụ nữ và trẻ con có thể khoảng 3 triệu người (
Xuất 12:37).
Qua tuyển dân Đức Chúa Trời Ngài vẫn đang thực hiện lời Ngài đã
hứa về chương trình lâu dài của Ngài để đem phước Chúa đến cho mọi chi tộc ở
thế gian. Và phước lớn lao nhất là Chúa Cứu Thế vào đời hoàn tất ơn cứu rỗi tội
nhân và mặc khải cho toàn nhân loại về tình yêu của Chúa dành cho họ.
Giữa thế gian đầy đau khổ và tội ô này, Chúa cũng kêu gọi chúng ta
theo Ngài để gánh vác, trách nhiệm giao giảng Tin mừng cứu rỗi, đem hạnh phúc
thật cho nhân loại.
Chỉ khi nào chúng ta bằng lòng tin cậy và đi theo Chúa như
Áp-ra-ham thì chúng ta mới có thể đem phước của Chúa đến cho đồng bào, đồng
loại.
Phần Kinh Thánh này của Chúa còn cho chúng ta thấy lời hứa của
Chúa không đổi thay cho dù đời người ngắn ngủi – theo câu 6 “Vả, Giô-sép và anh em người cùng
mọi kẻ đồng đời đó đều chết hết.”
Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp đã chết rồi Giô-sép và các anh em của
ông cũng đều chết.
Dầu vậy, lời hứa của Chúa đối với Áp-ra-ham vẫn còn có giá trị cho
ông và con cháu của ông.
Chúa đã hứa với Áp-ra-ham “Ta
sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh
ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc
phước ngươi, rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ
ngươi mà được phước.” (
Sáng-thế-ký 12:2-3).
Những lời vắn tắt chúng ta học ở đầu sách Xuất-ai-cập cho thấy
rằng Chúa vẫn tiếp tục làm trọn lời hứa của Ngài đối với tuyển dân cho dù mọi
kẻ đồng đời đó đều chết hết.
Dù các thế hệ trước có qua đi nhưng con cháu Y-sơ-ra-ên thêm nhiều
lạ lùng, nẩy nở ra và trở lên rất cường thạnh cả xứ đều đầy dẫy.
Mặc dù chúng ta là con người bị giàng buộc trong nhiều giới hạn và
phải đối diện với cái chết về thân xác nhưng nếu tin cậy Chúa, những lời Chúa
hứa cho ta về ơn cứu rỗi và phước hạnh đời đời chắc chắn sẽ không đổi thay và
sẽ được Chúa làm cho trọn.
Trong thư Ga-la-ti 3:7 sứ đồ Phao lô nói rằng “vậy anh em hãy nhận biết rằng
những kẻ có đức tin là con cháu thật của Áp-ra-ham.”
Vì vậy, nếu chúng ta có lòng tin cậy Chúa thì cũng đương nhiên
thuộc về dòng dõi đức tin là con cháu thật của Áp-ra-ham và là dân thuộc riêng
về Chúa. Những lời hứa phước hạnh mà Chúa dành cho con cháu Áp-ra-ham chắc chắn
cũng sẽ thuộc về chúng ta.
Dù đời sống ngắn ngủi đến đâu, mỗi người theo Chúa nhờ ân sủng
Chúa sẽ trở nên nguồn phước cho nhiều người. Chúng ta là phước hạnh cho nhiều
người.
Nhưng đối diện với khó khăn, thử thách thì sao? Hình ảnh tuyển dân
đem lại cho chúng ta niềm khích lệ. Họ được thịnh vượng giữa cơn bách hại. Thế
lực của Ma-quỷ và thế gian không bao giờ muốn tuyển dân Chúa lớn mạnh và thịnh
vượng mà chỉ muốn tận diệt.
Để áp dụng phần Kinh Thánh này vào trong đời sống chúng ta, chúng
ta có thể thắc mắc vì sao Đức Chúa Trời để cho con dân Chúa chịu áp chế lâu dài
như vậy?
430 năm trên đất Ai-cập mà đa phần dân Chúa phải sống trong thân
phận nô-lệ. Vì sao Chúa dường như ẩn mặt và yên lặng khi con dân Chúa chịu khốn
khổ? Câu trả lời cho vấn đề chịu khổ không đơn giản.
Nhưng qua Lời Chúa chúng ta học trong Kinh Thánh, qua lịch sử Hội
Thánh, qua lịch sử tuyển dân và qua những cuộc đời như ông Gióp, như Giô-sép và
nhất là cuộc đời của Môi-se mà chúng ta sẽ cùng học trong những ngày sắp đến.
