BÀI
HỌC 3
Bối
Cảnh Lịch Sử, Xã Hội, Nhân Văn
Của
Kinh Thánh Tân Ước
A.
Giới thiệu bài học
I.
Mục đích bài học: Giúp học viên biết được bối cảnh chung quanh sự hình
thành của Tân Ước
II.
Mục tiêu bài học: Sau khi học xong bài này, học viên có thể:
Biết
được bối cảnh lịch sử, nhân văn, địa lý, chính trị, và tôn giáo chung quanh
thời gian Tân Ước được hình
thành và mối liên hệ của những bối cảnh này với sự hình
thành Tân Ước.
Có
một cái nhìn tổng quát về bản chất, cấu trúc, quá trình kinh điển của Tân Ước.
B.
Nội dung bài học:
I.
Bối Cảnh
Tân
Ước được hình thành giữa một môi trường chính trị, xã hội, văn hóa, và
tôn giáo cụ thể của những thế kỷ đầu tiên sau Công Nguyên (để cho ngắn gọn
trong việc ghi niên hiệu, chữ “sau Công Nguyên” từ đây trở về sau sẽ được viết
tắt là SC—sau Chúa—và chữ “trước Công Nguyên” sẽ được viết là TC—trước Chúa).
Người giải kinh phải “chìm đắm” trong môi trường này để có thể hiểu được Tân
Ước một cách trung thực hơn. Thường thì những đoạn kinh văn trong Tân Ước được
nhìn từ quan điểm của thế kỷ của chúng ta thay vì từ quan điểm của những người
viết và người nhận của những thế kỷ đầu. Mục đích của bài học này nhằm giới
thiệu một đôi điều về bối cảnh của những thế kỷ chung quanh sự ra đời của Tân
Ướcvới hy vọng là sẽ giúp cho người giải kinh có thể “đi ngược thời gian” để
hiểu những đoạn kinh văn Tân Ước một cách trung thành với những sứ điệp mà
những tác giả của những thế kỷ xa xưa đã muốn truyền đạt và những đọc giả đầu
tiên đã nhận được.
Măc
dù Tân Ước thực ghi lại kinh nghiệm thuộc linh của những cá nhân và về hình
thức được viết ra gần như là những tác phẩm văn chương của những tác giả, nhưng
tầm vóc của Tân Ước vượt trên tất cả những điều này vì Tân Ước chính là Lời
Chúa có thẩm quyền được viết ra cho con người. Nhưng có một điều cần lưu ý đó
là: Tân Ước không chỉ ghi lại sự ra đời của niềm tin Cơ-đốc, của Hội Thánh,
xoay quanh cuộc đời, chức vụ, sự chết, và sự phục sinh của Chúa Giê-xu, nhưng
còn có một mối liên hệ chặt chẽ với thế giới chung quanh nó và cũng là cái thế
giới đã tiếp nhận nó. Hội Thánh đã dùng chính ngôn ngữ, những hình
thức văn chương, và cả những sắc thái văn hóa của cái thế giới đó để diễn đạt
và truyền bá niềm tin Cơ-đốc của mình. Những chiến sĩ tiên phong của Cơ-đốc
Giáo là người Do-thái. “Kinh Thánh” của Hội Thánh vào thời kỳ ban đầu cũng là
quyển Kinh Thánh của người Do-thái—Cựu Ước. Bối cảnh chính trị vào lúc đó là
bối cảnh của một thế giới ở dưới sự cai trị của đế quốc La-mã. Bức tranh tôn
giáo vào thời bấy giờ là một sự phatrộn của những truyền thống tôn giáo đa dạng
ở vùng Cận Đông. Tân Ước phản ánh rõ rệt tất cả những bối cảnh này. Một người
giải kinh cẩn thận cần phải xem xét tất cả những khía cạnh này để có thể hiểu
sâu hơn những sứ điệp của Tân Ước.
Trong
chương này, chúng ta sẽ nghiên cứu bối cảnh chung quanh sự ra đời của Tân Ước
từ thời kỳ A-léc-xan Đại Đế cho đến cuộc nổi loạn của Bar Kochba. [1] Trước hết
chúng ta sẽ điểm qua những nguồn tư liệu liên quan đến Tân Ước. Kế đó, chúng ta
sẽ điểm qua những điểm chính yếu về con người và sự kiện liên quan đến lịch sử
của Giu-đa. Tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu về những cộng đồng tôn giáo vào
thời bấy giờ, đặc biệt là những cộng đồng có liên quan đến Do-thái Giáo. Sau
cùng, chúng ta sẽ nghiên cứu về những hình
thức thường được dùng để diễn đạt những niềm tin tôn giáo trong thời kỳ
Hê-lê-nít, tức là thời kỳ tất cả những dân tộc bị trị trong đế quốc La-mã đang
bị đồng hóa bởi nền văn minh Hy-lạp à cũng là thời kỳ Tân Ước ra đời.
1.
Những nguồn tư liệu liên quan đến việc nghiên cứu Tân Ước
a.
Văn chương
Nguồn
tư liệu quan trọng nhất trong việc nghiên cứu bối cảnh của Tân Ước đến từ người
Do-thái chắc chắn là Cựu Ước, nhất là những văn chương liên quan đến thời kỳ
Mác-ca-bê (ví dụ như sách Đa-ni-ên). Dù giáo hội Tin Lành chúng ta không sử
dụng những “ẩn kinh” hoặc “ngụy kinh” vì chúng ta không thừa nhận chúng vào
hàng kinh điển và giá trị lịch sử của nhửng tác phẩm này vẫn còn đang ở trong
sự nghi vấn, nhưng những sách này cũng là những nguồn tư liệu có giá trị trong
việc nghiên cứu sự phát triển về xã hội, tôn giáo, văn hóa, và thần học của thế
giới chung quanh Tân Ước vào thời bấy giờ. Đặc biệt, hai sách I & II
Mác-ca-bê là những tư liệu hữu ích về phương diện lịch sử. Những nguồn tư liệu
quan trọng khác đến từ nền văn chương Do-thái là những tác phẩm của Philo ở Alexandria (20TC – 50SC)
và Flavius Josephus (37SC – 100SC).
Về
các tác phẩm tiếng Hy-lạp và La-tinh, các tác giả ít để ý đến khu vực Cận Đông,
nhất là những sự kiện diễn ra ở xứ Pa-lét-tin. Tuy nhiên, cũng có một ít tác
giả đề cập đến những vấn đề của xứ Pa-lét-tin và do đó cũng cung cấp một số
thông tin quan trọng giúp ích cho việc nghiên cứu Tân Ước. Những nguồn tư liệu
này là những bài viết của Polybius (203 – 120 TC; Polybius đã viết một bộ lịch
sử thế giới dài 40 tập); Diodoruc Siculus (thế kỷ 1 TC; Diodorus đã ghi lại một
bản khảo sát tổng quát về lịch sử); Strabo (64TC – 21 SC; Strabo cung cấp một
tập bình luận về xứ Pa-lét-tin); Livy (59TC – 17SC; Livy quan tâm đến chính sách
đối ngoại, và do đó có đề cập đến Pa-lét-tin); Tacitus (55-110SC; ngoài một bộ
lịch sử thế giới tổng quát, Tacitus có kèm theo một bản khảo sát về lịch sử
Do-thái cho đến thời kỳ cuộc chiến tranh Do-thái lần thứ Nhất); Suetonius
(69-140SC; Suetonius ghi lại tiểu sử của các hoàng đế La-mã từ Sê-sa Au-gút-tơ
cho đế Sê-sa Domitian); Appian (thế kỷ 2 SC; Appian ghi chép lại lịch sử của
thời kỳ từ 133-127TC); và Dio Cassius (155-235SC; Dio có một bản ký thuật những
sự kiện lịch sử từ 69TC đến 46SC).
