ĐA-NI-ÊN
Dẫn nhập
Sách Đa-ni-ên kể chuyện một thanh niên
Y-sơ-ra-ên ở Giê-ru-sa-lem bị bắt đi lưu đày trong thời Nê-bu-cát-nết-sa, vua
Ba-by-lôn (605-562 T.C.). Mặc dù phải sống
kiếp lưu đày suốt đời, bất chấp vô số gian nan nghịch cảnh ông vẫn trung tín với
Đức Chúa Trời. Tương tự như Giô-sép khi
xưa (Sáng Thế Ký 37-50),ông có ân tứ hiểu ý nghĩa chiêm bao và khải tượng
(1:17). Ông tiến nhanh trên bậc thang
danh vọng trong triều đình ngoại bang và được Đức Chúa Trời cho ông khả năng
nhìn thấy mục đích của Đức Chúa Trời trong lịch sử.
Trong khi phần lớn nội
dung của sách dùng đại danh từ ở ngôi thứ ba số ít, thì trong phân nửa sau
(7:2-12:13), sách trình bày theo hình thức tự truyện. Mặc dù trong Kinh Thánh chúng ta đang dùng
sách Đa-ni-ên nằm trong nhóm sách của các tiên tri, nhưng trong nguyên ngữ Hi
Bá Lai, sách được sắp vào nhóm văn thư vì sách minh hoạ về một cuộc đời và phước
hạnh của một người sống trung thành với giao ước của Đức Chúa Trời dù phải đối
diện với những hoàn cảnh khắc nghiệt nguy nan (chương 1-6) và sách cũng bày tỏ
những cuộc đối đầu tranh chấp mà dân thuộc về giao ước của Đức Chúa Trời sẽ gặp
phải và được Đức Chúa Trời bảo vệ an toàn (chương 7-12).
Thể loại
Xem qua nội dung của sách chúng ta lập tức nhận thấy
văn chương trong Đa-ni-ên thuộc về một thể loại khác hẳn hầu hết các sách lịch
sử và tiên tri trong Cựu Ước. Đa-ni-ên
không thuộc loại lịch sử vì có ghi chép nhiều khải tượng, không thuộc loại các
sách tiên tri vì các khải tượng thường đậm màu sắc siêu thực, mô tả một thế giới
với pho tượng khổng lồ bị tảng đá bí ẩn đập nát và những con thú kỳ dị xuất hiện
để chiến đấu với nhau.
Dù sách có những sắc
thái tương tự như trong các sách tiên tri (thí dụ Ê-xê-chi-ên 1) nhưng rõ ràng
sách Đa-ni-ên thuộc một thể loại văn chương khác. Về một phương diện, tác động
của nội dung sách trên người đọc cũng quan hệ không kém việc hiểu ý nghĩa của
các chi tiết trong sách. Về mặt lý thuyết
thì người ta có thể hiểu các chi tiết đó, nhưng vẫn không thể cảm nhận được sự
rung động mà sách nhằm tạo ra.
Vì cớ đó nên ta sắp sách
Đa-ni-ên vào loại văn chương khải thị, như sách khải thị chẳng hạn (xem bài thứ
kinh và văn chương khải thị). Dù vậy, có
lẽ không nên dựa vào đó mà đưa ra một kết luận gò bó về sách Đa-ni-ên. Tương tự như văn chương hiện đại của các loại
tiểu thuyết cấp tiến trong thời kỳ khá cận đại (khoảng đầu thế kỷ thứ XVIII),
không phải qua một đêm mà sách được hình thành với đầy đủ mọi sắc thái đã tỉa gọt
kỹ lưỡng. Tuy nhiên, nét đặc thù của loại
sách khải thị là nội dung sách “vén màn” (Hi Lạp, apokalypsis) để lộ một thực tế thuộc hệ bên ngoài tầm thế giới của
chúng ta và cho thấy mối liên quan của hệ này với lịch sử nhân loại trong khi
thế giới này tiến đến thời chung kết. Vì
sách giữ vai trò vén màn tiết lộ nên sách có lời phụ đề nhắn gởi “đến mà xem”
cùng “nghe cho hiểu”.
Cấu trúc
Sách Đa-ni-ên gồm hai phần và được viết bằng hai thứ
tiếng: Hi Bá Lai (1:1-2:4a; 8:1-13:13) và A-ram là một ngôn ngữ có họ hàng gần
với Hi Bá Lai (2:4b-7:28). Chương 1-6 là
phần tiểu sử; chương 7-12 là phần khải thị.
