
ĐẠI CƯƠNG VỀ THI CA
Thơ là một hình thức phô diễn tư
tưởng có lẽ đã có từ khi con người mới có tiếng nói. Thơ và ca thường đi đôi với
nhau (thi ca) vì cả hai đều dùng tiếng nói và âm điệu để diễn tả tình cảm tâm
tư con người. Nhưng ca thì thiên về âm điệu, còn thơ thì thiên về tiếng nói nhiều
hơn. Vì tiếng nói tự nó không thể tồn tại nếu không được lưu giữ trong trí nhớ
con người, mà khả năng của trí nhớ thì rất hạn chế, nên tiếng nói cần có một
phương tiện truyền đạt vừa có thể đại diện cho nó vừa có thể lưu giữ lâu dài được.
Phương tiện đó là chữ viết. Qua chữ viết hay văn tự, tức là những ký hiệu đại
diện cho những âm thanh tạo thành ngôn ngữ con người, tiếng nói được lưu giữ và
truyền đạt.
Bởi vì con người có khuynh hướng
làm đẹp những gì mình có thể lưu truyền được, nên tiếng nói truyền đạt bằng chữ
viết không còn là thứ tiếng nói truyền miệng thông thường nữa, mà là thứ tiếng
được gọt giũa, trau chuốt, đãi lọc. Từ đó ta có văn thơ, tức là những công
trình nghệ thuật của tiếng nói được chuyên chở bằng chữ viết.
Ở đây, ta lại phải xét qua sự
khác biệt giữa văn (prose) và thơ (poetry). Thông thường, văn hay là văn xuôi (prose) được viết liên tục cho đến
khi hết ý, còn thơ hay văn vần (poetry) được viết thành những giòng riêng biệt.
Bài văn không đòi hỏi vần điệu, tiết nhịp, nhưng một bài thơ không thể nào thiếu
những thứ đó. Chính vì vậy mà các loại thơ cổ điển phải tuân theo một số niêm
luật về vần điệu.
Tuy nhiên, những yếu tố vần điệu
và viết thành giòng không hẳn luôn luôn tạo thành thơ, và nhiều thể thơ hiện đại
hầu như không có những yếu tố đó. Cũng có những bài văn chứa đựng nhiều âm tiết
nhịp điệu nhưng không thể gọi là thơ. Như vậy, hai yếu tố phân biệt đó không có
tính cách tuyệt đối, ngoài ra cũng còn những yếu tố ẩn tàng khác để minh định đặc
tính thơ mà chúng ta sẽ không đi vào chi tiết vì không thuộc phạm vi bài học.
Trong ngôn ngữ Việt Nam, những
bài vè, những câu nói lối, là gạch nối giữa thơ và văn xuôi. Đó là những lời
nói thường, nhưng được ghép thành vần điệu. Chúng không phát xuất từ những rung
cảm, khôâng khơi động trí tưởng tượng như thơ.
Mặt khác, trong kho tàng văn học
cổ điển, hình thức thơ được dùng trong nhiều thể loại mà ngày nay được xem là
thuộc phạm vi chuyên biệt của văn xuôi:
tiểu thuyết (Truyện Kiều), kịch (Shakespeare)...
Trong ngôn ngữ Do-thái, có những
bản văn được người ta xếp vào loại thơ–văn xuôi, nghĩa là những bài ký thuật,
những câu chuyện được trình bày theo mỹ từ pháp, nhưng mang hình thức văn xuôi. Câu chuyện nguời
đàn bà Thê-cô-a kể trong II Sa. 14:5-7 và ngụ ngôn của tiên tri Na-than trong
II Sa 12:1-4, được liệt vào loại nầy. Nhiều học giả hiện đại còn xếp cả sách
Giô-na, Ru-tơ, Ê-xơ-tê, và Đa-ni-ên 1-6, vào loại nầy. Tuy nhiên người ta công
nhận rằng loại thơ–văn xuôi rất khó phân biệt.
Trong văn học Do-thái cũng như
các dân tộc khác, thơ dễ nhận diện khi nó được viết thành câu. Những câu thơ Do-thái thường sử dụng một số
thành ngữ và những cấu trúc đặc biệt của thơ, và phải tuân thủ một số qui luật
thi phú.
CHƯƠNG 1
THI CA DO-THÁI
(Hebrew Poetry)
I. LỊCH SỬ THI CA DO-THÁI
1. Khảo Sát
Thi ca chiếm một số lượng lớùn
trong văn chương Cựu Ước. Nếu chỉ nói đến những sách thuần túy thi ca như Gióp,
Thi Thiên, Châm Ngôn, Nhã Ca, Ca Thương, mà thôi, thì thi ca cũng đã đóng một
vai quan trọng rồi. Số lượng đó còn tăng lên nhiều nếu ta kể thêm sách Koheleth
là loại thơ–văn xuôi, một thứ thơ tự do đã phá bỏ phần lớn hàng rào niêm luật,
và các sách Giảng Huấn (Ecclesiasticus), Khôn Ngoan (Wisdom), Thi Vịnh của
Sa-lô-môn (Psalms of Solomon) là những
tác phẩm thơ nằm trong bộ ngoại kinh (apocripha) và không được liệt trong chánh
kinh (canon). Ngoài ra, thơ phú cũng có nằm rải rác trong các sách lịch sử và
tiên tri nữa.
Ta không thể nào khảo sát toàn bộ
lịch sử thi ca Do-thái một cách thấu đáo được, vì những lý do sau đây:
a. Thất lạc
Hiển nhiên là những bài thơ ta có
trong sách Cựu Ước hiện nay chỉ là một phần nhỏ của toàn bộ thi ca Do-thái. Nhiều
bộ sưu tập xưa đã lạc mất. Có nhiều sách
được nhắc đến trong Cựu Ước đã không còn nữa: Sách Gia-sa hay Sách của Người
Công Nghĩa (Giô 10:13; II Sa 1:18); Sách Chiến Trận của Đức Giê-hô-va (Dân
21:14); hay 3,000 câu châm ngôn và 1,005 bài thơ của Sa-lô-môn (I Các Vua
5:12).
Ngoài ra, còn cả một kho tàng thi
phú dân gian gồm các bài ca đám cưới, ai điếu, bài hát tiệc tùng (A-môt 6:5),
những bài diễm ca (rhapsody), nay chỉ còn giữ lại được một số bài mẩu hay tiêu
biểu.
b. Không biết xuất xứ, niên đại
Với những bài thơ còn giữ được, họa
hoằn mới có thể định được niên đại, còn tìm cho ra tác giả càng khó khăn hơn nữa.
Các thi liệu không hề để tâm đến lịch sử văn chương. Bản thân các thi sĩ không
nhắm tạo vinh quang cho mình trên thi đàn trong tương lai, mà công chúng cũng
chẳng màng tìm hiểu ai là tác giả của những lời họ đọc hay hát.
Những lời ghi chú trên đầu các
bài Thi Vịnh hay Châm Ngôn không giúp ích gì bao nhiêu cho công cuộc khảo cứu.
Một số bản văn cổ không có ghi, vì vậy ngoài suy đoán ra không còn có cách nào
để biết đích xác được tác giả.
c. Thiếu tài liệu về âm nhạc, tiết
điệu
Chúng ta biết rằng thơ Do-thái
tuân theo những qui luật về tiết điệu và đó là những bài ca đi kèm theo nhạc
khí. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có rất ít dữ kiện về phương diện nầy, một số dữ kiện
đó nằm trong những lời ghi chú trên đầu các bài Thi Vịnh, nhưng chẳng cho ta biết
được bao nhiêu.
2. Diễn Tiến
Thơ Do-thái tiến triển qua ba thời
kỳ:
a. Thời kỳ bình dân
Từ đầu lịch sử Is-ra-en cho đến khi các lời tiên tri được
chép ra. Từ buổi sơ khai cho đến đời Sa-lô-môn, ta có thể gọi là thời kỳ tiền
văn học (pre-literary). Từ Sa-lô-môn trở
đi, nghệ thuật đọc và viết có vẻ đã quảng bá rộng rãi trong dân Is-ra-en. I Các
Vua 4:32-34 có nói đến sáng tác và sưu tập của Sa-lô-môn liên hệ đến quần chúng
bình dân rất phong phú đa dạng. Nếu đúng vậy, những tác phẩm đó ắt hẳn đã đặt nền
móng cho một nền thi ca thịnh vượng mà rất tiếc chẳng còn để lại bao nhiêu vết
tích.
b. Thời kỳ tiên tri
Từ A-mốt đến Ê-xơ-ra. Xét theo những
bản văn ta hiện có, các nhà tiên tri là những nhà thơ đúng nghĩa, và là những
nhà thơ rất xuất sắc của thời đại. Ngay cả những tập thơ thuần tuý như Gióp, Ca
Thương cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm của họ. Nếu bỏ qua một bên những bài tường
thuật, ta có thể xem tất cả các sách A-mốt, Ô-sê, Mi-chê, Ê-sai, Na-hum,
Ha-ba-cúc, đều là những thi phẩm. Bản chính gốc của Giê-rê-mi cũng vậy.
Ê-xê-chi-ên cũng xen vào nhiều bài thơ.
c. Thời kỳ giáo huấn (didactic)
Thời kỳ nầy cũng chứa nhiều thi
phẩm tiên tri; tuy nhiên chúng có tính cách giáo huấn. Đó là những bài thơ đặt
nền tảng trên Luật Pháp và nhắm vào một hệ thống luân lý mà chữ chìa khóa là
‘kính sợ Đức Chúa Trời’.
II. QUI LUẬT THI PHÚ
1. Giòng Thơ
Qui luật căn bản của những sáng
tác có vần điệu, dầu là thi hay ca (thơ hay bài hát), là phải ngắt giòng tư tưởng
tuôn chảy liên tục thành những nhóm chữ ngắn, ý nghĩa có phần nào độc lập với
nhau. Thơ Do-thái thường viết thành giòng có vần điệu (stichoi). Nhiều khi những
giòng nầy được đánh dấu bằng những mẫu tự Do-thái ở đầu giòng, như trong Thi.
111 và 112. Giới hạn của những giòng thơ nầy thường do tự nhiên định đoạt, tức
là có thể đọc hết trong một hơi thở bình thường. Trong hầu hết những thi phú của
Cựu Ước, những giòng đó tách rời nhau rõ ràng, cho ta thấy luồng tư tưởng toàn
bài bị phân cắt là do người viết bố trí chứ không phải do sắp đặt theo mạch lạc
luận lý.
2. Câu Thơ
Đơn vị thứ hai để cấu thành bài
thơ Do-thái là câu thơ (verse). Một bài thơ Do-thái gồm có nhiều giòng thơ, thường
thuờng cứ hai giòng thơ làm thành một câu thơ. Nói cho đúng, việc phân chia
thành câu không phải chỉ có trong phần thi ca, mà cũng ở trong cả văn xuôi nữa,
ta có thể thấy ở bất cứ nơi nào trong Cựu Ước. Tuy nhiên, trong phần thi ca, mỗi
câu thơ thường gồm nhiều giòng, chứ không chấm dứt lẻ loi ở cuối mỗi giòng
(stichos). Trong cổ bản Massoretic, có
những câu thơ bao gồm nhiều giòng với nhịp điệu khác nhau và phân biệt với nhau
bằng dấu phân câu. Tuy nhiên trường hợp dùng dấu phân câu để chia những giòng
thơ (stichoi) trong cùng một câu thơ là rất hiếm hoi.
3. Tính Song Đối
Trong thi-ca Do-thái cũng như thi
ca Việt Nam, tính song đối rất cần thiết. Khi nhà thơ nói lên một câu thơ, họ gợi
lên trong trí người nghe một ý tưởng hay hình ảnh nào đó mà người nghe cần phải
thu nạp ngay; phản ứng tự nhiên của người nghe là muốn nghe lại những lời đó để
có một ý tưởng hay hình ảnh rõ ràng, hoàn chỉnh hơn. Vì vậy nhà thơ trở lại từ
đầu, nói lại một lần nữa, nhưng dùng chữ khác đi một chút hay khác hẳn để tránh
sự đơn điệu. Như thế là nhà thơ đã diễn đạt ý tưởng song đối với ý tưởng đã nói lên trước.
Trong câu thơ tiếng Việt:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngỏ trúc quanh co khách vắng teo
ta thấy cái yên lặng tĩnh mịch
trên không trung được tăng cường bằng hình ảnh đối xứng của khung cảnh vắng lặng
trong thôn xóm dưới đất.
Hay hình ảnh nghèo khổ đơn chiếc
trong câu:
Nhà trống ba gian, một thầy, một
cô, một chó cái,
được đẩy lên đến cực điểm khi những
mô tả song song sau đây được đưa vào:
Học trò dăm đứa, nửa người, nửa
ngợm, nửa đười ươi.
Trong thơ Do-thái, những ý song đối
nói lên trong một hay nhiều giòng kế tiếp, phụ họa và tăng cường cho ý nói lên
trong giòng đầu, tạo thành một câu thơ nhấn mạnh ý tác giả muốn diễn đạt, là điều
ta thấy thường xuyên.
Ở đây ta tìm thấy một nguyên tắc
cơ bản trong câu thơ Do-thái: “Mỗi câu thơ phải gồm hai vế, và vế thứ hai phải
giúp diễn đạt trọn ý tưởng vế đầu đã nêu lên.” Đặc tính song đối của thơ
Do-thái đã được một học giả về Cựu Ước là Giám Mục Lowth khám phá và đưa ra
trong một tác phẩm của ông vào thế kỷ 18 (1753), về sau ý kiến nầy được nhiều học
giả khác bổ túc.
Theo Lowth, có ba hình thức song
đối:
1) Song đối đồng nghĩa (synonymous
parallelism): ý câu thơ nói lên trong vế
đầu được nhắc lại trong vế sau nhưng diễn đạt khác đi một chút. Ta thấy điều đó
trong Thi Thiên 1:5:
Bởi thế kẻ ác chẳng đứng nỗi
trong ngày đoán xét,
Tội nhân không được vào hội người
công bình.
Rõ ràng vế thứ hai của câu đã nói
lại ý trong vế đầu bằng cách khác.
2) Song đối phản đề (antithetic
parallelism) hay song đối nghịch: vế thứ hai diễn tả lại ý của vế đầu bằng hình
thức phủ định hoặc tương phản, như trong Thi. 1:6:
Vì Đức Đức Giê-hô-va biết đường
người công bình
Song đường kẻ ác rồi bị diệt
vong.
3) Song đối hợp đề (synthetic
paralellism) hay song đối thuận: ý trong vế đầu của câu thơ cứ tiếp tục đi tới
trong vế thứ hai để làm cho trọn nghĩa. Ví dụ câu Thi. 27:6:
Bây giờ đầu tôi sẽ được ngước cao
Hơn các kẻ thù nghịch vây quanh
tôi.
Để bổ túc cho ba loại song đối
trên, ta nhận thấy có thể thêm loại
4) Song đối tổng hợp (eclectic paralellism)
là loại song đối kết hợp các thể loại trên. Ví dụ Ha-ba-cúc 1:2
Hỡi Đức Giê-hô-va, tôi kêu van
mà Ngài không nghe tôi cho đến chừng
nào?
Tôi kêu van cùng Ngài vì cớ sự bạo
ngược
mà Ngài chẳng khứng giải cứu tôi?
Hai giòng trên làm thành một câu
song đối hợp đề, và hai giòng dưới cũng làm thành một câu song đối hợp đề khác.
Cả hai câu nầy đồng nghĩa với nhau nên kết hợp thành một câu song đối đồng nghĩa.
Dựa vào ý kiến của Lowth, các học
giả sau nầy còn đưa ra bốn loại song đối nữa:
1) Song đối biểu hiện (emblematic
paralellism): vế thứ hai dùng biểu tượng hay ví sánh để diễn tiếp ý của vế đầu.
Ví dụ Thi 1:4:
Kẻ ác chẳng như vậy đâu
Nhưng chúng nó khác nào rơm rác
gió thổi bay đi.
Thi. 103:13 dùng tình thương người
cha để minh thị tình thương Thiên Chúa cũng thuộc loại nầy.
2) Song đối bậc thang (stairlike
paralellism) gồm nhiều giòng trong đó một phần của giòng trên được lặp lại
trong giòng kế tiếp để đưa tới một ý mới. Ta có thể thấy trong Thi 29:1-2:
1. Hỡi các con của Đức Chúa Trời,
Hãy tôn Đức Giê-hô-va vinh hiển và quyền năng;
2. Hãy tôn Đức Giê-hô-va vinh hiển
xứng đáng cho danh Ngài;
Hãy thờ lạy Đức Giê-hô-va bằng trang sức thánh.
Trong ba giòng đầu, chúng ta tiến
dần lên từng bước một cho đến kết thúc ở cuối câu 2. Mỗi giòng đưa chúng ta trở
lại điểm khởi đầu và đem vào một điều mới để từ đó ta tiến tới.
3) Song đối tột đỉnh (climactic
paralellism): mỗi giòng kế tiếp nhấn mạnh ý của giòng đầu cho đến giòng kết
thúc là điểm đỉnh của toàn nhóm thơ. Ví dụ Ha-ba-cúc 4:17-18:
Vì dầu cây vả sẽ không nứt lộc nữa,
và sẽ không có trái trên những cây nho;
Cây ô-li-ve không sanh sản,
và chẳng có ruộng nào sanh ra đồ ăn;
Bầy chiên sẽ bị dứt khỏi ràn,
và không có bầy bò trong chuồng nữa;
Dầu vậy, tôi sẽ vui mừng trong Đức
Giê-hô-va,
tôi sẽ hớn hỡ trong Đức Chúa Trời
của sự cứu rỗi tôi.
4) Song đối phản hồi (introverted paralellism):
gồm ít nhất hai giòng. Vế đầu của giòng sau tương ứng với vế thứ hai của giòng
trước và vế thứ hai của giòng sau tương tứng với vế đầu của giòng trước. Có thể
biểu thị cách sắp xếp đó như sau:
a.b.b.a.
Tác giả Briggs lấy Thi Thiên 30:8-10 làm ví dụ:
Đức Giê-hô-va ôi, tôi đã kêu cầu
cùng Ngài; và nài xin củng Đức Giê-hô-va mà rằng: (a)
Làm đổ huyết tôi ra, khiến tôi xuống
mồ mã có ích chi chăng? (b)
Bụi tro há sẽ ngợi khen Chúa ư?
há sẽ truyền bá sự chân thật của Ngài sao? (b)
Hỡi Đức Giê-hô-va, xin hãy nghe
và thương xót tôi; Đức Giê-hô-va ôi! khá giúp đỡ tôi. (a)
Hiểu biết đặc tính song đối của
thơ Do-thái giúp ta trong việc tìm hiểu và diễn giải ý nghĩa bản văn. Trong một
câu thơ song đối, những từ ngữ trong đó nhiều khi không thật sự mang ý nghĩa nó
vốn có như khi nó được dùng trong một câu văn thường, mà chỉ có công dụng “đệm”,
nghĩa là được tác giả dùng để lặp lại một ý mà tác giả muốn nhấn mạnh.
4. Vần Điệu
Trong ngôn ngữ Do-thái, âm vận giữ
vai trò quan trọng. Dường như tất cả sức mạnh và ý nghĩa của một từ đều tập
trung vào vần có nhấn của từ đó. Khi đọc thơ Do-thái, nếu để ý kỹ đến âm sắc
(accent) và tính song đối, chắc chắn sẽ cảm nhận được nhịp điệu trầm bổng của
nó, dù rằng hình như chẳng có luật nào qui định sự liên hệ hay tỉ lệ giữa những
vần có âm sắc và những vần không.
Các học giả những năm bảy mươi của
thế kỷ trước đã chú trọng nghiên cứu nhiều về những “điểm nhấn” (stresses) hay
“nhịp” (beats) khi họ cố gắng phân tích vế trong câu thành những bộ phận nhỏ.
Những bộ phận nầy là những đơn vị gồm những nhóm âm hay nhóm ý đi liền nhau. Đó
là những thành phần nhỏ nhất trong một giòng thơ Do-thái.
Hình thức song đối đơn giản nhất
đòi hỏi mỗi đơn vị trong vế đầu của câu thơ phải có một đơn vị tương ứng y như
vậy ở vế thứ hai. Điều đó hiện rõ trong Thi. 103:3:
Ngài-tha-thứ mọi
tội-ác-ngươi
Ngài-chữa-lành mọi
bệnh-tật-ngươi
(Những chữ có gạch nối biểu thị
cho một chữ đơn hay một nhóm ý trong tiếng Do-thái). Ta có thể mô tả bằng công
thức sau đây:
a. b. c.
a’. b’. c’.
Tuy nhiên hình thức tương ứng y hệt
giữa hai vế trong một câu thơ như vậy tương đối ít khi có; thật ra nếu lúc nào
câu thơ cũng đều dùng hình thức đó thì sẽ không thể nào tránh khỏi sự đơn điệu.
Học giả KT Buchanan Gray đã cố gắng phân tích và sắp loại nhiều hình thức khác
nhau của tính song đối. Ông phân biệt song đối trọn (complete paralellism), như
ví dụ đã nêu ra trên kia, và song đối khuyết (incomplete paralellism), trong đó
những đơn vị trong vế thứ hai không tương ứng y hệt với những đơn vị của vế đầu.
Có khi số đơn vị trong cả hai vế
của giòng thơ đều như nhau, nhưng có một hay hai đơn vị của vế sau không cân xứng
với đơn vị của vế đầu. Gray đặt tên loại nầy là song đối khuyết có bù đắp
(incomplete paralellism with compensation). Thi. 103:15 là một ví dụ, nó được
diễn đạt trong tiếng Do-thái như sau:
Những-ngày của-người
như-cỏ
như-hoa ngoài-đồng người-nẩy-nở.
Có thể biểu thị bằng công thức:
a. b. c.
c’.
d. e.
Nên để ý rằng trong vế thứ hai có
hai đơn vị (như-hoa ngoài-đồng) tương ứng với một đơn vị (như-cỏ) trong vế thứ
nhất. Đó là hình thức bù đắp khá thông dụng, như trong câu 7 của Thi Thiên đó,
ta có:
Ngài-bày-tỏ đường-lối-Ngài cho-Môi-se
cho-con-cái Is-ra-en công-việc-Ngài.
Ở đây hai đơn vị đầu của vế sau
tương ứng về ý nghĩa với đơn vị thứ ba của vế đầu; ta có thể biểu thị bằng công
thức:
a. b. c.
c’. c’.
b’.
Các biến thể của song đối khuyết
có bù đắp hầu như là vô hạn. Quan sát các hình thái của nó giúp ta nhận chân được
vẻ đẹp của thi ca Do-thái.
Có trường hợp vế nầy kém hơn vế kia một đơn
vị (thường thì vế thứ hai ngắn hơn), Gray gọi loại nầy là song đối khuyết không
bù đắp (incomplete paralellism without compensation). Những giòng thơ loại nầy cho ta cảm tưởng như
một tiếng vang. Một ví dụ loại nầy ở trong Ca-thương 3:4 :
Ngài-đã-làm-hao-mòn thịt-ta
và-da-ta
Ngài-đã-bẻ-gãy xương-ta.
Có thể biểu thị bằng công thức:
a. b. c
a’. b’.
Một ví dụ khác trong Ê-sai 40:2 :
Hãy-nói
lời-an-ủi cho-Giêrusalem
Hãy-kêu-la cho-nó.
Đó là hình thức:
a. b. c.
a’. c’.
Đôi khi đơn vị thứ ba không có phần
song đối, như trong Ca-thương 2:10 :
Họ-đã-hất bụi lên-đầu-họ,
Họ-đã-mặc bao-gai.
Công thức ở đây là:
a. b. c.
a’. b’.
Trên đây là những ví dụ về sự cân
đối giữa hai vế trong cùng một giòng thơ. Tuy nhiên, nhiều khi có hai giòng đứng
với nhau và tạo cân đối cho cả giòng, chứ không phải chỉ giữa những bộ phận
trong cùng một giòng thôi. Ta có thể gọi loại trên kia là song đối nội, và loại
dưới là song đối ngoại.
Song đối ngoại trọn vẹn tương đối
hiếm, nhưng cũng có thể thấy, như trong Ê-sai 1:10 :
Hãy-nghe lời-của Chúa, hỡi-những-quan-trưởng-của Sôđôm
Hãy-để-tai-vào luật-pháp-của
Đức-Chúa-Trời-chúng-ta, hỡi-dân-của
Gômôrơ
Rõ ràng đó là hình thức:
a. b.
c. d. e.
a’. b’.
c’. d’. e’.
Tuy nhiên, thường thường song đối
ngoại là loại song đối khuyết có bù đắp, như trong Thi-Thiên 27:1 :
Chúa là-ánh-sáng
và-sự-cứu-rỗi-tôi
tôi-sẽ-sợ ai?
Chúa là-sức-mạnh-của đời-tôi
tôi-sẽ-hãi ai?
Ở đây, song đối giữa hai vế thứ
hai là trọn vẹn, nhưng song đối giữa hai vế đầu là khuyết có bù đắp.
Có trường hợp nó theo thứ tự phản
hồi, như trong Ca-thương 1:1 :
Nó-trở-thành như-đàn-bà-góa, nó-từng làm-lớn giữa-các-dân
Quận-chúa giữa-các-đô-thị, nó-trở-thành kẻ-triều-cống.
Đây là hình thức:
a. b.
c. d.
c’.
d’. a’. b’.
Nằm trong loại nầy còn có những
trường hợp trong giòng thơ có một bộ phận được song đối hoặc có khi được lặp lại,
phần còn lại đưa ý đi xa hơn – song đối
“bậc thang”. Hãy xem Thi. 27:2 :
Khi-kẻ-ác/ xông/
vào-tôi/, đặng-ăn-nuốt/ thịt-tôi/,
Những-kẻ-thù-tôi/ và-những-kẻ-nghịch-tôi/, chúng/
vấp/ và-ngã/.
(bản dịch tiếng Việt đảo hai vế
cho thuận ý)
Ở đây vế đầu của giòng thứ hai lấy
một đơn vị của giòng đầu, rồi từ đó làm trọn ý cả câu đang bị dở dang ở giòng đầu.
5. Tiết Nhịp (Metre)
Bây giờ chúng ta xét đến cách phối hợp các đơn vị thành những
vế trong câu thơ và những giòng thơ. Trong thơ Do-thái, mỗi vế phải có từ hai đến
ba đơn vị. Nơi nào có hơn hai đơn vị, người ta có thể tái phân ra nữa; chẳng hạn
“4” có thể đọc thành “2:2”, hoặc “5” đọc
thành “3:2” hay “2:3” (trường hợp nầy hiếm hơn). Như vậy, muốn đọc tiết nhịp của
câu thơ cũng đơn giản thôi: chỉ cần nhìn xem có bao nhiêu đơn vị trong mỗi vế
là có thể nói ngay.
Tiết nhịp ngắn nhất là 2:2, ta rất
thường thấy trong Thi Thiên. Lối chuyển
biến nhanh chóng, ngưng ngắt của nó thường biểu thị xúc cảm khẩn trương cao độ,
thường là do sợ hãi hay kinh ngạc, và có khi là sung sướng ngây ngất. Thi Thiên
29 gồm toàn là 2:2, và độc giả có thể cảm thấy thần kinh căng thẳng khi đọc thấy
sấm sét liên tục giáng xuống. Điều đáng tiếc là trong các bản dịch, cơ cấu tiết
nhịp của bài thơ nguyên thủy rất ít khi được phô diễn đầy đủ. Dầu vậy ta vẫn có
thể nắm bắt được phần nào cảm giác đó khi đọc câu 5 trong bản dịch tiếng Việt:
Tiếng Đức-Giê-hô-va/ bẽ-gãy/ cây-hương-nam/:
Phải-Đức-Giê-hô-va/ bẽ-gãy/
cây-hương-nam/ Li-ban/.
(Để ý đến thể song đối ngoại bậc
thang). Thi Thiên 46 tuy diễn tả cảm xúc trái ngược nhưng lại cũng dùng loại nhịp
2:2 gần như cả toàn bài, như trong câu 2:
Vì-vậy/
chúng-tôi-sẽ-chẳng-sợ/,
dù-trái-đất/ bị-di-chuyển/,
Và-dù-núi-non/ bị-quăng/ vào-lòng/ biển/.
hay câu 6:
Các-dân/
rối-loạn/,
các-nước/ bị-rúng-động/;
Ngài-phát/ tiếng/, trái-đất/ bèn-tan-chảy/.
Một trong những loại tiết nhịp
thông dụng nhất trong Kinh Thánh là 3:2. Tính song đối ở đây thường chỉ để cho
có hình thức, dù rằng cách dùng bình thường cũng vẫn hay thấy. Chẳng hạn,
Thi-Thiên 27:4 viết:
Một-điều/
tôi-mong-muốn/ về-Đức-Giê-hô-va/, điều-ấy/
tôi-sẽ-tìm-kiếm/,
Là-tôi-được-ở/ trong-nhà-của/ Đức-Giê-hô-va/ trọn-những-ngày-của/ đời-tôi/,
Để-nhìn-xem/ sự-đẹp-đẽ-của/ Đức-Giê-hô-va/, và-cầu-hỏi/ trong-đền-của-Ngài/
Thể song đối ở đây có phần nào phức
tạp. Ở giòng đầu là song đối khuyết. Giòng thứ hai có thể xem là song song với
cả giòng đầu, vì nó mở rộng chữ “điều ấy’ trong vế thứ hai. Giòng nầy chỉ song
song với giòng đầu về hình thức. Giòng thứ ba là song đối khuyết nội, dẫu vậy,
đơn vị cuối cùng của vế thứ hai không tương ứng khít khao với một đơn vị nào
trong vế đầu. Về tiết nhịp, loại 3:2 chậm và trang trọng hơn loại 2:2, và thường
được dùng trong các bài ai-điếu.
Có những trường hợp giòng thơ năm
đơn vị phải chia thành 2:3 thay vì 3:2, như trong Ê-sai 40:4:
Mọi-thung-lũng/ sẽ-được-nâng-lên/, mọi-núi/
và-đồi/ sẽ-bị-hạ-xuống/.
bởi vì ý thơ phải ngưng sau hai
đơn vị là ở chỗ có dấu phẩy. Nhưng đôi khi có thể giải thích cách khác. Như Thi
Thiên 28:6, nếu đọc theo lối bình thường thì có thể sắp xếp như sau:
Đáng-ngợi-khen/ Đức-Giê-hô-va-thay/,
Vì-Ngài-đã-nghe/ tiếng-của/
sự-khẩn-cầu-tôi/.
nhưng giả thử chúng ta sắp xếp lại
như sau:
Đáng-ngợi-khen/ Đức-Giê-hô-va-thay/, vì-Ngài-đã-nghe/
Tiếng-của/ sự-khẩn-cầu-tôi/.
Ta sẽ thấy vế đầu chưa trọn, tạo
nên cảm giác mong đợi một túc từ để bổ sung cho động từ. Ý thơ đến đây bị ngắt
đoạn, đưa tới cảm xúc gay cấn, làm tăng thêm sức mạnh của động từ và túc từ của
nó. Rất có thể tác giả muốn chúng ta thấy được, cảm được phước hạnh lớn lao mà
ông đã nhận được, ý ông muốn nói: “Ngài đã nghe – vâng, Ngài đã nghe tiếng khẩn
cầu của tôi.” Như vậy có một số trường hợp
2:3 có thể chuyển thành 3:2 để giúp ích cho độc giả, còn lại không thể đổi được,
chúng ta buộc phải chấp nhận nhịp 2:3, dù rằng thơ Do-thái có khuynh hướng đặt
vế dài ở phía trước.
Một nhóm thơ khác sử dụng nhịp
3:3, loại nầy rất phổ thông trong thi ca Kinh thánh. Cả sách Gióp cũng như rất
nhiều thi thiên dùng thể nầy. Nó thường dùng thể song đối nội trọn vẹn, nhưng cũng
hay dùng song đối khuyết có bù đắp. Hãy xem Thi Thiên 24:1
Thuộc-về-Đức-Giê-hô-va/ là-đất/
và-muôn-vật-trong-đó/ù,
Thế-gian/ và-những-kẻ-ở/ trong-đó/.
câu nầy theo công thức:
a. b. c.
b’. c’.
d’.
nhưng nên để ý, về ý nghĩa thì
hai đơn vị cuối của vế thứ hai cân đối với đơn vị ba của vế đầu.
Hãy đơn cử mấy giòng thơ trong
Gióp 4:17-18:
Loài-người-hay-chết/ há-công-bình/ hơn-Đức-Chúa-Trời-sao/,
Loài-người/ há-được-trong-sạch/ hơn-Đấng-tạo-hóa-mình-sao/?
Kìa/, Đức-Chúa-Trời-không-tin-cậy/ các-tôi-tớ-Ngài/,
Ngài-quở-trách/ các-thiên-sứ-Ngài/ là-điên-dại/.
Trong câu thơ nầy ta có song đối
trọn ở giòng đầu, dầu trong bản văn Do-thái, thứ tự của từ ngữ trong hai vế
không giống nhau. Giòng thứ hai là song đối khuyết có bù đắp, vì trong vế thứ
nhì không có chữ nào tương ứng với chữ “Kìa”, và đơn vị thứ nhì và thứ ba của vế
thứ nhì (theo thứ tự bản văn Do-thái) kết hợp lại tương ứng với đơn vị thứ ba của
vế đầu.
Thỉnh thoảng, có những câu thơ có
thêm vế thứ ba làm thành nhịp 3:3:3, như trong Thi Thiên 103:20:
Hãy-chúc-tụng/ Đức-Giê-hô-va/, hỡi-các-thiên-sứ-Ngài/,
Là-các-đấng-có-sức-lực/, làm-theo/
mạng-lịnh-Ngài/,
Hãy-vâng-theo/ tiếng-của/ lời-Ngài/.
Thường thường, trong ba vế có hai
vế song đối nhau chặt chẽ hơn vế thứ ba. Như Thi Thiên 24:7:
Hãy-cất/
đầu-lên/, hỡi-các-cổng/
Hãy-cất-lên/ hỡi-các-cửa/ đời-đời/,
Thì-vua-của/ vinh-hiển/ sẽ-vào/.
Nhưng cũng có trường hợp cả ba vế
đều liên hệ chặt chẽ ngang nhau. Chẳng hạn, Thi thiên 100:1,2:
Hãy-cất-tiếng-reo-mừng/ cho-Đức-Giê-hô-va/, hỡi-cả-trái-đất/
Khá-hầu-việc/ Đức-Giê-hô-va/ cách-vui-mừng/,
Hãy-đến/ trước-mặt-Ngài/ với-lời-hát-xướng/.
Ở đây sự song đối không khít khao
lắm, có thể xem là song đối khuyết có bù đắp,
nhưng về ý nghĩa, cả ba đều liên kết ngang nhau.
Đôi khi ta cũng gặp loại nhịp 2:2:2,
đặc biệt là trong thi ca tiên tri, nhưng nó rất hiếm trong các loại thi
ca khác. Như trong Thi-Thiên 91:3:
Chắc-chắn-Ngài/ sẽ-giải-cứu-ngươi/
Khỏi-bẫy-của/ loài-chim/
Và-khỏi-sự-độc-hại-của/ dịch-lệ/.
Ở đây, vế nhì và ba song hành chặt
chẽ với nhau, và cùng nhau làm trọn ý của vế đầu.
Cũng có loại 4:3 nữa, nhưng rất hiếm. Nói chung, nó còn có thể tái phân thành 2:2:3, vế nhì liên kết chặt chẽ với vế đầu
hơn là vế thứ ba, nhưng thường thì vế thứ ba song hành với cả hai vế đầu. Như
trong Thi thiên 141:3:
Hỡi-Đức-Giê-hô-va/, xin-hãy-đặt/
trạm-canh/ trước-miệng-tôi/,
Giữ/ cửa-của/
môi-tôi/.
Nói chung, các bài thơ thường giữ
hai loại nhịp chính. Một loại là nhịp 3:3, đôi khi biến thể ra 2:2:2 và 3:3:3.
Loại nhịp kia là 3:2 biến thể thành 2:2 và có khi là 2:3. Nhịp 4:2 rất hiếm nên
không thể tìm được những biến thiên đều đặn của nó.
6. Chữ Đầu Câu Thơ
Trong thi ca Do-thái, chữ đầu câu
thơ cần được lưu ý. Đôi khi có một đơn vị đứng riêng lẻ ở đầu giòng mà không được
tính vào số đơn vị chung của câu thơ. Thường đó là một chữ đứng hẳn một mình, đến
chữ thứ hai, tiết nhịp câu thơ mới bắt đầu. Những chữ đó thường là tán thán từ,
liên từ, hay đại danh từ. Nó có một công dụng trong mạch thơ, vì nó tạo nên một điểm ngừng, khiến độc giả khựng
lại, phải chú ý tới những gì nói kế tiếp.
Một ví dụ dùng đại danh từ theo
kiểu nầy ta thấy trong Thi Thiên 3:3. Tác giả vừa đưa ra lời than vãn về kẻ địch
đe dọa chế nhạo ông, rồi ông liền quay qua thưa với Đức Chúa Trời:
Nhưng-Ngài,
Hỡi-Đức-Giê-hô-va/ là-cái-khiên/ cho-tôi/
là-sự-vinh-hiển-tôi/ và-là-Đấng-làm-tôi-ngước/ đầu-lên/.
Gióp 3:20 cũng dùng chữ theo cách
đó:
Cớ-sao
ban/ ánh-sáng/
cho-kẻ-hoạn-nạn/
và-sanh-mạng/ cho-kẻ-có-lòng-đầy-đắng-cay/?
Ở đây chữ đầu là tiếng của mỹ từ
pháp để mở đầu một câu hỏi. Nhưng xét về tính song đối cũng như số đơn vị trong
câu thơ, ta sẽ thấy chữ đó đứng biệt lập khỏi giòng thơ, và chính điểm ngưng nầy
khiến cho lời tiếp theo có tác động mạnh.
Một đặc điểm nữa của thơ Do-thái
là những bài thơ theo mẫu tự, tuy số nầy không nhiều. Trong bài thơ loại nầy,
tác giả viết những câu thơ ráp vào những mẫu tự Do-thái. Những mẫu tự nầy đứng
đầu mỗi câu thơ hay nhiều giòng thơ một lúc, và theo thứ tự của bộ chữ cái. Để
hiểu cách làm loại thơ nầy, ta hãy xem Thi Thiên 34 là một bài thơ theo mẫu tự
Do-thái được viết đại khái lại theo mẫu tự tiếng Việt như sau:
A.
Ai sẽ chúc tụng Đức Giê-hô-va?
Miệng tôi sẽ khen ngợi Ngài luôn.
B. Bởi
thế linh hồn tôi sẽ khoe mình về Đức Giê-hô-va,
Những người hiền từ sẽ nghe và vui
mừng.
C.
Chúng ta hãy tôn trọng Đức Giê-hô-va,
Hãy cùng tôi tôn cao danh của Ngài.
D.
Dù thế nào tôi cũng tìm cầu Đức Giê-hô-va, và Ngài đáp lại tôi,
Giải cứu tôi khỏi các điều sợ hãi.
Đ. Để
được chói sáng, họ ngữa trông Chúa,
Mặt họ chẳng bị hỗ thẹn.
Bài thơ đặc sắc nhất thuộc loại nầy
là Thi Thiên 119, trong đó mỗi mẫu tự đứng đầu một nhóm gồm tám giòng thơ trở
lên. Thơ loại nầy hẳn nhiên rất khó làm, tuy vậy cũng có những bài rất cảm động
như Ca Thương 1-4.