Nguồn
tư liệu quan trọng thứ ba là các cuộn sách hoặc những mẫu sách rời rạc, cùng
với những văn chương trên giấy chỉ thảo và mảnh sành được tìm thấy chung quanh
vùng Biển Chết. Sự nghiên cứu những nguồn tư liệu này bắt đầu từ năm 1947. Niên
đại của phần lớn những tài liệu này là từ khoảng 200 TC đến 135 SC. Những thông
tin thu lượm được từ những tài liệu này thật là vô giá vì chúng cho chúng ta
những kiến thức về đời sống tôn giáo và chính trị của người D0-thái, đặt biệt
là trong thời kỳ cai trị của dòng họ Hasmoneans.
Những
kinh sách xuất phát từ giới giáo sư Do-thái Giáo (Rabbi) gồm có Mishnah,
Tosephta, Talmuds, Midrahim, và Targums. Những tài liệu này ra đời sau sự tàn
phá của thành phố Giê-ru-sa-lem năm 70 SC và cần phải nghiên cứu một cách cẩn
thận vì chúng ta rất dễ phạm sai lầm khi rút ra những kết luận về Do-thái Giáo
trong thời gian Tân Ước hình
thành (phần lớn là trước khi Giê-ru-sa-lem bị hủy diệt) từ một nguồn tài liệu
ra đời sau này. Việc soạn thảo lần cuối cùng của Mishnah được thực hiện vào
khoảng năm 200SC. Mishnah là một bộ sưu tập những điều luật dựa trên Cựu Ước và
sự giải thích những điều luật này. Các giáo sư Do-thái Giáo dạy rằng những điều
luật này được truyền từ Môi-se qua cách truyền khẩu. Bộ Tosephta, được biên
soạn lần cuối vào khoảng năm 500 SC, chứa đựng những ngạn ngữ và được xem như
là phần phụ lục của Mishnah. Gemara là bộ giải nghĩa của Mishnah. Mishnah và
Gemara hợp lại với nhau để tạo thành bộ Talmud. Tuy nhiên có hai bộ Talmud khác
nhau: (1) Bộ Talmud Giê-ru-sa-lem (còn gọi là Talmud Pa-lét-tin), được biên
soạn lần cuối vào khoảng 500 SC; (2) Bộ Talmud Ba-by-lôn, được biên soạn lần
cuối vào khoảng năm 700 SC, và thường được xem là quan trọng hơn cả. Midrashim
là sách giải nghĩa Cựu Ước, được viết vào khoảng vài thế kỷ đầu sau Chúa.
Targum là bản dịch diễn ý tiếng Aram của Cựu Ước. Những khai quật ở vùng Biển
Chết cho thấy những bản Targum như vậy có thể đã được thực hiện vào khoảng thời
gian giữa Cựu Ước và Tân Ước.
b.
Tư liệu khảo cổ
Ngành
khảo cổ cũng rất ích lợi trong việc giúp chúng ta có một cái nhìn vào những
thời kỳ xa xưa về những phương diện như đời sống xã hội, kiến trúc, sự phát
triển về văn hóa, v.v... Sự nghiên cứu về những tác phẩm thủ công rất quan
trọng trong việc giúp chúng ta tái hiện cấu trúc của một kỷ nguyên nào đó. Ví
dụ, việc nghiên cứu những đồng tiền xưa sẽ giúp chúng ta biết rõ hơn về các
triều đại, hệ thống tư tưởng, biểu tượng về tôn giáo và chính trị, trình tự
lịch sử, v.v...
2.
Sơ lược về lịch sử Giu-đa
a.
Thời kỳ Hy-lạp
Khi
dân Do-thái trở về quê hương sau thời kỳ lưu đày ở Ba-by-lôn, đế quốc Ba-tư
đang nắm quyền thống trị ở khu vực Cận Đông (539 – 331 TC). Nhưng đế quốc này
sụp đổ sau cuộc đối đầu với A-léc-xan Đại Đế tại Issus
năm 333 TC. A-léc-xan Đại Đế đã thành lập một đế quốc Hy-lạp rộng lớn, trãi
rộng từ châu Âu qua đến Cận Đông. Nhưng sau khi A-léc-xan chết, đế quốc Hy-lạp
bị chia ra và ở dưới sự cai trị của các đại tướng của ông. Sau một thời gian
tranh giành quyền lực, ba vương quốc nằm trong tay các đại tướng đã hình
thành một cách rõ ràng: (1) Vương triều Ptolemaic hùng cứ ở Ai-cập và Sy-ri;
(2) Vương triều Seleucid cai trị Ba-by-lôn, vùng Thượng Sy-ri, và Tiểu Á; (3)
Vương triều Antigonid chiếm lĩnh những lãnh thổ thuộc Ma-xê-đoan (châu Âu).
Ngoài ra, lại còn một vương triều thứ tư không thuộc quyền cai trị của các đại
tướng là vương triều Attalids, cai trị những vùng còn lại ở Châu Á bên cạnh
vương triều Seleucid. Sự phân chia này kéo dài cho đến thời kỳ xâm lăng và bành
trướng của đế quốc La-mã.
Dân
Do-thái ở dưới sự cai trị của vương triều Ptolemaic trong thời gian dài hơn 100
năm (301 – 198 TC). Phân nữa đầu của khoảng thời gian này tương đối dễ chịu,
nhưng kể từ năm 246 TC trở đi, chính sách cai trị của Ptolemaic đối với người
Do-thái càng ngày càng trở nên hà khắc. Sau những cuộc chiến tranh giữa vương
triều Ptolemaic và Seleucid, xứ Pa-lét-tin bị đổi chủ và dân Do-thái rơi vào
dưới sự cai trị của vương triều Seleucid từ năm 198 TC. Các vị vua của Seleucid
từ sau 198 TC cho đến thời kỳ Mác-ca-bê gồm có: Antiochus III, Seleucus IV, và
Antiochus IV.
b.
Thời kỳ Mác-ca-bê
Antiochus
IV (175 – 164 TC) thừa hưởng một vương quốc đang xáo trộn về kinh tế và chính
trị. Để ổn định tình hình,
ông đưa ra một chương trình Hy-lạp hóa mạnh mẽ trên toàn lãnh thổ. Ông cũng có
tham vọng đưa vương quốc trở về thời kỳ huy hoàng trước đó bằng việc phát động
một chiến dịch quân sự gây hấn với Ai-cập. Chiến dịch này thành công đến nỗi
La-mã phải ra lịnh cho ông rút quân (lúc này La-mã đã bành trướng thế lực).
Trong lúc đó ở Do-thái, thầy tế lễ thượng phẩm là Onias III bị buộc phải nhường
chỗ cho người em là Jason sau khi Jason mua chức vị này từ Antiochus. Nhưng
chẳng bao lâu sau thì Jason bị hất cẳng bởi Menelaus là người em của vị chỉ huy
lính canh đền thờ Giê-ru-sa-lem. Để mua chức vị tế lễ thượng phẩm của đền thờ,
Menelaus đề nghị với Antiochus một giá rất cao. Và để có thể trả được cho
Antiochus, Menelaus phải biển thủ từ quỹ của đền thờ. Việc làm này của Menelaus
đã tạo ra một sự căm phẩn và sau cùng là một cuộc bạo loạn trong vòng người
Do-thái. Cuộc bạo loạn lớn đến nỗi Antiochus phải cấp tốc quay về từ Ai-cập.