Tuy nhiên, sách gói ghém một chủ ý tinh tế sâu sắc hơn qua việc sử dụng
tiếng A-ram trong 2:4-7:28 (tức là trong cả hai phần đều có những khúc sách được
viết bằng tiếng A-ram). Có người cho rằng
những chương này có ý nghĩa đặc biệt đối với độc giả không phải là người Do
Thái. Chính vì nhắm đến thành phần độc
giả này mà tác giả viết bằng một ngôn ngữ thông dụng trong thế giới. Hơn nữa, lẽ ra khi sách được viết bằng hai
ngôn ngữ như vậy thì bị tách rời làm hai phần, nhưng thực tế cho thấy hai phần
này nhờ đó mà được liên kết chặt chẽ hơn và cũng gợi nhắc cách tế nhị rằng
chương 2-7 chứa trọng tâm của sách. Nếu
vậy thì chương 1 đóng vai trò dẫn giải và dẫn nhập cho sách, trong khi chương
8-12 triển khai khung sườn lịch sử của thế giới đã được vạch ra trong chương
2-7. Sự kiện tác giả dùng hai ngôn ngữ
trong phần tiểu sử lẫn phần khải tượng cũng là một lý cớ chính thuộc lĩnh vực
văn chương củng cố cho tính cách hiệp nhất của sách.
Bên trong phần trọng tâm (chương 2-7)
còn có thể bắt gặp một khung sườn nữa, thường thấy trong chuyện kể của Cựu Ước. Chương 2 và chương 7 trình bày các khải tượng
về bốn vương quốc của thế giới đối đầu chống lại vương quốc của Đức Chúa Trời;
chương 3 và 6 là chuyện kể về sự giải cứu lạ lùng của Đức Chúa Trời; chương 4
và 5 trình bày sự phán xét của Đức Chúa Trời đối với các nhà lãnh đạo trên thế
giới. Như vậy, mẫu cấu trúc được dùng
trong chương 2, 3, 4 lại xuất hiện trong chương 5, 6, 7 nhưng ở thể đảo, kiểu
soi bóng trong gương như vậy nhằm tạo hứng khởi thích thú cùng tinh thần mong đợi
nơi độc giả là những người đã quen thuộc với kỹ thuật này.
Nhìn chung, độc giả thời nay thường
quen với dạng nội dung sách tiến triển theo một thứ tự thời gian. Dù là trình bày sách dưới dạng ký ức về những
biến cố đã xảy ra lâu năm về trước, tác giả cũng triển khai chủ đề theo dòng thời
gian. Tác giả Đa-ni-ên không áp dụng kỹ
thuật này. Những vụ việc trong chương
1-6 được sắp xếp và triển khai theo thứ tự thời gian, nhưng phần khải thị trong
suốt quyển sách được sắp xếp theo một trình tự song hành tức là hai chuỗi khải
thị liên quan đến cùng một khoảng thời gian.
Có thể ví cấu trúc văn chương này với dạng cầu thang xoắn ốc, với nấc
thang xoay quanh một trục chung nhiều lần, nhưng cứ mỗi khải tượng đến sau đưa
chúng ta lên đỉnh cao hơn cho phép chúng ta phóng tầm nhìn bao quát hơn và rõ
ràng hơn về những việc tương lai. Vì vậy,
có thể sách Đa-ni-ên khải thị nhiều đợt về cùng một thời kỳ, nhưng đợt khải thị
sau triển khai về thời kỳ đó đầy đủ hơn tư liệu đợt trước. Chúa Giê-xu cũng vận dụng kỹ thuật này khi
phán dạy trong Mác 13. Sách Khải Thị
cũng được viết theo cấu trúc này.
Sứ điệp
Câu hỏi của dân lưu đày có ghi trong Thi
Thiên 137:4 “Làm sao chúng tôi có thể ca ngợi Đức Chúa Trời trong khi sống tại
đất khách quê người?” gói ghém toàn bộ cảnh ngộ của ông Đa-ni-ên. Toàn bộ sách Đa-ni-ên, cả phần tiểu sử lẫn phần
khải tượng cho chúng ta biết rằng thế gian này luôn luôn là “đất khách quê người”
đối với dân của Đức Chúa Trời (so sánh Giăng 17:16; Phi-líp 3:20a). Họ là “người lạ trong thế gian này”
(IPhi-e-rơ 1:1, 17) sống giữa những lực lượng ác độc đầy sức hủy hoại
(IPhi-e-rơ 5:8-9). Dầu vậy, chúng ta vẫn
có thể sống một cuộc đời khiến người ta tôn vinh ca ngợi Đức Chúa Trời như
Đa-ni-ên đã làm. Ông Đa-ni-ên là một điển
hình về nội dung lời dạy trong Thi Thiên 1.
