BÀI HỌC 6 GIẢI KINH VÀ NGÀNH PHÊ BÌNH BẢN VĂN

BÀI HỌC 6

GIẢI KINH VÀ NGÀNH PHÊ BÌNH BẢN VĂN

A.  Giới thiệu bài học
Mục đích bài học: Giúp học viên hiểu được tầm quan trọng của ngành phê bình bản văn (ngành ngiên cứu với mục đích xác định một bản văn nguyên thủy chính xác) cũng như tầm quan trọng của công việc này đối với công tác giải kinh.  Bài học này cũng trình bày phần nào sự khó khăn của quá trình phục chế bản văn nguyên thủy và từ đó hiểu được sự cần thiết của ngành phê bình bản văn.
B. Nội dung bài học:
Một điều rất rõ ràng là hầu hết các bản dịch Kinh Thánh có uy tín trong tất cả mọi ngôn ngữ hôm nay đều được dịch hoặc từ những thủ bản trong ngôn ngữ nguyên thủy (Hy-bá-lai, A-ram, Hy-lạp)[1] hoặc từ những bản dịch trong ngôn ngữ khác mà các bản dịch này lại được dịch từ những thủ bản trong ngôn ngữ nguyên thủy.  Tuy nhiên, từ ngữ “thủ bản” không đơn giản như chúng ta nghĩ.  Mọi việc sẽ dễ dàng cho các nhà nghiên cứu Kinh Thánh hôm nay rất nhiều nếu tất cả các bản dịch đều dựa trên cùng một bản Kinh Thánh gốc duy nhất có từ thời kỳ đầu tiên khi mà Kinh Thánh được hình thành và kinh điển, hoặc ít nhất là dựa trên những bản sao giống hệt với bản gốc.   Tuy nhiên, việc sao chép Kinh Thánh và phiên dịch không đơn giản như vậy.  Trước hết, thủ bản không phải là bản gốc của Kinh Thánh mà chỉ là bản sao bằng tay của bản gốc.  Thứ hai, “thủ bản” của Kinh Thánh không phải chỉ có một bản duy nhất để rồi từ cùng một thủ bản này mà sinh ra những bản dịch trong những ngôn ngữ khác, nhưng có rất nhiều lớp thủ bản và những thủ bản thuộc lớp sau lại là bản sao của những thủ bản có trước đó.  Tính chính xác của các bản dịch tùy thuộc vào việc thủ bản được dùng để làm chuẩn có gần với bản gốc hay không.  Một giả định tương đối hợp lý, dù không hẳn là hoàn toàn đúng, là thủ bản càng cổ thì càng gần với bản gốc.
Như đã được đề cập đến trong những chương trước, sứ điệp của Đức Chúa Trời được các trước giả Kinh Thánh, dưới sự thần cảm của Chúa, ghi lại bằng ngòi bút của họ trong những bản gốc.  Những bản gốc này lại được sao chép bằng tay và lưu truyền từ nơi này đến nơi khác để truyền đạt sứ điệp của Đức Chúa Trời cho các con dân Chúa ở mọi thời đại.  Tuy nhiên, như người ta thường nói “tam sao thất bổn,” quá trình sao chép và lưu truyền này đã làm nảy sinh ra những thất thoát, thay đổi, và hư hỏng trong bản văn.  Những thay đổi, sai sót này là không thể tránh khỏi được khi việc sao chép vào thời xưa được thực hiện bằng tay.  Bản sao càng xa với bản gốc bao nhiêu thì những thay đổi càng nhiều bấy nhiêu.  Kể từ khi ngành in ấn ra đời vào giữa thế kỷ 15, người ta mới bắt đầu có được những bản sao giống hệt nhau nhờ kỷ thuật in.
