Gia Dinh Gieo Giong

CÁC SÁCH THI CA TRONG KINH THÁNH


 


ĐẠI CƯƠNG VỀ THI CA
Thơ là một hình thức phô diễn tư tưởng có lẽ đã có từ khi con người mới có tiếng nói. Thơ và ca thường đi đôi với nhau (thi ca) vì cả hai đều dùng tiếng nói và âm điệu để diễn tả tình cảm tâm tư con người. Nhưng ca thì thiên về âm điệu, còn thơ thì thiên về tiếng nói nhiều hơn. Vì tiếng nói tự nó không thể tồn tại nếu không được lưu giữ trong trí nhớ con người, mà khả năng của trí nhớ thì rất hạn chế, nên tiếng nói cần có một phương tiện truyền đạt vừa có thể đại diện cho nó vừa có thể lưu giữ lâu dài được. Phương tiện đó là chữ viết. Qua chữ viết hay văn tự, tức là những ký hiệu đại diện cho những âm thanh tạo thành ngôn ngữ con người, tiếng nói được lưu giữ và truyền đạt.
Bởi vì con người có khuynh hướng làm đẹp những gì mình có thể lưu truyền được, nên tiếng nói truyền đạt bằng chữ viết không còn là thứ tiếng nói truyền miệng thông thường nữa, mà là thứ tiếng được gọt giũa, trau chuốt, đãi lọc. Từ đó ta có văn thơ, tức là những công trình nghệ thuật của tiếng nói được chuyên chở bằng chữ viết.
Ở đây, ta lại phải xét qua sự khác biệt giữa văn (prose) và thơ (poetry). Thông thường, văn hay là  văn xuôi (prose) được viết liên tục cho đến khi hết ý, còn thơ hay văn vần (poetry) được viết thành những giòng riêng biệt. Bài văn không đòi hỏi vần điệu, tiết nhịp, nhưng một bài thơ không thể nào thiếu những thứ đó. Chính vì vậy mà các loại thơ cổ điển phải tuân theo một số niêm luật về vần điệu.
Tuy nhiên, những yếu tố vần điệu và viết thành giòng không hẳn luôn luôn tạo thành thơ, và nhiều thể thơ hiện đại hầu như không có những yếu tố đó. Cũng có những bài văn chứa đựng nhiều âm tiết nhịp điệu nhưng không thể gọi là thơ. Như vậy, hai yếu tố phân biệt đó không có tính cách tuyệt đối, ngoài ra cũng còn những yếu tố ẩn tàng khác để minh định đặc tính thơ mà chúng ta sẽ không đi vào chi tiết vì không thuộc phạm vi bài học.
Trong ngôn ngữ Việt Nam, những bài vè, những câu nói lối, là gạch nối giữa thơ và văn xuôi. Đó là những lời nói thường, nhưng được ghép thành vần điệu. Chúng không phát xuất từ những rung cảm, khôâng khơi động trí tưởng tượng như thơ.
Mặt khác, trong kho tàng văn học cổ điển, hình thức thơ được dùng trong nhiều thể loại mà ngày nay được xem là thuộc phạm vi chuyên biệt  của văn xuôi: tiểu thuyết (Truyện Kiều), kịch (Shakespeare)...
Trong ngôn ngữ Do-thái, có những bản văn được người ta xếp vào loại thơ–văn xuôi, nghĩa là những bài ký thuật, những câu chuyện được trình bày theo mỹ từ pháp,  nhưng mang hình thức văn xuôi. Câu chuyện nguời đàn bà Thê-cô-a kể trong II Sa. 14:5-7 và ngụ ngôn của tiên tri Na-than trong II Sa 12:1-4, được liệt vào loại nầy. Nhiều học giả hiện đại còn xếp cả sách Giô-na, Ru-tơ, Ê-xơ-tê, và Đa-ni-ên 1-6, vào loại nầy. Tuy nhiên người ta công nhận rằng loại thơ–văn xuôi rất khó phân biệt.
Trong văn học Do-thái cũng như các dân tộc khác, thơ dễ nhận diện khi nó được viết thành câu.  Những câu thơ Do-thái thường sử dụng một số thành ngữ và những cấu trúc đặc biệt của thơ, và phải tuân thủ một số qui luật thi phú.



CHƯƠNG 1
THI CA DO-THÁI
(Hebrew Poetry)

I. LỊCH SỬ THI CA DO-THÁI
1.  Khảo Sát
Thi ca chiếm một số lượng lớùn trong văn chương Cựu Ước. Nếu chỉ nói đến những sách thuần túy thi ca như Gióp, Thi Thiên, Châm Ngôn, Nhã Ca, Ca Thương, mà thôi, thì thi ca cũng đã đóng một vai quan trọng rồi. Số lượng đó còn tăng lên nhiều nếu ta kể thêm sách Koheleth là loại thơ–văn xuôi, một thứ thơ tự do đã phá bỏ phần lớn hàng rào niêm luật, và các sách Giảng Huấn (Ecclesiasticus), Khôn Ngoan (Wisdom), Thi Vịnh của Sa-lô-môn (Psalms of  Solomon) là những tác phẩm thơ nằm trong bộ ngoại kinh (apocripha) và không được liệt trong chánh kinh (canon). Ngoài ra, thơ phú cũng có nằm rải rác trong các sách lịch sử và tiên tri nữa.
Ta không thể nào khảo sát toàn bộ lịch sử thi ca Do-thái một cách thấu đáo được, vì những lý do sau đây:
a. Thất lạc 
Hiển nhiên là những bài thơ ta có trong sách Cựu Ước hiện nay chỉ là một phần nhỏ của toàn bộ thi ca Do-thái. Nhiều bộ sưu tập xưa đã lạc mất.  Có nhiều sách được nhắc đến trong Cựu Ước đã không còn nữa: Sách Gia-sa hay Sách của Người Công Nghĩa (Giô 10:13; II Sa 1:18); Sách Chiến Trận của Đức Giê-hô-va (Dân 21:14); hay 3,000 câu châm ngôn và 1,005 bài thơ của Sa-lô-môn (I Các Vua 5:12).
Ngoài ra, còn cả một kho tàng thi phú dân gian gồm các bài ca đám cưới, ai điếu, bài hát tiệc tùng (A-môt 6:5), những bài diễm ca (rhapsody), nay chỉ còn giữ lại được một số bài mẩu hay tiêu biểu.
b. Không biết xuất xứ, niên đại
Với những bài thơ còn giữ được, họa hoằn mới có thể định được niên đại, còn tìm cho ra tác giả càng khó khăn hơn nữa. Các thi liệu không hề để tâm đến lịch sử văn chương. Bản thân các thi sĩ không nhắm tạo vinh quang cho mình trên thi đàn trong tương lai, mà công chúng cũng chẳng màng tìm hiểu ai là tác giả của những lời họ đọc hay hát.
Những lời ghi chú trên đầu các bài Thi Vịnh hay Châm Ngôn không giúp ích gì bao nhiêu cho công cuộc khảo cứu. Một số bản văn cổ không có ghi, vì vậy ngoài suy đoán ra không còn có cách nào để biết đích xác được tác giả.
c. Thiếu tài liệu về âm nhạc, tiết điệu  
Chúng ta biết rằng thơ Do-thái tuân theo những qui luật về tiết điệu và đó là những bài ca đi kèm theo nhạc khí. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có rất ít dữ kiện về phương diện nầy, một số dữ kiện đó nằm trong những lời ghi chú trên đầu các bài Thi Vịnh, nhưng chẳng cho ta biết được bao nhiêu.
2.  Diễn Tiến
Thơ Do-thái tiến triển qua ba thời kỳ:
a. Thời kỳ bình dân
Từ đầu lịch sử  Is-ra-en cho đến khi các lời tiên tri được chép ra. Từ buổi sơ khai cho đến đời Sa-lô-môn, ta có thể gọi là thời kỳ tiền văn học (pre-literary). Từ  Sa-lô-môn trở đi, nghệ thuật đọc và viết có vẻ đã quảng bá rộng rãi trong dân Is-ra-en. I Các Vua 4:32-34 có nói đến sáng tác và sưu tập của Sa-lô-môn liên hệ đến quần chúng bình dân rất phong phú đa dạng. Nếu đúng vậy, những tác phẩm đó ắt hẳn đã đặt nền móng cho một nền thi ca thịnh vượng mà rất tiếc chẳng còn để lại bao nhiêu vết tích.
b. Thời kỳ tiên tri
Từ A-mốt đến Ê-xơ-ra. Xét theo những bản văn ta hiện có, các nhà tiên tri là những nhà thơ đúng nghĩa, và là những nhà thơ rất xuất sắc của thời đại. Ngay cả những tập thơ thuần tuý như Gióp, Ca Thương cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm của họ. Nếu bỏ qua một bên những bài tường thuật, ta có thể xem tất cả các sách A-mốt, Ô-sê, Mi-chê, Ê-sai, Na-hum, Ha-ba-cúc, đều là những thi phẩm. Bản chính gốc của Giê-rê-mi cũng vậy. Ê-xê-chi-ên cũng xen vào nhiều bài thơ.
c. Thời kỳ giáo huấn (didactic)
Thời kỳ nầy cũng chứa nhiều thi phẩm tiên tri; tuy nhiên chúng có tính cách giáo huấn. Đó là những bài thơ đặt nền tảng trên Luật Pháp và nhắm vào một hệ thống luân lý mà chữ chìa khóa là ‘kính sợ Đức Chúa Trời’. 

II.  QUI LUẬT THI PHÚ
1. Giòng Thơ
Qui luật căn bản của những sáng tác có vần điệu, dầu là thi hay ca (thơ hay bài hát), là phải ngắt giòng tư tưởng tuôn chảy liên tục thành những nhóm chữ ngắn, ý nghĩa có phần nào độc lập với nhau. Thơ Do-thái thường viết thành giòng có vần điệu (stichoi). Nhiều khi những giòng nầy được đánh dấu bằng những mẫu tự Do-thái ở đầu giòng, như trong Thi. 111 và 112. Giới hạn của những giòng thơ nầy thường do tự nhiên định đoạt, tức là có thể đọc hết trong một hơi thở bình thường. Trong hầu hết những thi phú của Cựu Ước, những giòng đó tách rời nhau rõ ràng, cho ta thấy luồng tư tưởng toàn bài bị phân cắt là do người viết bố trí chứ không phải do sắp đặt theo mạch lạc luận lý.
2. Câu Thơ
Đơn vị thứ hai để cấu thành bài thơ Do-thái là câu thơ (verse). Một bài thơ Do-thái gồm có nhiều giòng thơ, thường thuờng cứ hai giòng thơ làm thành một câu thơ. Nói cho đúng, việc phân chia thành câu không phải chỉ có trong phần thi ca, mà cũng ở trong cả văn xuôi nữa, ta có thể thấy ở bất cứ nơi nào trong Cựu Ước. Tuy nhiên, trong phần thi ca, mỗi câu thơ thường gồm nhiều giòng, chứ không chấm dứt lẻ loi ở cuối mỗi giòng (stichos).  Trong cổ bản Massoretic, có những câu thơ bao gồm nhiều giòng với nhịp điệu khác nhau và phân biệt với nhau bằng dấu phân câu. Tuy nhiên trường hợp dùng dấu phân câu để chia những giòng thơ (stichoi) trong cùng một câu thơ là rất hiếm hoi.
3. Tính Song Đối
Trong thi-ca Do-thái cũng như thi ca Việt Nam, tính song đối rất cần thiết. Khi nhà thơ nói lên một câu thơ, họ gợi lên trong trí người nghe một ý tưởng hay hình ảnh nào đó mà người nghe cần phải thu nạp ngay; phản ứng tự nhiên của người nghe là muốn nghe lại những lời đó để có một ý tưởng hay hình ảnh rõ ràng, hoàn chỉnh hơn. Vì vậy nhà thơ trở lại từ đầu, nói lại một lần nữa, nhưng dùng chữ khác đi một chút hay khác hẳn để tránh sự đơn điệu. Như thế là nhà thơ đã diễn đạt ý tưởng  song đối với ý tưởng đã nói lên trước.
Trong câu thơ tiếng Việt:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngỏ trúc quanh co khách vắng teo
ta thấy cái yên lặng tĩnh mịch trên không trung được tăng cường bằng hình ảnh đối xứng của khung cảnh vắng lặng trong thôn xóm dưới đất.
Hay hình ảnh nghèo khổ đơn chiếc trong câu:
Nhà trống ba gian, một thầy, một cô, một chó cái,
được đẩy lên đến cực điểm khi những mô tả song song sau đây được đưa vào:
Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi.
Trong thơ Do-thái, những ý song đối nói lên trong một hay nhiều giòng kế tiếp, phụ họa và tăng cường cho ý nói lên trong giòng đầu, tạo thành một câu thơ nhấn mạnh ý tác giả muốn diễn đạt, là điều ta thấy thường xuyên.
Ở đây ta tìm thấy một nguyên tắc cơ bản trong câu thơ Do-thái: “Mỗi câu thơ phải gồm hai vế, và vế thứ hai phải giúp diễn đạt trọn ý tưởng vế đầu đã nêu lên.” Đặc tính song đối của thơ Do-thái đã được một học giả về Cựu Ước là Giám Mục Lowth khám phá và đưa ra trong một tác phẩm của ông vào thế kỷ 18 (1753), về sau ý kiến nầy được nhiều học giả khác bổ túc.
Theo Lowth, có ba hình thức song đối:
    1) Song đối đồng nghĩa (synonymous parallelism):  ý câu thơ nói lên trong vế đầu được nhắc lại trong vế sau nhưng diễn đạt khác đi một chút. Ta thấy điều đó trong Thi Thiên 1:5:
Bởi thế kẻ ác chẳng đứng nỗi trong ngày đoán xét,
Tội nhân không được vào hội người công bình.
Rõ ràng vế thứ hai của câu đã nói lại ý trong vế đầu bằng cách khác.
    2) Song đối phản đề (antithetic parallelism) hay song đối nghịch: vế thứ hai diễn tả lại ý của vế đầu bằng hình thức phủ định hoặc tương phản, như trong Thi. 1:6:
Vì Đức Đức Giê-hô-va biết đường người công bình
Song đường kẻ ác rồi bị diệt vong.
3) Song đối hợp đề (synthetic paralellism) hay song đối thuận: ý trong vế đầu của câu thơ cứ tiếp tục đi tới trong vế thứ hai để làm cho trọn nghĩa. Ví dụ câu Thi. 27:6:
Bây giờ đầu tôi sẽ được ngước cao
Hơn các kẻ thù nghịch vây quanh tôi.
Để bổ túc cho ba loại song đối trên, ta nhận thấy có thể thêm loại
    4) Song đối tổng hợp (eclectic paralellism) là loại song đối kết hợp các thể loại trên. Ví dụ Ha-ba-cúc 1:2
Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi kêu van
mà Ngài không nghe tôi cho đến chừng nào?
Tôi kêu van cùng Ngài vì cớ sự bạo ngược
mà Ngài chẳng khứng giải cứu tôi?
Hai giòng trên làm thành một câu song đối hợp đề, và hai giòng dưới cũng làm thành một câu song đối hợp đề khác. Cả hai câu nầy đồng nghĩa với nhau nên kết hợp thành một câu song đối đồng nghĩa.        
Dựa vào ý kiến của Lowth, các học giả sau nầy còn đưa ra bốn loại song đối nữa:
    1) Song đối biểu hiện (emblematic paralellism): vế thứ hai dùng biểu tượng hay ví sánh để diễn tiếp ý của vế đầu. Ví dụ Thi 1:4:
Kẻ ác chẳng như vậy đâu
Nhưng chúng nó khác nào rơm rác gió thổi bay đi.
Thi. 103:13 dùng tình thương người cha để minh thị tình thương Thiên Chúa cũng thuộc loại nầy.
    2) Song đối bậc thang (stairlike paralellism) gồm nhiều giòng trong đó một phần của giòng trên được lặp lại trong giòng kế tiếp để đưa tới một ý mới. Ta có thể thấy trong Thi 29:1-2:
1. Hỡi các con của Đức Chúa Trời,
   Hãy tôn Đức Giê-hô-va vinh hiển và quyền năng;
2. Hãy tôn Đức Giê-hô-va vinh hiển xứng đáng cho danh Ngài;
   Hãy thờ lạy Đức Giê-hô-va bằng trang sức thánh.
Trong ba giòng đầu, chúng ta tiến dần lên từng bước một cho đến kết thúc ở cuối câu 2. Mỗi giòng đưa chúng ta trở lại điểm khởi đầu và đem vào một điều mới để từ đó ta tiến tới.
3) Song đối tột đỉnh (climactic paralellism): mỗi giòng kế tiếp nhấn mạnh ý của giòng đầu cho đến giòng kết thúc là điểm đỉnh của toàn nhóm thơ. Ví dụ Ha-ba-cúc 4:17-18:
Vì dầu cây vả sẽ không nứt lộc nữa,
      và sẽ không có trái trên những cây nho;
Cây ô-li-ve không sanh sản,
     và chẳng có ruộng nào sanh ra đồ ăn;
Bầy chiên sẽ bị dứt khỏi ràn,
    và không có bầy bò trong chuồng nữa;
Dầu vậy, tôi sẽ vui mừng trong Đức Giê-hô-va,
tôi sẽ hớn hỡ trong Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi tôi.
4)  Song đối phản hồi (introverted paralellism): gồm ít nhất hai giòng. Vế đầu của giòng sau tương ứng với vế thứ hai của giòng trước và vế thứ hai của giòng sau tương tứng với vế đầu của giòng trước. Có thể biểu thị cách sắp xếp đó như sau:
                             a.b.b.a.
Tác giả Briggs  lấy Thi Thiên 30:8-10  làm ví dụ:
Đức Giê-hô-va ôi, tôi đã kêu cầu cùng Ngài; và nài xin củng Đức Giê-hô-va mà rằng:  (a)
Làm đổ huyết tôi ra, khiến tôi xuống mồ mã có ích chi chăng?  (b)
Bụi tro há sẽ ngợi khen Chúa ư? há sẽ truyền bá sự chân thật của Ngài sao? (b)
Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy nghe và thương xót tôi; Đức Giê-hô-va ôi! khá giúp đỡ tôi. (a)

Hiểu biết đặc tính song đối của thơ Do-thái giúp ta trong việc tìm hiểu và diễn giải ý nghĩa bản văn. Trong một câu thơ song đối, những từ ngữ trong đó nhiều khi không thật sự mang ý nghĩa nó vốn có như khi nó được dùng trong một câu văn thường, mà chỉ có công dụng “đệm”, nghĩa là được tác giả dùng để lặp lại một ý mà tác giả muốn nhấn mạnh.
4. Vần Điệu
Trong ngôn ngữ Do-thái, âm vận giữ vai trò quan trọng. Dường như tất cả sức mạnh và ý nghĩa của một từ đều tập trung vào vần có nhấn của từ đó. Khi đọc thơ Do-thái, nếu để ý kỹ đến âm sắc (accent) và tính song đối, chắc chắn sẽ cảm nhận được nhịp điệu trầm bổng của nó, dù rằng hình như chẳng có luật nào qui định sự liên hệ hay tỉ lệ giữa những vần có âm sắc và những vần không.
Các học giả những năm bảy mươi của thế kỷ trước đã chú trọng nghiên cứu nhiều về những “điểm nhấn” (stresses) hay “nhịp” (beats) khi họ cố gắng phân tích vế trong câu thành những bộ phận nhỏ. Những bộ phận nầy là những đơn vị gồm những nhóm âm hay nhóm ý đi liền nhau. Đó là những thành phần nhỏ nhất trong một giòng thơ Do-thái.
Hình thức song đối đơn giản nhất đòi hỏi mỗi đơn vị trong vế đầu của câu thơ phải có một đơn vị tương ứng y như vậy ở vế thứ hai. Điều đó hiện rõ trong Thi. 103:3:
Ngài-tha-thứ   mọi   tội-ác-ngươi
Ngài-chữa-lành   mọi   bệnh-tật-ngươi
(Những chữ có gạch nối biểu thị cho một chữ đơn hay một nhóm ý trong tiếng Do-thái). Ta có thể mô tả bằng công thức sau đây:
a. b. c.
a’. b’. c’.
Tuy nhiên hình thức tương ứng y hệt giữa hai vế trong một câu thơ như vậy tương đối ít khi có; thật ra nếu lúc nào câu thơ cũng đều dùng hình thức đó thì sẽ không thể nào tránh khỏi sự đơn điệu. Học giả KT Buchanan Gray đã cố gắng phân tích và sắp loại nhiều hình thức khác nhau của tính song đối. Ông phân biệt song đối trọn (complete paralellism), như ví dụ đã nêu ra trên kia, và song đối khuyết (incomplete paralellism), trong đó những đơn vị trong vế thứ hai không tương ứng y hệt với những đơn vị của vế đầu.
Có khi số đơn vị trong cả hai vế của giòng thơ đều như nhau, nhưng có một hay hai đơn vị của vế sau không cân xứng với đơn vị của vế đầu. Gray đặt tên loại nầy là song đối khuyết có bù đắp (incomplete paralellism with compensation). Thi. 103:15 là một ví dụ, nó được diễn đạt trong tiếng Do-thái như sau:
Những-ngày   của-người  như-cỏ
                                    như-hoa   ngoài-đồng  người-nẩy-nở.

Có thể biểu thị bằng công thức:
                                  a.  b.  c.
                                            c’. d. e.
Nên để ý rằng trong vế thứ hai có hai đơn vị (như-hoa ngoài-đồng) tương ứng với một đơn vị (như-cỏ) trong vế thứ nhất. Đó là hình thức bù đắp khá thông dụng, như trong câu 7 của Thi Thiên đó, ta có:
Ngài-bày-tỏ   đường-lối-Ngài  cho-Môi-se
                                          cho-con-cái  Is-ra-en  công-việc-Ngài.
Ở đây hai đơn vị đầu của vế sau tương ứng về ý nghĩa với đơn vị thứ ba của vế đầu; ta có thể biểu thị bằng công thức:
                            a.  b.  c.
                                      c’. c’. b’.
Các biến thể của song đối khuyết có bù đắp hầu như là vô hạn. Quan sát các hình thái của nó giúp ta nhận chân được vẻ đẹp của thi ca Do-thái.
    Có trường hợp vế nầy kém hơn vế kia một đơn vị (thường thì vế thứ hai ngắn hơn), Gray gọi loại nầy là song đối khuyết không bù đắp (incomplete paralellism without compensation).  Những giòng thơ loại nầy cho ta cảm tưởng như một tiếng vang. Một ví dụ loại nầy ở trong Ca-thương 3:4 :
Ngài-đã-làm-hao-mòn   thịt-ta   và-da-ta
Ngài-đã-bẻ-gãy         xương-ta.
Có thể biểu thị bằng công thức:
                                  a.  b.  c
                                  a’. b’.
Một ví dụ khác trong Ê-sai 40:2 :
       Hãy-nói   lời-an-ủi   cho-Giêrusalem
       Hãy-kêu-la               cho-nó.
Đó là hình thức:
                                    a.  b.  c.
                                    a’.      c’.
Đôi khi đơn vị thứ ba không có phần song đối, như trong Ca-thương 2:10 :
       Họ-đã-hất       bụi         lên-đầu-họ,
       Họ-đã-mặc     bao-gai.
Công thức ở đây là:
                                      a.  b.  c.
                                      a’. b’.

Trên đây là những ví dụ về sự cân đối giữa hai vế trong cùng một giòng thơ. Tuy nhiên, nhiều khi có hai giòng đứng với nhau và tạo cân đối cho cả giòng, chứ không phải chỉ giữa những bộ phận trong cùng một giòng thôi. Ta có thể gọi loại trên kia là song đối nội, và loại dưới là song đối ngoại.
Song đối ngoại trọn vẹn tương đối hiếm, nhưng cũng có thể thấy, như trong Ê-sai 1:10 :
Hãy-nghe      lời-của       Chúa,            hỡi-những-quan-trưởng-của  Sôđôm
Hãy-để-tai-vào  luật-pháp-của  Đức-Chúa-Trời-chúng-ta,  hỡi-dân-của Gômôrơ
Rõ ràng đó là hình thức:
                         a.  b.  c.    d.  e.
                        a’.  b’.  c’.   d’.  e’.
Tuy nhiên, thường thường song đối ngoại là loại song đối khuyết có bù đắp, như trong Thi-Thiên 27:1 :
Chúa   là-ánh-sáng   và-sự-cứu-rỗi-tôi
tôi-sẽ-sợ  ai?
Chúa   là-sức-mạnh-của   đời-tôi
tôi-sẽ-hãi  ai?
Ở đây, song đối giữa hai vế thứ hai là trọn vẹn, nhưng song đối giữa hai vế đầu là khuyết có bù đắp.
Có trường hợp nó theo thứ tự phản hồi, như trong Ca-thương 1:1 :
Nó-trở-thành   như-đàn-bà-góa,   nó-từng làm-lớn   giữa-các-dân
Quận-chúa   giữa-các-đô-thị,    nó-trở-thành   kẻ-triều-cống.
Đây là hình thức:
                              a.  b.      c.  d.
                                            c’. d’.    a’. b’.
Nằm trong loại nầy còn có những trường hợp trong giòng thơ có một bộ phận được song đối hoặc có khi được lặp lại, phần còn lại đưa ý đi xa hơn –  song đối “bậc thang”. Hãy xem Thi. 27:2 :
Khi-kẻ-ác/  xông/  vào-tôi/,         đặng-ăn-nuốt/  thịt-tôi/,
Những-kẻ-thù-tôi/  và-những-kẻ-nghịch-tôi/,  chúng/  vấp/  và-ngã/.
(bản dịch tiếng Việt đảo hai vế cho thuận ý)
Ở đây vế đầu của giòng thứ hai lấy một đơn vị của giòng đầu, rồi từ đó làm trọn ý cả câu đang bị dở dang ở giòng đầu.
5.  Tiết Nhịp (Metre)
Bây giờ chúng ta  xét đến cách phối hợp các đơn vị thành những vế trong câu thơ và những giòng thơ. Trong thơ Do-thái, mỗi vế phải có từ hai đến ba đơn vị. Nơi nào có hơn hai đơn vị, người ta có thể tái phân ra nữa; chẳng hạn “4”  có thể đọc thành “2:2”, hoặc “5” đọc thành “3:2” hay “2:3” (trường hợp nầy hiếm hơn). Như vậy, muốn đọc tiết nhịp của câu thơ cũng đơn giản thôi: chỉ cần nhìn xem có bao nhiêu đơn vị trong mỗi vế là có thể nói ngay.
Tiết nhịp ngắn nhất là 2:2, ta rất thường thấy trong Thi Thiên.  Lối chuyển biến nhanh chóng, ngưng ngắt của nó thường biểu thị xúc cảm khẩn trương cao độ, thường là do sợ hãi hay kinh ngạc, và có khi là sung sướng ngây ngất. Thi Thiên 29 gồm toàn là 2:2, và độc giả có thể cảm thấy thần kinh căng thẳng khi đọc thấy sấm sét liên tục giáng xuống. Điều đáng tiếc là trong các bản dịch, cơ cấu tiết nhịp của bài thơ nguyên thủy rất ít khi được phô diễn đầy đủ. Dầu vậy ta vẫn có thể nắm bắt được phần nào cảm giác đó khi đọc câu 5 trong bản dịch tiếng Việt:
Tiếng      Đức-Giê-hô-va/    bẽ-gãy/    cây-hương-nam/:
    Phải-Đức-Giê-hô-va/    bẽ-gãy/     cây-hương-nam/  Li-ban/.
(Để ý đến thể song đối ngoại bậc thang). Thi Thiên 46 tuy diễn tả cảm xúc trái ngược nhưng lại cũng dùng loại nhịp 2:2 gần như cả toàn bài, như trong câu 2:
     Vì-vậy/  chúng-tôi-sẽ-chẳng-sợ/,     dù-trái-đất/  bị-di-chuyển/,
     Và-dù-núi-non/  bị-quăng/                 vào-lòng/   biển/.
hay câu 6:
     Các-dân/  rối-loạn/,                      các-nước/  bị-rúng-động/;
     Ngài-phát/   tiếng/,                         trái-đất/  bèn-tan-chảy/.
Một trong những loại tiết nhịp thông dụng nhất trong Kinh Thánh là 3:2. Tính song đối ở đây thường chỉ để cho có hình thức, dù rằng cách dùng bình thường cũng vẫn hay thấy. Chẳng hạn, Thi-Thiên 27:4 viết:
     Một-điều/  tôi-mong-muốn/   về-Đức-Giê-hô-va/,   điều-ấy/    tôi-sẽ-tìm-kiếm/,
   Là-tôi-được-ở/    trong-nhà-của/    Đức-Giê-hô-va/    trọn-những-ngày-của/    đời-tôi/,
  Để-nhìn-xem/    sự-đẹp-đẽ-của/    Đức-Giê-hô-va/,   và-cầu-hỏi/    trong-đền-của-Ngài/
Thể song đối ở đây có phần nào phức tạp. Ở giòng đầu là song đối khuyết. Giòng thứ hai có thể xem là song song với cả giòng đầu, vì nó mở rộng chữ “điều ấy’ trong vế thứ hai. Giòng nầy chỉ song song với giòng đầu về hình thức. Giòng thứ ba là song đối khuyết nội, dẫu vậy, đơn vị cuối cùng của vế thứ hai không tương ứng khít khao với một đơn vị nào trong vế đầu. Về tiết nhịp, loại 3:2 chậm và trang trọng hơn loại 2:2, và thường được dùng trong các bài ai-điếu.
Có những trường hợp giòng thơ năm đơn vị phải chia thành 2:3 thay vì 3:2, như trong Ê-sai 40:4:
    Mọi-thung-lũng/   sẽ-được-nâng-lên/,  mọi-núi/  và-đồi/   sẽ-bị-hạ-xuống/.   
bởi vì ý thơ phải ngưng sau hai đơn vị là ở chỗ có dấu phẩy. Nhưng đôi khi có thể giải thích cách khác. Như Thi Thiên 28:6, nếu đọc theo lối bình thường thì có thể sắp xếp như sau:
    Đáng-ngợi-khen/    Đức-Giê-hô-va-thay/,
             Vì-Ngài-đã-nghe/   tiếng-của/    sự-khẩn-cầu-tôi/.
nhưng giả thử chúng ta sắp xếp lại như sau:
          Đáng-ngợi-khen/    Đức-Giê-hô-va-thay/,   vì-Ngài-đã-nghe/ 
             Tiếng-của/    sự-khẩn-cầu-tôi/.
Ta sẽ thấy vế đầu chưa trọn, tạo nên cảm giác mong đợi một túc từ để bổ sung cho động từ. Ý thơ đến đây bị ngắt đoạn, đưa tới cảm xúc gay cấn, làm tăng thêm sức mạnh của động từ và túc từ của nó. Rất có thể tác giả muốn chúng ta thấy được, cảm được phước hạnh lớn lao mà ông đã nhận được, ý ông muốn nói: “Ngài đã nghe – vâng, Ngài đã nghe tiếng khẩn cầu của tôi.”  Như vậy có một số trường hợp 2:3 có thể chuyển thành 3:2 để giúp ích cho độc giả, còn lại không thể đổi được, chúng ta buộc phải chấp nhận nhịp 2:3, dù rằng thơ Do-thái có khuynh hướng đặt vế dài ở phía trước.
Một nhóm thơ khác sử dụng nhịp 3:3, loại nầy rất phổ thông trong thi ca Kinh thánh. Cả sách Gióp cũng như rất nhiều thi thiên dùng thể nầy. Nó thường dùng thể song đối nội trọn vẹn, nhưng cũng hay dùng song đối khuyết có bù đắp. Hãy xem Thi Thiên 24:1
       Thuộc-về-Đức-Giê-hô-va/   là-đất/    và-muôn-vật-trong-đó/ù,
       Thế-gian/    và-những-kẻ-ở/    trong-đó/.
câu nầy theo công thức:
                                  a.  b.  c.
                                       b’.  c’.  d’.
nhưng nên để ý, về ý nghĩa thì hai đơn vị cuối của vế thứ hai cân đối với đơn vị ba của vế đầu.
Hãy đơn cử mấy giòng thơ trong Gióp 4:17-18:
Loài-người-hay-chết/  há-công-bình/   hơn-Đức-Chúa-Trời-sao/,
Loài-người/   há-được-trong-sạch/   hơn-Đấng-tạo-hóa-mình-sao/?
Kìa/,   Đức-Chúa-Trời-không-tin-cậy/    các-tôi-tớ-Ngài/,
Ngài-quở-trách/   các-thiên-sứ-Ngài/    là-điên-dại/.
Trong câu thơ nầy ta có song đối trọn ở giòng đầu, dầu trong bản văn Do-thái, thứ tự của từ ngữ trong hai vế không giống nhau. Giòng thứ hai là song đối khuyết có bù đắp, vì trong vế thứ nhì không có chữ nào tương ứng với chữ “Kìa”, và đơn vị thứ nhì và thứ ba của vế thứ nhì (theo thứ tự bản văn Do-thái) kết hợp lại tương ứng với đơn vị thứ ba của vế đầu.
Thỉnh thoảng, có những câu thơ có thêm vế thứ ba làm thành nhịp 3:3:3, như trong Thi Thiên 103:20:
     Hãy-chúc-tụng/    Đức-Giê-hô-va/,     hỡi-các-thiên-sứ-Ngài/,
     Là-các-đấng-có-sức-lực/,    làm-theo/    mạng-lịnh-Ngài/,
     Hãy-vâng-theo/    tiếng-của/    lời-Ngài/.
Thường thường, trong ba vế có hai vế song đối nhau chặt chẽ hơn vế thứ ba. Như Thi Thiên 24:7:
     Hãy-cất/    đầu-lên/,   hỡi-các-cổng/
     Hãy-cất-lên/    hỡi-các-cửa/    đời-đời/,
     Thì-vua-của/    vinh-hiển/    sẽ-vào/.
Nhưng cũng có trường hợp cả ba vế đều liên hệ chặt chẽ ngang nhau. Chẳng hạn, Thi thiên 100:1,2:
  Hãy-cất-tiếng-reo-mừng/  cho-Đức-Giê-hô-va/,   hỡi-cả-trái-đất/
  Khá-hầu-việc/    Đức-Giê-hô-va/    cách-vui-mừng/,
  Hãy-đến/    trước-mặt-Ngài/    với-lời-hát-xướng/.
Ở đây sự song đối không khít khao lắm, có thể xem là song đối khuyết có bù đắp,  nhưng về ý nghĩa, cả ba đều liên kết ngang nhau.
Đôi khi ta cũng gặp loại nhịp  2:2:2,  đặc biệt là trong thi ca tiên tri, nhưng nó rất hiếm trong các loại thi ca khác. Như trong Thi-Thiên 91:3:
     Chắc-chắn-Ngài/    sẽ-giải-cứu-ngươi/
     Khỏi-bẫy-của/     loài-chim/
     Và-khỏi-sự-độc-hại-của/    dịch-lệ/.
Ở đây, vế nhì và ba song hành chặt chẽ với nhau, và cùng nhau làm trọn ý của vế đầu.
Cũng có loại  4:3 nữa, nhưng rất hiếm.  Nói chung, nó còn có thể tái phân thành  2:2:3, vế nhì liên kết chặt chẽ với vế đầu hơn là vế thứ ba, nhưng thường thì vế thứ ba song hành với cả hai vế đầu. Như trong Thi thiên 141:3:
Hỡi-Đức-Giê-hô-va/,  xin-hãy-đặt/   trạm-canh/   trước-miệng-tôi/,
                                             Giữ/    cửa-của/     môi-tôi/.

Nói chung, các bài thơ thường giữ hai loại nhịp chính. Một loại là nhịp 3:3, đôi khi biến thể ra 2:2:2 và 3:3:3. Loại nhịp kia là 3:2 biến thể thành 2:2 và có khi là 2:3. Nhịp 4:2 rất hiếm nên không thể tìm được những biến thiên đều đặn của nó.
6.  Chữ Đầu Câu Thơ
Trong thi ca Do-thái, chữ đầu câu thơ cần được lưu ý. Đôi khi có một đơn vị đứng riêng lẻ ở đầu giòng mà không được tính vào số đơn vị chung của câu thơ. Thường đó là một chữ đứng hẳn một mình, đến chữ thứ hai, tiết nhịp câu thơ mới bắt đầu. Những chữ đó thường là tán thán từ, liên từ, hay đại danh từ. Nó có một công dụng trong mạch thơ, vì  nó tạo nên một điểm ngừng, khiến độc giả khựng lại, phải chú ý tới những gì  nói kế tiếp.
Một ví dụ dùng đại danh từ theo kiểu nầy ta thấy trong Thi Thiên 3:3. Tác giả vừa đưa ra lời than vãn về kẻ địch đe dọa chế nhạo ông, rồi ông liền quay qua thưa với Đức Chúa Trời:
    
Nhưng-Ngài,
Hỡi-Đức-Giê-hô-va/    là-cái-khiên/    cho-tôi/
                            là-sự-vinh-hiển-tôi/    và-là-Đấng-làm-tôi-ngước/   đầu-lên/.