Một đời sống bởi đức tin
(so sánh Hê-bơ-rơ 11:33-34) như thế được nuôi dưỡng bằng số vốn hiểu biết Đức
Chúa Trời (11:32b) bằng cách biệt riêng mình cho Ngài (1:8; 3:17-18; 6:6-10) và
thông công với Ngài trong sự cầu nguyện (2:17-18; 6:10; 9:3; 10:2-3, 12). Đời sống bởi đức tin được vững tâm nhờ biết Đức
Chúa Trời là Đấng tể trị tối cao trên mọi hoạt động của con người (2:19-20;
3:17; 4:34-35), và biết rằng Ngài đang lo xây dựng vương quốc của Ngài
(2:44-45; 4:34; 6:26; 7:14). Thời hạn của
chúng ta nằm trong tay Ngài (1:2; 5:26), vì mọi vụ việc ở trần gian này đều
liên quan đến những vụ việc ở thiên đàng (10:12-14, 20). Ngài là Đức Chúa Trời tự khải thị chính mình
Ngài và khải thị những mục đích của Ngài để dân của Ngài được am tường và nương
cậy vào lời của Ngài mà sống và hoạt động (1:17b; 2:19, 28-30, 47). Nhờ nhận biết như vậy mà dân của Đức Chúa Trời
có thể đối đầu với những áp bức chèn ép vì biết rằng họ sẽ có phần khi vương quốc
của Ngài được hoàn thành (7:22, 26-27; 12:2-3).
Tác giả và niên đại
Không có chi tiết nào
trong sách Đa-ni-ên tiết lộ về danh tánh tác giả, dù gần phân nửa nội dung sách
được viết dưới dạng tự truyện. Nhiều học
giả (nhưng không phải là tất cả) hiện đại chuyên về Cựu Ước chủ trương (khởi xướng
bởi Porphyry, một người theo tân phái Platon trong thế kỷ thứ III bài bác niềm
tin Cơ Đốc) rằng sách được viết trong thế kỷ thứ II, dưới thời trị vì của
Antiochus Epiphanes (xem bình giải 8:9-14, 23-27; 11:4-35) chớ không phải trong
thế kỷ thứ VI (căn cứ vào bối cảnh văn chương của sách).
Theo
quan điểm này, các câu chuyện trong chương 1-6 bắt nguồn từ truyền thống của
người Hê-bơ-rơ, chắc chắn như vậy.
Đa-ni-ên là một mẫu người anh hùng, trung tín với luật pháp của Đức Chúa
Trời trước mọi thế lực địch thù. Phần lớn
các khải tượng lý giải chuyện đã qua chớ không phải những mẫu khải thị siêu
nhiên về tương lai. Thay vì cung cấp những
bài tường thuật có tính cách lịch sử, phần tự truyện của ông Đa-ni-ên và phần
khải tượng vận dụng, triển khai và áp dụng những khúc Kinh Thánh khác nhằm đem
lại sức sống và sự khích lệ cho người Do Thái trong thế kỷ II. Vì quan niệm như
vậy nên họ cho rằng chuyện Đa-ni-ên, chẳng hạn, được mô phỏng theo chuyện
Giô-sép (một người bị đày ải sống kiếp nô lệ ở nước ngoài được thăng tiến lên cầm
quyền cai trị nhưng vẫn một lòng trung thành với Đức Chúa Trời); lời cầu nguyện
của ông Đa-ni-ên trong chương 9 được xem là mô phỏng theo bài cầu nguyện của ông
Nê-hê-mi. Còn một phần trong nội dung
các khải tượng được viết ra để giảng giải lời Kinh Thánh một cách tế nhị sâu sắc
(11:33; 12:3) được xem là lời giảng giải cho Ê-sai 52:13-53:12. Tác giả viết sách này vào những năm 160 T.C.
