BÀI HỌC 4
Phương
Pháp Giải Kinh
Pháp Giải Kinh
A. Giới thiệu bài
học
Mục đích bài học: Giúp học viên biết được những bước và kỷ thuật căn bản
trong quá trình giải nghĩa một đoạn kinh văn.
B. Nội dung bài
học:
Mỗi sách, mỗi đoạn kinh văn
trong Kinh Thánh chắc chắn là có tác giả; tác giả này nhắm đến một nhóm đọc giả
nào đó và muốn những đọc giả này hiểu được một sứ điệp nào đó khi đặt tay viết
những sách hay những đoạn kinh văn này. Do đó, công việc giải kinh nhằm
trả lời những câu hỏi như: “Tác giả muốn nói điều gì với những đọc giả (nguyên
thủy)?” hay “Tác giả muốn những đọc giả của ông hiểu được điều gì?” Những
câu hỏi này liên quan đến nội dung của điều được viết ra, lý
do những
điều này được viết ra, và bối cảnh khi mà những dòng chữ này được viết ra.
Nhưng công tác giải kinh không dừng lại ở chỗ trả lời thỏa đáng những
câu hỏi trên. Việc xác định nội dung, lý do, bối cảnh, v.v... chỉ là giai đoạn đầu của công tác giải kinh. Người giải kinh phải trả lời một câu hỏi tiếp theo là: “Những sứ điệp (nguyên thủy) này có ý nghĩa gì đối với hoàn cảnh đương thời của chúng ta?” Giai đoạn kế tiếp này liên quan đến phần áp dụng (giảng kinh).
Trong bài học này, chúng ta chỉ nghiên cứu những kỷ thuật và những bước
căn bản của giai đoạn đầu (giải kinh—exegesis). Trong bài học sau, chúng ta sẽ nghiên cứu giai đoạn hai, trong đó chúng ta sẽ trả lời câu hỏi “những đoạn kinh văn cổ xưa này có ý nghĩa gì trong hoàn cảnh chúng ta hôm nay?” và tìm cách áp dụng những kết quả của việc giải kinh này vào việc xây dựng một bài giảng.
điều này được viết ra, và bối cảnh khi mà những dòng chữ này được viết ra.
Nhưng công tác giải kinh không dừng lại ở chỗ trả lời thỏa đáng những
câu hỏi trên. Việc xác định nội dung, lý do, bối cảnh, v.v... chỉ là giai đoạn đầu của công tác giải kinh. Người giải kinh phải trả lời một câu hỏi tiếp theo là: “Những sứ điệp (nguyên thủy) này có ý nghĩa gì đối với hoàn cảnh đương thời của chúng ta?” Giai đoạn kế tiếp này liên quan đến phần áp dụng (giảng kinh).
Trong bài học này, chúng ta chỉ nghiên cứu những kỷ thuật và những bước
căn bản của giai đoạn đầu (giải kinh—exegesis). Trong bài học sau, chúng ta sẽ nghiên cứu giai đoạn hai, trong đó chúng ta sẽ trả lời câu hỏi “những đoạn kinh văn cổ xưa này có ý nghĩa gì trong hoàn cảnh chúng ta hôm nay?” và tìm cách áp dụng những kết quả của việc giải kinh này vào việc xây dựng một bài giảng.
Trong những trang sau đây,
chúng ta sẽ tìm hiểu những bước cần thiết trong một quá trình giải kinh.
Nhưng trước khi tiếp tục, chúng ta cần phải lưu ý một số điểm.
Trước hết, những bước này không nhất thiết phải áp dụng hết cho tất cả mọi đoạn kinh văn, nghĩa là có những đoạn kinh văn cần phải sử dụng hết tất cả các bước trong khi có những đoạn kinh văn có thể bỏ qua một số bước.
Thứ hai, cho đến nay, không có một phương pháp giải kinh nào là tuyệt đối ưu việt. Phương pháp được đề nghị trong bài này chỉ là một trong những phương pháp giải kinh khác nhau do các học giả sử dụng hiện nay, và người soạn bài này tin rằng đây là phương pháp tương đối thích hợp cho lớp học này. Thứ ba, dù những bước được đề nghị sau đây có thể áp dụng như những nguyên tắc chung cho tất cả mọi đoạn kinh văn, chúng ta cần nhớ rằng Cựu Ước và Tân Ước khác nhau về nhiều phương diện như bối cảnh, cấu trúc, văn thể, thần học, v.v... Do đó, cần nghiên cứu từng đoạn kinh văn trong phạm trù của chính nó, đừng để “ấn tượng” về Cựu Ước làm thiên lệch sự hiểu biết của chúng ta về một đoạn kinh văn trong Tân Ước và ngược lại. Chính Cựu Ước hoặc Tân Ước cũng bao gồm nhiều loại văn thể khác nhau và những loại văn thể khác nhau này cũng cần phải “đối xử” một cách khác nhau; (4) Bài học này chỉ là bước đầu và chỉ giới thiệu những nguyên tắc căn bản. Học viên cần phải trau giồi thêm kỷ năng giải kinh bằng cách tìm đọc những tư liệu liên quan đến nghành học này, thực hành thật nhiều, và, nếu có thể được, học thêm tiếng Hy-bá-lai và Hy-lạp để mở rộng thêm kho ngữ vựng (tuy nhiên cần phải khẳng định một điều là không biết những thứ tiếng này không có nghĩa là chúng ta không giải kinh được).
Trước hết, những bước này không nhất thiết phải áp dụng hết cho tất cả mọi đoạn kinh văn, nghĩa là có những đoạn kinh văn cần phải sử dụng hết tất cả các bước trong khi có những đoạn kinh văn có thể bỏ qua một số bước.
Thứ hai, cho đến nay, không có một phương pháp giải kinh nào là tuyệt đối ưu việt. Phương pháp được đề nghị trong bài này chỉ là một trong những phương pháp giải kinh khác nhau do các học giả sử dụng hiện nay, và người soạn bài này tin rằng đây là phương pháp tương đối thích hợp cho lớp học này. Thứ ba, dù những bước được đề nghị sau đây có thể áp dụng như những nguyên tắc chung cho tất cả mọi đoạn kinh văn, chúng ta cần nhớ rằng Cựu Ước và Tân Ước khác nhau về nhiều phương diện như bối cảnh, cấu trúc, văn thể, thần học, v.v... Do đó, cần nghiên cứu từng đoạn kinh văn trong phạm trù của chính nó, đừng để “ấn tượng” về Cựu Ước làm thiên lệch sự hiểu biết của chúng ta về một đoạn kinh văn trong Tân Ước và ngược lại. Chính Cựu Ước hoặc Tân Ước cũng bao gồm nhiều loại văn thể khác nhau và những loại văn thể khác nhau này cũng cần phải “đối xử” một cách khác nhau; (4) Bài học này chỉ là bước đầu và chỉ giới thiệu những nguyên tắc căn bản. Học viên cần phải trau giồi thêm kỷ năng giải kinh bằng cách tìm đọc những tư liệu liên quan đến nghành học này, thực hành thật nhiều, và, nếu có thể được, học thêm tiếng Hy-bá-lai và Hy-lạp để mở rộng thêm kho ngữ vựng (tuy nhiên cần phải khẳng định một điều là không biết những thứ tiếng này không có nghĩa là chúng ta không giải kinh được).