 Ngày nay, các học giả đã tìm thấy hàng ngàn thủ bản cổ của Kinh Thánh, là những bản sao bằng tay được thực hiện vào những thời gian khác nhau.  Các thủ bản cổ này lại rất khác nhau.  Khi nghiên cứu và so sánh các thủ bản cổ này, người ta có thể khẳng định một số điều:
-         Không có bản gốc (autograph—bản gốc được chính tay các trước giả Kinh Thánh viết ra) nào còn tồn tại.  Hiện nay chỉ còn lại những thủ bản (manuscripts—bản sao bằng tay).  Đối với Cựu Ước, những thủ bản cổ khám phá ra ở hang động Qumran năm 1947 có lẽ là cổ nhất.  Niên đại của những thủ bản này có lẽ vào khoảng thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên.  Về phần Tân Ước, các nhà nghiên cứu đã khám phá hàng ngàn thủ bản cổ, nhưng thủ bản cổ nhất cũng phải cách “bản gốc” vài trăm năm.
-         Sự không giống nhau của các thủ bản chứng tỏ rằng đã có nhiều sự thay đổi trong bản văn khi Kinh Thánh được sao lại và truyền đi từ nơi này đến nơi khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Để có thể biến sứ điệp của Đức Chúa Trời được chép ra bằng ngôn ngữ loài người cách đây hàng ngàn năm qua các trước giả thành Lời Sống cho con dân Chúa hôm nay, người rao giảng lời Chúa cần phải lần lượt thực hiện hai nhiệm vụ: giải kinh (exegesis) và sau đó là giảng kinh (hemeneutics).  Theo định nghĩa từ lúc đầu, nhiệm vụ của việc giải kinh là giúp chúng ta hiểu được sứ điệp nguyên thủy được các trước giả truyền cho các đọc giả nguyên thủy.  Giảng kinh là việc áp dụng những hiểu biết về sứ điệp nguyên thủy đó vào thời đại đương thời của đọc giả hôm nay để giúp cho việc gây dựng đức tin hoặc mang lại một sự thay đổi tích cực trong nếp sống đạo đức. 
Công tác phê bình bản văn (textual criticism) là một bước rất cần thiết trong quá trình giải kinh.  Đó là ngành khoa học, và cũng là một nghệ thuật, nhằm “phục chế” lại bản văn của Kinh Thánh để chúng ta càng tiến gần đến bản gốc càng tốt, nghĩa là càng tiến gần đến sứ điệp nguyên thủy càng tốt.  Nói như vậy không có nghĩa là ngành phê bình bản văn làm “giảm uy tín” của các bản (dịch) Kinh Thánh mà chúng ta đang sử dụng.  Tất cả các học giả Kinh Thánh đều đồng ý rằng các bản (dịch) Kinh Thánh hiện nay dựa trên các thủ bản, dù chỉ là bản sao và ở trong tình trạng khiếm khuyết nhất, cũng rất trung thực với sứ điệp của Đức Chúa Trời về phương diện thuộc linh, dù về phương diện văn chương thì có thể chưa chính xác hoàn toàn vì những khó khăn trong việc sao chép và lưu truyền như đã nói ở trên.  Như vậy, ngành phê bình bản văn là nhằm giúp cho các đọc giả ngày hôm nay càng hiểu được chính xác hơn các sứ điệp Kinh Thánh khi giúp cho họ biết được các trước giả đã thực sự viết như thế nào khi họ đặt tay viết những dòng chữ trong Kinh Thánh để truyền đạt sứ điệp của Đức Chúa Trời.  Trước khi giải nghĩa một câu văn hoặc một đoạn kinh văn, người giải kinh cần phải trước hết xác định chính xác hình thức (từ ngữ, văn phạm, văn phong, v.v...) của câu văn hay đoạn văn.  Ngành phê bình bản văn là nhằm giúp cho việc này. 