Gióp 3:20 cũng dùng chữ theo cách đó:
    Cớ-sao
             ban/    ánh-sáng/    cho-kẻ-hoạn-nạn/
                 và-sanh-mạng/ cho-kẻ-có-lòng-đầy-đắng-cay/?
Ở đây chữ đầu là tiếng của mỹ từ pháp để mở đầu một câu hỏi. Nhưng xét về tính song đối cũng như số đơn vị trong câu thơ, ta sẽ thấy chữ đó đứng biệt lập khỏi giòng thơ, và chính điểm ngưng nầy khiến cho lời tiếp theo có tác động mạnh.
Một đặc điểm nữa của thơ Do-thái là những bài thơ theo mẫu tự, tuy số nầy không nhiều. Trong bài thơ loại nầy, tác giả viết những câu thơ ráp vào những mẫu tự Do-thái. Những mẫu tự nầy đứng đầu mỗi câu thơ hay nhiều giòng thơ một lúc, và theo thứ tự của bộ chữ cái. Để hiểu cách làm loại thơ nầy, ta hãy xem Thi Thiên 34 là một bài thơ theo mẫu tự Do-thái được viết đại khái lại theo mẫu tự tiếng Việt như sau:
    A.  Ai  sẽ chúc tụng Đức Giê-hô-va?
             Miệng tôi sẽ khen ngợi Ngài luôn.
    B.  Bởi thế linh hồn tôi sẽ khoe mình về Đức Giê-hô-va,
             Những người hiền từ sẽ nghe và vui mừng.
    C.   Chúng ta hãy tôn trọng Đức Giê-hô-va,
             Hãy cùng tôi tôn cao danh của Ngài.
    D.  Dù thế nào tôi cũng tìm cầu Đức Giê-hô-va, và Ngài đáp lại tôi,
             Giải cứu tôi khỏi các điều sợ hãi.
    Đ.  Để được chói sáng, họ ngữa trông Chúa,
             Mặt họ chẳng bị hỗ thẹn.
Bài thơ đặc sắc nhất thuộc loại nầy là Thi Thiên 119, trong đó mỗi mẫu tự đứng đầu một nhóm gồm tám giòng thơ trở lên. Thơ loại nầy hẳn nhiên rất khó làm, tuy vậy cũng có những bài rất cảm động như Ca Thương 1-4.
7. Khổ Thơ (Stanza, Strophe)
Một bài thơ dỉ nhiên là gồm nhiều câu thơ, nếu những câu thơ đó liên kết lại thành một thể thống nhất. Tuy nhiên, nhiều bài thơ Do-thái có thể phân thành nhiều nhóm ý hay nhóm âm tiết (prosody), và mỗi nhóm gồm có nhiều giòng thơ. Ta gọi những nhóm đoạn đó là khổ thơ.
Nói chung, đa số công nhận có bốn cách sắp đặt khổ thơ. Cách thứ nhất là tất cả các khổ thơ trong một bài thơ đều có cùng một số giòng như nhau, nhiều học giả cho đây là cách sắp đặt duy nhất. Nhiều học giả khác cho rằng có những loạt khổ thơ với số giòng khác nhau được lặp đi lặp lại. Ví dụ, khổ thơ đầu có ba giòng, khổ thơ nhì có bốn giòng, khổ thơ ba có năm giòng, rồi đến khổ thơ thứ tư trở lại ba giòng, khổ thơ thứ năm bốn giòng, rồi cứ thế tiếp tục. Có khi những loạt khổ thơ đó thay vì lặp lại thứ tự số giòng (3, 4, 5; 3, 4, 5), chúng lại đảo ngược (3, 4, 5, 5, 4, 3). Trong trường hợp đó, có thể có một khổ thơ lẻ xen vào giữa, đôi khi chỉ là một giòng: 3, 4, 5, 1, 5, 4, 3. Có những bài thơ người ta không thể nào tìm ra qui luật sắp đặt khổ thơ trong đó, gọi là những bài thơ phá qui (dithyrambic).
Có thể nói rằng chỗ nào có câu điệp khúc là chỗ đánh dấu cho khổ thơ. Đọc Thi Thiên 46 sẽ thấy có hai câu được lặp y nguyên ở câu 7 và 11, cuối mỗi câu có chữ Sê-la. Ta thấy đó là những điệp khúc đánh dấu cho hai khổ thơ sau, còn cuối khổ thơ đầu, sau câu 3 chỉ có chữ Sê-la. Điều nầy cho thấy đã có lúc có câu điệp khúc nằm dưới câu 3. Tuy có người nhận xét rằng những điệp khúc trong Thi Thiên nầy được thêm vào về sau vì lý do chúng nói tới tên Giê-hô-va trong khi những câu khác không có. Nhưng nếu ta xét kỹ tính chất của toàn bài, ta sẽ thấy tự nguyên thủy, bài đã được phân thành ba khổ thơ rõ rệt, mỗi khổ thơ gồm sáu giòng 2:2. Tuy nhiên, ngay cả đối với sự suy đoán nầy, ta cũng không thể nào giáo điều cho rằng đây là điều duy nhất đúng.
Từ ‘Sê-la’ thường được người ta cho là dùng để chỉ dấu cho một khổ thơ. Nhưng điều không may là ý nghĩa của nó rất mù mờ. Phụ âm của nó thuộc căn ngữ có nghĩa là “nâng lên, dở bỏ”, và người ta giải thích là nâng cao hòa âm lên, hay chấm dứt phần nhạc khí. Những người khác lại cho là hát lớn lên hay ngưng hát, hoặc xen vào lời chúc tụng hay điệp khúc. Nhưng nguyên âm của nó lại không đi đôi với căn ngữ trên, nên giải thích nầy không làm ta thỏa mãn hoàn toàn.
Thêm nữa, chỉ có hơn một phần tư Thi Thiên và Ha-ba-cúc 3: là có dùng từ Sê-la. Nhiều khi nó đứng cuối những phân đoạn đều đặn của một bài thơ như Thi Thiên 46. Nhưng nhiều khi nó không chỉ được một điều gì cả, kể cả một cụm giòng thơ. Tuy nhiên, đó có thể là do bản văn bị sai lạc vì thời gian, vì người ta nhận thấy cách phân bố của nó trong bản Massoretic không luôn luôn giống như trong  các cổ bản.
Nhận xét cuối cùng là đôi khi những nhóm ý tự nhiên cũng có thể được dùng để phân chia khổ thơ. Thi Thiên 91 chẳng hạn, thấy rõ ràng là có tám khổ thơ, mỗi khổ thơ hai hàng nằm chặt chẽ với nhau và độc lập đối với các khổ thơ khác. Chúng ta không thể nào không thấy liên hệ mật thiết giữa các câu 3 và 4, 5 và 6, 11 và 12. Các đôi khác cũng đi với nhau khá tự nhiên, chỉ trừ câu 13 và 14, chúng ta không thấy rõ mối liên lạc. Dù sao đi nữa, muốn giải thích cho đúng đắn thì phải xét hai câu nầy đi đôi với nhau.            
 Câu hỏi thảo luận:
1.     Bạn hãy suy ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa thi phú Do-thái và Việt Nam.
2.     Bạn hãy đọc Thi thiên 139 và tìm ra những câu song đối trong đó.
3.     Bạn hãy tìm ra những khổ thơ trong Thi Thiên 107:1-32.
4.     Thi ca Do-thái ảnh hưởng gì chúng ta ngày nay?



CHƯƠNG 2
NHỮNG BÀI THƠ LẺ TẺ
 Ngoài những tập thơ chính và những bài thơ trong các sách tiên tri, còn có khoảng năm mươi bài thơ đủ loại nằm rải rác trong bộ Ngũ Kinh và các sách lịch sử. Một số bài rất cổ có thể đã được truyền lại từ thời mà chúng ta có thể gọi là thời Isơraen; một số khác có lẽ đã được sáng tác sau nầy. Thường ta có lý do để ngờ rằng một bài thơ trước khi được kinh điển hóa đã phải trải qua nhiều cắt xén nghiêm trọng. Còn những bài thơ cổ hơn thì có thể cũng đã trải qua những điều chỉnh với thời gian.
Những bài thơ được giữ lại trong các sách từ Sáng Thế Ký đến II Các Vua có thể chia làm năm nhóm. Đó là:
1. Những bài ca thị tộc và địa phương.
2. Những lời nguyền (chúc lành hay rủa sả - spell).
3. Những câu ngạn ngữ (tiếngDo-thái: mashal, meshalim).
4. Những bài tán tụng (paeans).
5. Những bài ai điếu (dirges).
5. Những bài ai điếu (dirges). nghĩa, nhiều bài thuộc loại nầy có thể được sắp vào loại khác nếu như người ta đã không gọi chúng là meshalim.
I.  NHỮNG BÀI CA THỊ TỘC VÀ ĐỊA PHƯƠNG
Đa số các bài thơ nầy cũng có thể sắp vào loại lời nguyền (spells). Tuy nhiên có bốn bài trong đó đặc tính thị tộc hay địa phương có vẻ nỗi bật. Chúng ghi nhớ một biến cố hay đặc tính trong lịch sử của một thị tộc hay nơi chốn nào đó.
1.   Sáng 4:23-24:  Bài Ca của Lê-méc.
Nhịp 3:2. Tộc Lê-méc kỷ niệm chiến thắng của mình. Người giòng Ca-in nổi tiếng vì đòi bảy mạng đền cho một mạng của họ. Người giòng Lê-mec còn đòi tới bảy mươi lần bảy.
2.   Dân 21:14,15:
Một bài thơ bị cắt xén thảm hại, có lẽ đây chỉ là một khúc còn sót lại. Nó bắt đầu bằng một túc từ không có động từ. Có lẽ nó được dùng để mừng một biến cố nào xảy ra thuở xa xưa bên kia sông Giô-đanh, nhưng không có gì để xác quyết cả.
3.  Dân 21:17,18:  Bài Ca Bên Giếng.
Nhịp 3:2. Bài nầy có thể xem là lời nguyền, nhưng ở đoạn nầy nó có chỉ nơi chốn. Có lẽ nó cũng như bài trên đã có từ thời trước khi dân Israen chinh phục đất Palestine.
4.  Dân 21:27-30.  Bài Ca Hếât-bôn và Mô-áp.
Không rõ nhịp. Nội dung nó ghi lại cuộc chiến thắng Si-hôn, vua Mô-áp và thu phục vùng đất ông ta chiếm giữ.
II. NHỮNG LỜI NGUYỀN
Người ta thường tin rằng lời một người thốt ra nhiều khi có thể ứng nghiệm. Khi một người có quyền lực khác thường nói ra một lời chỉ sự thịnh vượng hoặc tai họa, thì chính lời ấy sẽ đem lại hậu quả đúng như vậy. Những hạng người như tiên tri hay pháp sư có thể định tương lai tốt xấu cho người ta tùy cách họ nói. Đặc biệt những lời trăn trối của những người sắp chết có một quyền lực khác thường. Chính vì vậy trong cổ văn của nhiều dân tộc, người ta thường tìm cách để có những lời chúc lành của người sắp chết. Khoảng mười bảy bài thơ trong các sách văn xuôi có thể sắp vào loại nầy.
1. Sáng 9:25-27:  Lời Chúc Phước và Rủa Sả của Nô-ê.            
Nhịp 3:3 (2:2:2). Chúc phước Sem và Gia-phết, rủa sả Ca-na-an, chắc là rất cổ.
2. Sáng 14:19b-20a: Mên-chi-xê-đéc Chúc Phước Áp-ra-ham.
Nhịp 3:3. Rất cổ, đã có từ thời mà ‘Đức Chúa Trời Chí Cao’ (El Elyon) chưa được gọi là Đức Giê-hô-va.
3. Sáng 24:60. Lời Chúc Phước của Rê-be-ca:
Nhịp 3:2 (2:2). Một lời nguyền cầu thịnh vượng cho cả Is-ra-en lẫn Ê-đôm. Chắc phải có từ trước thời hai dân tộc nghịch thù nhau.
4. Sáng 27:27-29. I-sác Chúc Phước Gia-cốp:
Nhịp không rõ. Gia-cốp được hứa sẽ chiếm địa vị ưu thắng chính trị và thịnh vượng về vật chất.
5. Sáng 27:39tt. I-sác Rủa Sả Ê-sau:
Chúng ta thấy rõ sự song đối giữa hai bài; một cách chơi chữ của người Do-thái biến lời hứa thành công cho người nầy thành lời báo họa cho người khác.
6. Sáng 48:15tt. Gia-cốâp Chúc Phước Giô-sép: .
Nhịp 3:3 (2:2:2). Ngôn ngữ không xưa lắm.
7. Sáng 49:2-27. Lời Chúc Phước của Gia-cốp:
Về hình thức toàn bài thì  đây thuộc loại lời nguyền tức là lời trối của người sắp chết. Nhưng có lẽ đây là một tập họp của nhiều mẫu thơ khác nhau do một người đời sau biên tập. Trong loại thơ sưu tập nầy ta khó có thể tìm ra cách sắp xếp nhịp điệu.
8. Dân 6:24-26. Lời Chúc Phước của Thầy Tế:
Đây là một công thức có lẽ đã được dùng từ thời rất xưa, và đã được quí trọng qua nhiều thời đại. Cho đến bây giờ nó vẫn còn được cả tín đồ Do-thái lẫn Cơ-đốc tôn quí và sử dụng.
9. Dân 10:35-36.
Đây là bài ca mẩu được sử dụng khi Hòm Thánh được đưa ra trận hay mang trở về trại (Xem I Sam. 4). Nhưng không thấy bằng chứng nó được dùng dưới thời quân chủ.
10 -13. Dân 23:7-10,  18-24;  24:3-9,  15-19.  Lời Sấm của Ba-la-am.
Cả bốn bài đều theo nhịp 3:3 với rất ít biến thiên, và có một giá trị thơ rất cao. Nói chung bản văn nó được bảo quản tốt hơn nhiều bài thơ cổ khác.
Dân 24:20. Chúc Phước Dân A-ma-léc:
Đây có lẽ chỉ là một phần của bài thơ dài. Bài nầy cũng được xem là của Balaam nhưng có lẽ nó xưa hơn mấy bài trước nhiều.
Dân 24:21,22.  Lời Sấm về Người Kê-nít:
Có lẽ là mẩu sót lại của một bài thơ xưa. Dân Kênit được nhắc đến trong ISam. 15:6; 27:10;  Quan 1:16; 4:,5:. Có lẽ về sau họ đồng hóa với Giu-đa.
16. Dân 24:23,24. Lời Sấm về Một Dân Vô Danh:
Khúc nầy có nhắc đến Kit-tim, A-sy-ri, Hê-brơ, nhưng ý nghĩa thật khó hiểu, chỉ có thể đoán thôi. Chắc bản văn đã bị hư hại.
Phục 33. Lời Chúc Phước của Môi-se:
Về hình thức chung, nó giống lời chúc của Gia-côp trong Sáng 49:, nhưng về cấu trúc, nó khác hẳn. Nó không phải là một sưu tập những lời rời rạc mà là một bài duy nhất, có phần nhập đề và kết luận nói đến Is-ra-en như là một toàn thể, và nhịp điệu thì rất cố định, giữ ở 3:3 (3:3:3).

III. NHỮNG CÂU NGẠN NGỮ (Meshalim, Mashal)
Nhóm nầy rất khó định nghĩa. Nó thường được áp dụng cho những câu ngắn và súc tích tóm tắt kinh nghiệm của người ta trong một lãnh vực nào đó, cũng giống như một câu châm ngôn. Sách Châm ngôn có nhiều câu thuộc loại nầy. Tuy nhiên loại nầy cũng bao gồm nhiều hình thức khác nữa, như Ê-sai 14:4-21, những lời của Ba-la-am, cũng được gọi là mashal. Mashal nhiều khi không phải là một câu thơ, như câu I Sa 10:12 “Saulơ há cũng vào số các tiên tri ư?” cũng được gọi là mashal.
1. Sáng 25:23. Lời Sấm của Rê-be-ca.
Nói về hai con sinh đôi của bà nhưng không nhắc tên. Nếu có nhắc tên chắc đã được liệt vào loại lời nguyền.
2. Dân 12:6-8. Môi-se và Các Tiên Tri.
So sánh một bên là Môi-se và một bên là các tiên tri.
3. Giôs. 10:12.  Mặt Trời  ở Gabaôn:
Câu 13 có lẽ thêm vào sau, trích từ bộ cổ thư là Sách Gia-sa. Học giả đồng ý những lời nầy rất xưa.
4. Quan 9:8-15. Ngụ Ngôn của Giô-tham:
Có người không đồng ý liệt bài nầy vào hàng thi ca, vì ngoài những câu hơi giống nhau, người ta nhận thấy nhịp điệu nó rất biến thiên, và khó tìm được chỗ song đối. Tuy nhiên lời văn nó rất hoa mỹ và hình ảnh tưởng tượng dồi dào.
5. Quan 14:14, 18a. Câu Đố của Sam-sôn và Câu Đáp.
Cả hai câu chỉ có một giòng, là tiêu biểu của loại ngạn ngữ.
6. Quan 14:18b. Sam-sôn Đáp Trả.
Cũng một loại như trên.
7. Quan 15:16. Sam-sôn Ca Tụng Chiến Thắng.
Hai câu tiêu biểu nhịp 2:2.
8. I Sa 15:22,23. Sa-mu-ên Lên Án Sau-lơ.
Câu 22 đặc biệt nhịp 4:3, câu 23 có lẽ là 3:3. Điểm khác nhau cho thấy có lẽ đó là hai câu khác biêt được kết hợp lại.
9. I Sa 15:33. Tiêu Diệt A-gát.
Lại một câu ngạn ngữ tiêu biểu nữa, nhịp 2:2.
10. I Sa 18:7 (21:12 và 29:5) Bài Ca của Phụ Nữ về Đa-vít và Sau-lơ.
Nhịp 3:2. Chắc là rất phổ thông và được các cô các bà hát đi hát lại trong khi nhảy múa.
11. I Sa 24:13. Lời Đa-vít Nói Với Sau-lơ.
Ở đây dùng hẳn chữ ngạn ngữ (mashal). Nhịp 3:3.
12. II Sa 12:1-4.  Ngụ Ngôn của Na-than.
Có giá trị văn chương nhưng có lẽ không nên sắp vào tác phẩm thi ca.
13. II Sa 20:1.  Một Khẩu Hiệu Nổi Loạn.
14. I Vua 12:16.
Một khẩu hiệu khác, hơi khác với câu trước, cho thấy nó rất phổ thông, và hai miền Nam Bắc khó hòa hợp được.
IV. NHỮNG BÀI TÁN TỤNG
Loại nầy rất đặc biệt, dễ nhận ra. Nó luôn luôn đề cập đến một biến cố lịch sử nào đó, thường là  bài thánh ca tạ ơn hay khải hoàn, nhiều khi có thể do một thi sĩ đời sau sáng tác để ca ngợi biến cố vinh quang trong quá khứ. Một điều đáng để ý là những bài ca chiến thắng nầy không diễn tả niềm kiêu hãnh của kẻ chiến thắng hay tỏ ý hả hê được rửa hận đối với kẻ chiến bại, mà qui vinh quang về cho Đức Giê-hô-va, cảm tạ, ca ngợi Ngài.
1. Xuất 15:1-18. Bài Ca Môi-se Nơi Biển Đỏ
Đây là một bài khải hoàn ca hùng tráng ca mừng Đức Giê-hô-va đem dân Ngài qua Biển Đỏ và đưa họ vào xứ Palestine. Hầu hết bài thơ theo nhịp 2:2, chỉ có 3 giòng nhịp 3:2; và 3 giòng “bất thường” có lẽ do bản văn bị sai lạc. Bài thơ chia làm ba phần rõ rệt. Tác giả mở đầu mỗi phần bằng những lời ca ngợi, sau đó mô tả hành động của Đức Giê-hô-va. Bài thơ kết thúc với lời tán tụng quyền tể trị đời đời của Đức Giê-hô-va. Tuy nội dung mỗi phần tự nó đã đầy đủ, nhưng kết hợp lại chúng vẫn thành một thể thống nhất.
Bài ca chắc là thành hình sau thời Môi-se, vì nó mở đầu bằng bài ca Mi-ri-am (c.21) và có lẽ đã dùng câu nầy để quảng diễn ý thơ. Chẳng những nó đề cập đến những việc xảy ra vào những giai đoạn cuối thời kỳ lang thang trong sa mạc (c. 14-16), lại còn nói đến dân Phi-li-tin trước thời kỳ dân Is-ra-en chinh phục đất đai của họ, và đề cập đến việc định cư và lập đền thờ (c. 17). Ngoài ra còn có những dấu chỉ khác cho thấy khó có thể định niên đại thật xưa cho nó được. Như ngôn ngữ cũng có những đặc tính của thời kỳ sau, và có nguời cho là nó khó có thể thành hình trước trung độ của thời kỳ quân chủ.
2.   Xuất 15:21. Bài Ca Mi-ri-am
Bài nầy gồm một câu giòng đôi 2:2, đã được dùng mở đầu cho bài trên kia với đôi chút biến thể. Chắc đây là bài ca nguyên thủy ăn mừng biến cố vượt biển Đỏ.
3.  Quan 5. Bài Ca Đê-bô-ra
Đây là một trong những bài khải hoàn ca trác tuyệt nhất, chắc là do một nhân chứng cảm tác, không phải bà Đê-bô-ra, vì bà được nhắc đến ở ngôi thứ hai chứ không phải ngôi thứ nhất (c. 7, 12). Nó mang tính chất nghệ thuật cao. Bài thơ có khẩu khí hùng dũng, giàu tưởng tượng, rất linh hoạt, khiến nó có sức thôi thúc mạnh mẽ.
4.   I Sa 2:1-10. Bài Ca An-ne
Đây cũng là một bài khải hoàn ca rất hay. Nhịp đều đặn 3:3. Chắc không phải là sáng tác riêng cho hoàn cảnh của An-ne, vì trừ câu 5 ra, không có chỗ nào ứng với bà cả. Ngay cả câu 5 cũng không đúng hẳn vì nói đến bà mẹ có nhiều con cái. Chắc đây là một bài ca mừng một chiến thắng quân sự nào đó.
V. NHỮNG BÀI AI ĐIẾU
Ai điếu là thể thơ rất thông dụng vào thời Is-ra-en cổ. Nó thường được dùng vào dịp tang lễ, và dường như có một lớp phụ nữ được huấn luyện chuyên nghiệp về loại nầy (Xem Giê 9:7-12). Trong Cựu Ước chỉ còn sót lại có hai bài. Cả hai đều được cho là tác phẩm của Đa-vít.
1. II Sa 1:19-27. Sau-lơ và Giô-na-than
      Đây là một trong những bài thơ thương tiếc đáng yêu nhất trong văn chương. Nhịp thông dụng trong loại ai điếu là 3:2, nhưng ở đây có một số lớn 2:2. Đa-vít khóc thương nguời bạn thân thiết nhất trên đời là Giô-na-than, nhưng đồng thời cũng khóc than Sau-lơ vốn là kẻ thù của mình. Nghĩa tử là nghĩa tận, những hận thù, đối nghịch đã dẹp qua một bên, ở đây chỉ kể ra những điều tốt lành, đức hạnh của Sau-lơ.
2. II Sa 3:33tt. Áp-ne.
So với bài trước thì bài nầy quá ngắn và ít  nồng nàn hơn. Hình như đây là một khúc còn sót của một bài thơ dài.
VI. NHỮNG BÀI THI VỊNH
Ngoài sách Thi Thiên ra, thỉnh thoảng có những bài thi vịnh nằm rải rác trong các sách khác. Các sách tiên tri như Ê-sai, Giê-rê-mi, Giô-na, Na-hum, Ha-ba-cuc đều có. Có những nơi trích toàn bộ hay một phần bài thi vịnh trong sách Thi Thiên, như II Sa 22 là Thi 18;  I Sử 18:8-36 là gồm Thi 105:1-15, Thi 96, và Thi 106:1, 47. Tuy nhiên, có hai bài không xuất hiện ở nơi khác, và một bài có ghi lại trong Ê-sai.
        1.  Phục 32: 1-43. Bài Ca của Môi-se
        Bài thơ nầy ghi lại lịch sử Is-ra-en vào thời kỳ du mục, đối chiếu sự bất trung của họ tương phản với tình yêu bền bĩ của Đức Giê-hô-va. Ngôn ngữ rất phong phú, linh cảm rất dồi dào; vài câu trong đó đã trở thành phương ngôn cổ điển. Câu 7 đề cập đến sự việc như là đã xảy ra vào một thời xa xưa, còn ý toàn bài thì tương tự như trong các sách tiên tri, nên có lẽ phần lớn bài nầy xuất hiện lâu sau thời Môi-se.
       2. II Sa 23:1-7. Những Lời Cuối Cùng của Đa-vít.
       Cũng giống như Thi Thiên 1, bài nầy mô tả sự tương phản giữa số phận kẻ ác và người công bình. Nó có vẻ lạc lõng trong toàn mạch văn, nên người ta cho là nó xuất hiện sau thời Đa-vít.
       3. II Vua 19:21-28 (xem Ê-sai 37:22-29)  Lời Sấm của Ê-sai.
Đây hoàn toàn là một lời tiên tri, có lẽ đã được nhà chép sử trích lại để cho câu chuyện về Ê-sai được đầy đủ. Nó nói tiên tri về sự đổ nhào của A-sy-ri vì đã thách đố không phải Is-ra-en mà chính Đức Giê-hô-va.
Câu hỏi thảo luận:
1.     Bạn hãy đọc khúc thi ca Dân 21: 14b, 15 xem có thể hiểu được ý nghĩa nó không, và luận về sự lưu truyền những văn bản của Kinh Thánh. Thử suy đoán số phận của những bộ sách Chiến Trận của Đức Giê-hô-va (Dân 21: 14a) và Gia-sa (Giô 10:13) ra sao, và nếu còn thì ảnh huỏng gì đến Kinh Thánh không.
2. Hãy so sánh câu “Ngàn năm vết nhục nhã đã sạch làu, Muôn thuở nền thái bình vững chắc, Âu cũng nhờ trời đất tổ tông, linh thiêng đã lặng thầm phù trợ” trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi với câu “Hỡi các vua hãy nghe, Hỡi các quan trưởng, khá lắng tai! Ta sẽ hát cho Đức Giê-hô-va, Ta sẽ hát cho Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên” trong bài ca chiến thắng của Đê-bô-ra và bình luận về khác biệt và tương đồng giữa niềm tin của người Do-thái và VN.



CHƯƠNG 3
GIÓP


I.      DẪN NHẬP
Mọi người đều công nhận rằng sách Gióp là một tuyệt tác văn chương trong gia tài văn học  Do-thái. Nói vậy không phải chỉ để đề cao một quyển sách ta đang học. Vì rằng, muốn đánh giá một quyển sách, ta phải xét xem nó hội được bao nhiêu yếu tố cần thiết để cấu thành một tác phẩm nghệ thuật giá trị. Một tác phẩm không thể nào thực sự vĩ đại nếu nó không chứa đựng một nhiệt tình tìm kiếm chân lý và can đảm để thực hiện cuộc tìm kiếm ấy. Một điều kiện tất yếu nữa là nó sử dụng một bút pháp vừa bi hùng vừa giàu từ ngữ và tưởng tượng. Nó chẳng những phải có cảm hứng trong thiên nhiên mà còn phải có cái nhìn sâu sắc tinh tế đối với bản chất, phẩm cách con người cũng như đấng thiêng liêng. Lại cũng phải mang chút trào phúng nữa, không phải thứ trào phúng cạn cợt chỉ cốt chọc cười, mà là ý nhị phô bày cái so le, bất cân xứng giữa những cái đáng lẽ phải đi đôi hài hòa với nhau, giữa sự thật và điều người ta nói. Cuối cùng, tất cả những phẩm tính đó sẽ chỉ là phí phạm nếu chúng không được dùng để trình bày một đề tài có tầm quan trọng, có trọng lượng và kích thước vượt bực.
Có một số sản phẩm tinh thần của con người đã hội được một số hay tất cả những yếu tố trên một cách xuất sắc. Milton, tác giả người Anh, viết được quyển Thiên Đàng Đánh Mất (Paradise Lost) có thể xem như gần với sách Gióp nhất, nhưng Milton thiếu chất trào phúng. Shakespeare đã xử lý những chủ đề tuyệt vời, nhưng ông không thể nào vượt khỏi hàng rào qui ước của kịch nghệ. Nguyễn Du đã chứng tỏ tài năng xuất chúng trong Truyện Kiều với nghệ thuật dụng ngữ điêu luyện và cái nhìn tinh tế vào bản chất con người, nhưng ta đâu có thể tìm được nơi ông những cảm nhận vừa siêu thoát trong cõi vô cùng vừa kết nối với thực tế cuộc sống như trong sách Gióp?  Theodore Robinson bảo rằng chỉ có ba người đến gần tác giả sách Gióp hơn hết, là Aeschylus, Dante, và Goethe (trong Faust), nhưng không ai trong họ lên tới được chiều cao của sách Gióp.
Đề tài của tập thơ là một vấn đề vô cùng hệ trọng xưa nay vẫn nung nấu tâm trí con người. Làm thế nào để giả thuyết về một Chúa Tể toàn thiện toàn năng của vũ trụ có thể dung hợp được với những chuyện mắt thấy tai nghe về những đau khổ của con người? Vấn đề đặt ra không phải là sự hiện hữu của đau khổ – câu hỏi đó có thể tìm được câu trả lời tương đối giản dị – mà là cách phân phối nó. Nhiều lúc dường như nó xảy đến cho con người cách vô cớ, vô chủ đích. Nhà thơ đã mang tất cả nhiệt tình ra đào xới tìm kiếm chân tính của vấn đề đó, và ông đã không rùn bước trước một kết luận nào mà thực tế có thể mang lại cho ông, cũng không lẫn trốn trong một giải thích qui ước, hời hợt, nửa vời nào. Ông ý thức sâu xa cái hố ngăn cách giữa sự thật và những quan điểm, những định đề được chấp nhận, và đã xông xáo chưa ai bằng để lật tẩy một cách không thương xót cái vô dụng của những niềm tin dựa trên những nền tảng quá nông cạn. Tác giả sách Gióp cũng có khả năng ít ai bì kịp để nhìn vào chiều sâu của tâm hồn con người. Ông nhìn bên dưới bề mặt của nhân cách và nhận diện chính xác những động cơ thúc đẩy mà ít ai nhận biết. Cuối cùng, tất cả những điều đó được diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ hàng đầu: tiếng Do-thái, một thứ tiếng rất giàu âm điệu. Vì không có nhiều từ ngữ trừu tượng nên thi sĩ  đã dùng cả kho hình ảnh và biểu tượng để thay thế, đa số lấy ra từ thiên nhiên, nơi tác giả đã quan sát tinh tường, dù rằng ông cũng không thoát khỏi những nhận xét sai lầm của người đồng thời.
 II. TÁC GIẢ
Phải chăng quyển sách đã do một người viết ra từ đầu chí cuối? Phải chăng tác giả đã tường thuật các biến cố rồi viết những suy tư của mình thành thơ? Phương pháp đó ít thấy bao giờ, nhưng không có gì khiến ta phải bác bỏ khả năng đó. Tuy nhiên, theo Theodore Robinson, ta có quyền tin rằng nhà thơ đã tìm được một câu chuyện xưa và đem lồng sáng tác thi ca của mình vào đó. Phần thơ và văn xuôi có vẻ biệt lập với nhau. Phần thơ đúng ra là tiếp nối câu chuyện đã kể trong phần đầu, nhưng tác giả có vẻ không để ý đến chi tiết, như trong 14:21 và 19:17 lại nhắc đến con cái như là chúng vẫn còn sống. Trong phần đầu, Sa-tan được xem như là nguyên nhân chính của mọi khổ nạn của Gióp, nhưng phần thơ không hề nhắc đến tên nó. Nhưng điểm khác biệt căn bản là quan niệm về tin kính; trong phần đầu, Gióp là con người nhu mì, thuận phục thiên ý,  cúi đầu chấp nhận bất cứ số phận nào mà Trí Khôn tuyệt đối dành cho ông. Trong phần thơ,  có thể nói thuận phục chấp nhận không phải là thái độ vốn có của ông, như tỏ ra trong những lời tự biện hộ của ông trước sự buộc tội của các bạn, cho đến khi ông được đối diện với Đấng Toàn Năng.
Nhiều người gợi ý về nhiều tác giả khác nhau: Gióp, Ê-li-hu, Môi-se, Sa-lô-môn, Ê-sai, Ê-xê-chia, Ba-rúc, v.v... nhưng chẳng ai có một bằng cớ nào ngoài việc ức đoán.
III. NIÊN ĐẠI VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Ta không nên lẫn lộn bối cảnh lịch sử của phần lời tựa (1: - 2:) và lời bạt (42: 7-16) với phần giữa của quyển sách, nghĩa là giữa thời kỳ xảy ra và thời kỳ quyển sách thành hình. Phần trên hiển nhiên là trước thời kỳ lưu đày. Không khí ở đây phảng phất thời kỳ các thánh tổ. Của cải được tính bằng bầy súc vật; Gióp vừa là chủ gia đình vừa là thầy tế cho cả nhà (1:5). Gióp sống đến hơn 100 tuổi (42:16). Hơn nữa, sách không nhắc đến tên Is-ra-en, mà nói đến tên Canh-đê, Sê-ba là những xứ thời cổ. Truyện Gióp chắc rất phổ biến vì trong Ê-xê-chiên 14: 20 có nhăc đến tên Gióp cùng với Đa-ni-ên và Nô-ê. Theo E.S.P. Heavenor, bối cảnh lịch sử đã được lưu giữ và truyền lại từ thế hệ nầy qua thế hệ khác, cho đến khi thêm phần đối thoại bằng thơ vào và nhập lại thành sách Gióp. Nhiều người chủ trương là nó đã được giữ lại bằng truyền khẩu. Nhưng giả thuyết của Duhm cho rằng lời tựa và lời bạt là những mảnh rời của một quyển sách phổ thông có ghi lại chuyện của Gióp.
Về niên đại, A.B. Davidson cho rằng quyển sách đã biết địa danh của những vùng đất xa xôi, như vậy không thể nào có trước thời Sa-lô-môn được. Ông phỏng đoán vào thời kỳ Giu-đa bị lưu đày (597 TC). Ý kiến của các học giả về niên đại xê xích trong khoảng từ năm 600 đến 400 TC. Tuy nhiên vấn đề niên đại không quan trọng đối với sách Gióp. Oesterley và Robinson đã nhận xét rất đúng: “Trong cả nền văn học, không có một áng thơ nào mà niên đại và bối cảnh lịch sử lại ít quan trọng như sách Gióp... Đó là một áng thơ phổ quát, và đây là một trong những đặc điểm khiến nó vẫn còn giá trị và được ưa thích cho đến ngày nay.”
Sách Gióp có nhiều tiếp điểm với các sách khác trong Kinh Thánh. So sánh Gp. 3: với Giê 20: 14-18 và Gp. 15:35 với Ês. 59:4. Có nhiều điểm tương đồng giữa nhân vật Gióp và Đầy tớ Đức Giê-hô-va trong Ê-sai. So sánh Ês. 50:6; 53:3 với Gp. 16:10; 30:9tt. Cũng hãy xem Thi 8:4 (Gp. 7:17); I Cô 3:19 (Gp 5:13); Gia 5:11.
IV. NGUYÊN BẢN VÀ VĂN THỂ
Nguyên văn Do-thái của sách Gióp là một thứ văn khó hiểu đã làm các học giả nhức đầu, đến nỗi các học giả của bộ Bảy Mươi đã bỏ qua gần một phần tư cuốn. Có nhiều chữ có lối dùng độc đáo khiến có người nghĩ rằng nguyên thủy sách nầy được viết bằng tiếng Ả-rập hoặc tiếng Ê-đôm trước khi được dịch ra tiếng Do-thái. Ý kiến của W. A. Irwin có lẽ dễ chấp nhận hơn, là sách được viết bằng một thứ thổ ngữ Do-thái khác với thứ tiếng thường được dùng trong Cựu Ước.
Sách Gióp có cả thơ lẫn văn xuôi. Lời tựa và bạt là văn xuôi, còn phần chính gồm có ba vòng đối thoại bằng thơ.
Sách Gióp rất gần với loại văn chương khôn ngoan của Do-thái, nhưng cốt lõi tinh thần của nó khiến ta khó có thể sắp loại nó cách chính xác được. Nó có chỗ đứng xứng đáng bên cạnh các vở bi kịch lịch sử từ thời Hi-lạp cho đến ngày nay.
V. NỘI DUNG
Câu chuyện xảy ra ở U-xơ, một địa danh không ai biết rõ là ở đâu. Một số học giả đoán U-xơ ở về phía đông bắc xứ Palestine trong vùng đất Aram (ngày nay là Syri) , vì Sáng 10:23  nói rằng U-xơ là con của Aram. Hơn nữa, địa điểm phía đông của nó phù hợp với lời nói về Gióp là người ‘lớn hơn hết trong cả dân Đông phương’. Nhưng một số học giả khác lại trưng dẫn Ca Thương 4: 21 và đặt U-xơ về phía nam Palestine trong địa phận Ê-đôm. Họ cũng nói rằng Ê-li-pha, bạn của Gióp, là người Thê-man, một thành phố của Ê-đôm.
Bốn người bạn của Gióp là Ê-li-pha, Binh-đát, Xô-pha và Ê-li-hu, đại diện cho thứ thần học chính thống nói lên tất cả những gì họ biết và nghĩ về những tai họa trút lên Gióp đã cướp đi mất hạnh phúc và an bình của ông. Có lẽ chỉ trừ Ê-li-hu, còn mấy người kia đều nhất mực lên án Gióp, cho rằng vì ông phạm tội nên mới phải lãnh nhận những hậu quả đau khổ. Nếu họ chỉ nói chung chung, cho rằng Gióp chịu liên lụy trong bản chất tội lỗi của con người, thì chắc hẳn Gióp đã đồng ý vì Gióp có bao giờ khoe mình là toàn thiện đâu? Nhưng khi họ đề cập rồi xác nhận trực tiếp rằng Gióp đau khổ là vì ông phải gặt lấy hậu quả của những hạt giống tội lỗi ông đã gieo khi chỉ có con mắt Đức Chúa Trời theo dõi ông, thì ông cực lực và khăng khăng bác bỏ.
Sách Gióp là quyển sách phổ quát vì  nó nói về một hiện tượng phổ quát của con người: nỗi thống khổ dày vò tâm can khi thân xác bị giập vùi. Luther cho rằng sách Gióp ‘thật hùng vĩ trác tuyệt không một sách nào trong Kinh Thánh bì kịp’; Tennyson gọi đó là ‘áng thơ vĩ đại nhất trong thời cổ cũng như hiện đại’.
Vậy quyển sách đã nói gì về sự đau khổ?
Nó nhắc nhở cho con người thấy chân trời hiểu biết của họ thật giới hạn không thể nào thấu triệt được toàn bộ vấn đề đau khổ. Tất cả những nhân vật người trong tấn kịch chỉ nói cho sướng miệng mà hoàn toàn không biết gì về việc Sa-tan kiện cáo Đức Chúa Trời về phẩm hạnh của Gióp trong phần mở đầu, và Đức Chúa Trời cho phép nó chứng minh điều nó nói theo ý nó. Dựa vào bối cảnh của câu truyện trong phần mở đầu, những đau khổ Gióp chịu không phải là bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời kết tội ông như các bạn ông đã lập luận, mà trái lại là bằng chứng Đức Chúa Trời tin cậy ông. Chúng ta không nên ngây thơ nghĩ rằng Đấng Toàn Tri cần phải thấy được sự thật chứng minh mới biết rõ tấm lòng trung hậu của tôi tớ Ngài để đánh tan chút nghi ngờ nào còn sót lại trong trí Ngài. Gióp và mấy người kia cố gắng ráp nối những mảnh rời của một bức tranh ráp trong đó có nhiều mảnh họ không đủ khả năng nhận diện. Tại đây chúng ta thấy được chân lý là hiện nay  chúng ta chỉ ‘thấy trong gương cách mập mờ’. Bởi đó sách Gióp là một luận giải hùng biện về khả năng kém cỏi của tâm trí con người khi họ muốn giản lược tính cách phức tạp của vấn đề đau khổ vào một khuôn mẩu cố định nào đó. Tại đây, kẻ yên lặng gặt hái được nhiều thành quả hơn người hay nói. (Xem Gp 2:13; 13:5).
Nhưng dù tác giả có khuyên ta nên khiêm nhu khi chiêm nghiệm sự kiện đau khổ, ông không hề chủ trương phải chịu thất vọng. ÔÂng tin nơi một Thượng Đế có giải pháp cho nhu cầu con người. Khi con người xuất hiện để khuyên nhủ Gióp, họ chỉ đem tới tranh cãi, thất vọng, chán chường. Khi Thượng Đế xuất hiện, Ngài đưa Gióp tới đầu phục, đức tin và can đảm. Lời của loài người không xuyên thủng được bức màn đen tối trong tâm trí Gióp; lời Thượng Đế tỏa chiếu ánh sáng trường tồn.
Thượng Đế hiển lộ đã không giải đáp hết mọi câu hỏi nóng bỏng biện luận gay go trong cả quyển sách; nhưng Ngài giải đáp cho nhu cầu của tâm hồn Gióp. Ngài không giải thích cho Gióp hiểu binh lược trận đồ, nhưng Ngài giúp cho Gióp trở thành kẻ thắng trận.
Cũng như mọi sách khác trong Kinh Thánh, sách Gióp chỉ hướng về Chúa Giê-xu. Có những câu hỏi nêu lên, những tiếng nấc bi thống mà chỉ có Chúa Giê-xu mới giải đáp được. Quyển sách là một trong những lời chứng của mọi thời đại cho thấy rằng trong tâm hồn con người có một khoảng trống mà chỉ có Chúa Giê-xu mới lấp đầy được.
Ngoài ra, nếu đọc sách Gióp từ một góc độ khác, ta sẽ thấy có những cái nhìn, những hiểu biết  khác nhau về Đức Chúa Trời, từ Sa-tan đến Gióp, đến các bạn Gióp, rồi cả chính Đức Chúa Trời nữa.
Tên của Sa-tan có nghĩa là ‘kẻ nghịch’, hay ‘đối thủ’. Nó là kẻ kiện cáo những kẻ kính yêu Đức Chúa Trời và không muốn một ai được phước nhờ vâng phục Ngài (1:9). Nó là tác giả của những khổ nạn thử thách khi Đức Chúa Trời cho phép xảy đến cho con cái Ngài (1:12-19; 2:7).  Tuy nhiên, nó không phải là đối thủ cân xứng của Chúa vì dù nó có quyền lực để phá hoại công việc của Chúa, nó vẫn phải nằm trong phạm vi tể trị của Ngài (1:12; 2:3b,6).
Sự hiểu biết Đức Chúa Trời của các bạn Gióp là sự hiểu biết lý thuyết, giáo điều, chỉ nằm trong lý luận mà không đếm xỉa gì tới thực tế và những giá trị của tình người, cũng như sự tự do hành động tuyệt đối của Đức Chúa Trời. Trong ba vòng đối thoại, ba bạn của Gióp là Ê-li-pha, Binh-đát và Xô-pha, với niềm tin thành thật về một Đức Chúa Trời tuyệt đối công chính, đã luân phiên hạch tội người bạn thân của mình là Gióp trong khi ông ngồi rên siếc trong một thân hình lở lói đau đớn.
Ê-li-pha là một nhà triết học và thần học đã nói từ kinh nghiệm sống khôn ngoan, tin kính của ông. Theo ông, không đau khổ nào mà không có nguyên nhân. Kinh nghiệm cho ông thấy rằng đau đớn là sự trừng phạt của Đức Chúa Trời đối với tội lỗi. Quan điểm của ông có thể tóm tắt trong 4:7-9: “Ông hãy suy xét lại.....họ bị tiêu hao đi.” Trong bài nói chuyện đầu, ông không trực tiếp hài tội Gióp mà chỉ ám chỉ điều đó. Nhưng đến bài thứ hai, Ê-li-pha nói trắng ra: “Sự gian ác của ông dạy dỗ cho miệng mình nói, và ông chọn lưỡi của kẻ quỷ quyệt.” Bài thứ ba của ông là một lời kết tội công khai. Với giọng điệu gần như tàn ác, ông tố cáo Gióp là đầy dẫy gian ác. Ông hỏi: “Sự dữ của ông há chẳng phải lớn sao? Các tội ác ông há không phải vô cùng ư?” Ông kết luận bằng cách kêu gọi Gióp ăn năn (22: 22-26).
Binh-đát là một tay thủ cựu hạng nặng. Ông coi lời của Gióp như ‘gió bão’ (8:2). Ông lại còn nói con cái Gióp chết là hình phạt của tội lỗi chúng (8:4). Những lời đó khó có thể an ủi một người đã từng trung tín dâng sinh tế cầu thay cho con cái mình (1:5). Binh-đát căn cứ vào quá khứ mà kết luận rằng Gióp đã phạm tội nặng. Lập luận của ông là: “Xin hãy hỏi dòng dõi đời xưa, khá chăm chỉ theo sự tìm tòi của các tổ tiên...Những cái đó sẽ không dạy không nói cho ông sao?” (8:8,10). Trong bài thứ nhì, Binh-đát nói về những hậu quả của sự gian ác bằng những từ ngữ nặng nề, xỉa xói: ngọn đèn kẻ ác tắt phụt, ánh sáng hắn chỉ là tối tăm (18:5,6), một cái bẫy nằm trên đường hắn đi (c.10), các chi thể hắn bị tiêu nuốt (c. 13) –  ám chỉ tình trạng bệnh hoạn của Gióp. Bài thứ ba của ông ta rất ngắn, đề cao Đức Chúa Trời và so sánh loài người với con giòi, ý ông muốn chỉnh Gióp vì cho rằng Gióp tự cho mình là thanh liêm, không kể gì đến Đức Chúa Trời.
Xô-pha, một nhà đạo đức, rất kiêu hãnh về đường lối chính thống của mình. Ông lý luận rằng vì Đức Chúa Trời là toàn năng không thể dò lường được, nên Ngài ‘biết những kẻ dối gạt’ (11:11). Bởi vậy, nếu Gióp từ bỏ gian ác mình, Ngài sẽ phục hồi ông (c.14). Quan điểm đạo đức cứng ngắt của ông có thể tóm tắt trong câu nầy của bài thứ hai của ông: “Hãy biết rõ rằng, từ đời xưa, từ khi loài người được đặt trong thế gian, thì sự thắng hơn của kẻ ác không có lâu, và sự vui mừng của kẻ vô đạo chỉ trong một lúc thôi”(20:4,5). Ông ta không nói lần thứ ba. Có lẽ trong trí ông cho rằng Gióp đã hết thuốc chữa.
Ê-li-hu, một chàng trai trẻ, yên lặng chờ đợi mấy ông già nói hết, đã tức bực lên tiếng trong bốn bài liên tiếp, từ chương 32 đến 37. Trong bài đầu, chàng nói dầu Gióp phản đối cho mình là vô tội, không ai chứng minh được ông tội gì (32: 12).  Ê-li-hu cũng nói rằng một người chịu đau khổ có thể không phải là chịu hình phạt mà được kêu gọi để sống ngay thẳng (33: 16-18); nếu người ta bị trừng phạt xứng đáng, thì chẳng ai sống sót nỗi (34: 10-15). Ê-li-hu ngừng, nhưng Gióp không đáp lời, nên chàng tiếp tục nhận xét rằng Gióp đã nói những lời vội vã về Đức Chúa Trời, cũng hàm ý rằng tội lỗi đã đem lại sự đau đớn cho Gióp (34:10-12, 31-37). Trong hai chương kế tiếp, chàng lặp lại những tiền đề căn bản –  rằng Đức Chúa Trời công bình không thể khiến người lành đau khổ –  rồi kết luận nói rằng đường lối Đức Chúa Trời vượt quá sự hiểu biết con người.
Sự hiểu biết Đức Chúa Trời của Gióp trải qua nhiều giai đoạn biến chuyển. Ông vốn là một người đạo đức, kính sợ Đức Chúa Trời. Chính Đức Chúa Trời công nhận điều đó, và khi tự binh vực mình, Gióp đã kể ra những điều mình đã làm, có thể nói là một nhà hoạt động xã hội phi thường: cứu kẻ nghèo khó côi cút (29:12), giúp kẻ hấp hối, người góa bụa (c. 13), là mắt cho kẻ mù, chân cho kẻ què (c.15), là cha của kẻ thiếu thốn và bạn của khách lạ (c.16), giải cứu người bị áp bức (c.17), khóc cho người hoạn nạn và nghèo khó (30:25). Ông cũng giữ mình khỏi những điều xấu mà người ta thường phạm phải: dâm dục (31:1-4), lừa đảo (c. 5-8), ngoại tình (c.9-12), vô tình trước nhu cầu con người (c. 13-23), tham lam và gian dâm (c. 24-28); trù ẻo kẻ nghịch (c. 29-32), đạo đức giả. Có thể nói ông là con ngươiø hoàn toàn theo tiêu chuẩn đạo đức con người. Nhưng rồi tai họa ập xuống, tài sản, con cái mất hết, cả đến tấm thân ông từng sống trong nhung lụa cũng bị lở lói, hôi thối, đau đớn. Ông không hề biết chuyện xảy ra trong thế giới vô hình đã ảnh hưởng đến ông, nhưng tấm lòng trung của ông vẫn không lay chuyển. Khi mất của, ông nói: “Đức Giê-hô-va ban cho, Đức Giê-hô-va lại lấy đi, đáng ngợi khen danh Đức Giê-hô-va” (1:21), khi thân xác bị đau đớn, ông nói: “Sự phước mà tay Đức Giê-hô-va ban cho, ta lãnh lấy, còn sự họa mà tay Ngài giáng cho, ta chẳng lãnh lấy sao?”(2:10). Trong lúc thân xác bị cơn đau  hành hạ, ông đã rủa ngày sinh mình (3:3), kêu la than thở (6:4; 7:1-21; 9:17-31...), ước được chết (6:8-10); được Đức Chúa Trời bỏ mặc mình (7:16; 9:34,35...), được Ngài nghe thấu (16:18-22); 19:23,24), được đối chất với Ngài (23:3-12). Trước những lời buộc tội của các bạn, ông biện minh cho sự vô tội trong trắng của mình, nhưng ông vẫn ca ngợi Đức Chúa Trời  và ở giai đoạn nầy, ông tin rằng “ngoài xác thịt, tôi sẽ thấy Đức Chúa Trời”. Biến chuyển cuối cùng quan trọng nhất đời Gióp là sau khi nghe tiếng phán của Đức Chúa Trời, và những câu hỏi vi diệu Ngài đặt ra, ông đã cúi đầu thưa với Ngài rằng: “Tôi đã nói những điều tôi không hiểu... Trứơc lỗ tai tôi có nghe đồn về Chúa, nhưng bây giờ mắt tôi đã thấy Ngài, vì vậy, tôi lấy làm gớm ghê tôi và ăn năn trong tro bụi.” Khi đối diện với Đức Chúa Trời, chiếc áo đạo đức của ông bị cháy rụi và ông thấy được chân tính của mình.
Khi những cuộc tranh cãi thần học triết học đã qua, chính Đức Chúa Trời thấy cần thiết phải trình bày về chính mình, thì Ngài không theo đường lối con người. Ngài không biện luận mà chỉ nêu lên những vấn đề mà không một người trần nào giải đáp nỗi để rồi không có cách gì hơn là đặt lòng tin cậy hoàn toàn và vô điều kiện nơi Ngài, Ngài chỉ cho con người thấy cái bất năng của luận lý trước sự vĩ đại huyền nhiệm của Ngài, để họ phải cúi đầu phủ phục tôn thờ Ngài (38: - 41:).
VI. BỐ CỤC
1: 1 - 2: 13    Lời tựa
    1: 1 - 5         Người lành giữa thế giới tội lỗi
    1: 6 - 12       Mây bắt đầu kéo đến
    1: 13 - 22     Bão tố nỗi lên
    2: 1 - 8         Bão tố tiếp tục
    2: 9 - 13       Phản ứng trước bão tố
3: 1 - 14: 22    Đối thoại vòng một
    3: 1 - 26       Sống khổ! Chết sướng!
    4: 1 - 5: 27   Ê-li-pha nói
    6: 1 - 7: 21   Gióp trả lời Êlipha
    8: 1 - 22       Bin-đát nói
    9: 1 - 10:22   Gióp trả lời Binđát
    11:1 - 20      Xô-pha nói
    12:1 - 14:22  Gióp trả lời các bạn ông
15: 1 - 21: 34    Đối thoại vòng hai
    15: 1 - 35     Ê-li-pha nói lần nhì
    16:1 - 17:16 Gióp trả lời Ê-li-pha
    18: 1 - 21     Bin-đát nói lần nhì
    19: 1 - 29     Gióp trả lời Bin-đát
    20: 1 - 29     Xô-pha nói lần nhì
    21: 1 - 34     Gióp trả lời Xô-pha
22: 1 - 31: 40    Đối thoại vòng ba
    22: 1 - 30     Ê-li-pha nói lần ba
    23:1 - 24:25 Gióp trả lời Ê-li-pha
25: 1 - 6       Bin-đát nói lần thứ ba
26: 1 - 14     Gióp trả lời Bin-đat
27:1 - 31:40  Gióp đáp lời các bạn
32: 1 - 37: 42    Phần Êlihu
    32: 1 - 22     Lý do khiến Ê-li-hu can thiệp
33: 1 - 33     Ê-li-hu cáo giác thái độ của Gióp đối với nỗi đau khổ của ông
34: 1 - 9       Tóm tắt những lời phàn nàn của Gióp
34: 10 - 33   Bác bỏ lời phàn nàn thứ nhất của Gióp
35: 1 - 16     Bác bỏ lời phàn nàn thứ hai của Gióp
36:1 - 37:42 Công việc quyền năng của Đức Chúa Trời
38: 1 - 41: 34    Chúa trả lời Gióp
    38: 1 - 3       Gióp được gọi đến nghe
38: 4 - 38     Những điều kỳ diệu của thế giới vô cơ
38:39-39:30 Những điều kỳ diệu của giới động vật
40:1 - 41:34 Quyền năng mãnh liệt của Đức Chúa Trời
42: 1 - 6     Gióp đáp lại lời Đức Chúa Trời
42: 7 - 17    Kết Luận
    42: 7 - 10     Phước lành tâm linh cho Gióp
    42: 11 - 17   Phước lành vật chất cho Gióp   
 Câu hỏi thảo luận:
 1.     Ba bạn của Gióp đến với mục đích gì? Họ đã làm gì và đạt được mục đích đó không? Tại sao?
2.     Ba bạn của Gióp có giảng tà giáo không? Nếu có, hãy chỉ ra. Tại sao họ bị Đức Chúa Trời quở trách? Hãy bình luận về thái độ tự cao của những kẻ tự cho mình là chánh giáo.
3.     Hãy bình luận về vai trò của Sa-tan đối với vương quốc Đức Chúa Trời.
4.     Bạn nghĩ thế nào về việc trích sách Gióp để giảng dạy?