Học được bài học từ những lần bị La-mã làm cho bẽ mặt, Antiochus ra tay nhanh
chóng và tàn bạo để trấn áp cuộc bạo loạn. Ngay sau đó, ông đã đẩy nhanh quá
trình Hy-lạp hóa tại Do-thái. Vì việc Hy-lạp hóa này gặp sự phản đối mạnh mẽ từ
người dân Do-thái, Antiochus đã nổi giận và cuối cùng đặt tôn giáo của người
Do-thái ra ngoài vòng pháp luật. Ông đã ra lịnh cấm tất cả những việc dâng tế
lễ, ngày hội tôn giáo, ngày Sa-bát, phép cắt bì, việc đọc kinh Torah. Người
Do-thái bị buộc phải ăn thịt heo; bàn thờ thần tượng được dựng lên. Vào năm 167
TC, bàn thờ dâng của lễ thiêu của người Do-thái bị thay thế bởi một bàn thờ
thần Zeus mà trên đó một con heo đang được làm lễ hiến tế.
Tất
cả những việc này chỉ kích động thêm lòng căm phẫn của người dân Do-thái. Ban
đầu, những sự phản đối không mang tính chất quân sự bạo động. Nhưng chẳng bao
lâu sau thì sự xung đột trở thành những cuộc chiến tranh đẫm máu sau khi
Mattathias, người đứng đầu của gia đình Hasmoneans, giết một vị tướng của
Antiochus. Sau khi giết vị tướng của Antiochus, Mattathias chạy vào sa mạc và
tổ chức du kích quân kháng chiến. Mattathias chết năm 166 TC và người con thứ
ba của ông là Judah
lên lãnh đạo phong trào kháng chiến. Phong trào này đã rất thành công. Vào
tháng 12 năm 164 TC, đền thờ lại được tái cung hiến. Tuy nhiên, Judah bị tử
trận trong một cuộc giao tranh với quân đội của Antiochus vào năm 160 TC. Em
của Judah
là Jonathan thay thế để lãnh đạo phong trào. Jonathan tiếp tục cuộc
đấu tranh chống lại vương triều Seleucid (Sy-ri) cho đến ngày ông chết năm 143
TC. Một người em khác là Simon thay vào vị trí lãnh đạo. Chẳng bao lâu sau,
Simon đã thành công trong việc dành độc lập cho người Do-thái và đã ký một hiệp
ước với La-mã. Đây là lần đầu tiên kể từ thời kỳ lưu đày Ba-by-lôn, người
Do-thái thực sự dành được quyền độc lập về chính trị.
Chương
1 của sách Mác-ca-bê ca ngợi thành quả của Simon và tiền bối của ông một cách
không tiếc lời. Quần chúng tôn Simon làm thấy tế lễ thượng phẩm. Nhưng từ trước
cho đến năm 153 TC, chỉ những người thuộc dòng dõi Xa-đốc mới được giữ chức vụ
này, cho nên việc bầu một người không thuộc dòng dõi Xa-đốc như Simon vào chứa
vụ này đã tạo ra nhiều cuộc tranh cãi. Simon cai trị cho đến khi một người con
rễ của ông là Ptolemy giết ông trong một cuộc đảo chánh vào năm 135 TC. Con của
Simon là John Hyrcanus kế vị cha mình. Cho đến cuối thời gian trị vì của
John Hyrcanus, ông đã phục hồi lại được một vương quốc Giu-đa gần như của thời
Sa-lô-môn.
Khi John
Hyrcanus qua đời năm 104 TC, con trai của ông là Aristobulus I kế vị cha mình.
Nhưng chỉ một năm sau đó, Aristobulus chết, để lại chức vị cho người em thứ ba
là Alexander Jannaeus. Alexander đã thành công trong việc mở rộng bờ cõi cho
đến toàn xứ Giu-đê, Sa-ma-ri, Ga-li-lê, vùng dọc biển Phi-li-tin, và một khu
vực rộng lớn dọc bờ sông Giô-đanh. Sau khi Aléxander qua đời, vợ của ông là
Salome Alexandra trở thành lãnh tụ chính trị của người Do-thái. Vì bà
không thể trở thành thầy tế lễ thượng phẩm, Salome đã bổ nhiệm người con trai
lớn của bà là Hyrcanus II vào chức vị này. Trong thời gian ở dưới sự lãnh đạo
của Salome, Do-thái tương đối yên ổn. Trong lúc đó trên chính trường quốc tế,
đại tướng Pompey của La-mã đang tạo ra những biến động lớn và phát động những
chiến dịch bành trướng. Đến năm 64 TC, vương quốc Seleucid (Sy-ri) đã trở thành
một tỉnh của đế quốc La-mã. Kể từ đây, La-mã bắt đầu dòm ngó đến xứ Pa-lét-tin
của người Do-thái.
c.
Thời kỳ La-mã
Aristobulus
II, người con thứ của Salome, đã thắng thế trong cuộc chạy đua dành quyền lực
với người anh cả là thầy tế lễ thượng phẩm Hy-ca-nu II để kế vị mẹ. Nhưng đến
63 TC, đại tướng Pompey đã tiến chiếm Giê-ru-sa-lem và chấm dứt sự cai trị của
triều đại Hasmoneans cũng như nền độc lập của Y-sơ-ra-ên. Y-sơ-ra-ên mất gần
hết lãnh thổ của mình, chỉ trừ vùng Giu-đê, Ga-li-lê, I-đu-mê, và Bê-rê.
Antipather II, người có cha la Antipather I được Alexander Jannaeus bổ
nhiệm làm quan thống đốc I-đu-mê, là một nhà chính trị đầy mưu lược. Ong
bổ nhiệm hai người con là Herod và Phasael vào chức vụ cai quản Giê-ru-sa-lem
và Ga-li-lê. Vào năm 40 TC, con trai của Aristobulus II là Antigonius lên nắm
quyền ở Giu-đa, cầm tù bác của mình là Hyrcanus II, tự xưng làm vua và thầy tế
lễ thượng phẩm. Antigonius là người cuối cùng của dòng họ Hasmoneans làm như
vậy (vừa làm vua vừa làm thầy tế lễ thượng phẩm). Herod chạy đến La-mã, và sau
đó được nghị viện La-mã tuyên bố là vua (chư hầu) của người Do-thái. Năm 37 TC,
Herod chiếm Giê-ru-sa-lem và bắt Antigonius đi hành hình.
Hê-rốt
là một nhà vua có khả năng. Vương quốc của ông ta phát triển thịnh vượng nhờ
nông nghiệp và thương mãi. Hê-rốt đã làm một việc quan trọng cho người Do-thái
đó là việc xây dựng lại đền thờ Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên, Hê-rốt chưa bao giờ
được người Do-thái ưa thích vì tuy theo Do-thái Giáo nhưng ông là người Ê-đôm.