khi dân của Đức Chúa Trời đang trải qua cơn bắt bớ gay gắt dữ dội của Antiochus
Epiphanes, và họ hết sức cần biết rằng cuộc đời có một ý nghĩa, sự thành tín của
Đức Chúa Trời rất có ý nghĩa, nỗi khổ đau không phải là trường tồn vĩnh cữu, rằng
Đức Chúa Trời vẫn nắm quyền kiểm soát cai trị, và rồi đây dân của Ngài sẽ thắng
lẫy lừng. Câu hỏi trong 12:6 (“sẽ còn đến
chừng nào?”) phản ánh nỗi niềm của dân sự của Đức Chúa Trời. Những lời tiên tri
kín đáo đó gói ghém câu giải đáp: Tình cảnh
khốn khó sẽ không kéo dài mãi đâu.
Theo
quan điểm này thì người ta có thể truy định thời gian sách được viết một cách
chính xác hơn bất cứ sách nào khác trong Kinh Thánh Cựu Ước. Tác giả tỏ ra am tường vụ đền thờ bị làm ô uế
(có thể xác định vụ này xảy ra vào năm 167 T.C.; so sánh 11:31) và cuộc kháng
chiến anh dũng do Giu-đa Ma-ca-bê (Judas Maccabeus) lãnh đạo trong năm 166 T.C.
(11:33-35), nhưng dường như tác giả không biết Antiochus qua đời trong năm 164
T.C. (chúng ta thường xem 11:40-45 là một lời tiên tri nhưng như vậy là hiểu lầm
rồi). Giới phê bình gia cho rằng dù sách
được viết khi xưa và được hiệu đính vào năm nào đi nữa thì lần hiệu đính cuối
cùng có thể chính xác là vào năm 165/164 T.C..
Nếu vậy thì kết luận này lại trở thành một lý lẽ chính ủng hộ cho những
người chủ trương đế quốc thứ tư trong chương 2 và 7 là đế quốc Hi Lạp.
Theo
quan điểm của giới phê bình gia thì sách gồm những chuyện thần thoại và những
khải tượng đầy kịch tính nhằm củng cố niềm tin. Đây là một tác phẩm văn chương
mạnh mẽ ủng hộ kháng chiến. Vì cớ tác giả
đã trình bày nội dung của sách dưới một hình thức đến nỗi tất cả độc giả đương
thời không trừ một ai đều có thể nhận ra phần nào là lịch sử của thời đã qua,
phần nào là tiên tri về tương lai nên ai nấy đều đón nhận sách trong hình thức
tác giả đã viết. Sứ điệp của sách đã
thách thức họ, đã đem năng lực đến cho họ - y như thời nay khi chúng ta đọc Hamlet của Shakespeare hoặc Anh em nhà Karamazov (the Brother
Karamazov) của Dostoevsky vậy.
Để củng
cố cho quan điểm này, thường thường người ta tìm chứng cớ trong chính nội dung
của sách, thí dụ như họ viện ra những từ ngữ Hi Lạp chỉ về các loại nhạc cụ
trong 3:5; thiếu chứng cớ vững chắc về tình trạng mất trí của vua Nê-bu-cát-nết-sa;
thiếu chứng tích về những sắc lệnh trong chương 4; thiếu cơ sở chứng thực những
chuyện về Đa-ri-út người Mê-đi trong chương 5 và 6 và phần mô tả chung cuộc của
Antiochus Epiphanes không đạt về mặt lịch sử.
Những vấn đề này chỉ được bàn sơ qua trong bộ bình giải này, nhưng được
minh giải kỹ trong bộ bình giải của J. G. Baldwin (Sách Đa-ni-ên, Nhập môn và Bình giải [Daniel, An Introduction and
Commentary], IVP, 1978 và bộ Bình giải của E. J. Young (Sách Đa-ni-ên [Daniel] Eerdmans, 1949).
Trước kia, chỉ có những thần đạo gia
thuộc trường phái Tự do chủ trương theo quan điểm này. Nhưng về sau nhiều học giả thuộc trường phái
có truyền thống bảo thủ hơn cũng chấp nhận quan điểm này. Họ lập luận rằng tự thân sách gợi ý là không
nhất thiết phải hiểu những câu chuyện trong sách theo nghĩa đen, còn những khải
tượng thì rõ ràng là phần lý giải những chuyện đã qua (chớ không phải khải thị
về tương lai). Một khúc Kinh Thánh như
11:4-12:3 chẳng hạn, “có dạng tương tự như tiên tri” nhưng độc giả đương thời
mà tác giả nhắm đến hẳn là đã không xem đó là một lời tiên tri. Để củng cố cho chủ trương này về phương diện
thần đạo, người ta lập luận rằng dù Đức Chúa Trời có thể, nếu Ngài muốn, cứu
người khỏi lửa hừng, và nếu Ngài muốn Ngài có thể báo trước những việc trong
tương lai với đầy đủ chi tiết nhưng trong thực tế Đức Chúa Trời của Kinh Thánh
không hành động kiểu đó.