CHƯƠNG 4
GIÓP (2)


VI. BÌNH GIẢI
Chúng ta đã biết chủ đề lớn của sách Gióp là vấn đề đau khổ. Trên căn bản lời dạy của các vị tiên tri Cựu Ước thì  đau khổ quả là vấn đề. Vì họ dạy rằng Đức Giê-hô-va là Đấng cầm quyền tối cao trên mọi người cũng như các thần. Ngài là Đấng yêu thương và công chính hoàn toàn. Mọi tội lỗi phải bị trừng phạt; mọi việc lành sẽ được ban thưởng. Thế nhưng kinh nghiệm cuộc sống cho thấy không đơn giản như vậy. Làm sao dung hòa lý thuyết và thực tế?  Nhiều tác giả Cựu Ước đã nhận chân được vấn nạn đó và đưa ra những câu trả lời theo sự suy nghĩ và hoàn cảnh họ. Ha-ba-cúc có lẽ là ngừơi đầu tiên đưa ra nhận xét thẳng thắn hơn hết về điều nói trên: “Mắt Chúa thánh sạch chẳng nhìn sự dư,õ chẳng có thể nhìn được sự trái ngược. Sao Ngài nhìn xem kẻ làm sự dối trá, khi kẻ dữ nuốt người công bình hơn nó, sao Ngài nín lặng đi?” (Ha 1:13). Giải pháp của Ha-ba-cúc là niềm xác tín rằng, “người công bình sẽ sống bởi đức tin” (2:4). Tác giả Thi thiên 37 quả quyết rằng về lâu về dài, kẻ ác sẽ bị tàn hại, còn người công chính sẽ được tưởng thưởng xứng đáng. Đối với tác giả Thi thiên 49, cả sự tai họa của người lành cũng như sự thịnh vượng của kẻ ác đều chỉ là ảo ảnh, vì kết cục cả hai cũng đều chết. Nhà thần bí viết ra Thi thiên 73 tìm được bình an cho tâm hồn nhờ được kết bạn với Đức Chúa Trời đời đời, và khi tương giao với Ngài ông có được niềm vui mà sự chết cũng không ngăn cản tiêu diệt được. Một đóng góp quan trọng khác là của tác giả Ê-sai 53, ông đã đi đến kết luận rằng đau khổ có hiệu năng cứu chuộc, rằng một số nguời được hạnh phúc sung sướng là nhờ sự đau khổ của người khác. Đầy Tớ trọn vẹn của Đức Chúa Trời bằng lòng nhận lãnh đau khổ vì biết rằng điều đó đem lại hạnh phúc cho nhiều người. Cơ-đốc-giáo còn đi xa hơn, cho rằng thập tự giá của Chúa Giê-xu chẳng những là một liều thuốc cực mạnh làm giảm nhẹ mà còn là một giải pháp cho vấn đề đau khổ, dù rằng giải pháp ấy vượt quá tầm hiểu biết của trí tuệ hữu hạn. Sách Gióp là một nỗ lực triệt để trọn vẹn hơn hết để tìm lời giải đáp cho câu hỏi tối trọng nầy.
Cốt lõi của quyển sách nằm trong phần thi ca trong đó phần đối thoại giữa Gióp và các bạn ông chiếm gần hết. Trong khi các bạn ông giữ nguyên một vị trí, Gióp luôn luôn đi tới trải qua nhiều chặng, trước khi ông tiến tới cái khám phá cuối cùng. Khởi đầu, Gióp đã đối diện với hai điều tra vấn. Tra vấn thứ nhất đặt dấu hỏi về mối tương quan giữa ông và Đức Chúa Trời. Tra vấn thứ nhì là một câu hỏi phổ quát về công lý của Thượng Đế trong việc cai quản thế gian. Giải đáp cho câu hỏi đầu là một niềm tin, giải đáp cho câu hỏi sau là sự toàn thắng của công lý Thượng Đế. Theo trình tự tâm lý, trước hết áp lực của vấn nạn đầu phải được giải tỏa, nhiên hậu thi sĩ mới có thể bước vào vấn nạn kế tiếp. Giữa chừng cuộc tranh luận, vào cuối chương 19, Gióp đã tìm được vị trí đặt chân để từ đó ông có thể tiến đến vấn nạn thứ nhì. Nỗi đau khổ của ông không thể nào biến mất, nhưng chúng không còn là vấn đề cá nhân: chúng trở thành ví dụ cho một câu hỏi tổng quát hơn, và khi ông kêu mời Đức Chúa Trời xuất hiện, những khó khăn của ông mới đươc giải quyết cả hai bề. Đó là tiến trình tư tưởng chúng ta sẽ theo dõi trong quyển sách.
Lời mở đẩu của Gióp trong ch. 3 chỉ là tiếng kêu gào rên siếc. Tại sao ông phải ra đời? Nếu ông phải ra đời, tại sao ông không chết đi khi còn là hài nhi vô ý thức hay sẩy đi khi còn là bào thai? Nếu ông phải sống để chịu khổ, tại sao ông không thể chết ngay, để dứt bỏ mọi phiền não trong chốn âm phủ (sheol)? Có điều đáng để ý là Gióp không hề có ý nghĩ  muốn tự tử. Cho đến đây, vấn đề chưa được đặt ra.
Ê-li-pha, người đầu tiên lên tiếng, mới thật sự đặt vấn đề (ch. 4-5). Ở đây ta thấy trình độ nghệ thuật cao của thi sĩ  khi ông đánh dấu mỗi bước tiến của Gióp bằng một bài nói chuyện của các bạn. Tuy lập trường họ không đổi thay nhưng lời họ nói có dự phần trong chuyển biến tư tưởng của Gióp. Ê-li-pha là một nhân vật lão thành, bằng tuổi cha Gióp (15:10). Ông rất từng trải và hiểu biết nhiều. Ông cũng có vẽ là một nhà huyền bí vì ông nhận được sự dạy dỗ trực tiếp của thần linh trong khi ông trầm tư mặc tưởng (ngồi thiền?) (4:12-16). Điều ông biết là gì? Đó là tội lỗi con người là nguyên nhân của đau khổ. Đó là trừng phạt của  Đức Chúa Trời chí công đối với những ai tẻ tách khỏi đường ngay nẻo chính. Tiêu chuẩn  Đức Chúa Trời rất cao và Ngài đòi hỏi sự toàn hảo đến nỗi thiên sứ trên trời cũng không tránh khỏi bị Ngài khiển trách. Chắc Gióp đã vô tình làm gì đó khiến cho  Đức Chúa Trời công minh ra tay trừng phạt. Có lẽ chỉ là một điều nhỏ thôi, nhưng Gióp phải hạ mình trước mặt  Đức Chúa Trời, nhận mình là có tội, quăng mình vào lòng từ ái của Đấng Toàn Năng, thì mọi sự sẽ ổn thỏa. Ông sẽ lại được thịnh vượng, con cháu đầy đàn, sẽ sống hạnh phúc nhiều năm trước khi lìa trần tuổi cao tác lớn.
Lời Ê-li-pha thật vô dụng đối với Gióp. Thịnh vượng, con cái để làm gì khi ông đang bị chứng bịnh nan y hành hạ, không hi vọng gì được bớt đau, đừng nói tới lành, may ra chỉ sống lây lất vài năm nữa là cùng.
Thế nhưng Ê-li-pha đã nói một điều vô cùng quan trọng. Ông ta làm cho Gióp  nhận thức rằng tác giả của những đau đớn của Gióp không là ai khác ngoài Đức Chúa Trời, và Gióp đã làm điều gì đó chọc giận Ngài. Khi tiền đề đó được đặt xuống thì lập tức vấn đề hiện ra. Đức Chúa Trời có thật là bạn của người hiền không? Ngài có phán xét công bình không? Gióp có thể đã làm điều sai quấy, nhưng ông đã cẩn thận dâng sinh tế chuộc tội cho những lầm lỗi vô tình của mình. Một điều ông biết chắc là ông không có phạm một tội gì nặng đến nỗi đáng chịu mức độ trừng phạt hiện tại. Vì vậy trong phần trả lời cho Ê-li-pha (ch. 6-7), Gióp đã than thở rằng các bạn chẳng hiểu gì cả. Nếu họ chỉ cần cho ông thấy ông phạm tội gì thì ông sẽ ăn năn, nhưng ông không thể tự bịa đặt để được an thân. Ta sẽ thấy giòng tư tưởng của Gióp thỉnh thoảng bị ngắt đọan vì những cơn đau nỗi lên hành hạ. Có lúc ông thách đố  Đức Chúa Trời. Tại sao một sinh vật vô nghĩa vô hại như ông trở thành mục tiêu cho cơn thịnh nộ của  Đức Chúa Trời? Nếu ông là con quái vật thời thượng cổ phá hoại vũ trụ, thì hành động của  Đức Chúa Trời còn có lý, có thể hiểu được. Đằng nầy Ngài chú mục vào một sinh vật nhỏ bé như Gióp thì thật vô lý quá (so sánh Thi 8:4). Chắc là  Đức Chúa Trời đã lầm lẫn, rồi một ngày nào đó Ngài biết ra thì đã muộn, Gióp đã ở trong Sheol rồi.
Binh-đát người lên tiếng thứ hai (ch. 8) đã ghim lấy những lời cuối cùng của Gióp để công kích. Ông ta thuộc loại người tòng cổ, khư khư ôm lấy những gì người đời trước để lại, “xưa bày nay bắt chước”, tin rằng người thời trước bao giờ cũng khôn ngoan hơn người thời sau. Binh-đát bực bội vì những lời lẽ có vẽ bất kính của Gióp. Lời của ông ta ở đây cũng như các bạn sau nầy đều ám chỉ rằng Gióp là con người ương ngạnh cao ngạo, không chịu nhận lỗi, nên họ luôn nhấn mạnh nguyên tắc “ác giả ác báo”, cho rằng tội nhân cứng đầu không chịu ăn năn tất sẽ bị trừng phạt, và Gióp đang có những dấu hiệu như vậy. Ông ta không đưa ra một điểm nào mới mẻ hơn Ê-li-pha.
Tuy nhiên, Binh-đát cũng có đóng góp đáng kể vào tiến trình thảo luận. Mở đầu, ông viện đến sự công bình của  Đức Chúa Trời, và điều nầy dẫn tư tưởng Gióp vào một hướng mới. Nguyên thuỷ chữ ‘công bình’ là một thuật ngữ toà án. Nó dùng để chỉ một người thắng kiện. Dần dần, ý nghĩa toà án phai mờ đi, chỉ còn giữ  ý nghĩa luân lý. Nhưng khi Binh-đát dùng chữ nầy, ông đã đưa ý nghĩ  Gióp đến một hướng mới, và từ đây trở đi, trí Gióp luôn nghĩ đến một cuộc xử án giữa một bên là ông và một bên là  Đức Chúa Trời. Gióp không cần biết ai là nguyên cáo ai là bị cáo, nhưng ông có cảm tưởng nếu ông có thể trình bày nội vụ trước mặt  Đức Chúa Trời, hay đối chất với Ngài trước một toà án độc lập, thì ông có thể chứng tỏ là mình đúng.
Khi Gióp đáp lời Binh-đát (ch. 9-10), ý tưởng về cuộc tranh tụng bắt đầu len vào. Binh-đát bảo  Đức Chúa Trời là công bình, là người thắng kiện, Gióp công nhận, vì tri thức và quyền năng siêu việt của Ngài có thể áp đảo đối phương trọn vẹn. Dù đối phương có trong sạch cách mấy, Ngài cũng vẫn có thể khám phá ra cái xấu trong họ. Cuối cùng Gióp nhận biết mình vô vọng, cuộc đời ông quá ngắn, dù cho nội vụ có được quyết định đi nữa, lúc ấy ông cũng đã ra người thiên cổ rồi.
Đến đây, Sô-pha xuất hiện (ch. 11). Ông ta không bằng hai người trước, ‘nói không có sách, mách không có chứng’, lại giáo điều hạng nặng, nói không dựa vào thẩm quyền nào khác ngoài chính mình. Ông ta biết   Đức Chúa Trời sẽ nói và ông nói hộ cho Ngài. Nhưng thật ra ông chỉ lặp lại những gì hai người trước đã nói. Lời lẽ ông thô bạo nặng nề hơn, gần như gán tội trực tiếp cho Gióp.
Lời Gióp đáp lại Sô-pha (12:-14:) là bài dài hơn hết, kết thúc vòng đầu cuộc tranh luận. Nó cho thấy sự căng thẳng trong tình cảm của người trong cuộc. Chính các người bạn mới là điều làm ông bận tâm. Chẳng những không an ủi gì  được, họ lại còn lên giọng dạy dỗ ông. Thái độ kẻ cả của họ khiến ông nỗi lên phản kháng. Ông cũng biết không thua gì họ về sự uy nghiêm toàn năng của  Đức Chúa Trời, điều mà Sô-pha nhấn mạnh. Hơn thế, ông còn biết một điều mà họ vẫn đui mù không thấy: Ông không có phạm một điều ác nào để có thể giải thích cho nỗi bất hạnh của ông. Gióp cũng biết rằng nếu ông có thể đến gần  Đức Chúa Trời, ông có thể chứng minh đuợc trường hợp của ông. Thật ra,  Đức Chúa Trời đã mang ông ra truy tố rồi, qua những đau đớn ông đã chịu, tuy rằng những điều buộc tội ông rất mơ hồ, không cụ thể. Ý nghĩ về cuộc sống ngắn ngủi trở lại dày vò ông. Chẳng bao lâu nữa, cái chết sẽ đến, chặt đứt mọi hi vọng về giải hoà hay phục hồi cho ông. Một cây bị đốn còn có thể nứt đọt, nhưng con người sau cái chết sẽ không còn hi vọng gì trên đời nữa.
Đến đây, ta dừng lại một chút để coi tác giả đã dẫn ta đến đâu trong cuộc tranh luận. Một mặt, các bạn ông tin chắc ở giáo lý mình, đề quyết Gióp là con người tội lỗi. Mặt khác, Gióp quả quyết mình vô tội, và trong nỗi đau đớn của ông,  ông gần như chẳng còn đếm xỉa gì tới họ, chẳng còn sợ gì những hậu quả của lời mình nói, việc mình làm, khiến họ rất lấy làm bực bội. Ông bắt đầu tin rằng không phải  Đức Chúa Trời ghét bỏ ông hay phạt ông cách quá đáng vì  những lầm lỗi nhỏ của ông. Nếu có cơ hội, ông có thể chứng minh được, nhưng nay nhìn tới đâu ông cũng chỉ thấy cửa đóng then gài. Cái chết đã gần kề, hi vọng sắp tiêu tan. Nhưng rồi ý nghĩ về một sự giải hoà sau khi chết bắt đầu nhen nhúm trong trí ông.
Khi E-Âli-pha nói lần thứ nhì (15:), thái độ ông ta đã dổi khác. Ông ta không đưa ra cái gì mới mà chỉ dùng lời lẽ thậm tệ đối với Gióp. Gióp là kẻ kiêu căng, tội lỗi, chẳng nể người mà cũng chẳng kính Trời. Bản chất như vậy chắc phải bị trừng phạt xứng đáng. Ta để ý thấy Ê-li-pha không đưa ra một hi vọng phục hồi nào nữa. Giai đọan đó đã qua rồi.
Gióp trả lời Ê-li-pha (16:-17:) cũng căng thẳng không kém. Đến đây, cuộc tranh luận đã trở thành chỉ trích lẫn nhau. Nhưng Gióp không dừng lâu nơi khuyết điểm của các bạn, dường như ông coi đó là chuyện nhỏ. Ông quay qua  Đức Chúa Trời và trút đổ những lời than thở ra. Ông không tin  Đức Chúa Trời là đấng các bạn ông mô tả. Ông là nạn nhân của một tội ác và ông kêu la với đất đừng để máu ông đổ mà không được báo thù. Nhưng ai sẽ thực thi công lý đó? Nếu thần học họ đúng thì chính  Đức Chúa Trời là thủ phạm. Nhưng đây không thể là sự thật, và Gióp thực hiện một bước nhảy vọt của đức tin, là kêu nài đến  Đức Chúa Trời. Nhưng  rồi ông lại rơi vào vực thẳm nghi ngờ, vì ông chẳng còn thì giờ nào để được biện chính trước khi đi vào vực tối của chốn âm ti (Sheol).
Bài thứ hai của Binh-đát (18:) chỉ là bảng liệt kê những hiểm hoạ chờ đợi kẻ ác, rõ ràng là ám chỉ Gióp trong đó. Cũng như Ê-li-pha, ông ta không còn nghĩ đến Gióp có thể ăn năn hay phục hồi nữa, và dùng những lời lẽ còn thậm tệ hơn các bạn ông.
Những lời lẽ độc địa cay đắng của Binh-đát đưa Gióp đến tận cùng của tuyệt vọng. Tới đây ông phải có cái gì để kết thúc. Truớc hết, ông than phiền về cách cư xử của bạn bè. Rồi tâm trí ông lại quay về với  Đức Chúa Trời và những quằn quại đau đớn thể xác cũng như tâm linh. Ông như muốn điên lên. Ông kêu la với bạn bè hãy thương tưởng ông. Nhưng họ vô dụng, ông lại nghĩ đến việc ghi lại trên tài liệu để biện minh sau nầy. Ông đã xuống đến điểm thấp nhất, thình lình ông nhảy lên mấy bước và lên đến điểm cao hơn bao giờ hết, ông đã tìm được tảng đá để đặt chân.
Khúc sách quan trọng 19:25-27 có nhiều điều cần bàn rõ. Chữ 'đấng cứu chuộc' ở đây trong nguyên ngữ là 'Goel' có rất nhiều nghĩa. 'Goel' là một đại diện pháp lý cho một người không thể hành xử những quyền lợi công dân. Trong sách Ru-tơ, Bô-ô là 'Goel' cho Na-ô-mi và Ru-tơ. Một người sắp chết không thể thực thi quyền hạn để bảo vệ con cái. Ông phải có một 'Goel' để can thiệp khi có tranh chấp xảy ra. Một người bị hãm hại không thể báo thù được, nhiệm vụ đó sẽ giao cho một 'Goel máu' (người trả nợ máu, báo thù máu).
Đó là tình cảnh của Gióp. Ông coi như đã chết. Con cái ông không còn. Bà con không có. Bạn bè bỏ rơi, thậm chí còn lên án ông. Trong lúc cố cùng, tâm trí ông vượt lên và nhìn thấy "đấng chứng tôi ở trên trời, và đấng bảo lãnh cho tôi ở tại nơi cao" (16:19). Đó không là ai khác hơn Đức Chúa Trời, Đấng sẽ thực thi công lý, và sẽ làm sáng tỏ sự vô tội của Gióp. Đến lúc cuối cùng Ngài sẽ đứng trên đất và chứng tỏ Ngài là 'Goel' của Gióp.
Bây giờ ông đã biết Đức Chúa Trời thật sự ở về phía ông, dù thoạt nhìn có vẽ trái lại. "...ngoài xác thịt tôi, tôi sẽ thấy Đức Chúa Trời. Chánh tôi sẽ thấy Ngài, mắt tôâi sẽ nhìn xem Ngài chớ chẳng phải kẻ khác, khi tạng phủ tôi hao mòn trong thân thể tôi" (19:26,27). Câu nầy chắc có dính líu tới Thi 73:26. Cuối cùng Gióp đã nhìn thấy được cuộc sống sau khi chết, lúc ấy ông vẫn có thể tiếp xúc với Đức Chúa Trời.
Gióp đã đạt được một kết luận phi thừơng. Ông đã tìm được giải đáp cho vấn nạn đầu tiên của ông. Nỗi đau đớn vẫn chưa lìa ông, nhưng sự căng thẳng đã giảm bớt, và cường độ cảm giác đã phần nào nhẹ đi. Bây giờ ông có thể quay qua vấn nạn lớn hơn và xử lý nó với phần nào bình tĩnh hơn.
Các bạn ông không nhận thấy điều đó. Đối với họ, Gióp chỉ là kẻ phạm thượng kiêu căng, và vẻ thư thái ông chỉ là bằng chứng của một vi phạm nữa, vì ông đã theo đường lối thiếu chính thống. Ta thấy điều đó trong bài thứ hai của Sô-pha (20:). Lời lẽ cũng vẫn hằn học, nhưng nhấn mạnh vào tính cách phù du của những thú vui và hạnh phúc mà kẻ ác hưởng thụ.
Tới ch. 21, Gióp lại bước một bước mới. Ông cũng đòi hỏi một cuộc tra xét, nhưng không để kể lể những đau thương của ông, mà là để công bố sự thật trái ngược hẳn chủ trương của các bạn ông. Không phải tai hoạ lúc nào cũng xảy đến cho kẻ ác. Hắn  thành công không phải chỉ trong những vấn đề đòi hỏi những cố gắng của hắn mà cả trong những lãnh vực nằm dưới sự kiểm soát của Đức Chúa Trời nữa. Như vậy hắn thịnh vượng là do ý Thượng Đế, và hắn có thể sống lâu rồi qua đời bình an, mặc dù hắn xấu xa,  bỏ Đức Chúa Trời một bên, không chấp nhận thẩm quyền và những đòi hỏi của Ngài. Gióp biết ông sẽ gây chống đối nơi các bạn ông, nhưng ông phải tuyên bố  sự thật. Như vậy, sân khấu đã dọn sẵn cho cuộc tranh luận về sự thần hựu, một vấn đề tổng quát hơn.
Tuy nhiên, Ê-li-pha (22:) không màng chuyện bàn cãi thần học hay triết học. Ông ta chỉ hài tội Gióp. Ông ta cho Gióp là kẻ kiêu căng tưởng Đức Chúa Trời sẽ được hưởng lợi nhờ đạo đức của con người. Rồi ông đưa ra một loạt những tội mà ông cho là Gióp đã phạm. Đó là tội của bọn nhà giàu, áp bức, bóc lột, chỉ lo cho bản thân không biết gì đến nỗi khổ đau của kẻ khác, ngạo mạn với Đức Chúa Trời, cùng những tội tương tự. Lẽ dĩ nhiên là ông ta chẳng đưa ra được một bằng chứng nào cả. Những tai hoạ Gióp chịu cho ông ta biết là Gióp có tội, rồi thái độ của Gióp lại càng củng cố cho quyết đoán ấy, và một người từng ở trong địa vị như Gióp thì hẳn phải phạm những tội như vậy.
Gióp không trả lời trực tiếp những lời công kích ấy (23:-24:), dường như ông chỉ giữ chúng trong trí rồi sau nầy nhắc lại. Nhưng Ê-li-pha đã đưa ông trở lại một điểm quan trọng. Ông ta gợi ý rằng Gióp nên tìm kiếm Đức Chúa Trời (22:23...), và Gióp không mong gì hơn. Bây giờ ông biết Đức Chúa Trời ở bên cạnh ông, và vấn đề duy nhất là làm sao tìm được Ngài. Có lúc ông bỏ lững vấn đề nan giải đó và quay qua lập một bảng tường trình để ông trình lên nếu ông được đứng trước Đấng Thánh. Chương 21 hơi tối nghĩa, nhưng rõ ràng là nó dính líu tới việc mô tả kẻ ác hiếp đáp người nghèo, và tình cảnh khốn khổ của giai cấp thấp hèn. Thật ra, nó chi tiết hoá những gì đã đề cập đến ở chương 21, và do đó vấn đề cá nhân đã chuyển nhập vào vấn đề chung của nhân loại.
Bài của Binh-đát (25:) quá ngắn, có học giả cho rằng bản thảo bị thất lạc, đây chỉ còn lại một phần, hoặc đã mất hẳn và đây chỉ là những câu gom góp để thế cho lời Binh-đát. Có người cho rằng lời của Binh-đát gồm cả chương 25 và 26. Có ý kiến cho rằng Gióp đã tước hết lý lẽ của các bạn ông, khiến họ cạn ý không biết nói gì thêm. Chủ nghĩa giáo điều không còn điều gì mới để nói nữa.
Nếu nhận bản văn như hiện có thì bài luận của Binh-đát nhằm kêu gọi Gióp thuận phục quyền uy của Đức Chúa Trời.  Ông ta mô tả quyền năng của Đức Chúa Trời bày tỏ trong cõi tạo hoá, và nhắc đến giáo lý đã được Ê-li-pha đề cập từ đầu, là không một người nào, một vật nào có thể xem là toàn hão trước mặt Đấng Toàn Năng.
Như vậy là Gióp bị đưa trở lại vị trí cũ của ông.  Trong bài trả lời (26:), ông cố chứng tỏ cho họ thấy không phải ông không hiểu về quyền năng của Đức Chúa Trời. Cái khác biệt giữa họ và ông là ông đã thật tình nói lên những thắc mắc trong cuộc sống mà họ lờ như không biết tới.
Đầu chương 27 và 29 có hai điểm ngưng. Có lẽ Gióp đợi Sô-pha nói, nhưng họ đã hết lời nên Gióp tiếp tục lên tiếng trả lời chung cho cả ba. Gióp không mảy may nào chối cãi quyền năng của Đức Chúa Trời, nhưng ông vẫn quả quyết là ông vô tội. Sự thật là sự thật, một thần học không chịu kể điều ấy trong tiến trình luận lý là coi như hỏng hết.
Đoạn 27:7-23 có vẻ lạc lõng trong bài của Gióp, vì nó giống luận điệu của các bạn về kẻ ác hơn là luận điệu Gióp. Có học giả bàn rằng trên kia Gióp đã tranh luận với Binh-đát về quyền năng của Đức Chúa Trời, đến đây ông tỏ ra thông hiểu lẽ thật về kẻ ác cũng như các bạn ông, chỉ không chấp nhận sự võ đoán và áp dụng hẹp hòi của họ thôi. Nhưng phần nhiều cho rằng phần nầy là lời của Sô-pha, nghĩa là mỗi bạn đều nói ba lần.
Nhiều học giả nghi ngờ chương 28 không thuộc nguyên tác mà thêm vào sau nầy. Lý do là không có ý nối kết giữa chương 27 và 28, hơn nữa chương nầy mô tả và ca tụng sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời khác với nhiều chỗ Gióp nói không hiểu được Ngài. Tuy nhiên, ta nên nhớ rằng con người trong khi quằn quại đau khổ, lập trường tư tưởng của họ có thể thay đổi bất chợt.
Từ chương 29 đến 31, Gióp hướng về Đức Chúa Trời để khiếu nại lần cuối cùng trường hợp của mình, cũng là tiêu biểu cho tình trạng chung. Chương 29 tóm tắt quá khứ sang giàu của ông. Ta nhận thấy Gióp không coi quí của cải bằng sự kính trọng mà mọi người dành cho ông. Chương 30 vẽ ra sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại, và một lần nữa gây nên cảm tưởng là Đức Chúa Trời chịu trách nhiệm về sự thay đổi đó. Tuy nhiên, người đau khổ có được niềm xác tín rằng Đức Chúa Trời phải ở với mình và cuộc phân xử chắc sẽ xảy ra. Bởi vậy ông chuẩn bị một biện minh trạng trong chương 31 để ra hầu toà. Trong một vài phưong diện, nó chứa đựng những tiêu chuẩn luân lý cao nhất  Cựu Ước, vượt hẳn những điều khoản qui định trong kinh Luật. Về luân lý giới tính, nó hầu như báo trước quan điểm của chính Chúa Giê-su; Gióp không bao giờ nhìn đàn bà mà động tình tham muốn. Ông không bao giờ thi hành quyền làm chủ trọn vẹn trên các tôi tớ, vì đối với ông, họ cũng là những con người với những quyền hạn của họ. Những kẻ gặp cảnh túng cùng đói khó không bao giờ bị ông làm ngơ. Ông giàu có, đúng vậy, nhưng ông không bao giờ cậy vào của cải. Lòng trung thành của ông đối với Đức Chúa Trời không bao giờ lay chuyển, không gì  có thể cám dỗ ông chạy theo thờ lạy các thần ngoại giáo đầy dẫy chung quanh ông. Trong đối xử với bạn bè xóm giềng, ông luôn luôn giữ sự chân thật. Tóm lại ông không phạm một tội nào thường thấy trong thế giới ông sống. Với biện minh trạng đó, ông sẵn sàng ra hầu trước vị Chánh Án công chính.
Phần nói chuyện của Ê-li-hu từ 32:1-37:24 bị nhiều học giả cho là do một bàn tay khác xen vào sau nầy, vì những lý do:  a. Trong phần lời tựa và lời bạt đều không nói đến tên Ê-li-hu.    b. Ngôn ngữ cũng như văn thể của phần nầy khác với phần còn lại của sách.   c.  Bài nói chuyện của Ê-li-hu không thêm được điều gì mới cho những bài trước.
Tuy nhiên, một số học giả khác bênh vực cho tính nguyên tác của nó, cho rằng nếu nó do người thời sau thêm vào thì họ đã biết đến hoạt động của Satan trong phần lời tựa, không lẽ họ không nhắc đến chút nào sao.
Đặc tính bài nói chuyện của Ê-li-hu là không khí tôn kính sâu xa đối với Đức Chúa Trời; một quan điểm về tội lỗi sâu sắc hơn những bài nói chuyện của mấy người bạn; sự xuất hiện của Đức Chúa Trời như một vị Giáo Sư (35:11; 36:22), muốn dùng kỷ luật đau đớn để dẫn con người vào đường lối khôn ngoan hơn trong đời. Budde cho rằng chủ đích của bài nói chuyện là phơi bày một đặc tính nguy hiểm tiềm tàng trong Gióp, đó là kiêu ngạo tâm linh (33:17; 35:12; 36:22).
Sau khi đưa ra lý do buộc mình phải lên tiếng (32:1-22), Ê-li-hu trách các bạn Gióp đã không thuyết phục gì được Gióp, rồi ông trách thái độ Gióp đối với Đức Chúa Trời, và thách Gióp hãy nói lên nếu có điều gì đáng nói (33:1-33). Nhưng rồi Gióp làm thinh nên Ê-li-hu tiếp tục phân tích những lời phàn nàn của Gióp và lần lượt bác bỏ (34:1 - 35:16). Sau đó, ông ca ngợi những công tác kỳ diệu của quyền năng Đức Chúa Trời (36:1 - 37:24).
Gióp vẫn tiếp tục làm thinh. Thình lình gió cuốn mây kéo tới và trong cơn gió trốt ấy tiếng của Đức Giê-hô-va vang lên (38:1 - 41:34).  Cuối cùng ta có thể nhận được câu trả lời cho những thắc mắc của Gióp, và Gióp sẽ được minh oan.
Nhưng lạ thay, chẳng có câu trả lời nào cả!  Đức Chúa Trời không lý giải những nguyên ủy của đau khổ, cũng chẳng nhắc gì đến nhũng bất công xảy đến cho Gióp và những người lành trên thế gian. Trong một thoáng, hình ảnh của những điều kỳ diệu và huyền bí của vũ trụ vật lý kéo nhau diễn ra trước mắt ông. Trí ông lui về thời sáng tạo thế giới với bao nhiêu thứ trên trời dưới đất, trong biển. Nhưng đó chưa phải là hết; vạn vật không phải chỉ được tạo dựng mà còn được bảo trì và điều khiển bằng bao nhiêu thứ vận hành không ngừng. Gióp là ai mà dám biện luận với Đấng Tạo Hoá và Vận Hành mọi thứ đó, và đem cái tri thức thiển cận của mình mà đối chọi với Đấng Toàn Tri? Lạ một điều là những điều Đức Chúa Trời phán không có gì mới so với những điều các bạn Gióp nói và Gióp đã công nhận, chỉ khác một điều là biện luận mạnh mẽ hơn. Về mặt tri thức, nó không giải quyết được vấn đề nào cả.
Tuy nhiên, Đức Chúa Trời xuất hiện ắt phải đem lại sự thay đổi. Tất cả những hiểu biết trước kia của Gióp và các bạn ông về Đức Chúa Trời chỉ là những mò mẫm nông cạn. Ông chỉ "nghe đồn" về Đức Chúa Trời, tức là biết Ngài qua luận lý, qua những suy luận thần học, triết học. Nhưng làm sao đem trí năng hạn hẹp của con người mà chọi với sự toàn tri của Thượng Đế? Đứng truớc cái vô cùng của vũ trụ, con người cảm nhận được cái nhỏ bé vô nghĩa của mình trước Đấng Toàn Năng. Câu hỏi của Gióp đã không được giải đáp, nhưng điều Gióp đạt được còn quí hơn một giải đáp. Nó mang ông ra khỏi vòng lẫn quẫn của những phạm trù trừu tượng mà đặt ông vào một bình diện hoàn toàn mới lạ: được hội thông với Thượng Đế. Một khi đã được chạm mặt với Thượng Đế rồi thì những vấn nạn tri thức sẽ trở thành vô nghĩa. Gióp đã quên hết những nan đề của mình; đối với ông, nó đã không còn hiện hữu nữa. Những đau đớn của ông đã rơi vào hậu trường, và những cơn phấn đấu tuyệt vọng của ông đã chấm dứt. Ông đã thấy Đức Chúa Trời và nghe tiếng Ngài. Tât cả những gì khác bây giờ không còn quan trọng nữa.
Nhưng thay đổi quan trọng nhất nơi con người được trực ngộ Thuợng Đế không phải chỉ là giũ bỏ được những vướng mắc của ngã kỷ, mà là nhận chân được con người thật của mình: "Bây giờ, mắt tôi đã thấy Ngài. Vì vậy, tôi lấy làm gớm ghê tôi, và ăn năn trong tro bụi" (42:6,7). Gặp được Đức Chúa Trời Toàn Thiện Toàn Bích nhất thiết phải đem lại môt nhận thức sâu xa về tính cách hư hỏng, bất toàn, bất lực của con người mình. Đó cũng là kinh nghiệm của các bậc thánh xưa như Môi-se, Đa-vít, Ê-sai, Giê-rê-mi v.v. Câu trên là câu chìa khoá của sách Gióp. Giải pháp cho vấn đề đau khổ không nằm trong lãnh vực trí thức, mà giải quyết nội tại trong quan hệ giữa cá nhân và Đức Chúa Trời.
Phần Kết Luận bằng văn xuôi (42:7-17) thật ra không còn cần thiết lắm khi ý thơ đã lên đến tột đỉnh ở phần trên. Ở đây chỉ xác nhận lại một điều mà chúng ta đã nhận xét được khi đọc qua các bài tranh luận: Đức Chúa Trời không chấp nhận thái độ và những biện luận võ đoán của các bạn Gióp.  Và nhiệm vụ của người đã được hội thông với Đức Chúa Trời là tha thứ và cầu thay cho những kẻ hung hăng trong những thiên kiến hẹp hòi. Hậu quả đương nhiên của biến động đổi dời trong tâm Gióp là những thay đổi bên ngoài: Gióp lành bịnh, da dẻ hồng hào; tiền bạc, tử tức, công danh lại quay về với Gióp với số lượng gấp đôi.
 Câu hỏi thảo luận:
 1.     Bạn giải thích thế nào về sự hiện hữu của một Đức Chúa Trời toàn năng, nhân từ, công bình, trước những thiên tai khủng khiếp như tsunami ở Nam Á, bão Katrina ở New Orleans, động đất ở Pakistan?
2.     Hãy luận về vai trò của trí tuệ trong việc tìm hiểu Đức Chúa Trời.
3.     Sách Gióp giúp bạn nhận biết được điều gì về con người trong đau khổ?
4.     Qua các nhân vật trong sách Gióp, bạn thấy giáo điều, tín lý giữ vai trò thế nào trong nếp sống của người tin kính?