7. Khổ Thơ (Stanza, Strophe)
Một bài thơ dỉ nhiên là gồm nhiều
câu thơ, nếu những câu thơ đó liên kết lại thành một thể thống nhất. Tuy nhiên,
nhiều bài thơ Do-thái có thể phân thành nhiều nhóm ý hay nhóm âm tiết
(prosody), và mỗi nhóm gồm có nhiều giòng thơ. Ta gọi những nhóm đoạn đó là khổ
thơ.
Nói chung, đa số công nhận có bốn
cách sắp đặt khổ thơ. Cách thứ nhất là tất cả các khổ thơ trong một bài thơ đều
có cùng một số giòng như nhau, nhiều học giả cho đây là cách sắp đặt duy nhất.
Nhiều học giả khác cho rằng có những loạt khổ thơ với số giòng khác nhau được lặp
đi lặp lại. Ví dụ, khổ thơ đầu có ba giòng, khổ thơ nhì có bốn giòng, khổ thơ
ba có năm giòng, rồi đến khổ thơ thứ tư trở lại ba giòng, khổ thơ thứ năm bốn
giòng, rồi cứ thế tiếp tục. Có khi những loạt khổ thơ đó thay vì lặp lại thứ tự
số giòng (3, 4, 5; 3, 4, 5), chúng lại đảo ngược (3, 4, 5, 5, 4, 3). Trong trường
hợp đó, có thể có một khổ thơ lẻ xen vào giữa, đôi khi chỉ là một giòng: 3, 4,
5, 1, 5, 4, 3. Có những bài thơ người ta không thể nào tìm ra qui luật sắp đặt
khổ thơ trong đó, gọi là những bài thơ phá qui (dithyrambic).
Có thể nói rằng chỗ nào có câu điệp
khúc là chỗ đánh dấu cho khổ thơ. Đọc Thi Thiên 46 sẽ thấy có hai câu được lặp
y nguyên ở câu 7 và 11, cuối mỗi câu có chữ Sê-la. Ta thấy đó là những điệp
khúc đánh dấu cho hai khổ thơ sau, còn cuối khổ thơ đầu, sau câu 3 chỉ có chữ
Sê-la. Điều nầy cho thấy đã có lúc có câu điệp khúc nằm dưới câu 3. Tuy có người
nhận xét rằng những điệp khúc trong Thi Thiên nầy được thêm vào về sau vì lý do
chúng nói tới tên Giê-hô-va trong khi những câu khác không có. Nhưng nếu ta xét
kỹ tính chất của toàn bài, ta sẽ thấy tự nguyên thủy, bài đã được phân thành ba
khổ thơ rõ rệt, mỗi khổ thơ gồm sáu giòng 2:2. Tuy nhiên, ngay cả đối với sự
suy đoán nầy, ta cũng không thể nào giáo điều cho rằng đây là điều duy nhất
đúng.
Từ ‘Sê-la’ thường được người ta
cho là dùng để chỉ dấu cho một khổ thơ. Nhưng điều không may là ý nghĩa của nó
rất mù mờ. Phụ âm của nó thuộc căn ngữ có nghĩa là “nâng lên, dở bỏ”, và người
ta giải thích là nâng cao hòa âm lên, hay chấm dứt phần nhạc khí. Những người
khác lại cho là hát lớn lên hay ngưng hát, hoặc xen vào lời chúc tụng hay điệp
khúc. Nhưng nguyên âm của nó lại không đi đôi với căn ngữ trên, nên giải thích
nầy không làm ta thỏa mãn hoàn toàn.
Thêm nữa, chỉ có hơn một phần tư
Thi Thiên và Ha-ba-cúc 3: là có dùng từ Sê-la. Nhiều khi nó đứng cuối những
phân đoạn đều đặn của một bài thơ như Thi Thiên 46. Nhưng nhiều khi nó không chỉ
được một điều gì cả, kể cả một cụm giòng thơ. Tuy nhiên, đó có thể là do bản
văn bị sai lạc vì thời gian, vì người ta nhận thấy cách phân bố của nó trong bản
Massoretic không luôn luôn giống như trong
các cổ bản.
Nhận xét cuối cùng là đôi khi những
nhóm ý tự nhiên cũng có thể được dùng để phân chia khổ thơ. Thi Thiên 91 chẳng
hạn, thấy rõ ràng là có tám khổ thơ, mỗi khổ thơ hai hàng nằm chặt chẽ với nhau
và độc lập đối với các khổ thơ khác. Chúng ta không thể nào không thấy liên hệ
mật thiết giữa các câu 3 và 4, 5 và 6, 11 và 12. Các đôi khác cũng đi với nhau
khá tự nhiên, chỉ trừ câu 13 và 14, chúng ta không thấy rõ mối liên lạc. Dù sao
đi nữa, muốn giải thích cho đúng đắn thì phải xét hai câu nầy đi đôi với
nhau.
Câu hỏi thảo luận:
1. Bạn hãy suy ra những điểm tương đồng và
khác biệt giữa thi phú Do-thái và Việt Nam.
2. Bạn hãy đọc Thi thiên 139 và tìm ra những
câu song đối trong đó.
3. Bạn hãy tìm ra những khổ thơ trong Thi
Thiên 107:1-32.
4. Thi ca Do-thái ảnh hưởng gì chúng ta ngày
nay?
CHƯƠNG 2
NHỮNG BÀI THƠ LẺ TẺ
Ngoài những tập thơ chính và những bài thơ
trong các sách tiên tri, còn có khoảng năm mươi bài thơ đủ loại nằm rải rác
trong bộ Ngũ Kinh và các sách lịch sử. Một số bài rất cổ có thể đã được truyền
lại từ thời mà chúng ta có thể gọi là thời Isơraen; một số khác có lẽ đã được
sáng tác sau nầy. Thường ta có lý do để ngờ rằng một bài thơ trước khi được
kinh điển hóa đã phải trải qua nhiều cắt xén nghiêm trọng. Còn những bài thơ cổ
hơn thì có thể cũng đã trải qua những điều chỉnh với thời gian.
Những bài thơ được giữ lại trong
các sách từ Sáng Thế Ký đến II Các Vua có thể chia làm năm nhóm. Đó là:
1. Những bài ca thị tộc và địa
phương.
2. Những lời nguyền (chúc lành
hay rủa sả - spell).
3. Những câu ngạn ngữ (tiếngDo-thái:
mashal, meshalim).
4. Những bài tán tụng (paeans).
5. Những bài ai điếu (dirges).
5. Những bài ai điếu (dirges).
nghĩa, nhiều bài thuộc loại nầy có thể được sắp vào loại khác nếu như người ta
đã không gọi chúng là meshalim.
I. NHỮNG BÀI CA THỊ TỘC VÀ ĐỊA PHƯƠNG
Đa số các bài thơ nầy cũng có thể
sắp vào loại lời nguyền (spells). Tuy nhiên có bốn bài trong đó đặc tính thị tộc
hay địa phương có vẻ nỗi bật. Chúng ghi nhớ một biến cố hay đặc tính trong lịch
sử của một thị tộc hay nơi chốn nào đó.
1. Sáng 4:23-24: Bài Ca của Lê-méc.
Nhịp 3:2. Tộc Lê-méc kỷ niệm chiến
thắng của mình. Người giòng Ca-in nổi tiếng vì đòi bảy mạng đền cho một mạng của
họ. Người giòng Lê-mec còn đòi tới bảy mươi lần bảy.
2. Dân 21:14,15:
Một bài thơ bị cắt xén thảm hại,
có lẽ đây chỉ là một khúc còn sót lại. Nó bắt đầu bằng một túc từ không có động
từ. Có lẽ nó được dùng để mừng một biến cố nào xảy ra thuở xa xưa bên kia sông
Giô-đanh, nhưng không có gì để xác quyết cả.
3. Dân 21:17,18:
Bài Ca Bên Giếng.
Nhịp 3:2. Bài nầy có thể xem là lời
nguyền, nhưng ở đoạn nầy nó có chỉ nơi chốn. Có lẽ nó cũng như bài trên đã có từ
thời trước khi dân Israen chinh phục đất Palestine.
4. Dân 21:27-30.
Bài Ca Hếât-bôn và Mô-áp.
Không rõ nhịp. Nội dung nó ghi lại
cuộc chiến thắng Si-hôn, vua Mô-áp và thu phục vùng đất ông ta chiếm giữ.
II. NHỮNG LỜI NGUYỀN
Người ta thường tin rằng lời một
người thốt ra nhiều khi có thể ứng nghiệm. Khi một người có quyền lực khác thường
nói ra một lời chỉ sự thịnh vượng hoặc tai họa, thì chính lời ấy sẽ đem lại hậu
quả đúng như vậy. Những hạng người như tiên tri hay pháp sư có thể định tương
lai tốt xấu cho người ta tùy cách họ nói. Đặc biệt những lời trăn trối của những
người sắp chết có một quyền lực khác thường. Chính vì vậy trong cổ văn của nhiều
dân tộc, người ta thường tìm cách để có những lời chúc lành của người sắp chết.
Khoảng mười bảy bài thơ trong các sách văn xuôi có thể sắp vào loại nầy.
1. Sáng 9:25-27: Lời Chúc Phước và Rủa Sả của Nô-ê.
Nhịp 3:3 (2:2:2). Chúc phước Sem
và Gia-phết, rủa sả Ca-na-an, chắc là rất cổ.
2. Sáng 14:19b-20a:
Mên-chi-xê-đéc Chúc Phước Áp-ra-ham.
Nhịp 3:3. Rất cổ, đã có từ thời
mà ‘Đức Chúa Trời Chí Cao’ (El Elyon) chưa được gọi là Đức Giê-hô-va.
3. Sáng 24:60. Lời Chúc Phước của
Rê-be-ca:
Nhịp 3:2 (2:2). Một lời nguyền cầu
thịnh vượng cho cả Is-ra-en lẫn Ê-đôm. Chắc phải có từ trước thời hai dân tộc
nghịch thù nhau.
4. Sáng 27:27-29. I-sác Chúc Phước
Gia-cốp:
Nhịp không rõ. Gia-cốp được hứa sẽ
chiếm địa vị ưu thắng chính trị và thịnh vượng về vật chất.
5. Sáng 27:39tt. I-sác Rủa Sả
Ê-sau:
Chúng ta thấy rõ sự song đối giữa
hai bài; một cách chơi chữ của người Do-thái biến lời hứa thành công cho người
nầy thành lời báo họa cho người khác.
6. Sáng 48:15tt. Gia-cốâp Chúc
Phước Giô-sép: .
Nhịp 3:3 (2:2:2). Ngôn ngữ không
xưa lắm.
7. Sáng 49:2-27. Lời Chúc Phước của
Gia-cốp:
Về hình thức toàn bài thì đây thuộc loại lời nguyền tức là lời trối của
người sắp chết. Nhưng có lẽ đây là một tập họp của nhiều mẫu thơ khác nhau do một
người đời sau biên tập. Trong loại thơ sưu tập nầy ta khó có thể tìm ra cách sắp
xếp nhịp điệu.
8. Dân 6:24-26. Lời Chúc Phước của
Thầy Tế:
Đây là một công thức có lẽ đã được
dùng từ thời rất xưa, và đã được quí trọng qua nhiều thời đại. Cho đến bây giờ
nó vẫn còn được cả tín đồ Do-thái lẫn Cơ-đốc tôn quí và sử dụng.
9. Dân 10:35-36.
Đây là bài ca mẩu được sử dụng
khi Hòm Thánh được đưa ra trận hay mang trở về trại (Xem I Sam. 4). Nhưng không
thấy bằng chứng nó được dùng dưới thời quân chủ.
10 -13. Dân 23:7-10, 18-24;
24:3-9, 15-19. Lời Sấm của Ba-la-am.
Cả bốn bài đều theo nhịp 3:3 với
rất ít biến thiên, và có một giá trị thơ rất cao. Nói chung bản văn nó được bảo
quản tốt hơn nhiều bài thơ cổ khác.
Dân 24:20. Chúc Phước Dân
A-ma-léc:
Đây có lẽ chỉ là một phần của bài
thơ dài. Bài nầy cũng được xem là của Balaam nhưng có lẽ nó xưa hơn mấy bài trước
nhiều.
Dân 24:21,22. Lời Sấm về Người Kê-nít:
Có lẽ là mẩu sót lại của một bài
thơ xưa. Dân Kênit được nhắc đến trong ISam. 15:6; 27:10; Quan 1:16; 4:,5:. Có lẽ về sau họ đồng hóa với
Giu-đa.
16. Dân 24:23,24. Lời Sấm về Một
Dân Vô Danh:
Khúc nầy có nhắc đến Kit-tim,
A-sy-ri, Hê-brơ, nhưng ý nghĩa thật khó hiểu, chỉ có thể đoán thôi. Chắc bản
văn đã bị hư hại.
Phục 33. Lời Chúc Phước của
Môi-se:
Về hình thức chung, nó giống lời
chúc của Gia-côp trong Sáng 49:, nhưng về cấu trúc, nó khác hẳn. Nó không phải
là một sưu tập những lời rời rạc mà là một bài duy nhất, có phần nhập đề và kết
luận nói đến Is-ra-en như là một toàn thể, và nhịp điệu thì rất cố định, giữ ở
3:3 (3:3:3).
III. NHỮNG CÂU NGẠN NGỮ
(Meshalim, Mashal)
Nhóm nầy rất khó định nghĩa. Nó
thường được áp dụng cho những câu ngắn và súc tích tóm tắt kinh nghiệm của người
ta trong một lãnh vực nào đó, cũng giống như một câu châm ngôn. Sách Châm ngôn
có nhiều câu thuộc loại nầy. Tuy nhiên loại nầy cũng bao gồm nhiều hình thức
khác nữa, như Ê-sai 14:4-21, những lời của Ba-la-am, cũng được gọi là mashal. Mashal
nhiều khi không phải là một câu thơ, như câu I Sa 10:12 “Saulơ há cũng vào số
các tiên tri ư?” cũng được gọi là mashal.
1. Sáng 25:23. Lời Sấm của
Rê-be-ca.
Nói về hai con sinh đôi của bà
nhưng không nhắc tên. Nếu có nhắc tên chắc đã được liệt vào loại lời nguyền.
2. Dân 12:6-8. Môi-se và Các Tiên
Tri.
So sánh một bên là Môi-se và một
bên là các tiên tri.
3. Giôs. 10:12. Mặt Trời
ở Gabaôn:
Câu 13 có lẽ thêm vào sau, trích
từ bộ cổ thư là Sách Gia-sa. Học giả đồng ý những lời nầy rất xưa.
4. Quan 9:8-15. Ngụ Ngôn của
Giô-tham:
Có người không đồng ý liệt bài nầy
vào hàng thi ca, vì ngoài những câu hơi giống nhau, người ta nhận thấy nhịp điệu
nó rất biến thiên, và khó tìm được chỗ song đối. Tuy nhiên lời văn nó rất hoa mỹ
và hình ảnh tưởng tượng dồi dào.
5. Quan 14:14, 18a. Câu Đố của
Sam-sôn và Câu Đáp.
Cả hai câu chỉ có một giòng, là
tiêu biểu của loại ngạn ngữ.
6. Quan 14:18b. Sam-sôn Đáp Trả.
Cũng một loại như trên.
7. Quan 15:16. Sam-sôn Ca Tụng
Chiến Thắng.
Hai câu tiêu biểu nhịp 2:2.
8. I Sa 15:22,23. Sa-mu-ên Lên Án
Sau-lơ.
Câu 22 đặc biệt nhịp 4:3, câu 23
có lẽ là 3:3. Điểm khác nhau cho thấy có lẽ đó là hai câu khác biêt được kết hợp
lại.
9. I Sa 15:33. Tiêu Diệt A-gát.
Lại một câu ngạn ngữ tiêu biểu nữa,
nhịp 2:2.
10. I Sa 18:7 (21:12 và 29:5) Bài
Ca của Phụ Nữ về Đa-vít và Sau-lơ.
Nhịp 3:2. Chắc là rất phổ thông
và được các cô các bà hát đi hát lại trong khi nhảy múa.
11. I Sa 24:13. Lời Đa-vít Nói Với
Sau-lơ.
Ở đây dùng hẳn chữ ngạn ngữ
(mashal). Nhịp 3:3.
12. II Sa 12:1-4. Ngụ Ngôn của Na-than.
Có giá trị văn chương nhưng có lẽ
không nên sắp vào tác phẩm thi ca.
13. II Sa 20:1. Một Khẩu Hiệu Nổi Loạn.
14. I Vua 12:16.
Một khẩu hiệu khác, hơi khác với
câu trước, cho thấy nó rất phổ thông, và hai miền Nam Bắc khó hòa hợp được.
IV. NHỮNG BÀI TÁN TỤNG
Loại nầy rất đặc biệt, dễ nhận
ra. Nó luôn luôn đề cập đến một biến cố lịch sử nào đó, thường là bài thánh ca tạ ơn hay khải hoàn, nhiều khi
có thể do một thi sĩ đời sau sáng tác để ca ngợi biến cố vinh quang trong quá
khứ. Một điều đáng để ý là những bài ca chiến thắng nầy không diễn tả niềm kiêu
hãnh của kẻ chiến thắng hay tỏ ý hả hê được rửa hận đối với kẻ chiến bại, mà
qui vinh quang về cho Đức Giê-hô-va, cảm tạ, ca ngợi Ngài.
1. Xuất 15:1-18. Bài Ca Môi-se
Nơi Biển Đỏ
Đây là một bài khải hoàn ca hùng
tráng ca mừng Đức Giê-hô-va đem dân Ngài qua Biển Đỏ và đưa họ vào xứ
Palestine. Hầu hết bài thơ theo nhịp 2:2, chỉ có 3 giòng nhịp 3:2; và 3 giòng
“bất thường” có lẽ do bản văn bị sai lạc. Bài thơ chia làm ba phần rõ rệt. Tác
giả mở đầu mỗi phần bằng những lời ca ngợi, sau đó mô tả hành động của Đức
Giê-hô-va. Bài thơ kết thúc với lời tán tụng quyền tể trị đời đời của Đức
Giê-hô-va. Tuy nội dung mỗi phần tự nó đã đầy đủ, nhưng kết hợp lại chúng vẫn
thành một thể thống nhất.
Bài ca chắc là thành hình sau thời
Môi-se, vì nó mở đầu bằng bài ca Mi-ri-am (c.21) và có lẽ đã dùng câu nầy để quảng
diễn ý thơ. Chẳng những nó đề cập đến những việc xảy ra vào những giai đoạn cuối
thời kỳ lang thang trong sa mạc (c. 14-16), lại còn nói đến dân Phi-li-tin trước
thời kỳ dân Is-ra-en chinh phục đất đai của họ, và đề cập đến việc định cư và lập
đền thờ (c. 17). Ngoài ra còn có những dấu chỉ khác cho thấy khó có thể định
niên đại thật xưa cho nó được. Như ngôn ngữ cũng có những đặc tính của thời kỳ
sau, và có nguời cho là nó khó có thể thành hình trước trung độ của thời kỳ
quân chủ.
2. Xuất 15:21. Bài Ca Mi-ri-am
Bài nầy gồm một câu giòng đôi
2:2, đã được dùng mở đầu cho bài trên kia với đôi chút biến thể. Chắc đây là
bài ca nguyên thủy ăn mừng biến cố vượt biển Đỏ.
3. Quan 5. Bài Ca Đê-bô-ra
Đây là một trong những bài khải
hoàn ca trác tuyệt nhất, chắc là do một nhân chứng cảm tác, không phải bà
Đê-bô-ra, vì bà được nhắc đến ở ngôi thứ hai chứ không phải ngôi thứ nhất (c.
7, 12). Nó mang tính chất nghệ thuật cao. Bài thơ có khẩu khí hùng dũng, giàu
tưởng tượng, rất linh hoạt, khiến nó có sức thôi thúc mạnh mẽ.
4. I Sa 2:1-10. Bài Ca An-ne
Đây cũng là một bài khải hoàn ca
rất hay. Nhịp đều đặn 3:3. Chắc không phải là sáng tác riêng cho hoàn cảnh của
An-ne, vì trừ câu 5 ra, không có chỗ nào ứng với bà cả. Ngay cả câu 5 cũng
không đúng hẳn vì nói đến bà mẹ có nhiều con cái. Chắc đây là một bài ca mừng một
chiến thắng quân sự nào đó.
V. NHỮNG BÀI AI ĐIẾU
Ai điếu là thể thơ rất thông dụng
vào thời Is-ra-en cổ. Nó thường được dùng vào dịp tang lễ, và dường như có một
lớp phụ nữ được huấn luyện chuyên nghiệp về loại nầy (Xem Giê 9:7-12). Trong Cựu
Ước chỉ còn sót lại có hai bài. Cả hai đều được cho là tác phẩm của Đa-vít.
1. II Sa 1:19-27. Sau-lơ và
Giô-na-than
Đây là một trong những bài thơ thương tiếc
đáng yêu nhất trong văn chương. Nhịp thông dụng trong loại ai điếu là 3:2,
nhưng ở đây có một số lớn 2:2. Đa-vít khóc thương nguời bạn thân thiết nhất
trên đời là Giô-na-than, nhưng đồng thời cũng khóc than Sau-lơ vốn là kẻ thù của
mình. Nghĩa tử là nghĩa tận, những hận thù, đối nghịch đã dẹp qua một bên, ở
đây chỉ kể ra những điều tốt lành, đức hạnh của Sau-lơ.
2. II Sa 3:33tt. Áp-ne.
So với bài trước thì bài nầy quá
ngắn và ít nồng nàn hơn. Hình như đây là
một khúc còn sót của một bài thơ dài.
VI. NHỮNG BÀI THI VỊNH
Ngoài sách Thi Thiên ra, thỉnh
thoảng có những bài thi vịnh nằm rải rác trong các sách khác. Các sách tiên tri
như Ê-sai, Giê-rê-mi, Giô-na, Na-hum, Ha-ba-cuc đều có. Có những nơi trích toàn
bộ hay một phần bài thi vịnh trong sách Thi Thiên, như II Sa 22 là Thi 18; I Sử 18:8-36 là gồm Thi 105:1-15, Thi 96, và
Thi 106:1, 47. Tuy nhiên, có hai bài không xuất hiện ở nơi khác, và một bài có
ghi lại trong Ê-sai.
1.
Phục 32: 1-43. Bài Ca của Môi-se
Bài thơ nầy ghi lại lịch sử Is-ra-en
vào thời kỳ du mục, đối chiếu sự bất trung của họ tương phản với tình yêu bền bĩ
của Đức Giê-hô-va. Ngôn ngữ rất phong phú, linh cảm rất dồi dào; vài câu trong
đó đã trở thành phương ngôn cổ điển. Câu 7 đề cập đến sự việc như là đã xảy ra
vào một thời xa xưa, còn ý toàn bài thì tương tự như trong các sách tiên tri,
nên có lẽ phần lớn bài nầy xuất hiện lâu sau thời Môi-se.
2. II Sa 23:1-7. Những Lời Cuối Cùng của
Đa-vít.
Cũng giống như Thi Thiên 1, bài nầy mô tả
sự tương phản giữa số phận kẻ ác và người công bình. Nó có vẻ lạc lõng trong
toàn mạch văn, nên người ta cho là nó xuất hiện sau thời Đa-vít.
3. II Vua 19:21-28 (xem Ê-sai
37:22-29) Lời Sấm của Ê-sai.
Đây hoàn toàn là một lời tiên
tri, có lẽ đã được nhà chép sử trích lại để cho câu chuyện về Ê-sai được đầy đủ.
Nó nói tiên tri về sự đổ nhào của A-sy-ri vì đã thách đố không phải Is-ra-en mà
chính Đức Giê-hô-va.
Câu hỏi
thảo luận:
1. Bạn hãy đọc khúc thi ca Dân 21: 14b, 15
xem có thể hiểu được ý nghĩa nó không, và luận về sự lưu truyền những văn bản của
Kinh Thánh. Thử suy đoán số phận của những bộ sách Chiến Trận của Đức Giê-hô-va
(Dân 21: 14a) và Gia-sa (Giô 10:13) ra sao, và nếu còn thì ảnh huỏng gì đến Kinh
Thánh không.
2. Hãy so sánh câu “Ngàn năm vết
nhục nhã đã sạch làu, Muôn thuở nền thái bình vững chắc, Âu cũng nhờ trời đất tổ
tông, linh thiêng đã lặng thầm phù trợ” trong Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi
với câu “Hỡi các vua hãy nghe, Hỡi các quan trưởng, khá lắng tai! Ta sẽ hát cho
Đức Giê-hô-va, Ta sẽ hát cho Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên” trong
bài ca chiến thắng của Đê-bô-ra và bình luận về khác biệt và tương đồng giữa niềm
tin của người Do-thái và VN.
CHƯƠNG 3
GIÓP
I. DẪN NHẬP
Mọi người đều công nhận rằng sách
Gióp là một tuyệt tác văn chương trong gia tài văn học Do-thái. Nói vậy không phải chỉ để đề cao một
quyển sách ta đang học. Vì rằng, muốn đánh giá một quyển sách, ta phải xét xem
nó hội được bao nhiêu yếu tố cần thiết để cấu thành một tác phẩm nghệ thuật giá
trị. Một tác phẩm không thể nào thực sự vĩ đại nếu nó không chứa đựng một nhiệt
tình tìm kiếm chân lý và can đảm để thực hiện cuộc tìm kiếm ấy. Một điều kiện tất
yếu nữa là nó sử dụng một bút pháp vừa bi hùng vừa giàu từ ngữ và tưởng tượng.
Nó chẳng những phải có cảm hứng trong thiên nhiên mà còn phải có cái nhìn sâu sắc
tinh tế đối với bản chất, phẩm cách con người cũng như đấng thiêng liêng. Lại cũng
phải mang chút trào phúng nữa, không phải thứ trào phúng cạn cợt chỉ cốt chọc
cười, mà là ý nhị phô bày cái so le, bất cân xứng giữa những cái đáng lẽ phải
đi đôi hài hòa với nhau, giữa sự thật và điều người ta nói. Cuối cùng, tất cả
những phẩm tính đó sẽ chỉ là phí phạm nếu chúng không được dùng để trình bày một
đề tài có tầm quan trọng, có trọng lượng và kích thước vượt bực.
Có một số sản phẩm tinh thần của
con người đã hội được một số hay tất cả những yếu tố trên một cách xuất sắc.
Milton, tác giả người Anh, viết được quyển Thiên Đàng Đánh Mất (Paradise Lost)
có thể xem như gần với sách Gióp nhất, nhưng Milton thiếu chất trào phúng.
Shakespeare đã xử lý những chủ đề tuyệt vời, nhưng ông không thể nào vượt khỏi
hàng rào qui ước của kịch nghệ. Nguyễn Du đã chứng tỏ tài năng xuất chúng trong
Truyện Kiều với nghệ thuật dụng ngữ điêu luyện và cái nhìn tinh tế vào bản chất
con người, nhưng ta đâu có thể tìm được nơi ông những cảm nhận vừa siêu thoát
trong cõi vô cùng vừa kết nối với thực tế cuộc sống như trong sách Gióp? Theodore Robinson bảo rằng chỉ có ba người đến
gần tác giả sách Gióp hơn hết, là Aeschylus, Dante, và Goethe (trong Faust),
nhưng không ai trong họ lên tới được chiều cao của sách Gióp.
Đề tài của tập thơ là một vấn đề
vô cùng hệ trọng xưa nay vẫn nung nấu tâm trí con người. Làm thế nào để giả
thuyết về một Chúa Tể toàn thiện toàn năng của vũ trụ có thể dung hợp được với
những chuyện mắt thấy tai nghe về những đau khổ của con người? Vấn đề đặt ra
không phải là sự hiện hữu của đau khổ – câu hỏi đó có thể tìm được câu trả lời
tương đối giản dị – mà là cách phân phối nó. Nhiều lúc dường như nó xảy đến cho
con người cách vô cớ, vô chủ đích. Nhà thơ đã mang tất cả nhiệt tình ra đào xới
tìm kiếm chân tính của vấn đề đó, và ông đã không rùn bước trước một kết luận
nào mà thực tế có thể mang lại cho ông, cũng không lẫn trốn trong một giải
thích qui ước, hời hợt, nửa vời nào. Ông ý thức sâu xa cái hố ngăn cách giữa sự
thật và những quan điểm, những định đề được chấp nhận, và đã xông xáo chưa ai bằng
để lật tẩy một cách không thương xót cái vô dụng của những niềm tin dựa trên những
nền tảng quá nông cạn. Tác giả sách Gióp cũng có khả năng ít ai bì kịp để nhìn
vào chiều sâu của tâm hồn con người. Ông nhìn bên dưới bề mặt của nhân cách và
nhận diện chính xác những động cơ thúc đẩy mà ít ai nhận biết. Cuối cùng, tất cả
những điều đó được diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ hàng đầu: tiếng Do-thái, một
thứ tiếng rất giàu âm điệu. Vì không có nhiều từ ngữ trừu tượng nên thi sĩ đã dùng cả kho hình ảnh và biểu tượng để thay
thế, đa số lấy ra từ thiên nhiên, nơi tác giả đã quan sát tinh tường, dù rằng
ông cũng không thoát khỏi những nhận xét sai lầm của người đồng thời.
II. TÁC GIẢ
Phải chăng quyển sách đã do một
người viết ra từ đầu chí cuối? Phải chăng tác giả đã tường thuật các biến cố rồi
viết những suy tư của mình thành thơ? Phương pháp đó ít thấy bao giờ, nhưng
không có gì khiến ta phải bác bỏ khả năng đó. Tuy nhiên, theo Theodore
Robinson, ta có quyền tin rằng nhà thơ đã tìm được một câu chuyện xưa và đem lồng
sáng tác thi ca của mình vào đó. Phần thơ và văn xuôi có vẻ biệt lập với nhau.
Phần thơ đúng ra là tiếp nối câu chuyện đã kể trong phần đầu, nhưng tác giả có
vẻ không để ý đến chi tiết, như trong 14:21 và 19:17 lại nhắc đến con cái như
là chúng vẫn còn sống. Trong phần đầu, Sa-tan được xem như là nguyên nhân chính
của mọi khổ nạn của Gióp, nhưng phần thơ không hề nhắc đến tên nó. Nhưng điểm
khác biệt căn bản là quan niệm về tin kính; trong phần đầu, Gióp là con người
nhu mì, thuận phục thiên ý, cúi đầu chấp
nhận bất cứ số phận nào mà Trí Khôn tuyệt đối dành cho ông. Trong phần
thơ, có thể nói thuận phục chấp nhận
không phải là thái độ vốn có của ông, như tỏ ra trong những lời tự biện hộ của
ông trước sự buộc tội của các bạn, cho đến khi ông được đối diện với Đấng Toàn
Năng.
Nhiều người gợi ý về nhiều tác giả
khác nhau: Gióp, Ê-li-hu, Môi-se, Sa-lô-môn, Ê-sai, Ê-xê-chia, Ba-rúc, v.v...
nhưng chẳng ai có một bằng cớ nào ngoài việc ức đoán.
III. NIÊN ĐẠI VÀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Ta không nên lẫn lộn bối cảnh lịch
sử của phần lời tựa (1: - 2:) và lời bạt (42: 7-16) với phần giữa của quyển
sách, nghĩa là giữa thời kỳ xảy ra và thời kỳ quyển sách thành hình. Phần trên
hiển nhiên là trước thời kỳ lưu đày. Không khí ở đây phảng phất thời kỳ các
thánh tổ. Của cải được tính bằng bầy súc vật; Gióp vừa là chủ gia đình vừa là
thầy tế cho cả nhà (1:5). Gióp sống đến hơn 100 tuổi (42:16). Hơn nữa, sách
không nhắc đến tên Is-ra-en, mà nói đến tên Canh-đê, Sê-ba là những xứ thời cổ.
Truyện Gióp chắc rất phổ biến vì trong Ê-xê-chiên 14: 20 có nhăc đến tên Gióp
cùng với Đa-ni-ên và Nô-ê. Theo E.S.P. Heavenor, bối cảnh lịch sử đã được lưu
giữ và truyền lại từ thế hệ nầy qua thế hệ khác, cho đến khi thêm phần đối thoại
bằng thơ vào và nhập lại thành sách Gióp. Nhiều người chủ trương là nó đã được
giữ lại bằng truyền khẩu. Nhưng giả thuyết của Duhm cho rằng lời tựa và lời bạt
là những mảnh rời của một quyển sách phổ thông có ghi lại chuyện của Gióp.
Về niên đại, A.B. Davidson cho rằng
quyển sách đã biết địa danh của những vùng đất xa xôi, như vậy không thể nào có
trước thời Sa-lô-môn được. Ông phỏng đoán vào thời kỳ Giu-đa bị lưu đày (597
TC). Ý kiến của các học giả về niên đại xê xích trong khoảng từ năm 600 đến 400
TC. Tuy nhiên vấn đề niên đại không quan trọng đối với sách Gióp. Oesterley và
Robinson đã nhận xét rất đúng: “Trong cả nền văn học, không có một áng thơ nào
mà niên đại và bối cảnh lịch sử lại ít quan trọng như sách Gióp... Đó là một
áng thơ phổ quát, và đây là một trong những đặc điểm khiến nó vẫn còn giá trị
và được ưa thích cho đến ngày nay.”
Sách Gióp có nhiều tiếp điểm với
các sách khác trong Kinh Thánh. So sánh Gp. 3: với Giê 20: 14-18 và Gp. 15:35 với
Ês. 59:4. Có nhiều điểm tương đồng giữa nhân vật Gióp và Đầy tớ Đức Giê-hô-va
trong Ê-sai. So sánh Ês. 50:6; 53:3 với Gp. 16:10; 30:9tt. Cũng hãy xem Thi 8:4
(Gp. 7:17); I Cô 3:19 (Gp 5:13); Gia 5:11.
IV. NGUYÊN BẢN VÀ VĂN THỂ
Nguyên văn Do-thái của sách Gióp
là một thứ văn khó hiểu đã làm các học giả nhức đầu, đến nỗi các học giả của bộ
Bảy Mươi đã bỏ qua gần một phần tư cuốn. Có nhiều chữ có lối dùng độc đáo khiến
có người nghĩ rằng nguyên thủy sách nầy được viết bằng tiếng Ả-rập hoặc tiếng
Ê-đôm trước khi được dịch ra tiếng Do-thái. Ý kiến của W. A. Irwin có lẽ dễ chấp
nhận hơn, là sách được viết bằng một thứ thổ ngữ Do-thái khác với thứ tiếng thường
được dùng trong Cựu Ước.
Sách Gióp có cả thơ lẫn văn xuôi.
Lời tựa và bạt là văn xuôi, còn phần chính gồm có ba vòng đối thoại bằng thơ.
Sách Gióp rất gần với loại văn
chương khôn ngoan của Do-thái, nhưng cốt lõi tinh thần của nó khiến ta khó có
thể sắp loại nó cách chính xác được. Nó có chỗ đứng xứng đáng bên cạnh các vở
bi kịch lịch sử từ thời Hi-lạp cho đến ngày nay.
V. NỘI DUNG
Câu chuyện xảy ra ở U-xơ, một địa
danh không ai biết rõ là ở đâu. Một số học giả đoán U-xơ ở về phía đông bắc xứ
Palestine trong vùng đất Aram (ngày nay là Syri) , vì Sáng 10:23 nói rằng U-xơ là con của Aram. Hơn nữa, địa
điểm phía đông của nó phù hợp với lời nói về Gióp là người ‘lớn hơn hết trong cả
dân Đông phương’. Nhưng một số học giả khác lại trưng dẫn Ca Thương 4: 21 và đặt
U-xơ về phía nam Palestine trong địa phận Ê-đôm. Họ cũng nói rằng Ê-li-pha, bạn
của Gióp, là người Thê-man, một thành phố của Ê-đôm.
Bốn người bạn của Gióp là
Ê-li-pha, Binh-đát, Xô-pha và Ê-li-hu, đại diện cho thứ thần học chính thống
nói lên tất cả những gì họ biết và nghĩ về những tai họa trút lên Gióp đã cướp
đi mất hạnh phúc và an bình của ông. Có lẽ chỉ trừ Ê-li-hu, còn mấy người kia đều
nhất mực lên án Gióp, cho rằng vì ông phạm tội nên mới phải lãnh nhận những hậu
quả đau khổ. Nếu họ chỉ nói chung chung, cho rằng Gióp chịu liên lụy trong bản
chất tội lỗi của con người, thì chắc hẳn Gióp đã đồng ý vì Gióp có bao giờ khoe
mình là toàn thiện đâu? Nhưng khi họ đề cập rồi xác nhận trực tiếp rằng Gióp
đau khổ là vì ông phải gặt lấy hậu quả của những hạt giống tội lỗi ông đã gieo
khi chỉ có con mắt Đức Chúa Trời theo dõi ông, thì ông cực lực và khăng khăng
bác bỏ.
Sách Gióp là quyển sách phổ quát
vì nó nói về một hiện tượng phổ quát của
con người: nỗi thống khổ dày vò tâm can khi thân xác bị giập vùi. Luther cho rằng
sách Gióp ‘thật hùng vĩ trác tuyệt không một sách nào trong Kinh Thánh bì kịp’;
Tennyson gọi đó là ‘áng thơ vĩ đại nhất trong thời cổ cũng như hiện đại’.
Vậy quyển sách đã nói gì về sự
đau khổ?
Nó nhắc nhở cho con người thấy
chân trời hiểu biết của họ thật giới hạn không thể nào thấu triệt được toàn bộ
vấn đề đau khổ. Tất cả những nhân vật người trong tấn kịch chỉ nói cho sướng miệng
mà hoàn toàn không biết gì về việc Sa-tan kiện cáo Đức Chúa Trời về phẩm hạnh của
Gióp trong phần mở đầu, và Đức Chúa Trời cho phép nó chứng minh điều nó nói
theo ý nó. Dựa vào bối cảnh của câu truyện trong phần mở đầu, những đau khổ
Gióp chịu không phải là bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời kết tội ông như các bạn
ông đã lập luận, mà trái lại là bằng chứng Đức Chúa Trời tin cậy ông. Chúng ta
không nên ngây thơ nghĩ rằng Đấng Toàn Tri cần phải thấy được sự thật chứng
minh mới biết rõ tấm lòng trung hậu của tôi tớ Ngài để đánh tan chút nghi ngờ
nào còn sót lại trong trí Ngài. Gióp và mấy người kia cố gắng ráp nối những mảnh
rời của một bức tranh ráp trong đó có nhiều mảnh họ không đủ khả năng nhận diện.
Tại đây chúng ta thấy được chân lý là hiện nay
chúng ta chỉ ‘thấy trong gương cách mập mờ’. Bởi đó sách Gióp là một luận
giải hùng biện về khả năng kém cỏi của tâm trí con người khi họ muốn giản lược
tính cách phức tạp của vấn đề đau khổ vào một khuôn mẩu cố định nào đó. Tại
đây, kẻ yên lặng gặt hái được nhiều thành quả hơn người hay nói. (Xem Gp 2:13;
13:5).
Nhưng dù tác giả có khuyên ta nên
khiêm nhu khi chiêm nghiệm sự kiện đau khổ, ông không hề chủ trương phải chịu
thất vọng. ÔÂng tin nơi một Thượng Đế có giải pháp cho nhu cầu con người. Khi
con người xuất hiện để khuyên nhủ Gióp, họ chỉ đem tới tranh cãi, thất vọng,
chán chường. Khi Thượng Đế xuất hiện, Ngài đưa Gióp tới đầu phục, đức tin và
can đảm. Lời của loài người không xuyên thủng được bức màn đen tối trong tâm
trí Gióp; lời Thượng Đế tỏa chiếu ánh sáng trường tồn.