Phần tiếp theo sau đây sẽ
trình bày những nguyên tắc căn bản trong việc giải kinh. Trong bối cảnh
của lớp Giải Kinh Học này, những nguyên tắc này giúp cho việc viết một bài giải
kinh có hệ thống và đầy đủ. Tuy nhiên, điều thứ nhất chúng ta
cần nhớ đó là những bước được trình bày sau đây là những bước cần tiến hành trong khi nghiên cứu để hiểu rõ về đoạn văn, chúng không nhất thiết phải là dàn bài
của một bài giải kinh, mặc dù chúng ta cũng có thể dùng những bước này như là
một dàn bài. Tuy nhiên, một dàn bài theo những bước này có vẻ rất máy móc. Nếu
theo cách này thì chúng ta cần phải sắp xếp lại, kết hợp vài bước lại với nhau,
hoặc mở rộng một vài bước. Nói chung thì người giải kinh có toàn quyền tổ chức bài viết của mình sao cho mang tính thuyết phục cao. Điều thứ hai cần nhớ đó là việc viết một bài giải kinh không phải là mục đích sau cùng của chúng ta. Những kết quả giải kinh này cần phải được đưa ra ngoài khuôn khổ của lớp học để áp dụng vào việc giảng dạy trong hội thánh sau này.
cần nhớ đó là những bước được trình bày sau đây là những bước cần tiến hành trong khi nghiên cứu để hiểu rõ về đoạn văn, chúng không nhất thiết phải là dàn bài
của một bài giải kinh, mặc dù chúng ta cũng có thể dùng những bước này như là
một dàn bài. Tuy nhiên, một dàn bài theo những bước này có vẻ rất máy móc. Nếu
theo cách này thì chúng ta cần phải sắp xếp lại, kết hợp vài bước lại với nhau,
hoặc mở rộng một vài bước. Nói chung thì người giải kinh có toàn quyền tổ chức bài viết của mình sao cho mang tính thuyết phục cao. Điều thứ hai cần nhớ đó là việc viết một bài giải kinh không phải là mục đích sau cùng của chúng ta. Những kết quả giải kinh này cần phải được đưa ra ngoài khuôn khổ của lớp học để áp dụng vào việc giảng dạy trong hội thánh sau này.
II. Những Bước Căn
Bản Trong Việc Giải Kinh
1. Chọn Bản Văn:
Việc này liên quan đến
phần thảo luận của bài học 1. Chúng ta cần chọn một bản dịch mà mình ưa
thích làm nền tảng. Đồng thời sưu tập càng nhiều bản dịch khác
làm tài liệu tham chiếu càng tốt (dĩ nhiên chúng ta không cần những bản dịch chứa đựng những thần học xuyên tạc do những nhóm tà giáo như Chứng Nhân Giê-hô-va
hay Mặc Môn. Thành thật mà nói, tôi không rõ là những nhóm này đã dịch “Kinh Thánh” của họ ra tiếng Việt hay chưa).
Tất cả các bản dịch Kinh Thánh hiện nay trong tiếng Việt, từ những bản diễn ý
đến những bản dịch mới, đều có những giá trị nhất định trong việc giúp chúng ta
giải nghĩa một đoạn Kinh Thánh.[1] Nếu đọc được tiếng Anh, Pháp, Đức, v.v... thì
chúng ta có thể thêm vào bộ sưu tập này vài bản dịch tiếng ngoại quốc để tham
chiếu.[2]
làm tài liệu tham chiếu càng tốt (dĩ nhiên chúng ta không cần những bản dịch chứa đựng những thần học xuyên tạc do những nhóm tà giáo như Chứng Nhân Giê-hô-va
hay Mặc Môn. Thành thật mà nói, tôi không rõ là những nhóm này đã dịch “Kinh Thánh” của họ ra tiếng Việt hay chưa).
Tất cả các bản dịch Kinh Thánh hiện nay trong tiếng Việt, từ những bản diễn ý
đến những bản dịch mới, đều có những giá trị nhất định trong việc giúp chúng ta
giải nghĩa một đoạn Kinh Thánh.[1] Nếu đọc được tiếng Anh, Pháp, Đức, v.v... thì
chúng ta có thể thêm vào bộ sưu tập này vài bản dịch tiếng ngoại quốc để tham
chiếu.[2]
Tuy giáo hội Tin Lành chúng
ta không thừa nhận “thứ kinh” và “ẩn kinh” (7 sách có thêm trong Kinh Thánh của
người Công Giáo) vào hàng kinh điển vì chúng không đạt tiêu chuẩn thần học và
do đó không được công nhận vào kinh điển của Cựu Ước trong nguyên ngữ
Hy-bá-lai, nhưng những tài liệu này cũng có thể giúp ích ít nhiều
khi chúng ta cần tìm hiểu về bối cảnh lịch sử và văn hóa trong thời kỳ “bốn trăm năm yên lặng” giữa Cựu Ước và Tân Ước.
khi chúng ta cần tìm hiểu về bối cảnh lịch sử và văn hóa trong thời kỳ “bốn trăm năm yên lặng” giữa Cựu Ước và Tân Ước.
2. Khảo sát bối cảnh
lịch sử một cách tổng quát
Trước khi bắt tay vào việc
giải kinh, chúng ta cần có một “cảm giác” khái quát về toàn bộ văn kiện chứa
đựng câu văn hoặc đoạn văn mà chúng ta đang khảo sát. Ai là tác giả? Ai
là người nhận? Mối quan hệ giữa họ như thế nào? Người nhận ở địa
phương nào? Hoàn cảnh sống của họ ra sao? Bối cảnh lịch sử hoặc yếu tố trực tiếp
nào đã đưa đến sự ra đời của đoạn văn? Mục đích của tác giả là gì? Chủ đề chính
là gì? Có thể nhận dạng ra cấu trúc và văn thể của đoạn văn hay không? Đây là những câu hỏi đầu tiên mà chúng ta cần trả lời (sơ bộ) để có một khái niệm tổng quát trước khi đi sâu hơn. Những bộ giải nghĩa Kinh Thánh là trợ thủ đắc lực để giúp chúng ta trả lời phần nào những câu hỏi trên. Tuy nhiên cần lưu ý là chúng ta chỉ cần những thông tin cần thiết và dừng ngaysau khi đã có được những thông tin này, không nên “bị cám dỗ” để đọc tiếp những phần giải nghĩa của các nhà giải kinh vì có thể chúng ta sẽ bị “lái” bởi những ý kiến của những người khác trong suốt quá
trình giải kinh (dù có thể cuối cùng rồi chúng ta cũng sẽ đi đến một kết luận tương tự như họ).