CHƯƠNG 5
THI THIÊN


I.  DẪN NHẬP
Thi Thiên đã được sử dụng trong sự thờ phượng của Cơ-đốc giáo trải qua nhiều thế kỷ. Đó là chứng cớ hiển nhiên cho thấy Thi Thiên nói lên nội tâm con người của mọi thời đại, và không có sách nào trong Cựu Ước khiến cho Cơ-đốc nhân dễ cảm thấy quen thuộc gần gũi cho bằng Thi Thiên. Trong Thi Thiên, chúng ta thấy cùng một Đức Chúa Trời được bày tỏ trọn vẹn cho chúng ta ngày nay trong Chúa Cứu Thế; chúng ta thấy những con người cũng máu huyết xác thịt như chúng ta, họ đã tìm kiếm Thượng Đế hết mình và vật lộn với những hoàn cảnh tương tợ như chúng ta ngày nay. Chúng ta cảm thấy như bị thách thức, quở trách khi thấy rằng lòng yêu mến Chúa của họ, niềm vui của họ được biết Ngài, và tinh thần sẵn sàng hi sinh vì niềm tin của họ, đều vượt xa chúng ta, mặc dầu chúng ta đã được Đức Chúa Trời yêu thương đến độ "đương khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta mà chịu chết" (Rô 5:8). Lẽ dĩ  nhiên, cũng như chúng ta sớm học biết được trong Tân Ước rằng kỷ nguyên ân điển không phải là không có luật pháp, thì trong Thi Thiên, chúng ta cũng học được rằng kỷ nguyên luật pháp không phải không có ân điển. Niềm vui thỏa và an bình trong đức tin cũng như những nỗi khổ cực mà chúng ta phải trải qua để vào Nước Trời đã từng là kinh nghiệm thiết thân của tuyển dân Do-thái xưa.
II. TÁC GIẢ VÀ BIÊN SOẠN
1.           Những Đề Chú (Superscription)
Thoạt nhìn, người ta có thể nghĩ rằng muốn biết tác giả của Thi Thiên không có gì khó, vì hầu hết mỗi bài đều có một đề chú ghi danh tánh của người mà người ta có thể tin đó là tác giả. Tên Đa-vít  được ghi trong 73 đề chú (thí dụ từ Thi Thiên 44-47); A-sáp trong 12 đề chú (như Thi Thiên 73-83) và các cá nhân khác trong Thi Thiên 88, 89, 90.
Cách đây nhiều thập niên, các học giả phái thượng phê (high criticism) chủ trương rằng phần chính của bộ Thi Thiên xuất hiện sau thời Đa-vít rất lâu, vào thời Mac-ca-bê tức là giao thời giữa Cựu Ước và Tân Ước. Nhưng công trình nghiên cứu Thi Thiên gần đây giúp chúng ta có lý do vững chắc để tin rằng truyền thống được bảo lưu trong Sử ký 16: cho thấy Đavit chính là bộ óc tổ chức đứng đàng sau các trường phái ca hát thờ phượng trong Đền Thờ. Như ý kiến của Kaufmann về Thi Thiên nói chung: "Không có Thi Thiên nào buộc phải định một thời điểm muộn hơn là Thi Thiên 137 nói lên nỗi buồn thảm của kẻ bị lưu đày" (E. Kauffmann, Tôn giáo Do-thái, 1961, tr. 311).
Dầu vậy, các đề chú vẫn không giải quyết được vấn đề tác giả. Đề chú tiếng Việt ghi là "thơ Đa-vít làm", "thơ A-sáp làm" v.v... nhưng nguyên văn là ledãwĩd không có chữ  "làm" mà chỉ có nghĩa là "thuộc về Đavit". Đối với những Thi Thiên nói lên những kinh nghiệm cá nhân thì từ nầy có thể hiểu là chỉ về tác giả (thí dụ Thi Thiên 3). Nhưng với những Thi Thiên "thuộc về con cháu Cô-rê" thì nếu hiểu đó là những bài được phân công cho họ và nằm trong bộ thánh ca do họ sử dụng, thì có lẽ hợp lý hơn. Có những đề chú như  của Thi Thiên 102 cho biết trường hợp nào thích hợp để dùng nó , cũng như các sách thánh ca ngày nay phân loại các bài thánh ca để dùng tùy trường hợp.
Học giả Weiser còn cho rằng nhóm từ "thuộc về Đavit" cũng có thể có nghĩa là "để vua Đavit sử dụng" (hay một vua thuộc giòng họ Đa-vít), nghĩa là một thi thiên dành cho vua đọc trong khi ông thi hành chức năng của vua trong cuộc thờ phượng công cọng.
Từ ngữ "thầy nhạc chánh" được dùng 55 lần, tạm hiểu như là người "trưởng ca đoàn" ngày nay. Nhóm từ "cho thầy nhạc chánh" trong nguyên văn có nghĩa là "thuộc về thầy nhạc chánh" cũng tương tự như "thuộc về Đa-vít". Nếu để ý sẽ thấy những bài có ghi "thuộc về thầy nhạc chánh" thì phía trước cũng có ghi "thuộc về Đa-vít" hay "thuộc về A-sap" v.v. (ngoại trừ Thi Thiên 66, 67). Điều nầy gợi cho ta suy đoán rằng vào một thời điểm nào đó, vị "quản nhạc đền thờ" đã sưu tập những bài ca có sẵn, và ông đã cẩn thận ghi xuất xứ của chúng. Tuy nhiên những đề chú đó không ghi tên quá một nguời; nếu những tên Đa-vít hay A-sap là tên bộ sưu tập chứ không phải tên tác giả thì ắt hẳn phải có một vài thi thiên ghi cả hai tên. Như vậy, trong trường hợp Thi Thiên 88, ta có thể hiểu rằng, người trưởng ca đoàn, khi đem thi thiên nầy vào bộ sưu tập của ông, đã ghi đề chú đại ý nói rằng: "Thi thiên nầy vốn thuộc bộ sưu tập Cô-rê, do Hê-man nguời Êt-ra-hit sáng tác."
2. Công Tác Biên Tập
Dầu cho chúng ta giả định là mình biết chắc  các nhóm Thi Thiên 3-41; 51-72 trước kia làm thành bộ "sưu tập Đavit", và những nhóm khác như các 'Bài Ca Đi Lên' gồm Thi Thiên 120-134; hay các 'Thi Thiên Ha-lê-lu-gia', 111-113; 116-118; 135; 136; 146-150 là những bộ sưu tập khác trong Thi Thiên, và các thầy nhạc chánh là những nhà soạn tập, chúng ta cũng không có cách nào biết được  bộ Thi Thiên đã được hình thành ra sao để đạt đến cách sắp xếp và tầm cỡ hiện tại.
Nhiều sự kiện kết hợp lại cho ta biết nó phát triển theo từng giai đoạn. Trước hết, các Thi Thiên 14 và 53 y hệt nhau chỉ trừ một điều là Thi Thiên trước dùng tên riêng Gia-vê (Giê-hô-va) để gọi Đức Chúa Trời của Is-ra-en, còn Thi Thiên sau dùng từ Ê-lô-him (danh từ chung chỉ Đức Chúa Trời)  trong suốt cả bài. Kết hợp với điều đó, người ta nhận xét rằng danh xưng Gia-vê được dùng hầu hết trong các Thi Thiên 3 đến41, còn Ê-lô-him được dùng từ Thi Thiên 42 đến 83. Nếu bảo rằng một nhà biên tập đã đưa hai Thi Thiên giống nhau vào trong tuyển tập của mình thì đó là điều vô lý, như vậy ta phải cho rằng có hai nhà biên tập khác nhau mà một người đã làm việc trong một hoàn cảnh phải tránh dùng tên riêng của Đức Chúa Trời. Ta có thể nghĩ là hoàn cảnh tương tợ đã khiến cho có những Thi Thiên giống nhau như 70 với 40:13-17; 103 với 57:7-11 và 60:5-12. Thứ hai, như chúng ta đã ghi nhận ở trên, Thi Thiên 79:20 chắc vốn là một chú thích của nhà biên tập đánh dấu việc hoàn thành công tác biên tập các Thi Thiên Đavit (theo như chúng ta biết cho đến bây giờ). Thứ ba, nhìn qua số lượng các Thi Thiên Ha-lê-lu-gia, người ta thấy các bài ca ấy không được qui vào một mục riêng nhưng nằm rải rác ở phần sau sách Thi Thiên. Điều nầy cho ta thấy đó là một tiến trình thành hình từng phần hơn là một công tác biên tập duy nhất theo một đường lối cố định. Điều thứ tư cho thấy sự phát triển của Thi Thiên thiếu hẳn một đường lối biên tập đơn thuần bao quát, là những lời hướng dẫn về âm nhạc và nghi thức thờ phượng không được đồng nhất (thí dụ từ ngữ Sê-la). Những từ ấy không phân phối đồng đều trong các Thi Thiên. Từ 'Sê-la' xuất hiện 67 lần trong các Thi Thiên từ 1 đến 89, nhưng từ đó trở đi chỉ có 4 trường hợp mà thôi.
3. Thi Thiên và Công Cuộc Tế Tự
Sự tiến bộ trong công cuộc nghiên cứu sách Thi Thiên trong thế kỷ nầy là nhờ khảo hướng cố gắng đưa mỗi Thi Thiên vào đúng hoàn cảnh phát sinh ra nó. Herman Gunkel, một học giả có uy tín và ảnh hưởng, đã xếp loại các Thi Thiên và đặt nền tảng để những người khác dựa vào đó mà xây dựng công tác nghiên cứu. Ông đã làm việc trong khoảng thời gian từ năm 1900 đến 1926.
Qua công trình khảo cứu của ông, người ta tin rằng các Thi Thiên thuộc trong khuôn khổ ca nhạc hay tế lễ Do-thái cổ đại. Thường thường các Thi Thiên tự chúng đã phô bày  khuynh hướng lễ bái: chúng nói lên sự vui thỏa của những người được ở trong nhà Đức Chúa Trời (84:10); chúng thấy con đường đưa đến sự hiện diện của Đức Chúa Trời là "núi thánh", "nơi ở của Chúa" và "bàn thờ Đức Chúa Trời" (43:3,4); chúng cũng có cả những chỉ dẫn về cách tế lễ (118:27); chúng thấy sự kính yêu Chúa trong lòng cần phải được bày tỏ bằng những hành động tôn giáo bên ngoài (116:13, 17, 18). Có kẻ cho rằng Thi Thiên chống lại việc dâng sinh tế, nói vậy là thiếu căn cứ. Những câu hỗ trợ cho ý ấy (50:13, 14) dùng trong trường hợp người ta lãng quên điều chính yếu trong thờ phượng (50:5; xem thêm Thi Thiên 51:). Ngày nay, người ta nhìn nhận rằng Thi Thiên hầu như không chút nào chống lại việc dâng của lễ, mà trái lại, nó bắt nguồn từ nhu cầu tế lễ. Cho nên, cũng như mọi phần khác trong Cựu Ước, Thi Thiên nhấn mạnh việc dâng sinh tế là một hành động bề ngoài phải phản ảnh chính xác tình trạng bên trong tấm lòng người dâng tế. Câu "phải dâng sự công bình làm của lễ" thật ra có nghĩa là phải có một thái độ đúng đắn khi dâng của lễ.
Những chú thích cổ ngữ nằm trong các đề chú của Thi Thiên cũng liên kết chặt chẽ Thi Thiên với công việc tế lễ và chỉ cho biết cách dùng Thi Thiên thế nào cho thích hợp trong buổi thờ phượng công cọng. Đó là những từ 'thi thiên' (trong Thi Thiên 3 và 55 chỗ khác), 'bài ca' (Thi Thiên 30 và 13 chỗ khác), 'lời cầu nguyện' (Thi Thiên 45 và 4 chỗ khác) – trong Kinh Thánh tiếng Việt, tất cả đều dịch là ‘thơ’–, 'ca ngợi' (Thi Thiên 145) và 'để dạy dỗ' (Thi Thiên 60), những từ nầy tự chúng đã rõ nghĩa. Có ba từ không biết chắc nghĩa là gì: 'Shiggaion' có lẽ nghĩa là điếu văn (Thi Thiên 7; xem Ha-ba-cuc 3:1 – Kinh Thánh tiếng Việt dịch là ‘thi ca’); 'Miktam (Thi Thiên 16; 56-60 –Kinh Thánh tiếng Việt dịch là ‘chớ phá hủy’), có người liên kết từ đó với từ 'vàng' chỉ sự quí giá, nhưng nhiều người khác liên kết với từ 'che phủ' và cho rằng nó dùng cho lễ chuộc tội, hoặc chỉ sự che chở khỏi quân thù; 'Maskil' (Thi Thiên 32 và 12 chỗ khác –bản tiếng Việt dịch là ‘để dạy dỗ’) liên kết với một động từ có nghĩa là 'sáng suốt', như vậy có thể có nghĩa là 'bài thơ giáo huấn'.  Một nhóm khác dùng những chữ có vẻ chỉ về thể thức âm nhạc trong thờ phượng như: 'dùng về ống quyển' (Thi Thiên 5); 'dùng về đờn dây' (Thi Thiên 4); 'Sheminith' (Thi Thiên 6 và 12 chỗ khác –bản tiếng Việt dịch là ‘theo giọng trầm’) có lẽ chỉ nhạc cụ 'tám dây' hay 'tám khổ thơ'; 'Ghitit' (Thi Thiên 8; 81; 84 –bản tiếng Việt dịch là ‘nhạc khí Ghi-tit’) có thể liên hệ tới từ ngữ 'ép nho, như vậy là chỉ một loại nhạc vui dùng trong các buổi hội hè. Một từ khác hoàn toàn không thể giải thích được mà lại rất thường gặp, đó là 'Sê-la' (Thi Thiên 3:2,4,8; tất cả 71 lần). Nó dường như là một thuật ngữ, nhưng không hiểu qui vào đâu: cho âm nhạc hay giọng của người xướng, hay lời họa đáp của hội chúng. Cho đến nay, những thắc mắc ấy vẫn chưa giải quyết được. Nó có thể liên hệ đến một động từ có nghĩa "tăng cường", như vậy tức là "cất cao giọng", cho nhạc mạnh lên, hay chuyển giọng cao hơn; hoặc một từ ngữ khác có nghĩa "ngưng nghỉ", như thế có thể đó là "âm nhạc xen kẽ" hay là "giờ suy niệm"; hoặc có thể là lối chiết tự ba chữ đầu "s-l-h", có nghĩa là "đổi giọng" hay "lặp lại". Cuối cùng, nhiều đề chú Thi Thiên hình như gợi ý nên dùng giai điệu nào cho thích hợp (9; 22;45; 46; 53; 56; 57; 60; 80; 88). Tất cả những điều trên đều chỉ ra một điều là Thi Thiên nằm trong môi trường và khung cảnh thờ phượng.

III.  NHỮNG  LUẬN ĐỀ CỦA  THI THIÊN
Ta hãy thử cố gắng đưa ra môït bản tóm lược những lĩnh vực dạy dỗ phong phú đa dạng của các Thi Thiên với hi vọng rằng, khi tham khảo các vần thơ thánh, độc giả sẽ tìm được đề tài thích ứng mà mình quan tâm.
Một trong những nét đặc trưng của các Thi Thiên là mặc dầu phần lớn đó là những lời chứng cá nhân, và đa số dùng danh xưng đại danh từ ngôi thứ nhất (tôi, ta, chúng ta), nhưng ấn tượng lưu lại rõ ràng nhất không phải là về con người mà là về Đức Chúa Trời. Trên khía cạnh nầy, Thi Thiên là Cựu Ước thu hẹp. Những bài thơ thánh ấy xác quyết Đức Chúa Trời là đấng Tạo Hóa (8; 104), nhưng ở đây không phải là quan niệm trừu tượng về sự hình thành thế giới, mà xem thế giới là cơ sở cho sự tể trị quyền phép, sinh động của Ngài như là vị vua của cả muôn vật (29; 96-99). Thi Thiên luôn luôn nhấn mạnh sự tể trị công bình của Đức Chúa Trời (11; 75), nhưng trong bài ca bày tỏ niềm hân hoan chúc tụng vị vua thiên thượng quyền uy (145), chúng ta thấy ba yếu tố công bình, vĩ đại và nhân từ bện lại thành sợi dây ba tao (xem thêm 146). Phước lành của Ngài (34) không tách rời khỏi sự thánh thiện Ngài (103), điều đó có thể thấy rõ qua cơn phẫn nộ của Ngài (38). Ngoài ra, có hai chân lý kết hợp song hành, đó là sự tể trị phổ thông của Đức Chúa Trời trên toàn vũ trụ (67), và sự lựa chọn cá biệt dân tộc Do-thái (87). Hai chân lý ấy còn được nối kết qua vị vua Mêt-sia, chẳng những là vị vua tế lễ thuộc giòng Đavit, mà còn được hứa sẽ trị vì thế giới (2; 72).
Đức Chúa Trời là Đấng Chăn Chiên cho toàn dân (80) mà cũng cho cá nhân nữa (23). Đó chính là điều kiện tạo cơ sở cho người ta tin cậy nơi một mình Đức Chúa Trời để được giải cứu(16; 25; 31), nhận thấy sự quan tâm chăm sóc của Ngài đối với những kẻ thuộc về Ngài (3; 27; 57; 90; 91); nhưng đồng thời nó cũng làm nẩy sinh thắc mắc, như sự quan phòng thiên thượng, nghịch cảnh thừơng xuyên của dân Đức Chúa Trời, của cá nhân (10; 12; 37; 73; 77; 78) cũng như tập thể (44; 74; 80). Khi nhận diện sự kiện ấy – sự kiện dân Đức Chúa Trời cũng phải chịu đau khổ và thù địch (54; 55; 56) – chúng ta phải hiểu mối quan hệ hữu cơ giữa sự công bình và sự thịnh vượng nói trong Thi Thiên 1. Đây không phải là lời làm chứng về một kinh nghiệm thường hằng, nhưng là một tuyên ngôn đức tin, khẳng định rằng Đức Chúa Trời chúng ta là tốt lành, không có Đức Chúa Trời nào khác, do đó, người công bình hẳn phải được phước hạnh.
Kinh nghiệm về nghịch cảnh và sự thù địch đưa đến những lời tố cáo gay gắt đối với kẻ thù, khiến cho những lỗ tai nhạy cảm của Cơ-đốc-nhân cảm thấy khó chịu. Thường thường người ta chỉ việc xếp loại Thi Thiên nầy vào số bị lên án, cho rằng đó là bằng chứng cho thấy sự khải thị của Chúa Cứu Thế rất cách biệt với Cựu Ước, ngay cả với những người tốt nhất. Thật vậy, Cơ-đốc-nhân làm sao có thể cảm thông với ý muốn tiêu diệt tức thời kẻ cừu địch (35:8), muốn cho chúng chết thình lình (55:15), bẻ răng của chúng (58:6), cho chúng chịu cơ cực (109:10), con cái chúng bị sát hại (137:9) được!
Tuy nhiên, nếu chỉ xem những đoạn ấy như là "đạo đức Cựu Ước" thì hơi bất công, vì, thứ nhất, lời cầu nguyện tương tự và cả sự vui mừng vì kẻ địch bị hại cũng có trong Tân Ước (Ga-la-ti 1:8,9; Khải 6:10; 18:20; 19:1-6); thứ hai, Cựu Ước cũng dạy bổn phận phải yêu thương giống như Tân Ước (Lê-vi -ký 19:17-18), cũng dạy Đức Chúa Trời ghét kẻ làm ác (Thi Thiên 5:6), và nên lấy lành trả dữ (Thi Thiên 7:5; 35:12-14); thứ ba, hầu hết các thi thiên có lời nguyền rũa đều chứa đựng những tình cảm mà người Cơ-đốc đáng phải có: trong Thi Thiên 71 chẳng hạn, trái với những lời hằn học trong câu 13, ta thấy từ câu 2-7 nói về kinh nghiệm biết Đức Chúa Trời, c. 19 nói về sự tôn thờ và các câu 8, 15, 16, 18 nói về ý muốn làm chứng.
Nếu đánh giá vấn đề cách tích cực hơn, thì cần nên nhớ rằng tất cả những thi thiên có tính cách xúc phạm đến kẻ khác đều là những lời cầu nguyện. Không có chỗ nào nói đến chuyện thực sự đụng chạm kẻ thù dù bằng lời nói hay việc làm. Những người bị ngược đãi đều chạy đến Đức Chúa Trời, dầu họ có phát biểu mạnh bạo thật, nhưng điều cơ bản là họ quyết tâm trao mọi việc cho Đức Chúa Trời, và đó là hướng hành động mà Cơ-đốc nhân cần nên theo (Rôma 12:19). Niềm tin tưởng rằng Đức Chúa Trời sẽ hành động là căn cứ trên một thực sự: Đức Chúa Trời là Đấng đoán xét công bình (xem Thi Thiên 7, trong đó lời nguyền rủa nơi câu 6 dựa trên căn bản thần học của các câu 11-13).  J. R. W. Stott bình luận rất hữu lý rằng: "Tôi thấy không khó gì mà tưởng tượng lại những hoàn cảnh trong đó người thánh của Đức Chúa Trời vừa kêu nài với Đức Chúa Trời xin báo thù vừa khẳng định sự công bình của họ. Vì Đức Chúa Trời đoán xét kẻ tội lỗi chai lì, nên một người thật sự tin kính Chúa sẽ mong muốn Ngài làm như vậy mà vẫn không gợn lên chút hận thù cá nhân nào."
IV.  ĐẶC ĐIỂM CỦA THI THIÊN
1. Thi Thiên, Những Lời Nguyện Cầu
Theo John F. Craghan, sách Thi Thiên là bộ sách của những lời cầu nguyện. Mặc dù không ai có thể tìm ra tác giả và bối cảnh nguyên thuỷ của những lời cầu nguyện trong đó, sách Thi Thiên vẫn luôn luôn là quyển sách cầu nguyện của dân Do-thái. Những lời đó là tinh tuý chắt lọc từ những giao ngộ giữa họ với Thượng Đế, với các dân tộc khác, và với chính họ trải qua nhiều thế kỷ. Chúng diễn tả những thành công thất bại của Is-ra-en dưới hình thức những lời cầu nguyện. Thật ra, chính cái vô danh của tác giả và xuất xứ của chúng là một điểm lợi. Thay vì  diễn tả chỉ một lần cho một trường hợp duy nhất, Thi Thiên trở thành lời cầu nguyện tiêu biểu cho mọi kinh nghiệm sống của Is-ra-en.
Thi Thiên cũng là những lời cầu nguyện của chúng ta. Việc Thi Thiên được kinh điển hoá vào hàng ngũ Thánh Kinh cho ta thấy giữa kinh nghiệm của Is-ra-en và của chúng ta có những điểm chung. Những lời cầu nguyện của Thi Thiên đối phó với những nan đề và hoàn cảnh của con người bằng một phương thức tiêu biểu. Chúng dùng những biểu tượng như nước, ánh sáng, và khoảng không gian, là những thứ có tính cách siêu văn hoá. Bởi vậy, lời cầu nguyện của đền thờ và hội đường Do-thái cũng là lời cầu nguyện của hội thánh nữa. Như vậy lịch sử Do-thái giao hoà với lịch sử hội thánh và lịch sử cá nhân chúng ta.
Căn bản của lời cầu nguyện Is-ra-en cũng như của chúng ta là giao ước. Giao ước có thể định nghĩa là mối liên hệ giữa hai bên được ràng buộc với nhau bằng nghĩa vụ đạo đức. Tuy nhiên, liên hệ nầy không phải chỉ giữa một người với một người, mà là một liên hệ tam giác: Gia-vê (Đức Giê-hô-va), cộng đồng, và cá nhân. Giao ước cũng như lời cầu nguyện dựa trên giao ước là một công tác nguy hiểm. Nó tiên định rằng chỉ khi nào cá nhân có bao gồm cộng đồng thì mới có thể thực sự tương giao với Thượng Đế. Ngay cả một lời cầu nguyện riêng tư, mật thiết nhất của cá nhân cũng nối chặt với lợi ích của cộng đồng.
Thi Thiên là lời cầu nguyện thờ tự. Theo khám phá của S. Mowinckel, Thi Thiên  nào có chữ "tôi" của tác giả tương ứng với "chúng tôi" của cộng đồng, là Thi Thiên được dùng trong sự thờ phượng của cộng đồng. Đó không phải là những sáng tác bất chợt của những cá nhân thi sĩ tài ba, mà là công tác của nhiều văn thi gia lớn trong Is-ra-en đã trở thành gia tài của sự thờ phượng cộng đồng. Như vậy, nói chung, Thi Thiên được viết ra là để dùng cho nghi lễ thờ phượng Do-thái. Nhận định đó không hạ giá lời cầu nguyện cá nhân chút nào, mà cho thấy lời cầu nguyện như vậy phải nằm trong vòng cộng đồng. Lời cầu nguyện thuần vị kỷ là một lời cầu nguyện lố bịch.
Thi Thiên là thơ, không phải là văn xuôi. Đặc tính chính của thơ Do-thái là sự song đối tức là nhịp điệu về ý nghĩa, như đã nói ở chương đầu. Khi ta đem áp dụng loại thơ nầy vào lời cầu nguyện của chúng ta, rất có thể ta sẽ thấy nó chõi lại với lối diễn đạt niềm tin ta thường thấy trong sách vở thần học tây phương, vì ngôn ngữ thần học của tây phương thiên về ý niệm trừu tượng nhiều hơn. Họ thích diễn đạt niềm tin bằng những định nghĩa giáo lý hơn diễn tả bằng những hình ảnh cụ thể. Chẳng hạn họ thích nói "Đấng Toàn Năng luôn quan phòng sẽ không để cho tạo vật của Ngài chịu bơ vơ thiếu thốn" hơn là "Đức Giê-hô-va là đấng chăn giữ tôi, tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì" (Thi 23:1). Họ sẽ nói "Thượng Đế Chí Cao đáng được tôn thờ" thay vì  "Hãy đánh trống cơm và nhảy múa, mà hát ngợi khen Ngài! Hãy gảy nhạc khí  bằng dây và thổi sáo, mà ca tụng Ngài" (Thi 150:4). Westermann nhận xét rằng thần học tây phương nói về Đức Chúa Trời trong khi Thi Thiên nhất là những bài ai ca (laments) thì nói với Đức Chúa Trời. Từ thần học đi vào Thi Thiên, ta ra khỏi thế giới ý niệm trừu tượng mà bước vào thế giới hình ảnh và biểu tượng để tham dự vào cuộc nguyện cầu của các thi sĩ  Do thái, góp tiếng lòng của ta vào bản hoà ca của ngợi tụng và khẩn đão.
Khi cầu nguyện bằng Thi Thiên, ta chia xẻ kinh nghiệm của thi sĩ về một giao ngộ đích thực với Thượng Đế. Khi truyền đạt kinh nghiệm đó, thi sĩ tránh dùng lý luận, mà thích dùng hình ảnh và biểu tượng để tăng cường sức truyền cảm. Chính những hình ảnh biểu tượng đó nói hộ những nhu cầu cầu nguyện cho ta. Chúng ta như bị cảm hứng của thi sĩ thôi thúc chúng ta hoà nhập với những giòng chữ sáng tạo của người. Đồng thời, những giòng chữ đó trở thành một đòn bẩy tung chúng ta đến hoàn cảnh cá biệt của chúng ta. Những lời thi sĩ  mô tả về sự kinh ngạc, sợ hãi, yêu thương, ghét bỏ v.v.. trở thành lời đặc biệt của chúng ta khi chúng ta để chúng nó đụng vào thế giới riêng tư của chúng ta. Qua đó, ngôn ngữ phổ quát của hình ảnh biểu tượng được cụ thể hoá trong hoàn cảnh cá biệt của chúng ta. Khơi động cái thi hứng đang ngủ yên trong ta là làm phong phú sự cầu nguyện của ta.
2.  Biến thiên của cuộc sống
Trong một thiên khảo luận sáng giá, học giả W. Brueggemann đào sâu vấn đề công dụng của sách Thi Thiên. Đồng ý rằng có nhiều thể loại Thi Thiên khác nhau tương ứng với từng hoàn cảnh sinh hoạt riêng biệt, ông nêu lên câu hỏi rằng dân Do thái làm ra những lời cầu nguyện đó có dụng ích gì. Vì rằng các truớc giả Thi Thiên đều là những bậc thông minh làm việc có qui củ, vậy họ muốn thực hiện điều gì ở đây?
Brueggemann nhận xét rằng phần lớn các Thi Thiên thích ứng với từng giai đoạn khác nhau của kinh nghiệm sống tâm linh. Ông cho rằng đời người là một chuỗi biến thiên. Có những lúc chúng ta thấy đời sống thật quân bình, bằng phẳng. chẳng có gì làm cho ta sửng sốt bàng hoàng. Quá khứ mang cho chúng ta một cảnh an ninh bình lặng. Đời sống chỉ có quân bình và hài hoà, khiến cho ta tin rằng: "Có Thượng Đế ở trên trời cao, thì thế giới nầy bình an vô sự."  Thế rồi có những lúc cả cái thế giới an ninh sung mãn kia hoàn toàn sụp đổ. Định luật đã từng được thử thách trong quá khứ nay chẳng còn công hiệu nữa. Chúng ta cố gắng xây dựng lại thế giới của chúng ta theo đường lối cũ. Kết quả là chỉ ruớc thêm thất vọng chán chường. Nhưng rồi tuỳ mức độ buông dãn của chúng ta, chúng ta tiến đến chỗ sẵn sàng nhận vào một cái gì mới mẻ cho đời sống chúng ta. Không phải cái mới dựa trên cố gắng của chúng ta hay do những hiểu biết của chúng ta qui định, mà là một món quà của hồng ân thiên thượng. Nếu chúng ta sẵn sàng mạo hiểm đi vào một thế giới xây dựng trên những tiền đề mới, chúng ta sẽ thắng được sự nản lòng thối chí, nhờ tìm đến lời hứa của Đấng Siêu Việt. Lúc ấy chúng ta tái lập được những gì đã có khi trước, tuy nhiên ta đã trở thành một người khác. Chúng ta đã trải qua một cuộc suy sụp đổi dời, giờ đây những giá trị và quan niệm của chúng ta đã chuyển đổi. Brueggemann gọi ba giai đoạn đó là: (a) định hướng (orientation); (b) vô định hướng (disorientation); (c) tái định hướng (reorientation).
Sách Gióp là một thí dụ cho ba giai đoạn nầy. Trong phần mở đầu (Gióp 1-2), Gióp là một mẩu mực đạo đức, ông sống trong một thế giới an ninh có đầy đủ mọi nhu cầu, hầu như không một tai hoạ nào có thể xâm nhập được. Đó là thời kỳ định hướng của Gióp. Nhưng rồi đến chương 3, quân bình của cuộc sống Gióp bị gãy đổ. Cái hữu lý đã thuộc về quá khứ. Đây là lúc dành cho những lời đả kích, mỉa mai trong phần đối thoại bằng thơ (3:27 - 31:).  Thế giới của Gióp sụp đổ và ông thử xây dựng lại bằng thứ thần học định hướng của ông, nhưng ông hoàn toàn mất định hướng. Cuối cùng đến phần kết bằng văn xuôi (42:7-17) Gióp thay đổi. Ông vươn lên để tiếp nhận cái mới mẻ không dựa vào phạm trù trước kia của ông. Ở đây, Gióp được tái định hướng.
Brueggemann cho rằng sách Thi Thiên là một nổ lực sắp các thi thiên theo loại, dựa vào vị trí của chúng ta (hay cộng đồng chúng ta) trong tiến trình định hướng –  vô định huớng –  tái định hướng. Thuộc về loại định huớng là những thi thiên ca ngợi có tính cách mô tả (2:), thi thiên tin cậy (3:), thi thiên khôn ngoan (4:), và thi thiên hoàng vương (5:). Thuộc loại vô định hướng có các bài ai ca của cá nhân lẫn cộng đồng (5:). Cuối cùng là loại tái định hướng gồm những bài cảm tạ hay thi thiên ca ngợi tung hô, của cả cá nhân và cộng đồng (7:).
Câu hỏi thảo luận:
1.     Từ những dữ kiện có được trong các bài thi thiên, bạn hãy suy ra tiến trình thành hình bộ Thi Thiên.
2.     Từ những dữ kiện có được trong các bài thi thiên, bạn hãy suy ra tiến trình thành hình bộ Thi Thiên. không? Tại Sao?
3.     Hãy thuật lại kinh nghiệm một lúc nào đó bạn đọc một bài thi thiên và cảm xúc như bài đó chính là lời cầu nguyện của mình.
4.     Theo Brueggemann, sách Thi Thiên được sắp loại như thế nào?