Thượng Đế hiển lộ đã không giải
đáp hết mọi câu hỏi nóng bỏng biện luận gay go trong cả quyển sách; nhưng Ngài
giải đáp cho nhu cầu của tâm hồn Gióp. Ngài không giải thích cho Gióp hiểu binh
lược trận đồ, nhưng Ngài giúp cho Gióp trở thành kẻ thắng trận.
Cũng như mọi sách khác trong Kinh
Thánh, sách Gióp chỉ hướng về Chúa Giê-xu. Có những câu hỏi nêu lên, những tiếng
nấc bi thống mà chỉ có Chúa Giê-xu mới giải đáp được. Quyển sách là một trong
những lời chứng của mọi thời đại cho thấy rằng trong tâm hồn con người có một
khoảng trống mà chỉ có Chúa Giê-xu mới lấp đầy được.
Ngoài ra, nếu đọc sách Gióp từ một
góc độ khác, ta sẽ thấy có những cái nhìn, những hiểu biết khác nhau về Đức Chúa Trời, từ Sa-tan đến
Gióp, đến các bạn Gióp, rồi cả chính Đức Chúa Trời nữa.
Tên của Sa-tan có nghĩa là ‘kẻ
nghịch’, hay ‘đối thủ’. Nó là kẻ kiện cáo những kẻ kính yêu Đức Chúa Trời và
không muốn một ai được phước nhờ vâng phục Ngài (1:9). Nó là tác giả của những
khổ nạn thử thách khi Đức Chúa Trời cho phép xảy đến cho con cái Ngài (1:12-19;
2:7). Tuy nhiên, nó không phải là đối thủ
cân xứng của Chúa vì dù nó có quyền lực để phá hoại công việc của Chúa, nó vẫn
phải nằm trong phạm vi tể trị của Ngài (1:12; 2:3b,6).
Sự hiểu biết Đức Chúa Trời của
các bạn Gióp là sự hiểu biết lý thuyết, giáo điều, chỉ nằm trong lý luận mà
không đếm xỉa gì tới thực tế và những giá trị của tình người, cũng như sự tự do
hành động tuyệt đối của Đức Chúa Trời. Trong ba vòng đối thoại, ba bạn của Gióp
là Ê-li-pha, Binh-đát và Xô-pha, với niềm tin thành thật về một Đức Chúa Trời
tuyệt đối công chính, đã luân phiên hạch tội người bạn thân của mình là Gióp
trong khi ông ngồi rên siếc trong một thân hình lở lói đau đớn.
Ê-li-pha là một nhà triết học và
thần học đã nói từ kinh nghiệm sống khôn ngoan, tin kính của ông. Theo ông,
không đau khổ nào mà không có nguyên nhân. Kinh nghiệm cho ông thấy rằng đau đớn
là sự trừng phạt của Đức Chúa Trời đối với tội lỗi. Quan điểm của ông có thể
tóm tắt trong 4:7-9: “Ông hãy suy xét lại.....họ bị tiêu hao đi.” Trong bài nói
chuyện đầu, ông không trực tiếp hài tội Gióp mà chỉ ám chỉ điều đó. Nhưng đến
bài thứ hai, Ê-li-pha nói trắng ra: “Sự gian ác của ông dạy dỗ cho miệng mình
nói, và ông chọn lưỡi của kẻ quỷ quyệt.” Bài thứ ba của ông là một lời kết tội
công khai. Với giọng điệu gần như tàn ác, ông tố cáo Gióp là đầy dẫy gian ác.
Ông hỏi: “Sự dữ của ông há chẳng phải lớn sao? Các tội ác ông há không phải vô
cùng ư?” Ông kết luận bằng cách kêu gọi Gióp ăn năn (22: 22-26).
Binh-đát là một tay thủ cựu hạng
nặng. Ông coi lời của Gióp như ‘gió bão’ (8:2). Ông lại còn nói con cái Gióp chết
là hình phạt của tội lỗi chúng (8:4). Những lời đó khó có thể an ủi một người
đã từng trung tín dâng sinh tế cầu thay cho con cái mình (1:5). Binh-đát căn cứ
vào quá khứ mà kết luận rằng Gióp đã phạm tội nặng. Lập luận của ông là: “Xin
hãy hỏi dòng dõi đời xưa, khá chăm chỉ theo sự tìm tòi của các tổ tiên...Những
cái đó sẽ không dạy không nói cho ông sao?” (8:8,10). Trong bài thứ nhì,
Binh-đát nói về những hậu quả của sự gian ác bằng những từ ngữ nặng nề, xỉa
xói: ngọn đèn kẻ ác tắt phụt, ánh sáng hắn chỉ là tối tăm (18:5,6), một cái bẫy
nằm trên đường hắn đi (c.10), các chi thể hắn bị tiêu nuốt (c. 13) – ám chỉ tình trạng bệnh hoạn của Gióp. Bài thứ
ba của ông ta rất ngắn, đề cao Đức Chúa Trời và so sánh loài người với con
giòi, ý ông muốn chỉnh Gióp vì cho rằng Gióp tự cho mình là thanh liêm, không kể
gì đến Đức Chúa Trời.
Xô-pha, một nhà đạo đức, rất kiêu
hãnh về đường lối chính thống của mình. Ông lý luận rằng vì Đức Chúa Trời là
toàn năng không thể dò lường được, nên Ngài ‘biết những kẻ dối gạt’ (11:11). Bởi
vậy, nếu Gióp từ bỏ gian ác mình, Ngài sẽ phục hồi ông (c.14). Quan điểm đạo đức
cứng ngắt của ông có thể tóm tắt trong câu nầy của bài thứ hai của ông: “Hãy biết
rõ rằng, từ đời xưa, từ khi loài người được đặt trong thế gian, thì sự thắng
hơn của kẻ ác không có lâu, và sự vui mừng của kẻ vô đạo chỉ trong một lúc thôi”(20:4,5).
Ông ta không nói lần thứ ba. Có lẽ trong trí ông cho rằng Gióp đã hết thuốc chữa.
Ê-li-hu, một chàng trai trẻ, yên
lặng chờ đợi mấy ông già nói hết, đã tức bực lên tiếng trong bốn bài liên tiếp,
từ chương 32 đến 37. Trong bài đầu, chàng nói dầu Gióp phản đối cho mình là vô
tội, không ai chứng minh được ông tội gì (32: 12). Ê-li-hu cũng nói rằng một người chịu đau khổ
có thể không phải là chịu hình phạt mà được kêu gọi để sống ngay thẳng (33:
16-18); nếu người ta bị trừng phạt xứng đáng, thì chẳng ai sống sót nỗi (34:
10-15). Ê-li-hu ngừng, nhưng Gióp không đáp lời, nên chàng tiếp tục nhận xét rằng
Gióp đã nói những lời vội vã về Đức Chúa Trời, cũng hàm ý rằng tội lỗi đã đem lại
sự đau đớn cho Gióp (34:10-12, 31-37). Trong hai chương kế tiếp, chàng lặp lại
những tiền đề căn bản – rằng Đức Chúa Trời
công bình không thể khiến người lành đau khổ –
rồi kết luận nói rằng đường lối Đức Chúa Trời vượt quá sự hiểu biết con
người.
Sự hiểu biết Đức Chúa Trời của
Gióp trải qua nhiều giai đoạn biến chuyển. Ông vốn là một người đạo đức, kính sợ
Đức Chúa Trời. Chính Đức Chúa Trời công nhận điều đó, và khi tự binh vực mình,
Gióp đã kể ra những điều mình đã làm, có thể nói là một nhà hoạt động xã hội
phi thường: cứu kẻ nghèo khó côi cút (29:12), giúp kẻ hấp hối, người góa bụa
(c. 13), là mắt cho kẻ mù, chân cho kẻ què (c.15), là cha của kẻ thiếu thốn và
bạn của khách lạ (c.16), giải cứu người bị áp bức (c.17), khóc cho người hoạn nạn
và nghèo khó (30:25). Ông cũng giữ mình khỏi những điều xấu mà người ta thường phạm
phải: dâm dục (31:1-4), lừa đảo (c. 5-8), ngoại tình (c.9-12), vô tình trước
nhu cầu con người (c. 13-23), tham lam và gian dâm (c. 24-28); trù ẻo kẻ nghịch
(c. 29-32), đạo đức giả. Có thể nói ông là con ngươiø hoàn toàn theo tiêu chuẩn
đạo đức con người. Nhưng rồi tai họa ập xuống, tài sản, con cái mất hết, cả đến
tấm thân ông từng sống trong nhung lụa cũng bị lở lói, hôi thối, đau đớn. Ông
không hề biết chuyện xảy ra trong thế giới vô hình đã ảnh hưởng đến ông, nhưng
tấm lòng trung của ông vẫn không lay chuyển. Khi mất của, ông nói: “Đức
Giê-hô-va ban cho, Đức Giê-hô-va lại lấy đi, đáng ngợi khen danh Đức Giê-hô-va”
(1:21), khi thân xác bị đau đớn, ông nói: “Sự phước mà tay Đức Giê-hô-va ban
cho, ta lãnh lấy, còn sự họa mà tay Ngài giáng cho, ta chẳng lãnh lấy
sao?”(2:10). Trong lúc thân xác bị cơn đau
hành hạ, ông đã rủa ngày sinh mình (3:3), kêu la than thở (6:4; 7:1-21;
9:17-31...), ước được chết (6:8-10); được Đức Chúa Trời bỏ mặc mình (7:16;
9:34,35...), được Ngài nghe thấu (16:18-22); 19:23,24), được đối chất với Ngài
(23:3-12). Trước những lời buộc tội của các bạn, ông biện minh cho sự vô tội
trong trắng của mình, nhưng ông vẫn ca ngợi Đức Chúa Trời và ở giai đoạn nầy, ông tin rằng “ngoài xác
thịt, tôi sẽ thấy Đức Chúa Trời”. Biến chuyển cuối cùng quan trọng nhất đời
Gióp là sau khi nghe tiếng phán của Đức Chúa Trời, và những câu hỏi vi diệu
Ngài đặt ra, ông đã cúi đầu thưa với Ngài rằng: “Tôi đã nói những điều tôi
không hiểu... Trứơc lỗ tai tôi có nghe đồn về Chúa, nhưng bây giờ mắt tôi đã thấy
Ngài, vì vậy, tôi lấy làm gớm ghê tôi và ăn năn trong tro bụi.” Khi đối diện với
Đức Chúa Trời, chiếc áo đạo đức của ông bị cháy rụi và ông thấy được chân tính
của mình.
Khi những cuộc tranh cãi thần học
triết học đã qua, chính Đức Chúa Trời thấy cần thiết phải trình bày về chính
mình, thì Ngài không theo đường lối con người. Ngài không biện luận mà chỉ nêu
lên những vấn đề mà không một người trần nào giải đáp nỗi để rồi không có cách
gì hơn là đặt lòng tin cậy hoàn toàn và vô điều kiện nơi Ngài, Ngài chỉ cho con
người thấy cái bất năng của luận lý trước sự vĩ đại huyền nhiệm của Ngài, để họ
phải cúi đầu phủ phục tôn thờ Ngài (38: - 41:).
VI. BỐ CỤC
1: 1 - 2: 13 Lời tựa
1: 1 - 5 Người lành giữa thế giới tội lỗi
1: 6 - 12 Mây bắt đầu kéo đến
1: 13 - 22 Bão tố nỗi lên
2: 1 - 8 Bão tố tiếp tục
2: 9 - 13 Phản ứng trước bão tố
3: 1 - 14: 22 Đối thoại vòng một
3: 1 - 26 Sống khổ! Chết sướng!
4: 1 - 5: 27 Ê-li-pha nói
6: 1 - 7: 21 Gióp trả lời Êlipha
8: 1 - 22 Bin-đát nói
9: 1 - 10:22 Gióp trả lời Binđát
11:1 - 20 Xô-pha nói
12:1 - 14:22 Gióp trả lời các bạn ông
15: 1 - 21: 34 Đối thoại vòng hai
15: 1 - 35 Ê-li-pha nói lần nhì
16:1 - 17:16 Gióp trả lời Ê-li-pha
18: 1 - 21 Bin-đát nói lần nhì
19: 1 - 29 Gióp trả lời Bin-đát
20: 1 - 29 Xô-pha nói lần nhì
21: 1 - 34 Gióp trả lời Xô-pha
22: 1 - 31: 40 Đối thoại vòng ba
22: 1 - 30 Ê-li-pha nói lần ba
23:1 - 24:25 Gióp trả lời Ê-li-pha
25: 1 - 6 Bin-đát nói lần thứ ba
26: 1 - 14 Gióp trả lời Bin-đat
27:1 - 31:40 Gióp đáp lời các bạn
32: 1 - 37: 42 Phần Êlihu
32: 1 - 22 Lý do khiến Ê-li-hu can thiệp
33: 1 - 33 Ê-li-hu cáo giác thái độ của Gióp đối với nỗi
đau khổ của ông
34: 1 - 9 Tóm tắt những lời phàn nàn của Gióp
34: 10 - 33 Bác bỏ lời phàn nàn thứ nhất của Gióp
35: 1 - 16 Bác bỏ lời phàn nàn thứ hai của Gióp
36:1 - 37:42 Công việc quyền năng
của Đức Chúa Trời
38: 1 - 41: 34 Chúa trả lời Gióp
38: 1 - 3 Gióp được gọi đến nghe
38: 4 - 38 Những điều kỳ diệu của thế giới vô cơ
38:39-39:30 Những điều kỳ diệu của
giới động vật
40:1 - 41:34 Quyền năng mãnh liệt
của Đức Chúa Trời
42: 1 - 6 Gióp đáp lại lời Đức Chúa Trời
42: 7 - 17 Kết Luận
42: 7 - 10 Phước lành tâm linh cho Gióp
42: 11 - 17 Phước lành vật chất cho Gióp
Câu hỏi thảo luận:
1.
Ba bạn của Gióp đến với mục đích gì? Họ đã làm gì và đạt được mục đích
đó không? Tại sao?
2. Ba bạn của Gióp có giảng tà giáo không? Nếu
có, hãy chỉ ra. Tại sao họ bị Đức Chúa Trời quở trách? Hãy bình luận về thái độ
tự cao của những kẻ tự cho mình là chánh giáo.
3. Hãy bình luận về vai trò của Sa-tan đối với
vương quốc Đức Chúa Trời.
4. Bạn nghĩ thế nào về việc trích sách Gióp để
giảng dạy?
CHƯƠNG 4
GIÓP (2)
VI. BÌNH GIẢI
Chúng ta đã biết chủ đề lớn của
sách Gióp là vấn đề đau khổ. Trên căn bản lời dạy của các vị tiên tri Cựu Ước
thì đau khổ quả là vấn đề. Vì họ dạy rằng
Đức Giê-hô-va là Đấng cầm quyền tối cao trên mọi người cũng như các thần. Ngài
là Đấng yêu thương và công chính hoàn toàn. Mọi tội lỗi phải bị trừng phạt; mọi
việc lành sẽ được ban thưởng. Thế nhưng kinh nghiệm cuộc sống cho thấy không
đơn giản như vậy. Làm sao dung hòa lý thuyết và thực tế? Nhiều tác giả Cựu Ước đã nhận chân được vấn nạn
đó và đưa ra những câu trả lời theo sự suy nghĩ và hoàn cảnh họ. Ha-ba-cúc có lẽ
là ngừơi đầu tiên đưa ra nhận xét thẳng thắn hơn hết về điều nói trên: “Mắt
Chúa thánh sạch chẳng nhìn sự dư,õ chẳng có thể nhìn được sự trái ngược. Sao
Ngài nhìn xem kẻ làm sự dối trá, khi kẻ dữ nuốt người công bình hơn nó, sao
Ngài nín lặng đi?” (Ha 1:13). Giải pháp của Ha-ba-cúc là niềm xác tín rằng,
“người công bình sẽ sống bởi đức tin” (2:4). Tác giả Thi thiên 37 quả quyết rằng
về lâu về dài, kẻ ác sẽ bị tàn hại, còn người công chính sẽ được tưởng thưởng xứng
đáng. Đối với tác giả Thi thiên 49, cả sự tai họa của người lành cũng như sự thịnh
vượng của kẻ ác đều chỉ là ảo ảnh, vì kết cục cả hai cũng đều chết. Nhà thần bí
viết ra Thi thiên 73 tìm được bình an cho tâm hồn nhờ được kết bạn với Đức Chúa
Trời đời đời, và khi tương giao với Ngài ông có được niềm vui mà sự chết cũng
không ngăn cản tiêu diệt được. Một đóng góp quan trọng khác là của tác giả
Ê-sai 53, ông đã đi đến kết luận rằng đau khổ có hiệu năng cứu chuộc, rằng một
số nguời được hạnh phúc sung sướng là nhờ sự đau khổ của người khác. Đầy Tớ trọn
vẹn của Đức Chúa Trời bằng lòng nhận lãnh đau khổ vì biết rằng điều đó đem lại
hạnh phúc cho nhiều người. Cơ-đốc-giáo còn đi xa hơn, cho rằng thập tự giá của
Chúa Giê-xu chẳng những là một liều thuốc cực mạnh làm giảm nhẹ mà còn là một
giải pháp cho vấn đề đau khổ, dù rằng giải pháp ấy vượt quá tầm hiểu biết của
trí tuệ hữu hạn. Sách Gióp là một nỗ lực triệt để trọn vẹn hơn hết để tìm lời
giải đáp cho câu hỏi tối trọng nầy.
Cốt lõi của quyển sách nằm trong
phần thi ca trong đó phần đối thoại giữa Gióp và các bạn ông chiếm gần hết.
Trong khi các bạn ông giữ nguyên một vị trí, Gióp luôn luôn đi tới trải qua nhiều
chặng, trước khi ông tiến tới cái khám phá cuối cùng. Khởi đầu, Gióp đã đối diện
với hai điều tra vấn. Tra vấn thứ nhất đặt dấu hỏi về mối tương quan giữa ông
và Đức Chúa Trời. Tra vấn thứ nhì là một câu hỏi phổ quát về công lý của Thượng
Đế trong việc cai quản thế gian. Giải đáp cho câu hỏi đầu là một niềm tin, giải
đáp cho câu hỏi sau là sự toàn thắng của công lý Thượng Đế. Theo trình tự tâm
lý, trước hết áp lực của vấn nạn đầu phải được giải tỏa, nhiên hậu thi sĩ mới
có thể bước vào vấn nạn kế tiếp. Giữa chừng cuộc tranh luận, vào cuối chương
19, Gióp đã tìm được vị trí đặt chân để từ đó ông có thể tiến đến vấn nạn thứ
nhì. Nỗi đau khổ của ông không thể nào biến mất, nhưng chúng không còn là vấn đề
cá nhân: chúng trở thành ví dụ cho một câu hỏi tổng quát hơn, và khi ông kêu mời
Đức Chúa Trời xuất hiện, những khó khăn của ông mới đươc giải quyết cả hai bề.
Đó là tiến trình tư tưởng chúng ta sẽ theo dõi trong quyển sách.
Lời mở đẩu của Gióp trong ch. 3
chỉ là tiếng kêu gào rên siếc. Tại sao ông phải ra đời? Nếu ông phải ra đời, tại
sao ông không chết đi khi còn là hài nhi vô ý thức hay sẩy đi khi còn là bào
thai? Nếu ông phải sống để chịu khổ, tại sao ông không thể chết ngay, để dứt bỏ
mọi phiền não trong chốn âm phủ (sheol)? Có điều đáng để ý là Gióp không hề có
ý nghĩ muốn tự tử. Cho đến đây, vấn đề
chưa được đặt ra.
Ê-li-pha, người đầu tiên lên tiếng,
mới thật sự đặt vấn đề (ch. 4-5). Ở đây ta thấy trình độ nghệ thuật cao của thi
sĩ khi ông đánh dấu mỗi bước tiến của
Gióp bằng một bài nói chuyện của các bạn. Tuy lập trường họ không đổi thay
nhưng lời họ nói có dự phần trong chuyển biến tư tưởng của Gióp. Ê-li-pha là một
nhân vật lão thành, bằng tuổi cha Gióp (15:10). Ông rất từng trải và hiểu biết
nhiều. Ông cũng có vẽ là một nhà huyền bí vì ông nhận được sự dạy dỗ trực tiếp
của thần linh trong khi ông trầm tư mặc tưởng (ngồi thiền?) (4:12-16). Điều ông
biết là gì? Đó là tội lỗi con người là nguyên nhân của đau khổ. Đó là trừng phạt
của Đức Chúa Trời chí công đối với những
ai tẻ tách khỏi đường ngay nẻo chính. Tiêu chuẩn Đức Chúa Trời rất cao và Ngài đòi hỏi sự toàn
hảo đến nỗi thiên sứ trên trời cũng không tránh khỏi bị Ngài khiển trách. Chắc
Gióp đã vô tình làm gì đó khiến cho Đức
Chúa Trời công minh ra tay trừng phạt. Có lẽ chỉ là một điều nhỏ thôi, nhưng
Gióp phải hạ mình trước mặt Đức Chúa Trời,
nhận mình là có tội, quăng mình vào lòng từ ái của Đấng Toàn Năng, thì mọi sự sẽ
ổn thỏa. Ông sẽ lại được thịnh vượng, con cháu đầy đàn, sẽ sống hạnh phúc nhiều
năm trước khi lìa trần tuổi cao tác lớn.
Lời Ê-li-pha thật vô dụng đối với
Gióp. Thịnh vượng, con cái để làm gì khi ông đang bị chứng bịnh nan y hành hạ,
không hi vọng gì được bớt đau, đừng nói tới lành, may ra chỉ sống lây lất vài
năm nữa là cùng.
Thế nhưng Ê-li-pha đã nói một điều
vô cùng quan trọng. Ông ta làm cho Gióp
nhận thức rằng tác giả của những đau đớn của Gióp không là ai khác ngoài
Đức Chúa Trời, và Gióp đã làm điều gì đó chọc giận Ngài. Khi tiền đề đó được đặt
xuống thì lập tức vấn đề hiện ra. Đức Chúa Trời có thật là bạn của người hiền
không? Ngài có phán xét công bình không? Gióp có thể đã làm điều sai quấy,
nhưng ông đã cẩn thận dâng sinh tế chuộc tội cho những lầm lỗi vô tình của
mình. Một điều ông biết chắc là ông không có phạm một tội gì nặng đến nỗi đáng
chịu mức độ trừng phạt hiện tại. Vì vậy trong phần trả lời cho Ê-li-pha (ch.
6-7), Gióp đã than thở rằng các bạn chẳng hiểu gì cả. Nếu họ chỉ cần cho ông thấy
ông phạm tội gì thì ông sẽ ăn năn, nhưng ông không thể tự bịa đặt để được an
thân. Ta sẽ thấy giòng tư tưởng của Gióp thỉnh thoảng bị ngắt đọan vì những cơn
đau nỗi lên hành hạ. Có lúc ông thách đố
Đức Chúa Trời. Tại sao một sinh vật vô nghĩa vô hại như ông trở thành mục
tiêu cho cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời?
Nếu ông là con quái vật thời thượng cổ phá hoại vũ trụ, thì hành động của Đức Chúa Trời còn có lý, có thể hiểu được. Đằng
nầy Ngài chú mục vào một sinh vật nhỏ bé như Gióp thì thật vô lý quá (so sánh
Thi 8:4). Chắc là Đức Chúa Trời đã lầm lẫn,
rồi một ngày nào đó Ngài biết ra thì đã muộn, Gióp đã ở trong Sheol rồi.
Binh-đát người lên tiếng thứ hai
(ch. 8) đã ghim lấy những lời cuối cùng của Gióp để công kích. Ông ta thuộc loại
người tòng cổ, khư khư ôm lấy những gì người đời trước để lại, “xưa bày nay bắt
chước”, tin rằng người thời trước bao giờ cũng khôn ngoan hơn người thời sau.
Binh-đát bực bội vì những lời lẽ có vẽ bất kính của Gióp. Lời của ông ta ở đây
cũng như các bạn sau nầy đều ám chỉ rằng Gióp là con người ương ngạnh cao ngạo,
không chịu nhận lỗi, nên họ luôn nhấn mạnh nguyên tắc “ác giả ác báo”, cho rằng
tội nhân cứng đầu không chịu ăn năn tất sẽ bị trừng phạt, và Gióp đang có những
dấu hiệu như vậy. Ông ta không đưa ra một điểm nào mới mẻ hơn Ê-li-pha.
Tuy nhiên, Binh-đát cũng có đóng
góp đáng kể vào tiến trình thảo luận. Mở đầu, ông viện đến sự công bình của Đức Chúa Trời, và điều nầy dẫn tư tưởng Gióp
vào một hướng mới. Nguyên thuỷ chữ ‘công bình’ là một thuật ngữ toà án. Nó dùng
để chỉ một người thắng kiện. Dần dần, ý nghĩa toà án phai mờ đi, chỉ còn giữ ý nghĩa luân lý. Nhưng khi Binh-đát dùng chữ
nầy, ông đã đưa ý nghĩ Gióp đến một hướng
mới, và từ đây trở đi, trí Gióp luôn nghĩ đến một cuộc xử án giữa một bên là
ông và một bên là Đức Chúa Trời. Gióp
không cần biết ai là nguyên cáo ai là bị cáo, nhưng ông có cảm tưởng nếu ông có
thể trình bày nội vụ trước mặt Đức Chúa
Trời, hay đối chất với Ngài trước một toà án độc lập, thì ông có thể chứng tỏ
là mình đúng.
Khi Gióp đáp lời Binh-đát (ch.
9-10), ý tưởng về cuộc tranh tụng bắt đầu len vào. Binh-đát bảo Đức Chúa Trời là công bình, là người thắng kiện,
Gióp công nhận, vì tri thức và quyền năng siêu việt của Ngài có thể áp đảo đối
phương trọn vẹn. Dù đối phương có trong sạch cách mấy, Ngài cũng vẫn có thể
khám phá ra cái xấu trong họ. Cuối cùng Gióp nhận biết mình vô vọng, cuộc đời
ông quá ngắn, dù cho nội vụ có được quyết định đi nữa, lúc ấy ông cũng đã ra
người thiên cổ rồi.
Đến đây, Sô-pha xuất hiện (ch.
11). Ông ta không bằng hai người trước, ‘nói không có sách, mách không có chứng’,
lại giáo điều hạng nặng, nói không dựa vào thẩm quyền nào khác ngoài chính
mình. Ông ta biết Đức Chúa Trời sẽ nói
và ông nói hộ cho Ngài. Nhưng thật ra ông chỉ lặp lại những gì hai người trước
đã nói. Lời lẽ ông thô bạo nặng nề hơn, gần như gán tội trực tiếp cho Gióp.
Lời Gióp đáp lại Sô-pha (12:-14:)
là bài dài hơn hết, kết thúc vòng đầu cuộc tranh luận. Nó cho thấy sự căng thẳng
trong tình cảm của người trong cuộc. Chính các người bạn mới là điều làm ông bận
tâm. Chẳng những không an ủi gì được, họ
lại còn lên giọng dạy dỗ ông. Thái độ kẻ cả của họ khiến ông nỗi lên phản
kháng. Ông cũng biết không thua gì họ về sự uy nghiêm toàn năng của Đức Chúa Trời, điều mà Sô-pha nhấn mạnh. Hơn
thế, ông còn biết một điều mà họ vẫn đui mù không thấy: Ông không có phạm một
điều ác nào để có thể giải thích cho nỗi bất hạnh của ông. Gióp cũng biết rằng
nếu ông có thể đến gần Đức Chúa Trời,
ông có thể chứng minh đuợc trường hợp của ông. Thật ra, Đức Chúa Trời đã mang ông ra truy tố rồi, qua
những đau đớn ông đã chịu, tuy rằng những điều buộc tội ông rất mơ hồ, không cụ
thể. Ý nghĩ về cuộc sống ngắn ngủi trở lại dày vò ông. Chẳng bao lâu nữa, cái
chết sẽ đến, chặt đứt mọi hi vọng về giải hoà hay phục hồi cho ông. Một cây bị
đốn còn có thể nứt đọt, nhưng con người sau cái chết sẽ không còn hi vọng gì
trên đời nữa.
Đến đây, ta dừng lại một chút để
coi tác giả đã dẫn ta đến đâu trong cuộc tranh luận. Một mặt, các bạn ông tin
chắc ở giáo lý mình, đề quyết Gióp là con người tội lỗi. Mặt khác, Gióp quả quyết
mình vô tội, và trong nỗi đau đớn của ông,
ông gần như chẳng còn đếm xỉa gì tới họ, chẳng còn sợ gì những hậu quả của
lời mình nói, việc mình làm, khiến họ rất lấy làm bực bội. Ông bắt đầu tin rằng
không phải Đức Chúa Trời ghét bỏ ông hay
phạt ông cách quá đáng vì những lầm lỗi
nhỏ của ông. Nếu có cơ hội, ông có thể chứng minh được, nhưng nay nhìn tới đâu
ông cũng chỉ thấy cửa đóng then gài. Cái chết đã gần kề, hi vọng sắp tiêu tan.
Nhưng rồi ý nghĩ về một sự giải hoà sau khi chết bắt đầu nhen nhúm trong trí
ông.
Khi E-Âli-pha nói lần thứ nhì
(15:), thái độ ông ta đã dổi khác. Ông ta không đưa ra cái gì mới mà chỉ dùng lời
lẽ thậm tệ đối với Gióp. Gióp là kẻ kiêu căng, tội lỗi, chẳng nể người mà cũng
chẳng kính Trời. Bản chất như vậy chắc phải bị trừng phạt xứng đáng. Ta để ý thấy
Ê-li-pha không đưa ra một hi vọng phục hồi nào nữa. Giai đọan đó đã qua rồi.
Gióp trả lời Ê-li-pha (16:-17:) cũng
căng thẳng không kém. Đến đây, cuộc tranh luận đã trở thành chỉ trích lẫn nhau.
Nhưng Gióp không dừng lâu nơi khuyết điểm của các bạn, dường như ông coi đó là
chuyện nhỏ. Ông quay qua Đức Chúa Trời
và trút đổ những lời than thở ra. Ông không tin
Đức Chúa Trời là đấng các bạn ông mô tả. Ông là nạn nhân của một tội ác
và ông kêu la với đất đừng để máu ông đổ mà không được báo thù. Nhưng ai sẽ thực
thi công lý đó? Nếu thần học họ đúng thì chính
Đức Chúa Trời là thủ phạm. Nhưng đây không thể là sự thật, và Gióp thực
hiện một bước nhảy vọt của đức tin, là kêu nài đến Đức Chúa Trời. Nhưng rồi ông lại rơi vào vực thẳm nghi ngờ, vì ông
chẳng còn thì giờ nào để được biện chính trước khi đi vào vực tối của chốn âm
ti (Sheol).
Bài thứ hai của Binh-đát (18:) chỉ
là bảng liệt kê những hiểm hoạ chờ đợi kẻ ác, rõ ràng là ám chỉ Gióp trong đó.
Cũng như Ê-li-pha, ông ta không còn nghĩ đến Gióp có thể ăn năn hay phục hồi nữa,
và dùng những lời lẽ còn thậm tệ hơn các bạn ông.
Những lời lẽ độc địa cay đắng của
Binh-đát đưa Gióp đến tận cùng của tuyệt vọng. Tới đây ông phải có cái gì để kết
thúc. Truớc hết, ông than phiền về cách cư xử của bạn bè. Rồi tâm trí ông lại
quay về với Đức Chúa Trời và những quằn
quại đau đớn thể xác cũng như tâm linh. Ông như muốn điên lên. Ông kêu la với bạn
bè hãy thương tưởng ông. Nhưng họ vô dụng, ông lại nghĩ đến việc ghi lại trên
tài liệu để biện minh sau nầy. Ông đã xuống đến điểm thấp nhất, thình lình ông
nhảy lên mấy bước và lên đến điểm cao hơn bao giờ hết, ông đã tìm được tảng đá
để đặt chân.
Khúc sách quan trọng 19:25-27 có
nhiều điều cần bàn rõ. Chữ 'đấng cứu chuộc' ở đây trong nguyên ngữ là 'Goel' có
rất nhiều nghĩa. 'Goel' là một đại diện pháp lý cho một người không thể hành xử
những quyền lợi công dân. Trong sách Ru-tơ, Bô-ô là 'Goel' cho Na-ô-mi và
Ru-tơ. Một người sắp chết không thể thực thi quyền hạn để bảo vệ con cái. Ông
phải có một 'Goel' để can thiệp khi có tranh chấp xảy ra. Một người bị hãm hại
không thể báo thù được, nhiệm vụ đó sẽ giao cho một 'Goel máu' (người trả nợ
máu, báo thù máu).
Đó là tình cảnh của Gióp. Ông coi
như đã chết. Con cái ông không còn. Bà con không có. Bạn bè bỏ rơi, thậm chí
còn lên án ông. Trong lúc cố cùng, tâm trí ông vượt lên và nhìn thấy "đấng
chứng tôi ở trên trời, và đấng bảo lãnh cho tôi ở tại nơi cao" (16:19). Đó
không là ai khác hơn Đức Chúa Trời, Đấng sẽ thực thi công lý, và sẽ làm sáng tỏ
sự vô tội của Gióp. Đến lúc cuối cùng Ngài sẽ đứng trên đất và chứng tỏ Ngài là
'Goel' của Gióp.
Bây giờ ông đã biết Đức Chúa Trời
thật sự ở về phía ông, dù thoạt nhìn có vẽ trái lại. "...ngoài xác thịt
tôi, tôi sẽ thấy Đức Chúa Trời. Chánh tôi sẽ thấy Ngài, mắt tôâi sẽ nhìn xem
Ngài chớ chẳng phải kẻ khác, khi tạng phủ tôi hao mòn trong thân thể tôi"
(19:26,27). Câu nầy chắc có dính líu tới Thi 73:26. Cuối cùng Gióp đã nhìn thấy
được cuộc sống sau khi chết, lúc ấy ông vẫn có thể tiếp xúc với Đức Chúa Trời.
Gióp đã đạt được một kết luận phi
thừơng. Ông đã tìm được giải đáp cho vấn nạn đầu tiên của ông. Nỗi đau đớn vẫn
chưa lìa ông, nhưng sự căng thẳng đã giảm bớt, và cường độ cảm giác đã phần nào
nhẹ đi. Bây giờ ông có thể quay qua vấn nạn lớn hơn và xử lý nó với phần nào
bình tĩnh hơn.
Các bạn ông không nhận thấy điều
đó. Đối với họ, Gióp chỉ là kẻ phạm thượng kiêu căng, và vẻ thư thái ông chỉ là
bằng chứng của một vi phạm nữa, vì ông đã theo đường lối thiếu chính thống. Ta
thấy điều đó trong bài thứ hai của Sô-pha (20:). Lời lẽ cũng vẫn hằn học, nhưng
nhấn mạnh vào tính cách phù du của những thú vui và hạnh phúc mà kẻ ác hưởng thụ.
Tới ch. 21, Gióp lại bước một bước
mới. Ông cũng đòi hỏi một cuộc tra xét, nhưng không để kể lể những đau thương của
ông, mà là để công bố sự thật trái ngược hẳn chủ trương của các bạn ông. Không
phải tai hoạ lúc nào cũng xảy đến cho kẻ ác. Hắn thành công không phải chỉ trong những vấn đề
đòi hỏi những cố gắng của hắn mà cả trong những lãnh vực nằm dưới sự kiểm soát
của Đức Chúa Trời nữa. Như vậy hắn thịnh vượng là do ý Thượng Đế, và hắn có thể
sống lâu rồi qua đời bình an, mặc dù hắn xấu xa, bỏ Đức Chúa Trời một bên, không chấp nhận thẩm
quyền và những đòi hỏi của Ngài. Gióp biết ông sẽ gây chống đối nơi các bạn
ông, nhưng ông phải tuyên bố sự thật.
Như vậy, sân khấu đã dọn sẵn cho cuộc tranh luận về sự thần hựu, một vấn đề tổng
quát hơn.
Tuy nhiên, Ê-li-pha (22:) không
màng chuyện bàn cãi thần học hay triết học. Ông ta chỉ hài tội Gióp. Ông ta cho
Gióp là kẻ kiêu căng tưởng Đức Chúa Trời sẽ được hưởng lợi nhờ đạo đức của con
người. Rồi ông đưa ra một loạt những tội mà ông cho là Gióp đã phạm. Đó là tội
của bọn nhà giàu, áp bức, bóc lột, chỉ lo cho bản thân không biết gì đến nỗi khổ
đau của kẻ khác, ngạo mạn với Đức Chúa Trời, cùng những tội tương tự. Lẽ dĩ
nhiên là ông ta chẳng đưa ra được một bằng chứng nào cả. Những tai hoạ Gióp chịu
cho ông ta biết là Gióp có tội, rồi thái độ của Gióp lại càng củng cố cho quyết
đoán ấy, và một người từng ở trong địa vị như Gióp thì hẳn phải phạm những tội
như vậy.
Gióp không trả lời trực tiếp những
lời công kích ấy (23:-24:), dường như ông chỉ giữ chúng trong trí rồi sau nầy
nhắc lại. Nhưng Ê-li-pha đã đưa ông trở lại một điểm quan trọng. Ông ta gợi ý rằng
Gióp nên tìm kiếm Đức Chúa Trời (22:23...), và Gióp không mong gì hơn. Bây giờ
ông biết Đức Chúa Trời ở bên cạnh ông, và vấn đề duy nhất là làm sao tìm được
Ngài. Có lúc ông bỏ lững vấn đề nan giải đó và quay qua lập một bảng tường
trình để ông trình lên nếu ông được đứng trước Đấng Thánh. Chương 21 hơi tối
nghĩa, nhưng rõ ràng là nó dính líu tới việc mô tả kẻ ác hiếp đáp người nghèo,
và tình cảnh khốn khổ của giai cấp thấp hèn. Thật ra, nó chi tiết hoá những gì
đã đề cập đến ở chương 21, và do đó vấn đề cá nhân đã chuyển nhập vào vấn đề
chung của nhân loại.
Bài của Binh-đát (25:) quá ngắn,
có học giả cho rằng bản thảo bị thất lạc, đây chỉ còn lại một phần, hoặc đã mất
hẳn và đây chỉ là những câu gom góp để thế cho lời Binh-đát. Có người cho rằng
lời của Binh-đát gồm cả chương 25 và 26. Có ý kiến cho rằng Gióp đã tước hết lý
lẽ của các bạn ông, khiến họ cạn ý không biết nói gì thêm. Chủ nghĩa giáo điều
không còn điều gì mới để nói nữa.
Nếu nhận bản văn như hiện có thì
bài luận của Binh-đát nhằm kêu gọi Gióp thuận phục quyền uy của Đức Chúa Trời. Ông ta mô tả quyền năng của Đức Chúa Trời bày
tỏ trong cõi tạo hoá, và nhắc đến giáo lý đã được Ê-li-pha đề cập từ đầu, là
không một người nào, một vật nào có thể xem là toàn hão trước mặt Đấng Toàn
Năng.
Như vậy là Gióp bị đưa trở lại vị
trí cũ của ông. Trong bài trả lời (26:),
ông cố chứng tỏ cho họ thấy không phải ông không hiểu về quyền năng của Đức
Chúa Trời. Cái khác biệt giữa họ và ông là ông đã thật tình nói lên những thắc
mắc trong cuộc sống mà họ lờ như không biết tới.
Đầu chương 27 và 29 có hai điểm
ngưng. Có lẽ Gióp đợi Sô-pha nói, nhưng họ đã hết lời nên Gióp tiếp tục lên tiếng
trả lời chung cho cả ba. Gióp không mảy may nào chối cãi quyền năng của Đức
Chúa Trời, nhưng ông vẫn quả quyết là ông vô tội. Sự thật là sự thật, một thần
học không chịu kể điều ấy trong tiến trình luận lý là coi như hỏng hết.