Khi Hê-rốt chết vào năm 4 TC, vương quốc của ông được chia ra cho ba người con
của ông: A-chê-la-u (Archelaus) làm vua xứ Giu-đa, Sa-ma-ri, và I-đu-mê;
Phi-líp (Philip) nhận được xứ I-tu-rê và Tri-cô-ni; Hê-rốt An-ti-pa (Herod
Antipas) cai trị Ga-li-lê và Bê-rê. Phi-líp và He-rốt An-ti-pa cầm quyền
khoảng 40 năm, nhưng A-chê-la-u bị truất phế vào năm 6 SC. La-mã đã biến vương
quốc của A-chê-la-u thành một tỉnh của đế quốc và ở dưới sự cai trị của một vị
tổng đốc. Đa số các tổng đốc này đều được lòng dân Do-thái ngoại trừ Bôn-xơ
Phi-lát là người rất hà khắc. Bôn-xơ Phi-lát bị thống đốc xứ Sy-ri là Vitellius
cách chức vào năm 36 SC.
Ạc-ríp-ba
(Agrippa), một người con của Hê-rốt được gửi sang La-mã để du học. Trong thời
gian ở đó, Ạc-ríp-ba đã làm bạn với Gaius Caligula. Vào năm 37 SC, Caligula trở
thành hoàng đế La-mã, và qua mối quan hệ với vị hoàng đế này mà chẳng bao lâu
sau đó thì Ạc-ríp-ba được phong làm vua toàn cõi Pa-lét-tin. Ạc-ríp-ba tìm cách
lấy lòng dân Do-thái bằng cách tiếp nhận phong tục của họ, đúc tiền xu mà không
in hình các Sê-sa, và bắt bớ những Cơ-đốc nhân. Khi Ạc-ríp-ba
chết vào năm 41 SC, quyền cai trị Giu-đa trở về tay các tổng đốc. Con trai của
Ạc-ríp-ba là Ạc-ríp-ba II không được kế vị cha mình vì còn nhỏ, nhưng đến năm
50 SC thì cũng được thừa kế ngôi vị bác mình là Hê-rốt để làm vua Ka-xi, một
vùng lãnh thổ nhỏ xa xôi thuộc Li-ban ngày nay. Ạc-ríp-ba II chết năm 92 SC, và
với cái chết của ông triều đại Hê-rốt đã chính thức cáo chung.
Dưới
sự thống trị của đế quốc La-mã, sự căm phẫn cộng thêm ký ức về một thời kỳ độc
lập xa xưa đã làm nổ ra nhiều cuộc nổi dậy của người dân Do-thái ở Giu-đa. Cuộc
nổi dậy thứ nhất nổ ra vào khoảng đầu thập kỷ 60. Hoàng đế Nê-rôn đã sai
Vespasian để dập tắt cuộc nổi dậy. Vào năm 67 SC, Ga-li-lê thất thủ và sau đó
phần lớn xứ Giu-đê bị khuất phục năm 68 SC. Sau khi Nê-rôn băng hà,
Vespasian trở về La-mã và để lại công cuộc chinh phục Giu-đa cho con là Titus
hoàn tất. Titus bắt đầu cuộc vây hãm Giê-ru-sa-lem vào năm 70 SC. Đến tháng 8
năm đó, Giê-ru-sa-lem bị san thành bình địa. Vài thành lũy vẫn tiếp tục kháng cự,
nhưng cho đến năm 74 SC thì tất cả đều thất thủ. Sự tàn phá Giê-ru-sa-lem còn
có nghĩa là trung tâm đời sống tinh thần của người Do-thái đã bị tiêu diệt.
Trong
thời gian Giê-ru-sa-lem bị vây hãm, một giáo sư Do-thái Giáo (rabi) là
Giô-ha-nan Bên Xa-kai (Johanan Ben Zakkcai) trốn thoát được và sau đó
được Vespasian cho phép xây dựng một học viện tại Jamnia. Học viện này sau đó
đã trở thành chỗ dựa tinh thần của người Do-thái. Giô-ha-nan đã cùng với
Ga-ma-li-ên II (cháu nội của Ga-ma-li-ên thầy học của sứ đồ Phao-lô) xây dựng
lại Do-thái Giáo thời hậu 70. Khi đền thờ trung tâm (Giê-ru-sa-lem) không còn,
người Do-thái đã chuyển hướng về đời sống tôn giáo lấy nhà hội (synagogue) làm
trung tâm. Khoảng năm 115 SC dưới thời kỳ cai trị của hoàng đế La-mã là Tra-gian
(Trajan), những cộng đồng người Do-thái ở Xy-ren, Ai-cập, và Chíp-rơ lại nổi
dậy. Những trận chiến thật ác liệt, nhưng chỉ đến năm 117 thì cuộc nổi dậy đã
bị dẹp tan.
Hai
chiếu chỉ ban hành do Hadrian—một chiếu chỉ cấm việc cắt bì và chiếu chỉ kia thì
cho phép xây lại đền thờ nhưng với điều kiện là phải bao gồm một đền thờ thần
Zeus trong kế hoạch xây dựng—đã dẫn đến một cuộc nổi dậy khác vào năm 132
(thường gọi là cuộc nổi dậy Bar Kochba). Một lãnh tụ của người Do-thái đã từng
học ở học viện Giam-ni-a là Si-môn Bên Ko-sê-ba (Simeon ben Kosiba- Simon bar
Kokhba), với sự ủng hộ của giáo sư A-ki-ba, tự xưng là Đấng Cứu Thế và lãnh đạo
cuộc nổi dậy này. Dùng chiến thuật du kích và dựa vào hang động, những người
nổi dậy đạt được một vài thành công ban đầu, nhưng khi quân đội chính qui của
La-mã đến thì sự thất bại không thể nào tránh khỏi. Hoàng đế La-mã Hadrian sau
đó đã dựng tại Giê-ru-sa-lem một đền thờ thần Giu-pi-tê, cấm người Do-thái
không được vào, và dựng một pho tượng của chính ông ta. Trong 1800 năm sau đó,
người Do-thái đã bị cách ly khỏi quê hương của họ. Chính Ngũ Kinh, truyền
thống, và niềm hy vọng trở về đã đoàn kết họ lại với nhau.
3.
Những cộng đồng tôn giáo ở Do-thái
a.
Sa-đu-sê
Cho
đến nay thì không có một đoạn văn hoặc sách nào của những người Sa-đu-sê được
tìm thấy. Nguồn gốc và sự ra đời của nhóm người gọi là Sa-đu-sê thì không ai
biết rõ. Nhưng có điều mà chúng ta có thể biết được đó là từ thời gian của
Hy-ca-nu (135 TC) cho đến năm 70 SC, những người Sa-đu-sê đóng một vai trò quan
trọng trong đời sống xã hội Do-thái. Họ là những người giàu có và có thế lực
chính trị. Họ chỉ thừa nhận thẩm quyền của Ngũ Kinh và bác bỏ tryuền thống
truyền khẩu của người Pha-ri-si. Những phần còn lại của Cựu Ước chỉ là nguồn tư
liệu để từ đó họ sản sinh ra những học thuyết. Những người Sa-đu-sê không tin
vào sự sống lại và bác bỏ sự hiện hữu của thiên sứ cũng như linh hồn.
b.