Dù trong thế kỷ vừa qua, quan điểm
này hầu như áp đảo quan điểm bảo thủ, nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc khó tháo gỡ. Ở đây chỉ đủ chỗ cho chúng ta đề cập đến vài
điểm.
1.
Nếu thực sự sách Đa-ni-ên thuộc loại giả tưởng, thì chắc chắn trong công
tác giải nghĩa từ thuở đầu người ta đã lưu ý độc giả về tính cách đó chứ không
cần phải đợi đến khi Porphyry bài bác Cơ Đốc giáo. Nhưng hoàn toàn không có một lời phê bình nào
dù chỉ là nói bóng gió xa gần. Nếu rõ
ràng sách chỉ là một mớ huyền thoại thì làm sao lý giải sự kiện xưa nay truyền
thống không ngừng giải nghĩa sách này thuộc loại tự truyện trong bối cảnh lịch
sử và khải tượng đầy ắp ý nghĩa thần đạo.
2. Các trước giả trong Kinh Thánh Tân Ước xem
sách Đa-ni-ên thuộc loại lịch sử. Đối với
Chúa Giê-xu, ông Đa-ni-ên là một tiên tri (Ma-thi-ơ 24:15) và như vậy đối
với Ngài sách Đa-ni-ên gồm có phần tiên tri về tương lai. Tác giả thư Hê-bơ-rơ nhắc đến hai biến cố trong sách
Đa-ni-ên khi liên hệ những sự kiện và những nhân vật khác trong lịch sử
(Hê-bơ-rơ 11:33-34). Khó lòng tránh không kết luận rằng Chúa Giê-xu và các trước
giả Tân Ước xem sách Đa-ni-ên thực sự là một sách lịch sử lẫn tiên tri. Như vậy, nếu chủ trương một niên đại trễ tức
là phủ nhận cả sự hiểu biết của Chúa Giê-xu lẫn thẩm quyền của Ngài trên Kinh
Thánh vì Ngài là Chúa của Kinh Thánh, và tức là cho rằng các trước giả Tân Ước
không có khả năng phân biệt chuyện giả tưởng sau khi sách đã được viết hai thế
kỷ; quả là một sự thất bại lạ kỳ, tương tự như chuyện ngày nay độc giả coi truyện Wuthening Heights của Emily Bronte là một
sách lịch sử.
3. Quả là có một cái gì đó không ổn trên phương
diện thần học lẫn tâm lý học khi mà một tác phẩm bị xem là hư cấu lại có sức
thuyết phục người ta trung tín cho đến chết.
Theo những người chủ trương sách Đa-ni-ên được hình thành trong thế kỷ
thứ II thì sức thuyết phục người ta trung tín cho đến chết không phải chỉ là hiệu quả có thể có của sách mà sách được
viết ra để thực hiện nhiệm vụ đó. Chủ
trương như vậy tức là kêu gọi người ta tin cậy vào quyền năng, sự khôn ngoan và
hiểu biết của Đức Chúa Trời. Nhưng khi
tác giả trưng dẫn quyền năng, sự khôn ngoan và hiểu biết của Đức Chúa Trời thì
họ lại cho rằng đó là những mẫu chuyện tưởng tượng của tác giả chớ không phải
là sự khải thị và những việc làm có thật của Đức Chúa Trời. Mặc dù họ có chống
chế rằng Đức Chúa Trời có khả năng thực
hiện những phép lạ trong sách Đa-ni-ên và khải thị về tương lai dù Ngài chưa thực hiện việc đó thì họ
cũng chẳng chừa cho chúng ta cơ sở nào để tin rằng Đức Chúa Trời có khả năng và
có thể sẽ thực hiện những việc đó. Lập
luận của sứ đồ Phao-lô khác xem ra không phải là không phù hợp (xem
ICô-rinh-tô15:15-17).
4.