Đoạn 27:7-23 có vẻ lạc lõng trong
bài của Gióp, vì nó giống luận điệu của các bạn về kẻ ác hơn là luận điệu Gióp.
Có học giả bàn rằng trên kia Gióp đã tranh luận với Binh-đát về quyền năng của
Đức Chúa Trời, đến đây ông tỏ ra thông hiểu lẽ thật về kẻ ác cũng như các bạn
ông, chỉ không chấp nhận sự võ đoán và áp dụng hẹp hòi của họ thôi. Nhưng phần
nhiều cho rằng phần nầy là lời của Sô-pha, nghĩa là mỗi bạn đều nói ba lần.
Nhiều học giả nghi ngờ chương 28
không thuộc nguyên tác mà thêm vào sau nầy. Lý do là không có ý nối kết giữa
chương 27 và 28, hơn nữa chương nầy mô tả và ca tụng sự khôn ngoan của Đức Chúa
Trời khác với nhiều chỗ Gióp nói không hiểu được Ngài. Tuy nhiên, ta nên nhớ rằng
con người trong khi quằn quại đau khổ, lập trường tư tưởng của họ có thể thay đổi
bất chợt.
Từ chương 29 đến 31, Gióp hướng về
Đức Chúa Trời để khiếu nại lần cuối cùng trường hợp của mình, cũng là tiêu biểu
cho tình trạng chung. Chương 29 tóm tắt quá khứ sang giàu của ông. Ta nhận thấy
Gióp không coi quí của cải bằng sự kính trọng mà mọi người dành cho ông. Chương
30 vẽ ra sự tương phản giữa quá khứ và hiện tại, và một lần nữa gây nên cảm tưởng
là Đức Chúa Trời chịu trách nhiệm về sự thay đổi đó. Tuy nhiên, người đau khổ
có được niềm xác tín rằng Đức Chúa Trời phải ở với mình và cuộc phân xử chắc sẽ
xảy ra. Bởi vậy ông chuẩn bị một biện minh trạng trong chương 31 để ra hầu toà.
Trong một vài phưong diện, nó chứa đựng những tiêu chuẩn luân lý cao nhất Cựu Ước, vượt hẳn những điều khoản qui định
trong kinh Luật. Về luân lý giới tính, nó hầu như báo trước quan điểm của chính
Chúa Giê-su; Gióp không bao giờ nhìn đàn bà mà động tình tham muốn. Ông không
bao giờ thi hành quyền làm chủ trọn vẹn trên các tôi tớ, vì đối với ông, họ cũng
là những con người với những quyền hạn của họ. Những kẻ gặp cảnh túng cùng đói
khó không bao giờ bị ông làm ngơ. Ông giàu có, đúng vậy, nhưng ông không bao giờ
cậy vào của cải. Lòng trung thành của ông đối với Đức Chúa Trời không bao giờ
lay chuyển, không gì có thể cám dỗ ông
chạy theo thờ lạy các thần ngoại giáo đầy dẫy chung quanh ông. Trong đối xử với
bạn bè xóm giềng, ông luôn luôn giữ sự chân thật. Tóm lại ông không phạm một tội
nào thường thấy trong thế giới ông sống. Với biện minh trạng đó, ông sẵn sàng
ra hầu trước vị Chánh Án công chính.
Phần nói chuyện của Ê-li-hu từ
32:1-37:24 bị nhiều học giả cho là do một bàn tay khác xen vào sau nầy, vì những
lý do: a. Trong phần lời tựa và lời bạt
đều không nói đến tên Ê-li-hu. b. Ngôn
ngữ cũng như văn thể của phần nầy khác với phần còn lại của sách. c.
Bài nói chuyện của Ê-li-hu không thêm được điều gì mới cho những bài trước.
Tuy nhiên, một số học giả khác
bênh vực cho tính nguyên tác của nó, cho rằng nếu nó do người thời sau thêm vào
thì họ đã biết đến hoạt động của Satan trong phần lời tựa, không lẽ họ không nhắc
đến chút nào sao.
Đặc tính bài nói chuyện của
Ê-li-hu là không khí tôn kính sâu xa đối với Đức Chúa Trời; một quan điểm về tội
lỗi sâu sắc hơn những bài nói chuyện của mấy người bạn; sự xuất hiện của Đức
Chúa Trời như một vị Giáo Sư (35:11; 36:22), muốn dùng kỷ luật đau đớn để dẫn
con người vào đường lối khôn ngoan hơn trong đời. Budde cho rằng chủ đích của
bài nói chuyện là phơi bày một đặc tính nguy hiểm tiềm tàng trong Gióp, đó là
kiêu ngạo tâm linh (33:17; 35:12; 36:22).
Sau khi đưa ra lý do buộc mình phải
lên tiếng (32:1-22), Ê-li-hu trách các bạn Gióp đã không thuyết phục gì được
Gióp, rồi ông trách thái độ Gióp đối với Đức Chúa Trời, và thách Gióp hãy nói
lên nếu có điều gì đáng nói (33:1-33). Nhưng rồi Gióp làm thinh nên Ê-li-hu tiếp
tục phân tích những lời phàn nàn của Gióp và lần lượt bác bỏ (34:1 - 35:16).
Sau đó, ông ca ngợi những công tác kỳ diệu của quyền năng Đức Chúa Trời (36:1 -
37:24).
Gióp vẫn tiếp tục làm thinh.
Thình lình gió cuốn mây kéo tới và trong cơn gió trốt ấy tiếng của Đức
Giê-hô-va vang lên (38:1 - 41:34). Cuối
cùng ta có thể nhận được câu trả lời cho những thắc mắc của Gióp, và Gióp sẽ được
minh oan.
Nhưng lạ thay, chẳng có câu trả lời
nào cả! Đức Chúa Trời không lý giải những
nguyên ủy của đau khổ, cũng chẳng nhắc gì đến nhũng bất công xảy đến cho Gióp
và những người lành trên thế gian. Trong một thoáng, hình ảnh của những điều kỳ
diệu và huyền bí của vũ trụ vật lý kéo nhau diễn ra trước mắt ông. Trí ông lui
về thời sáng tạo thế giới với bao nhiêu thứ trên trời dưới đất, trong biển.
Nhưng đó chưa phải là hết; vạn vật không phải chỉ được tạo dựng mà còn được bảo
trì và điều khiển bằng bao nhiêu thứ vận hành không ngừng. Gióp là ai mà dám biện
luận với Đấng Tạo Hoá và Vận Hành mọi thứ đó, và đem cái tri thức thiển cận của
mình mà đối chọi với Đấng Toàn Tri? Lạ một điều là những điều Đức Chúa Trời
phán không có gì mới so với những điều các bạn Gióp nói và Gióp đã công nhận,
chỉ khác một điều là biện luận mạnh mẽ hơn. Về mặt tri thức, nó không giải quyết
được vấn đề nào cả.
Tuy nhiên, Đức Chúa Trời xuất hiện
ắt phải đem lại sự thay đổi. Tất cả những hiểu biết trước kia của Gióp và các bạn
ông về Đức Chúa Trời chỉ là những mò mẫm nông cạn. Ông chỉ "nghe đồn"
về Đức Chúa Trời, tức là biết Ngài qua luận lý, qua những suy luận thần học,
triết học. Nhưng làm sao đem trí năng hạn hẹp của con người mà chọi với sự toàn
tri của Thượng Đế? Đứng truớc cái vô cùng của vũ trụ, con người cảm nhận được
cái nhỏ bé vô nghĩa của mình trước Đấng Toàn Năng. Câu hỏi của Gióp đã không được
giải đáp, nhưng điều Gióp đạt được còn quí hơn một giải đáp. Nó mang ông ra khỏi
vòng lẫn quẫn của những phạm trù trừu tượng mà đặt ông vào một bình diện hoàn
toàn mới lạ: được hội thông với Thượng Đế. Một khi đã được chạm mặt với Thượng
Đế rồi thì những vấn nạn tri thức sẽ trở thành vô nghĩa. Gióp đã quên hết những
nan đề của mình; đối với ông, nó đã không còn hiện hữu nữa. Những đau đớn của
ông đã rơi vào hậu trường, và những cơn phấn đấu tuyệt vọng của ông đã chấm dứt.
Ông đã thấy Đức Chúa Trời và nghe tiếng Ngài. Tât cả những gì khác bây giờ
không còn quan trọng nữa.
Nhưng thay đổi quan trọng nhất
nơi con người được trực ngộ Thuợng Đế không phải chỉ là giũ bỏ được những vướng
mắc của ngã kỷ, mà là nhận chân được con người thật của mình: "Bây giờ, mắt
tôi đã thấy Ngài. Vì vậy, tôi lấy làm gớm ghê tôi, và ăn năn trong tro bụi"
(42:6,7). Gặp được Đức Chúa Trời Toàn Thiện Toàn Bích nhất thiết phải đem lại
môt nhận thức sâu xa về tính cách hư hỏng, bất toàn, bất lực của con người
mình. Đó cũng là kinh nghiệm của các bậc thánh xưa như Môi-se, Đa-vít, Ê-sai,
Giê-rê-mi v.v. Câu trên là câu chìa khoá của sách Gióp. Giải pháp cho vấn đề
đau khổ không nằm trong lãnh vực trí thức, mà giải quyết nội tại trong quan hệ
giữa cá nhân và Đức Chúa Trời.
Phần Kết Luận bằng văn xuôi
(42:7-17) thật ra không còn cần thiết lắm khi ý thơ đã lên đến tột đỉnh ở phần
trên. Ở đây chỉ xác nhận lại một điều mà chúng ta đã nhận xét được khi đọc qua
các bài tranh luận: Đức Chúa Trời không chấp nhận thái độ và những biện luận võ
đoán của các bạn Gióp. Và nhiệm vụ của
người đã được hội thông với Đức Chúa Trời là tha thứ và cầu thay cho những kẻ
hung hăng trong những thiên kiến hẹp hòi. Hậu quả đương nhiên của biến động đổi
dời trong tâm Gióp là những thay đổi bên ngoài: Gióp lành bịnh, da dẻ hồng hào;
tiền bạc, tử tức, công danh lại quay về với Gióp với số lượng gấp đôi.
Câu hỏi thảo luận:
1. Bạn
giải thích thế nào về sự hiện hữu của một Đức Chúa Trời toàn năng, nhân từ,
công bình, trước những thiên tai khủng khiếp như tsunami ở Nam Á, bão Katrina ở
New Orleans, động đất ở Pakistan?
2. Hãy luận về vai trò của trí tuệ trong việc
tìm hiểu Đức Chúa Trời.
3. Sách Gióp giúp bạn nhận biết được điều gì
về con người trong đau khổ?
4. Qua các nhân vật trong sách Gióp, bạn thấy
giáo điều, tín lý giữ vai trò thế nào trong nếp sống của người tin kính?
CHƯƠNG 5
THI THIÊN
I. DẪN NHẬP
Thi Thiên đã được sử dụng trong sự
thờ phượng của Cơ-đốc giáo trải qua nhiều thế kỷ. Đó là chứng cớ hiển nhiên cho
thấy Thi Thiên nói lên nội tâm con người của mọi thời đại, và không có sách nào
trong Cựu Ước khiến cho Cơ-đốc nhân dễ cảm thấy quen thuộc gần gũi cho bằng Thi
Thiên. Trong Thi Thiên, chúng ta thấy cùng một Đức Chúa Trời được bày tỏ trọn vẹn
cho chúng ta ngày nay trong Chúa Cứu Thế; chúng ta thấy những con người cũng
máu huyết xác thịt như chúng ta, họ đã tìm kiếm Thượng Đế hết mình và vật lộn với
những hoàn cảnh tương tợ như chúng ta ngày nay. Chúng ta cảm thấy như bị thách
thức, quở trách khi thấy rằng lòng yêu mến Chúa của họ, niềm vui của họ được biết
Ngài, và tinh thần sẵn sàng hi sinh vì niềm tin của họ, đều vượt xa chúng ta, mặc
dầu chúng ta đã được Đức Chúa Trời yêu thương đến độ "đương khi chúng ta
còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta mà chịu chết" (Rô 5:8). Lẽ
dĩ nhiên, cũng như chúng ta sớm học biết
được trong Tân Ước rằng kỷ nguyên ân điển không phải là không có luật pháp, thì
trong Thi Thiên, chúng ta cũng học được rằng kỷ nguyên luật pháp không phải
không có ân điển. Niềm vui thỏa và an bình trong đức tin cũng như những nỗi khổ
cực mà chúng ta phải trải qua để vào Nước Trời đã từng là kinh nghiệm thiết
thân của tuyển dân Do-thái xưa.
II. TÁC GIẢ VÀ BIÊN SOẠN
1. Những Đề Chú (Superscription)
Thoạt nhìn, người ta có thể nghĩ
rằng muốn biết tác giả của Thi Thiên không có gì khó, vì hầu hết mỗi bài đều có
một đề chú ghi danh tánh của người mà người ta có thể tin đó là tác giả. Tên
Đa-vít được ghi trong 73 đề chú (thí dụ
từ Thi Thiên 44-47); A-sáp trong 12 đề chú (như Thi Thiên 73-83) và các cá nhân
khác trong Thi Thiên 88, 89, 90.
Cách đây nhiều thập niên, các học
giả phái thượng phê (high criticism) chủ trương rằng phần chính của bộ Thi
Thiên xuất hiện sau thời Đa-vít rất lâu, vào thời Mac-ca-bê tức là giao thời giữa
Cựu Ước và Tân Ước. Nhưng công trình nghiên cứu Thi Thiên gần đây giúp chúng ta
có lý do vững chắc để tin rằng truyền thống được bảo lưu trong Sử ký 16: cho thấy
Đavit chính là bộ óc tổ chức đứng đàng sau các trường phái ca hát thờ phượng
trong Đền Thờ. Như ý kiến của Kaufmann về Thi Thiên nói chung: "Không có
Thi Thiên nào buộc phải định một thời điểm muộn hơn là Thi Thiên 137 nói lên nỗi
buồn thảm của kẻ bị lưu đày" (E. Kauffmann, Tôn giáo Do-thái, 1961, tr.
311).
Dầu vậy, các đề chú vẫn không giải
quyết được vấn đề tác giả. Đề chú tiếng Việt ghi là "thơ Đa-vít làm",
"thơ A-sáp làm" v.v... nhưng nguyên văn là ledãwĩd không có chữ "làm" mà chỉ có nghĩa là "thuộc
về Đavit". Đối với những Thi Thiên nói lên những kinh nghiệm cá nhân thì từ
nầy có thể hiểu là chỉ về tác giả (thí dụ Thi Thiên 3). Nhưng với những Thi
Thiên "thuộc về con cháu Cô-rê" thì nếu hiểu đó là những bài được
phân công cho họ và nằm trong bộ thánh ca do họ sử dụng, thì có lẽ hợp lý hơn.
Có những đề chú như của Thi Thiên 102
cho biết trường hợp nào thích hợp để dùng nó , cũng như các sách thánh ca ngày
nay phân loại các bài thánh ca để dùng tùy trường hợp.
Học giả Weiser còn cho rằng nhóm
từ "thuộc về Đavit" cũng có thể có nghĩa là "để vua Đavit sử dụng"
(hay một vua thuộc giòng họ Đa-vít), nghĩa là một thi thiên dành cho vua đọc
trong khi ông thi hành chức năng của vua trong cuộc thờ phượng công cọng.
Từ ngữ "thầy nhạc
chánh" được dùng 55 lần, tạm hiểu như là người "trưởng ca đoàn"
ngày nay. Nhóm từ "cho thầy nhạc chánh" trong nguyên văn có nghĩa là
"thuộc về thầy nhạc chánh" cũng tương tự như "thuộc về
Đa-vít". Nếu để ý sẽ thấy những bài có ghi "thuộc về thầy nhạc
chánh" thì phía trước cũng có ghi "thuộc về Đa-vít" hay
"thuộc về A-sap" v.v. (ngoại trừ Thi Thiên 66, 67). Điều nầy gợi cho
ta suy đoán rằng vào một thời điểm nào đó, vị "quản nhạc đền thờ" đã
sưu tập những bài ca có sẵn, và ông đã cẩn thận ghi xuất xứ của chúng. Tuy
nhiên những đề chú đó không ghi tên quá một nguời; nếu những tên Đa-vít hay
A-sap là tên bộ sưu tập chứ không phải tên tác giả thì ắt hẳn phải có một vài
thi thiên ghi cả hai tên. Như vậy, trong trường hợp Thi Thiên 88, ta có thể hiểu
rằng, người trưởng ca đoàn, khi đem thi thiên nầy vào bộ sưu tập của ông, đã
ghi đề chú đại ý nói rằng: "Thi thiên nầy vốn thuộc bộ sưu tập Cô-rê, do
Hê-man nguời Êt-ra-hit sáng tác."
2. Công Tác Biên Tập
Dầu cho chúng ta giả định là mình
biết chắc các nhóm Thi Thiên 3-41; 51-72
trước kia làm thành bộ "sưu tập Đavit", và những nhóm khác như các
'Bài Ca Đi Lên' gồm Thi Thiên 120-134; hay các 'Thi Thiên Ha-lê-lu-gia',
111-113; 116-118; 135; 136; 146-150 là những bộ sưu tập khác trong Thi Thiên,
và các thầy nhạc chánh là những nhà soạn tập, chúng ta cũng không có cách nào
biết được bộ Thi Thiên đã được hình
thành ra sao để đạt đến cách sắp xếp và tầm cỡ hiện tại.
Nhiều sự kiện kết hợp lại cho ta
biết nó phát triển theo từng giai đoạn. Trước hết, các Thi Thiên 14 và 53 y hệt
nhau chỉ trừ một điều là Thi Thiên trước dùng tên riêng Gia-vê (Giê-hô-va) để gọi
Đức Chúa Trời của Is-ra-en, còn Thi Thiên sau dùng từ Ê-lô-him (danh từ chung
chỉ Đức Chúa Trời) trong suốt cả bài. Kết
hợp với điều đó, người ta nhận xét rằng danh xưng Gia-vê được dùng hầu hết
trong các Thi Thiên 3 đến41, còn Ê-lô-him được dùng từ Thi Thiên 42 đến 83. Nếu
bảo rằng một nhà biên tập đã đưa hai Thi Thiên giống nhau vào trong tuyển tập của
mình thì đó là điều vô lý, như vậy ta phải cho rằng có hai nhà biên tập khác
nhau mà một người đã làm việc trong một hoàn cảnh phải tránh dùng tên riêng của
Đức Chúa Trời. Ta có thể nghĩ là hoàn cảnh tương tợ đã khiến cho có những Thi
Thiên giống nhau như 70 với 40:13-17; 103 với 57:7-11 và 60:5-12. Thứ hai, như
chúng ta đã ghi nhận ở trên, Thi Thiên 79:20 chắc vốn là một chú thích của nhà
biên tập đánh dấu việc hoàn thành công tác biên tập các Thi Thiên Đavit (theo
như chúng ta biết cho đến bây giờ). Thứ ba, nhìn qua số lượng các Thi Thiên
Ha-lê-lu-gia, người ta thấy các bài ca ấy không được qui vào một mục riêng
nhưng nằm rải rác ở phần sau sách Thi Thiên. Điều nầy cho ta thấy đó là một tiến
trình thành hình từng phần hơn là một công tác biên tập duy nhất theo một đường
lối cố định. Điều thứ tư cho thấy sự phát triển của Thi Thiên thiếu hẳn một đường
lối biên tập đơn thuần bao quát, là những lời hướng dẫn về âm nhạc và nghi thức
thờ phượng không được đồng nhất (thí dụ từ ngữ Sê-la). Những từ ấy không phân
phối đồng đều trong các Thi Thiên. Từ 'Sê-la' xuất hiện 67 lần trong các Thi
Thiên từ 1 đến 89, nhưng từ đó trở đi chỉ có 4 trường hợp mà thôi.
3. Thi Thiên và Công Cuộc Tế Tự
Sự tiến bộ trong công cuộc nghiên
cứu sách Thi Thiên trong thế kỷ nầy là nhờ khảo hướng cố gắng đưa mỗi Thi Thiên
vào đúng hoàn cảnh phát sinh ra nó. Herman Gunkel, một học giả có uy tín và ảnh
hưởng, đã xếp loại các Thi Thiên và đặt nền tảng để những người khác dựa vào đó
mà xây dựng công tác nghiên cứu. Ông đã làm việc trong khoảng thời gian từ năm
1900 đến 1926.
Qua công trình khảo cứu của ông,
người ta tin rằng các Thi Thiên thuộc trong khuôn khổ ca nhạc hay tế lễ Do-thái
cổ đại. Thường thường các Thi Thiên tự chúng đã phô bày khuynh hướng lễ bái: chúng nói lên sự vui thỏa
của những người được ở trong nhà Đức Chúa Trời (84:10); chúng thấy con đường
đưa đến sự hiện diện của Đức Chúa Trời là "núi thánh", "nơi ở của
Chúa" và "bàn thờ Đức Chúa Trời" (43:3,4); chúng cũng có cả những
chỉ dẫn về cách tế lễ (118:27); chúng thấy sự kính yêu Chúa trong lòng cần phải
được bày tỏ bằng những hành động tôn giáo bên ngoài (116:13, 17, 18). Có kẻ cho
rằng Thi Thiên chống lại việc dâng sinh tế, nói vậy là thiếu căn cứ. Những câu
hỗ trợ cho ý ấy (50:13, 14) dùng trong trường hợp người ta lãng quên điều chính
yếu trong thờ phượng (50:5; xem thêm Thi Thiên 51:). Ngày nay, người ta nhìn nhận
rằng Thi Thiên hầu như không chút nào chống lại việc dâng của lễ, mà trái lại,
nó bắt nguồn từ nhu cầu tế lễ. Cho nên, cũng như mọi phần khác trong Cựu Ước,
Thi Thiên nhấn mạnh việc dâng sinh tế là một hành động bề ngoài phải phản ảnh
chính xác tình trạng bên trong tấm lòng người dâng tế. Câu "phải dâng sự
công bình làm của lễ" thật ra có nghĩa là phải có một thái độ đúng đắn khi
dâng của lễ.
Những chú thích cổ ngữ nằm trong
các đề chú của Thi Thiên cũng liên kết chặt chẽ Thi Thiên với công việc tế lễ
và chỉ cho biết cách dùng Thi Thiên thế nào cho thích hợp trong buổi thờ phượng
công cọng. Đó là những từ 'thi thiên' (trong Thi Thiên 3 và 55 chỗ khác), 'bài
ca' (Thi Thiên 30 và 13 chỗ khác), 'lời cầu nguyện' (Thi Thiên 45 và 4 chỗ
khác) – trong Kinh Thánh tiếng Việt, tất cả đều dịch là ‘thơ’–, 'ca ngợi' (Thi
Thiên 145) và 'để dạy dỗ' (Thi Thiên 60), những từ nầy tự chúng đã rõ nghĩa. Có
ba từ không biết chắc nghĩa là gì: 'Shiggaion' có lẽ nghĩa là điếu văn (Thi
Thiên 7; xem Ha-ba-cuc 3:1 – Kinh Thánh tiếng Việt dịch là ‘thi ca’); 'Miktam
(Thi Thiên 16; 56-60 –Kinh Thánh tiếng Việt dịch là ‘chớ phá hủy’), có người
liên kết từ đó với từ 'vàng' chỉ sự quí giá, nhưng nhiều người khác liên kết với
từ 'che phủ' và cho rằng nó dùng cho lễ chuộc tội, hoặc chỉ sự che chở khỏi
quân thù; 'Maskil' (Thi Thiên 32 và 12 chỗ khác –bản tiếng Việt dịch là ‘để dạy
dỗ’) liên kết với một động từ có nghĩa là 'sáng suốt', như vậy có thể có nghĩa
là 'bài thơ giáo huấn'. Một nhóm khác
dùng những chữ có vẻ chỉ về thể thức âm nhạc trong thờ phượng như: 'dùng về ống
quyển' (Thi Thiên 5); 'dùng về đờn dây' (Thi Thiên 4); 'Sheminith' (Thi Thiên 6
và 12 chỗ khác –bản tiếng Việt dịch là ‘theo giọng trầm’) có lẽ chỉ nhạc cụ
'tám dây' hay 'tám khổ thơ'; 'Ghitit' (Thi Thiên 8; 81; 84 –bản tiếng Việt dịch
là ‘nhạc khí Ghi-tit’) có thể liên hệ tới từ ngữ 'ép nho, như vậy là chỉ một loại
nhạc vui dùng trong các buổi hội hè. Một từ khác hoàn toàn không thể giải thích
được mà lại rất thường gặp, đó là 'Sê-la' (Thi Thiên 3:2,4,8; tất cả 71 lần).
Nó dường như là một thuật ngữ, nhưng không hiểu qui vào đâu: cho âm nhạc hay giọng
của người xướng, hay lời họa đáp của hội chúng. Cho đến nay, những thắc mắc ấy
vẫn chưa giải quyết được. Nó có thể liên hệ đến một động từ có nghĩa "tăng
cường", như vậy tức là "cất cao giọng", cho nhạc mạnh lên, hay
chuyển giọng cao hơn; hoặc một từ ngữ khác có nghĩa "ngưng nghỉ", như
thế có thể đó là "âm nhạc xen kẽ" hay là "giờ suy niệm"; hoặc
có thể là lối chiết tự ba chữ đầu "s-l-h", có nghĩa là "đổi giọng"
hay "lặp lại". Cuối cùng, nhiều đề chú Thi Thiên hình như gợi ý nên
dùng giai điệu nào cho thích hợp (9; 22;45; 46; 53; 56; 57; 60; 80; 88). Tất cả
những điều trên đều chỉ ra một điều là Thi Thiên nằm trong môi trường và khung
cảnh thờ phượng.
III. NHỮNG
LUẬN ĐỀ CỦA THI THIÊN
Ta hãy thử cố gắng đưa ra môït bản
tóm lược những lĩnh vực dạy dỗ phong phú đa dạng của các Thi Thiên với hi vọng
rằng, khi tham khảo các vần thơ thánh, độc giả sẽ tìm được đề tài thích ứng mà
mình quan tâm.
Một trong những nét đặc trưng của
các Thi Thiên là mặc dầu phần lớn đó là những lời chứng cá nhân, và đa số dùng
danh xưng đại danh từ ngôi thứ nhất (tôi, ta, chúng ta), nhưng ấn tượng lưu lại
rõ ràng nhất không phải là về con người mà là về Đức Chúa Trời. Trên khía cạnh
nầy, Thi Thiên là Cựu Ước thu hẹp. Những bài thơ thánh ấy xác quyết Đức Chúa Trời
là đấng Tạo Hóa (8; 104), nhưng ở đây không phải là quan niệm trừu tượng về sự
hình thành thế giới, mà xem thế giới là cơ sở cho sự tể trị quyền phép, sinh động
của Ngài như là vị vua của cả muôn vật (29; 96-99). Thi Thiên luôn luôn nhấn mạnh
sự tể trị công bình của Đức Chúa Trời (11; 75), nhưng trong bài ca bày tỏ niềm
hân hoan chúc tụng vị vua thiên thượng quyền uy (145), chúng ta thấy ba yếu tố
công bình, vĩ đại và nhân từ bện lại thành sợi dây ba tao (xem thêm 146). Phước
lành của Ngài (34) không tách rời khỏi sự thánh thiện Ngài (103), điều đó có thể
thấy rõ qua cơn phẫn nộ của Ngài (38). Ngoài ra, có hai chân lý kết hợp song
hành, đó là sự tể trị phổ thông của Đức Chúa Trời trên toàn vũ trụ (67), và sự
lựa chọn cá biệt dân tộc Do-thái (87). Hai chân lý ấy còn được nối kết qua vị
vua Mêt-sia, chẳng những là vị vua tế lễ thuộc giòng Đavit, mà còn được hứa sẽ
trị vì thế giới (2; 72).
Đức Chúa Trời là Đấng Chăn Chiên
cho toàn dân (80) mà cũng cho cá nhân nữa (23). Đó chính là điều kiện tạo cơ sở
cho người ta tin cậy nơi một mình Đức Chúa Trời để được giải cứu(16; 25; 31),
nhận thấy sự quan tâm chăm sóc của Ngài đối với những kẻ thuộc về Ngài (3; 27;
57; 90; 91); nhưng đồng thời nó cũng làm nẩy sinh thắc mắc, như sự quan phòng
thiên thượng, nghịch cảnh thừơng xuyên của dân Đức Chúa Trời, của cá nhân (10;
12; 37; 73; 77; 78) cũng như tập thể (44; 74; 80). Khi nhận diện sự kiện ấy – sự
kiện dân Đức Chúa Trời cũng phải chịu đau khổ và thù địch (54; 55; 56) – chúng
ta phải hiểu mối quan hệ hữu cơ giữa sự công bình và sự thịnh vượng nói trong
Thi Thiên 1. Đây không phải là lời làm chứng về một kinh nghiệm thường hằng,
nhưng là một tuyên ngôn đức tin, khẳng định rằng Đức Chúa Trời chúng ta là tốt
lành, không có Đức Chúa Trời nào khác, do đó, người công bình hẳn phải được phước
hạnh.
Kinh nghiệm về nghịch cảnh và sự
thù địch đưa đến những lời tố cáo gay gắt đối với kẻ thù, khiến cho những lỗ
tai nhạy cảm của Cơ-đốc-nhân cảm thấy khó chịu. Thường thường người ta chỉ việc
xếp loại Thi Thiên nầy vào số bị lên án, cho rằng đó là bằng chứng cho thấy sự
khải thị của Chúa Cứu Thế rất cách biệt với Cựu Ước, ngay cả với những người tốt
nhất. Thật vậy, Cơ-đốc-nhân làm sao có thể cảm thông với ý muốn tiêu diệt tức
thời kẻ cừu địch (35:8), muốn cho chúng chết thình lình (55:15), bẻ răng của
chúng (58:6), cho chúng chịu cơ cực (109:10), con cái chúng bị sát hại (137:9)
được!
Tuy nhiên, nếu chỉ xem những đoạn
ấy như là "đạo đức Cựu Ước" thì hơi bất công, vì, thứ nhất, lời cầu
nguyện tương tự và cả sự vui mừng vì kẻ địch bị hại cũng có trong Tân Ước
(Ga-la-ti 1:8,9; Khải 6:10; 18:20; 19:1-6); thứ hai, Cựu Ước cũng dạy bổn phận
phải yêu thương giống như Tân Ước (Lê-vi -ký 19:17-18), cũng dạy Đức Chúa Trời
ghét kẻ làm ác (Thi Thiên 5:6), và nên lấy lành trả dữ (Thi Thiên 7:5;
35:12-14); thứ ba, hầu hết các thi thiên có lời nguyền rũa đều chứa đựng những
tình cảm mà người Cơ-đốc đáng phải có: trong Thi Thiên 71 chẳng hạn, trái với
những lời hằn học trong câu 13, ta thấy từ câu 2-7 nói về kinh nghiệm biết Đức
Chúa Trời, c. 19 nói về sự tôn thờ và các câu 8, 15, 16, 18 nói về ý muốn làm
chứng.
Nếu đánh giá vấn đề cách tích cực
hơn, thì cần nên nhớ rằng tất cả những thi thiên có tính cách xúc phạm đến kẻ
khác đều là những lời cầu nguyện. Không có chỗ nào nói đến chuyện thực sự đụng
chạm kẻ thù dù bằng lời nói hay việc làm. Những người bị ngược đãi đều chạy đến
Đức Chúa Trời, dầu họ có phát biểu mạnh bạo thật, nhưng điều cơ bản là họ quyết
tâm trao mọi việc cho Đức Chúa Trời, và đó là hướng hành động mà Cơ-đốc nhân cần
nên theo (Rôma 12:19). Niềm tin tưởng rằng Đức Chúa Trời sẽ hành động là căn cứ
trên một thực sự: Đức Chúa Trời là Đấng đoán xét công bình (xem Thi Thiên 7,
trong đó lời nguyền rủa nơi câu 6 dựa trên căn bản thần học của các câu
11-13). J. R. W. Stott bình luận rất hữu
lý rằng: "Tôi thấy không khó gì mà tưởng tượng lại những hoàn cảnh trong
đó người thánh của Đức Chúa Trời vừa kêu nài với Đức Chúa Trời xin báo thù vừa
khẳng định sự công bình của họ. Vì Đức Chúa Trời đoán xét kẻ tội lỗi chai lì,
nên một người thật sự tin kính Chúa sẽ mong muốn Ngài làm như vậy mà vẫn không
gợn lên chút hận thù cá nhân nào."
IV. ĐẶC ĐIỂM CỦA THI THIÊN
1. Thi Thiên, Những Lời Nguyện Cầu
Theo John F. Craghan, sách Thi
Thiên là bộ sách của những lời cầu nguyện. Mặc dù không ai có thể tìm ra tác giả
và bối cảnh nguyên thuỷ của những lời cầu nguyện trong đó, sách Thi Thiên vẫn
luôn luôn là quyển sách cầu nguyện của dân Do-thái. Những lời đó là tinh tuý chắt
lọc từ những giao ngộ giữa họ với Thượng Đế, với các dân tộc khác, và với chính
họ trải qua nhiều thế kỷ. Chúng diễn tả những thành công thất bại của Is-ra-en
dưới hình thức những lời cầu nguyện. Thật ra, chính cái vô danh của tác giả và
xuất xứ của chúng là một điểm lợi. Thay vì
diễn tả chỉ một lần cho một trường hợp duy nhất, Thi Thiên trở thành lời
cầu nguyện tiêu biểu cho mọi kinh nghiệm sống của Is-ra-en.
Thi Thiên cũng là những lời cầu nguyện
của chúng ta. Việc Thi Thiên được kinh điển hoá vào hàng ngũ Thánh Kinh cho ta
thấy giữa kinh nghiệm của Is-ra-en và của chúng ta có những điểm chung. Những lời
cầu nguyện của Thi Thiên đối phó với những nan đề và hoàn cảnh của con người bằng
một phương thức tiêu biểu. Chúng dùng những biểu tượng như nước, ánh sáng, và
khoảng không gian, là những thứ có tính cách siêu văn hoá. Bởi vậy, lời cầu
nguyện của đền thờ và hội đường Do-thái cũng là lời cầu nguyện của hội thánh nữa.
Như vậy lịch sử Do-thái giao hoà với lịch sử hội thánh và lịch sử cá nhân chúng
ta.
Căn bản của lời cầu nguyện
Is-ra-en cũng như của chúng ta là giao ước. Giao ước có thể định nghĩa là mối
liên hệ giữa hai bên được ràng buộc với nhau bằng nghĩa vụ đạo đức. Tuy nhiên,
liên hệ nầy không phải chỉ giữa một người với một người, mà là một liên hệ tam
giác: Gia-vê (Đức Giê-hô-va), cộng đồng, và cá nhân. Giao ước cũng như lời cầu
nguyện dựa trên giao ước là một công tác nguy hiểm. Nó tiên định rằng chỉ khi
nào cá nhân có bao gồm cộng đồng thì mới có thể thực sự tương giao với Thượng Đế.
Ngay cả một lời cầu nguyện riêng tư, mật thiết nhất của cá nhân cũng nối chặt với
lợi ích của cộng đồng.
Thi Thiên là lời cầu nguyện thờ tự.
Theo khám phá của S. Mowinckel, Thi Thiên
nào có chữ "tôi" của tác giả tương ứng với "chúng
tôi" của cộng đồng, là Thi Thiên được dùng trong sự thờ phượng của cộng đồng.
Đó không phải là những sáng tác bất chợt của những cá nhân thi sĩ tài ba, mà là
công tác của nhiều văn thi gia lớn trong Is-ra-en đã trở thành gia tài của sự
thờ phượng cộng đồng. Như vậy, nói chung, Thi Thiên được viết ra là để dùng cho
nghi lễ thờ phượng Do-thái. Nhận định đó không hạ giá lời cầu nguyện cá nhân
chút nào, mà cho thấy lời cầu nguyện như vậy phải nằm trong vòng cộng đồng. Lời
cầu nguyện thuần vị kỷ là một lời cầu nguyện lố bịch.
Thi Thiên là thơ, không phải là
văn xuôi. Đặc tính chính của thơ Do-thái là sự song đối tức là nhịp điệu về ý
nghĩa, như đã nói ở chương đầu. Khi ta đem áp dụng loại thơ nầy vào lời cầu
nguyện của chúng ta, rất có thể ta sẽ thấy nó chõi lại với lối diễn đạt niềm
tin ta thường thấy trong sách vở thần học tây phương, vì ngôn ngữ thần học của
tây phương thiên về ý niệm trừu tượng nhiều hơn. Họ thích diễn đạt niềm tin bằng
những định nghĩa giáo lý hơn diễn tả bằng những hình ảnh cụ thể. Chẳng hạn họ
thích nói "Đấng Toàn Năng luôn quan phòng sẽ không để cho tạo vật của Ngài
chịu bơ vơ thiếu thốn" hơn là "Đức Giê-hô-va là đấng chăn giữ tôi,
tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì" (Thi 23:1). Họ sẽ nói "Thượng Đế Chí Cao
đáng được tôn thờ" thay vì
"Hãy đánh trống cơm và nhảy múa, mà hát ngợi khen Ngài! Hãy gảy nhạc
khí bằng dây và thổi sáo, mà ca tụng
Ngài" (Thi 150:4). Westermann nhận xét rằng thần học tây phương nói về Đức
Chúa Trời trong khi Thi Thiên nhất là những bài ai ca (laments) thì nói với Đức
Chúa Trời. Từ thần học đi vào Thi Thiên, ta ra khỏi thế giới ý niệm trừu tượng
mà bước vào thế giới hình ảnh và biểu tượng để tham dự vào cuộc nguyện cầu của
các thi sĩ Do thái, góp tiếng lòng của
ta vào bản hoà ca của ngợi tụng và khẩn đão.
Khi cầu nguyện bằng Thi Thiên, ta
chia xẻ kinh nghiệm của thi sĩ về một giao ngộ đích thực với Thượng Đế. Khi
truyền đạt kinh nghiệm đó, thi sĩ tránh dùng lý luận, mà thích dùng hình ảnh và
biểu tượng để tăng cường sức truyền cảm. Chính những hình ảnh biểu tượng đó nói
hộ những nhu cầu cầu nguyện cho ta. Chúng ta như bị cảm hứng của thi sĩ thôi
thúc chúng ta hoà nhập với những giòng chữ sáng tạo của người. Đồng thời, những
giòng chữ đó trở thành một đòn bẩy tung chúng ta đến hoàn cảnh cá biệt của
chúng ta. Những lời thi sĩ mô tả về sự
kinh ngạc, sợ hãi, yêu thương, ghét bỏ v.v.. trở thành lời đặc biệt của chúng
ta khi chúng ta để chúng nó đụng vào thế giới riêng tư của chúng ta. Qua đó,
ngôn ngữ phổ quát của hình ảnh biểu tượng được cụ thể hoá trong hoàn cảnh cá biệt
của chúng ta. Khơi động cái thi hứng đang ngủ yên trong ta là làm phong phú sự
cầu nguyện của ta.
2. Biến thiên của cuộc sống
Trong một thiên khảo luận sáng
giá, học giả W. Brueggemann đào sâu vấn đề công dụng của sách Thi Thiên. Đồng ý
rằng có nhiều thể loại Thi Thiên khác nhau tương ứng với từng hoàn cảnh sinh hoạt
riêng biệt, ông nêu lên câu hỏi rằng dân Do thái làm ra những lời cầu nguyện đó
có dụng ích gì. Vì rằng các truớc giả Thi Thiên đều là những bậc thông minh làm
việc có qui củ, vậy họ muốn thực hiện điều gì ở đây?