Pha-ri-si
Nguồn
gốc của nhóm Pha-ri-si có lẽ xuất phát từ những người Ha-si-đim là những người
Do-thái sùng đạo đã ủng hộ Giu-đa Mác-ca-bê để chống lại Antiochus vào thế kỷ
thứ 2 TC. Tuy nhiên lý thuyết này về nguồn gốc của Phi-ri-si cũng không chắc
chắn lắm. Chúng ta chỉ khá rõ về nhóm Pha-ri-si trong thời gian sau này khi mà
những hoạt động của họ trong đời sống của người Do-thái được các sử gia ghi
chép lại tương đối chi tiết hơn. Theo sử gia Josephus, những người Pha-ri-si đã
chống lại việc Giăng Hy-ca-nu đã nhận cả chức vụ làm vua và thầy tế lễ thượng
phẩm. Sự xung đột giữa những người Pha-ri-si và dòng họ Hasmoneans đã dẫn tới
việc A-lec-xan Gian-nơ bắt bớ những người Pha-ri-si. Tuy nhiên, họ lại có được
một số quyền lực đáng kể dưới thời của Sa-lô-mê, người vợ góa của A-léc-xan
Gian-nơ. Đến thời kỳ cai trị của nhà Hê-rốt, quyền lực này từ từ mất đi. Những
người Pha-ri-si bây giờ tìm cách gây ảnh hưởng trong đời sống tôn giáo của
người Do-thái ở mức độ địa phương bằng cách tập trung vào việc giải nghĩa kinh
Torah. Sau sự tàn phá Giê-ru-sa-lem năm 70 SC, những người Pha-ri-si đã khởi
đầu việc xây dựng lại hệ thống Do-thái Giáo. Chính quyền La-mã đã chính thức
công nhận vai trò tôn giáo của những giáo sư Pha-ri-si. Dưới ảnh hưởng của họ,
Do-thái Giáo của thời kỳ sau sự tàn phá Giê-ru-sa-lem và sau cuộc nổi dậy Bar
Kochba phần lớn là đi theo đường lối và chủ trương thần học của những người
Pha-ri-si.
Khác
với những người Sa-đu-sê, người Pha-ri-si tin vào sự sống lại. Khác với cộng
đồng tu sĩ Qumran là những người rút lui vào những nơi thanh tịnh, người
Pha-ri-si sống trong những thành phố, gây ảnh hưởng trong giai cấp trung lưu,
và là những người có lòng hiếu khách. Josephus cũng ghi nhận ảnh hưởng của họ
trong dân chúng. Họ được ngưỡng mộ vì lòng mộ đạo, vì nếp sống đơn giảnï, và vì
cách giữ những lề luật tôn giáo một cách nghiêm nhặt của họ. Về Kinh Thánh, họ
chẳng những công nhận thẩm quyền của Ngũ Kinh (như người Sa-đu-sê) mà còn thừa
nhận cả những sách Văn Chương, Tiên Tri, và có lẽ cả một số truyền thống theo
truyền khẩu nữa. Tuy nhiên, cần phải lưu ý là cộng đồng Pha-ri-si không phải là
một nhóm hoàn toàn đồng nhất. Trong cộng đồng Pha-ri-si còn có nhiều nhóm nhỏ
có những chủ trương khác nhau. Về phương diện lịch sử, chúng ta có thể biết
chắc rằng sau sự tàn phá Giê-ru-sa-lem chỉ còn có Do-thái Giáo theo chủ trương
của những người Pha-ri-si là còn tồn tại.
c.
Nhóm Tinh-hoa (Essenes)
Nguồn
gốc của nhóm này thật bí ẩn. Vài học giả tìm cách liên hệ nhóm Tinh-hoa với
những người Ha-si-đim, nhưng không có chứng cớ nào ủng hộ điều giả định này. Có
thể là nhóm Tinh-hoa có một mối liên hệ nào đó với cộng đồng Qumran, nhưng điều
này cũng không lấy gì làm chắc chắn. Theo ghi nhận của Josephus, những người
Tinh-hoa phản đối chế độ nô lệ, không chấp nhận việc tuyên thệ, và giữ ngày
Sa-bát một cách nghiêm nhặt. Họ chống lại việc dâng sinh tế và thay vào đó họ
ủng hộ việc mang quà đến đền thờ để dâng cho Đức Chúa Trời. Họ chú trọng vào lễ
tẩy uế cá nhân và ưa thích quần áo màu trắng. Nếp sống đơn giản cũng là một
trong những điểm nổi bật của những người Tinh-hoa.
Những
người Tinh-hoa xa lánh chính trị và có thể được ví như là những tu sĩ dòng kín
(theo lý thuyết trầm lặng). Họ thực hành chế độ sống độc thân, nhưng việc này
cũng không phải là bắt buộc. Cái tên Tinh-hoa (Essenes) có thể hàm ý là cộng
đồng này gồm có nhiều cộng đồng nhỏ hơn, trong đó cộng đồng Qumran có thể là
một trong những cộng đồng nhỏ này. Những người Tinh-hoa thường là những nông
dân hoặc thợ thủ công, sống trong những làng mạc xa xôi để tránh cảnh ồn ào náo
nhiệt và cảnh bất công thường thấy ở thành thị. Sự hiện diện của cộng đồng
Tinh-hoa này đã hoàn toàn biến mất trong đời sống tôn giáo của người Do-thái
sau sự tàn phá Giê-ru-sa-lem năm 70.
d.
Cộng đồng Qumran
Cộng
đồng này có lẽ ra đời vào khoảng giữa những năm 150 TC và 140 TC. Tuy nhiên,
cộng đồng này đã không còn nữa sau năm 68 SC, năm mà chính quyền La-mã ra tay
tận diệt họ. Tại Qumran, nhiều văn bản bằng tiếng Hy-lạp, Hy-bá-lai, và A-ram
đã được tìm thấy. Những văn kiện này cho thấy cộng đồng Qumran là những người
chống lại giới lãnh đạo đền thờ Giê-ru-sa-lem. Họ thường ám chỉ đến thầy tế lễ
thượng phẩm ở Giê-ru-sa-lem là “thấy tế lễ không có Đức Chúa Trời.” Đối với
những người Qumran, sự thờ phượng ở Giê-ru-sa-lem là hoàn toàn băng hoại và chỉ
có họ mới thực sự là “Y-sơ-ra-ên chân chính.”
Cộng
đồng Qumran được lãnh đạo bởi 12 người (tượng trưng cho 12 chi phái
Y-sơ-ra-ên), 3 thầy tế lễ, và một giáo sư “công chính” (teacher of
righteousness). Như đã đề cập đến ở trên, cộng đồng Qumran và cộng đồng
Tinh-hoa có nhiều điểm giống nhau, nhưng cộng đồng Qumran còn chú trọng nhiều
hơn nữa về sự tinh khiết (và do đó rất chú trọng về lễ tẩy uế). Cộng đồng này
còn rất chú trọng vấn đề kỷ luật. Thí dụ, một thành viên trả lời một thành viên
khác một cách hổn xược hoặc nóng giận có thể sẽ bị cấm khỏi cộng đồng một năm,
nói cắt ngang lời người khác phải bị phạt mười ngày, hoặc cười ồn ào vô nghĩa
sẽ chịu kỷ luật 30 ngày, v.v... Mỗi năm sẽ có một lần khảo sát để xếp hạng các
thành viên tùy theo mức độ tăng trưởng thuộc linh. Các thành viên sẽ ngồi theo
thứ hạng này mỗi khi cộng đồng có hội đồng.
e.