phương nào? Hoàn cảnh sống của họ ra sao? Bối cảnh lịch sử hoặc yếu tố trực tiếp
nào đã đưa đến sự ra đời của đoạn văn? Mục đích của tác giả là gì? Chủ đề chính
là gì? Có thể nhận dạng ra cấu trúc và văn thể của đoạn văn hay không? Đây là những câu hỏi đầu tiên mà chúng ta cần trả lời (sơ bộ) để có một khái niệm tổng quát trước khi đi sâu hơn. Những bộ giải nghĩa Kinh Thánh là trợ thủ đắc lực để giúp chúng ta trả lời phần nào những câu hỏi trên. Tuy nhiên cần lưu ý là chúng ta chỉ cần những thông tin cần thiết và dừng ngaysau khi đã có được những thông tin này, không nên “bị cám dỗ” để đọc tiếp những phần giải nghĩa của các nhà giải kinh vì có thể chúng ta sẽ bị “lái” bởi những ý kiến của những người khác trong suốt quá
trình giải kinh (dù có thể cuối cùng rồi chúng ta cũng sẽ đi đến một kết luận tương tự như họ).
a. Đọc toàn thể văn
kiện
Việc này
không thể bỏ qua. Chúng ta cần có một cảm giác chung về tổng
thể trước khi phân tích bất kỳ câu văn hoặc tiểu đoạn nào. Tuy nhiên cần lưu ý rằng “toàn thể văn kiện” không có nghĩa là lúc nào cũng phải đọc cả sách trong đó có chứa câu hoặc đoạn văn đang khảo sát. Có khi “toàn thể văn kiện” có nghĩa là cả sách, thí dụ như trong trường hợp các thư tín ngắn như Phi-líp hoặc Gia-cơ chẳng hạn. Nhưng có khi “toàn thể văn kiện” có nghĩa là vài đoạn trước và sau câu hoặc đoạn chúng ta đang giải nghĩa, miễn là văn kiện chúng ta đang đọc xác lập một chủ đề hoặc một sự kiện một cách đầy đủ, thí dụ như trong các câu chuyện lịch sử ở Sử Ký hoặc Các Vua. Việc làm này ngoài việc giúp chúng ta có một khái niệm tổng quát còn giúp chúng ta tránh được “đoạn chương thủ nghĩa” (việc tách câu văn hoặc đoạn văn ra khỏi văn cảnh để trích lấy ý nghĩa mình muốn mà áp dụng cho sự giải thích chủ quan của mình).
thể trước khi phân tích bất kỳ câu văn hoặc tiểu đoạn nào. Tuy nhiên cần lưu ý rằng “toàn thể văn kiện” không có nghĩa là lúc nào cũng phải đọc cả sách trong đó có chứa câu hoặc đoạn văn đang khảo sát. Có khi “toàn thể văn kiện” có nghĩa là cả sách, thí dụ như trong trường hợp các thư tín ngắn như Phi-líp hoặc Gia-cơ chẳng hạn. Nhưng có khi “toàn thể văn kiện” có nghĩa là vài đoạn trước và sau câu hoặc đoạn chúng ta đang giải nghĩa, miễn là văn kiện chúng ta đang đọc xác lập một chủ đề hoặc một sự kiện một cách đầy đủ, thí dụ như trong các câu chuyện lịch sử ở Sử Ký hoặc Các Vua. Việc làm này ngoài việc giúp chúng ta có một khái niệm tổng quát còn giúp chúng ta tránh được “đoạn chương thủ nghĩa” (việc tách câu văn hoặc đoạn văn ra khỏi văn cảnh để trích lấy ý nghĩa mình muốn mà áp dụng cho sự giải thích chủ quan của mình).
Sau khi đọc qua một lần,
chúng ta cần đọc lại lần thứ hai và bắt đầu ghi chú về một số điểm sau:
Tất
cả những điều về người nhận, đến mức mà văn kiện có thể cung cấp cho chúng
ta. Họ là người Do-thái hay người ngoại bang(nhất là trong tường hợp Tân
Ước)? Quan hệ giữa người nhận và tác giả? Hoàn cảnh kinh tế xã hội
của người nhận? V.v. . .
Mục
đích của văn kiện. Tác giả nói rõ ra mục đích hay chỉ là ngụ ý?
Những
điểm nhấn mạnh đặc biệt. Từ ngữ hay tư tưởng nào được lập đi lập
lại? Có từ ngữ nào bất thường xuất hiện hay không? Có những điểm
đáng chú ý nào báo hiệu cho chúng ta về mục đích của văn kiện hay không?
Phác
họa sơ một dàn bài của văn kiện, kèm theo những chú thích nếu có.
b. Đối chiếu:
Sau khi thực hiện những việc
trên ở a, bạn có thể so sánh những khám phá của
mình với những nguồn tài liệu có được trong tay như những sách giải kinh (Chú
ý: Tránh đi sâu vào việc đọc sự giải nghĩa của các nhà giải kinh dù đây là một
“cám dỗ” lớn. Ở mức độ này, chúng ta cần thông tin (information) chứ không cần người khác giải nghĩa giùm chúng ta).
mình với những nguồn tài liệu có được trong tay như những sách giải kinh (Chú
ý: Tránh đi sâu vào việc đọc sự giải nghĩa của các nhà giải kinh dù đây là một
“cám dỗ” lớn. Ở mức độ này, chúng ta cần thông tin (information) chứ không cần người khác giải nghĩa giùm chúng ta).
3. Xác định biên
giới của đoạn văn hay câu văn đang khảo sát
Bước kế tiếp là xác định
biên giới của đoạn văn hay câu văn đang khảo sát. Ngay cả khi đối tượng
nghiên cứu của chúng ta chỉ là một câu văn, câu văn này cũng phải được đặt
trong một tiểu đoạn nhất định. Khi đi đến quyết định này, chúng ta cần
nêu rõ lý do tại sao chúng ta chọn lựa điểm khởi đầu và kết thúc như vậy.
Nên nhớ là những sách trong Kinh Thánh ở tình trạng nguyên thủy được viết liên
tục, không có sự phân câu và phân đoạn như những bản Kinh Thánh chúng ta có
hiện nay (việc này được những nhà nghiên cứu sau này thêm vào để tiện việc tìm
địa chỉ và đại ý mà thôi). Vì vậy cho nên chúng ta đừng để bị quá lệ
thuộc vào câu đoạn trong bản Kinh Thánh mà ta đang có trong tay, mặc dù nhiều
khi sự phân câu đoạn này có khi cũng trùng hợp với quyết định cuối cùng của
chúng ta.