Brueggemann nhận xét rằng phần lớn
các Thi Thiên thích ứng với từng giai đoạn khác nhau của kinh nghiệm sống tâm
linh. Ông cho rằng đời người là một chuỗi biến thiên. Có những lúc chúng ta thấy
đời sống thật quân bình, bằng phẳng. chẳng có gì làm cho ta sửng sốt bàng
hoàng. Quá khứ mang cho chúng ta một cảnh an ninh bình lặng. Đời sống chỉ có
quân bình và hài hoà, khiến cho ta tin rằng: "Có Thượng Đế ở trên trời
cao, thì thế giới nầy bình an vô sự."
Thế rồi có những lúc cả cái thế giới an ninh sung mãn kia hoàn toàn sụp
đổ. Định luật đã từng được thử thách trong quá khứ nay chẳng còn công hiệu nữa.
Chúng ta cố gắng xây dựng lại thế giới của chúng ta theo đường lối cũ. Kết quả
là chỉ ruớc thêm thất vọng chán chường. Nhưng rồi tuỳ mức độ buông dãn của
chúng ta, chúng ta tiến đến chỗ sẵn sàng nhận vào một cái gì mới mẻ cho đời sống
chúng ta. Không phải cái mới dựa trên cố gắng của chúng ta hay do những hiểu biết
của chúng ta qui định, mà là một món quà của hồng ân thiên thượng. Nếu chúng ta
sẵn sàng mạo hiểm đi vào một thế giới xây dựng trên những tiền đề mới, chúng ta
sẽ thắng được sự nản lòng thối chí, nhờ tìm đến lời hứa của Đấng Siêu Việt. Lúc
ấy chúng ta tái lập được những gì đã có khi trước, tuy nhiên ta đã trở thành một
người khác. Chúng ta đã trải qua một cuộc suy sụp đổi dời, giờ đây những giá trị
và quan niệm của chúng ta đã chuyển đổi. Brueggemann gọi ba giai đoạn đó là:
(a) định hướng (orientation); (b) vô định hướng (disorientation); (c) tái định
hướng (reorientation).
Sách Gióp là một thí dụ cho ba
giai đoạn nầy. Trong phần mở đầu (Gióp 1-2), Gióp là một mẩu mực đạo đức, ông sống
trong một thế giới an ninh có đầy đủ mọi nhu cầu, hầu như không một tai hoạ nào
có thể xâm nhập được. Đó là thời kỳ định hướng của Gióp. Nhưng rồi đến chương
3, quân bình của cuộc sống Gióp bị gãy đổ. Cái hữu lý đã thuộc về quá khứ. Đây
là lúc dành cho những lời đả kích, mỉa mai trong phần đối thoại bằng thơ (3:27
- 31:). Thế giới của Gióp sụp đổ và ông
thử xây dựng lại bằng thứ thần học định hướng của ông, nhưng ông hoàn toàn mất
định hướng. Cuối cùng đến phần kết bằng văn xuôi (42:7-17) Gióp thay đổi. Ông
vươn lên để tiếp nhận cái mới mẻ không dựa vào phạm trù trước kia của ông. Ở
đây, Gióp được tái định hướng.
Brueggemann cho rằng sách Thi
Thiên là một nổ lực sắp các thi thiên theo loại, dựa vào vị trí của chúng ta
(hay cộng đồng chúng ta) trong tiến trình định hướng – vô định huớng – tái định hướng. Thuộc về loại định huớng là
những thi thiên ca ngợi có tính cách mô tả (2:), thi thiên tin cậy (3:), thi
thiên khôn ngoan (4:), và thi thiên hoàng vương (5:). Thuộc loại vô định hướng
có các bài ai ca của cá nhân lẫn cộng đồng (5:). Cuối cùng là loại tái định hướng
gồm những bài cảm tạ hay thi thiên ca ngợi tung hô, của cả cá nhân và cộng đồng
(7:).
Câu hỏi
thảo luận:
1. Từ những dữ kiện có được trong các bài thi
thiên, bạn hãy suy ra tiến trình thành hình bộ Thi Thiên.
2. Từ những dữ kiện có được trong các bài thi
thiên, bạn hãy suy ra tiến trình thành hình bộ Thi Thiên. không? Tại Sao?
3. Hãy thuật lại kinh nghiệm một lúc nào đó bạn
đọc một bài thi thiên và cảm xúc như bài đó chính là lời cầu nguyện của mình.
4. Theo Brueggemann, sách Thi Thiên được sắp
loại như thế nào?
CHƯƠNG 6
THI THIÊN (2)
V. BỘ CHÁNH KINH NĂM SÁCH THI THIÊN
1. Tên
Tên Thi Thiên, trong Thánh Kinh
Công Giáo được dịch là Ca Vịnh hay Thánh Vịnh có lẽ đúng nghĩa hơn, vì tiếng
Anh là psalm dịch từ chữ gốc Hi-lạp psalmos và chữ Do-thái mizmor có nghĩa là một
bài hát có nhạc khí kèm theo. Thật ra, không phải tất cả các thi thiên đều dùng
với nhạc khí, như thi thiên 119 chẳng hạn. Sách Thi Thiên trong tiếng Do-thái gọi
là tehilim, một danh từ số nhiều ra từ động từ halal có nghĩa là "ca ngợi".
Chữ ha-lê-lu-gia cũng ra từ chữ gốc nầy, có nghĩa là "Ca ngợi Gia-vê (Đức
Giê-hô-va)". Cũng nên nhớ rằng không phải tất cả thi thiên đều là thánh ca
ca ngợi. Trong thời Tân Ước, tên Thi Thiên đã được dùng phổ thông hơn là Thánh
Ca. Vào ngày Chúa nhật Phục Sinh, Chúa Giê-xu đã nói với các môn đồ đang lo âu
rằng: " 'Mọi điều đã chép về ta trong Luật Môi-se và các sách tiên tri và
Thi Thiên phải được ứng nghiệm.' Rồi Ngài mở trí cho họ hiểu Kinh Thánh"
(Lu 24:44-45).
Câu nói đó cho ta thấy vị trí của
Sách Thi Thiên trong Thánh Kinh Do-thái. Phần thứ ba bắt đầu bằng các thi
thiên. Ngay từ khi bộ Thánh Kinh Do-thái chưa được tập họp thành bộ sách duy nhất,
người Do-thái đã phân chia các thánh thư ra thành ba phần chính: sách luật pháp
hay năm sách của Môi-se, các sách tiên tri gồm những sách xưa như Giô-suê, Các Quan Xét, Sa-mu-en và Các Vua,
và những sách sau nầy, trong đó có ba sách tiên tri lớn (Ê-sai, Giê-rê-mi và
Ê-xê-chien) và mười hai sách tiên tri nhỏ, và các sách văn thơ bắt đầu bằng Thi
Thiên.
2. Năm Sách Thi Thiên
Bản văn Do thái và tất cả những bản
dịch sau nầy đều gồm có 150 thi thiên, chia làm năm sách. Bản Bảy Mươi Hi-lạp
có thêm Thi thiên 151 nhưng ghi chú trên phần đề mục: "một thi thiên chính
gốc của Đa-vít nhưng không nằm trong số [150 thi thiên được thần cảm]."
Con số 150 đạt được phần nào có tính cách cưỡng ép và bí hiểm. Chúng ta hoàn
toàn mù tịt ở điểm nầy! Có khi bản văn Do thái và Hi lạp chia một thi thiên ra
làm hai (Thi 42-43). Bản Do-thái làm như vậy cho Thi Thiên 9-10, còn bản Hi-lạp
lại ghép Thi Thiên 114 và 115 làm một và gọi đó là Thi Thiên 113. Trong cả hai
bản Do-thái và Hi-lạp, Thi Thiên 13 trùng với Thi Thiên 52. Tuy nhiên, con số
150 là bội số của 5, đó là con số thiêng liêng, tương ứng với năm sách Môi-se
trong kinh Torah. Có thể cách sắp xếp nầy đã có từ thời Ê-xơ-ra (428 TC), tương
ứng với chu kỳ ba năm đọc năm sách Môi-se. Có
thể là Năm Sách Môi-se và 150 Thi thiên đã được đọc theo một vòng lịch từng
ba năm một.
Trong khi nghiên cứu cách sắp đặt
các thi thiên trong năm sách, có vài nhận xét lý thú như sau đây.
Tên gọi Đức Chúa Trời ngoài tên
thường dùng là Gia-vê (Đức Giê-hô-va)
còn có tên Ê-lô-him được dùng rất nhiều từ chương 42 đến 47:
· Sách I, Thi 1-41,
Gia-vê 272 lần; Êlôhim 15 lần
· Sách II 42-72,
Gia-vê 30 lần; Êlôhim 164 lần
· Sách III, 73-89,
Gia-vê 44 lần; Êlôhim 43 lần
· Sách IV, 90-106,
Gia-vê 103 lần; Êlôhim không có
· Sách V, 107-150 Gia-vê 236 lần; Êlôhim 7 lần
Cuối mỗi sách có một hay hai câu
tôn vinh ca ngợi, dầu có khi đang rên siếc, như ở chương 89. Đó là các câu
41:13; 72:18,19; 89:52; 106:48). Thi thiên 150 sau chót là bài tôn vinh kết
thúc cho cả sách.
Từ Thi thiên 42 trở đi, có một nổ
lực nhằm thay thế tên Gia-vê của Đức Chúa Trời bằng tên Ê-lô-him, và kéo dài tới
Thi thiên 83; vì lý do đó nên các thi thiên nầy còn được gọi là Sách Thi Thiên
Ê-lô-hit. Hình như có hai lực lượng đối nghịch nhau. Tên Gia-vê luôn luôn được
dùng ở miền Nam mà trung tâm là Giê-ru-sa-lem; còn tên Ê-lô-him liên hệ đến miền
Bắc là vương quốc Is-ra-en. Sau thời kỳ lưu đày, ở Giê-ru-sa-lem người ta kiêng
không xướng tên Gia-vê của Đức Chúa Trời nơi công cọng để tỏ lòng tôn kính.
Thay vào đó, người ta dùng chữ adonai (Chúa chúng ta) trong đền thờ hay hội đường,
và chữ ha-shem ở bên ngoài những nơi thánh. Việc dùng tên Gia-vê rất nhiều
trong sách Thi Thiên chứng tỏ Thi Thiên đã có từ lâu, và việc đổi tên Ê-lô-him
cho thấy vai trò của đền thờ Giê-ru-sa-lem trong việc bảo vệ sách.
3. Các sưu tập ban đầu
Năm sách Thi Thiên được sưu tập
như thế nào thì không có cách gì biết được, nhưng ta có thể ghi một ít nhận xét
tổng quát. Có 97 thi thiên có ghi tên, phần lớn tập trung ở ba sách đầu. Tên được
ghi nhiều nhất là Đa-vít (73 trong bản Do-thái và 82 trong bản Hi lạp Bảy
Mươi), rồi đến Cô-rê (12 thi thiên) và A-sáp (12 thi thiên). Những thi thiên
Đa-vít phần lớn ở sách đầu, những thi thiên A-sap và Cô-rê ở hai sách kế tiếp.
Như vậy, các thi thiên Đa-vít hợp thành nhóm thi thiên đầu tiên, sau đó các thi
thiên Cô-rê và A-sáp đựơc thêm vào. Hơn nữa, dường như trong hai sách đầu, thi
thiên Đa-vít giữ phần chủ chốt, trong đó một thi thiên về sự đăng quang của vị
vua dòng Đa-vít (Thi. 2) được đặt ở đầu sách (Thi. 1 thêm vào sau để làm lời mở
đầu cho cả bộ sách 150 bài), và cuối sách thứ hai ghi lời kết luận: "Bài cầu
nguyện của Đa-vít, con trai Y-sai đến đây chấm dứt" (Thi 72:20). Quyển ba
chấm dứt với bài ai ca về sự mất ngôi của dòng vua Đa-vít (Thi. 89).
Các thi thiên trong Quyển Bốn và
Quyển Năm của sách hầu hết đều không có tên, dầu rằng có một số sưu tập của thi
thiên Đa-vít lại xuất hiện ở cuối sách (Thi 108-110; 138-145). Đặc biệt trong
quyển chót ta thấy có hai nhóm: những bài ca đi lên (Thi 120-134) cho những
khách hành hương đến hay từ Giê-ru-sa-lem; và những thi thiên Ha-lê-lu-gia hay
Hallel (111-118; 135-136; 146-150). Nhóm sau nầy lấy ra từ phần nghi lễ của đền
thờ.
Kết luận lại, bộ sưu tập Thi
Thiên lớn ban đầu là ở dưới ảnh hưởng của Đa-vít và gồm phần lớn là những lời cầu
nguyện nói với tư cách cá nhân, trong một thời kỳ đau buồn, và có thể đã được
dùng trong phụng tự, khi chưa có đền thờ; sau đó thêm vào hai bộ sưu tập Lê-vi
của Cô-rê và A-sáp, trong bối cảnh đền thờ. Đến đây thì ba sách đầu thành hình.
Tiếp theo là Quyển Bốn, sách ngắn nhất trong các sách; các thi thiên trong quyển
nầy hầu hết là vô danh (90-106). Quyển Bốn phần nào giống như phụ lục vào ba
quyển đầu, cũng như các phần phụ lục trong các sách khác của Kinh Thánh (II Sa.
21-24; Ês 36-39). Cuối cùng là một loạt thi thiên ca ngợi trong đền thờ, bộ sưu
tập Hallel hay Ha-lê-lu-gia, kết hợp với một số thi thiên khác để làm thành Quyển
Năm.
4. Bản Văn
Các học giả cho rằng bản văn của
sách Thi Thiên là tệ nhất trong các bản
văn của Thánh Kinh Do thái. Ta sẽ thấy ngay những khác biệt khi so sánh những
thi thiên tương tự, như Thi. 14 &
53; 40 & 70; hay Thi 96, 105 & I Sử 16. Cùng một thi thiên của Đa-vít
ghi lại trong Thi 18 và II Sa 22 có đến hơn 100 chỗ sai biệt. Ngay cả những thi
thiên hoàng vương Đa-vít quan trọng như Thi 2 & 110 cũng có những nghi vấn
nghiêm trọng trong bản văn. Bản văn Do thái của Thi 141:5-7 hầu như không thể dịch
được. Có lẽ các thi thiên bị sai lệch vì được dùng nhiều quá, tình trạng bản
văn bị tơi tả là do hội chúng thường xuyên dùng chúng trong lễ nghi và các nhóm
tư gia dùng để cầu nguyện. Điều không may là tình trạng cổ bản Hi-lạp là bản Bảy
Mươi còn tệ hơn cả bản văn Do-thái.
VI. CÁC THỂ LOẠI THI THIÊN
Theo khảo hướng của Hermann
Gunkel, các học giả sau nầy như Claus Westermann, nhất là Sigmund Mowinckel cố
thử xây dựng lại bối cảnh nghi lễ thờ
phượng của các thi thiên, nhưng đây là một địa hạt hết sức mơ hồ, chẳng những
vì phải tháo gỡ sắp xếp các bằng chứng rải rác trong và ngoài Kinh Thánh mới có
được chút hiểu biết về đền thờ Cựu Ước, mà còn vì những bàn tay san định sau
cùng như ta thấy trong đề tựa ghi trên các thi thiên của ba sách đầu, cũng
không đề cập gì nhiều đến những hoạt động hội hè và nghi lễ.
1. Thi Thiên Ca Ngợi
Loại thi thiên nầy chú trọng vào
cuộc sống và niềm vui. Vì Đức Chúa Trời của Is-ra-en là một Đức Chúa Trời sống
đã ban cho người dân chẳng những sự sống mà còn là sự sống có giá trị cao quí,
với tình thương và lòng biết ơn, cho nên họ đáp lại Gia-vê bằng những thánh ca
ngợi tụng là điều rất tự nhiên.
Chúng ta định nghĩa ca ngợi là sự
tung hô hết mình những hành động cứu chuộc của Đức Chúa Trời đang tiếp tục giữa
vòng dân Chúa. Theo định nghĩa nầy, ca ngợi không đem cho Đức Chúa Trời cái gì
cả mà là vui mừng biểu lộ những gì Đức Chúa Trời đã làm và đang tiếp tục làm
cho dân Ngài. Nếu ca ngợi có mang lại điều gì cho Đức Chúa Trời, thì điều đó đã
do Ngài ban cho trước. Đức Chúa Trời hành động trước, khi Ngài nghe tiếng kêu
than thống khổ của dân Ngài ở Ai-cập và sai Môi-se để giải cứu họ. Dù là trong
câu chuyện sáng tạo ở sách Sáng thế ký 1:1 - 2:4a, hay ở những lời thơ về khôn
ngoan trong Châm Ngôn 8:22-31, hành động sáng khởi của Đức Chúa Trời đã có từ
buổi đầu tiên của công cuộc sáng tạo. Trước khi có Is-ra-en, Đức Chúa Trời đã
hành động vì họ.
Theo Carroll Stuhlmuller, tôn
giáo của Is-ra-en khởi đầu từ sự can thiệp của Gia-vê vào lịch sử họ với
Ap-ra-ham và nhất là với Môi-se. Tuy
nhiên, những bài ca như Thi. 19A và 29, Thi. 28, từ nguyên thủy đã không tập trung vào những
thời kỳ lớn của lịch sử họ (như xuất hành, giao ước, hành trình, định cư) nhưng
lại vào công cuộc sáng tạo. Điều ấy phản chiếu phần nào tư tưởng đa thần. Rất
có thể, khi dân Do thái vào Đất Hứa Ca-na-an và bắt đầu củng cố tôn giáo, có tổ
chức, nghi thức, luật lệ, nhân sự, kinh sách, bài hát xướng, họ đã buộc lòng phải
chấp nhận nhiều thứ của dân Ca-na-an vốn có nền văn hóa cao hơn. Cũng rất có thể,
những bài ca với nguồn cảm hứng từ thiên nhiên đã rất phổ biến trong đại chúng.
Có lẽ Đa-vít đã tiêm động lực mới cho những hình thức thi ca Ca-na-an; ông
không ăn rễ sâu trong truyền thống Môi-se ở miền Bắc, nhưng gần gủi với sắc
thái Ca-na-an ở miền Nam hơn.
Những thánh ca của Is-ra-en tỏ ra
rất khác biệt với những thánh ca của các tôn giáo ngoài Is-ra-en, vì chúng
không xem Gia-vê như vị thần phải cúng kiến, mua chuộc, vỗ về cho nguôi giận.
Các thánh ca nầy không dâng gì cho Đức Chúa Trời nhưng nhìn nhận rằng Ngài đã
làm hết mọi sự kỳ diệu cho dân Ngài, tiếp tục công tác Ngài đã làm trong lịch sử thuở xa xưa. Các thánh ca đó không vỗ về Đức
Chúa Trời, không làm hạ giá Đức Chúa Trời và Is-ra-en. Nhờ thánh ca mà Is-ra-en
mỗi lúc một trưởng thành hơn bởi nhận biết rằng những điều kỳ diệu có thể xảy
ra trong đời sống.
Hơn nữa, như đã nói, thánh ca
tung hô Đức Chúa Trời của sự sống. Bởi vậy, trong các thánh ca xưa, đau khổ, chết
chóc hay mất mát đều không được nhắc đến, mà chỉ nói đến những thắng lợi đối với
quân thù. Thái độ nầy có thể liên kết với những điều kiện phụng tự của các thầy
tế. Trong Lê-vi 21, những qui luật bắt buộc các tế sư trở thành gắt gao hơn đối
với vị thượng tế:"Người chớ đi đến cùng một kẻ chết, chớ vì cha hay mẹ mà
làm cho mình ra ô uế. Người chẳng nên đi ra khỏi nơi thánh, đừng làm cho nơi
thánh của Đức Chúa Trời mình ra ô uế" (Lê. 21:11-12). Trở lại với những
bài thánh ca ngợi tụng, tôn giáo ban sơ của Do thái nhấn mạnh một Đức Chúa Trời
sống: chết chóc, tội lỗi và bịnh tật không có chỗ cho nghi lễ và hát xướng.
Trong những bài ca tôn vinh
Gia-vê là Vua và Đấng Tái Sáng Tạo ở phần sau (Thi 96-99), các thánh ca ngợi tụng
đó hướng về thời đại chung kết huy hoàng của Is-ra-en hay của vũ trụ.
Ở đây ta có thể nhận xét một quan
điểm hay thái độ khác biệt nơi các hình thái Cơ-đốc giáo. Cơ-đốc giáo nhấn mạnh
sự chết và đau khổ, xem đó là trung tâm, ít ra là trong giáo hội tây phương. Buồn
rầu và tội lỗi giữ một vai trò quan trọng trong khi con người đến gần Đức Chúa
Trời. Ngày nay hầu hết các tín hữu Cơ-đốc chỉ tìm đến Đức Chúa Trời khi cuộc sống
họ bị khó khăn, đau khổ; ít có người nào tìm đến mục sư để thảo luận và xin cầu
nguyện bởi vì mọi việc thành công quá tốt đẹp!
Những bài thánh ca ngợi tụng tiêu
biểu cho tôn giáo trong Kinh Thánh, tung hô sự nhân từ và oai nghi của Gia-vê
vì những điều Ngài hiện đang làm. Nên biết rằng văn phạm Do-thái không chú trọng
thời gian, quá khứ, hiện tại, tương lai như văn phạm tây phương, mà chú trọng
vào cách hành động hay mức độ tham dự của người nói hay người hành động. Văn phạm
Do-thái trả lời câu hỏi thế nào hơn là câu hỏi khi nào. Vậy thánh ca ngợi tụng
tung hô Gia-vê không phải vì những gì Chúa đã làm mà vì những biến cố trước kia
mà hiện nay vẫn đương xảy ra. Ca ngợi không phát xuất từ nghiên cứu học hỏi những
truyền thống cổ xưa, cũng không do quan sát thế giới thiên nhiên, làm như là nhờ
nghiên cứu điều tra người ta có thể suy diễn ra được sự ca ngợi. Ca ngợi là
chúng ta tham dự vào hành động của Đức Chúa Trời trong hiện tại.
Lối nhìn sự vật trong mối tương
tác hiện tại cũng có thể suy diễn từ cái tên của Đức Chúa Trời trong Kinh
Thánh: Gia-vê. Chúng ta nhận lối giải thích cho rằng tên ấy ra từ chữ gốc
hayah, là động từ nghĩa là hiện hữu, là, ở. Chuyển cái nhìn ấy về phía Gia-vê,
tên Ngài có nghĩa: "Đấng luôn luôn ở đó," mỗi phút giây, tác động vào
mỗi cảnh ngộ của đời sống con người. Do đó, danh Gia-vê không nói gì rõ rệt sự
hiện diện của Đức Chúa Trời; muốn biết chi tiết phải nhìn vào những hoàn cảnh
và thái độ của người Is-ra-en. Gia-vê chỉ đơn giản tuyên bố là Ngài ở đó, bất
luận ở đâu, bất luận có gì xảy ra. Như Albert Gelin kết luận: Gia-vê, khi nói
ra bởi Đức Chúa Trời, đó là một lời hứa: "Ta sẽ luôn luôn ở đó"; khi
nói ra bởi người Is-ra-en, đó là lời cầu nguyện, "Kính lạy Đức Chúa Trời,
xin cứ ở đó với chúng con." Thánh ca ngợi tụng tung hô một Đức Chúa Trời
luôn hiện diện, hiện đang làm những điều Ngài đã từng làm cho các tổ phụ, và hiện
đang hành động cứu chuộc trong vòng chúng dân thờ phượng Ngài.
2. Thi Thiên Cầu Nguyện
Như đã nói trên kia, bản chất của
Thi Thiên nói chung là cầu nguyện, cho nên những bài cầu nguyện chiếm một số lượng
lớn trong sách. Phần lớn những lời cầu nguyện, nhất là những lời khẩn đão
(supplication), những bài ai ca (laments) nằm trong ba sách đầu của Thi
Thiên. Đó là những thi thiên Đa-vít, bộ
sưu tập thi thiên chính yếu được sắp xếp theo niên đại. Các bài thánh ca ngợi tụng,
nhất là những bài lấy cảm hứng từ thiên
nhiên và công cuộc sáng tạo, bắt nguồn từ ảnh hưỏng Ca-na-an trong Is-ra-en thuở
xa xưa, còn các bài cầu nguyện khẩn đão đại diện cho nổ lực thu thập sắp xếp
các thi thiên trong đền thờ nhiều hơn. Nổ lực nầy đến sau thời Đa-vít mấy thế kỷ,
và cho thấy ảnh hưởng của tiên tri trên thi thiên. Ảnh hưởng thấy rõ nhất là của
tiên tri Giê-rê-mi.
Thi Thiên Cầu Nguyện có thể chia
làm hai loại: (1) khẩn đão hay ai ca, (2) tin cậy và cảm tạ. Tuy nhiên, những yếu
tố đó không thuần túy mà trộn lẫn nhau trong cả hai loại.
Tín tâm (piety: lòng tin kính,
cách thể hiện niềm tin) trong các thi thiên khẩn đão hay ai ca dường như biểu
hiện cảm xúc tôn giáo từ thuở sơ lập Is-ra-en (thời Môi-se, Giô-suê và các Quan
Xét) lúc tôn giáo chưa thành một cơ cấu qui củ. Nó giống cách phát biểu sốt
nhiên trong lời cầu nguyện của Giô-suê khi bị thua tại A-hi (Giô 7:6,7; cũng
xem Quan 20:23,26; I Sam 7:6), khác với lối cầu nguyện chính thống, có tổ chức
sau nầy.
Sở dĩ những lời cầu nguyện khẩn đão và ai ca chậm
được tiếp thu vào nghi lễ thờ phượng của Israen, là vì trong tôn giáo Is-ra-en,
một tôn giáo tôn thờ Đức Chúa Trời của sự sống và hòa bình, sự chết và than
khóc hầu như là điều cấm kỵ.
Thế nhưng con nguời vẫn phải chịu
đau khổ và chết chóc. Trước sau gì rồi đền thờ cũng phải đưa những sự kiện nầy
vào trong đời sống thờ phượng. Trước hết là nhìn nhận đau khổ là một hành động
của Đức Chúa Trời trừng phạt tội lỗi của Is-ra-en. Khởi đầu là A-môt rồi đến
các vị tiên tri kế tiếp lên tiếng tuyên bố có bàn tay Đức Chúa Trời trên những
cuộc tấn công, phá hoại, giết chóc của kẻ nghịch trên Giê-ru-sa-lem và
Sa-ma-ri. Không ai khóc nhiều bằng Giê-rê-mi, và Tournay-Schwab gọi ông là
"cha đẻ của tín tâm Do-thái giáo và của những bài ai ca thiêng
liêng." Pierre E. Bonnard viết quyển "Sách Thi Thiên theo
Giê-rê-mi" trong đó ông cho rằng có 12 thi thiên chịu ảnh hưởng văn chương
Giê-rê-mi, và 21 thi thiên chịu ảnh hưởng linh niệm (spirituality) của
Giê-rê-mi.
Lần hồi các bài ai ca được sưu tập
lại. Có lẽ là qua những buổi lễ tôn giáo trong thời kỳ lưu đày, không có đền thờ,
không có nơi thánh (Giê 41:5). Một số bài ai ca tập thể có thể liên hệ với sự sụp
đổ Giê-ru-sa-lem (Thi 60; 129; 137). Một số lượng lớn hơn là những ai ca cá
nhân, về văn phạm thì dùng số ít, nhưng nói chung là dành cho các buổi lễ có
đau buồn than khóc của cộng đồng. Loại nầy chiếm khối lượng lớn hơn hết trong
toàn sách. Herman Gunkel cho đó là xương sống của Thi Thiên. Cả hai loại, tập
thể cũng như cá nhân, đều không nhắm giải thích ý nghĩa của đau khổ; mục đích
nó rất đơn giản: giúp cho người Do-thái sùng kính đứng vững trong sự hiện diện
của Thượng Đế mặc dù phải chịu thất vọng, hoang mang vì những việc xảy tới, bị
những kỷ niệm bi thảm dày vò, và bị đau đớn về thể xác cũng như tình cảm.
Về cấu trúc, loại thi thiên nầy
không chỉnh tề như thánh ca ngợi tụng. Mở đầu là lời kêu xin giúp đỡ, có thể
tán rộng ra bằng cách nhấn mạnh vào ân huệ của Đức Chúa Trời trong quá khứ. Phần
nầy rất ngắn, không giống những lời khẩn đảo của người Ba-by-lôn thường kể lể
ca tụng vị thần dài dòng để mong được ơn. Thân bài thi thiên thường rõ ràng,
chân thành, khẩn trương và có tính cách cá nhân. Thái độ của tác giả thường là
cầu nguyện xin giúp đỡ, than thở hay mô tả nỗi bất hạnh, bày tỏ lòng tin cậy,
xưng tội, rủa sả kẻ thù. Cuối cùng, thi thiên khẩn đảo thường chuyển thành lời
cầu nguyện cảm tạ hay tin cậy (Thi 22: 22-31).
Một loại cầu nguyện khác là tin cậy,
rất giống với loại thi thiên ai ca trên, nhưng nhấn mạnh khía cạnh tin tưởng Đức
Chúa Trời sẽ sẵn sàng giúp đỡ và giải cứu người bị hoạn nạn. Các thi thiên nầy
có thể nhấn mạnh cảm giác an bình và yên lặng (Thi 62) hay lời kêu gọi êm dịu của
Đức Chúa Trời (Thi 23; 27). Trong đó có lời đoan quyết sẽ được hạnh phúc và an
ninh (Thi 16) và quả quyết Đức Chúa Trời là công bình nhớ đến kẻ vô tội (Thi
11).
Cuối cùng là lời cầu nguyện cảm tạ.
Điển hình cho bản chất con người, ở đây loại nầy ít oi nhất. Chúng thường nằm
trong lãnh vực tín tâm (piety) cá nhân, nơi nào văn phạm dùng chữ 'tôi'(như Thi
18; 30). Cấu trúc thi thiên nầy phối hợp thánh ca và khẩn đão. Nó cảm tạ Đức
Chúa Trời đã giải thoát người khỏi đau buồn và nguy hiểm. Lời mở đầu giống với
phần đầu của thánh ca; nó thưa với Đức Chúa Trời, Đấng được cảm tạ, hoặc với cộng
đồng đang chứng kiến lễ cảm tạ hay đang cùng tham dự. Thân bài thi thiên được
khai triển theo thể tự sự (narrative): nguy hiểm, tấn công, hãm hại, xưng lỗi lầm,
bày tỏ sự yếu đuối hay vô tội. Cuối cùng, tác giả thi thiên kể lại sự can thiệp
giải cứu của Đức Chúa Trời. Thường thường có một công thức chúc phước kèm vào
đây.
Thi thiên cảm tạ thường đi đôi với
sự dâng của lể cảm tạ trong đó có con sinh tế dâng lên làm của lễ toàn thiêu biểu
hiệu cho sự tận hiến cho Đức Chúa Trời. Nó thường liên hệ với những lời hứa
nguyện người ta nói ra lúc gặp hoạn nạn (Thi 66:13; 116:17-19).
3. Thi Thiên Giáo Huấn hoặc Thi Thiên Khôn Ngoan
Như trong các dân tộc khác, chắc
hẳn có những trường học cho con cái gia đình quí tộc ở kinh đô. Sau thời kỳ lưu
đày, các hội đường (synagogue) chắc hẳn là nơi để vừa thờ phượng vừa dạy dỗ.
Trong Sirac 51:53 có nói đến trường học: "Hỡi những kẻ không được dạy dỗ,
hãy đến gần ta, và ở lại trong trường ta."
Trường học và giáo dục có các đặc
tính tồn cổ, tư duy, dung hòa và tinh lọc. Tồn cổ ở đây không phải chỉ là giữ
chặt thần học giao ước hay những biểu hiệu tôn giáo quan trọng như các biến cố
lớn trong lịch sử, mà là thực hành ý thức xử thế, tình gia đình, tinh thần làm
việc, sáng suốt, đáng tin cậy, cẩn trọng, kinh nghiệm lâu dài.
Những quan điểm đó đã được nghĩ
ra từ nhiều đời và được tinh lọc qua kinh nghiệm. Con nguời được đào tạo theo
khuôn mẫu nầy trở thành dung hòa, bình tĩnh, tự chế.
Trong văn chương khôn ngoan không
có những lời tiên tri đe dọa, cũng không có những điều khoản nghiêm khắc của Luật
Pháp về sự tinh sạch, ô uế. Thẩm quyền của nó trong cộng đồng là dựa vào kinh
nghiệm, thế hệ nầy qua thế hệ khác đã thử và thấy hiệu nghiệm.
Văn chương khôn ngoan cố kiến tạo
một cuộc sống hài hòa, bình ổn. Nó chống lại sự nhiễu loạn và bạo động. Trong
khi thánh ca nhất là những thánh ca tôn vinh công cuộc tạo hóa của Thượng Đế,
mô tả Gia-vê như là đấng chiến thắng tối cao trên biển giận dữ và bão tố gầm
thét (Thi 29; 89:9-13), thì Khôn Ngoan ở trước Đấng Tạo Hóa "như thợ cái,
hằng ngày là sự khoái lạc của Ngài, và thường thường vui vẻ trước mặt
Ngài" (Châm 8:22-31). Tuy nhiên nó vẫn hàm ý sự bí nhiệm cuối cùng do Đức
Chúa Trời kiểm soát, như cho thấy trong Thi thiên khôn ngoan 139: "Vì lời
chưa ở trên luỡi tôi thì kìa, Chúa đã biết hết rồi... Tri thức dường ấy thật diệu
kỳ quá cho tôi, quá cao tôi không với tới được."
Về nội dung, thi thiên khôn ngoan
có khuynh hướng đối chiếu giữa người công bình và độc ác, thúc đẩy người ta lựa
chọn khôn ngoan bằng cách chỉ cho họ thấy kẻ ác tất sẽ bị phạt và người nghĩa tất
sẽ được thưởng. Thi Thiên đầu nhấn mạnh luật báo trả nầy. Các thi thiên nầy
luôn có những lời khuyên thực tế về phẩm hạnh, tuy nhiên nó thường xuyên hướng
về "sự kính sợ Đức Chúa Trời."
Đặc điểm của thi thiên khôn
ngoan:
1) loại mệnh đề "còn hơn":
Của người công bình tuy ít, còn
hơn sự dư dật của nhiều kẻ ác.
Vì cánh tay của kẻ ác sẽ bị gãy,
nhưng Đức Giê-hô-va nâng đỡ người công bình (Thi 37: 16,17; cũng xem 63:3;
84:10; 118: 8,9; 119:72).
2) mệnh đề đếm số:
Đức Chúa Trời có phán một lần;
tôi có nghe sự nầy hai lần,
Rằng quyền năng thuộc về Đức Chúa
Trời. (Thi 62: 11; cũng xem 27:4)
3) mệnh đề 'ashre hay "phước thay"
Phước thay cho người nào chẳng
theo mưu kế của kẻ dữ (Thi 1:1; 34:8; 112:1; 119:1)
4) theo mẫu tự (Thi 34; 37; 111;
112; 119; 145)
So với các loại văn chương khôn
ngoan khác trong Kinh Thánh, các thi thiên khôn ngoan ý thức được sự hiện diện
của Đức Chúa Trời trong đời sống hằng ngày nhiều hơn. Ta có thể cho rằng hội đường
và trường học có dạy người ta cầu nguyện và đặt những tiêu chuẩn cầu nguyện
riêng.
Thi thiên khôn ngoan được đặt mở
đầu cho cả bộ sách ở giai đoạn thành hình cuối cùng của sách, cho thấy ảnh hưởng
của lớp người khôn ngoan không phải chỉ có trong Thi Thiên mà thôi.
4. Thi Thiên Tiên Tri
Các thi thiên nầy khó mà phân biệt
hơn. Một trong những nhà viết thi thiên được gọi là tiên tri trong I Sử
25:1: Đa-vít biệt riêng mấy con cháu
A-sap, Hê-man, Giê-đu-thun để nói tiên tri bằng đờn cầm, đờn sắt, và chập chỏa.
Tác giả bộ Sử ký cũng xem chữ "người Lê-vi" đồng nghĩa với "nhà
tiên tri" (II Vua 23; và II Sử 34:30).
Các thi thiên bộc lộ đặc điểm của
cả tiên tri xuất chúng (charismatic) lẫn
tiên tri cổ điển (classical). Tiên tri xuất chúng xuất hiện vào thời kỳ sơ khai
quốc gia Is-ra-en, liên hệ đến các trung tâm thờ phượng và cộng đồng tiên tri.
Các nhà tiên tri xuất chúng như Sa-mu-en, Ê-li-sê, xức dầu để tấn phong các
vua. Loại tiên tri nầy có lẽ là bối cảnh phát triển loạt thi thiên hoàng vương
Đa-vít, đặc biệt là để xức dầu cho các vua (Thi 2; 110).
Tiên tri cổ điển bắt đầu với
A-môt, nói tiên tri độc lập bên ngoài những liên hệ thờ tự và thẩm quyền tập thể,
và để lại sách mang tên của họ. Họ thường
căm giận răn đe những bất công xã hội và tôn giáo hình thức. Chắc họ có ảnh
hưởng trên các Thi Thiên 50; 82; 95:7d-11. Những "công thức sấm truyền"
mà các tiên tri cổ điển hay dùng cũng thấy trong các Thi Thiên 2:6; 12:6; 50:1,
7, 16; 60:8-10.
Sau thời kỳ lưu đày, triều đại
Đa-vít không còn nữa, nên các lời tiên tri càng ngày càng nhấn mạnh vương quyền
của Gia-vê. Họ nói đến hi vọng trong tương lai xa, đến vị vua Met-sia cũng là đấng
cứu vớt, đến Ngày của Chúa đầy tăm tối kinh hoàng, và sự trị vì vinh hiển của
Vua Gia-vê. Nằm trong chiều hướng đó là những thi thiên nói đến cuộc trị vì thời
tận thế của Gia-vê: Thi Thiên 93; 96-99.
Ảnh hưởng của cả hai loại tiên
tri xuất chúng và cổ điển còn thấy trong những bài ca Si-ôn: Thi Thiên 46; 48;
76. Ở đây có những đặc điểm tiên tri về tận thế, nhưng đúng hơn, nên qui về sự
thờ phượng, vì có không khí mong đợi quyền
năng Đức Chúa Trời và những lời hứa của Ngài trong nghi lễ của đền thờ.
VII. NGUỒN GỐC VÀ LỊCH SỬ CỦA THI
THIÊN
Có nhiều lý do khiến ta có thể chấp
nhận Thi Thiên đã có từ thời cổ đại. Mặc dầu có bị sửa chữa và thêm thắt, nhiều
thi thiên có thể có từ trước thời kỳ lưu đày, đến tận thời Đa-vít và Sa-lô-môn,
và một số rất ít còn đến trước đó nữa (Thi Thiên 68).
Ca hát là một trong những cách thức
thờ phượng cộng đồng lâu đời và phổ thông nhất. Những nơi có điện thờ như
Ghinh-ganh (I Sam 7:16; 11:15), Si-lô (Giô 18:1; I Sam 1:3), Si-chem (Giô
8:30), Bê-ten (Quan 20:18-19), Ta-bô (Thi 68) và Đan (Quan 18:19-31), ắt hẳn phải
có những bô sưu tập thánh nhạc. Những cuộc hội họp cộng đồng quanh lửa trại thế
nào cũng có những bài hát truyền thống.