Xê-lốt (Nhiệt Thành)
Đây
là một đoàn thể tôn giáo/chính trị. Họ có thể đã xuất hiện vào những năm đầu
của thế kỷ thứ 1 SC (xem Lu-ca 6: 15), và đã đóng vai trò của những người chủ
mưu cuộc nổi dậy vào năm 67 SC chống lại La-mã. Họ chủ trương rằng đóng thuế
cho La-mã là “bất hợp pháp” vì chỉ có Đức Chúa Trời mới là Chúa tể. Họ tin rằng
vì Đức Chúa Trời sẽ rất giận dữ khi người La-mã thu thuế của những người
Do-thái cho nên Ngài sẽ sẵn sàng chiến đấu bên cạnh những kẻ mạnh dạn đứng lên
cầm vũ khí chống lại La-mã. Một chi nhánh của đoàn thể tôn giáo/chính trị này
là đảng “Dao Găm” (Sicarii, xem Công-vụ 21: 38). Trong những ngày hội, thành
viên của đảng “Dao Găm” này sẽ trà trộn vào đám đông để ám sát những nhà lãnh
đạo Do-thái hợp tác với chính quyền La-mã.
f.
Đảng Hê-rốt
Ngoài
các sách Phúc Âm thì không có tài liệu nào đề cập đến đảng này. Chính những lời
đề cập đến đảng Hê-rốt trong Tân Ước cũng không cho biết gì nhiều về họ. Cái
tên gọi của đảng này gợi ý rằng họ là những người ủng hộ triều đại nhà Hê-rốt.
Có những học giả cho rằng họ là những người thuộc nhóm Tinh-hoa, nhưng không có
điều gì làm căn cứ cho giả định này.
g.
“Người của đất” (The People of the Land)
Mặc
cho ảnh hưởng và thế lực của những cộng đồng tôn giáo hoặc tôn giáo/chính trị
nói trên, phần lớn những người dân Do-thái không thuộc vào bất cứ nhóm nào. Họ
thường được đề cập đến như là những “người của đất—xứ sở.” Họ không chối bỏ
Do-thái Giáo hoặc bác bỏ luật pháp, nhưng họ không quá chăm chút trong việc giữ
đạo hoặc tỏ thái độ đối với luật pháp như những nhóm kể trên. Phần lớn họ là
những nông dân hay người làm công nhật. Họ là dân thường, là đám đông quần
chúng. Họ bị xem thường bởi những nhóm kể trên. Ngược lại với thái độ của những
nhóm trên, các sách Phúc Âm mô tả Chúa Giê-xu chẳng những gần gủi với đám đông
quần chúng tầm thường này mà còn chiêu mộ phần lớn những môn đệ của Ngài từ
trong vòng họ. Mác thuật lại rằng Ngài có lòng thương xót họ vì họ giống như
“chiên không có người chăn” (Mác 6: 34). Thái độ của Chúa Giê-xu đối với đám
đông quần chúng này cho thấy sự bất bình của Ngài đối với giới lãnh đạo chính
trị và tôn giáo đương thời.
h.
Người Sa-ma-ri
Trong
đám đông quần chúng nói trên còn có những người Sa-ma-ri. Đây cũng là những nạn
nhân của sự khinh miệt và thành kiến của những cộng đồng tôn giáo tự cho mình
là thượng đẳng kể trên. Vào cuối thế kỷ thứ 8 TC, tức là khoảng hai trăm năm
sau ngày Y-sơ-ra-ên bị chia ra làm hai vương quốc phía Bắc (Y-sơ-ra-ên) và phía
Nam (Giu-đa), đế quốc A-sy-ri chiếm vương quốc phía Bắc. A-sy-ri thi hành chính
sách hoán chuyển dân, nghĩa là đày một phần dân Y-sơ-ra-ên qua A-sy-ri và cho
nhập cư dân A-sy-ri vào lãnh thổ của Y-sơ-ra-ên. Kết quả của chính sách này là
người Sa-ma-ri, là kết quả của những cuộc hôn nhân hợp chủng giữa người A-sy-ri
và những người Y-sơ-ra-ên còn được ở lại trong xứ sở. Văn hóa và tôn giáo của
những người Sa-ma-ri này cũng là sự pha trộn của A-sy-ri và Y-sơ-ra-ên. Người
Do-thái ở vương quốc phía Nam xem những người ở phía Bắc này là ô uế và không
chấp nhận họ như là xuất từ cùng một nguồn gốc Y-sơ-ra-ên. Sau khi dân phía Nam
được trở về từ cuộc lưu đày Ba-by-lôn trong thời kỳ Nê-hê-mi-và Ê-xơ-ra, họ
cũng không chấp nhận sự giúp đỡ của những người Sa-ma-ri trong việc xây dựng
lại đền thờ. Sự từ chối mang tính chất khinh miệt này đã đào sâu thêm sự ghét
bỏ và thù hận giữa người Giu-đa và người Sa-ma-ri, thậm chí đã có lần người
Sa-ma-ri âm mưu ám sát Nê-hê-mi, vị lãnh tụ của người Giu-đa.
Vào
thế kỷ thứ 4 TC, người Sa-ma-ri mua chuộc tình cảm của A-léc-xan Đại Đế và được
ông cho phép xây một đền thờ giống hệt như đền thờ Giê-ru-sa-lem trên núi
Ghê-ri-xim. Điều này bị người Giu-đa xem như là một sự vi phạm kinh Torah một
cách trắng trợn. Khi người Giu-đa bị bắt bờ dữ dội dưới thời Antiochus
Epiphanes IV, người Sa-ma-ri nói với Antiochus rằng họ không liên hệ gì đến
người Giu-đa mà chỉ là những dân thuộc địa ở Ba-tư. Hơn thế nữa, người Sa-ma-ri
còn tình nguyện cung hiến đền thờ Ghê-ri-xim cho thần Zeus. Đây là một hành
động gớm ghiếc đối với người Giu-đa. Trong thời gian xung đột giữa người
Do-thái và Antiochus, thống đốc của Sa-ma-ri là Apollonius đã dẫn quân đánh
nhau với quân đội của Mác-ca-bê. Sau đó, Hy-ca-nu trả đũa bằng cách đem quân
bao vây, công hãm trong một năm, và sau đó đã tiêu diệt Sa-ma-ri.
Vào
thế kỷ đầu của Công Nguyên, Pompey của La-mã đã giải phóng Sa-ma-ri khỏi sự đô
hộ của Giu-đa, cho xây dựng lại thành phố làng mạc. Việc này đã khiến cho những
người Sa-ma-ri trở thành những người ủng hộ La-mã một cách nhiệt thành. Người
Sa-ma-ri còn khiêu khích người Giu-đa hơn nữa bằng cách ủng hộ vua Hê-rốt,
người đã bị dân Giu-đa chống đối vì không phải là người Do-thái. Khi Hê-rốt bao
vây để chiếm Giê-ru-sa-lem năm 37 TC, người Sa-ma-ri đã tích cực giúp đỡ Hê-rốt
trong việc này. Những xung đột tương tự như vậy trong thế kỷ thứ nhất tiếp tục
và sự căng thẳng giữa hai bên càng ngày càng trầm trọng. Giữa một bối cảnh như
vậy, chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được là dụ ngôn về người Sa-ma-ri nhân lành không
chỉ đơn giản là một câu chuyện nói về lòng nhân đạo. Dụ ngôn này còn là một lời
phê bình sắc sảo chua cay về sự phân biệt chủng tộc và thành kiến tôn giáo giữa
hai dân tộc kéo dài hơn 700 năm.
i.
Những cộng đồng tôn giáo khác
Ngoài
những nhóm chính kể trên, xã hội Giu-đa còn có thêm sự hiện diện của những
người ngoại qui đạo Do-thái và nhóm Mạc-thế.