CHƯƠNG 6
THI THIÊN (2)


V.  BỘ CHÁNH KINH NĂM SÁCH THI THIÊN
1. Tên
Tên Thi Thiên, trong Thánh Kinh Công Giáo được dịch là Ca Vịnh hay Thánh Vịnh có lẽ đúng nghĩa hơn, vì tiếng Anh là psalm dịch từ chữ gốc Hi-lạp psalmos và chữ Do-thái mizmor có nghĩa là một bài hát có nhạc khí kèm theo. Thật ra, không phải tất cả các thi thiên đều dùng với nhạc khí, như thi thiên 119 chẳng hạn. Sách Thi Thiên trong tiếng Do-thái gọi là tehilim, một danh từ số nhiều ra từ động từ halal có nghĩa là "ca ngợi". Chữ ha-lê-lu-gia cũng ra từ chữ gốc nầy, có nghĩa là "Ca ngợi Gia-vê (Đức Giê-hô-va)". Cũng nên nhớ rằng không phải tất cả thi thiên đều là thánh ca ca ngợi. Trong thời Tân Ước, tên Thi Thiên đã được dùng phổ thông hơn là Thánh Ca. Vào ngày Chúa nhật Phục Sinh, Chúa Giê-xu đã nói với các môn đồ đang lo âu rằng: " 'Mọi điều đã chép về ta trong Luật Môi-se và các sách tiên tri và Thi Thiên phải được ứng nghiệm.' Rồi Ngài mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh" (Lu 24:44-45).
Câu nói đó cho ta thấy vị trí của Sách Thi Thiên trong Thánh Kinh Do-thái. Phần thứ ba bắt đầu bằng các thi thiên. Ngay từ khi bộ Thánh Kinh Do-thái chưa được tập họp thành bộ sách duy nhất, người Do-thái đã phân chia các thánh thư ra thành ba phần chính: sách luật pháp hay năm sách của Môi-se, các sách tiên tri gồm những sách xưa như  Giô-suê, Các Quan Xét, Sa-mu-en và Các Vua, và những sách sau nầy, trong đó có ba sách tiên tri lớn (Ê-sai, Giê-rê-mi và Ê-xê-chien) và mười hai sách tiên tri nhỏ, và các sách văn thơ bắt đầu bằng Thi Thiên.
2. Năm Sách Thi Thiên
Bản văn Do thái và tất cả những bản dịch sau nầy đều gồm có 150 thi thiên, chia làm năm sách. Bản Bảy Mươi Hi-lạp có thêm Thi thiên 151 nhưng ghi chú trên phần đề mục: "một thi thiên chính gốc của Đa-vít nhưng không nằm trong số [150 thi thiên được thần cảm]." Con số 150 đạt được phần nào có tính cách cưỡng ép và bí hiểm. Chúng ta hoàn toàn mù tịt ở điểm nầy! Có khi bản văn Do thái và Hi lạp chia một thi thiên ra làm hai (Thi 42-43). Bản Do-thái làm như vậy cho Thi Thiên 9-10, còn bản Hi-lạp lại ghép Thi Thiên 114 và 115 làm một và gọi đó là Thi Thiên 113. Trong cả hai bản Do-thái và Hi-lạp, Thi Thiên 13 trùng với Thi Thiên 52. Tuy nhiên, con số 150 là bội số của 5, đó là con số thiêng liêng, tương ứng với năm sách Môi-se trong kinh Torah. Có thể cách sắp xếp nầy đã có từ thời Ê-xơ-ra (428 TC), tương ứng với chu kỳ ba năm đọc năm sách Môi-se. Có  thể là Năm Sách Môi-se và 150 Thi thiên đã được đọc theo một vòng lịch từng ba năm một.
Trong khi nghiên cứu cách sắp đặt các thi thiên trong năm sách, có vài nhận xét lý thú như sau đây.
Tên gọi Đức Chúa Trời ngoài tên thường dùng là Gia-vê (Đức Giê-hô-va)  còn có tên Ê-lô-him được dùng rất nhiều từ chương 42 đến 47:
·        Sách I,   Thi 1-41,  Gia-vê 272 lần;   Êlôhim 15 lần    
·        Sách II    42-72,    Gia-vê 30 lần;     Êlôhim 164 lần
·        Sách III,   73-89,    Gia-vê 44 lần;       Êlôhim 43 lần
·        Sách IV,   90-106,  Gia-vê 103 lần;  Êlôhim không có
·        Sách V,    107-150 Gia-vê 236 lần;       Êlôhim 7 lần
Cuối mỗi sách có một hay hai câu tôn vinh ca ngợi, dầu có khi đang rên siếc, như ở chương 89. Đó là các câu 41:13; 72:18,19; 89:52; 106:48). Thi thiên 150 sau chót là bài tôn vinh kết thúc cho cả sách.
Từ Thi thiên 42 trở đi, có một nổ lực nhằm thay thế tên Gia-vê của Đức Chúa Trời bằng tên Ê-lô-him, và kéo dài tới Thi thiên 83; vì lý do đó nên các thi thiên nầy còn được gọi là Sách Thi Thiên Ê-lô-hit. Hình như có hai lực lượng đối nghịch nhau. Tên Gia-vê luôn luôn được dùng ở miền Nam mà trung tâm là Giê-ru-sa-lem; còn tên Ê-lô-him liên hệ đến miền Bắc là vương quốc Is-ra-en. Sau thời kỳ lưu đày, ở Giê-ru-sa-lem người ta kiêng không xướng tên Gia-vê của Đức Chúa Trời nơi công cọng để tỏ lòng tôn kính. Thay vào đó, người ta dùng chữ adonai (Chúa chúng ta) trong đền thờ hay hội đường, và chữ ha-shem ở bên ngoài những nơi thánh. Việc dùng tên Gia-vê rất nhiều trong sách Thi Thiên chứng tỏ Thi Thiên đã có từ lâu, và việc đổi tên Ê-lô-him cho thấy vai trò của đền thờ Giê-ru-sa-lem trong việc bảo vệ sách.
3. Các sưu tập ban đầu
Năm sách Thi Thiên được sưu tập như thế nào thì không có cách gì biết được, nhưng ta có thể ghi một ít nhận xét tổng quát. Có 97 thi thiên có ghi tên, phần lớn tập trung ở ba sách đầu. Tên được ghi nhiều nhất là Đa-vít (73 trong bản Do-thái và 82 trong bản Hi lạp Bảy Mươi), rồi đến Cô-rê (12 thi thiên) và A-sáp (12 thi thiên). Những thi thiên Đa-vít phần lớn ở sách đầu, những thi thiên A-sap và Cô-rê ở hai sách kế tiếp. Như vậy, các thi thiên Đa-vít hợp thành nhóm thi thiên đầu tiên, sau đó các thi thiên Cô-rê và A-sáp đựơc thêm vào. Hơn nữa, dường như trong hai sách đầu, thi thiên Đa-vít giữ phần chủ chốt, trong đó một thi thiên về sự đăng quang của vị vua dòng Đa-vít (Thi. 2) được đặt ở đầu sách (Thi. 1 thêm vào sau để làm lời mở đầu cho cả bộ sách 150 bài), và cuối sách thứ hai ghi lời kết luận: "Bài cầu nguyện của Đa-vít, con trai Y-sai đến đây chấm dứt" (Thi 72:20). Quyển ba chấm dứt với bài ai ca về sự mất ngôi của dòng vua Đa-vít (Thi. 89).
Các thi thiên trong Quyển Bốn và Quyển Năm của sách hầu hết đều không có tên, dầu rằng có một số sưu tập của thi thiên Đa-vít lại xuất hiện ở cuối sách (Thi 108-110; 138-145). Đặc biệt trong quyển chót ta thấy có hai nhóm: những bài ca đi lên (Thi 120-134) cho những khách hành hương đến hay từ Giê-ru-sa-lem; và những thi thiên Ha-lê-lu-gia hay Hallel (111-118; 135-136; 146-150). Nhóm sau nầy lấy ra từ phần nghi lễ của đền thờ.
Kết luận lại, bộ sưu tập Thi Thiên lớn ban đầu là ở dưới ảnh hưởng của Đa-vít và gồm phần lớn là những lời cầu nguyện nói với tư cách cá nhân, trong một thời kỳ đau buồn, và có thể đã được dùng trong phụng tự, khi chưa có đền thờ; sau đó thêm vào hai bộ sưu tập Lê-vi của Cô-rê và A-sáp, trong bối cảnh đền thờ. Đến đây thì ba sách đầu thành hình. Tiếp theo là Quyển Bốn, sách ngắn nhất trong các sách; các thi thiên trong quyển nầy hầu hết là vô danh (90-106). Quyển Bốn phần nào giống như phụ lục vào ba quyển đầu, cũng như các phần phụ lục trong các sách khác của Kinh Thánh (II Sa. 21-24; Ês 36-39). Cuối cùng là một loạt thi thiên ca ngợi trong đền thờ, bộ sưu tập Hallel hay Ha-lê-lu-gia, kết hợp với một số thi thiên khác để làm thành Quyển Năm.
4.  Bản Văn
Các học giả cho rằng bản văn của sách Thi Thiên là tệ nhất trong các  bản văn của Thánh Kinh Do thái. Ta sẽ thấy ngay những khác biệt khi so sánh những thi thiên tương tự, như  Thi. 14 & 53; 40 & 70; hay Thi 96, 105 & I Sử 16. Cùng một thi thiên của Đa-vít ghi lại trong Thi 18 và II Sa 22 có đến hơn 100 chỗ sai biệt. Ngay cả những thi thiên hoàng vương Đa-vít quan trọng như Thi 2 & 110 cũng có những nghi vấn nghiêm trọng trong bản văn. Bản văn Do thái của Thi 141:5-7 hầu như không thể dịch được. Có lẽ các thi thiên bị sai lệch vì được dùng nhiều quá, tình trạng bản văn bị tơi tả là do hội chúng thường xuyên dùng chúng trong lễ nghi và các nhóm tư gia dùng để cầu nguyện. Điều không may là tình trạng cổ bản Hi-lạp là bản Bảy Mươi còn tệ hơn cả bản văn Do-thái.

VI. CÁC THỂ LOẠI THI THIÊN
Theo khảo hướng của Hermann Gunkel, các học giả sau nầy như Claus Westermann, nhất là Sigmund Mowinckel cố thử  xây dựng lại bối cảnh nghi lễ thờ phượng của các thi thiên, nhưng đây là một địa hạt hết sức mơ hồ, chẳng những vì phải tháo gỡ sắp xếp các bằng chứng rải rác trong và ngoài Kinh Thánh mới có được chút hiểu biết về đền thờ Cựu Ước, mà còn vì những bàn tay san định sau cùng như ta thấy trong đề tựa ghi trên các thi thiên của ba sách đầu, cũng không đề cập gì nhiều đến những hoạt động hội hè và nghi lễ.
1.  Thi Thiên Ca Ngợi
Loại thi thiên nầy chú trọng vào cuộc sống và niềm vui. Vì Đức Chúa Trời của Is-ra-en là một Đức Chúa Trời sống đã ban cho người dân chẳng những sự sống mà còn là sự sống có giá trị cao quí, với tình thương và lòng biết ơn, cho nên họ đáp lại Gia-vê bằng những thánh ca ngợi tụng là điều rất tự nhiên.
Chúng ta định nghĩa ca ngợi là sự tung hô hết mình những hành động cứu chuộc của Đức Chúa Trời đang tiếp tục giữa vòng dân Chúa. Theo định nghĩa nầy, ca ngợi không đem cho Đức Chúa Trời cái gì cả mà là vui mừng biểu lộ những gì Đức Chúa Trời đã làm và đang tiếp tục làm cho dân Ngài. Nếu ca ngợi có mang lại điều gì cho Đức Chúa Trời, thì điều đó đã do Ngài ban cho trước. Đức Chúa Trời hành động trước, khi Ngài nghe tiếng kêu than thống khổ của dân Ngài ở Ai-cập và sai Môi-se để giải cứu họ. Dù là trong câu chuyện sáng tạo ở sách Sáng thế ký 1:1 - 2:4a, hay ở những lời thơ về khôn ngoan trong Châm Ngôn 8:22-31, hành động sáng khởi của Đức Chúa Trời đã có từ buổi đầu tiên của công cuộc sáng tạo. Trước khi có Is-ra-en, Đức Chúa Trời đã hành động vì họ.
Theo Carroll Stuhlmuller, tôn giáo của Is-ra-en khởi đầu từ sự can thiệp của Gia-vê vào lịch sử họ với Ap-ra-ham và nhất là với  Môi-se. Tuy nhiên, những bài ca như Thi. 19A và 29, Thi. 28,  từ nguyên thủy đã không tập trung vào những thời kỳ lớn của lịch sử họ (như xuất hành, giao ước, hành trình, định cư) nhưng lại vào công cuộc sáng tạo. Điều ấy phản chiếu phần nào tư tưởng đa thần. Rất có thể, khi dân Do thái vào Đất Hứa Ca-na-an và bắt đầu củng cố tôn giáo, có tổ chức, nghi thức, luật lệ, nhân sự, kinh sách, bài hát xướng, họ đã buộc lòng phải chấp nhận nhiều thứ của dân Ca-na-an vốn có nền văn hóa cao hơn. Cũng rất có thể, những bài ca với nguồn cảm hứng từ thiên nhiên đã rất phổ biến trong đại chúng. Có lẽ Đa-vít đã tiêm động lực mới cho những hình thức thi ca Ca-na-an; ông không ăn rễ sâu trong truyền thống Môi-se ở miền Bắc, nhưng gần gủi với sắc thái Ca-na-an ở miền Nam hơn.
Những thánh ca của Is-ra-en tỏ ra rất khác biệt với những thánh ca của các tôn giáo ngoài Is-ra-en, vì chúng không xem Gia-vê như vị thần phải cúng kiến, mua chuộc, vỗ về cho nguôi giận. Các thánh ca nầy không dâng gì cho Đức Chúa Trời nhưng nhìn nhận rằng Ngài đã làm hết mọi sự kỳ diệu cho dân Ngài, tiếp tục công tác Ngài đã làm trong lịch sử  thuở xa xưa. Các thánh ca đó không vỗ về Đức Chúa Trời, không làm hạ giá Đức Chúa Trời và Is-ra-en. Nhờ thánh ca mà Is-ra-en mỗi lúc một trưởng thành hơn bởi nhận biết rằng những điều kỳ diệu có thể xảy ra trong đời sống.
Hơn nữa, như đã nói, thánh ca tung hô Đức Chúa Trời của sự sống. Bởi vậy, trong các thánh ca xưa, đau khổ, chết chóc hay mất mát đều không được nhắc đến, mà chỉ nói đến những thắng lợi đối với quân thù. Thái độ nầy có thể liên kết với những điều kiện phụng tự của các thầy tế. Trong Lê-vi 21, những qui luật bắt buộc các tế sư trở thành gắt gao hơn đối với vị thượng tế:"Người chớ đi đến cùng một kẻ chết, chớ vì cha hay mẹ mà làm cho mình ra ô uế. Người chẳng nên đi ra khỏi nơi thánh, đừng làm cho nơi thánh của Đức Chúa Trời mình ra ô uế" (Lê. 21:11-12). Trở lại với những bài thánh ca ngợi tụng, tôn giáo ban sơ của Do thái nhấn mạnh một Đức Chúa Trời sống: chết chóc, tội lỗi và bịnh tật không có chỗ cho nghi lễ và hát xướng.
Trong những bài ca tôn vinh Gia-vê là Vua và Đấng Tái Sáng Tạo ở phần sau (Thi 96-99), các thánh ca ngợi tụng đó hướng về thời đại chung kết huy hoàng của Is-ra-en hay của vũ trụ.
Ở đây ta có thể nhận xét một quan điểm hay thái độ khác biệt nơi các hình thái Cơ-đốc giáo. Cơ-đốc giáo nhấn mạnh sự chết và đau khổ, xem đó là trung tâm, ít ra là trong giáo hội tây phương. Buồn rầu và tội lỗi giữ một vai trò quan trọng trong khi con người đến gần Đức Chúa Trời. Ngày nay hầu hết các tín hữu Cơ-đốc chỉ tìm đến Đức Chúa Trời khi cuộc sống họ bị khó khăn, đau khổ; ít có người nào tìm đến mục sư để thảo luận và xin cầu nguyện bởi vì mọi việc thành công quá tốt đẹp!
Những bài thánh ca ngợi tụng tiêu biểu cho tôn giáo trong Kinh Thánh, tung hô sự nhân từ và oai nghi của Gia-vê vì những điều Ngài hiện đang làm. Nên biết rằng văn phạm Do-thái không chú trọng thời gian, quá khứ, hiện tại, tương lai như văn phạm tây phương, mà chú trọng vào cách hành động hay mức độ tham dự của người nói hay người hành động. Văn phạm Do-thái trả lời câu hỏi thế nào hơn là câu hỏi khi nào. Vậy thánh ca ngợi tụng tung hô Gia-vê không phải vì những gì Chúa đã làm mà vì những biến cố trước kia mà hiện nay vẫn đương xảy ra. Ca ngợi không phát xuất từ nghiên cứu học hỏi những truyền thống cổ xưa, cũng không do quan sát thế giới thiên nhiên, làm như là nhờ nghiên cứu điều tra người ta có thể suy diễn ra được sự ca ngợi. Ca ngợi là chúng ta tham dự vào hành động của Đức Chúa Trời trong hiện tại.
Lối nhìn sự vật trong mối tương tác hiện tại cũng có thể suy diễn từ cái tên của Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh: Gia-vê. Chúng ta nhận lối giải thích cho rằng tên ấy ra từ chữ gốc hayah, là động từ nghĩa là hiện hữu, là, ở. Chuyển cái nhìn ấy về phía Gia-vê, tên Ngài có nghĩa: "Đấng luôn luôn ở đó," mỗi phút giây, tác động vào mỗi cảnh ngộ của đời sống con người. Do đó, danh Gia-vê không nói gì rõ rệt sự hiện diện của Đức Chúa Trời; muốn biết chi tiết phải nhìn vào những hoàn cảnh và thái độ của người Is-ra-en. Gia-vê chỉ đơn giản tuyên bố là Ngài ở đó, bất luận ở đâu, bất luận có gì xảy ra. Như Albert Gelin kết luận: Gia-vê, khi nói ra bởi Đức Chúa Trời, đó là một lời hứa: "Ta sẽ luôn luôn ở đó"; khi nói ra bởi người Is-ra-en, đó là lời cầu nguyện, "Kính lạy Đức Chúa Trời, xin cứ ở đó với chúng con." Thánh ca ngợi tụng tung hô một Đức Chúa Trời luôn hiện diện, hiện đang làm những điều Ngài đã từng làm cho các tổ phụ, và hiện đang hành động cứu chuộc trong vòng chúng dân thờ phượng Ngài.
2.  Thi Thiên Cầu Nguyện
Như đã nói trên kia, bản chất của Thi Thiên nói chung là cầu nguyện, cho nên những bài cầu nguyện chiếm một số lượng lớn trong sách. Phần lớn những lời cầu nguyện, nhất là những lời khẩn đão (supplication), những bài ai ca (laments) nằm trong ba sách đầu của Thi Thiên.  Đó là những thi thiên Đa-vít, bộ sưu tập thi thiên chính yếu được sắp xếp theo niên đại. Các bài thánh ca ngợi tụng, nhất là những  bài lấy cảm hứng từ thiên nhiên và công cuộc sáng tạo, bắt nguồn từ ảnh hưỏng Ca-na-an trong Is-ra-en thuở xa xưa, còn các bài cầu nguyện khẩn đão đại diện cho nổ lực thu thập sắp xếp các thi thiên trong đền thờ nhiều hơn. Nổ lực nầy đến sau thời Đa-vít mấy thế kỷ, và cho thấy ảnh hưởng của tiên tri trên thi thiên. Ảnh hưởng thấy rõ nhất là của tiên tri Giê-rê-mi.
Thi Thiên Cầu Nguyện có thể chia làm hai loại: (1) khẩn đão hay ai ca, (2) tin cậy và cảm tạ. Tuy nhiên, những yếu tố đó không thuần túy mà trộn lẫn nhau trong cả hai loại.
Tín tâm (piety: lòng tin kính, cách thể hiện niềm tin) trong các thi thiên khẩn đão hay ai ca dường như biểu hiện cảm xúc tôn giáo từ thuở sơ lập Is-ra-en (thời Môi-se, Giô-suê và các Quan Xét) lúc tôn giáo chưa thành một cơ cấu qui củ. Nó giống cách phát biểu sốt nhiên trong lời cầu nguyện của Giô-suê khi bị thua tại A-hi (Giô 7:6,7; cũng xem Quan 20:23,26; I Sam 7:6), khác với lối cầu nguyện chính thống, có tổ chức sau nầy.
Sở dĩ  những lời cầu nguyện khẩn đão và ai ca chậm được tiếp thu vào nghi lễ thờ phượng của Israen, là vì trong tôn giáo Is-ra-en, một tôn giáo tôn thờ Đức Chúa Trời của sự sống và hòa bình, sự chết và than khóc hầu như là điều cấm kỵ.
Thế nhưng con nguời vẫn phải chịu đau khổ và chết chóc. Trước sau gì rồi đền thờ cũng phải đưa những sự kiện nầy vào trong đời sống thờ phượng. Trước hết là nhìn nhận đau khổ là một hành động của Đức Chúa Trời trừng phạt tội lỗi của Is-ra-en. Khởi đầu là A-môt rồi đến các vị tiên tri kế tiếp lên tiếng tuyên bố có bàn tay Đức Chúa Trời trên những cuộc tấn công, phá hoại, giết chóc của kẻ nghịch trên Giê-ru-sa-lem và Sa-ma-ri. Không ai khóc nhiều bằng Giê-rê-mi, và Tournay-Schwab gọi ông là "cha đẻ của tín tâm Do-thái giáo và của những bài ai ca thiêng liêng." Pierre E. Bonnard viết quyển "Sách Thi Thiên theo Giê-rê-mi" trong đó ông cho rằng có 12 thi thiên chịu ảnh hưởng văn chương Giê-rê-mi, và 21 thi thiên chịu ảnh hưởng linh niệm (spirituality) của Giê-rê-mi.
Lần hồi các bài ai ca được sưu tập lại. Có lẽ là qua những buổi lễ tôn giáo trong thời kỳ lưu đày, không có đền thờ, không có nơi thánh (Giê 41:5). Một số bài ai ca tập thể có thể liên hệ với sự sụp đổ Giê-ru-sa-lem (Thi 60; 129; 137). Một số lượng lớn hơn là những ai ca cá nhân, về văn phạm thì dùng số ít, nhưng nói chung là dành cho các buổi lễ có đau buồn than khóc của cộng đồng. Loại nầy chiếm khối lượng lớn hơn hết trong toàn sách. Herman Gunkel cho đó là xương sống của Thi Thiên. Cả hai loại, tập thể cũng như cá nhân, đều không nhắm giải thích ý nghĩa của đau khổ; mục đích nó rất đơn giản: giúp cho người Do-thái sùng kính đứng vững trong sự hiện diện của Thượng Đế mặc dù phải chịu thất vọng, hoang mang vì những việc xảy tới, bị những kỷ niệm bi thảm dày vò, và bị đau đớn về thể xác cũng như tình cảm.
Về cấu trúc, loại thi thiên nầy không chỉnh tề như thánh ca ngợi tụng. Mở đầu là lời kêu xin giúp đỡ, có thể tán rộng ra bằng cách nhấn mạnh vào ân huệ của Đức Chúa Trời trong quá khứ. Phần nầy rất ngắn, không giống những lời khẩn đảo của người Ba-by-lôn thường kể lể ca tụng vị thần dài dòng để mong được ơn. Thân bài thi thiên thường rõ ràng, chân thành, khẩn trương và có tính cách cá nhân. Thái độ của tác giả thường là cầu nguyện xin giúp đỡ, than thở hay mô tả nỗi bất hạnh, bày tỏ lòng tin cậy, xưng tội, rủa sả kẻ thù. Cuối cùng, thi thiên khẩn đảo thường chuyển thành lời cầu nguyện cảm tạ hay tin cậy (Thi 22: 22-31).
Một loại cầu nguyện khác là tin cậy, rất giống với loại thi thiên ai ca trên, nhưng nhấn mạnh khía cạnh tin tưởng Đức Chúa Trời sẽ sẵn sàng giúp đỡ và giải cứu người bị hoạn nạn. Các thi thiên nầy có thể nhấn mạnh cảm giác an bình và yên lặng (Thi 62) hay lời kêu gọi êm dịu của Đức Chúa Trời (Thi 23; 27). Trong đó có lời đoan quyết sẽ được hạnh phúc và an ninh (Thi 16) và quả quyết Đức Chúa Trời là công bình nhớ đến kẻ vô tội (Thi 11).
Cuối cùng là lời cầu nguyện cảm tạ. Điển hình cho bản chất con người, ở đây loại nầy ít oi nhất. Chúng thường nằm trong lãnh vực tín tâm (piety) cá nhân, nơi nào văn phạm dùng chữ 'tôi'(như Thi 18; 30). Cấu trúc thi thiên nầy phối hợp thánh ca và khẩn đão. Nó cảm tạ Đức Chúa Trời đã giải thoát người khỏi đau buồn và nguy hiểm. Lời mở đầu giống với phần đầu của thánh ca; nó thưa với Đức Chúa Trời, Đấng được cảm tạ, hoặc với cộng đồng đang chứng kiến lễ cảm tạ hay đang cùng tham dự. Thân bài thi thiên được khai triển theo thể tự sự (narrative): nguy hiểm, tấn công, hãm hại, xưng lỗi lầm, bày tỏ sự yếu đuối hay vô tội. Cuối cùng, tác giả thi thiên kể lại sự can thiệp giải cứu của Đức Chúa Trời. Thường thường có một công thức chúc phước kèm vào đây.
Thi thiên cảm tạ thường đi đôi với sự dâng của lể cảm tạ trong đó có con sinh tế dâng lên làm của lễ toàn thiêu biểu hiệu cho sự tận hiến cho Đức Chúa Trời. Nó thường liên hệ với những lời hứa nguyện người ta nói ra lúc gặp hoạn nạn (Thi 66:13; 116:17-19).
3.  Thi Thiên Giáo Huấn hoặc Thi Thiên Khôn Ngoan
Như trong các dân tộc khác, chắc hẳn có những trường học cho con cái gia đình quí tộc ở kinh đô. Sau thời kỳ lưu đày, các hội đường (synagogue) chắc hẳn là nơi để vừa thờ phượng vừa dạy dỗ. Trong Sirac 51:53 có nói đến trường học: "Hỡi những kẻ không được dạy dỗ, hãy đến gần ta, và ở lại trong trường ta."
Trường học và giáo dục có các đặc tính tồn cổ, tư duy, dung hòa và tinh lọc. Tồn cổ ở đây không phải chỉ là giữ chặt thần học giao ước hay những biểu hiệu tôn giáo quan trọng như các biến cố lớn trong lịch sử, mà là thực hành ý thức xử thế, tình gia đình, tinh thần làm việc, sáng suốt, đáng tin cậy, cẩn trọng, kinh nghiệm lâu dài.
Những quan điểm đó đã được nghĩ ra từ nhiều đời và được tinh lọc qua kinh nghiệm. Con nguời được đào tạo theo khuôn mẫu nầy trở thành dung hòa, bình tĩnh, tự chế.
Trong văn chương khôn ngoan không có những lời tiên tri đe dọa, cũng không có những điều khoản nghiêm khắc của Luật Pháp về sự tinh sạch, ô uế. Thẩm quyền của nó trong cộng đồng là dựa vào kinh nghiệm, thế hệ nầy qua thế hệ khác đã thử và thấy hiệu nghiệm.
Văn chương khôn ngoan cố kiến tạo một cuộc sống hài hòa, bình ổn. Nó chống lại sự nhiễu loạn và bạo động. Trong khi thánh ca nhất là những thánh ca tôn vinh công cuộc tạo hóa của Thượng Đế, mô tả Gia-vê như là đấng chiến thắng tối cao trên biển giận dữ và bão tố gầm thét (Thi 29; 89:9-13), thì Khôn Ngoan ở trước Đấng Tạo Hóa "như thợ cái, hằng ngày là sự khoái lạc của Ngài, và thường thường vui vẻ trước mặt Ngài" (Châm 8:22-31). Tuy nhiên nó vẫn hàm ý sự bí nhiệm cuối cùng do Đức Chúa Trời kiểm soát, như cho thấy trong Thi thiên khôn ngoan 139: "Vì lời chưa ở trên luỡi tôi thì kìa, Chúa đã biết hết rồi... Tri thức dường ấy thật diệu kỳ quá cho tôi, quá cao tôi không với tới được."
Về nội dung, thi thiên khôn ngoan có khuynh hướng đối chiếu giữa người công bình và độc ác, thúc đẩy người ta lựa chọn khôn ngoan bằng cách chỉ cho họ thấy kẻ ác tất sẽ bị phạt và người nghĩa tất sẽ được thưởng. Thi Thiên đầu nhấn mạnh luật báo trả nầy. Các thi thiên nầy luôn có những lời khuyên thực tế về phẩm hạnh, tuy nhiên nó thường xuyên hướng về "sự kính sợ Đức Chúa Trời."
Đặc điểm của thi thiên khôn ngoan:
1)  loại mệnh đề "còn hơn":
Của người công bình tuy ít, còn hơn sự dư dật của nhiều kẻ ác.
Vì cánh tay của kẻ ác sẽ bị gãy, nhưng Đức Giê-hô-va nâng đỡ người công bình (Thi 37: 16,17; cũng xem 63:3; 84:10; 118: 8,9; 119:72).
2)  mệnh đề đếm số:
Đức Chúa Trời có phán một lần; tôi có nghe sự nầy hai lần,
Rằng quyền năng thuộc về Đức Chúa Trời. (Thi 62: 11; cũng xem 27:4)
3) mệnh đề 'ashre  hay "phước thay"
Phước thay cho người nào chẳng theo mưu kế của kẻ dữ (Thi 1:1; 34:8; 112:1; 119:1)
4) theo mẫu tự (Thi 34; 37; 111; 112; 119; 145)
So với các loại văn chương khôn ngoan khác trong Kinh Thánh, các thi thiên khôn ngoan ý thức được sự hiện diện của Đức Chúa Trời trong đời sống hằng ngày nhiều hơn. Ta có thể cho rằng hội đường và trường học có dạy người ta cầu nguyện và đặt những tiêu chuẩn cầu nguyện riêng.
Thi thiên khôn ngoan được đặt mở đầu cho cả bộ sách ở giai đoạn thành hình cuối cùng của sách, cho thấy ảnh hưởng của lớp người khôn ngoan không phải chỉ có trong Thi Thiên mà thôi.
4. Thi Thiên Tiên Tri
Các thi thiên nầy khó mà phân biệt hơn. Một trong những nhà viết thi thiên được gọi là tiên tri trong I Sử 25:1:  Đa-vít biệt riêng mấy con cháu A-sap, Hê-man, Giê-đu-thun để nói tiên tri bằng đờn cầm, đờn sắt, và chập chỏa. Tác giả bộ Sử ký cũng xem chữ "người Lê-vi" đồng nghĩa với "nhà tiên tri" (II Vua 23; và II Sử 34:30).
Các thi thiên bộc lộ đặc điểm của cả tiên tri xuất chúng  (charismatic) lẫn tiên tri cổ điển (classical). Tiên tri xuất chúng xuất hiện vào thời kỳ sơ khai quốc gia Is-ra-en, liên hệ đến các trung tâm thờ phượng và cộng đồng tiên tri. Các nhà tiên tri xuất chúng như Sa-mu-en, Ê-li-sê, xức dầu để tấn phong các vua. Loại tiên tri nầy có lẽ là bối cảnh phát triển loạt thi thiên hoàng vương Đa-vít, đặc biệt là để xức dầu cho các vua (Thi 2; 110).
Tiên tri cổ điển bắt đầu với A-môt, nói tiên tri độc lập bên ngoài những liên hệ thờ tự và thẩm quyền tập thể, và để lại sách mang tên của họ. Họ thường  căm giận răn đe những bất công xã hội và tôn giáo hình thức. Chắc họ có ảnh hưởng trên các Thi Thiên 50; 82; 95:7d-11. Những "công thức sấm truyền" mà các tiên tri cổ điển hay dùng cũng thấy trong các Thi Thiên 2:6; 12:6; 50:1, 7, 16; 60:8-10.
Sau thời kỳ lưu đày, triều đại Đa-vít không còn nữa, nên các lời tiên tri càng ngày càng nhấn mạnh vương quyền của Gia-vê. Họ nói đến hi vọng trong tương lai xa, đến vị vua Met-sia cũng là đấng cứu vớt, đến Ngày của Chúa đầy tăm tối kinh hoàng, và sự trị vì vinh hiển của Vua Gia-vê. Nằm trong chiều hướng đó là những thi thiên nói đến cuộc trị vì thời tận thế của Gia-vê: Thi Thiên  93; 96-99.
Ảnh hưởng của cả hai loại tiên tri xuất chúng và cổ điển còn thấy trong những bài ca Si-ôn: Thi Thiên 46; 48; 76. Ở đây có những đặc điểm tiên tri về tận thế, nhưng đúng hơn, nên qui về sự thờ phượng, vì  có không khí mong đợi quyền năng Đức Chúa Trời và những lời hứa của Ngài trong nghi lễ của đền thờ.
VII. NGUỒN GỐC VÀ LỊCH SỬ CỦA THI THIÊN
Có nhiều lý do khiến ta có thể chấp nhận Thi Thiên đã có từ thời cổ đại. Mặc dầu có bị sửa chữa và thêm thắt, nhiều thi thiên có thể có từ trước thời kỳ lưu đày, đến tận thời Đa-vít và Sa-lô-môn, và một số rất ít còn đến trước đó nữa (Thi Thiên 68).
Ca hát là một trong những cách thức thờ phượng cộng đồng lâu đời và phổ thông nhất. Những nơi có điện thờ như Ghinh-ganh (I Sam 7:16; 11:15), Si-lô (Giô 18:1; I Sam 1:3), Si-chem (Giô 8:30), Bê-ten (Quan 20:18-19), Ta-bô (Thi 68) và Đan (Quan 18:19-31), ắt hẳn phải có những bô sưu tập thánh nhạc. Những cuộc hội họp cộng đồng quanh lửa trại thế nào cũng có những bài hát truyền thống.
Ca-na-an là một nguồn âm nhạc phong phú. Theo R. Tournay và Schwab, nó đã cung cấp nhạc khí cũng như nhạc sĩ cho các nước Ai-cập và A-sy-ri trong một thời kỳ lâu dài. Một số trưởng ca đoàn Lê-vi như Ê-than, Hê-man và Cô-rê mang tên có gốc Ca-na-an. Hai tên đầu có nghĩa là "người bản xứ" hay "thổ dân". Trong tập Những Lá Thư Ar-ma-na viết từ Ca-na-an cho một vị pha-ra-ôn của Ai-cập vào thế kỷ thứ 14, có những câu rất giống với thi thiên như: "Khi tôi sẽ thấy mặt chúa và vua tôi" (Thư số 144; Thi 17:15; 42:2); "Nếu chúng tôi lên tới trời hay xuống tận dưới đất, thì đầu của chúng tôi vẫn ở trong bàn tay của ngài" (Thư số 264; Thi 139:8). Đa số học giả nhìn nhận rằng Thi Thiên 29 có chứa nhiều thành ngữ Ca-na-an, có người còn tuyên bố rằng nó được viết ra cho sự thờ phượng của nguời Ca-na-an và đã được điều chỉnh cho thích nghi với sự thờ phượng Gia-vê của Is-ra-en. Họ còn nhận thấy sự điều chỉnh đó vẫn chưa đủ cho nên đến thời kỳ hậu lưu đày người ta còn sửa đổi thần học thêm. Đối chiếu 96:7 với 29:1, ta thấy nó bỏ đi phần nói về các thần linh chung quanh Gia-vê.
M. Tsevat khảo sát ngữ vựng  thi thiên và cho rằng nó đã có từ thời chinh phục Ca-na-an, khi người Do-thái tiếp thu ngôn ngữ thờ phượng cùng với kiểu mẫu kiến trúc và phương pháp canh tác của dân bản địa. Trong 116 yếu tố ngôn ngữ thi Thiên, mà tiếng Do-thái cổ điển chỉ thấy trong thi thiên thôi, thì  có 35 đến 40 yếu tố có liên hệ ngôn ngữ với những dân tộc đến trước hoặc đồng thời với họ ở xứ Ca-na-an.
So sánh với hai sách Sử ký thì thấy Thi Thiên dùng nhiều chữ đã chết trong lãnh vực thế tục cũng như thờ phượng, lúc bộ Sử ký được biên tập  vào khoảng giữa thế kỷ thứ năm TC.
Địa vị quan trọng của vua Đa-vít trong Thi Thiên cũng cho thấy nguồn gốc cổ xưa của Thi Thiên. R. Tournay viết: "Không ai có thể chối cãi sự đóng góp của Đa-vít trong nhạc sử của dân tộc ông. Từ lúc còn niên thiếu, ông đã là một nhạc sĩ nỗi tiếng (I Sam. 16:18), có thể chính ông đã chế tạo ra một số nhạc cụ của Is-ra-en (Amôt 6:5; I Sử 23:5)...  Là một ca sĩ được mến mộ trong Is-ra-en (II Sam 23:1),  ông đã sáng tác những bài ca ai điếu não nùng cảm động (II Sam 1: 17-27; 3:33)... Tác giả bộ Sử ký chắc hẳn cũng là một nhạc sĩ người Lê-vi, trong bài ai điếu vị vua thi sĩ, đã xem Đa-vít là người tổ chức nghi lễ và thánh nhạc (ISử 15-17).
Dầu các thi thiên được công nhận là đã có từ thuở rất xa xưa của Is-ra-en, có thể là trước cả thời kỳ quân chủ, tuy nhiên, hầu hết đã trải qua một thời kỳ tiến hóa lâu dài nhiều thế kỷ.
Kinh Thánh không cho biết nhiều về cách sử dụng thi thiên trong đời sống và nghi lễ của Is-ra-en cổ xưa. Ta để ý đến một số sự kiện tổng quát: nhảy múa trong một nghi lễ thờ phượng tại thánh điện Si-lô (Quan 21:19-22); II Sa 19:35  có nói đến "những người nam và nữ ca hát", hay A-môt 5:23 nói đến "những tiếng ca hát ồn ào... những thanh âm của đờn cầm". Lê-vi 23 có liệt kê những ngày lễ chính. Họ hàng nhà A-sap được dành cho vai trò chính yếu hướng dẫn việc ca hát (Ê-xra 2:41; Nê-hê-mi 7:44). A-sap xướng thi thiên và dân chúng đáp bằng điệp khúc: "A-men! Ha-lê-lu-gia!" (I Sử 16:7-36).
Nhiều khi thi thiên được trích trong các sách khác của Kinh Thánh: lời Giê-rê-mi rủa ngày sinh mình có xen một thi thiên (Giê 20:13); A-môt có xen kẽ những mẫu thi thiên trong sách ông (4:13; 5:8-9; 9:5-6).
Theo Massey H. Shepherd, Jr., trong hội đường Do thái và sau nầy trong Hội Thánh sơ khai, thi thiên không do ban hợp ca hát mà do những xướng viên độc xướng, và không có kèm theo nhạc khí, dầu rằng nhạc khí là thành phần quan trọng trong sự thờ phượng của đền thờ vào thời kỳ tiền lưu đày, như ta thấy trong Thi Thiên 150 . Về sau người ta cho nhạc khí là của sự thờ phượng ngoại giáo. Người xướng thi thiên ngâm với giọng đều đều, ít khi lên xuống giọng hay đổi nhanh chậm. Trong cộng đồng Do-thái lẻ loi ở Yemen miền nam Ả-rập, người ta hát thi thiên có vần điệu giống như nhạc điệu Byzantine, Ambrosian và Gregorian của Giáo hội Cơ-đốc.
Theo Balthazar Fischer, vai trò của thi thiên trong Hội Thánh thay đổi tùy thời kỳ: Trước năm 200 SC, các thi thiên được đọc như lời tiên tri về Chúa Cơ-đốc; từ năm 200 đến 400, thi thiên là những lời cầu nguyện thưa với Chúa Cơ-đốc là Gia-vê trong thi thiên; từ năm 400 đến thời trung cổ, do ảnh hưởng của Augustine, thi thiên là lời cầu nguyện của Chúa, trong thân thể nhiêïm mầu của Ngài có bao gồm tất cả mọi tín hữu nam nữ.
VIII. PHÂN BỐ CÁC THI THIÊN
(Phân loại theo văn thể)
Thánh Ca Ngợi Tụng (Hymns of Praise)
          Cảm tác từ thiên nhiên: 8, 19A, 29, 33, 89:6-19, 104, 148
          Cảm tác từ lịch sử hay kinh Tôra: 19B, 24, 46, 47, 48, 68, 76, 78, 81: 1-5b, 100, 105, 113, 114, 117, 122, 133, 134, 135, 136, 145, 146, 147, 149, 150
          Vua Gia-vê: 24, 29, 47, 93, 95, 96, 97, 98, 99, 149
          Bài ca Si-ôn: 42-43, 46, 47, 48, 76, 84, 87, 122
          Bài ca diễn hành vào đền thờ:  15, 24, 68, 95, 100, 132
Cầu Nguyện Khẩn Đảo Và Ai Ca  (Prayers of Supplication and Lament)
          Cho hội chúng: 12, 14, 44, 53, 58, 60, 74, 79, 80, 83, 85, 89, 90, 94, 106, 123, 126, 137, 138, 144:1-11
          Cho cá nhân: 3, 4, 5, 6, 7, 9-10, 13, 17, 22, 25, 26, 27, 28, 31, 35, 38, 39, 40, 41, 42-43, 51, 52, 54, 55, 56, 57, 59, 61, 63, 64, 69, 70, 71, 77, 86, 88, 102, 109, 120, 130, 139, 140, 141, 142, 143
          Cho người bệnh: 6, 13, 16, 28, 30, 31, 38, 39, 41, 69, 88, 91
          Cho tội nhân ăn năn: 6, 25, 26, 32, 38, 51, 90, 130
          Thi thiên rủa sả: 10:15; 31:17-18; 40:15; 55:15; 58: 6-11; 59: 10-13; 68: 22-23; 69: 22-28; 83: 9-18; 137: 9; 139: 18-21; 140: 8-10
Thi Thiên Cảm Tạ (Thanksgiving Psalms)
          Cho hội chúng: 22: 22-331, 30, 34, 65, 66, 67, 75, 92, 107, 111, 118, 124, 138
          Cho cá nhân: 9-10, 18, 23, 30, 31, 32, 35, 40, 41, 92, 103, 116, 120, 144: 1-11
Cầu Nguyện Tin Cậy (Prayers of Confidence)
          11, 16, 20, 23, 27, 57, 62, 91, 115, 121, 125, 129, 131
Thi Thiên Khôn Ngoan – Giáo Huấn (Wisdom - Didactic Psalms)
          1, 15,  19b, 24, 33, 34: 11-21, 36, 37, 49, 73, 78, 90: 3-12, 92, 101, 111, 112, 119, 127, 128, 144: 12-15, 145
          Theo mẫu tự: 9-10; 25, 34, 37, 111, 112, 119, 145
          Về Luật Pháp: 1, 19b, 119
Thi Thiên Hoàng Vương (Royal Psalms)
          Đăng quang: 2 (hay 1-2), 72, 89:1-37, 101, 110, 132
          Cầu thay: 20, 21, 144: 1-11
          Khẩn đảo: 61, 89
          Hôn lễ: 45
          Cảm tạ: 18
Thi Thiên Tiên Tri (Prophetical Psalms)
          15, 50, 81, 82, 95: 7d-11