Ca-na-an là một nguồn âm nhạc
phong phú. Theo R. Tournay và Schwab, nó đã cung cấp nhạc khí cũng như nhạc sĩ
cho các nước Ai-cập và A-sy-ri trong một thời kỳ lâu dài. Một số trưởng ca đoàn
Lê-vi như Ê-than, Hê-man và Cô-rê mang tên có gốc Ca-na-an. Hai tên đầu có nghĩa
là "người bản xứ" hay "thổ dân". Trong tập Những Lá Thư
Ar-ma-na viết từ Ca-na-an cho một vị pha-ra-ôn của Ai-cập vào thế kỷ thứ 14, có
những câu rất giống với thi thiên như: "Khi tôi sẽ thấy mặt chúa và vua
tôi" (Thư số 144; Thi 17:15; 42:2); "Nếu chúng tôi lên tới trời hay
xuống tận dưới đất, thì đầu của chúng tôi vẫn ở trong bàn tay của ngài"
(Thư số 264; Thi 139:8). Đa số học giả nhìn nhận rằng Thi Thiên 29 có chứa nhiều
thành ngữ Ca-na-an, có người còn tuyên bố rằng nó được viết ra cho sự thờ phượng
của nguời Ca-na-an và đã được điều chỉnh cho thích nghi với sự thờ phượng
Gia-vê của Is-ra-en. Họ còn nhận thấy sự điều chỉnh đó vẫn chưa đủ cho nên đến
thời kỳ hậu lưu đày người ta còn sửa đổi thần học thêm. Đối chiếu 96:7 với
29:1, ta thấy nó bỏ đi phần nói về các thần linh chung quanh Gia-vê.
M. Tsevat khảo sát ngữ vựng thi thiên và cho rằng nó đã có từ thời chinh
phục Ca-na-an, khi người Do-thái tiếp thu ngôn ngữ thờ phượng cùng với kiểu mẫu
kiến trúc và phương pháp canh tác của dân bản địa. Trong 116 yếu tố ngôn ngữ
thi Thiên, mà tiếng Do-thái cổ điển chỉ thấy trong thi thiên thôi, thì có 35 đến 40 yếu tố có liên hệ ngôn ngữ với
những dân tộc đến trước hoặc đồng thời với họ ở xứ Ca-na-an.
So sánh với hai sách Sử ký thì thấy
Thi Thiên dùng nhiều chữ đã chết trong lãnh vực thế tục cũng như thờ phượng,
lúc bộ Sử ký được biên tập vào khoảng giữa
thế kỷ thứ năm TC.
Địa vị quan trọng của vua Đa-vít
trong Thi Thiên cũng cho thấy nguồn gốc cổ xưa của Thi Thiên. R. Tournay viết:
"Không ai có thể chối cãi sự đóng góp của Đa-vít trong nhạc sử của dân tộc
ông. Từ lúc còn niên thiếu, ông đã là một nhạc sĩ nỗi tiếng (I Sam. 16:18), có
thể chính ông đã chế tạo ra một số nhạc cụ của Is-ra-en (Amôt 6:5; I Sử
23:5)... Là một ca sĩ được mến mộ trong
Is-ra-en (II Sam 23:1), ông đã sáng tác
những bài ca ai điếu não nùng cảm động (II Sam 1: 17-27; 3:33)... Tác giả bộ Sử
ký chắc hẳn cũng là một nhạc sĩ người Lê-vi, trong bài ai điếu vị vua thi sĩ,
đã xem Đa-vít là người tổ chức nghi lễ và thánh nhạc (ISử 15-17).
Dầu các thi thiên được công nhận
là đã có từ thuở rất xa xưa của Is-ra-en, có thể là trước cả thời kỳ quân chủ,
tuy nhiên, hầu hết đã trải qua một thời kỳ tiến hóa lâu dài nhiều thế kỷ.
Kinh Thánh không cho biết nhiều về
cách sử dụng thi thiên trong đời sống và nghi lễ của Is-ra-en cổ xưa. Ta để ý đến
một số sự kiện tổng quát: nhảy múa trong một nghi lễ thờ phượng tại thánh điện
Si-lô (Quan 21:19-22); II Sa 19:35 có
nói đến "những người nam và nữ ca hát", hay A-môt 5:23 nói đến
"những tiếng ca hát ồn ào... những thanh âm của đờn cầm". Lê-vi 23 có
liệt kê những ngày lễ chính. Họ hàng nhà A-sap được dành cho vai trò chính yếu
hướng dẫn việc ca hát (Ê-xra 2:41; Nê-hê-mi 7:44). A-sap xướng thi thiên và dân
chúng đáp bằng điệp khúc: "A-men! Ha-lê-lu-gia!" (I Sử 16:7-36).
Nhiều khi thi thiên được trích
trong các sách khác của Kinh Thánh: lời Giê-rê-mi rủa ngày sinh mình có xen một
thi thiên (Giê 20:13); A-môt có xen kẽ những mẫu thi thiên trong sách ông
(4:13; 5:8-9; 9:5-6).
Theo Massey H. Shepherd, Jr.,
trong hội đường Do thái và sau nầy trong Hội Thánh sơ khai, thi thiên không do
ban hợp ca hát mà do những xướng viên độc xướng, và không có kèm theo nhạc khí,
dầu rằng nhạc khí là thành phần quan trọng trong sự thờ phượng của đền thờ vào
thời kỳ tiền lưu đày, như ta thấy trong Thi Thiên 150 . Về sau người ta cho nhạc
khí là của sự thờ phượng ngoại giáo. Người xướng thi thiên ngâm với giọng đều đều,
ít khi lên xuống giọng hay đổi nhanh chậm. Trong cộng đồng Do-thái lẻ loi ở
Yemen miền nam Ả-rập, người ta hát thi thiên có vần điệu giống như nhạc điệu
Byzantine, Ambrosian và Gregorian của Giáo hội Cơ-đốc.
Theo Balthazar Fischer, vai trò của
thi thiên trong Hội Thánh thay đổi tùy thời kỳ: Trước năm 200 SC, các thi thiên
được đọc như lời tiên tri về Chúa Cơ-đốc; từ năm 200 đến 400, thi thiên là những
lời cầu nguyện thưa với Chúa Cơ-đốc là Gia-vê trong thi thiên; từ năm 400 đến
thời trung cổ, do ảnh hưởng của Augustine, thi thiên là lời cầu nguyện của
Chúa, trong thân thể nhiêïm mầu của Ngài có bao gồm tất cả mọi tín hữu nam nữ.
VIII. PHÂN BỐ CÁC THI THIÊN
(Phân loại theo văn thể)
Thánh Ca Ngợi Tụng (Hymns of
Praise)
Cảm tác từ thiên nhiên: 8, 19A, 29,
33, 89:6-19, 104, 148
Cảm tác từ lịch sử hay kinh Tôra:
19B, 24, 46, 47, 48, 68, 76, 78, 81: 1-5b, 100, 105, 113, 114, 117, 122, 133,
134, 135, 136, 145, 146, 147, 149, 150
Vua Gia-vê: 24, 29, 47, 93, 95, 96,
97, 98, 99, 149
Bài ca Si-ôn: 42-43, 46, 47, 48, 76,
84, 87, 122
Bài ca diễn hành vào đền thờ: 15, 24, 68, 95, 100, 132
Cầu Nguyện Khẩn Đảo Và Ai Ca (Prayers of Supplication and Lament)
Cho hội chúng: 12, 14, 44, 53, 58,
60, 74, 79, 80, 83, 85, 89, 90, 94, 106, 123, 126, 137, 138, 144:1-11
Cho cá nhân: 3, 4, 5, 6, 7, 9-10, 13,
17, 22, 25, 26, 27, 28, 31, 35, 38, 39, 40, 41, 42-43, 51, 52, 54, 55, 56, 57,
59, 61, 63, 64, 69, 70, 71, 77, 86, 88, 102, 109, 120, 130, 139, 140, 141, 142,
143
Cho người bệnh: 6, 13, 16, 28, 30,
31, 38, 39, 41, 69, 88, 91
Cho tội nhân ăn năn: 6, 25, 26, 32,
38, 51, 90, 130
Thi thiên rủa sả: 10:15; 31:17-18;
40:15; 55:15; 58: 6-11; 59: 10-13; 68: 22-23; 69: 22-28; 83: 9-18; 137: 9; 139:
18-21; 140: 8-10
Thi Thiên Cảm Tạ (Thanksgiving
Psalms)
Cho hội chúng: 22: 22-331, 30, 34, 65, 66,
67, 75, 92, 107, 111, 118, 124, 138
Cho cá nhân: 9-10, 18, 23, 30, 31,
32, 35, 40, 41, 92, 103, 116, 120, 144: 1-11
Cầu Nguyện Tin Cậy (Prayers of
Confidence)
11, 16, 20, 23, 27, 57, 62, 91, 115,
121, 125, 129, 131
Thi Thiên Khôn Ngoan – Giáo Huấn
(Wisdom - Didactic Psalms)
1, 15, 19b, 24, 33, 34: 11-21, 36, 37, 49, 73, 78,
90: 3-12, 92, 101, 111, 112, 119, 127, 128, 144: 12-15, 145
Theo mẫu tự: 9-10; 25, 34, 37, 111,
112, 119, 145
Về Luật Pháp: 1, 19b, 119
Thi Thiên Hoàng Vương (Royal
Psalms)
Đăng quang: 2 (hay 1-2), 72, 89:1-37,
101, 110, 132
Cầu thay: 20, 21, 144: 1-11
Khẩn đảo: 61, 89
Hôn lễ: 45
Cảm tạ: 18
Thi Thiên Tiên Tri (Prophetical
Psalms)
15, 50, 81, 82, 95: 7d-11
Câu hỏi
thảo luận:
1. Từ những dữ kiện có được trong các bài thi
thiên, bạn hãy suy ra tiến trình thành hình bộ Thi Thiên
2. Đọc Thi Thiên 109 thấy những lời trù rủa
thâm tệ đối với kẻ thù, bạn có nghĩ rằng đạo đức của thời Cựu Ước thấp hơn thời
Tân Ước không? Tại Sao?
3. Hãy thuật lại kinh nghiệm một lúc nào đó bạn
đọc một bài thi thiên và cảm xúc như bài đó chính là lời cầu nguyện của mình.
4. Theo Brueggemann, sách Thi Thiên được sáp
loại như thế nào?
CHƯƠNG 7
CHÂM NGÔN
I. DẪN NHẬP
Khi con người sống quây quần
thành xã hội, chung đụng với nhau và đối phó với thiên nhiên, họ rút tỉa được
nhiều kinh nghiệm và tổng kết những nhận xét của họ trong những câu ngắn gọn,
có vần điệu, dễ ghi nhớ, làm những bài học khôn ngoan truyền lại cho những thế
hệ sau. Đó là những tục ngữ, phong dao, bao gồm hầu như mọi lãnh vực của đời sống.
Chúng là khởi thủy của thi ca, triết học và có lẽ cả khoa học nữa. Về phương diện
văn học, đây là một phần rất phong phú của kho tàng văn chương bình dân mà dân
tộc nào cũng có.
Thời tiết, khí hậu, đóng vai trò
quan trọng trong đời sống du mục cũng như nông nghiệp, trải qua nhiều đời được
đúc kết thành những câu như:
“Ráng vàng trời gió; Ráng đỏ trời
mưa”
hay:
“Cơn đằng đông vừa trông vừa chạy,
Cơn đằng nam vừa làm vừa chơi.”
Tiếng Anh cũng có câu:
“A rainbow at night
Is the shepherd’s delight;
A rainbow in the morning
Is the shepherd’s warning.”
Để bảo vệ sức khỏe, người ta lưu
lại những kinh nghiệm về thuốc men, ăn uống:
“Cam hàn, quít nhiệt, bưởi
thông.”
hay:
“Đau bụng hơ muối mà chườm
Nhược bằng không khỏi, hắc hương
với gừng.”
Hoặc tiếng Anh:
“An apple a day keeps the doctor
away.”
Gia đình là nền tảng của xã hội,
cho nên vấn đề giáo dục gia đình là mối quan tâm sâu xa của những người có ý thức:
“Cá không ăn muối cá ươn,
Con cãi cha mẹ trăm đường con
hư.”
hay:
“Thương con cho roi cho vọt,
Ghét con cho ngọt cho bùi.”
Hãy so sánh với:
“Người nào kiêng roi vọt ghét con
trai mình
Song ai thương con ắt lo sửa trị
nó” (Châm 13:24).
Nhận xét về cá tính con người trong xã hội,
chúng ta hãy so sánh:
“Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa,
Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.”
với câu:
“Ngủ một chút, chợp mắt một chút,
khoanh tay nằm một chút,
Thì sự nghèo khổ của ngươi sẽ đến
như kẻ đi rảo” (Châm 6:10).
Những câu ngạn ngữ cách ngôn như
vậy, dân tôïc nào cũng có. Chúng nằm rải rác trong dân gian, ở trên cửa miệng của
người bán buôn, kẻ thợ thuyền, người làm ruộng, kẻ chăn nuôi, từ thôn quê đến
thành thị, và dần dần được những bậc thức giả sưu tập để làm thành “túi khôn”
hay “cẩm nang” cho hậu thế. Sách Châm Ngôn cũng được thành hình cách tương tự.
II. TÁC GIẢ
Tên chung của quyển sách là “Châm
Ngôn của Sa-lô-môn con trai của Đa-vít”. Tuy nhiên, nhiều chỗ trong sách có nói đến các tác giả khác của những bộ phận khác nhau trong sách.
Phần được kể cho Sa-lô-môn nằm trong 10:1, cho “người khôn ngoan” trong 22:17
và 24:23. Ở 25:1 có lời ghi chú “Đây là những châm ngôn của Sa-lô-môn, mà các
người của Ê-xê-chia, vua Giu-đa, sao tả.” Đầu chương 30 ghi “Lời của A-gu-rơ,
con trai Gia-kê”, và chương 31 được cho là của Lê-mu-ên, hay đúng hơn, là của mẹ
ông. Các học giả cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 nghi ngờ tính chính xác của những
lời ghi về tác giả, cho rằng sách nầy được sáng tác sau thời Sa-lô-môn rất lâu.
Nhưng những cuộc nghiên cứu sau nầy về loại văn chương khôn ngoan của miền Cận
Đông giúp một số học giả kết luận lối hành văn của sách đã có từ rất lâu, và lời
ghi chú là đáng tin.
1. Sa-lô-môn
Trong sách Châm Ngôn, sự khôn
ngoan đóng vai trò rất quan trọng. Nó được nhân cách hóa và được xem là kẻ ban
phát mọi thứ tốt đẹp hơn hết cho đời sống. Vua Sa-lô-môn lúc thịnh thời được
xem là biểu tượng của sự khôn ngoan. Ông yêu mến Đức Giê-hô-va (I Vua 3:3); ông
cầu xin sự hiểu biết để phân biệt điều thiện điều ác (IVua 3: 9, 12), được Đức
Chúa Trời ban sự khôn ngoan (I Vua 4:29) và có tinh thần khiêm nhường (I Vua
3:7). Vua đã chứng tỏ sự khôn ngoan trong cách xử án (I Vua 3: 16-28), ngoại
giao (I Vua 5:12), và nổi tiếng ở miền Cận Đông (I Vua 4: 30tt; 10: 1-13). Vua
soạn thảo châm ngôn, bài ca, đề cập đến nhiều đề tài trong thiên nhiên (I Vua
4: 32, 33) và giải đáp những câu hóc búa
(I Vua 10:1).
Ta có thể thấy ở nhiều nơi khác
trong Cựu Ước cũng như văn chương khôn ngoan Cận Đông có nhiều ý và lời giống
những câu châm ngôn trong phần của ông từ 10: 1 – 22: 16, 25-29, nên không thể cho là tất cả do
ông tự nghĩ ra. Ta có thể xem ông như một người học thức khôn ngoan soạn một bộ
sưu tập những câu phương ngôn gồm của ông và của nhiều người khác và để lại
trên nó dấu ấn của cá tính ông.
2. Người Khôn Ngoan
Trong các dân tộc Cận Đông có hạng
“người khôn ngoan” (wise men, trong Tân Ước dịch là bác sĩ) có chức năng trong
các lãnh vực từ chính sách quốc gia cho đến giáo dục (Ai-cập, xem Sáng 41:8;
Ê-đôm, xem Apđia 8). Trong dân Is-ra-en, nơi ‘sự kính sợ Đức Giê-hô-va khởi đầu
sự tri thức’ vai trò ‘người khôn ngoan’ còn quan trọng hơn: trong thời
Giê-rê-mi, họ được đặt ngang hàng với các thầy tế và tiên tri trong sự nhận
lãnh mặc khải (Giê 18:18).
Bộ sưu tập ‘những lời nói của người
khôn ngoan’ gồm từ 22:17–24:22 và
24:33-34. Có lẽ chương 1–9 với nội dung những ‘lời khuyên khôn ngoan’ cũng ra từ một nguồn gốc. Khó có thể định được
niên đại, nhưng nhiều câu rất cổ, như Albright nhận xét là có thể từ thời đại đồ
đồng. Có lẽ có lời của những người khôn ngoan khác ngoài Is-ra-en, và đây cũng
là một sưu tập của Sa-lô-môn.
3. Những Người của Ê-xê-chia
Trong II Sử 29: 25-30 có nói đến
sự chấn hưng thờ phượng trong thời vua Ê-xê-chia. Có lẽ trong dịp nầy, thuộc hạ
của Ê-Âxê-chia đã thu thập và xuất bản sưu tập từ chương 25–29.
4. A-gu-rơ Con Trai Gia-kê
Không ai biết A-gu-rơ là ai,
nhưng câu ”Lời của A-gu-rơ, con trai Gia-kê, châm ngôn” cũng có thể dịch là “Lời
của A-gu-rơ, con trai Gia-kê ở Ma-sa” (bản RSV). Ma-sa là một chi tộc Ả-rập thuộc
dòng dõi Áp-ra-ham qua Ích-ma-ên. (sáng 25:14), và các chi tộc đông phương được
tiếng là khôn ngoan (I Vua 4:30).
5. Vua Lê-mu-ên
Mẹ của vua là tác giả của đoạn
31:10-9, nhưng cũng không ai biết vua là ai. Vua không hẳn là tác giả của bài thơ về người vợ toàn hão
trong đoạn từ c. 10-31, là phụ lục của quyển sách.
III. NIÊN ĐẠI
Sự thành hình của quyển sách gồm
nhiều tập ắt không thể chỉ hoàn thành trong một giai đoạn. Phần lớn có lẽ đã được
biên soạn dưới thời vua Sa-lô-môn. Dưới triều Ê-xê-chia, quyển sách cũng chưa
hoàn tất, nhưng đến thời Ben Sira (độ 180 TC.) thì đã có trọn bộ (Ecclus.
47:17). Có lẽ sách được biên tập lần cuối cùng vào thời kỳ hồi hương sau lưu
đày.
IV. THỂ LOẠI và NỘI DUNG
Về thể loại, quyển sách giống như
những bộ sưu tập các lời giáo huấn tìm được tại Ai-cập. Những lời giáo đầu, và
cách tập họp các câu phương ngôn gần như là theo đề tài cho thấy soạn giả đã áp
dụng một thể loại văn chương hiện hành trên thế giới lúc ấy.
Nguyên ngữ của chữ Châm Ngôn là
mashal, nếu dịch là ngụ ngôn (parable) hay ẩn dụ (allegory) như trong Êxê. 17:
2 của bản AV và RSV có lẽ sát hơn. Tuy nhiên những câu trong Châm Ngôn không có
tính cách ngụ ngôn hay ẩn dụ. Đây thật ra không hẳn là những câu tục ngữ phong
dao mà chính là chắt lọc kho tàng khôn ngoan của những giáo sư biết luật pháp Đức
Chúa Trời đem áp dụng những nguyên tắc của nó vào toàn thể cuộc sống.
V. CÔNG DỤNG CỦA SÁCH
Theo Wheeler Robinson, văn chương
khôn ngoan của Cựu Ước là một “môn dạy cách áp dụng chân lý trong đời sống cá
nhân dưới ánh sáng của kinh nghiệm.” Đây là một quyển sách thực tế, của kỷ luật: nó đụng đến mọi ngỏ ngách của đời
sống và cho thấy Đức Chúa Trời để ý trực tiếp đến đó. Khôn ngoan không phải chỉ
là suy xét những nguyên lý trừu tượng chi phối vũ trụ, mà là mối quan hệ với Đức
Chúa Trời của mọi tri thức, đưa đến cách cư xử phù hợp với mối quan hệ ấy trong
mỗi hoàn cảnh cụ thể. Người khứơc từ điều đó, nói thẳng ra, là người ngu. Khôn
ngoan phải chi phối toàn bộ cuộc sống con người: không phải chỉ trong lúc tĩnh
tâm, mà còn trong thái độ đối với vợ con, công việc, trong cung cách làm ăn, và
cả trong những cử chỉ tại bàn ăn nữa.
Chúa chúng ta rất yêu thích sách
nầy. Ngôn ngữ của nó bàng bạc trong những lời dạy của Ngài. Như lời Ngài nói về
những kẻ tìm chỗ ngồi trên (xem Châm 25: 6,7), hay ngụ ngôn về những người
khôn, dại, và nhà của họ (14:11), hay chuyện người giàu mà dại (27:1). Ngài đem
hỏi Ni-cô-đem câu hỏi mà A-gu-rơ con trai Gia-kê đã nêu lên (30:4 với Gi.
3:13). Ngài nhắc nhở những kẻ khước từ Ngài rằng “con cái của khôn ngoan sẽ biện
minh cho nàng” (Ma 11:19).
Phải chăng vì gần gủi Chúa mà
Phi-e-rơ ưa thích Châm Ngôn? Những thư của ông tỏ ra rất quen thuộc với sách nầy.
( I Phi 2:17 với Ch. 24:21; I Phi 3:13 với Ch. 16:7; I Phi 4:8 với Ch. 10:12; I
Phi 4:18 với Ch. 11:31; II Phi 2:22 với Ch. 26:11).
Phao-lô cũng trích và phản ánh
nhiều ý của sách (Xem Rô 12:20 và Ch. 25:21tt). Khi ông nói “Đấng Christ là quyền
phép và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời,” thì
ý nghĩa của Châm 8 quyện lấy những lời của ông.
Hê 12:5 trích Châm 3:11 và bảo ta ‘chớ coi nhẹ sự sửa
phạt của Chúa’, cho ta thấy chân tính của quyển sách, đó là môn học về kỷ luật
của Đức Chúa Trời.
Những câu châm ngôn cũng giống
như những dụ ngôn của Chúa, muốn thấm thía ý nghĩa của nó thì phải học riêng từng câu và mỗi lúc một ít
thôi. Nhưng đồng thời phải luôn ghi nhớ rằng mỗi câu chỉ là một phần của toàn bộ
giáo huấn. Nếu tách rời câu Châm Ngôn ra khỏi toàn thể của nó và cố áp dụng cho
một trường hợp riêng lẽ nào đó thì có thể sẽ bị sai lạc.
VI. BỐ CỤC
1: 1 - 7 Đề tài, mục đích và phương châm
1: 8 - 9: 18 Mười ba bài về khôn ngoan
10:1 - 22:16 Sách đầu của Salômôn
22:17-24:22 Sách của người khôn ngoan
24: 23 -24 Những lời nói của người khôn ngoan: tập
hai
25:1-29:27 Sách thứ hai của Salômôn
30: 1 - 33 Lời của Agurơ
31: 10-31 Phụ lục: người nữ tài đức
Câu hỏi
thảo luận:
1. Từ những dữ kiện có được trong sách Châm
Ngôn và các câu Kinh Thánh khác, bạn hãy suy ra tiến trình thành hình bộ Châm
Ngôn.
2. Bạn hãy tìm một câu Châm Ngôn tương tự câu
tục ngữ VN “Con cái khôn ngoan vẻ vang cha mẹ” và bình luận.
3. Bạn có thấy một câu hay bài Châm Ngôn nào
không phù hợp với suy nghĩ của bạn không? Nếu có hãy nêu ra và phân tích. Nếu
không, hãy giải thích tại sao. (Ở đây nói về văn hóa hay cách diễn đạt tư tưởng
chứ không nói về thần học.)
CHƯƠNG 8
CHÂM NGÔN (2)
VII. BÌNH GIẢI
1:1–7 ĐỀ TÀI, MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG CHÂM CỦA SÁCH
Đây là đầu đề dài hơn hết trong
các sách Cựu Ước. ‘Của Sa-lô-môn’ không có nghĩa là ông viết cả quyển (xem
24:23; 30:1; 31:1), nhưng cho thấy ông là người đóng góp chính và là nhân vật lớn
hơn hết trong địa hạt châm ngôn.
C. 3-6 cho biết mục đích của sách. C. 7 đặt ra
phương châm và mô tả nguyên tắc nền tảng của sách. Đem so sánh những câu nầy với
Ês. 11:1-5, ta sẽ thấy những ơn thiên phú liệt kê ở đây cũng là thuộc tính của
Đấng Mết-si-a, và là kết quả của sự hiện diện của Thánh Linh Đức Chúa Trời.
1:8—9:18 MƯỜI BA BÀI HỌC VỀ KHÔN
NGOAN
Mỗi bài học chỉ trừ bài cuối cùng
đều mở đầu bằng lời gọi ‘hỡi con’ của chính nàng Khôn Ngoan. Đây là những lời của
bậc thầy dạy dỗ môn đệ mình.
1:8–33 Bài thứ nhất
1:8–19 Tránh xa bạn bè xấu. Khuyên dạy môn đệ hãy
theo những lời giáo huấn nhận được từ cha mẹ hồi còn nhỏ.
1:20–33 Lời kêu gọi của Khôn Ngoan không được lưu
tâm. Trong những phần nầy, sự khôn ngoan
được nhân cách hóa. Sự khôn ngoan bắt nguồn từ sự kính sợ Đức Chúa Trời kêu gọi
mọi người cùng học hỏi, nhưng đại đa số nhân loại không chịu nghe, dầu rằng làm vậy họ chỉ rước lấy hư hại đau
khổ cho chính mình. Điều nầy nhắc ta nhớ đến các vị tiên tri kêu gọi dân
Is-ra-en hãy ‘tìm kiếm Đức Giê-hô-va và được sống’ nhưng lúc nào cũng đụng đầu
với thái độ ngoan cố thiếu hiểu biết. Thật ra, trong đoạn nầy có nhiều điều phản
chiếu sự dạy dỗ của Ô-sê, Ê-sai và Giê-rê-mi.
2:1–22 Bài thứ hai
2:1–9 Tìm kiếm sự khôn ngoan để được tưởng thưởng Phần nầy nhấn mạnh ba điều: (1) sự khôn ngoan
đòi hỏi phải năng nổ tìm kiếm (c. 1-5), (2) dầu vậy đó là ơn ban của Đức Chúa
Trời, không phải do cố gắng của con người (c. 6), (3) Đức Chúa Trời trông nom
những người lãnh nhận và giữ gìn họ trong thánh ý Ngài (c. 7-9). Những nguyên tắc
nêu ra ở đây có hàm ý trong điềm chiêm bao của Sa-lô-môn ở Ghi-bê-a (I Vua 3:
5-15), và được Phaolô minh thị ra trong Philip 2: 12, 13.
2:10–22 Vài phúc lợi của khôn ngoan. Người có sự khôn
ngoan sẽ được bảo vệ khỏi con đường tà và có thể giữ nếp sống ngay thật đạo đức.
3:1–10 Bài thứ ba
Chủ đề của bài nầy là ‘tin cậy và
vâng phục’. Tuân theo lời dạy của thầy là chìa khóa để được sống trường thọ và
an lành. Sống lâu trên đất thường được Cựu Ước xem là một điều đại hạnh; tuân
giữ những nguyên tắc nền tảng của cuộc sống ngay thật sẽ giúp con người tránh
được bẩy dò, hầm hố nguy hại trong đời sống. Chủ đề đó được quảng diễn trong c.
4-10. Phần dưới trình bày nội dung của giáo huấn đem sự sống cho con người mà
câu 1 đã đề cập.
3:11–20 Bài thứ tư
Chủ đề của phần nầy là niềm hoan
lạc có được sự khôn ngoan, quảng diễn thêm chủ đề trên bài thứ ba là giáo huấn
đem lại phần thưởng phong phú.
Mở đầu là lời cảnh cáo rằng Đức Chúa Trời yêu thương có thể đưa thịnh
vượng cũng như nghịch cảnh đến cho con cái Ngài. Tiếp theo, nó mô tả những phứơc
lành cho những ai có được sự khôn ngoan,
và cuối cùng cho thấy địa vị của khôn ngoan trước mặt Đức Chúa Trời.
3:21–35 Bài thứ năm
Chúng ta đã quan sát trên trời,
bây giờ đi xuống mặt đất. Chính sự khôn ngoan mà Đức Chúa Trời đã dùng để tạo dựng và duy trì vũ trụ cũng rất hệ trọng
trong tương quan giữa người với người trong cuộc sống hằng ngày. Có sự khôn
ngoan lành mạnh và biết phân biệt chủ đích
sẽ đem lại sự sống, sức khỏe và sự bình an.
4:1–9 Bài thứ sáu
Phần nầy có một ít tự truyện. Tâm
can nung nấu niềm ước muốn cho học trò mình được lành mạnh về đạo đức cũng như
tâm linh, vị giáo sư kể lại những lời răn dạy khôn ngoan của cha mình, mà chính
kinh nghiệm đời ông đã xác chứng, hầu thúc đẩy họ sớm tìm kiếm ‘sự khôn ngoan từ
trên cao’.
4:10–19 Bài thứ bảy
Chủ đề là ‘Ghê tởm những gì gian
ác’. Một lần nữa, giáo sư mở đầu bằng lời khuyên khẩn thiết kêu gọi các môn đệ
hãy chịu dạy dỗ và giữ lấy những bài học họ đã học được.
4:20–27 Bài thứ tám
Chủ đề là ‘Bám lấy những gì thiện
lành’. Thêm một lời kêu gọi hãy để ý những lời dạy ban sự sống của thầy (c.
20-22), tiếp theo là lời kêu gọi hãy giữ tấm lòng (c. 23), lời nói (c. 24), đôi
mắt (c. 25) và bàn chân (c. 26, 27) trong con đường dẫn đến sự sống.
5:1–23 Bài thứ chín
Chủ đề là sự khôn ngoan áp dụng
cho mối quan hệ nam nữ. Sau khi kêu gọi hãy để ý kỹ lời ông (c. 1, 2), vị giáo
sư tiếp tục mô tả người đàn bà lẳng lơ và cách quyến rũ của chị ta (c. 3-6),
khuyên hãy tránh xa chị ta (c. 7, 8), cảnh cáo tai họa cho người mắc mưu chị ta
(c. 9-14), kêu gọi hãy nuôi dưỡng tình yêu thánh thiện (c. 15-19) và nhắc nhở rằng
Đức Chúa Trời luôn theo dõi (c. 20-23).
6:1–19 Bài thứ mười
Bài nầy căn cứ trên nguyên tắc đã
nêu lên trong 5:22. Ba ví dụ được nêu
ra, kèm theo là bản liệt kê bảy tội chết.
6:1–5 Bảo lãnh nợ.
Luật pháp Is-ra-en hạn chế sự cho vay và cấn nợ. Khi giao thương phát triển,
việc vay mượn và lãnh nợ cũng phát triển theo. Lãnh nợ là nhận trách nhiệm về
món nợ của người khác. Theo Kidner, ở đây tác giả chỉ chống đối hành động thiếu
thận trọng chớ không chống đối tinh thần
hào hiệp.
6:6–11 Kẻ lười biếng
6:12–19 Người của Bê-li-an. Đây là nguyên ngữ của từ
ngữ ‘kẻ vô loại’. Chữ nầy thường được Cựu Ước dùng để chỉ kẻ gian ác. Phao-lô
dùng để chỉ Sa-tan (II Cô 6:15).
Liên hệ tới người Bê-li-an là bảy
tội chết mà Đức Chúa Trời gớm ghét.
6:20–35 Bài thứ mười một
Chủ đề là điều răn thứ bảy. Phần
đầu nói về sự hướng dẫn của giáo huấn lành mạnh (c. 20-23), tiếp theo là những
lời cảnh cáo nghiêm nghị đối với tội tà dâm (c. 24-25).
7:1–27 Bài thứ mười hai
Chủ đề cũng là nguy cơ của sự tà
dâm. Trước hết là lời khuyên nên tuân giữ những lời khuyên của cha là đường sự
sống (c. 1-5). Tiếp theo là câu chuyện sống động về chàng trai bị sa bẩy người
đàn bà lăng loàn (c. 6-23). Câu 24-27 chỉ ra cốt lõi luân lý của bài học.
8:1–36 Bài thứ mười ba
Sau lời giới thiệu vắn tắt của
giáo sư (c. 1-3), là lời lẽ của chính sự khôn ngoan được nhân cách hóa. Trái với
người đàn bà lẳng lơ, mồi chài quyến rũ ở bài học trước, ở đây sự khôn ngoan
lên tiếng dõng dạc nơi công cọng kêu gọi người ta tiếp nhận và công bố kho tàng
phần thưởng của nàng (c. 4-21). Câu 22-31 đề cập đến vai trò của sự khôn ngoan
trong công cuộc sáng tạo, tiếp theo là lời khuyên hãy giữ lời nàng (c. 32-36).
Ngay từ những thế kỷ đâu
tiên, Hội Thánh đã đem sự khôn ngoan được
nhân cách hóa áp dụng cho Chúa Giê-su. Sứ đồ Phao-lô, Giăng và tác giả Hê-bơ-rơ
đều nhìn thấy hình ảnh đó được trọn vẹn nơi “Đấng Christ là quyền năng của Đức
Chúa Trời và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời” (I Cô 1:24). Chính Chúa chúng ta
cũng nói đến sự khôn ngoan được nhân cách hóa của Đức Chúa Trời ( Lu 11:49),
khi Ngài nói về các vị tiên tri, sứ đồ là những cái loa của sự khôn ngoan của Đức
Chúa Trời, luôn bị người đời ghét bỏ.
8:1–21 Sự khôn ngoan giữa loài người
8:22–36 Sự khôn ngoan với Đức Chúa Trời
9:1–18 Tóm lược mừơi ba bài học
Những đề tài chính từ 1: - 8: được
tóm tắt trong bức tranh mô tả sự khôn ngoan và ngu dại đều mời người tới dự tiệc.
9:1–12 Bảy cột trụ của sự khôn ngoan
9:13–18 Bữa tiệc của sự ngu dại (được nhân cách hóa
trong cô kỹ nữ)
10:1—22:16 SÁCH SA-LÔ-MÔN, QUYỂN
THƯỢNG
Những bài học trên kia mở đầu cho
phần sưu tập những câu cách ngôn rời rạc. Tập nầy là tập dài hơn hết trong các
tập, gồm 374 câu châm ngôn, nói là của Sa-lô-môn. Ta không có cách nào để biết
chắc là của Sa-lô-môn, của một người trong triều, hay của một người thời sau.
Nhưng con số ghi trong I Vua 4:32 cho ta biết việc sưu tập đã thực hiện dưới thời
ông, và đây có lẽ là một trong những tập ấy.
Mỗi câu châm ngôn đều gồm hai
dòng đối ứng nhau. Mới trông, cách sắp đặt
có vẻ tuỳ tiện nhưng thật ra cũng có sự cố ý tập trung những câu cùng đề tài
hay cùng nguyên tắc vào chung một nhóm;
hoặc có những chữ hay câu lặp để kết nối những câu châm ngôn khác đề. Tuy
nhiên, những câu châm ngôn được nói ra vào những thời kỳ khác nhau và ít khi
chúng có liên hệ với nhau. Những đầu đề ghi chú chỉ có tính cách đại khái để tiện
dụng thôi.
10:1–32 Phần thưởng của cuộc sống ngay thật và sai
trái
11:1–31 Vài khía cạnh của sự gian ác
Làm ăn gian trá; kiêu căng dẫn tới
sụp ngã; xuyên tạc của kẻ phản trắc; của cải không đem theo được; đời như cuộc
đua vượt chướng ngại; hậu quả của ước muốn xấu xa; kẻ ác thình lình mất hết an
ninh; những lời lẽ phá hoại; hậu quả của ngay thật và gian tà; cái dại của thái độ khĩnh khi; người thèo lẽo;
thiếu lời khuyên; cái hại của lãnh nợ; cái lợi của người đàn bà duyên dáng và
người đàn ông mạnh bạo; mùa gặt của đời sống; cái đẹp chóng tàn; dục vọng và
thành đạt; nỗi khổ của tham tiền; tìm kiếm sai đường và tin cậy sai chỗ; nỗi
nóng; vô luật và đền trả.
12:1–28 Những hành vi tương phản
Phản ứng với kỷ luật; căn cội con
người; hai hạng vợ; tư tưởng, lời nói và số phận của kẻ ác; được tiếng tốt là
nhờ có ý thức; đại nhân thật sự; hạng người mà súc vật cũng thích làm việc cho;
siêng năng và luời nhác; gian ác và ngay thật; hậu quả của lời nói; lời khuyên
dạy; điều cần bỏ qua; lời xấu và tốt; dự liệu hay, dở; tự phản bội; kêt quả của siêng năng và lười biếng; lo âu
và thiện cảm; người giúp đỡ và người cản trở; phần thưởng của người siêng năng;
hai con đường.
13:1–25 Đời sống và kỷ luật
Khôn ngoan và mỉa mai; lời nói thuần
hậu; thỏa lòng; nói thật; giàu và nghèo; ánh sáng lu mờ; kết quả của hỗn láo;
được nhanh, mất nhanh; hi vọng chậm đến; giữ điều răn; người có ý thức; sứ giả
xấu và tốt; chê bai chỉ trích; được điều
nguyện ước; khôn và dại đều dễ lây; phần thưởng tới kỳ; giáo dục; thỏa mãn và bất
mãn.
14:1–35 Cuộc sống kính sợ Chúa
Xây nhà; bước đi ngay thẳng; hậu
quả của lời nói; lời chứng thật và dối; tìm kiếm sự khôn ngoan; công ty không
sinh lợi; hành vi phân biệt; cô đơn tột
cùng; nơi ở vĩnh viễn; bảng chỉ đường sai; niềm vui nào cũng vương khổ lụy; đền
bù; nhẹ dạ và sắc bén; nhạy giận; cái hại của dại khờ; phần thắng cuối cùng;
láng giềng; làm xấu và tốt; làm việc và thèo lẽo; trang sức của khôn ngoan và
điên dại; chứng thật và dối; kính sợ
Chúa; vua và dân; bình tĩnh; bóc lột kẻ nghèo; vinh quang của dân tộc; đầy tớ
hiền và dữ.
15:1–33 Đi trên nẻo sự sống với tấm lòng vui mừng
Câu trả lời êm dịu và lời nói cay
độc; lời nói có trách nhiệm; Đức Chúa Trời theo dõi; nói ra và nhận vào; thâu
trữ kho tàng; tin kính; điều Đức Chúa Trời
yêu và ghét; chẳng có chỗ giấu kín; cay độc không hẳn là bạo dạn; vui và buồn;
nuôi tâm trí thế nào nó sẽ lớn lên thế ấy; yến tiệc của tấm lòng vui; ước vọng
trong đời; sự giận; đường thẳng là đường
ngắn; cha con; Chúa là bạn người góa bụa;
hối lộ; Đức Chúa Trời ở bao xa?; mùi vị
của tin mừng; chịu dạy dỗ.
16:1–33 Chúa theo dõi cuộc sống con người
Đức Chúa Trời tể trị mọi sự; kiêu
căng, trung thành; hậu quả của sự đẹp lòng Chúa; ít quí hơn nhiều; chỗ của vua;
chỗ của người buôn bán; quyền lực của vua; khôn ngoan đáng giá; đi trên đại lộ;
kiêu căng và khiêm nhường; khôn ngoan dễ chịu; đường vào cõi chết; động cơ của
kẻ hạ lưu; hành động tai hại; người đáng kính; tự chủ; Đức Chúa Trời định kết
quả.