Tránh cắt ngang một bài thơ
ở giữa một khổ thơ (stanza) hoặc một bản ký thuật ở giữa một phân đoạn (trừ khi
đó là phần được chỉ định của bài tập trong lớp học hoặc trừ khi bạn trình bày
được lý do vì sao bạn chọn giải kinh một phần nhỏ thay vì cả đoạn).
Thường thì trong việc xác định biên giới này,một cảm giác chung đến từ việc đọc
cả văn kiện nói trên sẽ là đồng minh của chúng ta.
4. Làm quen với
đoạn văn đang nghiên cứu
Đọc đi đọc lại nhiều
lần là cách tốt nhất để làm quen với đoạn kinh văn đang khảo sát. Ngày
nay, chúng ta lại có điểm thuận lợi hơn rất nhiều so với các vị tiền bối vì
trong tay chúng ta có nhiều bản dịch khác nhau. Do đó, việc đọc đoạn kinh văn nhiều
lần và nhiều bản dịch khác nhau là cách làm quen với nó tốt nhất. Tùy theo khả năng của chúng ta, sưu tập càng nhiều bản dịch càng tốt. Có một số điểm cần lưu ý:
lần và nhiều bản dịch khác nhau là cách làm quen với nó tốt nhất. Tùy theo khả năng của chúng ta, sưu tập càng nhiều bản dịch càng tốt. Có một số điểm cần lưu ý:
Nếu
có thể được, làm bản sao (photocopy) của đoạn văn từ những bản dịch khác nhau
để tiện việc so sánh và ghi chú (dĩ nhiên việc này không
nhất thiết nhưng có thì càng tốt).
nhất thiết nhưng có thì càng tốt).
Ghi
nhận những điểm khác nhau giữa những bản dịch khác nhau.
Xác
định điểm khác nhau nào có ý nghĩa quan trọng trong việc giải kinh (ý nghĩa
khác nhau) và điểm nào chỉ là sự khác nhau trong cách dùng chữ (cùng ý nghĩa nhưng
chỉ khác cách diễn đạt). Ví dụ đối với câu I Ti-mô-thê 4: 6, hãy để ý sự
khác nhau giữa bản dịch truyền thống “con hãy giãi-tỏ các việc đó cho anh
em, thì con sẽ nên kẻ giúp việc ngay lành của Đức Chúa Jêsus-Christ, được nuôi
bởi các lời của đức tin và đạo lý lành mà con đã theo” và bản dịch mới của
Hội Thánh Kinh Việt Nam “con hãy truyền dạy những điều này cho anh chị em,
làm như vậy con mới là một đầy tớ trung tín của Chúa Cứu Thế Giê-su, và chứng tỏ
con là người được nuôi dưỡng bằng lời Kinh Thánh, của đức tin và đạo lý chân
chính con đã noi theo.” Trong
sự khác nhau này có chứa đựng những vấn đề cần phải làm sáng tỏ.
sự khác nhau này có chứa đựng những vấn đề cần phải làm sáng tỏ.
Xác
định những sự khác nhau này có liên quan đến việc phêbình bản văn, văn phạm,
hay ngữ vựng hay không.
5. Phân tích cấu
trúc của câu văn hoặc đoạn văn
Việc có một cảm giác
khái quát về dòng biện luận hay sự ký thuật cũng như cú pháp cũng
rất quan trọng. Muốn có được một khái niệm chung như vậy, cần phải phân
tích đoạn văn thành một cấu trúc rõ ràng. Việc phân tích như vậy sẽ giúp:
(1) nhận ra những điểm văn phạm quan trọng; (2) hình dung đoạn văn theo một cấu
trúc rõ
ràng; (3) có một dàn bài của đoạn văn, dàn bài này cho ta biết “chiến thuật” của tác giả khi biện luận hay kể chuyện.
ràng; (3) có một dàn bài của đoạn văn, dàn bài này cho ta biết “chiến thuật” của tác giả khi biện luận hay kể chuyện.
Có một vài điểm cần xem xét
khi phân tích cấu trúc:
Xem
thử dòng biện luận có trôi chảy không. Thử sắp xếp lại thứ tự của những
chữ trong từng câu văn để xem câu này có trôi chảy chưa hay còn có cách đọc nào
khác. Lý do của việc này là vì thứ tự của các chữ trong câu của nguyên tác (tiếng Hy-bá-lai và Hy-lạp) không giống như trong ngôn ngữ của chúng ta. Có thể
đơn cử một ví dụ là I Cô-rinh-tô 5: 4. Trong bản dịch truyền thống của chúng ta, câu này được đọc là “nên tôi đã dường như có mặt ở đó, nhân danhĐức Chúa Jêsus là Chúa chúng ta, tuyên án kẻ phạm tội đó rằng.” Trong khi đó, thứ tự của các chữ trong nguyên văn tiếng Hy-lạp đọc liên tục từ câu 3 qua câu 4 là (dịch chữ theo chữ)
“Vì dầu rằng vắng mặt về phần thân thể, tôi vẫn hiện diện trong Thánh Linh, và như là đang hiện diện ở đó, tôi tuyên án kẻ đã làm một việc như vậy (phạm một tội như vậy) trong danh Đức Chúa Jêsus.” Cấu trúc của những câu này trong nguyên văn tiếng Hy-lạp quả thực gây khó khăn nhiều cho các dịch giả. Chính vì đó mà bản
NIV tiếng Anh đã dịch (tôi tạm dịch theo cách chữ theo chữ) “dầu tôi không có mặt ở đó về phần thân thể, tôi vẫn có mặt ở đó trong tinh thần (in spirit). Và tôi đã tuyên án kẻ làm một việc như vậy(phạm một tội như vậy), dường như tôi đã có mặt ở đó vậy. Khi anh em nhóm nhau lại trong danh Đức Chúa Giê-su . . .” (đây là cách dịch trong bản dịch mới của Hội Thánh Kinh ViệtNam ).