Sách chứa đựng một số chi tiết nhỏ nhặt góp phần chứng tỏ nội dung sách
bắt nguồn tại Ba-by-lôn và cho thấy tác giả có một vốn hiểu biết về cuộc sống ở
Ba-by-lôn mà một người Do Thái sống ở xứ Pa-lét-tin trong thế kỷ thứ II T.C.
không thể có được. Những chi tiết đó bao
gồm việc xác định niên đại theo kiểu người Ba-by-lôn (1:1); biết người
Ba-by-lôn ưa chuộng số sáu và cấp số nhân của sáu (3:1; lề bản NIV); từ vua
dùng cho vua Nê-bu-cát-nết-sa với ngầm ý là phó vương (5:7), thông lệ của người
Ba tư là hình phạt thân nhân của phạm nhân (6:24). Ngay cả chi tiết nói về “bức tường trát vôi”
(5:5) cũng đáng lưu ý vì nhờ những vụ khai quật khảo cổ chúng ta biết rằng những
bức tường trong cung điện ở Ba-by-lôn được trát bằng vôi trắng.
5. Những người chủ trương sách Đa-ni-ên thuộc về
thế kỷ thứ II T.C., mặc nhiên cho rằng Đa-ni-ên được viết ra vào khoảng năm
165/164 T.C. còn phần tiên tri về sự sụp đổ của Antiochus Epiphanes là không
đúng. Nếu vậy, thì tại sao người ta
không hiệu đính sách, không sửa lại chỗ sai khi nghiệm xét sách để đưa vào kinh
điển, hoặc vì sao sách lại được công nhận là kinh điển trong khi ai nấy đều dư
biết sách có chỗ sai sót.
Bộ
bình giải này bình giải sách Đa-ni-ên theo quan điểm của Hội thánh Cơ Đốc tức
là sách Đa-ni-ên bắt nguồn tại Ba-by-lôn trong thế kỷ thứ VI TC. Đương nhiên khi chủ trương theo quan điểm này
chúng ta vẫn phải đối diện với những khúc mắc nằm trong phần lịch sử và những
điểm không giải thích được một khi chúng ta tin những lời tiên tri và phép lạ
trong sách. Về phần lịch sử thì các học
giả cần tiếp tục tìm tòi nghiên cứu, còn phần tiên tri và phép lạ thì liên quan
tới quan niệm của chúng ta đối với Đức Chúa Trời. Một trong những điều nội dung sách Đa-ni-ên
muốn truyền đạt là Đức Chúa Trời có khả năng và có thể thực hiện những việc mà
con người không thể làm được (2:10-11).
Khi bình giải sách này, không một nhà giải kinh nào có thể tránh thoát hấp
lực thách thức của sách, là thách thức thuyết phục chúng ta tin cậy nơi Đức
Chúa Trời là Đấng dập tắt lửa hừng và bịt miệng sư tử (Hê-bơ-rơ 11:33-34) hoặc
vì đã tin như vậy thì cũng tin Ngài là Đấng khiến cho người chết sống lại (12:2;
so sánh Mác 12:18-27).
Sách đọc thêm
Sách
Đa-ni-ên (Daniel) do
S. B. Ferguson, CC (Word, 1988).
Sứ
điệp của Đa-ni-ên
(The message of Daniel) do R. S. Wallace, BST (IVP, 1979).
Sách
Đa-ni-ên (Daniel) do
J. G. Baldwin, TOTC. (IVP, 1978).
Sách
Đa-ni-ên (Daniel) do
G. L. Archer, EBC (Zondervan, 1985).
Lời
tiên tri của Đa-ni-ên
(The Prophecy of Daniel) do E. J. Young (Eerdmans, 1949; Geneva Series, Banner
of Truth, 1972).