Đến đây, có lẽ tất cả các học viên đều nhận ra một điểm thất lợi của những người giải kinh mà không biết ngôn ngữ Hy-bá-lai, A-ram, Hy-lạp, là những cổ ngữ được các trước giả dùng để viết Kinh Thánh.  Vì giới hạn của lớp học chúng ta là ở trong khuôn khổ của tiếng Việt, chúng ta sẽ không đi sâu vào ngành phê bình bản văn là một ngành ngiên cứu gắn liền với kiến thức tiếng Hy-bá-lai, A-ram, và Hy-lạp.  Do đó, bài học này không nhằm giúp cho các học viên biết cách thực hiện việc phê bình bản văn trong tiếng Hy-bá-lai hoặc Hy-lạp mà chỉ nhằm giới thiệu những khó khăn trong ngành phê bình bản văn và nguyên tắc làm việc của các nhà phê bình bản văn để từ đó có thể thấy được: (1) Những nan đề về bản văn của Kinh Thánh; (2) Qui trình làm việc của các nhà phê bình trong khi họ tìm cách giải quyết những khó khăn này và đi đến quyết định những chữ, câu, đoạn trong Kinh Thánh nên được dịch như thế nào để chúng ta có được quyển Kinh Thánh hôm nay (và từ đó chúng ta có thể vững tâm về quyển Kinh Thánh của chúng ta đang sử dụng); (3) Tầm quan trọng của việc cần phải đọc nhiều bản dịch để có thể so sánh đối chiếu trước khi tiến hành việc giải nghĩa một đoạn kinh văn.  Tuy chúng ta không thể làm công việc phê bình bản văn trong nguyên ngữ, nhưng sự hiểu biết quá trình làm việc của các nhà phê bình cũng như các dịch giả cũng giúp chúng ta rất nhiều khi phải cân nhắc ý nghĩa của một đoạn văn khi so sánh đối chiếu những “tác phẩm” của họ.  Thêm vào đó, việc này cũng giúp chúng ta rất nhiều khi đọc những sách giải nghĩa Kinh Thánh, nhất là khi các tác giả bàn đến những chi tiết của bản văn trong nguyên ngữ.  Về phần giảng kinh, học viên cần đọc kỷ chương 4 của “Nguyên Tắc Đọc Và Hiểu Kinh Thánh” (Gordon D. Fee & Douglas Stuart) để nắm vững những nguyên tắc áp dụng khi đi từ phần giải kinh sang giảng kinh.  Trong những trang sau đây, chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu những nan đề về bản văn của Kinh Thánh và những nguyên tắc giải quyết đã được các học giả sử dụng.
I.  Nguồn gốc những thay đổi trong bản văn của Kinh Thánh
Có hai nguyên nhân của những thay đổi thường gặp trong bản văn: lỗi không cố ý xảy ra khi sao chép, sự thay đổi cố ý khi người chép tìm cách giải thích rõ hơn câu đang chép.  Ngoài ra, còn có những trường hợp (hiếm) là những chỗ mục nát trong thủ bản làm cho không đọc được rõ ràng và do đó các học giả phải “đoán” và quyết định về một chữ nào đó.  Ở đây chúng ta chỉ nói về hai nguyên nhân đầu.  Phần lớn những thí dụ dưới đây là về tiếng Hy-lạp, nhưng những thay đổi trong tiếng Hy-bá-lai cũng tương tự.
1.  Những thay đổi không cố ý:
Khi so sánh các thủ bản với nhau, các học giả khám phá ra rằng những thay đổi không cố ý chiếm phần lớn trong những sự khác nhau giữa các thủ bản.  Những nguyên nhân của những sự thay đổi này gồm nhiều loại.
a.  Lỗi do mắt nhìn
Khi sao chép, những ký lục phải nhìn từ thủ bản chuẩn rồi chép lại trong bản sao.  Khi nhìn từ bản này sang bản khác một cách liên tục và trong thời gian dài, họ rất dễ vấp phải những nhầm lẫn sau:
·       Chấm dứt chữ sai chỗ hoặc viết liền những chữ lẽ ra phải cách ra.  Lỗi này rất dễ phạm phải trong cách viết chữ Hy-bá-lai và Hy-lạp.  Lỗi này làm cho ý nghĩa của câu khác hẳn.  Ví dụ, câu Mác 10: 40 “Ấy là thuộc về người nào mà điều đó để dành cho” (al oi hêtoimastai) thì lại được chép là “Ấy là thuộc về những kẻ khác” (aloi hêtoimastai).
·        Nhầm lẫn giữa những mẫu tự.  Trong tiếng Hy-bá-lai, những mẫu tự như m, t, . . . rất dễ bị nhầm lẫn với s, h, . . . Tương tự như vậy, những mẫu tự tiếng Hy-lạp k, b, ei, es, z, x, o, s, q, . . . rất dễ gây ra nhầm lẫn khi sao chép.