Chúng ta có thể quả quyết rằng: Chúa cho phép những khổ nạn đó diễn ra trong
cuộc đời con dân Chúa là vì lợi ích cho họ.
Nhìn lại những chặng đường mà Hội Thánh Chúa đã trải qua, các giai
đoạn khó khăn nhất, phải chăng là đã làm lợi cho Hội Thánh vô cùng. Tinh luyện
đức tin giúp người theo Chúa trưởng thành, được yêu mến Chúa hơn và càng giúp
cho con dân Chúa biết tận hiến cuộc đời cho Nước đời đời của Chúa hơn là những
hoàn cảnh dễ dãi và nhàn hạ.
Cho nên, cảnh khổ cũng có nhiều giá trị tích cực cho người theo
Chúa. Quý vị và các bạn có đang đối diện với những hoàn cảnh thử thách, khó
khăn hay là bách hại đức tin không?
Trong thư Gia cơ 1:2-3 sứ đồ Gia-cơ khuyên “Hỡi anh em, hãy coi sự
thử thách trăm bề thoạt đến cho anh em như là điều vui mừng trọn vẹn, 3 vì biết
rằng sự thử thách đức tin anh em sanh ra sự nhịn nhục.”
I Phi-e-rơ 1:6-7 sứ đồ Phi-e-rơ khích lệ cho các tín hữu khi họ bị
bách hại đức tin “Anh em vui
mừng về điều đó, dầu hiện nay anh em vì sự thử thách trăm bề buộc phải buồn bã
ít lâu; 7 hầu cho sự thử thách đức tin anh em quí hơn vàng hay hư nát, dầu đã
bị thử lửa, sanh ra ngợi khen, tôn trọng, vinh hiển cho anh em khi Đức Chúa
Jêsus Christ hiện ra.”
Nguyện ân sủng Chúa giúp cho sức mạnh đức tin và tâm linh chúng ta
sẽ càng được phong phú thêm bội phần.
II.
CHÚA BAN PHƯỚC CHO
NGƯỜI KÍNH SỢ NGÀI ( 1:17-21)
Tiếp theo đó là một đối sách tàn nhẫn và độc ác hơn nữa để ngăn
chặn dân Y-sơ-ra-ên phát triển, Pha-ra-ôn kín đáo và gây áp lực cho các bà mụ
của dân Hê-bơ-rơ phải giết các bé trai khi mới vừa chào đời. Lệnh vua vừa ban
ra, dầu là lệnh mật nhưng rất nghiêm ngặt và nếu không thực hiện thì có thể mất
mạng ( Công vụ 7:19) cho thấy âm mưu diệt chủng của vị vua này.
Theo lời của ông Ê-tiên vua đã quỷ quyệt lợi dụng giống nòi ta,
ngược đãi, áp bức tổ tiên ta bắt họ vứt bỏ trẻ sơ sinh không cho đứa nào sống
sót. Tuy nhiên, các bà mụ kính sợ Đức Chúa Trời họ đã không làm theo lệnh vua,
thà hy sinh mạng sống mình chứ không giết các bé trai mới ra đời.
Hai bà Siếp-ra và Phu-a có lẽ là hai người đứng đầu trong số nhiều
người nữ hộ sinh khác. Lý lẽ của hai bà về các em bé chào đời trước khi bà mẹ
đến, vì bà mẹ Hê-bơ-rơ mạnh khỏe hơn người Ai-cập đã được Pha-ra-ôn chấp nhận
cho thấy đó là một sự thật hiển nhiên mà hai bà có thể viện dẫn.
Theo chương Rô-ma 13:1-14 và I Phi-e-rơ 2:13-17 lời Chúa khuyên
tín hữu phải tuân phục bậc cầm quyền. Nhưng Rô-ma 13:5 lưu ý rằng: sự vâng phục
của chúng ta không được đi ngược lại với lương tâm của chúng ta.
Khi các luật lệ của con người đi trái với luật lệ của Đức Chúa
Trời thì chúng ta phải vâng lời Đức Chúa Trời hơn là vâng lời người ta.
Như trong trường hợp của Đa-ni-ên. Sách tiên tri chương 3:1-30 và
Công-vụ 5: 29 Phi-e-rơ và các sứ đồ trả lời rằng: Thà phải vâng lời Đức Chúa
Trời còn hơn là vâng lời người ta.
Và đối với trường hợp của các sứ đồ trong Công vụ 4: 18-19.
Sau một thời gian thi hành ác lệnh thứ hai không thấy hiệu quả.
Kinh-thánh chép: Đức Chúa Trời ban ơn cho các bà mụ, dân sự ra thêm và trở nên
đông đúc ( câu 21).