Câu hỏi thảo luận:
1.     Từ những dữ kiện có được trong các bài thi thiên, bạn hãy suy ra tiến trình thành hình bộ Thi Thiên
2.     Đọc Thi Thiên 109 thấy những lời trù rủa thâm tệ đối với kẻ thù, bạn có nghĩ rằng đạo đức của thời Cựu Ước thấp hơn thời Tân Ước không? Tại Sao?
3.     Hãy thuật lại kinh nghiệm một lúc nào đó bạn đọc một bài thi thiên và cảm xúc như bài đó chính là lời cầu nguyện của mình.
4.     Theo Brueggemann, sách Thi Thiên được sáp loại như thế nào?



CHƯƠNG 7
CHÂM NGÔN


I.   DẪN NHẬP
Khi con người sống quây quần thành xã hội, chung đụng với nhau và đối phó với thiên nhiên, họ rút tỉa được nhiều kinh nghiệm và tổng kết những nhận xét của họ trong những câu ngắn gọn, có vần điệu, dễ ghi nhớ, làm những bài học khôn ngoan truyền lại cho những thế hệ sau. Đó là những tục ngữ, phong dao, bao gồm hầu như mọi lãnh vực của đời sống. Chúng là khởi thủy của thi ca, triết học và có lẽ cả khoa học nữa. Về phương diện văn học, đây là một phần rất phong phú của kho tàng văn chương bình dân mà dân tộc nào cũng có.
Thời tiết, khí hậu, đóng vai trò quan trọng trong đời sống du mục cũng như nông nghiệp, trải qua nhiều đời được đúc kết thành những câu như:
“Ráng vàng trời gió; Ráng đỏ trời mưa”
             hay:                               
“Cơn đằng đông vừa trông vừa chạy,
Cơn đằng nam vừa làm vừa chơi.”
Tiếng Anh cũng có câu:
 “A rainbow at night   
Is the shepherd’s delight;
 A rainbow in the morning   
 Is the shepherd’s  warning.”
Để bảo vệ sức khỏe, người ta lưu lại những kinh nghiệm về thuốc men, ăn uống:
“Cam hàn, quít nhiệt, bưởi thông.”
                  hay:                             
“Đau bụng hơ muối mà chườm
Nhược bằng không khỏi, hắc hương với gừng.”
     Hoặc tiếng Anh:              
“An apple a day keeps the doctor away.”
Gia đình là nền tảng của xã hội, cho nên vấn đề giáo dục gia đình là mối quan tâm sâu xa của những người có ý thức:
“Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.”
    hay:                                   
“Thương con cho roi cho vọt,
Ghét con cho ngọt cho bùi.”
      Hãy so sánh với:                
“Người nào kiêng roi vọt ghét con trai mình          
Song ai thương con ắt lo sửa trị nó” (Châm 13:24).
    Nhận xét về cá tính con người trong xã hội, chúng ta hãy so sánh:
“Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa,
  Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.”
với câu:
“Ngủ một chút, chợp mắt một chút, khoanh tay nằm một chút,    
Thì sự nghèo khổ của ngươi sẽ đến như kẻ đi rảo”  (Châm 6:10).

Những câu ngạn ngữ cách ngôn như vậy, dân tôïc nào cũng có. Chúng nằm rải rác trong dân gian, ở trên cửa miệng của người bán buôn, kẻ thợ thuyền, người làm ruộng, kẻ chăn nuôi, từ thôn quê đến thành thị, và dần dần được những bậc thức giả sưu tập để làm thành “túi khôn” hay “cẩm nang” cho hậu thế. Sách Châm Ngôn cũng được thành hình cách tương tự.
II. TÁC GIẢ
Tên chung của quyển sách là “Châm Ngôn của Sa-lô-môn con trai của Đa-vít”. Tuy nhiên,  nhiều chỗ trong sách có nói đến các tác giả  khác của những bộ phận khác nhau trong sách. Phần được kể cho Sa-lô-môn nằm trong 10:1, cho “người khôn ngoan” trong 22:17 và 24:23. Ở 25:1 có lời ghi chú “Đây là những châm ngôn của Sa-lô-môn, mà các người của Ê-xê-chia, vua Giu-đa, sao tả.” Đầu chương 30 ghi “Lời của A-gu-rơ, con trai Gia-kê”, và chương 31 được cho là của Lê-mu-ên, hay đúng hơn, là của mẹ ông. Các học giả cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 nghi ngờ tính chính xác của những lời ghi về tác giả, cho rằng sách nầy được sáng tác sau thời Sa-lô-môn rất lâu. Nhưng những cuộc nghiên cứu sau nầy về loại văn chương khôn ngoan của miền Cận Đông giúp một số học giả kết luận lối hành văn của sách đã có từ rất lâu, và lời ghi chú là đáng tin.
1. Sa-lô-môn
Trong sách Châm Ngôn, sự khôn ngoan đóng vai trò rất quan trọng. Nó được nhân cách hóa và được xem là kẻ ban phát mọi thứ tốt đẹp hơn hết cho đời sống. Vua Sa-lô-môn lúc thịnh thời được xem là biểu tượng của sự khôn ngoan. Ông yêu mến Đức Giê-hô-va (I Vua 3:3); ông cầu xin sự hiểu biết để phân biệt điều thiện điều ác (IVua 3: 9, 12), được Đức Chúa Trời ban sự khôn ngoan (I Vua 4:29) và có tinh thần khiêm nhường (I Vua 3:7). Vua đã chứng tỏ sự khôn ngoan trong cách xử án (I Vua 3: 16-28), ngoại giao (I Vua 5:12), và nổi tiếng ở miền Cận Đông (I Vua 4: 30tt; 10: 1-13). Vua soạn thảo châm ngôn, bài ca, đề cập đến nhiều đề tài trong thiên nhiên (I Vua 4: 32, 33) và giải đáp những  câu hóc búa (I Vua 10:1).
Ta có thể thấy ở nhiều nơi khác trong Cựu Ước cũng như văn chương khôn ngoan Cận Đông có nhiều ý và lời giống những câu châm ngôn trong phần của ông từ 10: 1 –  22: 16, 25-29, nên không thể cho là tất cả do ông tự nghĩ ra. Ta có thể xem ông như một người học thức khôn ngoan soạn một bộ sưu tập những câu phương ngôn gồm của ông và của nhiều người khác và để lại trên nó dấu ấn của cá tính ông.
2.  Người Khôn Ngoan
Trong các dân tộc Cận Đông có hạng “người khôn ngoan” (wise men, trong Tân Ước dịch là bác sĩ) có chức năng trong các lãnh vực từ chính sách quốc gia cho đến giáo dục (Ai-cập, xem Sáng 41:8; Ê-đôm, xem Apđia 8). Trong dân Is-ra-en, nơi ‘sự kính sợ Đức Giê-hô-va khởi đầu sự tri thức’ vai trò ‘người khôn ngoan’ còn quan trọng hơn: trong thời Giê-rê-mi, họ được đặt ngang hàng với các thầy tế và tiên tri trong sự nhận lãnh mặc khải (Giê 18:18).
Bộ sưu tập ‘những lời nói của người khôn ngoan’  gồm từ 22:17–24:22 và 24:33-34. Có lẽ chương 1–9 với nội dung những ‘lời khuyên khôn ngoan’  cũng ra từ một nguồn gốc. Khó có thể định được niên đại, nhưng nhiều câu rất cổ, như Albright nhận xét là có thể từ thời đại đồ đồng. Có lẽ có lời của những người khôn ngoan khác ngoài Is-ra-en, và đây cũng là một sưu tập của Sa-lô-môn.
3.  Những Người của Ê-xê-chia
Trong II Sử 29: 25-30 có nói đến sự chấn hưng thờ phượng trong thời vua Ê-xê-chia. Có lẽ trong dịp nầy, thuộc hạ của Ê-Âxê-chia đã thu thập và xuất bản sưu tập từ chương 25–29.
4.  A-gu-rơ Con Trai Gia-kê
Không ai biết A-gu-rơ là ai, nhưng câu ”Lời của A-gu-rơ, con trai Gia-kê, châm ngôn” cũng có thể dịch là “Lời của A-gu-rơ, con trai Gia-kê ở Ma-sa” (bản RSV). Ma-sa là một chi tộc Ả-rập thuộc dòng dõi Áp-ra-ham qua Ích-ma-ên. (sáng 25:14), và các chi tộc đông phương được tiếng là khôn ngoan (I Vua 4:30).
5.  Vua Lê-mu-ên
Mẹ của vua là tác giả của đoạn 31:10-9, nhưng cũng không ai biết vua là ai. Vua không hẳn là  tác giả của bài thơ về người vợ toàn hão trong đoạn từ c. 10-31, là phụ lục của quyển sách.
III. NIÊN ĐẠI
Sự thành hình của quyển sách gồm nhiều tập ắt không thể chỉ hoàn thành trong một giai đoạn. Phần lớn có lẽ đã được biên soạn dưới thời vua Sa-lô-môn. Dưới triều Ê-xê-chia, quyển sách cũng chưa hoàn tất, nhưng đến thời Ben Sira (độ 180 TC.) thì đã có trọn bộ (Ecclus. 47:17). Có lẽ sách được biên tập lần cuối cùng vào thời kỳ hồi hương sau lưu đày.
IV. THỂ LOẠI và NỘI DUNG
Về thể loại, quyển sách giống như những bộ sưu tập các lời giáo huấn tìm được tại Ai-cập. Những lời giáo đầu, và cách tập họp các câu phương ngôn gần như là theo đề tài cho thấy soạn giả đã áp dụng một thể loại văn chương hiện hành trên thế giới lúc ấy.
Nguyên ngữ của chữ Châm Ngôn là mashal, nếu dịch là ngụ ngôn (parable) hay ẩn dụ (allegory) như trong Êxê. 17: 2 của bản AV và RSV có lẽ sát hơn. Tuy nhiên những câu trong Châm Ngôn không có tính cách ngụ ngôn hay ẩn dụ. Đây thật ra không hẳn là những câu tục ngữ phong dao mà chính là chắt lọc kho tàng khôn ngoan của những giáo sư biết luật pháp Đức Chúa Trời đem áp dụng những nguyên tắc của nó vào toàn thể cuộc sống.
V.  CÔNG DỤNG CỦA SÁCH
Theo Wheeler Robinson, văn chương khôn ngoan của Cựu Ước là một “môn dạy cách áp dụng chân lý trong đời sống cá nhân dưới ánh sáng của kinh nghiệm.” Đây là một quyển sách thực tế,  của kỷ luật: nó đụng đến mọi ngỏ ngách của đời sống và cho thấy Đức Chúa Trời để ý trực tiếp đến đó. Khôn ngoan không phải chỉ là suy xét những nguyên lý trừu tượng chi phối vũ trụ, mà là mối quan hệ với Đức Chúa Trời của mọi tri thức, đưa đến cách cư xử phù hợp với mối quan hệ ấy trong mỗi hoàn cảnh cụ thể. Người khứơc từ điều đó, nói thẳng ra, là người ngu. Khôn ngoan phải chi phối toàn bộ cuộc sống con người: không phải chỉ trong lúc tĩnh tâm, mà còn trong thái độ đối với vợ con, công việc, trong cung cách làm ăn, và cả trong những cử chỉ tại bàn ăn nữa.
Chúa chúng ta rất yêu thích sách nầy. Ngôn ngữ của nó bàng bạc trong những lời dạy của Ngài. Như lời Ngài nói về những kẻ tìm chỗ ngồi trên (xem Châm 25: 6,7), hay ngụ ngôn về những người khôn, dại, và nhà của họ (14:11), hay chuyện người giàu mà dại (27:1). Ngài đem hỏi Ni-cô-đem câu hỏi mà A-gu-rơ con trai Gia-kê đã nêu lên (30:4 với Gi. 3:13). Ngài nhắc nhở những kẻ khước từ Ngài rằng “con cái của khôn ngoan sẽ biện minh cho nàng” (Ma 11:19).
Phải chăng vì gần gủi Chúa mà Phi-e-rơ ưa thích Châm Ngôn? Những thư của ông tỏ ra rất quen thuộc với sách nầy. ( I Phi 2:17 với Ch. 24:21; I Phi 3:13 với Ch. 16:7; I Phi 4:8 với Ch. 10:12; I Phi 4:18 với Ch. 11:31; II Phi 2:22 với Ch. 26:11).
Phao-lô cũng trích và phản ánh nhiều ý của sách (Xem Rô 12:20 và Ch. 25:21tt). Khi ông nói “Đấng Christ là quyền phép và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời,” thì  ý nghĩa của Châm 8 quyện lấy những lời của ông.
Hê 12:5  trích Châm 3:11 và bảo ta ‘chớ coi nhẹ sự sửa phạt của Chúa’, cho ta thấy chân tính của quyển sách, đó là môn học về kỷ luật của Đức Chúa Trời.
Những câu châm ngôn cũng giống như những dụ ngôn của Chúa, muốn thấm thía ý nghĩa của nó  thì phải học riêng từng câu và mỗi lúc một ít thôi. Nhưng đồng thời phải luôn ghi nhớ rằng mỗi câu chỉ là một phần của toàn bộ giáo huấn. Nếu tách rời câu Châm Ngôn ra khỏi toàn thể của nó và cố áp dụng cho một trường hợp riêng lẽ nào đó thì có thể sẽ bị sai lạc.
VI. BỐ CỤC
1: 1 - 7           Đề tài, mục đích và phương châm
1: 8 - 9: 18     Mười ba bài về khôn ngoan
10:1 - 22:16    Sách đầu của Salômôn
22:17-24:22    Sách của người khôn ngoan
24: 23 -24       Những lời nói của người khôn ngoan: tập hai
25:1-29:27      Sách thứ hai của Salômôn
30: 1 - 33       Lời của Agurơ
31: 10-31        Phụ lục: người nữ tài đức
Câu hỏi thảo luận:
1.     Từ những dữ kiện có được trong sách Châm Ngôn và các câu Kinh Thánh khác, bạn hãy suy ra tiến trình thành hình bộ Châm Ngôn.
2.     Bạn hãy tìm một câu Châm Ngôn tương tự câu tục ngữ VN “Con cái khôn ngoan vẻ vang cha mẹ” và bình luận.
3.     Bạn có thấy một câu hay bài Châm Ngôn nào không phù hợp với suy nghĩ của bạn không? Nếu có hãy nêu ra và phân tích. Nếu không, hãy giải thích tại sao. (Ở đây nói về văn hóa hay cách diễn đạt tư tưởng chứ không nói về thần học.)



CHƯƠNG 8
CHÂM NGÔN (2)


VII. BÌNH GIẢI
1:1–7  ĐỀ TÀI, MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG CHÂM CỦA SÁCH
Đây là đầu đề dài hơn hết trong các sách Cựu Ước. ‘Của Sa-lô-môn’ không có nghĩa là ông viết cả quyển (xem 24:23; 30:1; 31:1), nhưng cho thấy ông là người đóng góp chính và là nhân vật lớn hơn hết trong địa hạt châm ngôn.
C. 3-6  cho biết mục đích của sách. C. 7 đặt ra phương châm và mô tả nguyên tắc nền tảng của sách. Đem so sánh những câu nầy với Ês. 11:1-5, ta sẽ thấy những ơn thiên phú liệt kê ở đây cũng là thuộc tính của Đấng Mết-si-a, và là kết quả của sự hiện diện của Thánh Linh Đức Chúa Trời.
1:8—9:18 MƯỜI BA BÀI HỌC VỀ KHÔN NGOAN
Mỗi bài học chỉ trừ bài cuối cùng đều mở đầu bằng lời gọi ‘hỡi con’ của chính nàng Khôn Ngoan. Đây là những lời của bậc thầy dạy dỗ môn đệ mình.
1:8–33  Bài thứ nhất
1:8–19  Tránh xa bạn bè xấu. Khuyên dạy môn đệ hãy theo những lời giáo huấn nhận được từ cha mẹ hồi còn nhỏ.
1:20–33  Lời kêu gọi của Khôn Ngoan không được lưu tâm.  Trong những phần nầy, sự khôn ngoan được nhân cách hóa. Sự khôn ngoan bắt nguồn từ sự kính sợ Đức Chúa Trời kêu gọi mọi người cùng học hỏi, nhưng đại đa số nhân loại không chịu nghe,  dầu rằng làm vậy họ chỉ rước lấy hư hại đau khổ cho chính mình. Điều nầy nhắc ta nhớ đến các vị tiên tri kêu gọi dân Is-ra-en hãy ‘tìm kiếm Đức Giê-hô-va và được sống’ nhưng lúc nào cũng đụng đầu với thái độ ngoan cố thiếu hiểu biết. Thật ra, trong đoạn nầy có nhiều điều phản chiếu sự dạy dỗ của Ô-sê, Ê-sai và Giê-rê-mi.
2:1–22  Bài thứ hai
2:1–9  Tìm kiếm sự khôn ngoan để được tưởng thưởng  Phần nầy nhấn mạnh ba điều: (1) sự khôn ngoan đòi hỏi phải năng nổ tìm kiếm (c. 1-5), (2) dầu vậy đó là ơn ban của Đức Chúa Trời, không phải do cố gắng của con người (c. 6), (3) Đức Chúa Trời trông nom những người lãnh nhận và giữ gìn họ trong thánh ý Ngài (c. 7-9). Những nguyên tắc nêu ra ở đây có hàm ý trong điềm chiêm bao của Sa-lô-môn ở Ghi-bê-a (I Vua 3: 5-15), và được Phaolô minh thị ra trong Philip 2: 12, 13.
2:10–22  Vài phúc lợi của khôn ngoan. Người có sự khôn ngoan sẽ được bảo vệ khỏi con đường tà và có thể giữ nếp sống ngay thật đạo đức.
3:1–10  Bài thứ ba
Chủ đề của bài nầy là ‘tin cậy và vâng phục’. Tuân theo lời dạy của thầy là chìa khóa để được sống trường thọ và an lành. Sống lâu trên đất thường được Cựu Ước xem là một điều đại hạnh; tuân giữ những nguyên tắc nền tảng của cuộc sống ngay thật sẽ giúp con người tránh được bẩy dò, hầm hố nguy hại trong đời sống. Chủ đề đó được quảng diễn trong c. 4-10. Phần dưới trình bày nội dung của giáo huấn đem sự sống cho con người mà câu 1 đã đề cập.
3:11–20  Bài thứ tư
Chủ đề của phần nầy là niềm hoan lạc có được sự khôn ngoan, quảng diễn thêm chủ đề trên bài thứ ba là giáo huấn đem lại phần thưởng phong phú.
Mở đầu là lời cảnh cáo  rằng Đức Chúa Trời yêu thương có thể đưa thịnh vượng cũng như nghịch cảnh đến cho con cái Ngài. Tiếp theo, nó mô tả những phứơc lành cho những ai có được sự  khôn ngoan, và cuối cùng cho thấy địa vị của khôn ngoan trước mặt Đức Chúa Trời.
3:21–35  Bài thứ năm
Chúng ta đã quan sát trên trời, bây giờ đi xuống mặt đất. Chính sự khôn ngoan mà Đức Chúa Trời đã dùng để  tạo dựng và duy trì vũ trụ cũng rất hệ trọng trong tương quan giữa người với người trong cuộc sống hằng ngày. Có sự khôn ngoan lành mạnh và biết phân biệt chủ đích  sẽ đem lại sự sống, sức khỏe và sự bình an.
4:1–9  Bài thứ sáu
Phần nầy có một ít tự truyện. Tâm can nung nấu niềm ước muốn cho học trò mình được lành mạnh về đạo đức cũng như tâm linh, vị giáo sư kể lại những lời răn dạy khôn ngoan của cha mình, mà chính kinh nghiệm đời ông đã xác chứng, hầu thúc đẩy họ sớm tìm kiếm ‘sự khôn ngoan từ trên cao’.
4:10–19  Bài thứ bảy
Chủ đề là ‘Ghê tởm những gì gian ác’. Một lần nữa, giáo sư mở đầu bằng lời khuyên khẩn thiết kêu gọi các môn đệ hãy chịu dạy dỗ và giữ lấy những bài học họ đã học được.
4:20–27  Bài thứ tám
Chủ đề là ‘Bám lấy những gì thiện lành’. Thêm một lời kêu gọi hãy để ý những lời dạy ban sự sống của thầy (c. 20-22), tiếp theo là lời kêu gọi hãy giữ tấm lòng (c. 23), lời nói (c. 24), đôi mắt (c. 25) và bàn chân (c. 26, 27) trong con đường dẫn đến sự sống.
5:1–23  Bài thứ chín
Chủ đề là sự khôn ngoan áp dụng cho mối quan hệ nam nữ. Sau khi kêu gọi hãy để ý kỹ lời ông (c. 1, 2), vị giáo sư tiếp tục mô tả người đàn bà lẳng lơ và cách quyến rũ của chị ta (c. 3-6), khuyên hãy tránh xa chị ta (c. 7, 8), cảnh cáo tai họa cho người mắc mưu chị ta (c. 9-14), kêu gọi hãy nuôi dưỡng tình yêu thánh thiện (c. 15-19) và nhắc nhở rằng Đức Chúa Trời luôn theo dõi (c. 20-23).
6:1–19  Bài thứ mười
Bài nầy căn cứ trên nguyên tắc đã nêu lên trong  5:22. Ba ví dụ được nêu ra, kèm theo là bản liệt kê bảy tội chết.
6:1–5  Bảo lãnh nợ.  Luật pháp Is-ra-en hạn chế sự cho vay và cấn nợ. Khi giao thương phát triển, việc vay mượn và lãnh nợ cũng phát triển theo. Lãnh nợ là nhận trách nhiệm về món nợ của người khác. Theo Kidner, ở đây tác giả chỉ chống đối hành động thiếu thận trọng  chớ không chống đối tinh thần hào hiệp.
6:6–11  Kẻ lười biếng
6:12–19  Người của Bê-li-an. Đây là nguyên ngữ của từ ngữ ‘kẻ vô loại’. Chữ nầy thường được Cựu Ước dùng để chỉ kẻ gian ác. Phao-lô dùng để chỉ Sa-tan (II Cô 6:15).
Liên hệ tới người Bê-li-an là bảy tội chết mà Đức Chúa Trời gớm ghét.
6:20–35  Bài thứ mười một
Chủ đề là điều răn thứ bảy. Phần đầu nói về sự hướng dẫn của giáo huấn lành mạnh (c. 20-23), tiếp theo là những lời cảnh cáo nghiêm nghị đối với tội tà dâm (c. 24-25).
7:1–27  Bài thứ mười hai
Chủ đề cũng là nguy cơ của sự tà dâm. Trước hết là lời khuyên nên tuân giữ những lời khuyên của cha là đường sự sống (c. 1-5). Tiếp theo là câu chuyện sống động về chàng trai bị sa bẩy người đàn bà lăng loàn (c. 6-23). Câu 24-27 chỉ ra cốt lõi luân lý của bài học.
8:1–36  Bài thứ mười ba
Sau lời giới thiệu vắn tắt của giáo sư (c. 1-3), là lời lẽ của chính sự khôn ngoan được nhân cách hóa. Trái với người đàn bà lẳng lơ, mồi chài quyến rũ ở bài học trước, ở đây sự khôn ngoan lên tiếng dõng dạc nơi công cọng kêu gọi người ta tiếp nhận và công bố kho tàng phần thưởng của nàng (c. 4-21). Câu 22-31 đề cập đến vai trò của sự khôn ngoan trong công cuộc sáng tạo, tiếp theo là lời khuyên hãy giữ lời nàng (c. 32-36).
Ngay từ những thế kỷ đâu tiên,  Hội Thánh đã đem sự khôn ngoan được nhân cách hóa áp dụng cho Chúa Giê-su. Sứ đồ Phao-lô, Giăng và tác giả Hê-bơ-rơ đều nhìn thấy hình ảnh đó được trọn vẹn nơi “Đấng Christ là quyền năng của Đức Chúa Trời và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời” (I Cô 1:24). Chính Chúa chúng ta cũng nói đến sự khôn ngoan được nhân cách hóa của Đức Chúa Trời ( Lu 11:49), khi Ngài nói về các vị tiên tri, sứ đồ là những cái loa của sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, luôn bị người đời ghét bỏ.
8:1–21  Sự khôn ngoan giữa loài người
8:22–36  Sự khôn ngoan với Đức Chúa Trời
9:1–18 Tóm lược mừơi ba bài học
Những đề tài chính từ 1: - 8: được tóm tắt trong bức tranh mô tả sự khôn ngoan và ngu dại đều mời người tới dự tiệc.
9:1–12  Bảy cột trụ của sự khôn ngoan
9:13–18  Bữa tiệc của sự ngu dại (được nhân cách hóa trong cô kỹ nữ)
10:1—22:16 SÁCH SA-LÔ-MÔN, QUYỂN THƯỢNG
Những bài học trên kia mở đầu cho phần sưu tập những câu cách ngôn rời rạc. Tập nầy là tập dài hơn hết trong các tập, gồm 374 câu châm ngôn, nói là của Sa-lô-môn. Ta không có cách nào để biết chắc là của Sa-lô-môn, của một người trong triều, hay của một người thời sau. Nhưng con số ghi trong I Vua 4:32 cho ta biết việc sưu tập đã thực hiện dưới thời ông, và đây có lẽ là một trong những tập ấy.
Mỗi câu châm ngôn đều gồm hai dòng đối ứng nhau.  Mới trông, cách sắp đặt có vẻ tuỳ tiện nhưng thật ra cũng có sự cố ý tập trung những câu cùng đề tài hay cùng nguyên tắc vào  chung một nhóm; hoặc có những chữ hay câu lặp để kết nối những câu châm ngôn khác đề. Tuy nhiên, những câu châm ngôn được nói ra vào những thời kỳ khác nhau và ít khi chúng có liên hệ với nhau. Những đầu đề ghi chú chỉ có tính cách đại khái để tiện dụng thôi.
10:1–32   Phần thưởng của cuộc sống ngay thật và sai trái
11:1–31  Vài khía cạnh của sự gian ác
Làm ăn gian trá; kiêu căng dẫn tới sụp ngã; xuyên tạc của kẻ phản trắc; của cải không đem theo được; đời như cuộc đua vượt chướng ngại; hậu quả của ước muốn xấu xa; kẻ ác thình lình mất hết an ninh; những lời lẽ phá hoại; hậu quả của ngay thật và gian tà;  cái dại của thái độ khĩnh khi; người thèo lẽo; thiếu lời khuyên; cái hại của lãnh nợ; cái lợi của người đàn bà duyên dáng và người đàn ông mạnh bạo; mùa gặt của đời sống; cái đẹp chóng tàn; dục vọng và thành đạt; nỗi khổ của tham tiền; tìm kiếm sai đường và tin cậy sai chỗ; nỗi nóng; vô luật và đền trả.
12:1–28  Những hành vi tương phản
Phản ứng với kỷ luật; căn cội con người; hai hạng vợ; tư tưởng, lời nói và số phận của kẻ ác; được tiếng tốt là nhờ có ý thức; đại nhân thật sự; hạng người mà súc vật cũng thích làm việc cho; siêng năng và luời nhác; gian ác và ngay thật; hậu quả của lời nói; lời khuyên dạy; điều cần bỏ qua; lời xấu và tốt; dự liệu hay, dở; tự phản bội;  kêt quả của siêng năng và lười biếng; lo âu và thiện cảm; người giúp đỡ và người cản trở; phần thưởng của người siêng năng; hai con đường.
13:1–25  Đời sống và kỷ luật
Khôn ngoan và mỉa mai; lời nói thuần hậu; thỏa lòng; nói thật; giàu và nghèo; ánh sáng lu mờ; kết quả của hỗn láo; được nhanh, mất nhanh; hi vọng chậm đến; giữ điều răn; người có ý thức; sứ giả xấu và tốt;  chê bai chỉ trích; được điều nguyện ước; khôn và dại đều dễ lây; phần thưởng tới kỳ; giáo dục; thỏa mãn và bất mãn.
14:1–35  Cuộc sống kính sợ Chúa
Xây nhà; bước đi ngay thẳng; hậu quả của lời nói; lời chứng thật và dối; tìm kiếm sự khôn ngoan; công ty không sinh lợi; hành vi phân biệt;  cô đơn tột cùng; nơi ở vĩnh viễn; bảng chỉ đường sai; niềm vui nào cũng vương khổ lụy; đền bù; nhẹ dạ và sắc bén; nhạy giận; cái hại của dại khờ; phần thắng cuối cùng; láng giềng; làm xấu và tốt; làm việc và thèo lẽo; trang sức của khôn ngoan và điên dại;  chứng thật và dối; kính sợ Chúa; vua và dân; bình tĩnh; bóc lột kẻ nghèo; vinh quang của dân tộc; đầy tớ hiền và dữ.
15:1–33  Đi trên nẻo sự sống với tấm lòng vui mừng
Câu trả lời êm dịu và lời nói cay độc; lời nói có trách nhiệm; Đức Chúa Trời theo dõi; nói ra và nhận vào; thâu trữ kho tàng; tin kính; điều  Đức Chúa Trời yêu và ghét; chẳng có chỗ giấu kín; cay độc không hẳn là bạo dạn; vui và buồn; nuôi tâm trí thế nào nó sẽ lớn lên thế ấy; yến tiệc của tấm lòng vui; ước vọng trong đời;  sự giận; đường thẳng là đường ngắn; cha con;  Chúa là bạn người góa bụa; hối lộ;  Đức Chúa Trời ở bao xa?; mùi vị của tin mừng; chịu dạy dỗ.
16:1–33  Chúa theo dõi cuộc sống con người
Đức Chúa Trời tể trị mọi sự; kiêu căng, trung thành; hậu quả của sự đẹp lòng Chúa; ít quí hơn nhiều; chỗ của vua; chỗ của người buôn bán; quyền lực của vua; khôn ngoan đáng giá; đi trên đại lộ; kiêu căng và khiêm nhường; khôn ngoan dễ chịu; đường vào cõi chết; động cơ của kẻ hạ lưu; hành động tai hại; người đáng kính; tự chủ; Đức Chúa Trời định kết quả.
17:1–28  Nhà cửa, bạn bè và những kẻ dại dột
Một nhà bình an; có thể bỏ đặc quyền; Đấng luyện lọc; vu khống và ác tâm; niềm vui của ba thế hệ; nói năng bất xứng; hối lộ; giải hòa và chia rẻ; phê bình thấm thía; nỗi loạn, ngu dại, xâu xé; bất công; bạn lúc cần; lãnh nợ; đầu óc vặn vẹo; lưỡi cong queo; nỗi buồn do ngu xuẩn gây ra; niềm vui;  sửa đường cho ngay; tội trước tòa; im lặng là vàng.
18:1–24  Hiểm nguy và phước lành
Kẻ ích kỷ; người ngu diễu lượn; bạn đồng hành; nguồn khôn ngoan; công lý chết yểu; miệng luỡi bừa bãi; kẻ chây lười tai hại; tháp vững chắc và tường lung lay; hợm hĩnh, khiêm nhu và vội vã; mất tinh thần; tâm trí vững mạnh; biết cách cho tặng; nghe cả hai phía; cái lưỡi – nguồn an lạc và khí giới giết người; nguời vợ tốt; giàu và nghèo; tình bạn thật.
19:1–29  Các phẩm hạnh
Nghèo chính trực và giàu vô lại; tính toán và vội vã; oán hận Đức Chúa Trời; quyền lực của đồng tiền; trừng phạt kẻ chứng dối; khéo lo thân; quyền trong tay kẻ bất xứng; cái khôn của rộng lượng; không bì đuợc với vua; phước và họa trong nhà; luời nhác; giữ điều răn; cho nguời nghèo là cho Đức Giê-hô-va vay mượn; dạy con; giận không kềm chế; đầu tư cho tương lai; Đức Chúa Trời tể trị; trung thành với giao ước; kính sợ Đức Chúa Trời; quở trách có hiệu lực; thiếu tình nghĩa tự nhiên; chú vào lẽ thật; trừng phạt kẻ dại.
20:1–30  Những vấn đề thực tế
Nhậu nhẹt; cơn giận của vua; tránh cãi cọ; không làm khỏi ăn; sáng suốt trong tâm; trung thành thật sự; phước lành sau khi chết; phẩm tính tốt của kẻ trị dân; ai cũng có tội; mua bán gian dối là điều ghê tởm; hành động bộc lộ chân tính; công dụng của thân thể do Đức Chúa Trời làm ra; giá trị của tri thức; lãnh nợ; mùi vị sau cùng của thành công bất xứng; nghe lời bàn luận; thèo lẽo; kẻ vô tình nghĩa; đừng trả ác; sự tể trị thiên thượng; lời thề nguyện vội vã; ngọn đèn của Đức Giê-hô-va; căn bản của ngôi vua; trẻ già đều đáng quí; hình phạt có hiệu quả.
21:1–31  Đức Chúa Trời hành động
Đấng cai trị các vua chúa; Đức Chúa Trời cân nhắc tấm lòng; điều Đức Chúa Trời muốn; kiêu căng; cần mẫn; lợi bất chánh; quét sạch kẻ ác; lối gian tà; bà vợ lắm điều; bất nhân; bài học kỷ luật; kẻ ác bị diệt; nỗi thống khổ của kẻ nghèo; năng lực của lễ vật; công lý không làm hài lòng mọi người; xa hoa dẫn tới nghèo khổ; kho tàng và tài năng của người khôn; tự chủ; ước muốn và hào hiệp; hành đạo đáng tởm của kẻ ác; làm chứng; lì lợm; Đức Chúa Trời tể trị.
22:1–16  Luật nhân quả trong địa hạt tâm linh
Danh tiếng; nguồn gốc chung của con người; thận trọng; phần thưởng của Đức Chúa Trời; cái bẩy; giáo dục; năng lực của túi tiền; gặt hái điều bất công; hào phóng; tác giả của bất hòa; thanh liêm và hòa nhã; con mắt của Đức Giê-hô-va; kẻ luời viện cớ; kẻ gian dâm; nền kinh tế áp bức.
22:17—24:22 SÁCH CỦA NGƯỜI KHÔN NGOAN
Những câu phương ngôn trong sách nầy liên kết với nhau chặt chẽ hơn trong sách trước. Có nhiều câu tương tự những câu phương ngôn của nhà hiền triết Ai-cập Amenemope. Nó cũng có ba mươi phân đoạn như sách Amenemope, nhưng sách của Amenemope  sắp đặt thứ tự chặt chẽ hơn.
22:17–21  Chức năng của châm ngôn
Vị thầy kêu gọi học trò chú ý những câu phương ngôn mà thầy đã rút ra để dạy nguời (c. 17), hãy lấy những lời đó làm một phần của mình (c. 18), mục đích của những lời đó là đưa đến niềm tin trong Đức Giê-hô-va (c. 19). Và hãy tăng cường những thông hiểu về chân lý để được ích lợi cho người khác (c. 21).
22:22—23:11  Những điều cần tránh
Một số nguyên tắc khôn ngoan cần lưu ý để tránh khỏi phạm phải: Thứ nhất, bóc lột kẻ nghèo, những kẻ được Đức Giê-hô-va bênh vực (22: 22,23). Thứ hai, để cơn nóng giận xâm nhập (c. 24, 25), thứ ba là lãnh nợ; và thứ tư là xâm phạm biên giới (c. 28); tiếp theo là nhận xét về kẻ siêng năng được thăng tiến (c. 29).
Vị thầy khôn ngoan tiếp tục dạy về cử chỉ nơi bàn ăn (23:1-3), và cảnh cáo về tinh thần ngoi lên trong xã hội (c. 4,5), và hình ảnh nực cười về gả hạ tiện ở nhà (c. 6-8). Nói chuyện với kẻ ngu là vô ích (c.9); cuối cùng nhắc lại lời cảnh cáo đừng xâm phạm quyền lợi kẻ cùng khốn, vì họ có một Đấng Giải Cứu rất quyền phép để bênh vực họ (c. 10,11).
23:12–15  Những điều nên tìm kiếm
Phần nầy lại mở đầu bằng lời kêu gọi chú ý. Kỷ luật áp dụng từ khi còn rất nhỏ sẽ cứu trẻ em khỏi bị hại trong tương lai (c. 13,14); thấy trò khôn ngoan, thầy sẽ rất vui mừng (c. 15, 16); người kính sợ Đức Chúa Trời sẽ không thấy có gì đáng thèm muốn nơi những kẻ không kính sợ Đức Chúa Trời (c. 17): hi vọng người là ở trong tương lai (c. 18). Niềm hoan lạc của kẻ ăn chơi chỉ là ảo ảnh (c. 19-21). Nhắc lại ‘điều răn có kèm lời hứa’ (c. 22): con trai hiền đức khôn ngoan sẽ nhận được lời hứa đó.
23:26—24:2   Bẫy lưới trên đường đi
Lời kêu gọi lại được lặp lại (c. 26), vị giáo sư cảnh cáo coi chừng kỹ nữ và nguời đàn bà lẳng lơ (c. 27, 28); rượu chè, hoan lạc, suy nhược, nản lòng; mất năng lực, nghiện ngập (c. 29 - 35); không có gì đáng mong để được nhập bọn với kẻ gian ác (24: 1, 2).
24:3–22  Khác biệt giữa khôn ngoan và ngu dại
So sánh kẻ khôn ngoan với sự xây nhà, liên kết khôn ngoan với súc mạnh. Kẻ ngu có lúc sẽ tỏ ra hèn kém trước mọi người. Nguời khôn bênh vực kẻ bị áp bức, nếu bỏ qua bổn phận đó, Đức Chúa Trời sẽ biết. Khôn ngoan ich lợi trong hiện tại cũng như tương lai: người công bình dù ngã vẫn đứng vững trở lại còn kẻ ác sẽ sụp đổ hẳn, vì cơn giận của Đức Chúa Trời.
24:23–34   SƯU TẬP NHỮNG LỜI NÓI CỦA NGƯỜI KHÔN NGOAN
Đầu đề (c. 23a); xét xử thiên vị là đáng tởm (c. 23b-26); cần phải tính phí tổn và chuẩn bị vật liệu trước khi bắt đầu công việc (c. 27); nên tránh vụ kiện tụng vô bằng (c. 28,29); lặp lại 6: 6-11 về kẻ lười với lời cảnh cáo.
25:1—29:7   SÁCH SA-LÔ-MÔN, QUYỂN HẠ
25:2–28  Những giáo huấn đối chiếu
Đức Chúa Trời và vua; kiện tụng và tình người; nguời thế nào, lời nói thể ấy; được tiếng rộng rãi; quá nhiều của ngọt; ở lại quá lâu; cây sậy gãy; vui đùa quá trớn; làm ơn cho kẻ thù; vu khống; người vợ lắm lời; tin lành từ xứ xa; thỏa hiệp; nhiều mật quá; tự chủ.
26:1–12  Quyển sách của người dại
Danh dự không xứng kẻ dại; rủa sả vô cớ; làm sao đối phó với người dại?; có trả lời người dại không?; mối hại dùng người dại; triết gia rởm;  người dại không phục thiện; khoe khoang là quá dại.
26:13–16  Quyển sách của kẻ chây lười
Viện cớ để khỏi làm; kẻ chây luời lờ đờ; điểm cuối cùng của luời biếng; khôn ngoan của kẻ luời.
26:17–28  Quyển sách của bọn hạ tiện
Làm chuyện cắc cớ; đùa dai; kẻ nhen tranh cãi; người thèo lẽo; kẻ đạo đức giả; kẻ nói dối và nịnh hót.
27:1–27  Nhận xét về tương quan giữa người với người
Khoe về ngày mai; tự khoe chẳng được gì; đừng chọc kẻ ngu; ghen ghét; thẳng thắn; có và thèm muốn; kẻ lưu lạc; tình bạn; học trò là chứng tích cho thầy; cẩn thận; lãnh nợ; ân cần quá hóa bực mình; vợ lắm điều; giao du làm phát triển trí tuệ và tâm tính; phần thưởng; gương phản chiếu tâm trí; lòng tham không đáy; tiếng khen thử người; ngu bất trị; nguời chăn bầy.
28:1–28  Tôn giáo tinh tuyền
Lương tâm tạo ra kẻ hèn nhát lẫn can đảm; đất nước ổn định; áp bức; luật pháp bảo vệ con nguời; chỉ kẻ công bình mới hiểu công lý; nghèo ngay thật; niềm hãnh dịên và nỗi tủi nhục của ông cha; cho vay nặng lãi; lời cầu nguyện gớm ghiếc; số phận kẻ làm bại hoại; sự tin tưởng lầm lạc của kẻ giàu; thái độ đối với kẻ chiến thắng; ăn năn; niềm vui của sự kính sợ Đức Chúa Trời; kẻ cai trị bất xứng; tội đổ huyết; thanh liêm được an toàn; quả của siêng năng; cách làm giàu nhanh; quan án thối nát; thẳng thắn; đứa con ngang ngược; tin cậy hơn than lam; bước đi cách khôn ngoan; cho và giữ; tai họa của dân tộc.
29:1–27  Đức Chúa Trời và xã hội
Kết cục của ngoan cố; điều làm cho sung sướng; đứa con hoang đàng; công lý dấu ấn của kẻ cai trị; dua nịnh; lối đi bẩy dò; quyền lợi nguời nghèo; kẻ chế nhạo thiêu cháy; kẻ hùng hổ; bạo lực nhắm kẻ vô tội; tự chế; khuyến khích lừa dối; nguồn gốc chung con nguời; công lý cho kẻ nghèo; sửa chữa; kẻ ác cầm quyền; mặc khải hướng dẫn dân chúng; vội vã; kiêu căng và khiêm nhường; sợ người, tin cậy Đức Chúa Trời; ân huệ của vua, công lý từ Đức Chúa Trời; người xấu kẻ tốt đều gớm ghiếc nhau.
30:1–33    LỜI CỦA VUA AGURƠ
30:1–4  Hiểu biết về Đức Chúa Trời
Vua A-gu-rơ mong ước được biết về Đức Chúa Trời và nhìn nhận mình hoàn toàn ngu dốt cũng như cả loài nguời. Ông suy tưởng về những lực lượng bao la của vũ trụ.
30: 5, 6  Lời Đức Chúa Trời
30: 7-9  Một lời cầu nguyện
30: 10  Một câu phương ngôn biệt lập
30:11-14  Bốn biểu hiện của sự kiêu căng
30: 15, 16  Những thứ không hề thỏa mãn
30: 17   Đứa con ngỗ ngược
30: 18-20  Bốn điều kỳ diệu
30: 21-23  Bốn điều khó chấp nhận
30: 24-28   Bốn vật nhỏ mà khôn
30: 29-31   Bốn vật uy vệ
30: 32, 33   Lời khuyên chót
31: 1 - 9    LỜI CỦA LÊ-MU-ÊN
Lê-mu-ên là ‘con của sự khấn nguyện’ nghĩa là nhờ sự khấn nguyện mà có ông, giống như Sa-mu-ên vậy.
31: 10 - 31   PHỤ LỤC:  NGƯỜI VỢ TÀI ĐỨC
Đây là một bài thơ theo mẫu tự, câu đầu viết sau mẫu tự đầu và những câu sau viết theo hai mươi mốt mẫu tự kế tiếp của Do-thái. Bài thơ chắc không phải của Lê-mu-ên mà là của một tác giả vô danh phụ lục cho quyển sách. Nó tôn vinh vai trò phụ nữ, và nhấn mạnh tầm quan trọng của sự dạy dỗ của mẹ. Đây cũng là hình ảnh đáng chú ý của người đàn bà trong xã hội Do-thái: được chồng tin cậy và không phụ lòng tin ấy; siêng năng, khôn khéo, quán xuyến mọi việc (c. 16), nhắm vào lợi ích của gia đình, đồng thời vẫn tỏ ra rộng rãi, độ lượng (c. 20) và là người thầy trung tín, khôn ngoan (c. 26). Quyển sách kết thúc với lời ca ngợi  (c. 29) của chồng con người nữ tài đức, nhờ bà mà họ được sống no đủ, tiện nghi, được tiếng tốt (c. 23) và hiểu biết Đức Chúa Trời.
Câu hỏi thảo luận:
1.     Hãy so sánh câu “Nhứt là vợ dại trong nhà, thứ hai nhà dột, thứ ba nợ đòi” với Châm Ngôn 12:4 và luận về vai trò người vợ trong gia đình.
2.     Căn cứ vào Châm Ngôn 11:15, bạn có nên bảo lãnh người tị nạn hay không? Tại sao?
3.     Bạn hãy tìm một đề mục cho Châm Ngôn 11:24-26 và so sánh nó với câu Chúa Giê-su dạy trong Công Vụ 20:35 và những câu tương tự trong Tân Ước.