·       Nhận lầm chữ cuối (homoioteleuton).  Trong trường hợp này, mắt của vị ký lục “nhảy” từ một chữ hoặc một nhóm chữ của một câu sang một chữ hoặc một nhóm chữ khác tương tự của một câu đứng phía sau, và do đó đã vô tình bỏ đi khúc văn ở giữa hai câu khi chép qua bản sao.  Còn có hai trường hợp đặc biệt khác về việc nhận lầm chữ cuối này.  Trường hợp đầu là trường hợp chép một mẫu tự chỉ một lần trong khi lẽ ra phải chép hai lần (halography).  Trường hợp sau thì ngược lại; vị ký lục chép hai lần một cùng một mẫu tự (dittography).  Một ví dụ là 1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:7.  Có thủ bản thì chép “chúng tôi đã ăn ở nhu mì” (egênêthêmên hêpioi), trong khi có thủ bản khác thì chép “chúng tôi đã trở nên như con trẻ” (egênêthêmên nêpioi).
·       Thay đổi vị trí của mẫu tự trong chữ hoặc chữ trong câu (metathesis).  Ví dụ như Mác 14: 65.  Đa số thủ bản chép elabôn (nhận lấy, tóm lấy), nhưng lại có một ít thủ bản ghi ebalôn (ném xuống, quăng xuống).
·       Ngoài những lỗi trên, còn có những lỗi khác vì lối chữ viết tay của các vị ký lục không phải ai cũng giống ai.  Lỗi sao chép sẽ xảy ra khi vị ký lục sau nhận dạng lầm một chữ của vị ký lục trước.
b.  Lỗi do chép lầm
Trường hợp này xảy ra khi người ký lục đọc một đàng nhưng lại chép một nẻo.  Việc này cũng thường xảy ra khi chúng ta viết tay ngày nay.
c.  Lỗi do nghe lầm
Có những mẫu tự trong nguyên ngữ được đọc giống nhau như o và w (Hy-văn), hay ei và i, v.v... Khi người ký lục nhìn một chữ ở thủ bản chuẩn, đọc lên, nhớ âm tiết của chữ nàytrong đầu, và khi chép thì dùng một mẫu tự đồng âm để chép.  Ví dụ như 1 Cô 13: 3.  Có bản thì chép “chịu đốt” (kauthêsômai), nhưng có bản thì đọc là “khoe mình” (kaukhêswmai)
d.  Lỗi do nhớ lầm
Trường hợp này có thể xảy ra khi vị ký lục quên mặt chữ chính xác của một chữ trong khi thì vẫn nhớ nghĩa của nó.  Kết quả là khi chép thì ông ta lại dùng một chữ đồng nghĩa để chép.  Nếu là nhiều hơn một chữ thì lại có thể có sự đảo lộn thứ tự của chữ xảy ra (thứ tự chữ trong tiếng Hy-lạp không giống như tiếng Việt hay tiếng Anh; thứ tự của chữ thay đổi nhưng ý nghĩa câu văn ít khi thay đổi).  Cũng có thể ông ta bị ảnh hưởng nghĩa của một câu văn đồng nghĩa ở đâu đó rồi lại dùng chữ của câu văn đó để thế vào. 
e.  Lỗi do phán đoán nhầm
Cần nhớ rằng vị ký lục ít có thì giờ để suy nghĩ cẩn thận những gì mình viết ra, cho nên cũng rất dễ xảy ra trường hợp là ông ta hiểu nhầm hay bỏ qua những chữ viết tắt trong thủ bản chuẩn, hay viết vào trong thân bài một phần ghi chú bên lề của vị ký lục trước, hay bỏ qua luôn những chữ mà vị ký lục trước quên trong câu văn nhưng lại thêm vào bên lề sau đó trong thủ bản chuẩn.