Bản NRSV tiếng Anh thì đọc như bản dịch tiếng Việt của chúng ta nhưng lại thêm
một cước chú gợi ý thêm cách đọc khác “có thể đọc là: tôi tuyên án kẻ phạm
tội đó trong danh Đức Chúa Giê-su . . .” Chúng ta có thể thấy rằng câu dịch
“tôi nhân danh Đức Chúa Giê-su tuyên án kẻ phạm tội ...” và câu dịch “[tôi
tuyên án] kẻ phạm tội đó nhân danh Đức Chúa Giê-su . . .” có hai ý nghĩa khác
nhau rõ ràng. Câu trước là cách chúng ta thường hiểu, nhưng câu sau lại
nêu ra một vấn đề khá lý thú là có thể kẻ đó lợi dụng danh nghĩa Chúa để phạm
một tội gì đó.
khác. Lý do của việc này là vì thứ tự của các chữ trong câu của nguyên tác (tiếng Hy-bá-lai và Hy-lạp) không giống như trong ngôn ngữ của chúng ta. Có thể
đơn cử một ví dụ là I Cô-rinh-tô 5: 4. Trong bản dịch truyền thống của chúng ta, câu này được đọc là “nên tôi đã dường như có mặt ở đó, nhân danhĐức Chúa Jêsus là Chúa chúng ta, tuyên án kẻ phạm tội đó rằng.” Trong khi đó, thứ tự của các chữ trong nguyên văn tiếng Hy-lạp đọc liên tục từ câu 3 qua câu 4 là (dịch chữ theo chữ)
“Vì dầu rằng vắng mặt về phần thân thể, tôi vẫn hiện diện trong Thánh Linh, và như là đang hiện diện ở đó, tôi tuyên án kẻ đã làm một việc như vậy (phạm một tội như vậy) trong danh Đức Chúa Jêsus.” Cấu trúc của những câu này trong nguyên văn tiếng Hy-lạp quả thực gây khó khăn nhiều cho các dịch giả. Chính vì đó mà bản
NIV tiếng Anh đã dịch (tôi tạm dịch theo cách chữ theo chữ) “dầu tôi không có mặt ở đó về phần thân thể, tôi vẫn có mặt ở đó trong tinh thần (in spirit). Và tôi đã tuyên án kẻ làm một việc như vậy(phạm một tội như vậy), dường như tôi đã có mặt ở đó vậy. Khi anh em nhóm nhau lại trong danh Đức Chúa Giê-su . . .” (đây là cách dịch trong bản dịch mới của Hội Thánh Kinh Việt
Có thể việc thử sắp xếp lại
thứ tự các chữ trong câu này làm nảy sinh ra một số vấn đề giải kinh quan trọng
như ví dụ ở trên. Tuy nhiên, những trường hợp như trên khá hiếm, và nếu
có thì cũng không thay đổi ý nghĩa của câu văn nhiều như trường hợp trên.
Trong thực tế, chúng ta có thể không cần phải mất thì giờ nhiều cho việc này vì
các nhà phiên dịch thường đã làm việc này trước khi cho chúng ta cách đọc hợp
lý và có ý nghĩa nhất trong bản dịch mà ta đang có. Tuy nhiên, sự “chơi
với chữ” như vậy cũng là một thực hành tốt, tạo được sự nhạy bén cho chúng ta
khi đối diện một câu văn. Ở trình độ của chúng ta, khả năng luôn luôn đặt
những câu hỏi sắc bén là một kỷ năng cần thiết.
Nếu có thể được, phân tích câu văn hoặc đoạn văn theo dạng một biểu đồ (ABBA,
ABAB, v.v...), nhất là trong những câu văn hoặc đoạn văn mang tính chất hùng
biện (thí dụ như những sách tiên tri hoặc những thư tín của Phao-lô).
Việc này cũng khá quan trọng, nhất là khi giúp chúng ta “dự đoán” ý của
tác giả ở những câu không được rõ nghĩa lắm. Nó cũng có thể giúp
chúng ta nhận ra văn phong và cú pháp của từng tác giả khi chúng ta nghiên cứu
những đoạn văn của tác giả này ở nơi khác.
6. Xác định “hình
dáng cuối cùng” của đoạn văn
Sau những bước kể
trên, bây giờ chúng ta có thể xác định được đoạn văn hay câu văn có thể được
đọc như thế nào. Nên nhớ rằng vì sự phức tạp và khó khăn trong
việc chuyển ngữ từ nguyên ngữ qua những ngôn ngữ khác trong đó có tiếng Việt
của chúng ta, tất cả những “hình dạng cuối cùng” của đoạn văn hoặc câu văn đang
khảo sát chỉ là giả định (kể cả bản dịch mà chúng ta ưa thích). Tuy nhiên, nếu chúng ta cảm thấy không được “bình an” thì cứ giữ nguyên cách đọc truyền thống đồng thời để ý rằng có thể câu hoặc đọan văn này có thể có một cách đọc khác (có một sự khác nhau rất tế nhị giữa hai nhóm từ “Kinh Thánh nguyên tác” và “bản dịch Kinh Thánh).
việc chuyển ngữ từ nguyên ngữ qua những ngôn ngữ khác trong đó có tiếng Việt
của chúng ta, tất cả những “hình dạng cuối cùng” của đoạn văn hoặc câu văn đang
khảo sát chỉ là giả định (kể cả bản dịch mà chúng ta ưa thích). Tuy nhiên, nếu chúng ta cảm thấy không được “bình an” thì cứ giữ nguyên cách đọc truyền thống đồng thời để ý rằng có thể câu hoặc đọan văn này có thể có một cách đọc khác (có một sự khác nhau rất tế nhị giữa hai nhóm từ “Kinh Thánh nguyên tác” và “bản dịch Kinh Thánh).
7. Phân tích văn
phạm
Sự phân tích văn phạm
này là cần thiết khi hình thức văn phạm của câu văn ảnh hưởng đến ý nghĩa của
câu văn. Chúng ta có thể hỏi những câu hỏi như: Có điểm
văn phạm nào chưa sáng tỏ? Có thể nào câu văn, mệnh đề, hoặc nhóm từ cân phải
hiểu khác đi nếu văn phạm khác đi? Vănphạm của câu có điểm nào bất thường? Có thể giải thích sự bất thường này không? Trong phần lớn những trường hợp, văn phạm của câu không ảnh hưởng mấy đến ý nghĩa của câu văn hoặc toàn đoạn văn, nhưng đôi khi hình thức văn phạm lại ảnh hưởng rất sâu sắc đến ý nghĩa của câu văn. Ví dụ, câu Mác 16: 15 trong bản truyền thống là “hãy đi khắp thế gian, giảng Tin Lành . . .” Bản dịch mới cũng dịch là “hãy đi . . .” Các bản tiếng Anh cũng dịch là “hãy đi (go)” Động từ đi được dùng theo thể mệnh lệnh cho nên có chữ hãy. Nhưng trong nguyên tác, chữ này được dùng theo thì “hiện tại hoàn thành liên tiến” (present perfect continuous): Porêuthentes ei ten kosmôn (having gone into the world—khi đi vào trong thế gian). Hình thức văn phạm này nói lên một ý nghĩa là việc giảng Tin Lành không chỉ dành cho các người giảng Tin Lành đặc biệt như các nhà truyền đạo hoặc giáo sĩ khi họ nhận nhiệm vụ ra đi mà còn là công việc chung cho tất cả con dân Chúa khi họ sống trong thế gian mỗi ngày và ở bất cứ nơi đâu.