17:1–28 Nhà cửa, bạn bè và những kẻ dại dột
Một nhà bình an; có thể bỏ đặc
quyền; Đấng luyện lọc; vu khống và ác tâm; niềm vui của ba thế hệ; nói năng bất
xứng; hối lộ; giải hòa và chia rẻ; phê bình thấm thía; nỗi loạn, ngu dại, xâu
xé; bất công; bạn lúc cần; lãnh nợ; đầu óc vặn vẹo; lưỡi cong queo; nỗi buồn do
ngu xuẩn gây ra; niềm vui; sửa đường cho
ngay; tội trước tòa; im lặng là vàng.
18:1–24 Hiểm nguy và phước lành
Kẻ ích kỷ; người ngu diễu lượn; bạn
đồng hành; nguồn khôn ngoan; công lý chết yểu; miệng luỡi bừa bãi; kẻ chây lười
tai hại; tháp vững chắc và tường lung lay; hợm hĩnh, khiêm nhu và vội vã; mất
tinh thần; tâm trí vững mạnh; biết cách cho tặng; nghe cả hai phía; cái lưỡi –
nguồn an lạc và khí giới giết người; nguời vợ tốt; giàu và nghèo; tình bạn thật.
19:1–29 Các phẩm hạnh
Nghèo chính trực và giàu vô lại;
tính toán và vội vã; oán hận Đức Chúa Trời; quyền lực của đồng tiền; trừng phạt
kẻ chứng dối; khéo lo thân; quyền trong tay kẻ bất xứng; cái khôn của rộng lượng;
không bì đuợc với vua; phước và họa trong nhà; luời nhác; giữ điều răn; cho nguời
nghèo là cho Đức Giê-hô-va vay mượn; dạy con; giận không kềm chế; đầu tư cho
tương lai; Đức Chúa Trời tể trị; trung thành với giao ước; kính sợ Đức Chúa Trời;
quở trách có hiệu lực; thiếu tình nghĩa tự nhiên; chú vào lẽ thật; trừng phạt kẻ
dại.
20:1–30 Những vấn đề thực tế
Nhậu nhẹt; cơn giận của vua;
tránh cãi cọ; không làm khỏi ăn; sáng suốt trong tâm; trung thành thật sự; phước
lành sau khi chết; phẩm tính tốt của kẻ trị dân; ai cũng có tội; mua bán gian dối
là điều ghê tởm; hành động bộc lộ chân tính; công dụng của thân thể do Đức Chúa
Trời làm ra; giá trị của tri thức; lãnh nợ; mùi vị sau cùng của thành công bất
xứng; nghe lời bàn luận; thèo lẽo; kẻ vô tình nghĩa; đừng trả ác; sự tể trị
thiên thượng; lời thề nguyện vội vã; ngọn đèn của Đức Giê-hô-va; căn bản của
ngôi vua; trẻ già đều đáng quí; hình phạt có hiệu quả.
21:1–31 Đức Chúa Trời hành động
Đấng cai trị các vua chúa; Đức
Chúa Trời cân nhắc tấm lòng; điều Đức Chúa Trời muốn; kiêu căng; cần mẫn; lợi bất
chánh; quét sạch kẻ ác; lối gian tà; bà vợ lắm điều; bất nhân; bài học kỷ luật;
kẻ ác bị diệt; nỗi thống khổ của kẻ nghèo; năng lực của lễ vật; công lý không
làm hài lòng mọi người; xa hoa dẫn tới nghèo khổ; kho tàng và tài năng của người
khôn; tự chủ; ước muốn và hào hiệp; hành đạo đáng tởm của kẻ ác; làm chứng; lì
lợm; Đức Chúa Trời tể trị.
22:1–16 Luật nhân quả trong địa hạt tâm linh
Danh tiếng; nguồn gốc chung của
con người; thận trọng; phần thưởng của Đức Chúa Trời; cái bẩy; giáo dục; năng lực
của túi tiền; gặt hái điều bất công; hào phóng; tác giả của bất hòa; thanh liêm
và hòa nhã; con mắt của Đức Giê-hô-va; kẻ luời viện cớ; kẻ gian dâm; nền kinh tế
áp bức.
22:17—24:22 SÁCH CỦA NGƯỜI KHÔN
NGOAN
Những câu phương ngôn trong sách
nầy liên kết với nhau chặt chẽ hơn trong sách trước. Có nhiều câu tương tự những
câu phương ngôn của nhà hiền triết Ai-cập Amenemope. Nó cũng có ba mươi phân đoạn
như sách Amenemope, nhưng sách của Amenemope
sắp đặt thứ tự chặt chẽ hơn.
22:17–21 Chức năng của châm ngôn
Vị thầy kêu gọi học trò chú ý những
câu phương ngôn mà thầy đã rút ra để dạy nguời (c. 17), hãy lấy những lời đó
làm một phần của mình (c. 18), mục đích của những lời đó là đưa đến niềm tin
trong Đức Giê-hô-va (c. 19). Và hãy tăng cường những thông hiểu về chân lý để
được ích lợi cho người khác (c. 21).
22:22—23:11 Những điều cần tránh
Một số nguyên tắc khôn ngoan cần
lưu ý để tránh khỏi phạm phải: Thứ nhất, bóc lột kẻ nghèo, những kẻ được Đức
Giê-hô-va bênh vực (22: 22,23). Thứ hai, để cơn nóng giận xâm nhập (c. 24, 25),
thứ ba là lãnh nợ; và thứ tư là xâm phạm biên giới (c. 28); tiếp theo là nhận
xét về kẻ siêng năng được thăng tiến (c. 29).
Vị thầy khôn ngoan tiếp tục dạy về
cử chỉ nơi bàn ăn (23:1-3), và cảnh cáo về tinh thần ngoi lên trong xã hội (c.
4,5), và hình ảnh nực cười về gả hạ tiện ở nhà (c. 6-8). Nói chuyện với kẻ ngu
là vô ích (c.9); cuối cùng nhắc lại lời cảnh cáo đừng xâm phạm quyền lợi kẻ
cùng khốn, vì họ có một Đấng Giải Cứu rất quyền phép để bênh vực họ (c. 10,11).
23:12–15 Những điều nên tìm kiếm
Phần nầy lại mở đầu bằng lời kêu
gọi chú ý. Kỷ luật áp dụng từ khi còn rất nhỏ sẽ cứu trẻ em khỏi bị hại trong
tương lai (c. 13,14); thấy trò khôn ngoan, thầy sẽ rất vui mừng (c. 15, 16);
người kính sợ Đức Chúa Trời sẽ không thấy có gì đáng thèm muốn nơi những kẻ không
kính sợ Đức Chúa Trời (c. 17): hi vọng người là ở trong tương lai (c. 18). Niềm
hoan lạc của kẻ ăn chơi chỉ là ảo ảnh (c. 19-21). Nhắc lại ‘điều răn có kèm lời
hứa’ (c. 22): con trai hiền đức khôn ngoan sẽ nhận được lời hứa đó.
23:26—24:2 Bẫy lưới trên đường đi
Lời kêu gọi lại được lặp lại (c.
26), vị giáo sư cảnh cáo coi chừng kỹ nữ và nguời đàn bà lẳng lơ (c. 27, 28);
rượu chè, hoan lạc, suy nhược, nản lòng; mất năng lực, nghiện ngập (c. 29 -
35); không có gì đáng mong để được nhập bọn với kẻ gian ác (24: 1, 2).
24:3–22 Khác biệt giữa khôn ngoan và ngu dại
So sánh kẻ khôn ngoan với sự xây
nhà, liên kết khôn ngoan với súc mạnh. Kẻ ngu có lúc sẽ tỏ ra hèn kém trước mọi
người. Nguời khôn bênh vực kẻ bị áp bức, nếu bỏ qua bổn phận đó, Đức Chúa Trời
sẽ biết. Khôn ngoan ich lợi trong hiện tại cũng như tương lai: người công bình
dù ngã vẫn đứng vững trở lại còn kẻ ác sẽ sụp đổ hẳn, vì cơn giận của Đức Chúa
Trời.
24:23–34 SƯU TẬP NHỮNG LỜI NÓI CỦA NGƯỜI KHÔN NGOAN
Đầu đề (c. 23a); xét xử thiên vị
là đáng tởm (c. 23b-26); cần phải tính phí tổn và chuẩn bị vật liệu trước khi bắt
đầu công việc (c. 27); nên tránh vụ kiện tụng vô bằng (c. 28,29); lặp lại 6:
6-11 về kẻ lười với lời cảnh cáo.
25:1—29:7 SÁCH SA-LÔ-MÔN, QUYỂN HẠ
25:2–28 Những giáo huấn đối chiếu
Đức Chúa Trời và vua; kiện tụng
và tình người; nguời thế nào, lời nói thể ấy; được tiếng rộng rãi; quá nhiều của
ngọt; ở lại quá lâu; cây sậy gãy; vui đùa quá trớn; làm ơn cho kẻ thù; vu khống;
người vợ lắm lời; tin lành từ xứ xa; thỏa hiệp; nhiều mật quá; tự chủ.
26:1–12 Quyển sách của người dại
Danh dự không xứng kẻ dại; rủa sả
vô cớ; làm sao đối phó với người dại?; có trả lời người dại không?; mối hại
dùng người dại; triết gia rởm; người dại
không phục thiện; khoe khoang là quá dại.
26:13–16 Quyển sách của kẻ chây lười
Viện cớ để khỏi làm; kẻ chây luời
lờ đờ; điểm cuối cùng của luời biếng; khôn ngoan của kẻ luời.
26:17–28 Quyển sách của bọn hạ tiện
Làm chuyện cắc cớ; đùa dai; kẻ
nhen tranh cãi; người thèo lẽo; kẻ đạo đức giả; kẻ nói dối và nịnh hót.
27:1–27 Nhận xét về tương quan giữa người với người
Khoe về ngày mai; tự khoe chẳng
được gì; đừng chọc kẻ ngu; ghen ghét; thẳng thắn; có và thèm muốn; kẻ lưu lạc;
tình bạn; học trò là chứng tích cho thầy; cẩn thận; lãnh nợ; ân cần quá hóa bực
mình; vợ lắm điều; giao du làm phát triển trí tuệ và tâm tính; phần thưởng;
gương phản chiếu tâm trí; lòng tham không đáy; tiếng khen thử người; ngu bất trị;
nguời chăn bầy.
28:1–28 Tôn giáo tinh tuyền
Lương tâm tạo ra kẻ hèn nhát lẫn
can đảm; đất nước ổn định; áp bức; luật pháp bảo vệ con nguời; chỉ kẻ công bình
mới hiểu công lý; nghèo ngay thật; niềm hãnh dịên và nỗi tủi nhục của ông cha;
cho vay nặng lãi; lời cầu nguyện gớm ghiếc; số phận kẻ làm bại hoại; sự tin tưởng
lầm lạc của kẻ giàu; thái độ đối với kẻ chiến thắng; ăn năn; niềm vui của sự
kính sợ Đức Chúa Trời; kẻ cai trị bất xứng; tội đổ huyết; thanh liêm được an
toàn; quả của siêng năng; cách làm giàu nhanh; quan án thối nát; thẳng thắn; đứa
con ngang ngược; tin cậy hơn than lam; bước đi cách khôn ngoan; cho và giữ; tai
họa của dân tộc.
29:1–27 Đức Chúa Trời và xã hội
Kết cục của ngoan cố; điều làm
cho sung sướng; đứa con hoang đàng; công lý dấu ấn của kẻ cai trị; dua nịnh; lối
đi bẩy dò; quyền lợi nguời nghèo; kẻ chế nhạo thiêu cháy; kẻ hùng hổ; bạo lực nhắm
kẻ vô tội; tự chế; khuyến khích lừa dối; nguồn gốc chung con nguời; công lý cho
kẻ nghèo; sửa chữa; kẻ ác cầm quyền; mặc khải hướng dẫn dân chúng; vội vã; kiêu
căng và khiêm nhường; sợ người, tin cậy Đức Chúa Trời; ân huệ của vua, công lý
từ Đức Chúa Trời; người xấu kẻ tốt đều gớm ghiếc nhau.
30:1–33 LỜI CỦA VUA AGURƠ
30:1–4 Hiểu biết về Đức Chúa Trời
Vua A-gu-rơ mong ước được biết về
Đức Chúa Trời và nhìn nhận mình hoàn toàn ngu dốt cũng như cả loài nguời. Ông
suy tưởng về những lực lượng bao la của vũ trụ.
30: 5, 6 Lời Đức Chúa Trời
30: 7-9 Một lời cầu nguyện
30: 10 Một câu phương ngôn biệt lập
30:11-14 Bốn biểu hiện của sự kiêu căng
30: 15, 16 Những thứ không hề thỏa mãn
30: 17 Đứa con ngỗ ngược
30: 18-20 Bốn điều kỳ diệu
30: 21-23 Bốn điều khó chấp nhận
30: 24-28 Bốn vật nhỏ mà khôn
30: 29-31 Bốn vật uy vệ
30: 32, 33 Lời khuyên chót
31: 1 - 9 LỜI CỦA LÊ-MU-ÊN
Lê-mu-ên là ‘con của sự khấn nguyện’
nghĩa là nhờ sự khấn nguyện mà có ông, giống như Sa-mu-ên vậy.
31: 10 - 31 PHỤ LỤC:
NGƯỜI VỢ TÀI ĐỨC
Đây là một bài thơ theo mẫu tự,
câu đầu viết sau mẫu tự đầu và những câu sau viết theo hai mươi mốt mẫu tự kế
tiếp của Do-thái. Bài thơ chắc không phải của Lê-mu-ên mà là của một tác giả vô
danh phụ lục cho quyển sách. Nó tôn vinh vai trò phụ nữ, và nhấn mạnh tầm quan
trọng của sự dạy dỗ của mẹ. Đây cũng là hình ảnh đáng chú ý của người đàn bà
trong xã hội Do-thái: được chồng tin cậy và không phụ lòng tin ấy; siêng năng,
khôn khéo, quán xuyến mọi việc (c. 16), nhắm vào lợi ích của gia đình, đồng thời
vẫn tỏ ra rộng rãi, độ lượng (c. 20) và là người thầy trung tín, khôn ngoan (c.
26). Quyển sách kết thúc với lời ca ngợi
(c. 29) của chồng con người nữ tài đức, nhờ bà mà họ được sống no đủ, tiện
nghi, được tiếng tốt (c. 23) và hiểu biết Đức Chúa Trời.
Câu hỏi
thảo luận:
1. Hãy so sánh câu “Nhứt là vợ dại trong nhà,
thứ hai nhà dột, thứ ba nợ đòi” với Châm Ngôn 12:4 và luận về vai trò người vợ
trong gia đình.
2. Căn cứ vào Châm Ngôn 11:15, bạn có nên bảo
lãnh người tị nạn hay không? Tại sao?
3. Bạn hãy tìm một đề mục cho Châm Ngôn
11:24-26 và so sánh nó với câu Chúa Giê-su dạy trong Công Vụ 20:35 và những câu
tương tự trong Tân Ước.
CHƯƠNG 9
NHÃ CA
Nhã ca có một vị trí đặc biệt
trong Kinh Thánh. Đây là một bài ca hay
bài thơ mang chủ đề tình yêu nam nữ. Khác với những quyển sách khác trong Kinh
Thánh, Nhã Ca không hề nhắc tới quan hệ giữa con người với Thiên Chúa. Toàn bộ
quyển sách nói lên tình yêu nồng nhiệt của lứa đôi. Qua đôi mắt yêu đương, tất
cả những cái gì của đối tượng, kể cả vóc dáng, thân thể của người yêu đều ngời
lên vẻ đẹp rực rỡ của hoa cỏ đồng nội. Tình yêu của con người, ngay cả khi bao
hàm dục tính trong đó cũng mang tính cách thiêng liêng và là ơn lành của Đức
Chúa Trời cho cuộc sống. Bao nhiêu đó cũng đủ là lý do để cho Nhã Ca được kinh
điển hóa rồi, huống hồ bài ca nầy còn nói lên được tình yêu tuyệt đẹp và cao
quý giữa Đức Chúa Trời và dân Ngài, giữa Đấng Cứu thế và những kẻ được Ngài cứu
chuộc.
I. TÁC GIẢ
Nhã ca trong tiếng Việt có nghĩa
là “bài ca tao nhã, đẹp nhẹ nhàng”. Thật ra nguyên nghĩa của nó là “Bài ca của
những bài ca” hay là “Đệ nhất ca”. Bản tiếng Việt dịch câu 1 của chương 1 là
“Nhã ca của các bài ca mà Sa lô môn đã làm”. Theo nguyên ngữ Do thái câu đó là
“của Sa lô môn”, không nhất thiết là do Sa-lô-môn làm, mà cũng có nghĩa là “về
Sa-lô-môn” nữa. Nếu chấp nhận nội dung theo giả thuyết “người chăn cừu” như dưới
đây, thì nghĩa thứ hai có phần đúng hơn. Tuy nhiên dù tác giả là ai đi nữa, thì
giá trị của quyển sách cũng không hề thay đổi.
II. NỘI DUNG
Trải qua nhiều thế kỷ, có nhiều
chủ trương khác nhau về chủ đích và nội dung của tác phẩm. Tuy nhiên, khi đọc kỹ
quyển sách và suy luận ở nhiều khía cạnh khác nhau, thì giả thuyết “người chăn
cừu” có vẻ hợp lý hơn cả.
Theo giả thuyết nầy thì toàn thể
bài thơ là câu chuyện tình giữa một chàng chăn chiên và một cô gái quê tuyệt sắc
người Su-la-mít. Đôi trai gái yêu nhau tha thiết bằng một mối tình mộc mạc
trong trắng. Nhưng nửa chừng, người con gái bị thuộc hạ vua Sa-lô-môn đưa vào
cung để làm phi tần cho vua. Sống giữa cung điện lộng lẫy xa hoa, lòng người
con gái vẫn luôn luôn khắc khoải tưởng nhớ người yêu. Cuối cùng chàng trai tìm
đến và cùng với người con gái bỏ trốn về quê, nơi đó đôi uyên ương được tái hợp
và mối tình nồng cháy, diễm lệ đã phóng
vào thi ca cũng như tâm linh, một tiếng thơ trác tuyệt vang vọng mãi đến ngàn đời
sau không bao giờ chấm dứt.
Toàn thể tác phẩm là một bản kịch
thơ dài, gồm những lời đối thoại, độc thoại và mô tả, mà nhân vật chính là người
thiếu nữ Su-la-mít và người yêu của
nàng, một chàng trai mục tử, cùng với những nhân vật phụ là vua và những cung nữ,
những hầu cận của vua, những người trong gia tộc của nàng, giữa những khung cảnh
núi đồi đồng quê, đầy hương sắc cũng như cung điện vương giả tráng lệ.
Sách Nhã Ca trong bản Kinh Thánh
Việt Ngữ Cadman (do Phan Khôi và Trần Văn Dõng dịch) giả định đây là những lời
yêu đương chỉ gồm giữa nhà vua và cô con gái, nhưng nếu phân tích kỹ ta sẽ thấy
nhiều nhân vật khác nữa.
Bản Kinh Thánh Diễn Ý của Mục sư
Lê Hoàng Phu đã dịch Nhã Ca thành thể thơ lục bát rất văn hoa và trữ tình, đồng
thời cũng vượt được cách phân chia đơn điệu của Living Bible (ấn bản 1971) mà
đưa vào những hoạt cảnh sống động hơn.
III. DIỄN TIẾN
Ở đây ta khó có thể lập được một
bố cục minh bạch. Vì vậy, dựa theo giả thuyết ‘người chăn cừu’, ta cố gắng tạm
sắp xếp diễn tiến toàn bài thơ như sau đây.
1:1. Đề mục tập thơ
1:1-4. Nàng thôn nữ Su-la-mít ở trong hậu cung tâm
trí không ngớt nghĩ đến người tình ngoài ngàn dặm :
Ước gì chính môi miệng chàng hôn
ta, Vì tình anh còn say đắm hơn cả rượu nồng (1:2) (Ở đây, đại danh từ chuyển từ
ngôi thứ ba sang ngôi thứ hai, một cung cách thông dụng trong ngôn ngữ Do
thái). Rồi từ thương nhớ chuyển sang ước mong được cùng chạy đi với người yêu.
Tiếp theo đó là lời tán tụng về sức hấp dẫn của người yêu đối với phái nữ.
Từ câu 5-8 là đối thoại giữa thiếu
nữ và các cung phi của vua. Các cung phi quan sát người thôn nữ mới được tiến
cung với những cặp mắt soi mói, nàng thẹn thùng bào chữa cho nước da sạm nắng.
Thiếu nữ liên tưởng đến người yêu, nàng tha thiết gọi
vọng về phương trời xa:
Hỡi người em yêu, hãy cho em biết
anh chăn bầy ở đâu,
Trưa nay anh cho cừu nghỉ ở nơi
nào?
Tại sao em lại phải như người đàn
bà che mạng đi (lang thang kiếm) bên những bầy cừu của bạn anh? (1:7)
Nghe giọng điệu si tình của thiếu
nữ, các cung phi mĩa mai, ám chỉ xuất thân thấp hèn của cô gái:
Nầy Hoa Hậu, nếu cô không biết
thì hãy theo dấu bầy cừu (mà tìm), và mang bầy dê nhỏ của cô ra cho chúng ăn cỏ
bên cạnh lều của đám chăn cừu đi (1:8)
1:9-15. Qua một cảnh khác, thiếu
nữ được đưa trình diện vua trong y trang lộng lẫy. Nhà vua để ý tới sắc đẹp của
người thôn nữ, ca ngợi nàng:
Nầy em yêu dấu, ta thấy em (rực rỡ)
giống như con ngựa cái của ta khi buộc vào xa giá của vua Pha-ra-ôn (1:9)
Đôi má em thật đẹp bên đôi hoa
tai, cổ em thật xinh trong chiếc vòng trân châu (1:10)
(Chúng) ta sẽ làm cho em đôi hoa
tai vàng có cẩn bạc (1:11). Có lẽ vua nói lời trên trong khi ngồi bàn ăn với
thiếu nữ, trên bàn có lẽ chưng bày những chùm hoa thơm.
1:16 – 2:7. Lời tán tụng của
vua nhắc nàng nhớ tới người yêu, nhớ tới
khung cảnh thơ mộng của mối tình đầu, mối tình trong sáng giản dị giữa vùng đồi
núi đồng quê:
Anh yêu của em ơi, anh đẹp trai lắm!
dễ thương vô cùng! Giường chúng ta là thảm cỏ xanh (1:16)
Sườn nhà chúng ta là những cây
hương nam, Rui kèo là những cây thông (1:17)
Anh là hoa tường vi của Sa-rôn,
(một loại hoa tulip ở vùng đồi núi Sy-ri) là hoa huệ trong trũng (2:1)
Người yêu tôi giữa đám con trai cũng
như cây táo giữa rừng cây hoang vậy. Tôi sung sướng ngồi dưới bóng mát của
chàng và nếm trái ngọt ngào của chàng
(2:3).
Chàng đem tôi vào căn nhà yêu thương (trong nguyên ngữ là “nhà
rượu” có nghĩa là “nhà yến tiệc” hay “nhà yêu thương”. Đối chiếu với đoạn dưới
thì nghĩa sau thích hợp hơn) và giăng lên tôi lá cờ của tình yêu (2:4).
Dùng bánh nho làm tôi lại sức, và
bồi dưỡng tôi bằng trái táo, vì tôi mắc bệnh tương tư. (2:5)
Tới đây, nàng quay qua gọi các
cung phi khác, có thể là chính Sa lô môn kêu gọi (Bản Kinh Thánh tiếng Pháp
Louis Segond) hoặc cũng có thể là tiếng vọng của chàng mục tử:
Hỡi các cô gái Giê ru sa lem, tôi
van nài các cô. Bằng bầy dê rừng và bằng bầy nai cái. Đừng khuấy động và đánh
thức tình yêu trước khi nó muốn. (2:7)
Trong cung điện xa hoa, lòng người
thiếu nữ không bao giờ ngớt tưởng nhớ người yêu. Hình ảnh người yêu choán ngập
tâm tư nàng. Ngay cả khi đối diện với vua hay các cô gái khác, nàng chỉ thấy và
nói một điều duy nhất: người yêu, và tình yêu của chàng.
Từ 2:8 – 3:5, khung cảnh chuyển
qua những vùng núi đồi miền quê với hình ảnh chàng trai tự do, linh hoạt giữa
hương đồng cỏ nội. Tại căn nhà nơi cố hương đã có lần người con gái mất dấu người
yêu, và hớt hải đi tìm chàng cho bằng được ngay cả giữa đêm.
Chữ “ban đêm” ở 3:1, nguyên ngữ
là số nhiều, bản Revised English Bible dịch là “đêm này qua đêm khác”. Do đó,
Balchin nghĩ rằng có thể thiếu nữ đã kể lại giấc mơ của mình trong lúc đang sống
giữa hoàng cung. (John A. Balchin - Erdmans Bible Commentary)
2:11-15 là những câu thơ tuyệt
tác đặt tình yêu vào bối cảnh rực rỡ của
mùa xuân. Còn gì thích hợp cho bằng? Mùa xuân, Mùa của tuổi trẻ, của hy vọng, của
dòng sống linh hoạt trào dâng để đổi mới vũ trụ và phục hưng con người. Phải
chăng niềm ước mong của người tín đồ của Chúa là được ra khỏi chuỗi ngày lạnh
giá trong mối tương giao với Chúa để bước vào mùa xuân rực rỡ tin yêu, đón nhận nhựa sống tuôn đổ từ
Thần Linh thiên thượng, để được hưng phấn và dõng dạc tiến về một mùa xuân bất
tận của thiên đàng? Không lạ gì khúc Kinh thánh này được rất nhiều người ưa thích giảng dạy.
3:6-11 mô tả cuộc diễn hành xa
giá của Sa lô môn. Những nghi vệ triều đình và trang hoàng xa hoa lộng lẫy của
kiệu vua thật đối chọi hẳn với cuộc sống phóng khoáng, giản dị giữa thiên nhiên
của chàng trai mục tử.
Chương 4 là cả một bài tình ca,
tán dương sắc đẹp của người thiếu nữ và bày tỏ tình yêu đối với nàng.
Khúc đầu 4:1-7 dựa vào một bài
dân ca của Sy ri cho đến bây giờ vẫn còn dùng vào các dịp đám cưới. Phần sau
4:8 – 5:1, cũng là lời tán tụng cô dâu, nhưng trong bối cảnh vùng quê Li-ban.
Ở đây, lời lẽ mô tả hình ảnh thân
thể của người con gái, đối với một số nguời Việt nam có thể là sống sượng hay
quá táo bạo, vì vậy dịch giả bản Việt ngữ đã dùng chữ ‘nương long” để chỉ đôi
nhũ hoa, hầu hết độc giả nếu không tìm hiểu chắc không thể biết là nghĩa gì.
Nhưng chúng ta nên nhớ rằng Thượng đế Toàn Thiện, cũng là Thượng đế của Chân và
Mỹ. Đối với Ngài, những gì được sinh ra dưới trời là tốt đẹp, không có gì là xấu
xa. Chính những tư tưởng tà ác, ham muốn, chiếm đoạt của người khiến cho sự vật
tự nhiên, chân thật, đẹp đẽ của cõi thiên nhiên trở thành méo mó, lệch lạc,
đáng ghét.
Từ 5:2 – 6:3, ta lại chứng kiến một
mất mát và một cuộc tìm kiếm nữa. Giữa đêm khuya, chàng mục tử đầu đẫm sương đến
gõ cửa nhà nàng. Nàng chần chờ ngần ngại phải thay áo và bước xuống đất lấm
chân, cuối cùng đi ra mở cửa thì chàng đã quay lưng đi mất. Nàng vội vàng chạy
ra đường phố tìm chàng, vi phạm giờ giới nghiêm và bị lính tuần đánh đập thương
tích.
Những vết thương đó là chứng tích
của thử thách trắc nghiệm đối với tình yêu. Đó là dấu ấn không phai của mối
tình đã ngự trên ngôi độc tôn trong lòng người thiếu nữ. Những lời lẽ mô tả của
người yêu dấu sau đó (5:10-16) vẫn thường được dùng để giảng về Chúa Giê-xu
trong lòng người tin.
“Chúng ta yêu vì Chúa đã yêu
chúng ta trước” (I Giăng 4:19). Chính Chúa đã đi tìm chúng ta, không phải chúng
ta đi tìm Ngài. Chính chúng ta từ khước Chúa, chứ Ngài không bao giờ khước từ
chúng ta. Chỉ khi lạc mất Ngài, chúng ta mới thấy đời sống thật vô nghĩa. Khi
cuộc sống bị bầm dập, đọa đầy, linh hồn chúng ta mới càng thấy rõ về vẻ đẹp của
Chúa. Lúc đó, tình yêu mới thật sự trưởng thành.
Từ 6:4 – 8:4, trở lại cảnh hoàng
cung với những lời khen tặng của vua đối với thiếu nữ, lời kêu gọi của cung nữ
và những lời độc thoại của thiếu nữ gởi đến người yêu. Một lần nữa cung điện lộng
lẫy và những lời ngọt ngào quyến rũ vẫn không lay chuyển được lòng nàng.
Cuối cùng 8:5-14 là cuộc tái ngộ
giữa đôi bạn yêu đương tại nơi chôn nhau cắt rốn, nơi căn nhà của mẹ, nơi có đứa
em tới tuổi cập kê, nơi có vườn nho vua Sa-lô-môn cho mướn. Nhưng vườn nho của
thiếu nữ (thân thể nàng, cuộc đời nàng, trái tim nàng) không phải là cái gì có
thể trao đổi bằng tiền bạc. “Nếu có ai đề nghị đưa cả tài sản để đổi lấy tình
yêu, tất sẽ bị chê cười” (8:7b). Tình yêu quả thật “mạnh như sự chết” (8:6)!
Những dẫn giải trên đây theo chiều
hướng giả thuyết “chàng mục tử” tuy cũng có nơi có vẻ gượng ép, nhưng vẫn hợp
lý hơn là chỉ có Sa-lô-môn trong vị trí của chàng trai.
Rất có thể đây là những vần thi
ca riêng biệt được soạn cho những đôi
trai gái thuộc những tầng lớp khác nhau đọc và diễn đối đáp trong ngày cưới của
họ, đã được Sa-lô-môn sưu tập và thêm vào đó những sáng tác của ông. Cuối cùng vì cách mô tả tình yêu tuyệt diệu của
nó, đã được dân Chúa kinh điển hóa để cho thấy tình yêu giữa Chúa và dân Ngài.
IV. SUY CẢM
Tình yêu là nguồn cảm hứng cho
thi ca và nghệ thuật của mọi dân tộc. Khi đưa vào bình diện tâm linh, nó đem những
cảm xúc rạo rực của sự thu hút lứa đôi lên đỉnh cao của Chân Thiện Mỹ, nơi con
người tìm thấy chính mình như chiếc tàu lênh đênh bị núi nam châm của Tình Yêu
Vĩnh Cửu hút về cõi vô biên. Dưới đây là một số cảm nghĩ hướng lên chiều cao ấy
của tâm hồn khi những dòng thơ trữ tình của Nhã Ca được đọc bằng nhãn quan của
người đi tìm chân lý.
NỤ HÔN ĐẦU ĐỜI
(Đọc Nhã Ca 1:1-5)
“Nguyện chàng hôn tôi bằng cái
hôn của miệng chàng, vì ái tình chàng ngon hơn rượu” (Nhã Ca 1:2).
Nhã Ca, Bài Ca của Mọi Bài Ca, một
áng thơ diễn tả tình yêu lứa đôi, đã được kinh điển hóa, mặc dù trong suốt tập
thơ, chỉ nhắc đến tên Đức Chúa Trời có một lần, mà không đả động gì đến luật
pháp, sự thờ phượng, lời tiên tri, hay bất cứ một điều gì có tính cách tôn giáo
thiêng liêng. Ta học được điều gì ở
đây? Phải chăng Thánh Linh muốn dạy
chúng ta rằng khi tình yêu chân thật ngự trị trên quan hệ giữa người và người,
thì đó chính là tôn giáo, là tín điều, là tất cả những gì Thượng Đế mong muốn
nhìn thấy nơi con người. Tình yêu tự nó
là thiêng liêng, không cần phải nhân danh bất cứ một điều gì, khi nó thuần khiết,
không bị ô nhiễm bởi dục vọng hay tư kỷ của con người. Điều đó thật ra không có gì lạ, bởi vì tình
yêu chính là bản thể của Thượng Đế (I Giăng 4:16).
Điều thứ hai ta thấy được, là khi
dân thánh đưa những lời đối đáp của đôi trai gái, tương tự những câu hò dân
gian Việt Nam vào hàng ngũ Thánh Kinh, họ đã tôn vinh nhân sinh, giống như Chúa
Cứu Thế, khi Ngài làm tuôn tràn rượu ngon cho thực khách được hả hê trong bữa
tiệc cưới tại Ca-na. Những lời tình tự của đôi trai gái, những tiếng cười đùa
trong một bữa tiệc, là những cái gì rất trần tục, rất con người; nhưng khi được
nhìn dưới một nhãn quan tâm linh, nó trở thành cái gì rất thiêng liêng, rất trời! Ta sẽ phạm lỗi lầm tai hại nếu ta tách rời
tin kính khỏi cuộc đời, nếu ta “thánh hóa” đến độ xem những sinh hoạt ngoài xã
hội như là của thế gian sa đọa, nếu ta đặt các giá trị văn hóa dân tộc và con
người đối chọi với niềm tin của mình.
Đạo chân chính là nhận thấy được
sự thiêng liêng trong điều trần tục.
Chính vì vậy mà Nhã Ca mở đầu với nụ hôn đắm đuối của tình yêu đầu đời. Kinh Thánh ưa dùng hình ảnh chồng và vợ,
chàng rễ và cô dâu, chàng trai và người yêu, để diễn tả tình yêu của Thượng Đế
và dân Ngài. Có tình yêu nào mà không bắt
đầu bằng một cái hôn? Cái hôn làm rung
chuyển cả tâm tư, tình cảm, cái hôn khai mở cả một khung trời mới cho người được
yêu.
Quan hệ giữa bạn và Chúa đã có một
bắt đầu như thế chưa? Bạïn có bao giờ cảm
nhận được nỗi chấn động của linh hồn khi bạn tiếp xúc với tình yêu Thượng Đế? Bạn có cảm thấy tình yêu Chúa làm bạn say sưa
như uống cạn ly rượu nồng, thấy cả thế giới xung quanh như bừng sinh khí, linh
hoạt hẳn lên, vui tươi hẳn lên? Nếu
chưa, đây là lúc bạn cần ngồi lại kiểm điểm, đánh giá lại mối tương quan giữa bạn
với Chúa. Cho đến chừng bạn có thể
nói: “Người hãy kéo tôi theo với, chúng
ta cùng chạy tới ...” (1:4)
DƯỚI MẮT NGƯỜI YÊU
(Đọc Nhã Ca 1:5-17)
“Hỡi bạn tình ta, mình thanh lịch
thay, mình thanh lịch thay” (1:15)
Tình yêu thật là chủ quan và cũng
thật là bao dung. Tình yêu thăng hoa con
người và thăng hoa đời sống. Người con
gái Su-la-mít làm vườn, nước da sạm nắng, nhễ nhại mồ hôi, dưới mắt người yêu,
không khác gì vương hậu của Vua Sa-lô-môn, y phục lộng lẫy, sực nức hương thơm
(1:6-12).
Trước khi đi lang thang tìm kiếm tình yêu với
tâm trạng bồn chồn, người con gái nhận ra mình đã bị mặt trời làm nám đen,
trong khi mãi lo vườn nho nào khác mà chính vườn nho mình lại không màng chăm
sóc đến (1:6).
Đó là tâm trạng của Thánh
Augustin khi ông viết quyển Xưng Tội (Confession). Suốt những năm tháng thanh xuân ông đã trau
giồi văn chương, biện thuyết và đã sớm trở thành một giáo sư danh tiếng. Nhưng trong lúc đó, ông lại xao lãng vườn nho
của bản thân mình, linh hồn của ông. Ông
đã ăn chơi trác táng, cho thỏa thích tuổi xuân.
Nhưng tâm hồn ông vẫn luôn bất an, cho đến khi bởi lời cầu nguyện của bà
mẹ đạo hạnh Monique, ông gặp được Chúa và tìm được nguồn an bình. Ông đã viết lên lời cầu nguyện sám hối: “Lạy Đức Chúa Trời, vì loài người chúng con
được dựng nên cho Ngài, cho nên chúng con cứ luôn khắc khoải bất an cho đến chừng
linh hồn chúng con được an nghỉ trong Ngài.”
“Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ gặp.” Ai chân thành tìm kiếm Chúa, chắn chắn sẽ được
gặp Ngài, sẽ tìm được tình yêu của Ngài.
Tình yêu của Chúa tiếp nhận toàn thể con người của bạn, kể cả những bất
toàn khiếm khuyết của bạn. Tình yêu đó
nhìn thấy cái đẹp của linh hồn bạn, mặc dù bạn đã từng lăn lóc giữa đời, đã từng
bị những tia nắng dục vọng thiêu đốt, làm thui chột vẻ đẹp thanh tân của con
người hồn nhiên nơi bạn.
Tình yêu Chúa tôn vinh bạn, đưa bạn
lên hàng vương giả. Đó là tình yêu linh
hóa, thánh hóa bạn, dù bạn có như thế nào.
Đó là tình yêu bạn đáng bỏ mọi sự để tìm kiếm.
MÙA ĐÔNG ĐÃ QUA
(Đọc Nhã Ca 2:)
“Kìa, mùa đông đã qua; mưa đã dứt
hết rồi” (2:11).
Cuộc gặp gỡ giữa ta và Chúa Cứu
Thế luôn luôn đưa nhận thức ta lên chiều kích tâm linh mới mẻ. Khi tình yêu Chúa kéo bạn đến với Ngài, bạn sẽ
thấy Ngài nổi bật, rực rỡ như những đóa hoa tường vi giữa đồng bằng Sa-rôn, như
những cánh hoa huệ vươn cao giữa ngàn cỏ xanh trong trũng. Ngược lại, Ngài cũng thấy bạn như bông hoa huệ
nỏn nà nở ra giữa gai gốc, mặc dù tự bản chất, bạn, tôi, hay bất cứ một người
nào trên trần gian nầy đều chỉ là gai gốc cả.
Chính Chúa đã đưa bạn lên địa vị
đó. Ngài đưa bạn từ những chuỗi ngày
lang thang tìm kiếm, bước vào phòng yến tiệc, và bạn rung động khi ngọn cờ tình
yêu của Ngài bắt đầu phấp phới trên cuộc đời bạn (2:4). Bạn tìm được nơi nương tựa, nghỉ ngơi, trong
cánh tay bảo bọc của Ngài. Tại đây, linh
hồn nao sờn của bạn được hưng phấn, tâm trí mòn mỏi của bạn được bồi bổ. Chúa phục hồi và kiện toàn con người bạn bằng
lương thực của cõi trời. Niềm khát khao
của bạn được thỏa đáp. Nỗi trống vắng cô
đơn của linh hồn đi hoang nay trở về được lấp đầy bởi sự hiện diện êm ả nhưng đầy
quyền năng của Ngài (2:5-6). Bạn thích
thú được “ngồi dưới bóng Người” và tận hưởng những giây phút thiêng liêng ngọt
ngào mà vua Đa-vít đã mô tả trong Thi Thiên 23 trứ danh (2:3).
Bạn được nghe tiếng Người lanh lảnh
vang qua đồi núi, vọng vào khung cửa hồn bạn, dù bạn đang say ngủ hay thu mình
trong những mối bận tâm riêng tư (2:9).