2.  Những thay đổi do cố ý
Về số lượng thì những thay đổi do cố ý ít hơn nhiều so với những thay đổi (lỗi) không cố ý ở trên.  Những thay đổi này xảy ra khi vị ký lục cố gắng “cải tiến” bản văn theo nhiều cách khác nhau để làm cho người đọc dễ hiểu hơn.  Không có dấu hiệu nào chứng tỏ rằng những thay đổi này là do sự xuyên tạc bản văn dưới ảnh hưởng của tà giáo.  Ngoại trừ một số các trường hợp đặc biệt, sự thay đổi này không làm thay đổi ý nghĩa các câu văn nhiều lắm. 
a.  Thay đổi về văn phạm và ngữ học
Đôi khi, vị ký lục thay đổi vài mẫu tự cuối của một động từ trong thủ bản chuẩn vì nghĩ rằng chữ mới này “có ý nghĩa” hơn (thì của một động từ trong tiếng Hy-lạp được quyết định bởi những mẫu tự cuối của động từ).  Tuy nhiên, sự thay đổi này lại làm thay đổi cả ngụ ý của câu văn (khi vị ký lục không nhìn một văn cảnh tổng quát và lớn hơn câu văn đang chép).  Ví dụ như ở Rô-ma 4: 11, một số thủ bản có ý nghĩa là “người đã nhận lấy dấu [của sự] cắt bì . . .” khi động từ được viết là pêritômê, trong khi một số thủ bản chép pêritômên để làm cho câu văn thành “người đã nhận lấy sự cắt bì như một dấu . . .”
b.  Thay đổi do sự cố gắng đồng nhất các đoạn văn tương đương
Khi các vị ký lục nhận thấy sự khác biệt giữa những đoạn hoặc câu văn tương đương trong các sách khác nhau hoặc các câu khác nhau trong cùng một sách, ông ta cũng có khuynh hướng là muốn đồng nhất chúng bằng cách dùng cùng một câu văn trong những nơi khác nhau này.  Một thí dụ điển hình là Bài Cầu Nguyện Chung ở Ma-thi-ơ 6: 9 – 13 và Lu-ca 11: 2 – 4.  Trong đa số các thủ bản thì Bài Cầu Nguyện Chung ở Ma-thi-ơ và Lu-ca được chép khác nhau, nhưng trong một số thủ bản thì hai bài này được chép giống hệt nhau và dùng bài cầu nguyện ở Ma-thi-ơ.
c.  Thay đổi do nổ lực dung hòa (harmonization)
Cũng như trường hợp trên, nhưng ở đây thì vị ký lục không “đồng hóa” câu chỗ này bằng cách dùng câu chỗ khác nhưng dùng những chữ tương đương với nhau.  Trường hợp này rất thường xảy ra trong các sách Tin Lành Cộng Quan.  Ví dụ, chữ “lổ kim” trong Ma-thi-ơ 19: 24, Mác 10: 25, Lu-ca 18: 25 đã được chép bằng cả ba chữ trumêmato, trumêlia, trumato trong nhiều thủ bản khác nhau, và không thủ bản nào “cứng nhắc” trong việc dùng chữ này.
d.  Thay đổi do phối hợp thủ bản (conflation)
Trường hợp này có thể xảy ra khi vị ký lục sử dụng không phải là một mà là hai (hoặc nhiều hơn) thủ bản để làm chuẩn.  Khi đọc thấy những chữ khác nhau về cùng một chỗ thì ông ta có khuynh hướng phối hợp các thủ bản để chép ra một chữ mà chữ này bao hàm tất cả các chữ trong các thủ bản chuẩn.  Một ví dụ là Lu-ca 24: 53.  Có thủ bản thì ghi “chúc phước” (iulôguntê), có bản thì ghi “ngợi khen” (ainuntê), có bản thì lại ghi là “ngợi khen và chúc phước” (iulôguntê kai ainuntê).  Trường hợp thứ ba này có thể là sự phối hợp của hai trường hợp trước. 
e. Thay đổi do cố gắng “sửa sai”
Có khi vị ký lục nghĩ là thủ bản chuẩn có sai lầm về một chữ hoặc mẫu tự nào đó và quyết định là “sửa sai” bằng cách dùng chữ hoặc mẫu tự khác.  Khi làm như vậy, vị ký lục này nghĩ rằng ông đã phục hồi lại cho đúng với nguyên bản.  Ở Rô-ma 1: 5 chẳng hạn, có bản thì ghi “nới lỏng” (lusanti), có bản thì ghi “rữa sạch” (lousanti, nhưng đọc giống như trên). 