Những
người ngoại bang qui đạo Do-thái lại có hai hạng: hạng tân tín hữu là những
người đã làm phép cắt bì và hạng “kính sợ Đức Chúa Trời” là những người cũng
hành đạo Do-thái nhưng không chịu cắt bì. Nhóm Mạc-thế là những người chuyên
chú về những học thuyết liên quan đến những ngày tận thế.
4.
Niềm tin và việc hành đạo
a.
Niềm tin “độc thần” (monotheism)
Người
Do-thái cho rằng sự lưu đày đi Ba-by-lôn là sự trừng phạt của Đức Chúa Trời đối
với việc dân sự đã thờ lạy các thần khác. Do đó, kể từ khi trở về quê hương sau
cuộc lưu đày, dân Do-thái đã tập trung vào việc thờ lạy chỉ một mình Đức Chúa
Trời (độc thần). Họ còn nhấn mạnh về sự thánh khiết và bản chất siêu việt của
Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, sự nhấn mạnh này không loại trừ một mối liên hệ thân
thiết gần gủi với Đức Chúa Trời. Sự tập trung cao độ vào chủ nghĩa độc thần đã
đưa đến nhiều sự hy sinh đãm máu, nhất là trong thời kỳ xung đột với La-mã. Tuy
nhiên, những người không chịu khuất phục trước những thần tượng của người La-mã
rất được tôn trọng trong vòng người Do-thái.
b.
Niềm tin “tuyển dân”
Niềm
tin rằng mình là tuyển dân của Đức Chúa Trời trong lòng người Do-thái càng trở
nên mãnh liệt sau khi họ trở về từ cuộc lưu đày Ba-by-lôn. Từ thời kỳ Ê-xơ-ra
trở đi, điều này được thể hiện bằng một chủ trương phân lập cao độ. Dân Do-thái
chứng tỏ sự độc đáo của “tuyển dân” bằng cách tách biệt khỏi thế giới ngoại đạo
chung quanh bằng một nếp sống tôn giáo nghiêm nhặt. Họ tập trung vào việc hành
đạo bằng cách giữ một cách nghiêm nhặt những nghi lễ tôn giáo như lễ cắt bì, lễ
ngày Sa-bát, việc giữ luật pháp Torah. Những luật lệ liên quan đến chức tế lễ,
hôn nhân thuần chủng, v.v... cũng rất chặt chẽ. Niềm tin tuyển dân cũng gắn
liền với mảnh đất Pa-lét-tin. Họ tin rằng vùng đất này là tài sản đời đời của
họ do Đức Chúa Trời ban cho.
c.
Luật pháp
Đối
với người Do-thái, “luật pháp” là Ngũ Kinh Môi-se và có giá trị tuyệt đối. Phần
còn lại của Cựu Ước chỉ là phần phụ thêm. Họ tin rằng “luật pháp” là có giá trị
vĩnh hằng và đã hiện hữu từ trước khi có trời đất. Tuy vậy, sự giữ gìn “luật
pháp” có nhiều mức độ khác nhau trong các tầng lớp người Do-thái. Có người giữ
luật pháp một cách chi ly, theo sát theo từng chi tiết một. Có người lại rất
xem thường việc giữ luật pháp này. Có người cho rằng một sự giải nghĩa khắt khe
của “luật pháp” không phải là ý định của chính Môi-se.
d.
Đền thờ
Đền
thờ Giê-ru-sa-lem do Sa-lô-môn xây vào thế kỷ thứ 10 TC đã bị tiêu hủy bởi
người Ba-by-lôn vào năm 586 TC, nhưng nó đã được xây dựng lại một thời gian
ngắn sau khi dân Do-thái trở về từ cuộc lưu đày (520 – 516 TC). Tuy nhiên,
chính Hê-rốt là người đã trả lại cho đền thờ Giê-ru-sa-lem sự huy hoàng của nó
trong thời kỳ Sa-lô-môn khi ông bỏ sức ra trùng tu đền thờ để lấy lòng dân
Do-thái sau khi lên ngôi vua Y-sơ-ra-ên. Những vật trang trí chính của đền thờ
là bàn thờ xông hương, bàn để bánh trần thiết, và chân đèn cầy bảy ngọn. Giữa
cung thánh chứa những món trang trí này và nơi “Chí Thánh” là một bức màn lớn.
Từ trong ra ngoài là những hành lang khác nhau: Hành lang thầy tế lễ dành cho
các thầy tế lễ đã được thanh tẩy; hành lang Y-sơ-ra-ên (dành cho đàn ông
Do-thái); hành lang đàn bà (dành cho tất cả những hạng người còn lại của
Do-thái); hành lang ngoại bang (ai vào cũng được, và đây cũng là nơi Chúa
Giê-xu đã dùng roi để dọn sạch đền thờ).
Đền
thờ là nơi mà tất cả những sự dâng sinh tế được thực hiện. Đây cũng là nơi tổ
chức của ba ngày lễ chính của Y-sơ-ra-ên. Vai trò của đền thờ là để giúp cho
dân Do-thái tập trung hướng về Đức Chúa Trời. Đền thờ chẳng những kết hợp toàn dân
Y-sơ-ra-ên lại với nhau mà còn giúp họ bày tỏ lòng trung thành đối với Đức Chúa
Trời một cách cụ thể qua sự dâng tế lễ. Đền thờ còn đóng vai trò của một trung
tâm chính trị, mặc dù đây không phải là ý định ban đầu của việc xây đền thờ.
Khi bị tấn công bởi ngoại xâm, người Do-thái thường rút vào trú ẩn trong những
bức tường của đền thờ. Vào năm 70 SC, quân La-mã bao vây và phá hủy đền thờ
Giê-ru-sa-lem. Ngày nay, chỉ những tảng đá lớn của bờ tường phía ngoài đền thờ
và vòm cổng phía Đông Nam là còn sót lại.
e.
Nhà hội (synagogue)
Nguồn
gốc của nhà hội thì không ai được rõ, nhưng những di chỉ khảo cổ đào được ở
Ai-cập cho thấy nhà hội có lẽ đã xuất hiện tối thiểu là vào thế kỷ thứ 3 TC.
Vào thế kỷ thứ 1 TC thì nhà hội đã có mặt khắp nơi, từ Pa-lét-tin cho đến những
cộng đồng người Do-thái sống ở nước ngoài. Nhà hội là trung tâm của đời sống xã
hội và tôn giáo của người Do-thái. Nhà hội đóng vai trò của trường học, nhà cầu
nguyện, nơi hội họp, và thậm chí là tòa án. Nhìn chung thì nhà hội chỉ là một
hội trường lớn. Nó có một bục cao và nhiều ghế dành cho người hướng dẫn thờ
phượng (hặc cho thầy giáo ngồi trong giờ hội trường này biến thành trường học).
Có hai chức vụ trong nhà hội: người cai nhà hội và người phụ tá. Buổi lễ trong
nhà hội thường rất đơn giản: Lời kêu gọi thờ phượng Shema, cầu nguyện, đọc kinh
Torah, đọc sách Tiên Tri, bài giảng luận, và chúc phước. Nhiều học giả tin rằng
hình
thức thờ phượng của hội thánh Cơ-đốc Giáo trong thời kỳ đầu tiên đã bắt nguồn
từ nhà hội.
f.
Hội đồng San-hê-rin (Sanhedrin)
Sự
đề cập đến Sanhedrin sớm nhất được tìm thấy trong những ký thuật của Josephus.