CHƯƠNG 9
NHÃ CA



Nhã ca có một vị trí đặc biệt trong Kinh Thánh. Đây là  một bài ca hay bài thơ mang chủ đề tình yêu nam nữ. Khác với những quyển sách khác trong Kinh Thánh, Nhã Ca không hề nhắc tới quan hệ giữa con người với Thiên Chúa. Toàn bộ quyển sách nói lên tình yêu nồng nhiệt của lứa đôi. Qua đôi mắt yêu đương, tất cả những cái gì của đối tượng, kể cả vóc dáng, thân thể của người yêu đều ngời lên vẻ đẹp rực rỡ của hoa cỏ đồng nội. Tình yêu của con người, ngay cả khi bao hàm dục tính trong đó cũng mang tính cách thiêng liêng và là ơn lành của Đức Chúa Trời cho cuộc sống. Bao nhiêu đó cũng đủ là lý do để cho Nhã Ca được kinh điển hóa rồi, huống hồ bài ca nầy còn nói lên được tình yêu tuyệt đẹp và cao quý giữa Đức Chúa Trời và dân Ngài, giữa Đấng Cứu thế và những kẻ được Ngài cứu chuộc.
I. TÁC GIẢ
Nhã ca trong tiếng Việt có nghĩa là “bài ca tao nhã, đẹp nhẹ nhàng”. Thật ra nguyên nghĩa của nó là “Bài ca của những bài ca” hay là “Đệ nhất ca”. Bản tiếng Việt dịch câu 1 của chương 1 là “Nhã ca của các bài ca mà Sa lô môn đã làm”. Theo nguyên ngữ Do thái câu đó là “của Sa lô môn”, không nhất thiết là do Sa-lô-môn làm, mà cũng có nghĩa là “về Sa-lô-môn” nữa. Nếu chấp nhận nội dung theo giả thuyết “người chăn cừu” như dưới đây, thì nghĩa thứ hai có phần đúng hơn. Tuy nhiên dù tác giả là ai đi nữa, thì giá trị của quyển sách cũng không hề thay đổi.
II. NỘI DUNG
Trải qua nhiều thế kỷ, có nhiều chủ trương khác nhau về chủ đích và nội dung của tác phẩm. Tuy nhiên, khi đọc kỹ quyển sách và suy luận ở nhiều khía cạnh khác nhau, thì giả thuyết “người chăn cừu” có vẻ hợp lý hơn cả.
Theo giả thuyết nầy thì toàn thể bài thơ là câu chuyện tình giữa một chàng chăn chiên và một cô gái quê tuyệt sắc người Su-la-mít. Đôi trai gái yêu nhau tha thiết bằng một mối tình mộc mạc trong trắng. Nhưng nửa chừng, người con gái bị thuộc hạ vua Sa-lô-môn đưa vào cung để làm phi tần cho vua. Sống giữa cung điện lộng lẫy xa hoa, lòng người con gái vẫn luôn luôn khắc khoải tưởng nhớ người yêu. Cuối cùng chàng trai tìm đến và cùng với người con gái bỏ trốn về quê, nơi đó đôi uyên ương được tái hợp và mối tình  nồng cháy, diễm lệ đã phóng vào thi ca cũng như tâm linh, một tiếng thơ trác tuyệt vang vọng mãi đến ngàn đời sau không bao giờ chấm dứt.
Toàn thể tác phẩm là một bản kịch thơ dài, gồm những lời đối thoại, độc thoại và mô tả, mà nhân vật chính là người thiếu nữ  Su-la-mít và người yêu của nàng, một chàng trai mục tử, cùng với những nhân vật phụ là vua và những cung nữ, những hầu cận của vua, những người trong gia tộc của nàng, giữa những khung cảnh núi đồi đồng quê, đầy hương sắc cũng như cung điện vương giả tráng lệ.
Sách Nhã Ca trong bản Kinh Thánh Việt Ngữ Cadman (do Phan Khôi và Trần Văn Dõng dịch) giả định đây là những lời yêu đương chỉ gồm giữa nhà vua và cô con gái, nhưng nếu phân tích kỹ ta sẽ thấy nhiều nhân vật khác nữa.
Bản Kinh Thánh Diễn Ý của Mục sư Lê Hoàng Phu đã dịch Nhã Ca thành thể thơ lục bát rất văn hoa và trữ tình, đồng thời cũng vượt được cách phân chia đơn điệu của Living Bible (ấn bản 1971) mà đưa vào những hoạt cảnh sống động hơn.
III. DIỄN TIẾN
Ở đây ta khó có thể lập được một bố cục minh bạch. Vì vậy, dựa theo giả thuyết ‘người chăn cừu’, ta cố gắng tạm sắp xếp diễn tiến toàn bài thơ như sau đây.
1:1.  Đề mục tập thơ
1:1-4.  Nàng thôn nữ Su-la-mít ở trong hậu cung tâm trí không ngớt nghĩ đến người tình ngoài ngàn dặm :
Ước gì chính môi miệng chàng hôn ta, Vì tình anh còn say đắm hơn cả rượu nồng (1:2) (Ở đây, đại danh từ chuyển từ ngôi thứ ba sang ngôi thứ hai, một cung cách thông dụng trong ngôn ngữ Do thái). Rồi từ thương nhớ chuyển sang ước mong được cùng chạy đi với người yêu. Tiếp theo đó là lời tán tụng về sức hấp dẫn của người yêu đối với phái nữ.
Từ câu 5-8 là đối thoại giữa thiếu nữ và các cung phi của vua. Các cung phi quan sát người thôn nữ mới được tiến cung với những cặp mắt soi mói, nàng thẹn thùng bào chữa cho nước da sạm nắng.
Thiếu nữ  liên tưởng đến người yêu, nàng tha thiết gọi vọng về phương trời xa:
Hỡi người em yêu, hãy cho em biết anh chăn bầy ở đâu,
Trưa nay anh cho cừu nghỉ ở nơi nào?
Tại sao em lại phải như người đàn bà che mạng đi (lang thang kiếm) bên những bầy cừu của bạn anh? (1:7)
Nghe giọng điệu si tình của thiếu nữ, các cung phi mĩa mai, ám chỉ xuất thân thấp hèn của cô gái:
Nầy Hoa Hậu, nếu cô không biết thì hãy theo dấu bầy cừu (mà tìm), và mang bầy dê nhỏ của cô ra cho chúng ăn cỏ bên cạnh lều của đám chăn cừu đi (1:8)
1:9-15. Qua một cảnh khác, thiếu nữ được đưa trình diện vua trong y trang lộng lẫy. Nhà vua để ý tới sắc đẹp của người thôn nữ, ca ngợi nàng:
Nầy em yêu dấu, ta thấy em (rực rỡ) giống như con ngựa cái của ta khi buộc vào xa giá của vua Pha-ra-ôn (1:9)
Đôi má em thật đẹp bên đôi hoa tai, cổ em thật xinh trong chiếc vòng trân châu (1:10)
(Chúng) ta sẽ làm cho em đôi hoa tai vàng có cẩn bạc (1:11). Có lẽ vua nói lời trên trong khi ngồi bàn ăn với thiếu nữ, trên bàn có lẽ chưng bày những chùm hoa thơm.
1:16 – 2:7. Lời tán tụng của vua  nhắc nàng nhớ tới người yêu, nhớ tới khung cảnh thơ mộng của mối tình đầu, mối tình trong sáng giản dị giữa vùng đồi núi đồng quê:
Anh yêu của em ơi, anh đẹp trai lắm! dễ thương vô cùng! Giường chúng ta là thảm cỏ xanh (1:16)
Sườn nhà chúng ta là những cây hương nam, Rui kèo là những cây thông (1:17)
Anh là hoa tường vi của Sa-rôn, (một loại hoa tulip ở vùng đồi núi Sy-ri) là hoa huệ trong trũng (2:1)
Người yêu tôi giữa đám con trai cũng như cây táo giữa rừng cây hoang vậy. Tôi sung sướng ngồi dưới bóng mát của chàng và nếm trái ngọt ngào  của chàng (2:3).
Chàng đem tôi vào  căn nhà yêu thương (trong nguyên ngữ là “nhà rượu” có nghĩa là “nhà yến tiệc” hay “nhà yêu thương”. Đối chiếu với đoạn dưới thì nghĩa sau thích hợp hơn) và giăng lên tôi lá cờ của tình yêu (2:4).
Dùng bánh nho làm tôi lại sức, và bồi dưỡng tôi bằng trái táo, vì tôi mắc bệnh tương tư. (2:5)
Tới đây, nàng quay qua gọi các cung phi khác, có thể là chính Sa lô môn kêu gọi (Bản Kinh Thánh tiếng Pháp Louis Segond) hoặc cũng có thể là tiếng vọng của chàng mục tử:
Hỡi các cô gái Giê ru sa lem, tôi van nài các cô. Bằng bầy dê rừng và bằng bầy nai cái. Đừng khuấy động và đánh thức tình yêu trước khi nó muốn. (2:7)
Trong cung điện xa hoa, lòng người thiếu nữ không bao giờ ngớt tưởng nhớ người yêu. Hình ảnh người yêu choán ngập tâm tư nàng. Ngay cả khi đối diện với vua hay các cô gái khác, nàng chỉ thấy và nói một điều duy nhất: người yêu, và tình yêu của chàng.
Từ 2:8 – 3:5, khung cảnh chuyển qua những vùng núi đồi miền quê với hình ảnh chàng trai tự do, linh hoạt giữa hương đồng cỏ nội. Tại căn nhà nơi cố hương đã có lần người con gái mất dấu người yêu, và hớt hải đi tìm chàng cho bằng được ngay cả giữa đêm.
Chữ “ban đêm” ở 3:1, nguyên ngữ là số nhiều, bản Revised English Bible dịch là “đêm này qua đêm khác”. Do đó, Balchin nghĩ rằng có thể thiếu nữ đã kể lại giấc mơ của mình trong lúc đang sống giữa hoàng cung. (John A. Balchin - Erdmans Bible Commentary)
2:11-15 là những câu thơ tuyệt tác đặt tình yêu  vào bối cảnh rực rỡ của mùa xuân. Còn gì thích hợp cho bằng? Mùa xuân, Mùa của tuổi trẻ, của hy vọng, của dòng sống linh hoạt trào dâng để đổi mới vũ trụ và phục hưng con người. Phải chăng niềm ước mong của người tín đồ của Chúa là được ra khỏi chuỗi ngày lạnh giá trong mối tương giao với Chúa để bước vào mùa xuân  rực rỡ tin yêu, đón nhận nhựa sống tuôn đổ từ Thần Linh thiên thượng, để được hưng phấn và dõng dạc tiến về một mùa xuân bất tận của thiên đàng? Không lạ gì khúc Kinh thánh này được  rất nhiều người ưa thích giảng dạy.
3:6-11 mô tả cuộc diễn hành xa giá của Sa lô môn. Những nghi vệ triều đình và trang hoàng xa hoa lộng lẫy của kiệu vua thật đối chọi hẳn với cuộc sống phóng khoáng, giản dị giữa thiên nhiên của chàng trai mục tử.
Chương 4 là cả một bài tình ca, tán dương sắc đẹp của người thiếu nữ và bày tỏ tình yêu đối với nàng.
Khúc đầu 4:1-7 dựa vào một bài dân ca của Sy ri cho đến bây giờ vẫn còn dùng vào các dịp đám cưới. Phần sau 4:8 – 5:1, cũng là lời tán tụng cô dâu, nhưng trong bối cảnh vùng quê Li-ban.
Ở đây, lời lẽ mô tả hình ảnh thân thể của người con gái, đối với một số nguời Việt nam có thể là sống sượng hay quá táo bạo, vì vậy dịch giả bản Việt ngữ đã dùng chữ ‘nương long” để chỉ đôi nhũ hoa, hầu hết độc giả nếu không tìm hiểu chắc không thể biết là nghĩa gì. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng Thượng đế Toàn Thiện, cũng là Thượng đế của Chân và Mỹ. Đối với Ngài, những gì được sinh ra dưới trời là tốt đẹp, không có gì là xấu xa. Chính những tư tưởng tà ác, ham muốn, chiếm đoạt của người khiến cho sự vật tự nhiên, chân thật, đẹp đẽ của cõi thiên nhiên trở thành méo mó, lệch lạc, đáng ghét.
Từ 5:2 – 6:3, ta lại chứng kiến một mất mát và một cuộc tìm kiếm nữa. Giữa đêm khuya, chàng mục tử đầu đẫm sương đến gõ cửa nhà nàng. Nàng chần chờ ngần ngại phải thay áo và bước xuống đất lấm chân, cuối cùng đi ra mở cửa thì chàng đã quay lưng đi mất. Nàng vội vàng chạy ra đường phố tìm chàng, vi phạm giờ giới nghiêm và bị lính tuần đánh đập thương tích.
Những vết thương đó là chứng tích của thử thách trắc nghiệm đối với tình yêu. Đó là dấu ấn không phai của mối tình đã ngự trên ngôi độc tôn trong lòng người thiếu nữ. Những lời lẽ mô tả của người yêu dấu sau đó (5:10-16) vẫn thường được dùng để giảng về Chúa Giê-xu trong lòng người tin.
“Chúng ta yêu vì Chúa đã yêu chúng ta trước” (I Giăng 4:19). Chính Chúa đã đi tìm chúng ta, không phải chúng ta đi tìm Ngài. Chính chúng ta từ khước Chúa, chứ Ngài không bao giờ khước từ chúng ta. Chỉ khi lạc mất Ngài, chúng ta mới thấy đời sống thật vô nghĩa. Khi cuộc sống bị bầm dập, đọa đầy, linh hồn chúng ta mới càng thấy rõ về vẻ đẹp của Chúa. Lúc đó, tình yêu mới thật sự trưởng thành.
Từ 6:4 – 8:4, trở lại cảnh hoàng cung với những lời khen tặng của vua đối với thiếu nữ, lời kêu gọi của cung nữ và những lời độc thoại của thiếu nữ gởi đến người yêu. Một lần nữa cung điện lộng lẫy và những lời ngọt ngào quyến rũ vẫn không lay chuyển được lòng nàng.
Cuối cùng 8:5-14 là cuộc tái ngộ giữa đôi bạn yêu đương tại nơi chôn nhau cắt rốn, nơi căn nhà của mẹ, nơi có đứa em tới tuổi cập kê, nơi có vườn nho vua Sa-lô-môn cho mướn. Nhưng vườn nho của thiếu nữ (thân thể nàng, cuộc đời nàng, trái tim nàng) không phải là cái gì có thể trao đổi bằng tiền bạc. “Nếu có ai đề nghị đưa cả tài sản để đổi lấy tình yêu, tất sẽ bị chê cười” (8:7b). Tình yêu quả thật “mạnh như sự chết” (8:6)!
Những dẫn giải trên đây theo chiều hướng giả thuyết “chàng mục tử” tuy cũng có nơi có vẻ gượng ép, nhưng vẫn hợp lý hơn là chỉ có Sa-lô-môn trong vị trí của chàng trai.
Rất có thể đây là những vần thi ca riêng biệt  được soạn cho những đôi trai gái thuộc những tầng lớp khác nhau đọc và diễn đối đáp trong ngày cưới của họ, đã được Sa-lô-môn sưu tập và thêm vào đó những sáng tác của ông.  Cuối cùng vì cách mô tả tình yêu tuyệt diệu của nó, đã được dân Chúa kinh điển hóa để cho thấy tình yêu giữa Chúa và dân Ngài.
IV. SUY CẢM
Tình yêu là nguồn cảm hứng cho thi ca và nghệ thuật của mọi dân tộc. Khi đưa vào bình diện tâm linh, nó đem những cảm xúc rạo rực của sự thu hút lứa đôi lên đỉnh cao của Chân Thiện Mỹ, nơi con người tìm thấy chính mình như chiếc tàu lênh đênh bị núi nam châm của Tình Yêu Vĩnh Cửu hút về cõi vô biên. Dưới đây là một số cảm nghĩ hướng lên chiều cao ấy của tâm hồn khi những dòng thơ trữ tình của Nhã Ca được đọc bằng nhãn quan của người đi tìm chân lý.
NỤ HÔN ĐẦU ĐỜI
(Đọc Nhã Ca 1:1-5)
“Nguyện chàng hôn tôi bằng cái hôn của miệng chàng, vì ái tình chàng ngon hơn rượu” (Nhã Ca 1:2).
Nhã Ca, Bài Ca của Mọi Bài Ca, một áng thơ diễn tả tình yêu lứa đôi, đã được kinh điển hóa, mặc dù trong suốt tập thơ, chỉ nhắc đến tên Đức Chúa Trời có một lần, mà không đả động gì đến luật pháp, sự thờ phượng, lời tiên tri, hay bất cứ một điều gì có tính cách tôn giáo thiêng liêng.  Ta học được điều gì ở đây?  Phải chăng Thánh Linh muốn dạy chúng ta rằng khi tình yêu chân thật ngự trị trên quan hệ giữa người và người, thì đó chính là tôn giáo, là tín điều, là tất cả những gì Thượng Đế mong muốn nhìn thấy nơi con người.  Tình yêu tự nó là thiêng liêng, không cần phải nhân danh bất cứ một điều gì, khi nó thuần khiết, không bị ô nhiễm bởi dục vọng hay tư kỷ của con người.  Điều đó thật ra không có gì lạ, bởi vì tình yêu chính là bản thể của Thượng Đế (I Giăng 4:16).
Điều thứ hai ta thấy được, là khi dân thánh đưa những lời đối đáp của đôi trai gái, tương tự những câu hò dân gian Việt Nam vào hàng ngũ Thánh Kinh, họ đã tôn vinh nhân sinh, giống như Chúa Cứu Thế, khi Ngài làm tuôn tràn rượu ngon cho thực khách được hả hê trong bữa tiệc cưới tại Ca-na. Những lời tình tự của đôi trai gái, những tiếng cười đùa trong một bữa tiệc, là những cái gì rất trần tục, rất con người; nhưng khi được nhìn dưới một nhãn quan tâm linh, nó trở thành cái gì rất thiêng liêng, rất trời!  Ta sẽ phạm lỗi lầm tai hại nếu ta tách rời tin kính khỏi cuộc đời, nếu ta “thánh hóa” đến độ xem những sinh hoạt ngoài xã hội như là của thế gian sa đọa, nếu ta đặt các giá trị văn hóa dân tộc và con người đối chọi với niềm tin của mình.
Đạo chân chính là nhận thấy được sự thiêng liêng trong điều trần tục.  Chính vì vậy mà Nhã Ca mở đầu với nụ hôn đắm đuối của tình yêu đầu đời.  Kinh Thánh ưa dùng hình ảnh chồng và vợ, chàng rễ và cô dâu, chàng trai và người yêu, để diễn tả tình yêu của Thượng Đế và dân Ngài.  Có tình yêu nào mà không bắt đầu bằng một cái hôn?  Cái hôn làm rung chuyển cả tâm tư, tình cảm, cái hôn khai mở cả một khung trời mới cho người được yêu.
Quan hệ giữa bạn và Chúa đã có một bắt đầu như thế chưa?  Bạïn có bao giờ cảm nhận được nỗi chấn động của linh hồn khi bạn tiếp xúc với tình yêu Thượng Đế?  Bạn có cảm thấy tình yêu Chúa làm bạn say sưa như uống cạn ly rượu nồng, thấy cả thế giới xung quanh như bừng sinh khí, linh hoạt hẳn lên, vui tươi hẳn lên?  Nếu chưa, đây là lúc bạn cần ngồi lại kiểm điểm, đánh giá lại mối tương quan giữa bạn với Chúa.  Cho đến chừng bạn có thể nói:  “Người hãy kéo tôi theo với, chúng ta cùng chạy tới ...” (1:4)
DƯỚI MẮT NGƯỜI YÊU
(Đọc  Nhã Ca 1:5-17)
“Hỡi bạn tình ta, mình thanh lịch thay, mình thanh lịch thay” (1:15)
Tình yêu thật là chủ quan và cũng thật là bao dung.  Tình yêu thăng hoa con người và thăng hoa đời sống.  Người con gái Su-la-mít làm vườn, nước da sạm nắng, nhễ nhại mồ hôi, dưới mắt người yêu, không khác gì vương hậu của Vua Sa-lô-môn, y phục lộng lẫy, sực nức hương thơm (1:6-12).
    Trước khi đi lang thang tìm kiếm tình yêu với tâm trạng bồn chồn, người con gái nhận ra mình đã bị mặt trời làm nám đen, trong khi mãi lo vườn nho nào khác mà chính vườn nho mình lại không màng chăm sóc đến (1:6).
Đó là tâm trạng của Thánh Augustin khi ông viết quyển Xưng Tội (Confession).  Suốt những năm tháng thanh xuân ông đã trau giồi văn chương, biện thuyết và đã sớm trở thành một giáo sư danh tiếng.  Nhưng trong lúc đó, ông lại xao lãng vườn nho của bản thân mình, linh hồn của ông.  Ông đã ăn chơi trác táng, cho thỏa thích tuổi xuân.  Nhưng tâm hồn ông vẫn luôn bất an, cho đến khi bởi lời cầu nguyện của bà mẹ đạo hạnh Monique, ông gặp được Chúa và tìm được nguồn an bình.  Ông đã viết lên lời cầu nguyện sám hối:  “Lạy Đức Chúa Trời, vì loài người chúng con được dựng nên cho Ngài, cho nên chúng con cứ luôn khắc khoải bất an cho đến chừng linh hồn chúng con được an nghỉ trong Ngài.”
“Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ gặp.”  Ai chân thành tìm kiếm Chúa, chắn chắn sẽ được gặp Ngài, sẽ tìm được tình yêu của Ngài.  Tình yêu của Chúa tiếp nhận toàn thể con người của bạn, kể cả những bất toàn khiếm khuyết của bạn.  Tình yêu đó nhìn thấy cái đẹp của linh hồn bạn, mặc dù bạn đã từng lăn lóc giữa đời, đã từng bị những tia nắng dục vọng thiêu đốt, làm thui chột vẻ đẹp thanh tân của con người hồn nhiên nơi bạn.
Tình yêu Chúa tôn vinh bạn, đưa bạn lên hàng vương giả.  Đó là tình yêu linh hóa, thánh hóa bạn, dù bạn có như thế nào.  Đó là tình yêu bạn đáng bỏ mọi sự để tìm kiếm.
MÙA ĐÔNG ĐÃ QUA
(Đọc Nhã Ca 2:)
“Kìa, mùa đông đã qua; mưa đã dứt hết rồi” (2:11).
Cuộc gặp gỡ giữa ta và Chúa Cứu Thế luôn luôn đưa nhận thức ta lên chiều kích tâm linh mới mẻ.  Khi tình yêu Chúa kéo bạn đến với Ngài, bạn sẽ thấy Ngài nổi bật, rực rỡ như những đóa hoa tường vi giữa đồng bằng Sa-rôn, như những cánh hoa huệ vươn cao giữa ngàn cỏ xanh trong trũng.  Ngược lại, Ngài cũng thấy bạn như bông hoa huệ nỏn nà nở ra giữa gai gốc, mặc dù tự bản chất, bạn, tôi, hay bất cứ một người nào trên trần gian nầy đều chỉ là gai gốc cả.
Chính Chúa đã đưa bạn lên địa vị đó.  Ngài đưa bạn từ những chuỗi ngày lang thang tìm kiếm, bước vào phòng yến tiệc, và bạn rung động khi ngọn cờ tình yêu của Ngài bắt đầu phấp phới trên cuộc đời bạn (2:4).  Bạn tìm được nơi nương tựa, nghỉ ngơi, trong cánh tay bảo bọc của Ngài.  Tại đây, linh hồn nao sờn của bạn được hưng phấn, tâm trí mòn mỏi của bạn được bồi bổ.  Chúa phục hồi và kiện toàn con người bạn bằng lương thực của cõi trời.  Niềm khát khao của bạn được thỏa đáp.  Nỗi trống vắng cô đơn của linh hồn đi hoang nay trở về được lấp đầy bởi sự hiện diện êm ả nhưng đầy quyền năng của Ngài (2:5-6).  Bạn thích thú được “ngồi dưới bóng Người” và tận hưởng những giây phút thiêng liêng ngọt ngào mà vua Đa-vít đã mô tả trong Thi Thiên 23 trứ danh (2:3).
Bạn được nghe tiếng Người lanh lảnh vang qua đồi núi, vọng vào khung cửa hồn bạn, dù bạn đang say ngủ hay thu mình trong những mối bận tâm riêng tư (2:9).  Xung quanh bạn, bóng tối vẫn bao trùm.  Dường như băng giá vẫn  chưa tan, cây cỏ vẫn còn ủ rủ, úa vàng.  Nhưng Người đã đến, đánh thức bạn dậy bằng những tiếng gọi âu yếm, chan chứa yêu đương.  Người đã đến, mang cho bạn một thông điệp hi vọng.  Người muốn bạn bước vào một thực tại mới mẻ huy hoàng:  “Kìa mùa đông đã qua, mùa đã dứt hết rồi”  (2:10-17).Bạn hãy vùng dậy, bước ra với Người.  Bạn sẽ thấy Người đang hiền từ chăn bầy, và với Người, hừng đông đã ló dạng và bóng tối đã tan đi (2:16,17).  Bạn sẽ chứng kiến một mùa xuân mới với ngàn hoa khoe sắc thắm, với chim chóc líu lo rộn rã tiếng hát yêu đời (2:11-12).
Hãy vùng dậy tận hưởng mùa xuân Ngài đem đến cho bạn.  Hãy vùng dậy để cảm thấy sức sống mới tràn dâng trong bạn.  Hãy để cho những trái xanh tươi đơm kết nơi tâm linh bạn và bạn sẽ dâng lên Ngài những trái chín mọng thơm tho của đời bạn (2:13).  Nhưng hãy coi chừng những con chồn nhỏ, những thói hư tật xấu, có thể phá hỏng cả mùa xuân thắm tươi của bạn (2:15).
GẶP NGƯỜI YÊU DẤU
(Đọc Nhã Ca 3:)
“Tôi gặp người mà lòng tôi yêu mến, bèn nắm lấy người không khứng buông ra” (3:4)
Trắc nghiệm của tình yêu là những khoảng cách không gian.  Tình yêu chân chính không thể nào chịu được sự chia cắt.  Chính vì vậy mà bạn sẽ luôn luôn ở trên hành trình tìm kiếm.  Trước kia bạn tìm kiếm Chúa, vì chỉ có tình yêu Ngài mới lâáp đầy được nỗi trống vắng trong linh hồn bạn.  Nhưng khi bạn thuộc về Ngài rồi, nếu tình yêu Chúa đang thật sự thống ngự linh hồn bạn, bạn sẽ còn khát khao Ngài nhiều hơn, mong muốn được gần gủi Ngài nhiều hơn, và bạn sẽ cứ tiếp tục tìm kiếm Ngài.  Có đêm, người nữ Su-la-mít choàng tỉnh dậy, thấy vắng bóng người yêu, nàng chổi dậy đi rảo khắp phố phường tìm kiếm.  Giữa đêm thanh vắng, nàng chẳng biết hỏi thăm ai ngoài toán tuần tra đường phố, nhưng họ chẳng giúp gì nàng được.  May thay, cuối cùng nàng đã gặp mặt người yêu.  Cuối cùng, công lao tìm kiếm của nàng đã được tưởng thưởng.  Nàng nhất định nắm chặt lấy người yêu, không chịu buông ra nữa, cho đến khi đưa được chàng về đến căn nhà của nàng (3:1-4).
Bạn có bao giờ sực tỉnh dậy giữa một cuộc mãi mê đeo đuổi mộng ước riêng tư để chợt thấy rằng mình đã xa Chúa mất rồi.  Ngài đã vắng bóng trong cuộc đời bạn, trong dự ước toan tính của bạn.  Nếu bạn vẫn còn trân quí mối tình giữa bạn và Chúa, nếu bạn thấy chỉ Chúa mới đem ý nghĩa thật sự cho đời sống bạn, thì đừng chần chờ gì nữa, hãy bắt đầu một hành trình mới, một cuộc tìm kiếm mới, cho đến khi được gặp lại Ngài.
Xa giá nghi vệ, võng lọng xênh xang của Vua Sa-lô-môn đã không lay chuyển được tấm lòng người thôn nữ Su-la-mít (3:7-11), vì nàng đã hiến dâng trọn vẹn trái tim cho chàng trai chăn chiên.  Sự xuất hiện của chàng, trước mắt nàng, uy nghi như một dõng sĩ từ đồng vắng bước ra, thơm tho tinh khiết như làn khói bốc lên từ bàn thờ xông hương (3:6), chẳng gì có thể chia cách được một tình yêu như vậy.
TRONG VƯỜN ĐỊA ĐÀNG
(Đọc Nhã Ca 4:1 - 5:1)
“Hỡi gió bắc, hãy nổi dậy;  hỡi gió nam, hãy thổi đến; hãy thổi trong vườn tôi hầu cho các mùi thơm nó bay ra” (4:16).
Phao lô nói với Hội Thánh Cô-rin-tô rằng:  “Tôi dâng anh em như một nàng trinh nữ trong trắng cho Chúa Cứu Thế” (I Cô 13:2).  Hội Thánh Cô-rin-tô đầy lỗi lầm bất toàn còn được Đức Chúa Trời tiếp nhận như thế thì còn ai mà không dám hi vọng? Điều đó khiến chúng ta hiểu tại sao bài hát “Amazing Grace” (Hồng Ân Lạ Lùng) từng được hàng triệu người trên thế giới say mê, ca hát với những giọt nước mắt biết ơn.
Trong khúc sách nầy, người thiếu nữ Su-la-mít được người yêu mô tả bằng lối ví von tượng hình, với một tình cảm sôi nổi, như thể bị tình yêu che mờ không thấy được thực tại.  Chúa không phải không biết đến những yếu đuối vấp phạm của dân Ngài, nhưng tình yêu Ngài bao trùm toàn thể con người bạn trong màu xanh tươi mát của hồng ân Ngài, Ngài nhìn qua lăng kính của hồng ân đó và kêu lên rằng:  “Hỡi bạn tình ta, mình vốn xinh đẹp mọi bề, nơi mình chẳng có tì vết chi cả.”  Bạn được xưng tụng như vậy, không phải vì bạn xứng đáng, nhưng vì một điều mà Chúa cho là quí hơn hết nơi bạn:  Tình Yêu.  Chúa trân trọng tình yêu bạn, thưởng thức tình yêu bạn, một khi bạn đến với Ngài bằng tấm chân tình:  “Hỡi em gái ta, tân phụ ta ơi!  Ái tình mình đẹp là dường nào. Ái tình mình ngon hơn rượu” (4:10).
Một cuộc đời khi được giao hòa với Chúa trong tin yêu, sẽ là vườn địa đàng (3:13)  Ngôi vườn đó có mạch nước sống tuôn tràn (3:15), như lời Chúa nói:  “Kẻ nào tin Ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng mình”  (Giăng 7:38).  Vườn đó sẽ là nơi ương trồng nuôi dưỡng những hoa thơm quả ngọt để dành cho Người Yêu thưởng thức (4:16b, 5:1, Galati 5:22).  Hãy gọi gió bắc đến, hãy kêu gió nam lại, hãy nhờ những cánh gió mang hương thơm của vườn lòng đời bạn mà tung đi bốn phương (4:16).  “Tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài làm cho chúng tôi được thắng luôn luôn, và bởi chúng tôi, Ngài rải mùi thơm về sự nhận biết Ngài khắp chốn!” (II Cô-rin-tô 2:14).
ĐI TÌM NGƯỜI THƯƠNG
(Đọc Nhã Ca 5:2 -6:3)
“Miệng người rất êm dịu;  thật, toàn thể cách người đáng yêu đương.” 5:16
Đến đây ta lại chứng kiến một cuộc tìm kiếm mới.
Chỉ khi nào bạn đánh mất điều mình đang có, bạn mới thấy nó là quí.  Biết bao nhiêu người đã hi sinh để khôi phục tự do, độc lập khi quốc gia dân tộc họ đánh mất những thứ đó. Tình yêu cũng vậy, một khi đã mất đi, muốn tìm lại, bạn phải trả giá, có khi là một giá rất đắt.  “Đói lòng ăn nửa trái sim, uống lưng bát nước đi tìm người thương.”  Khi người thương đã vắng mặt, người đi tìm phải bỏ công lao lặn lội, quên cả đói khát.  Vậy mà nhiều lúc vì thờ ơ người ta đã đánh mất tình yêu.
Đó là tâm trạng của thiếu nữ Su-la-mít khi người yêu tìm đến giữa canh khuya, gõ cửa đợi chờ dưới sương đêm.  Trong khi tiếng kêu gọi thiết tha của người yêu vang lên bên ngoài, người thiếu nữ phân vân vì còn đang quyến luyến với chăn êm nệm ấm, thì người yêu đã bỏ đi (5:2-6).  Hình ảnh nầy khiến ta liên tưởng đến Hội Thánh Lao-đi-xê, một Hội Thánh hâm hẩm trong những bức thư tiên tri của sách Khải Huyền.  Sau khi khuyên trách tinh thần ỷ lại vật chất và thờ ơ nguội lạnh của họ, Chúa kêu gọi họ:  “Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ;  nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người và người với ta”  (Khải huyền 3:20).  Tình yêu không thể hâm hẩm, tình yêu không có tính toán.  Một trái tim nguội lạnh không thể giữ được tình yêu.  Tình yêu khi bị lọc qua đầu óc tính toán, nó sẽ không còn nữa.  Chúa muốn chúng ta yêu Ngài bằng trái tim nóng bỏng, bằng thái độ tự nhiên ngây thơ của một em bé.  Nếu bạn  đang hài lòng với những tiện nghi ấm cúng của riêng mình, và đang ngần ngừ lựa chọn giữa Chúa và địa vị hiện tại của mình, thì hãy coi chừng.  Có thể là Chúa không còn ở đó với bạn nữa đâu.  Khi ấy bạn mới nhận thức được nỗi mất mát lớn lao của mình.
Chính vì vậy mà người nữ Su-la-mít đã vùng dậy, rời bỏ chỗ nằm ấm cúng, thơm tho, để xông pha vào đêm tối, đi ra các đường phố tối tăm, gồ ghề, bẩu thỉu, tìm cho được người yêu, bất chấp cả giờ giới nghiêm, đến nỗi đã bị lính tuần đánh đập thương tích (5:6-8).
Bạn vẫn còn cơ hội, nếu thật sự Chúa vẫn giữ một địa vị tôn quí trong tâm tưởng bạn, nếu đối với bạn, Ngài vẫn là “đệ nhất trong muôn người” (5:10), nếu bạn vẫn cảm biết “toàn thể cách Người thật đáng yêu đương” (5:16).
“Vậy hãy sốt sắng lên và ăn năn đi” (Khải 3:19). Đó là tiếng gọi bạn dấn thân  vào con đường tìm kiếm phục hưng. Trên con đường đó, có thể bạn gặp trở lực, có thể bạn sẽ phải mang thương tích, (cũng chẳng sao, đó chỉ là một đoạn đường nhỏ của thập tự giá!) Nhưng rồi bạn sẽ thấy mình được đền bù xứng đáng: một cuộc trùng phùng với Chúa trong niềm vui mới, bạn sẽ được hưởng giây phút thần tiên trong tình yêu tràn đầy, khi bạn có thể tuyên bố với cả vũ trụ rằng: “Tôi thuộc về Người Yêu tôi, và Người Yêu tôi thuộc về tôi” (6:3).
NGƯỜI TÌNH RẠNG RỠ
(Đọc Nhã Ca  6:4 - 7:9)
“Người nữ nầy là ai, hiện ra như rạng đông, đẹp như mặt trăng, tinh sạch như mặt trời, đáng sợ (uy dũng) khác nào đạo quân dương cờ xí”  (6:10).
  