Xung quanh bạn, bóng tối vẫn bao trùm.
Dường như băng giá vẫn chưa tan,
cây cỏ vẫn còn ủ rủ, úa vàng. Nhưng Người
đã đến, đánh thức bạn dậy bằng những tiếng gọi âu yếm, chan chứa yêu
đương. Người đã đến, mang cho bạn một
thông điệp hi vọng. Người muốn bạn bước
vào một thực tại mới mẻ huy hoàng: “Kìa
mùa đông đã qua, mùa đã dứt hết rồi”
(2:10-17).Bạn hãy vùng dậy, bước ra với Người. Bạn sẽ thấy Người đang hiền từ chăn bầy, và với
Người, hừng đông đã ló dạng và bóng tối đã tan đi (2:16,17). Bạn sẽ chứng kiến một mùa xuân mới với ngàn
hoa khoe sắc thắm, với chim chóc líu lo rộn rã tiếng hát yêu đời (2:11-12).
Hãy vùng dậy tận hưởng mùa xuân
Ngài đem đến cho bạn. Hãy vùng dậy để cảm
thấy sức sống mới tràn dâng trong bạn.
Hãy để cho những trái xanh tươi đơm kết nơi tâm linh bạn và bạn sẽ dâng
lên Ngài những trái chín mọng thơm tho của đời bạn (2:13). Nhưng hãy coi chừng những con chồn nhỏ, những
thói hư tật xấu, có thể phá hỏng cả mùa xuân thắm tươi của bạn (2:15).
GẶP NGƯỜI YÊU DẤU
(Đọc Nhã Ca 3:)
“Tôi gặp người mà lòng tôi yêu mến,
bèn nắm lấy người không khứng buông ra” (3:4)
Trắc nghiệm của tình yêu là những
khoảng cách không gian. Tình yêu chân
chính không thể nào chịu được sự chia cắt.
Chính vì vậy mà bạn sẽ luôn luôn ở trên hành trình tìm kiếm. Trước kia bạn tìm kiếm Chúa, vì chỉ có tình
yêu Ngài mới lâáp đầy được nỗi trống vắng trong linh hồn bạn. Nhưng khi bạn thuộc về Ngài rồi, nếu tình yêu
Chúa đang thật sự thống ngự linh hồn bạn, bạn sẽ còn khát khao Ngài nhiều hơn,
mong muốn được gần gủi Ngài nhiều hơn, và bạn sẽ cứ tiếp tục tìm kiếm
Ngài. Có đêm, người nữ Su-la-mít choàng
tỉnh dậy, thấy vắng bóng người yêu, nàng chổi dậy đi rảo khắp phố phường tìm kiếm. Giữa đêm thanh vắng, nàng chẳng biết hỏi thăm
ai ngoài toán tuần tra đường phố, nhưng họ chẳng giúp gì nàng được. May thay, cuối cùng nàng đã gặp mặt người
yêu. Cuối cùng, công lao tìm kiếm của
nàng đã được tưởng thưởng. Nàng nhất định
nắm chặt lấy người yêu, không chịu buông ra nữa, cho đến khi đưa được chàng về
đến căn nhà của nàng (3:1-4).
Bạn có bao giờ sực tỉnh dậy giữa
một cuộc mãi mê đeo đuổi mộng ước riêng tư để chợt thấy rằng mình đã xa Chúa mất
rồi. Ngài đã vắng bóng trong cuộc đời bạn,
trong dự ước toan tính của bạn. Nếu bạn
vẫn còn trân quí mối tình giữa bạn và Chúa, nếu bạn thấy chỉ Chúa mới đem ý nghĩa
thật sự cho đời sống bạn, thì đừng chần chờ gì nữa, hãy bắt đầu một hành trình
mới, một cuộc tìm kiếm mới, cho đến khi được gặp lại Ngài.
Xa giá nghi vệ, võng lọng xênh
xang của Vua Sa-lô-môn đã không lay chuyển được tấm lòng người thôn nữ
Su-la-mít (3:7-11), vì nàng đã hiến dâng trọn vẹn trái tim cho chàng trai chăn
chiên. Sự xuất hiện của chàng, trước mắt
nàng, uy nghi như một dõng sĩ từ đồng vắng bước ra, thơm tho tinh khiết như làn
khói bốc lên từ bàn thờ xông hương (3:6), chẳng gì có thể chia cách được một
tình yêu như vậy.
TRONG VƯỜN ĐỊA ĐÀNG
(Đọc Nhã Ca 4:1 - 5:1)
“Hỡi gió bắc, hãy nổi dậy; hỡi gió nam, hãy thổi đến; hãy thổi trong vườn
tôi hầu cho các mùi thơm nó bay ra” (4:16).
Phao lô nói với Hội Thánh
Cô-rin-tô rằng: “Tôi dâng anh em như một
nàng trinh nữ trong trắng cho Chúa Cứu Thế” (I Cô 13:2). Hội Thánh Cô-rin-tô đầy lỗi lầm bất toàn còn
được Đức Chúa Trời tiếp nhận như thế thì còn ai mà không dám hi vọng? Điều đó
khiến chúng ta hiểu tại sao bài hát “Amazing Grace” (Hồng Ân Lạ Lùng) từng được
hàng triệu người trên thế giới say mê, ca hát với những giọt nước mắt biết ơn.
Trong khúc sách nầy, người thiếu
nữ Su-la-mít được người yêu mô tả bằng lối ví von tượng hình, với một tình cảm
sôi nổi, như thể bị tình yêu che mờ không thấy được thực tại. Chúa không phải không biết đến những yếu đuối
vấp phạm của dân Ngài, nhưng tình yêu Ngài bao trùm toàn thể con người bạn
trong màu xanh tươi mát của hồng ân Ngài, Ngài nhìn qua lăng kính của hồng ân
đó và kêu lên rằng: “Hỡi bạn tình ta,
mình vốn xinh đẹp mọi bề, nơi mình chẳng có tì vết chi cả.” Bạn được xưng tụng như vậy, không phải vì bạn
xứng đáng, nhưng vì một điều mà Chúa cho là quí hơn hết nơi bạn: Tình Yêu.
Chúa trân trọng tình yêu bạn, thưởng thức tình yêu bạn, một khi bạn đến
với Ngài bằng tấm chân tình: “Hỡi em gái
ta, tân phụ ta ơi! Ái tình mình đẹp là
dường nào. Ái tình mình ngon hơn rượu” (4:10).
Một cuộc đời khi được giao hòa với
Chúa trong tin yêu, sẽ là vườn địa đàng (3:13)
Ngôi vườn đó có mạch nước sống tuôn tràn (3:15), như lời Chúa nói: “Kẻ nào tin Ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy
từ trong lòng mình” (Giăng 7:38). Vườn đó sẽ là nơi ương trồng nuôi dưỡng những
hoa thơm quả ngọt để dành cho Người Yêu thưởng thức (4:16b, 5:1, Galati
5:22). Hãy gọi gió bắc đến, hãy kêu gió
nam lại, hãy nhờ những cánh gió mang hương thơm của vườn lòng đời bạn mà tung
đi bốn phương (4:16). “Tạ ơn Đức Chúa Trời,
Ngài làm cho chúng tôi được thắng luôn luôn, và bởi chúng tôi, Ngài rải mùi
thơm về sự nhận biết Ngài khắp chốn!” (II Cô-rin-tô 2:14).
ĐI TÌM NGƯỜI THƯƠNG
(Đọc Nhã Ca 5:2 -6:3)
“Miệng người rất êm dịu; thật, toàn thể cách người đáng yêu đương.”
5:16
Đến đây ta lại chứng kiến một cuộc
tìm kiếm mới.
Chỉ khi nào bạn đánh mất điều
mình đang có, bạn mới thấy nó là quí. Biết
bao nhiêu người đã hi sinh để khôi phục tự do, độc lập khi quốc gia dân tộc họ
đánh mất những thứ đó. Tình yêu cũng vậy, một khi đã mất đi, muốn tìm lại, bạn
phải trả giá, có khi là một giá rất đắt.
“Đói lòng ăn nửa trái sim, uống lưng bát nước đi tìm người thương.” Khi người thương đã vắng mặt, người đi tìm phải
bỏ công lao lặn lội, quên cả đói khát. Vậy
mà nhiều lúc vì thờ ơ người ta đã đánh mất tình yêu.
Đó là tâm trạng của thiếu nữ
Su-la-mít khi người yêu tìm đến giữa canh khuya, gõ cửa đợi chờ dưới sương
đêm. Trong khi tiếng kêu gọi thiết tha của
người yêu vang lên bên ngoài, người thiếu nữ phân vân vì còn đang quyến luyến với
chăn êm nệm ấm, thì người yêu đã bỏ đi (5:2-6).
Hình ảnh nầy khiến ta liên tưởng đến Hội Thánh Lao-đi-xê, một Hội Thánh
hâm hẩm trong những bức thư tiên tri của sách Khải Huyền. Sau khi khuyên trách tinh thần ỷ lại vật chất
và thờ ơ nguội lạnh của họ, Chúa kêu gọi họ:
“Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu
ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người
và người với ta” (Khải huyền 3:20). Tình yêu không thể hâm hẩm, tình yêu không có
tính toán. Một trái tim nguội lạnh không
thể giữ được tình yêu. Tình yêu khi bị lọc
qua đầu óc tính toán, nó sẽ không còn nữa.
Chúa muốn chúng ta yêu Ngài bằng trái tim nóng bỏng, bằng thái độ tự
nhiên ngây thơ của một em bé. Nếu bạn đang hài lòng với những tiện nghi ấm cúng của
riêng mình, và đang ngần ngừ lựa chọn giữa Chúa và địa vị hiện tại của mình,
thì hãy coi chừng. Có thể là Chúa không
còn ở đó với bạn nữa đâu. Khi ấy bạn mới
nhận thức được nỗi mất mát lớn lao của mình.
Chính vì vậy mà người nữ
Su-la-mít đã vùng dậy, rời bỏ chỗ nằm ấm cúng, thơm tho, để xông pha vào đêm tối,
đi ra các đường phố tối tăm, gồ ghề, bẩu thỉu, tìm cho được người yêu, bất chấp
cả giờ giới nghiêm, đến nỗi đã bị lính tuần đánh đập thương tích (5:6-8).
Bạn vẫn còn cơ hội, nếu thật sự
Chúa vẫn giữ một địa vị tôn quí trong tâm tưởng bạn, nếu đối với bạn, Ngài vẫn
là “đệ nhất trong muôn người” (5:10), nếu bạn vẫn cảm biết “toàn thể cách Người
thật đáng yêu đương” (5:16).
“Vậy hãy sốt sắng lên và ăn năn
đi” (Khải 3:19). Đó là tiếng gọi bạn dấn thân
vào con đường tìm kiếm phục hưng. Trên con đường đó, có thể bạn gặp trở
lực, có thể bạn sẽ phải mang thương tích, (cũng chẳng sao, đó chỉ là một đoạn
đường nhỏ của thập tự giá!) Nhưng rồi bạn sẽ thấy mình được đền bù xứng đáng: một
cuộc trùng phùng với Chúa trong niềm vui mới, bạn sẽ được hưởng giây phút thần
tiên trong tình yêu tràn đầy, khi bạn có thể tuyên bố với cả vũ trụ rằng: “Tôi
thuộc về Người Yêu tôi, và Người Yêu tôi thuộc về tôi” (6:3).
NGƯỜI TÌNH RẠNG RỠ
(Đọc Nhã Ca 6:4 - 7:9)
“Người nữ nầy là ai, hiện ra như
rạng đông, đẹp như mặt trăng, tinh sạch như mặt trời, đáng sợ (uy dũng) khác
nào đạo quân dương cờ xí” (6:10).
Cả khúc sách nầy mô tả vẻ kiều diễm
của cô dâu, vừa lặp lại ý của chương 4, vừa tán dương cô dâu bằng những hình ảnh
linh hoạt của thiên nhiên, kết hợp với vẻ đẹp tinh xảo của những nghệ phẩm quí
giá ở chốn hoàng cung.
Mặc dầu thiếu nữ được mô tả từ đầu
xuống thân, rồi lại từ bàn chân lên đến đỉnh đầu, nhưng những hình ảnh ví sánh
thật trong sáng, không gợi lên những liên tưởng nhục thể, khiến ta nghĩ tác giả
muốn vượt lên khỏi tình yêu eros giữa đôi trai gái để chỉ hướng về tình yêu
agape, thứ tình yêu cao cả giữa Đức Chúa Trời và con người.
Khi thánh Giăng trên đảo Bát-mô
được thiên sứ chỉ cho thấy người vợ mới cưới của Chiên Con, ông đã nhìn thấy
thành thánh Giê-ru-sa-lem từ trên trời xuống “rực rỡ vinh hiển của Đức Chúa Trời”
(Khải 21:11). Cùng đích công cuộc sáng tạo của Thượng Đế là hình thành một nhân
loại mới có thể chiếu toả vinh hiển của Ngài, thay thế cho cái nhân loại đã
đánh mất vinh quang Ngài vì sa ngã, nghịch mạng Ngài. Nhân loại mới ấy là Hội
Thánh, là những kẻ được chuộc bởi Chiên Con, cũng là ý trung nhân của Ngài.
Tình yêu agape của Chúa đã trang
điểm và làm tôn cao vẻ đẹp của Hội Thánh. Nhưng đó không phải là sự diễm lệ bên
ngoài mà là vẻ đẹp thuần khiết vì được tẩy sạch con nguời bề trong.
Chúa khiến Hội Thánh Ngài xuất hiện
giữa thế giới rạng rỡ như bình minh. Vinh quang từ nơi Tân Nương Ngài đập vào mắt
những người chứng kiến khiến họ không thể nào không thưởng thức và trầm trồ
khen ngợi. Hội Thánh chân chính xuất hiện phải mang lại cho người đời một bình
minh mới. Nếu Hội Thánh không thể đem sức sống mới cho thế giới, không thể mang
lạc quan tin yêu đến cho người đời, thì
Hội Thánh đã thất bại trong sứ mạng mình (6:10a).
Trong bóng đêm, Hội Thánh là vầng
trăng sáng đẹp, chiếu rọi ánh sáng dịu dàng cho người đi trong đêm tối, là tiếng
nói cho khách lữ hành: “Nầy là đường đây, hãy noi theo” (Ê-sai 30:21).
Giữa ban ngày, Hội Thánh là mặt
trời chói rạng với ánh sáng tinh khiết của bản thể đã được thanh lọc. Hội Thánh
là người vợ đã được chồng yêu quí làm cho “nên thánh sau khi lấy nước rửa và
dùng Đạo làm cho tinh sạch, đặng tỏ ra Hội Thánh đầy vinh hiển, không vết, không nhăn, không chi giống như vậy, nhưng
thánh sạch không chỗ trách được trước mặt Ngài” (Ê-phê-sô 5:26,27).
Một Hội Thánh toàn bích như vậy sẽ
không bao giờ phải lùi bước mà sẽ uy dũng như một đạo quân phất cao ngọn cờ quyết
tiến (6:10c).
DẤU ẤN CỦA TÌNH YÊU
(Đọc Nhã Ca 7:9b - 8:14)
“Hãy để tôi như một cái ấn trong
lòng chàng, như một cái ấn trên cánh tay chàng, vì ái tình mạnh như sự chết.”
8:6
Đối với thiếu nữ Su-la-mit, những
công việc đồng áng nặng nhọc vẫn có thể chan chứa hương vị ái tình. Nàng mong mỏi
được cùng sánh vai với chàng đi về đồng quê để sớm mai cùng thức dậy đi ra xem
xét cây cối trong vườn. Và trong khung cảnh vừa thơ mộng vừa thực tế đó, nàng sẽ
tỏ tình yêu cùng chàng. Nàng sẽ hái những trái ngon để dành nơi cửa, để khi
chàng đi làm về mệt nhọc sẽ có ngay để bồi dưỡng. (7:10-13). Nàng ước ao mối
tình đã được chính thức hoá để nàng có thể công khai hôn chàng và đưa chàng về
nhà mẹ mình để chàng dạy dỗ mình và để mình chăm sóc cho chàng, và để cả hai được
gần gủi nhau, âu yếm nhau (8:1-4).
Nhưng tình yêu thế nào rồi cũng
có lúc phải về vớùi thực tế, với ruộng vườn, với căn nhà của mẹ, nơi những sinh
hoạt thường ngày diễn ra. Đây có phải là cái lò sưởi ấm tình yêu, hay là ao nước
pha loãng tình yêu? Biết bao mối tình đã trở thành phai lạt nhàm chán khi trải
qua những chuỗi ngày đều đặn với những hoạt động không thay đổi! Có bí quyết gì
để giữ cho tình yêu luôn luôn tươi mới?
Tình yêu sẽ có sức mạnh tồn tại
khi hình ảnh người yêu gắn chặt trong tâm tưởng như dấu ấn của một mối tình. Dấu
ấn đóng trong trái tim. Dấu ấn đóng trên cánh tay. Cho cả linh hồn lẫn thể xác,
cả bề trong lẫn bề ngoài. Một tình yêu như vậy sẽ không có một trở lực nào ngăn
cản nỗi, sẽ không sợ bất cứ một đe doạ nào, sẽ không thể nào tan rã dù phải đối
diện với giông tố, lũ lụt. Cả hai sẽ mãi mãi là một thể bất khả phân ly. Một
tình yêu như vậy chứng tỏ nó có mãnh lực không thua gì sự chết, vì khi ấy chỉ
có cái chết mới phân cách được họ (8:6,7).
Bài Ca Tình Yêu không có đoạn kết.
Có dự kiến ương mầm tình yêu cho tương lai, giúp cho thế hệ sắp tới chuẩn bị
đón nhận ngọn gió bất ngờ của tình yêu (8:8-10). Có sự trở về với “vườn nho của
riêng mình”, vì đã nhận chân được giá trị của nó, vì rằng dù được làm việc cho
vườn nho của vua đi nữa, nếu đem hết sức lực ra làm cũng chỉ huởng một phần nhỏ
hoa lợi thôi, còn bao nhiêu đều thuộc phần vua (8:11,12). Có chăm sóc bón tưới
cho khu vườn hồn của mình, thì tình yêu chân thật mới có thể nở hoa. Nơi khu vườn
nầy có âm vang của tiếng gọi tình yêu, của một khởi đầu và tiếp diễn của tình
yêu. Nhưng không có kết thúc. Vì tình yêu chân chính, dù là của Thượng Đế hay của
con người, đều không có kết thúc!
Câu hỏi thảo luận
1. Bạn thử dựa vào bản dịch truyền thống Kinh Thánh Việt Ngữ tìm một bố cục cho
sách Nhã Ca, và phân tích những điểm phù hợp hay mâu thuẩn theo cách thuật của
bản dịch nầy
2. Hãy dựa vào Nhã Ca 2:10-17 mà bình luận về
tương quan giữa mùa xuân với tình yêu cũng như Nước Trời (Khải 21:3,4; 22:1-4)
3. Bạn hãy thử dựa vào Nhã Ca 6:3 mà viết về
mối liên hệ giữa bạn và Chúa (Có thể làm thơ hay tùy bút)
CHƯƠNG 10
CA THƯƠNG
I. ĐỀ MỤC
Đề mục của sách nầy trong bản Bảy
Mươi là “Những Bài Ai Ca Của Giê-rê-mi”. Còn trong trong bản Talmud và các sách
vở Ra-bi thì chỉ gọi là “Ai-ca”, hay là “Làm sao?” một chữ thường dùng ở đầu
câu trong tiếng Do-thái.
II. VỊ TRÍ CỦA SÁCH
Bản Bảy Mươi đặt sách nầy ngay
sau sách tiên tri Giê-rê-mi, giống như bản Kinh Thánh ta hiện dùng. Trong bộ
Kinh Thánh Do-thái, nó không nằm trong phần tiên tri, mà nằm giữa năm cuốn Sách
Lễ (Megilloth – Five Festival Rolls), theo sau ba quyển thi ca Thi Thiên, Gióp,
và Châm Ngôn. Các Sách Lễ đó nằm trong bộ “Văn Thơ” (Writings), bộ thứ ba trong
chánh kinh (canon) Do-thái. Vào mỗi ngày đại lễ trong năm, người ta đọc một quyển
trong bộ Megilloth. Sách Ca Thương được đọc vào ngày thứ chín của tháng Ab (khoảng
giữa tháng bảy), kỷ niệm ngày Nê-bu-cat-nêt-sa vua Ba-by-lôn phá hủy Đền Thờ.
III. TÁC GIẢ VÀ NIÊN ĐẠI
Truyền khẩu cho rằng Giê-rê-mi là
người sáng tác tập thơ nầy. Bản Bảy Mươi, trong phần giới thiệu về đề mục và vị
trí của sách Ca Thương, đã ghi như sau: “Xảy ra sau khi dân Is-ra-en bị dẫn đi
làm phu tù, và thành Giê-ru-sa-lem trở nên hoang vu, thì Giê-rê-mi ngồi xuống
khóc lóc than vãn về Giê-ru-sa-lem rằng…” Bản Syriac Targum và kinh Talmud cũng
xác nhận rằng “Giê-rê-mi viết các sách của ông là Các Vua và Ca Thương”. II Sử
ký 35:25 có nói đến những bài ai ca của vị tiên tri khi vua Giô-sia qua đời, và
cũng có ghi rằng những bài đó được chép thành sách, và lập thành lệ trong
Is-ra-en; cũng xem Ca thương 2:6; 4:20. Tuy nhiên sách Ca Thương chú vào sự tàn
phá của một thành phố hơn là cái chết của một vị vua, và Ca 4:20 chắc hẳn là
nói về vua Xê-đê-kia mặc dù vua không xứng đáng. Tuy nhiên, cho rằng Giê-rê-mi,
vị tiên tri khóc lóc (xem Giêr. 9:1; 14:17-22; 15:10-18), cũng là tác giả sách
Ca Thương, là một điều có thể chấp nhận được, nếu không vấp phải vài lấn cấn
như sau: văn thể sách nầy trau chuốt tỉ mỉ hơn Giê-rê-mi; chương 2 và 4 giống
Ê-xê-chi-ên hơn; chương 3 gợi lại Thi Thiên 119 và 143; thái độ đối với lực lượng
ngoại bang ghi nhận trong 4:17 ắt hẳn không phải là thái độ “hợp tác” của
Giê-rê-mi và không phản ảnh kinh nghiệm của Giê-rê-mi.
Vì vậy, nhiều người cho rằng tác
giả là một người trẻ hơn và đồng thời với Giê-rê-mi, cũng đã chứng kiến những
hoạn nạn khổ đau đổ ập xuống Giê-ru-sa-lem khi ập xuống Giê-ru-sa-lem khi giả
quan tâm đến số phận của trẻ em, xem 2:11, 12, 19, 20; 4:4, 10) vào khoảng năm
580 TC, sau đó đã thêm vào, có lẽ từ nhiều nguồn khác nhau, bài ai ca dân tộc
trong chương 1, bài ai ca cá nhân trong chương 3, và lời cầu nguyện trong
chương 5. Niên đại của sách nầy có lẽ vào khoảng 540 TC. Một số người định niên
đại trễ hơn nhiều, cho rằng sách nầy nói đến lần Antiochus Epiphanes vây
Giê-ru-sa-lem vào năm 170-168 TC, hay còn cho là cuộc bao vây của Pompei vào
năm 63 SC, nhưng chuyện đó khó có thể được. Điều khiến ta thiên về quan điểm
truyền thống là giọng điệu tuyệt vọng của cả sách gợi cho ta thời kỳ trước khi
Sy-ru vua Ba-tư lên ngôi. Một điều nữa là thời kỳ nầy trong lịch sử Ba-by-lôn sản
sinh rất nhiều ai điếu khóc các thành phố bị sụp đổ. Những tài liệu chữ hình
nêm nói đến rất nhiều ‘con gái thành …’ than khóc cho số phận mình (xem 2:1).
Có lẽ người Do-thái đã vay mượn kỹ thuật đó trong khi bị lưu đày.
IV. CẤU TRÚC
Nếu để ý nguyên văn sẽ thấy ngay
rằng trong mỗi chương có 22 câu, tương ứng với số và thứ tự những chữ cái trong
bộ mẫu tự Do-thái, ngoại trừ chương 3 có 66 câu, mỗi chữ có 3 câu thay vì 1 như
những chương kia. Có người cho rằng cách
sắp xếp các mẫu tự liên tiếp như thế là để tỏ ý rằng ‘Is-ra-en đã phạm tội từ
aleph tới tau’ như người ta nói từ A đến Z trong tiếng Anh, cũng như cách sắp xếp
đó trong Thi thiên 119 hàm ý rằng mọi ước muốn, chú ý của con người đều phải
dành cho luật pháp. Tuy nhiên chương 5 không dùng đến những mẫu tự liên tiếp, dù rằng có học giả
cho rằng đó là hình thức nguyên thủy của nó.
Bốn bài thơ đầu sử dụng loại nhịp
điệu ngưng ngắt gọi là ai điếu, nhịp 3:2, cũng thấy trong Giê-rê-mi.
V.
THÔNG ĐIỆP
Quyển sách tả vẻ sống động hình ảnh
Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế đồng hoá với khổ đau và tội lỗi của nhân loại.
G.A.F. Knight gọi nó là đêm tiền-Phục-sinh (Easter eve) của hồn người, vì trong
đó, linh hồn con người dầu bị đè nặng dưới sự phán xét của Đức Chúa Trời, vẫn
tin tưởng nơi lòng nhân từ bất biến của Ngài (xem 3:19-25; 52-58). Theo
Gottwald, những điểm chính của quyển sách là án phạt và hi vọng, và nó ‘soi rọi
cho ta thấy nội tâm của lớp người trung thành với Đức Giê-hô-va sau khi nước mất
nhà tan’.
VI. BỐ CỤC
1: 1-22 Thiên một
1:1-7
Giêrusalem bị hoang vu
1:8-11
Tội lỗi gây nên đau khổ
1:12-22
Kêu van xin thương xót
2: 1-22
Thiên hai
2:1-9
Chúa là kẻ thù
2:10-13
Cơn đói khủng khiếp
2:14-17
Tiên tri giả và thật
2:18-22
Kêu gọi khẩn cầu
3: 1-66
Thiên ba
3:1-21
Tiếng kêu của kẻ hoạn nạn
3:22-39
Sự thương xót của Đức Chúa Trời
3:40-42
Kêu gọi hối cải
3:43-54
Đau buồn về tội lỗi
3:55-66
An ủi và rủa sả
4: 1-22
Thiên bốn
4:1-12
Trước kia và bây giờ
4:13-20
Hậu quả của tội lỗi
4:21,22 Ê-đôm sẽ không thoát khỏi
5:
1-22 Thiên năm
5:1-10
Kêu xin thương xót
5:11-18
Ô nhục của tội lỗi
5:19-22
Ngai đời đời của Đức Chúa Trời
VII. SUY CẢM
TIẾNG KHÓC GIỮA ĐÊM TRƯỜNG
(Đọc Ca Thương 1:)
“Nó khóc nức nở ban đêm, nước mắt
tràn đôi má” (c. 2a)
Sách Ca Thương là bài ai ca não nùng với những
giòng lệ tuôn đẫm ướt những trang sách thánh. Ai có tâm sự buồn càng nên đọc Ca
Thương, vì nơi đây họ sẽ tìm thấy một tâm hồn đồng điệu với những bế tắc khủng
hoãng, những thắc mắc tra hỏi, giữa bao nhiêu đau khổ phi lý của đời sống. Bạn
sẽ tìm thấy nơi đây mối hờn vong quốc của một dân tộc bị lưu đày, có tiếng khóc
nghẹn nhiêu đau khổ phi lý của đời sống. Bạn sẽ tìm thấy nơi đây mối hờn vong
quốc của một dân tộc bị lưu đày, có tiếng khóc nghẹn người bị chà đạp áp bức,
và cũng có nỗi sửng sờ tê tái trước cảnh trầm thăng dâu biển của cuộc đời.
Đây là bài ai ca của mất mát, luyến
tiếc. Người Do-thái thường dùng nó làm điếu văn trong những dịp tang chế, và
cho đến ngày nay, nó vẫn thường được đọc lên khi người Do-thái đến viếng bức tường
đổ nát phía tây cổ thành Giê-ru-sa-lem (được gọi là Bức Tường Than Vãn). Trong
đây ta nghe dư âm đổ vỡ của một mối tình, mối quan hệ đằm thắm giữa Thiên Chúa
và dân Ngài. Những ngày dân Chúa đi giữa vinh quang của những chiến thắng lẫy lừng,
những ngày họ được sống trong thịnh vượng thanh bình, những ngày họ “làm lớn giữa
các dân, làm nữ chủ các quận“(c.1), những ngày Thiên Chúa bảo vệ họ “như con
ngươi của mắt Ngài”, bây giờ không còn nữa. Bây giờ “mọi cửa thành hoang vu;
các thầy tế lễ thở than; các gái đồng trinh nó bị khốn nạn” (c.4); Bây giờ,
“váy nó dơ bẩn; nó giờ “mọi cửa thành hoang vu; các thầy tế lễ thở than; các
gái đồng trinh nó bị khốn nạn” (c.4); Bây giờ, “váy nó dơ bẩn; nó giờ “mọi cửa
thành hoang vu; các thầy tế lễ thở than; các gái đồng trinh nó bị khốn nạn”
(c.4); Bây giờ, “váy nó dơ bẩn; nó đơn chiếc.” đơn chiếc.” hạnh nầy?” như cách
phản ứng thường thấy trong xã hội ngày nay. Trái lại, tác giả phủ phục dưới
chân Chúa, khiêm cung kêu nài: “Hỡi Đức Giê-hô-va, xin đoái xem, vì tôi đã nên
khinh hèn” (c.11). Tác giả biết rất rõ rằng cảnh đọa đày của dân tộc, nỗi nài:
“Hỡi Đức Giê-hô-va, xin đoái xem, vì tôi đã nên khinh hèn” (c.11). Tác giả biết
rất rõ rằng cảnh đọa đày của dân tộc, nỗi đến cho ông, luôn luôn “Đức Giê-hô-va
là công bình” (c.18).
Có lẽ không ai trên đời nầy lắng
nghe tiếng thổn thức của bạn giữa đêm trường, không ai để ý đến giòng nước mắt
chảy dài trên đôi má bạn. Nhưng chắc chắn có một Đấng đang theo dõi bạn: Thiên
Chúa, Đấng công bình.
LỜI NGUYỆN CẦU TRONG ĐÊM THANH VẮNG
(Đọc Ca Thương 2: )
“Hãy chổi dậy kêu van lúc ban
đêm, vừa đầu các phiên canh, đổ lòng ra như nước ở trước mặt Chúa.” (c.19)
Sách Ca Thương là một lời cầu nguyện dài. Một
lời cầu nguyện tha thiết thốt ra từ cõi lòng tan nát giữa một cuộc sống bầm giập.
Hoàn cảnh đảo điên là ngôi trường
tốt nhất để dạy người tín đồ cầu nguyện. Chúng ta có thể khẳng quyết rằng những
người hiện nay cho rằng mình quá bận rộn không thể có thì giờ để cầu nguyện, vì
lý do phải lo làm ăn để mưu sinh hoặc lo cho con cái, cửa nhà, -- thật ra có
người chỉ vì ham mê theo dõi những cuộn phim truyện video hay những thú vui
khác – nếu một ngày nào đó họ rơi vào cảnh
ngộ của tác giả, họ sẽ thấy cầu nguyện trở thành nhu cầu lớn lao nhất, cấp thiết
nhất của đời sống.
Khi đời sống vật chất được an
nhàn thong thả, người ta có khuynh hướng quay vào mình, càng cố lo cho mình được
sung túc dư dật hơn, hay lo hưởng thụ cho hết những thứ thế gian sẵn sàng cống
hiến. Khi con người thành công, họ dễ quên Đức Chúa Trời. Khi người ta hoạch định
thế nào đều ra thế nấy, tính toán điều gì đều được điều nấy, họ sẽ thấy mình chẳng
cần Đức Chúa Khi người ta hoạch định thế nào đều ra thế nấy, tính toán điều gì
đều được điều nấy, họ sẽ thấy mình chẳng cần Đức Chúa Khi người ta hoạch định
thế nào đều ra thế nấy, tính toán điều gì đều được điều nấy, họ sẽ thấy mình chẳng
cần Đức Chúa rồi có rồi có trắng tay, “cảnh phá hoại tan hoang to lớn như biển
cả, chẳng còn phương sửa chữa” (c.13), lúc ấy mới thấy “lòng dân ngươi kêu van
đến Chúa” (c.18).
Bạn không cần phải đợi đến lúc
“Chúa trở nên như kẻ nghịch” (c.5) rồi mới bắt đầu cầu nguyện. Bạn không cần phải
đợi đến lúc “tang chế thảm thương,” “gục đầu đến đất” (c.5) rồi mới “chổi dậy
kêu van, đổ lòng ra trước mặt Chúa” (c.19). Giờ cầu chế thảm thương,” “gục đầu
đến đất” (c.5) rồi mới “chổi dậy kêu van, đổ lòng ra trước mặt Chúa” (c.19). Giờ
cầu phán dịu êm của Ngài, được Ngài an ủi, khích lệ, chỉ dạy.
Đêm vắng là khung cảnh thích hợp
nhất để con người giốc đổ tâm sự. Tại sao bạn không đến với nguời Bạn Thân hiểu
bạn hơn bất cứ ai trên đời? Tại sao bạn không chịu “đổ lòng mình ra” với Ngài?
Ngay đêm nay?
TIA HI VỌNG GIỮA MÂY MÙ TUYỆT VỌNG
(Đọc Ca Thương 3: )
“Mỗi buổi sáng thì lại mới luôn,
sự thành tín Ngài là lớn lắm” (c.23).
Sách Ca Thương là bài thánh ca đầy nước mắt được
hát lên trong tinh thần lạc quan. Niềm khổ đau, nỗi tủi nhục đan dày những đường
ngang sớ dọc của áng thơ bi thống nầy. Quả thật đó là bản thi ca thống thiết bi
thương, tuy nhiên, nó không hề bi lụy. Nó trình bày một bức tranh hết sức đen tối,
nhưng nó không chấm dứt trong tuyệt vọng. Trong những lời thở than đau đớn có ấp
ủ một hi vọng. Đây không phải là thứ hi vọng cầu âu, trông chờ may rủi, nhưng
là một niềm tin quyết vào một sự thật vững chãi đã được kiểm chứng bằng kinh
nghiệm bản thân. Hi vọng của tác giả không đặt vào thời cuộc bấp bênh, không dựa
vào con người tráo trở, nhưng đặt nơi Đấng vận hành vũ trụ bằng những qui luật
bất di bất dịch của Ngài.
Buổi sáng nào cũng đến trên cùng
một cảnh trí, nhưng có buổi sáng nào giống buổi sáng nào? Mỗi bình minh đến với
bạn đều mang theo một sắc thái riêng biệt. Mỗi ngày thức dậy, bạn cảm thấy như
mình bước vào một thế giới mới, bạn cảm thấy mình tươi tỉnh lại vì đã tiếp thu
được giòng năng lực mới của vũ trụ để sống cho một ngày mới.
Nhưng bổng có một ngày nào đó bạn
thức dậy và thấy mây mù ảm đạm phủ kín bầu trời. Bão tố nỗi lên ào ạt thổi tung
cửa nhà bạn, vườn tược của bạn. Đầu bạn nặng như chì, thân thể đau nhức như bị
tra khảo. Bạn chẳng cảm thấy một chút tươi mới nào, một chút yêu đời hay vui
thú nào. Nhưng có bao giờ thân thể đau nhức như bị tra khảo. Bạn chẳng cảm thấy
một chút tươi mới nào, một chút yêu đời hay vui thú nào. Nhưng có bao giờ vì bạn
biết rằng ở một nơi đâu đó bên kia những chết chóc, khổ đau, bi thảm của đời sống,
mặt trời ấm áp của Đức Chúa Trời vẫn ngự trị.
“Vì ấy là chẳng phải bổn tâm Ngài
làm cho con cái loài người cực khổ và buồn rầu. Dầu Ngài đã làm cho lo buồn,
còn sẽ thương xót theo sự dư dật của lòng nhơn từ Ngài” (c.33,32). Đức Chúa Trời
luôn luôn thành tín! Đó chính là hi vọng của mỗi chúng ta.
THUỞ HUY HOÀNG NAY CÒN ĐÂU?
(Đọc Ca Thương 4:-5:)
(Đọc Ca Thương 4:-5:)
Sách Ca Thương là những tiếng kêu ai oán thảm
thương của con chim đại bàng bị gãy cánh, là những lời kể lễ nghẹn ngào của một
bậc vương giả sa cơ xuống cảnh khốn cùng.
“Vàng ròng” đã trở thành “mờ tối”
(4:1). Những người sang trọng “tinh hơn tuyết, trắng hơn sữa, da đỏ hồng như
san hô, mình sáng như bích ngọc, nay mặt đen hơn than, chỉ còn xương bọc lấy
da, khô ran như khúc gỗ” (4:7,8). Tình mẫu tử cao quí bị ném bỏ, những bà mẹ
thương con nay không bằng con chó rừng cho con bú, trong cơn đói hoãng, họ đã nấu
cả thịt con mà ăn (4:3,10). Tác giả kinh hoàng chứng kiến một thời kỳ băng hoại
về vật chất lẫn tinh thần. Tất cả đều đảo lộn. Tất cả đều tan hoang. Chẳng còn
một sức mạnh nào có thể níu kéo lại những giá trị đã bị đổ nhào.
“Trời làm một cuộc lăng nhăng,
Ông hoá ra thằng, thằng hoá ra
ông.”
Một cuộc đổi đời. “Kẻ đầy tớ cai
trị chúng tôi” (5:8). “Chúng làm nhục phụ nữ trong thành,... chúng treo các
quan trưởng lên, chẳng nễ mặt người già cả, thanh niên phải mang cối, trẻ em vấp
ngã dưới gánh củi” (5:11-13).
Những người Việt tị nạn hẳn phải
thấm thía khi đọc những lời mô tả trên. Nhưng có bao nhiêu người trong chúng ta
có thể nói được như tác giả: “Khốn cho chúng tôi, vì chúng tôi phạm tội!”
(5:16)?
Khi tan vỡ, mất mát, bất hạnh xảy
ra, người ta thường chỉ tay vào người khác hay hoàn cảnh xung quanh để tìm
nguyên do. Có mấy ai ý thức được rằng những đổ vỡ hư hỏng của đời sống thường
chỉ là hậu quả của những sai trật trong mối quan hệ giữa mình và Đức Chúa Trời?
Và con đường ngắn nhất để đưa đến phục hồi là “trở về” (5:21). Chỉ khi nào con
nguười nối lại được đường dây tương thông với Thượng Đế thì hi vọng mới thật sự
nở hoa.
Giờ đây, bạn hãy xếp những trang
Ca Thương lại. Hãy để hồn cất cánh bay theo đoàn người hành hương về thăm Xứ
Thánh. Hãy cùng với họ đến bên chân Bức Tường Than Vãn, chứng tích của một thời
huy hoàng đã mất. Hãy lắng nghe từ một phương với họ đến bên chân Bức Tường
Than Vãn, chứng tích của một thời huy hoàng đã mất. Hãy lắng nghe từ một phương
lời cầu nguyện xin Chúa hãy “làm những ngày chúng tôi lại mới như thuở xưa.”
Câu hỏi thảo luận:
1. Bạn hãy so sánh hoàn cảnh của dân tộc Việt
Nam với dân Do-thái trong sách Ca Thương và tìm ra một bài học cho đức tin.
2. Ca Thương 2:19 dạy cho ta điều gì về sự cầu
nguyện?
3. Hãy bình luận Ca Thương 3:32,33. Bạn học
được điều gì nơi đây?