Ngoài những thay đổi đề cập đến ở trên, các học giả còn “nghi ngờ” là có những thay đổi xuất phát từ sự thay đổi về giáo lý và thần học của giáo hội qua các thời kỳ khác nhau.  Vì thần học và giáo lý của giáo hội có thể thay đổi ít nhiều trong các thời kỳ khác nhau, và sự thay đổi này có thể ảnh hưởng trên các vị ký lục của những thời kỳ khác nhau để dẫn đến việc là họ sẽ dùng những chữ phù hợp với thần học và giáo lý trong thời kỳ đó.  Kết quả là thủ bản của thời kỳ này sẽ hơi khác với thủ bản được chép vào thời kỳ khác.  Tuy nhiên, những thay đổi như vậy rất hiếm trong các thủ bản và không ảnh hưởng gì đến nền thần học chung của Cơ-đốc giáo.  Thí du ở Mác 9: 29, đại đa số các thủ bản thì chép “cầu nguyện” trong khi đó thì có một ít thủ bản lại thêm chữ “và kiêng ăn.”
II.  Nguyên Tắc Phê BìnhBản Văn
Phê bình bản văn là một công việc khó khăn và đòi hỏi một tinh thần “cảnh giác” cao độ.  Vì hiểu rằng đây là Lời Chúa và mỗi một sai lầm có thể dẫn đến một hậu quả lâu dài, cho nên các học giả làm việc rất tận tụy, cực kỳ cẩn thận, và sử dụng những phương tiện chính xác nhất mà họ có thể có được.  Dưới đây, chúng ta sẽ tìm hiểu về phương pháp làm việc của các học giả trong khi thực hiện việc phê bình bản văn.  Nói chung, phương pháp phê bình bản văn đối với Tân Ước và Cựu Ước cũng gần tương tự như nhau, nhưng vì đặc điểm của các thủ bản của Tân Ước và Cựu Ước hoàn toàn khác nhau nên chúng ta sẽ lần lượt xem xét trong hai phần khác nhau.
1. Tân Ước 
Đối diện với hàng ngàn thủ bản của Kinh Thánh không đồng nhất với nhau, để đi đến quyết định cuối cùng về việc những câu văn phải viết như thế nào để có thể gần nhất với nguyên bản, các nhà nghiên cứu phải trãi qua một quá trình sàng lọc, so sánh thật cẩn thận gồm bốn bước. 
·       Bước 1: Thu thập và sắp xếp dữ kiện.  Trong giai đoạn này, hàng ngàn thủ bản được đọc thật cẩn thận, và các học giả ghi chú tất cả những biến thể trong các thủ bản . . .
·       Bước thứ 2: Đánh giá nội chứng.
-                         Xem xét phẩm chất của việc sao chép
-                         So sánh phẩm chất nội tại của văn thể, văn phong
·       Bước 3: Đánh giá ngoại chứng.
-                         Định niên đại của các thủ bản một cách tương đối (kết quả ở giai đoạn này chỉ có giá trị tương đối mà thôi; kết quả cuối cùng phải dựa trên nguyên tắc chính sẽ được nói đến dưới đây).
-                         Vùng địa lý nơi đó các thủ bản được tìm thấy (những thủ bản được tìm thấy trong cùng một khu vực chắc chắn là có liên hệ gần với nhau hơn so với các thủ bản khác vùng).
-                         Xác định mối liên hệ có tính phả hệ của các thủ bản với nhau
-                         Xác định giá trị (tương đối) của các thủ bản.  Kết quả ở giai đoạn này là tương đối.  Giá trị của một thủ bản còn tùy thuộc vào những bước khác.
·       Bước thứ 4: Quyết định.  Sau khi đã tiến hành những bước trên, các học giả còn phải trở lại để cân nhắc giữa kết quả của những bước trên, nhất là bước 2 và 3, trước khi đi đến quyết định cuối cùng.  Kết quả của bước thứ 4 là “hình dáng” cuối cùng của những câu văn trong bản Kinh Thánh.
Dưới đây, chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn vào 2 bước quan trọng nhất là bước 2 và bước 3.
a.  Đánh giá nội chứng; 
Công tác đánh giá nội chứng phải tuân theo một số những nguyên tắc nhất định để bảo đảm được tính chính xác của công việc.