Cả khúc sách nầy mô tả vẻ kiều diễm của cô dâu, vừa lặp lại ý của chương 4, vừa tán dương cô dâu bằng những hình ảnh linh hoạt của thiên nhiên, kết hợp với vẻ đẹp tinh xảo của những nghệ phẩm quí giá ở chốn hoàng cung.
Mặc dầu thiếu nữ được mô tả từ đầu xuống thân, rồi lại từ bàn chân lên đến đỉnh đầu, nhưng những hình ảnh ví sánh thật trong sáng, không gợi lên những liên tưởng nhục thể, khiến ta nghĩ tác giả muốn vượt lên khỏi tình yêu eros giữa đôi trai gái để chỉ hướng về tình yêu agape, thứ tình yêu cao cả giữa Đức Chúa Trời và con người.
Khi thánh Giăng trên đảo Bát-mô được thiên sứ chỉ cho thấy người vợ mới cưới của Chiên Con, ông đã nhìn thấy thành thánh Giê-ru-sa-lem từ trên trời xuống “rực rỡ vinh hiển của Đức Chúa Trời” (Khải 21:11). Cùng đích công cuộc sáng tạo của Thượng Đế là hình thành một nhân loại mới có thể chiếu toả vinh hiển của Ngài, thay thế cho cái nhân loại đã đánh mất vinh quang Ngài vì sa ngã, nghịch mạng Ngài. Nhân loại mới ấy là Hội Thánh, là những kẻ được chuộc bởi Chiên Con, cũng là ý trung nhân của Ngài.
Tình yêu agape của Chúa đã trang điểm và làm tôn cao vẻ đẹp của Hội Thánh. Nhưng đó không phải là sự diễm lệ bên ngoài mà là vẻ đẹp thuần khiết vì được tẩy sạch con nguời bề trong.
Chúa khiến Hội Thánh Ngài xuất hiện giữa thế giới rạng rỡ như bình minh. Vinh quang từ nơi Tân Nương Ngài đập vào mắt những người chứng kiến khiến họ không thể nào không thưởng thức và trầm trồ khen ngợi. Hội Thánh chân chính xuất hiện phải mang lại cho người đời một bình minh mới. Nếu Hội Thánh không thể đem sức sống mới cho thế giới, không thể mang lạc quan tin yêu đến cho người đời, thì  Hội Thánh đã thất bại trong sứ mạng mình (6:10a).
Trong bóng đêm, Hội Thánh là vầng trăng sáng đẹp, chiếu rọi ánh sáng dịu dàng cho người đi trong đêm tối, là tiếng nói cho khách lữ hành: “Nầy là đường đây, hãy noi theo” (Ê-sai 30:21).
Giữa ban ngày, Hội Thánh là mặt trời chói rạng với ánh sáng tinh khiết của bản thể đã được thanh lọc. Hội Thánh là người vợ đã được chồng yêu quí làm cho “nên thánh sau khi lấy nước rửa và dùng Đạo làm cho tinh sạch, đặng tỏ ra Hội Thánh đầy vinh hiển, không vết,  không nhăn, không chi giống như vậy, nhưng thánh sạch không chỗ trách được trước mặt Ngài” (Ê-phê-sô 5:26,27).
Một Hội Thánh toàn bích như vậy sẽ không bao giờ phải lùi bước mà sẽ uy dũng như một đạo quân phất cao ngọn cờ quyết tiến (6:10c).
DẤU ẤN CỦA TÌNH YÊU
(Đọc Nhã Ca 7:9b - 8:14)
“Hãy để tôi như một cái ấn trong lòng chàng, như một cái ấn trên cánh tay chàng, vì ái tình mạnh như sự chết.” 8:6
Đối với thiếu nữ Su-la-mit, những công việc đồng áng nặng nhọc vẫn có thể chan chứa hương vị ái tình. Nàng mong mỏi được cùng sánh vai với chàng đi về đồng quê để sớm mai cùng thức dậy đi ra xem xét cây cối trong vườn. Và trong khung cảnh vừa thơ mộng vừa thực tế đó, nàng sẽ tỏ tình yêu cùng chàng. Nàng sẽ hái những trái ngon để dành nơi cửa, để khi chàng đi làm về mệt nhọc sẽ có ngay để bồi dưỡng. (7:10-13). Nàng ước ao mối tình đã được chính thức hoá để nàng có thể công khai hôn chàng và đưa chàng về nhà mẹ mình để chàng dạy dỗ mình và để mình chăm sóc cho chàng, và để cả hai được gần gủi nhau, âu yếm nhau (8:1-4).
Nhưng tình yêu thế nào rồi cũng có lúc phải về vớùi thực tế, với ruộng vườn, với căn nhà của mẹ, nơi những sinh hoạt thường ngày diễn ra. Đây có phải là cái lò sưởi ấm tình yêu, hay là ao nước pha loãng tình yêu? Biết bao mối tình đã trở thành phai lạt nhàm chán khi trải qua những chuỗi ngày đều đặn với những hoạt động không thay đổi! Có bí quyết gì để giữ cho tình yêu luôn luôn tươi mới?
Tình yêu sẽ có sức mạnh tồn tại khi hình ảnh người yêu gắn chặt trong tâm tưởng như dấu ấn của một mối tình. Dấu ấn đóng trong trái tim. Dấu ấn đóng trên cánh tay. Cho cả linh hồn lẫn thể xác, cả bề trong lẫn bề ngoài. Một tình yêu như vậy sẽ không có một trở lực nào ngăn cản nỗi, sẽ không sợ bất cứ một đe doạ nào, sẽ không thể nào tan rã dù phải đối diện với giông tố, lũ lụt. Cả hai sẽ mãi mãi là một thể bất khả phân ly. Một tình yêu như vậy chứng tỏ nó có mãnh lực không thua gì sự chết, vì khi ấy chỉ có cái chết mới phân cách được họ (8:6,7).
Bài Ca Tình Yêu không có đoạn kết. Có dự kiến ương mầm tình yêu cho tương lai, giúp cho thế hệ sắp tới chuẩn bị đón nhận ngọn gió bất ngờ của tình yêu (8:8-10). Có sự trở về với “vườn nho của riêng mình”, vì đã nhận chân được giá trị của nó, vì rằng dù được làm việc cho vườn nho của vua đi nữa, nếu đem hết sức lực ra làm cũng chỉ huởng một phần nhỏ hoa lợi thôi, còn bao nhiêu đều thuộc phần vua (8:11,12). Có chăm sóc bón tưới cho khu vườn hồn của mình, thì tình yêu chân thật mới có thể nở hoa. Nơi khu vườn nầy có âm vang của tiếng gọi tình yêu, của một khởi đầu và tiếp diễn của tình yêu. Nhưng không có kết thúc. Vì tình yêu chân chính, dù là của Thượng Đế hay của con người, đều không có kết thúc!



Câu hỏi thảo luận
1.     Bạn thử dựa vào bản dịch truyền  thống Kinh Thánh Việt Ngữ tìm một bố cục cho sách Nhã Ca, và phân tích những điểm phù hợp hay mâu thuẩn theo cách thuật của bản dịch nầy
2.     Hãy dựa vào Nhã Ca 2:10-17 mà bình luận về tương quan giữa mùa xuân với tình yêu cũng như Nước Trời (Khải 21:3,4; 22:1-4)
3.     Bạn hãy thử dựa vào Nhã Ca 6:3 mà viết về mối liên hệ giữa bạn và Chúa (Có thể làm thơ hay tùy bút)



CHƯƠNG 10
CA THƯƠNG



I. ĐỀ MỤC
Đề mục của sách nầy trong bản Bảy Mươi là “Những Bài Ai Ca Của Giê-rê-mi”. Còn trong trong bản Talmud và các sách vở Ra-bi thì chỉ gọi là “Ai-ca”, hay là “Làm sao?” một chữ thường dùng ở đầu câu trong tiếng Do-thái.
 II. VỊ TRÍ CỦA SÁCH
Bản Bảy Mươi đặt sách nầy ngay sau sách tiên tri Giê-rê-mi, giống như bản Kinh Thánh ta hiện dùng. Trong bộ Kinh Thánh Do-thái, nó không nằm trong phần tiên tri, mà nằm giữa năm cuốn Sách Lễ (Megilloth – Five Festival Rolls), theo sau ba quyển thi ca Thi Thiên, Gióp, và Châm Ngôn. Các Sách Lễ đó nằm trong bộ “Văn Thơ” (Writings), bộ thứ ba trong chánh kinh (canon) Do-thái. Vào mỗi ngày đại lễ trong năm, người ta đọc một quyển trong bộ Megilloth. Sách Ca Thương được đọc vào ngày thứ chín của tháng Ab (khoảng giữa tháng bảy), kỷ niệm ngày Nê-bu-cat-nêt-sa vua Ba-by-lôn phá hủy Đền Thờ.
 III. TÁC GIẢ VÀ NIÊN ĐẠI
Truyền khẩu cho rằng Giê-rê-mi là người sáng tác tập thơ nầy. Bản Bảy Mươi, trong phần giới thiệu về đề mục và vị trí của sách Ca Thương, đã ghi như sau: “Xảy ra sau khi dân Is-ra-en bị dẫn đi làm phu tù, và thành Giê-ru-sa-lem trở nên hoang vu, thì Giê-rê-mi ngồi xuống khóc lóc than vãn về Giê-ru-sa-lem rằng…” Bản Syriac Targum và kinh Talmud cũng xác nhận rằng “Giê-rê-mi viết các sách của ông là Các Vua và Ca Thương”. II Sử ký 35:25 có nói đến những bài ai ca của vị tiên tri khi vua Giô-sia qua đời, và cũng có ghi rằng những bài đó được chép thành sách, và lập thành lệ trong Is-ra-en; cũng xem Ca thương 2:6; 4:20. Tuy nhiên sách Ca Thương chú vào sự tàn phá của một thành phố hơn là cái chết của một vị vua, và Ca 4:20 chắc hẳn là nói về vua Xê-đê-kia mặc dù vua không xứng đáng. Tuy nhiên, cho rằng Giê-rê-mi, vị tiên tri khóc lóc (xem Giêr. 9:1; 14:17-22; 15:10-18), cũng là tác giả sách Ca Thương, là một điều có thể chấp nhận được, nếu không vấp phải vài lấn cấn như sau: văn thể sách nầy trau chuốt tỉ mỉ hơn Giê-rê-mi; chương 2 và 4 giống Ê-xê-chi-ên hơn; chương 3 gợi lại Thi Thiên 119 và 143; thái độ đối với lực lượng ngoại bang ghi nhận trong 4:17 ắt hẳn không phải là thái độ “hợp tác” của Giê-rê-mi và không phản ảnh kinh nghiệm của Giê-rê-mi.
Vì vậy, nhiều người cho rằng tác giả là một người trẻ hơn và đồng thời với Giê-rê-mi, cũng đã chứng kiến những hoạn nạn khổ đau đổ ập xuống Giê-ru-sa-lem khi ập xuống Giê-ru-sa-lem khi giả quan tâm đến số phận của trẻ em, xem 2:11, 12, 19, 20; 4:4, 10) vào khoảng năm 580 TC, sau đó đã thêm vào, có lẽ từ nhiều nguồn khác nhau, bài ai ca dân tộc trong chương 1, bài ai ca cá nhân trong chương 3, và lời cầu nguyện trong chương 5. Niên đại của sách nầy có lẽ vào khoảng 540 TC. Một số người định niên đại trễ hơn nhiều, cho rằng sách nầy nói đến lần Antiochus Epiphanes vây Giê-ru-sa-lem vào năm 170-168 TC, hay còn cho là cuộc bao vây của Pompei vào năm 63 SC, nhưng chuyện đó khó có thể được. Điều khiến ta thiên về quan điểm truyền thống là giọng điệu tuyệt vọng của cả sách gợi cho ta thời kỳ trước khi Sy-ru vua Ba-tư lên ngôi. Một điều nữa là thời kỳ nầy trong lịch sử Ba-by-lôn sản sinh rất nhiều ai điếu khóc các thành phố bị sụp đổ. Những tài liệu chữ hình nêm nói đến rất nhiều ‘con gái thành …’ than khóc cho số phận mình (xem 2:1). Có lẽ người Do-thái đã vay mượn kỹ thuật đó trong khi bị lưu đày.
 IV. CẤU TRÚC
Nếu để ý nguyên văn sẽ thấy ngay rằng trong mỗi chương có 22 câu, tương ứng với số và thứ tự những chữ cái trong bộ mẫu tự Do-thái, ngoại trừ chương 3 có 66 câu, mỗi chữ có 3 câu thay vì 1 như những chương kia.  Có người cho rằng cách sắp xếp các mẫu tự liên tiếp như thế là để tỏ ý rằng ‘Is-ra-en đã phạm tội từ aleph tới tau’ như người ta nói từ A đến Z trong tiếng Anh, cũng như cách sắp xếp đó trong Thi thiên 119 hàm ý rằng mọi ước muốn, chú ý của con người đều phải dành cho luật pháp. Tuy nhiên chương 5 không dùng  đến những mẫu tự liên tiếp, dù rằng có học giả cho rằng đó là hình thức nguyên thủy của nó.
Bốn bài thơ đầu sử dụng loại nhịp điệu ngưng ngắt gọi là ai điếu, nhịp 3:2, cũng thấy trong Giê-rê-mi.
 V.  THÔNG ĐIỆP
Quyển sách tả vẻ sống động hình ảnh Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế đồng hoá với khổ đau và tội lỗi của nhân loại. G.A.F. Knight gọi nó là đêm tiền-Phục-sinh (Easter eve) của hồn người, vì trong đó, linh hồn con người dầu bị đè nặng dưới sự phán xét của Đức Chúa Trời, vẫn tin tưởng nơi lòng nhân từ bất biến của Ngài (xem 3:19-25; 52-58). Theo Gottwald, những điểm chính của quyển sách là án phạt và hi vọng, và nó ‘soi rọi cho ta thấy nội tâm của lớp người trung thành với Đức Giê-hô-va sau khi nước mất nhà tan’.
 VI. BỐ CỤC
1: 1-22   Thiên một
    1:1-7   Giêrusalem bị hoang vu
    1:8-11   Tội lỗi gây nên đau khổ
    1:12-22   Kêu van xin thương xót
 2: 1-22   Thiên hai
    2:1-9   Chúa là kẻ thù
    2:10-13   Cơn đói khủng khiếp
    2:14-17   Tiên tri giả và thật
    2:18-22   Kêu gọi khẩn cầu
 3: 1-66   Thiên ba
    3:1-21   Tiếng kêu của kẻ hoạn nạn
    3:22-39   Sự thương xót của Đức Chúa Trời
    3:40-42   Kêu gọi hối cải
    3:43-54   Đau buồn về tội lỗi
    3:55-66   An ủi và rủa sả
 4: 1-22   Thiên bốn
    4:1-12   Trước kia và bây giờ
    4:13-20   Hậu quả của tội lỗi
    4:21,22          Ê-đôm sẽ không thoát khỏi
 5:  1-22   Thiên năm
    5:1-10   Kêu xin thương xót
    5:11-18   Ô nhục của tội lỗi
    5:19-22   Ngai đời đời của Đức Chúa Trời
 VII. SUY CẢM
 TIẾNG KHÓC GIỮA ĐÊM TRƯỜNG
(Đọc Ca Thương 1:)
“Nó khóc nức nở ban đêm, nước mắt tràn đôi má” (c. 2a)
 Sách Ca Thương là bài ai ca não nùng với những giòng lệ tuôn đẫm ướt những trang sách thánh. Ai có tâm sự buồn càng nên đọc Ca Thương, vì nơi đây họ sẽ tìm thấy một tâm hồn đồng điệu với những bế tắc khủng hoãng, những thắc mắc tra hỏi, giữa bao nhiêu đau khổ phi lý của đời sống. Bạn sẽ tìm thấy nơi đây mối hờn vong quốc của một dân tộc bị lưu đày, có tiếng khóc nghẹn nhiêu đau khổ phi lý của đời sống. Bạn sẽ tìm thấy nơi đây mối hờn vong quốc của một dân tộc bị lưu đày, có tiếng khóc nghẹn người bị chà đạp áp bức, và cũng có nỗi sửng sờ tê tái trước cảnh trầm thăng dâu biển của cuộc đời.
Đây là bài ai ca của mất mát, luyến tiếc. Người Do-thái thường dùng nó làm điếu văn trong những dịp tang chế, và cho đến ngày nay, nó vẫn thường được đọc lên khi người Do-thái đến viếng bức tường đổ nát phía tây cổ thành Giê-ru-sa-lem (được gọi là Bức Tường Than Vãn). Trong đây ta nghe dư âm đổ vỡ của một mối tình, mối quan hệ đằm thắm giữa Thiên Chúa và dân Ngài. Những ngày dân Chúa đi giữa vinh quang của những chiến thắng lẫy lừng, những ngày họ được sống trong thịnh vượng thanh bình, những ngày họ “làm lớn giữa các dân, làm nữ chủ các quận“(c.1), những ngày Thiên Chúa bảo vệ họ “như con ngươi của mắt Ngài”, bây giờ không còn nữa. Bây giờ “mọi cửa thành hoang vu; các thầy tế lễ thở than; các gái đồng trinh nó bị khốn nạn” (c.4); Bây giờ, “váy nó dơ bẩn; nó giờ “mọi cửa thành hoang vu; các thầy tế lễ thở than; các gái đồng trinh nó bị khốn nạn” (c.4); Bây giờ, “váy nó dơ bẩn; nó giờ “mọi cửa thành hoang vu; các thầy tế lễ thở than; các gái đồng trinh nó bị khốn nạn” (c.4); Bây giờ, “váy nó dơ bẩn; nó đơn chiếc.” đơn chiếc.” hạnh nầy?” như cách phản ứng thường thấy trong xã hội ngày nay. Trái lại, tác giả phủ phục dưới chân Chúa, khiêm cung kêu nài: “Hỡi Đức Giê-hô-va, xin đoái xem, vì tôi đã nên khinh hèn” (c.11). Tác giả biết rất rõ rằng cảnh đọa đày của dân tộc, nỗi nài: “Hỡi Đức Giê-hô-va, xin đoái xem, vì tôi đã nên khinh hèn” (c.11). Tác giả biết rất rõ rằng cảnh đọa đày của dân tộc, nỗi đến cho ông, luôn luôn “Đức Giê-hô-va là công bình” (c.18).
Có lẽ không ai trên đời nầy lắng nghe tiếng thổn thức của bạn giữa đêm trường, không ai để ý đến giòng nước mắt chảy dài trên đôi má bạn. Nhưng chắc chắn có một Đấng đang theo dõi bạn: Thiên Chúa, Đấng công bình.
 LỜI NGUYỆN CẦU TRONG ĐÊM THANH VẮNG
(Đọc Ca Thương 2: )
“Hãy chổi dậy kêu van lúc ban đêm, vừa đầu các phiên canh, đổ lòng ra như nước ở trước mặt Chúa.” (c.19)
 Sách Ca Thương là một lời cầu nguyện dài. Một lời cầu nguyện tha thiết thốt ra từ cõi lòng tan nát giữa một cuộc sống bầm giập.
Hoàn cảnh đảo điên là ngôi trường tốt nhất để dạy người tín đồ cầu nguyện. Chúng ta có thể khẳng quyết rằng những người hiện nay cho rằng mình quá bận rộn không thể có thì giờ để cầu nguyện, vì lý do phải lo làm ăn để mưu sinh hoặc lo cho con cái, cửa nhà, -- thật ra có người chỉ vì ham mê theo dõi những cuộn phim truyện video hay những thú vui khác –  nếu một ngày nào đó họ rơi vào cảnh ngộ của tác giả, họ sẽ thấy cầu nguyện trở thành nhu cầu lớn lao nhất, cấp thiết nhất của đời sống.
Khi đời sống vật chất được an nhàn thong thả, người ta có khuynh hướng quay vào mình, càng cố lo cho mình được sung túc dư dật hơn, hay lo hưởng thụ cho hết những thứ thế gian sẵn sàng cống hiến. Khi con người thành công, họ dễ quên Đức Chúa Trời. Khi người ta hoạch định thế nào đều ra thế nấy, tính toán điều gì đều được điều nấy, họ sẽ thấy mình chẳng cần Đức Chúa Khi người ta hoạch định thế nào đều ra thế nấy, tính toán điều gì đều được điều nấy, họ sẽ thấy mình chẳng cần Đức Chúa Khi người ta hoạch định thế nào đều ra thế nấy, tính toán điều gì đều được điều nấy, họ sẽ thấy mình chẳng cần Đức Chúa rồi có rồi có trắng tay, “cảnh phá hoại tan hoang to lớn như biển cả, chẳng còn phương sửa chữa” (c.13), lúc ấy mới thấy “lòng dân ngươi kêu van đến Chúa” (c.18).
Bạn không cần phải đợi đến lúc “Chúa trở nên như kẻ nghịch” (c.5) rồi mới bắt đầu cầu nguyện. Bạn không cần phải đợi đến lúc “tang chế thảm thương,” “gục đầu đến đất” (c.5) rồi mới “chổi dậy kêu van, đổ lòng ra trước mặt Chúa” (c.19). Giờ cầu chế thảm thương,” “gục đầu đến đất” (c.5) rồi mới “chổi dậy kêu van, đổ lòng ra trước mặt Chúa” (c.19). Giờ cầu phán dịu êm của Ngài, được Ngài an ủi, khích lệ, chỉ dạy.
Đêm vắng là khung cảnh thích hợp nhất để con người giốc đổ tâm sự. Tại sao bạn không đến với nguời Bạn Thân hiểu bạn hơn bất cứ ai trên đời? Tại sao bạn không chịu “đổ lòng mình ra” với Ngài? Ngay đêm nay?
 TIA HI VỌNG GIỮA MÂY MÙ TUYỆT VỌNG
(Đọc Ca Thương 3: )
“Mỗi buổi sáng thì lại mới luôn, sự thành tín Ngài là lớn lắm” (c.23).
 Sách Ca Thương là bài thánh ca đầy nước mắt được hát lên trong tinh thần lạc quan. Niềm khổ đau, nỗi tủi nhục đan dày những đường ngang sớ dọc của áng thơ bi thống nầy. Quả thật đó là bản thi ca thống thiết bi thương, tuy nhiên, nó không hề bi lụy. Nó trình bày một bức tranh hết sức đen tối, nhưng nó không chấm dứt trong tuyệt vọng. Trong những lời thở than đau đớn có ấp ủ một hi vọng. Đây không phải là thứ hi vọng cầu âu, trông chờ may rủi, nhưng là một niềm tin quyết vào một sự thật vững chãi đã được kiểm chứng bằng kinh nghiệm bản thân. Hi vọng của tác giả không đặt vào thời cuộc bấp bênh, không dựa vào con người tráo trở, nhưng đặt nơi Đấng vận hành vũ trụ bằng những qui luật bất di bất dịch của Ngài.
Buổi sáng nào cũng đến trên cùng một cảnh trí, nhưng có buổi sáng nào giống buổi sáng nào? Mỗi bình minh đến với bạn đều mang theo một sắc thái riêng biệt. Mỗi ngày thức dậy, bạn cảm thấy như mình bước vào một thế giới mới, bạn cảm thấy mình tươi tỉnh lại vì đã tiếp thu được giòng năng lực mới của vũ trụ để sống cho một ngày mới.
Nhưng bổng có một ngày nào đó bạn thức dậy và thấy mây mù ảm đạm phủ kín bầu trời. Bão tố nỗi lên ào ạt thổi tung cửa nhà bạn, vườn tược của bạn. Đầu bạn nặng như chì, thân thể đau nhức như bị tra khảo. Bạn chẳng cảm thấy một chút tươi mới nào, một chút yêu đời hay vui thú nào. Nhưng có bao giờ thân thể đau nhức như bị tra khảo. Bạn chẳng cảm thấy một chút tươi mới nào, một chút yêu đời hay vui thú nào. Nhưng có bao giờ vì bạn biết rằng ở một nơi đâu đó bên kia những chết chóc, khổ đau, bi thảm của đời sống, mặt trời ấm áp của Đức Chúa Trời vẫn ngự trị.
“Vì ấy là chẳng phải bổn tâm Ngài làm cho con cái loài người cực khổ và buồn rầu. Dầu Ngài đã làm cho lo buồn, còn sẽ thương xót theo sự dư dật của lòng nhơn từ Ngài” (c.33,32). Đức Chúa Trời luôn luôn thành tín! Đó chính là hi vọng của mỗi chúng ta.
 THUỞ HUY HOÀNG NAY CÒN ĐÂU?
(Đọc Ca Thương 4:-5:)
(Đọc Ca Thương 4:-5:)
 Sách Ca Thương là những tiếng kêu ai oán thảm thương của con chim đại bàng bị gãy cánh, là những lời kể lễ nghẹn ngào của một bậc vương giả sa cơ xuống cảnh khốn cùng.
“Vàng ròng” đã trở thành “mờ tối” (4:1). Những người sang trọng “tinh hơn tuyết, trắng hơn sữa, da đỏ hồng như san hô, mình sáng như bích ngọc, nay mặt đen hơn than, chỉ còn xương bọc lấy da, khô ran như khúc gỗ” (4:7,8). Tình mẫu tử cao quí bị ném bỏ, những bà mẹ thương con nay không bằng con chó rừng cho con bú, trong cơn đói hoãng, họ đã nấu cả thịt con mà ăn (4:3,10). Tác giả kinh hoàng chứng kiến một thời kỳ băng hoại về vật chất lẫn tinh thần. Tất cả đều đảo lộn. Tất cả đều tan hoang. Chẳng còn một sức mạnh nào có thể níu kéo lại những giá trị đã bị đổ nhào.
“Trời làm một cuộc lăng nhăng,
Ông hoá ra thằng, thằng hoá ra ông.”
Một cuộc đổi đời. “Kẻ đầy tớ cai trị chúng tôi” (5:8). “Chúng làm nhục phụ nữ trong thành,... chúng treo các quan trưởng lên, chẳng nễ mặt người già cả, thanh niên phải mang cối, trẻ em vấp ngã dưới gánh củi” (5:11-13).
Những người Việt tị nạn hẳn phải thấm thía khi đọc những lời mô tả trên. Nhưng có bao nhiêu người trong chúng ta có thể nói được như tác giả: “Khốn cho chúng tôi, vì chúng tôi phạm tội!” (5:16)?
Khi tan vỡ, mất mát, bất hạnh xảy ra, người ta thường chỉ tay vào người khác hay hoàn cảnh xung quanh để tìm nguyên do. Có mấy ai ý thức được rằng những đổ vỡ hư hỏng của đời sống thường chỉ là hậu quả của những sai trật trong mối quan hệ giữa mình và Đức Chúa Trời? Và con đường ngắn nhất để đưa đến phục hồi là “trở về” (5:21). Chỉ khi nào con nguười nối lại được đường dây tương thông với Thượng Đế thì hi vọng mới thật sự nở hoa.
Giờ đây, bạn hãy xếp những trang Ca Thương lại. Hãy để hồn cất cánh bay theo đoàn người hành hương về thăm Xứ Thánh. Hãy cùng với họ đến bên chân Bức Tường Than Vãn, chứng tích của một thời huy hoàng đã mất. Hãy lắng nghe từ một phương với họ đến bên chân Bức Tường Than Vãn, chứng tích của một thời huy hoàng đã mất. Hãy lắng nghe từ một phương lời cầu nguyện xin Chúa hãy “làm những ngày chúng tôi lại mới như thuở xưa.”
 Câu hỏi thảo luận:
1.     Bạn hãy so sánh hoàn cảnh của dân tộc Việt Nam với dân Do-thái trong sách Ca Thương và tìm ra một bài học cho đức tin.
2.     Ca Thương 2:19 dạy cho ta điều gì về sự cầu nguyện?
3.     Hãy bình luận Ca Thương 3:32,33. Bạn học được điều gì nơi đây?


Related link

Latest Features

Weather

June - 2025
SMTWTFS
1234567
891011121314
15161718192021
22232425262728
2930     
       

Facebook comments