Ở đó, Josephus có nói về một “nghị viện” của người Do-thái (gerousia). Nghị
viện này gồm 12 người (các thầy tế lễ và trưởng lão) và ở dưới sự chủ trì của
thầy tế lễ thượng phẩm. Quyền hạn của nghị viện này bị cắt đi rất nhiều trong
thới kỳ cai trị của nhà Hasmoneans. Sa-lô-mê là người đầu tiên đã bổ nhiệm
những người Pha-ri-si vào nghị viện. Trước đó thì chỉ có người Sa-đu-sê mới
được dự vào trong nghị viện. Vào năm 6 SC khi Giu-đa trở nên một tỉnh của
La-mã, hội đồng Sanhedrin được trao cho toàn quyền trong những vấn đề nội bộ
của Do-thái. Quyền lực này còn trãi rộng đến những cộng đồng người Do-thái sống
ở nước ngoài. Hội đồng này đã không còn tồn tại sau khi Giê-ru-sa-lem sụp đổ
năm 70 SC.
g.
Ngày Sa-bát
Ngày
thứ bảy của tuần lễ—ngày Sa-bát—được biệt riêng ra để trở thành một ngày thánh.
Sa-bát chẳng những là ngày nghĩ mà còn là ngày để tham dự lễ ở nhà hội, để hội
họp gia đình và bạn bè trong những bữa ăn thân mật. Nói chung là người ta không
được làm việc gì trong ngày Sa-bát, nhưng cũng có một vài ngoại lệ như làm lễ
cắt bì, dâng tế lễ ở đền thờ, cứu mạng người, v.v... Luật lệ về việc giữ ngày
Sa-bát lan truyền mau chóng, nhất là sau thời kỳ lưu đày. Tuy nhiên, mục tiêu
chính của ngày Sa-bát là tổ chức vui mừng. Bửa ăn ngon nhất được dành cho ngày
Sa-bát, sự kiêng ăn bị cấm, ngay cả việc than khóc người chết hoặc thăm viếng
người đau cũng bị hạn chế. Khi Sa-bát được giữ đúng mực, nó chính là “viên
ngọc” của cả tuần lễ.
II.
Lịch sử kinh điển của Tân Ước
Quá
trình hình thành của bộ kinh điển Tân Ước gồm 27 sách được bắt đầu
từ thế kỷ thứ nhất SC và gần như hoàn thành vào thế kỷ thứ tư SC. Nhiều sách
được lưu hành trong vòng các hội thánh đầu tiên trong khoảng thời gian này lại
không được đứng vào kinh điển cuối cùng. Một số giáo hội ở Trung Cận Đông vẫn không
thừa nhận một số sách được công nhận bởi giáo hội Công Giáo La- mã. Cần ghi
nhận là sự phát triển của quá trình kinh điển Tân Ước song hành với sự phát
triển của giáo hội.
Dựa
theo những văn kiện cổ xưa, có thể một bộ sưu tập một số thư tín của sứ đồ
Phao-lô đã có mặt vào khoảng cuối thế kỷ thứ 1 SC. Thư tín Ê-phê-sô chắc chắn
đã có mặt rất sớm. Sách Công-vụ có lẽ đã xuất hiện trong khoảng từ năm 85 cho
đến 90 SC. Một lá thư gửi từ Rô-ma đến Cô-rinh vào năm 95 SC, thường được gọi
là thư 1 Clement, có đề cập đến thư tín Rô-ma, I Cô-rinh-tô, và có thể cả thư
Hê-bơ-rơ. Một danh sách 10 thư tín của Phao-lô đã được nói đến vào khoảng giữa
thế kỷ thứ 2 SC, và cho đến cuối thế kỷ này thì bộ kinh điển 14 thư tín của
Phao-lô xem như đã hoàn tất.
Sự
đề cập đến các sách Phúc Âm thì xuất hiện trễ hơn các thư tín Phao-lô. Các sách
Phúc Âm chỉ được chính thức đề cập đến bằng tên vào khoảng đầu thế kỷ thứ 2 SC.
Trước đó, có lẽ các sách Phúc Âm được lưu truyền theo cách truyền khẩu (dựa
theo thư 2 Clement). Khoảng giữa thế kỷ thứ 2, giáo phụ Justin Martyr viết một
sách “biện giáo” (apology) trong đó có đề cập đến các sách Phúc Âm như là “ký
ức của các sứ đồ.”
Vào
khoảng cuối thế kỷ thứ 2 SC, một bản kinh điển gọi là Muratorian ra đời. Đây là
một danh sách chính thức các sách từ Rô-ma. Bản kinh đeỉn này gồm 4 sách Phúc
Âm, 13 thư tín của Phao-lô (Hê-bơ-rơ không có mặt), Giu-đe, 1 & 2 Giăng,
Sách Khôn Ngoan của Sa-lô-môn (một thứ kinh theo quan điểm của giáo hội Tin
Lành ngày nay), Khải Huyền và một sách “mạc thế” của Phi-e-rơ. Kể từ đây trở
đi, giáo hội ở phương Tây chỉ thừa nhận 4 sách Phúc Âm (như chúng ta đang có)
vào hàng kinh điển. Sách Công-vụ và 13 thư tín của Phao-lô cũng có một chỗ đứng
vững chãi trong kinh điển. Những sách khác thì đôi khi gây ra những sự tranh
luận là có nên cho vào kinh điển hay không.
Vào
đầu thế kỷ thứ 3 SC, Tertullian là người đầu tiên dùng chữ Tân Ước để nói về bộ
kinh điển. So với bộ kinh điển Muratorian, bộ kinh điển của Tertullian bỏ bớt 2
Giăng nhưng thêm vào 1 Phi-e-rơ. Giáo phụ Origen phân biệt giữa 22 sách “được
thừa nhận” (gồm 4 sách Phúc Âm, 14 thư tín của Phao-lô kể cả Hê- bơ-rơ,
Công-vụ, 1 Giăng, 1 Phi-e-rơ, và Khải Huyền) và 5 sách “bị tranh luận” (Gia-cơ,
Giu-đe, 2 Phi-e-rơ, 2 & 3 Giăng). Đây là tất cả những sách cuối cùng đã trở
thành bộ kinh điển Tân Ước. Tưởng cũng cần biết là vào cuối thế kỷ thứ 3, Khải
Huyền đã bị khước từ ở Alexandria và An-ti-ốt. Tuy sau đó, nó đã được phục hồi
vị trí kinh điển trong các hội thánh này, nhưng không bao giờ đạt được địa vị
được xem trọng như trước đó. Ở giáo hội tại Sy-ri, Khải Huyền không bao giờ
được thừa nhận vào hàng kinh điển.
Vào
năm 367, một lá thư nổi tiếng gọi là “the Festal Letter” gửi từ giám mục
Athanasius của Alexandria đến các hội thánh trong địa phận cai quản của ông.
Trong lá thư này, ông liệt kê 27 sách như chúng ta đang có và cho rằng không có
sách nào là thuộc vào loại cần bàn cải cả. Khi Jerome phiên dịch Tân Ước ra
tiếng La-tinh vào cuối thế kỷ thứ 4 SC, ông đã theo bản kinh điển của
Athanasius, mặc dù trong một là thư gửi cho Paulinus vào năm 385, ông thừa nhận
là có chút “vấn đề” với hai sách Hê-bơ-rơ và Khải Huyền.