văn phạm nào chưa sáng tỏ? Có thể nào câu văn, mệnh đề, hoặc nhóm từ cân phải
hiểu khác đi nếu văn phạm khác đi? Vănphạm của câu có điểm nào bất thường? Có thể giải thích sự bất thường này không? Trong phần lớn những trường hợp, văn phạm của câu không ảnh hưởng mấy đến ý nghĩa của câu văn hoặc toàn đoạn văn, nhưng đôi khi hình thức văn phạm lại ảnh hưởng rất sâu sắc đến ý nghĩa của câu văn. Ví dụ, câu Mác 16: 15 trong bản truyền thống là “hãy đi khắp thế gian, giảng Tin Lành . . .” Bản dịch mới cũng dịch là “hãy đi . . .” Các bản tiếng Anh cũng dịch là “hãy đi (go)” Động từ đi được dùng theo thể mệnh lệnh cho nên có chữ hãy. Nhưng trong nguyên tác, chữ này được dùng theo thì “hiện tại hoàn thành liên tiến” (present perfect continuous): Porêuthentes ei ten kosmôn (having gone into the world—khi đi vào trong thế gian). Hình thức văn phạm này nói lên một ý nghĩa là việc giảng Tin Lành không chỉ dành cho các người giảng Tin Lành đặc biệt như các nhà truyền đạo hoặc giáo sĩ khi họ nhận nhiệm vụ ra đi mà còn là công việc chung cho tất cả con dân Chúa khi họ sống trong thế gian mỗi ngày và ở bất cứ nơi đâu.
Việc phân tích văn phạm này
cần đến sự hổ trợ của các sách giải kinh do các học giả uyên bác. Hiện
nay, có nhiều sách giải kinh của các học giả có uy tín ngoại quốc đã được dịch
ra tiếng Việt. Bộ giải kinh của William Barclay là một bộ có giá trị. Tuy
nhiên nếu có thể được, chúng ta cần phải đối chiếu càng nhiều sách giải kinh
càng tốt, hầu cho việc xác định này đạt được mức độ chính xác cao nhất.
8. Phân tích ý
nghĩa những từ ngữ quan trọng
Hãy cẩn thận! Đừng biến bài
giải kinh của chúng ta thành một bài học từ ngữ. Cần
tập trung vào hai việc sau: (1) Giải thích những chữ chưa được sáng tỏ và (2) chú
tâm đến những chữ “chìa khóa.” Đôi khi, việc phân tích những từ ngữ đưa đến những vấn đề thần học quan trọng. Một trong những ví dụ nổi tiếng là từ ngữ yêu
trong Giăng 21: 15 – 19. Từ sự khác nhau giữa những chữ yêu Chúa dùng (agapê rồi lần thứ ba là phi-lê-ô) và chữ yêu Phi-e-rơ dùng (phi-lê-ô), chúng ta sẽ rút ra những bài học quan trọng. Lại một lần nữa, những sách giải kinh rất quan trọng trong việc giúp chúng ta ở đây. Tuy nhiên, như chúng ta đã đề cập đến trước đây, đừng để các học giả “lái” chúng ta qúa nhiều. Chúng ta cần phải có một lập trường riêng khi nghiên cứu.
tập trung vào hai việc sau: (1) Giải thích những chữ chưa được sáng tỏ và (2) chú
tâm đến những chữ “chìa khóa.” Đôi khi, việc phân tích những từ ngữ đưa đến những vấn đề thần học quan trọng. Một trong những ví dụ nổi tiếng là từ ngữ yêu
trong Giăng 21: 15 – 19. Từ sự khác nhau giữa những chữ yêu Chúa dùng (agapê rồi lần thứ ba là phi-lê-ô) và chữ yêu Phi-e-rơ dùng (phi-lê-ô), chúng ta sẽ rút ra những bài học quan trọng. Lại một lần nữa, những sách giải kinh rất quan trọng trong việc giúp chúng ta ở đây. Tuy nhiên, như chúng ta đã đề cập đến trước đây, đừng để các học giả “lái” chúng ta qúa nhiều. Chúng ta cần phải có một lập trường riêng khi nghiên cứu.
9. Khảo sát
bối cảnh lịch sử xã hội của đoạn
hoặc câu văn
hoặc câu văn
Trong bước 2, chúng ta
đã khảo sát bối cảnh của toàn thể văn kiện một cách khái quát. Ở đây
chúng ta sẽ đi sâu hơn về chi tiết. Những câu hỏi cần đặt ra ở đây có thể
là: Bối cảnh cụ thể của đoạn văn hoặc câu văn này là gì? Điều gì đã dẫn
đến điểm này? Có đoạn kinh văn nào trong Kinh Thánh tương tự như đoạn đang khảo
sát và có vẻ như cùng liên quan đến cùng một bối cảnh? Nếu có, những đoạn kinh
văn khác đó có soi sáng thêm ý nghĩa của đoạn kinh văn chúng ta đang nghiên cứu
hay không? Có đoạn kinh văn nào có ý nghĩa tương tự nhưng lại được viết
ra trong một hoàn cảnh khác hơn? Đoạn kinh văn đang khảo sát diễn tả trọn
vẹn một khái niệm, một tư tưởng hay chỉ là một chặng trong quá trình phát triển
của một chủ đề lớn hơn? Cần khai thác đến mức tối đa những dữ kiện lịch
sử chung quanh đoạn văn. Sự thiếu những dữ kiện này cần phải có một sự
giải thích, và ngay cả những sự thiếu dữ kiện này cũng nói lên một điều gì đó.
Bối cảnh xã hội cũng rất
quan trọng trong việc giúp chúng ta hiểu được rõ hơn về nội dung của đoạn
văn. Thử tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi đại loại như sau: “Đoạn
văn này nhằm vào tầng lớp đọc giả nào trong xã hội? Có những cơ quan đoàn
thể xã hội nào được đề cập đến ở đây? Những thông tin này giúp được gì
trong việc tìm kiếm ý nghĩa của đoạn văn? V.v...”
Những câu hỏi tiếp theo là
những câu hỏi liên quan đến tiền cảnh của đoạn văn. “Việc gì sẽ tiếp theo
đoạn văn này? Đọan văn này sẽ dẫn đến đâu? Những ý tưởng trong đoạn văn
này có được nhắc lại về sau này trong toàn thể văn kiện hay không? Nếu có
thì thử so sánh và nhận xét thử xem, đoạn văn đang khảo sát có phải là sự khởi
đầu của sự phát triển của một chủ đề lớn hơn sau này hay không? Những tư
tưởng trong đoạn văn này chỉ có giá trị trong bối cảnh cụ thể này hay còn có
giá trị phổ quát ở mọi nơi khác? V.v...”
Bối cảnh địa lý cũng là một
vấn đề có thể có liên quan đến ý nghĩa của đoạn văn.