Nguyên tắc căn bảnThủ bản được cho là gần với bản gốc nhất là bản mà có thể giải thích được cho sự ra đời của những bản khác.
Sự thay đổi của những thủ bản sau so với thủ bản chuẩn có trước là do những nguyên nhân cố ý hay không cố ý mà chúng ta đã đề cập đến ở trên.  Các học giả dựa vào nguyên tắc trên và dùng phương pháp lý luận hai chiều (qui nạp và suy diễn) để đi đến kết luận là bản nào là bản gần với nguyên thủy nhất.  Nguyên tắc căn bản trên có nhiều hệ luận:
·       Thủ bản nào có cách đọc khó hơn là thủ bản sớm hơn (gần với nguyên thủy hơn).  Cơ sở lý luận: Nếu thủ bản trước có cách đọc khó thì vị ký lục sẽ dùng chữ dễ hơn để chép.  Không có lý do gì mà vị ký lục lại dùng một chữ khó hơn để diễn tả một chữ dễ hơn.
·       Trong trường hợp có sự thay đổi cố ý, cách đọc ngắn hơn là cách đọc của thủ bản sớm hơn.  Lý do là vì khi chép thì vị ký lục có khuynh hướng giải thích chỗ khó trong thủ bản chuẩn bằng cách thêm vào nhiều chữ hơn.
·       Trong trường hợp có sự thay đổi không cố ý thì cách đọc dài hơn thường là cách đọc của bản sớm hơn.  Lý do là vì vị ký lục thường có khuynh hướng là bỏ sót chữ hơn là thêm vào chữ trong trường hợp này.
Đối với những đoạn văn song song
Trong những thủ bản có những đoạn văn song song, ví dụ như Bài Cầu Nguyện Chung trong các sách Phúc Âm, thủ bản nào có những đoạn văn càng ít giống nhau thì càng có khả năng là thủ bản sớm hơn.  Trong những bản chép sau, các ký lục thường tìm cách để đồng nhất hay dung hòa, nên thường những đoạn văn tương đương được viết giống nhau nhiều hơn.
So sánh văn phong
Mỗi trước giả Kinh Thánh có một văn phong riêng.  Câu hoặc đoạn nào có vẻ khác với văn phong của trước giả thì thường bị nghi ngờ là đã bị thay đổi.  Thủ bản nào càng bảo tồn được văn phong của trước giả thì có khả năng là bản sớm hơn.
b. Đánh giá ngoại chứng
Yếu tố ngoại chứng ảnh hưởng rất lớn đến việc sẽ chọn cách viết chữ, câu, đoạn trong bản văn cuối cùng.  Quyết định về một chữ, câu, đoạn sẽ căn cứ vào: chữ, câu, hoặc đoạn đó phải được sự ủng hộ của: (1) nhiều thủ bản và (2) những thủ bản có uy tín nhất.   
Như đã đề cập đến ở trên, hàng ngàn thủ bản cổ tìm thấy khắp nơi được xếp loại theo nhóm.  Những thủ bản tìm thấy trong cùng một vùng địa phương thì thường có đặc tính về văn bản giống nhau và do đó được xếp vào trong cùng một nhóm (quá trình và kết quả của việc sắp xếp này khá dài dòng cho nên chúng ta sẽ không đi vào chi tiết).  Nhóm thủ bản có giá trị và tương đối đáng tin cậy nhất là nhóm Alexandrian, kế đến là nhóm Caesarean, rồi đến nhóm Western, nhóm Byzantine, v.v... Thứ tự ưu tiên này sẽ giúp cho việc quyết định cuối cùng như đã nói ở trên.  Tuy nhiên, đôi khi có những trường hợp ngoại lệ khi có những câu hoặc đoạn trong nhóm thủ bản ưu tiên lại có vẻ đã bị “biến dạng” nhiều hơn so với nhóm khác, và lúc đó các học giả phải cân nhắc từng trường hợp riêng và sẽ sử dụng câu hoặc đoạn trong bản kém ưu tiên hơn. 
Mỗi nhóm thủ bản đề cập đến ở trên đều có một “lối văn” riêng.  Dựa vào “lối văn” này,  người ta lại phân hạng các thủ bản theo mức độ đáng tin cậy của chúng; bản nào gần nhất với “lối văn” của nhóm là bản có uy tín nhất. 
c.  Quyết định cuối cùng
Cả việc đánh giá ngoại chứng và đánh giá nội chứng sẽ tham gia một cách cân bằng vào việc dẫn đến quyết định cuối cùng về “hình dáng” của chữ, câu, hay đoạn trong bản văn cuối cùng.  Nếu ngoại chứng và nội chứng có vẻ mâu thuẫn về một chỗ nào đó thì một giải pháp thỏa đáng phải được đưa ra trước khi tiếp tục tiến hành công việc.  Nếu bỏ qua ngoại chứng và chỉ sử dụng nội chứng, chúng ta dễ phạm sai lầm vì sự quyết định mang tính độc đoán và chủ quan.  Ngược lại, nếu bỏ qua nội chứng và chỉ dựa vào ngoại chứng thì sự sai lầm cũng chẳng khác gì ở trên vì trong thực tế không có một thủ bản nào là đáng tin cậy hoàn toàn từ đầu đến cuối (nếu có thì chúng ta đã chẳng cần ngành phê bình bản văn làm gì).
2. Cựu Ước
Quá trình phê bình bản văn của Cựu Ước cũng tương tự như Tân Ước, nghĩa là cũng trãi qua những bước quan sát, so sánh, cân nhắc thật cẩn thận, trước khi đi đến quyết định cuối cùng.  Tuy nhiên, công việc phê bình bản văn đối với Cựu Ước tương đối nhẹ nhàng hơn vì số lượng các thủ bản Cựu Ước được tìm thấy không nhiều như Tân Ước, và biến thể trong bản văn cũng không lớn lắm vì sự sao chép và lưu truyền Cựu Ước đã tuân theo một hệ thống ký số do các ký lục thời xưa nghĩ ra.  Tựu trung, quyết định cuối cùng về văn bản của Cựu Ước dựa trên những tiêu chuẩn sau (theo thứ tự ưu tiên):
·       Bản Masoretic có thẩm quyền nhất (kế đến là nhóm thủ bản ở Pa-lét-tin trong đó quan trọng nhất là Qumran, rồi đến nhóm Samaritanus, bản dịch ngược từ bản Bảy Mươi, Aquila, Symmachus, Theodotion, Peshita, Targum, Vulgate, v.v...)
·       Bản văn có cách đọc khó nhất có khả năng là bản gần nguyên thủy nhất
·       Bản có cách đọc khó ở trên phải giải thích được một cách đọc dễ hơn (nếu không thì cách đọc khó đó trở thành vô nghĩa).
·       Nếu tất cả những tiêu chuẩn trên không thể đưa đến một kết luận rõ ràng nào thì các học giả phải “phỏng đoán.”  Tuy nhiên sự phỏng đoán này không phải là tùy tiện mà là sự phỏng đoán có cơ sở, nghĩa là phải dựa trên văn cảnh chung của toàn bộ đoạn văn

C.  Bài Làm:
          I.  Tiểu luận:
Dùng ít nhất hai bản dịch (nhiều hơn càng tốt, nhưng đừng quá 5 bản), đọc 1 Cô-rinh-tô 5: 1 – 5.  Nêu ra những điểm khác nhau quan trọng, thử so sánh, phân tích, và cho biết các câu 3 – 5 nên hiểu theo cách nào.  Cuối cùng, thử dùng lối của bản Kinh Thánh diễn ý để viết 1 Cô-rinh-tô 5: 1 – 5.
          II.  Thảo luận
Ngành phê bình bản văn Kinh Thánh có làm giảm sự tin tưởng của tín hữu vào Kinh Thánh hay không?  
  
   

     
    
    
              
 
 


[1] Ở đây, chúng ta chỉ có thể nói là “hầu hết” vì có thể có những bản dịch từ những bản tiếng La-tinh (Volgate) hay từ những cổ bản trong các ngôn ngữ khác như Sy-ri hay Coptic.  Tuy nhiên, dĩ nhiên là uy tín của những bản dịch qua một ngôn ngữ trung gian như vậy sẽ không thể nào sánh với việc dịch từ ngôn ngữ nguyên thủy.  

Related link

Latest Features

Weather

Facebook comments