Ví dụ, những chi tiết về hoàn cảnh địa lý của thành phố Cô-rinh-tô cũng có thể soi sáng vài điều về bản chất của hội thánh tại Cô-rinh-tô và những vấp phạm trong đời sống của một vài tín hữu ở đó. Những chi tiết này cũng có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn những hình ảnh hoặc từ ngữ được sứ đồ Phao-lô sử dụng như “cuộc chạy đua”(ông mượn hình ảnh quen thuộc của vận động hội Isthmian tại thành phố Cô-rinh-tô mỗi hai năm một lần) hay “thân thể Đấng Christ” (có thể ông mượn hình ảnh của việc thờ thần chữa bệnh Asclepius của người Hy-lạp), v.v...
Ví dụ, những chi tiết về hoàn cảnh địa lý của thành phố Cô-rinh-tô cũng có thể soi sáng vài điều về bản chất của hội thánh tại Cô-rinh-tô và những vấp phạm trong đời sống của một vài tín hữu ở đó. Những chi tiết này cũng có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn những hình ảnh hoặc từ ngữ được sứ đồ Phao-lô sử dụng như “cuộc chạy đua”(ông mượn hình ảnh quen thuộc của vận động hội Isthmian tại thành phố Cô-rinh-tô mỗi hai năm một lần) hay “thân thể Đấng Christ” (có thể ông mượn hình ảnh của việc thờ thần chữa bệnh Asclepius của người Hy-lạp), v.v...
Nếu có thể được, cố gắng xác
định niên đại của đoạn văn trong một trình tự lịch sử lớn hơn. Đôi khi,
đoạn văn chúng ta đang khảo sát là một sự đáp ứng lại những điều đang diễn ra chung
quanh, và Đức Chúa Trời đã dùng sự tương tác giữa những điều được tác giả viết
ra và hoàn cảnh chung quanh để phán ra những điều cao xa hơn cả những điều được
viết ra. Lời tiên tri về sự tàn phá Giê-ru-sa-lem của Chúa Giê-su trong
các sách Phúc Âm là một thí dụ điển hình. Thành Giê-ru-sa-lem đã sụp đổ
năm 70 SC, nhưng phạm trù của lời tiên tri này vượt xa những điều xảy ra sau đó
40 năm.
Việc đọc một đoạn văn xưa
qua lăng kính của một người ở thế kỷ hai mươi có thể làm “méo mó” cái sứ điệp
nguyên thủy, và chúng ta có thể bỏ qua nhiều điều dạy dỗ có giá trị nếu không
cố gắng đặt mình vào vị trí của những đọc giả đương thời của đoạn văn.
Nên nhớ hoàn cảnh sống của người xưa rất khác với hoàn cảnh sống của chúng ta
hôm nay, và đôi khi cùng một câu nói có thể có ý nghĩa rất khác nhau nếu nói
lên trong hai hoàn cảnh khác nhau.
Nếu không thể xác định niên
đại của đoạn văn một cách chính xác, thử nối kết nội dung của sứ điệp với những
diễn biến lịch sử chung quanh. Sự “áng chừng”
này cũng có thể rất hữu ích.
này cũng có thể rất hữu ích.
10. Xác định văn
thể
Kinh Thánh được các
tác giả viết ra theo nhiều loại văn thể khác nhau như văn xuôi, ký thuật, thơ,
bài ca, thư tín, sấm truyền, v.v... Văn thể của một đoạn văn có thể nói lên mức
độ cảm xúc của người viết hoặc báo hiệu cho chúng ta rằng còn có nhiều điều ẩn
giấu sau lưng những dòng chữ trước mắt. Văn thể còn có thể giúp chúng ta
xác định mức độ xác thực hay biểu tượng của ngôn ngữ đang được tác giả
dùng. Ví dụ, ngôn ngữ của thơ ca thường là ngôn ngữ biểu tượng (metaphorical
language) cho nên không thể xem những dòng chữ được viết ra như là sự mô tả một
thực tại trước mắt. Hiểu loại văn này theo nghĩa đen thường dẫn chúng ta
đến những kết luận sai lầm. Thư tín bao gồm cả sự mô tả thực tại lẫn
những lời hùng biện, cho nên cần phải phân biệt rõ những sự khác nhau
này. Nói tóm lại, mỗi loại văn thể cần phải được nghiên cứu theo cách
riêng của nó.
11. Xem xét
bối cảnh Kinh Thánh và thần học rộng
lớn hơn
lớn hơn
Khi chúng ta bắt đầu
tổng hợp lại tất cả những nghiên cứu và khám phá của chúng ta về đoạn văn để đi
đến việc kết tinh thành một sứ điệp của đoạn văn này, chúng ta cần đặt đoạn văn
này trong một bối cảnh Kinh Thánh và thần học rộng lớn hơn.
Về bối cảnh Kinh Thánh, cần
xem xét chức năng của đoạn văn về phương diện dạy dỗ (hoặc truyền một sứ điệp)
theo trình tự sau: đối với một phần của sách (trong đó có đoạn văn) hướng về
cùng một loại chủ đề, đối với toàn sách, đối với toàn bộ các sách trong cùng
nhóm (ví dụ như văn chương, lịch sử hay tiên tri, v.v...), đối với toàn bộ Tân
Ước (hay Cựu Ước), và sau cùng là đối với toàn thể Kinh Thánh. Cần trả
lời những câu hỏi như: Đoạn văn (hay những phần tử của nó) được so sánh như thế
nào đối với những đoạn kinh văn trong Kinh Thánh có cùng một vấn đề?
Những đoạn kinh văn này có giúp gì cho việc hiểu rõ hơn đoạn văn đang nghiên cứu? Có thể có mâu thuẩn nào giữa đoạn kinh văn đang xem xét và nơi nào
trong Kinh Thánh hay không? Nếu dường như có sự mâu thuẩn, thì có cách nào để giải quyết những sự mâu thuẩn này không? Nếu bỏ đi đoạn văn này thì toàn sách hay phần sách đó có thiếu đi ý nghĩa gì không?
Những đoạn kinh văn này có giúp gì cho việc hiểu rõ hơn đoạn văn đang nghiên cứu? Có thể có mâu thuẩn nào giữa đoạn kinh văn đang xem xét và nơi nào
trong Kinh Thánh hay không? Nếu dường như có sự mâu thuẩn, thì có cách nào để giải quyết những sự mâu thuẩn này không? Nếu bỏ đi đoạn văn này thì toàn sách hay phần sách đó có thiếu đi ý nghĩa gì không?
Chúng ta cũng thực hiện điều
tương tự đối với toàn bộ hệ thống giáo lý và thần học Cơ-đốc. Đoạn văn
này trực tiếp liên quan đến giáo lý nào? Đoạn văn này nêu lên nan đề nào? Sự
khích lệ cổ vũ nào? Sự chúc phước nào? Mức độ xử lý những vấn đề nói trên trong
đoạn văn này? Có thể nào đoạn văn giải quyết được một số
nan đề của một giáo lý nhưng lại gây ra một số nan đề trong lãnh vực khác? Nếu có trường hợp như vậy, làm thế nào để dung hòa? Ví dụ, trong Ê-phê-sô 8: 2
chúng ta đọc “ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu . . .,” trong
khi đó Gia-cơ 2: 17 lại nói rằng “đức tin không sanh ra việc làm, thì tự mình
nó chết.” Có sự mâu thuẩn nào chăng giữa hai “đức tin”? Phải chăng Phao-lô tin rằng “được cứu bởi đức tin” còn Gia-cơ lại tin rằng “được cứu bởi việc làm”?
Đây là một vấn đề thần học lý thú khi chúng ta xem xét một đoạn văn trong toàn cảnh của nền thần học Cơ-đốc. Nếu bỏ qua việc đặt hai đoạn văn trên trong bức tranh tổng thể của thần học Cơ-đốc, có thể chúng ta đi đến kết luận rằng Kinh Thánh mâu thuẩn hay Gia-cơ tin rằng được cứu bởi việc làm.
nan đề của một giáo lý nhưng lại gây ra một số nan đề trong lãnh vực khác? Nếu có trường hợp như vậy, làm thế nào để dung hòa? Ví dụ, trong Ê-phê-sô 8: 2
chúng ta đọc “ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu . . .,” trong
khi đó Gia-cơ 2: 17 lại nói rằng “đức tin không sanh ra việc làm, thì tự mình
nó chết.” Có sự mâu thuẩn nào chăng giữa hai “đức tin”? Phải chăng Phao-lô tin rằng “được cứu bởi đức tin” còn Gia-cơ lại tin rằng “được cứu bởi việc làm”?
Đây là một vấn đề thần học lý thú khi chúng ta xem xét một đoạn văn trong toàn cảnh của nền thần học Cơ-đốc. Nếu bỏ qua việc đặt hai đoạn văn trên trong bức tranh tổng thể của thần học Cơ-đốc, có thể chúng ta đi đến kết luận rằng Kinh Thánh mâu thuẩn hay Gia-cơ tin rằng được cứu bởi việc làm.
Những câu hỏi tiếp theo cần
phải trả lời có thể là: Đoạn văn này chứa đựng điều gì mà có thể góp phần vào
sự giải quyết những vấn đề của giáo lý Cơ-đốc hoặc hổ trợ những chỗ khác trong
Kinh Thánh về việc giải quyết những vấn đề giáo ly? Sự đóng góp này quan
trọng hay không quan trọng? Tầm quan trọng về thần học mà chúng ta định
“gán” cho đoạn văn này có đúng mức hay không? Ý nghĩa và tầm quan trọng
thần học của đoạn văn theo như chúng ta nhận thấy có đúng với kết luận của các
nhà giải kinh tên tuổi hay không? (dĩ nhiên là việc này chỉ nên làm sau khi
chúng ta đã tiến hành một cuộc nghiên cứu độc lập).
12. “Đối thoại” với
các học giả
a. “Lắng nghe”
Mặc dù chúng ta đã
tham khảo và thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu liên quan đến đoạn văn mà
chúng ta đang khảo sát để hoàn tất các bước kể trên, trong đó dĩ nhiên có các
sách giải kinh do các học giả có uy tín, bây giờ chúng ta cần tiến hành một
cuộc khảo sát có hệ thống hơn về những sách giải kinh này để xem thử các học
giả có nhận định thế nào về đoạn văn này. Để bài giải kinh thực sự là kết
quả của công việc nghiên cứu của chúng ta mà không phải là một bản tổng hợp
công trình của những người khác, chúng ta cần suy nghĩ độc lập để đi đến
kết luận riêng của chúng ta trước khi tiến hành bước này. Nếu không,
công việc giải kinh của chúng ta chẳng khác gì một bản đánh giá và tóm lược kết
quả nghiên cứu của người khác (trong khi đối tượng chính của chúng ta là đoạn
kinh văn trước mắt). Làm như vậy không giúp ích gì cho việc tìm kiếm
những ý mới về đoạn kinh văn. Nên nhớ là lời Chúa là vô hạn, không một
nhà giải kinh nào có thể quán triệt hết tất cả mọi vấn đề về một đoạn kinh văn,
luôn luôn có những ý mới để cho chúng ta khám phá.
Bây giờ chúng ta đã sẵn sàng
để “lắng nghe” những học giả nói gì về đoạn kinh văn đang khảo sát. Khi
đọc phần giải nghĩa của các nhà giải kinh, cần để ý những câu hỏi sau: Điểm nào
họ đề cập đến mà chúng ta bỏ qua không để ý? Điểm nào họ nói rõ hơn chúng ta?
Điểm nào họ chú ý nhiều nhất? Điểm nào của họ đáng nghi ngờ hoặc có thể là sai
theo ý chúng ta? Nếu có những điểm như vậy, dùng cước chú chỉ ra những điểm nhỏ
và dùng thân bài để lý luận những điểm lớn hơn.
b. So sánh và
điều chỉnh
Những kết luận của các
học giả có làm thay đổi sự phân tích của chúng ta hay không? Họ có đi đến
những kết luận sâu sắc hơn hay thỏa mãn hơn về toàn thể đoạn văn hay một phần
của nó hay không? Sự tổ chức trong quá trình giải kinh của họ có tốt hơn
không? Họ có để ý những điểm tinh tế nào mà chúng ta không nhận ra hay
không? Nếu có những điều này, đừng ngần ngại khi điều chỉnh lại quá trình
giải kinh hoặc kết luận của chúng ta, và nên nhớ ghi chú những điểm mà ta “nợ”
của họ.
Nên nhớ là mặc dù chúng ta
không nên “mượn tư tưởng” trong sự giải nghĩa của các học giả, nhưng chúng ta
cần phải “thẩm định” công việc của họ với một cặp mắt phê bình. Cũng cần
nên nhớ rằng trước khi chúng ta nói rằng “tôi không đồng ý” thì cần nói đượcrằng
“tôi thực sự hiểu quan điểm của ông ta.” Về nguyên tắc, trước khi
chúng ta phê phán một ý kiến của một học giả, chúng ta cần phải nói lên được ý
kiến của họ một cách rõ ràng. Sau đó, chúng ta có thể tiến hành theo bất
kỳ hướng nào trong những hướng sau:
Chỉ ra nơi nào mà họ hiểu không đúng (theo quan điểm của
chúng ta)
chúng ta)
Chỉ
ra nơi nào mà họ không hiểu
Chỉ
ra nơi nào mà họ không nhất quán
Chỉ
ra nơi nào mà họ bỏ dỡ giữa chừng, không đi đến kết luận
dứt khoát
dứt khoát