Sơ lược nội dung
1:1-21 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời và lòng trung thành của người phục
vụ Ngài
1:1-2 Mưu sự tại nhân thành sự tại thiên
1:3-7 Cải tạo tại Ba-by-lôn
1:8-21 Trúng tuyển trong kỳ khảo sát đầu tiên
2:1-49 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời khi thu phục các vương quốc
2:1-13 Điềm chiêm bao gây bối rối cho vua
Nê-bu-cát-nết-sa
2:14-23 Đức Chúa Trời khai trí, khải thị cho ông
Đa-ni-ên
2:24-49 Đa-ni-ên giải điềm chiêm bao
3:1-30 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời trong cuộc thử lửa
3:1-18 Thờ hình tượng hoặc mất mạng sống
3:19-30 Lửa sẽ không đốt cháy ngươi
4:1-37 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời khiến cho vua Nê-bu-cát-nết-sa
trở nên khiêm tốn
4:1-18 Điềm chiêm bao về cây xanh khổng lồ
4:19-27 Cảnh cáo về sự hình phạt
4:28-37 Bị hạ nhục và được chữa lành
5:1-30 Quyền
cai trị của Đức Chúa Trời trong vụ loại bỏ vua Bên-xát-sa
5:1-9 Chữ viết trên bức tường
5:10-17 Có người nhớ đến ông Đa-ni-ên
5:18-30 Vua bị cân trên bàn cân của Đức Chúa Trời
6:1-28 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời trên thú dữ
6:1-9 Vua Đa-ri-út mắc mưu
6:10-17 Thà vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn vâng lời
con người
6:18-28 Được quyền năng của Đức Chúa Trời bảo toàn bởi
đức tin
7:1-28 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời trên thế giới
loài vật
7:1-14 Bốn con thú vật, một con người
7:15-28 Cái sừng gây chiến tranh
8:1-27 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời tồn tại mãi mãi
8:1-4,
15-20 Con chiên đực hai sừng
8:5-8,
21-22 Con dê một sừng
8:9-14,23-27
Một sừng nhỏ mới mọc sau
9:1-27 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời làm cơ sở cho lời tiên tri và lời
cầu nguyện
9:1-3 Đa-ni-ên nghiên cứu Kinh Thánh
9:4-19 Cầu nguyện, một việc làm có tính cách giao ước
9:20-27 Lại “số bảy mươi”
10:1-12:4 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời trên toàn bộ lịch sử
10:1-3 Than khóc về phần thuộc linh
10:4-9 Một khải tượng đầy vinh hiển
10:10-11:1
“Lực lượng của kẻ ác trong thiên giới”
11:2-45 Các vua phương nam và phương bắc
12:1-4 Những chuyện chung kết
12:5-13 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời và sự an nghỉ của người phục vụ
Ngài
Bình giải
1:1-21 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời và
lòng trung thành của người phục vụ Ngài
1:1-2 Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên
Dẫn nhập cho chuyện của Đa-ni-ên là hai
câu xác định làm bối cảnh lịch sử lẫn thần học cho toàn bộ chuyện kể. Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn đến
Giê-ru-sa-lem và vây hãm thành. Nhiều
lần vua Nê-bu-cát-nết-sa xâm lăng xứ Pa-lét-tin. Cuộc vây hãm Giê-ru-sa-lem lần này diễn ra
trong năm 605 T.C., nhằm năm thứ ba thời trị vì của vua Giê-hô-gia-kim (theo
cách tính của người Ba-by-lôn. Giê-rê-mi
25:1 cũng viết về cùng một sự kiện, nhưng theo cách tính của người Do Thái, lấy
mốc tính là năm mới trước ngày vua đăng quang).
Lưu ý là đi đôi với tầm nhìn toả ngang bao quát lịch sử là tầm nhìn chiếu
thẳng đứng hoặc có tính cách thần học: Chúa
phó Giê-hô-gia-kim vào tay Nê-bu-cát-nết-sa. Thế là các chủ đề cơ sở của toàn bộ sách được
giới thiệu:
1. Ba-by-lôn chống lại Giê-ru-sa-lem, thành của
thế gian chống lại thành của Đức Chúa Trời (Augustine), một cuộc đối đầu đạt đỉnh
cao trong sách Khải Thị (xem Khải Thị 14:8; 17:5; 18:2-24). Cuộc đối đầu này bắt
nguồn từ lời tuyên bố trong Sáng Thế Ký 3:15.
2. Quyền cai trị tối cao của Đức Chúa Trời bất
chấp mọi tình huống dường như phủ nhận thực tế này. Lời tiên tri được ứng nghiệm khi thành
Giê-ru-sa-lem thất thủ (thí dụ Ê-sai 39:6-7; Giê-rê-mi 21:3-10; 25:1-11) và những
sự hình phạt (các tiên tri đã từng cảnh báo nhiều lần) theo như giao ước của Đức
Chúa Trời bắt đầu nổ bùng (tức là Phục Truyền 28:36-37, 47-49, 52, 58). Sự lưu đày là biện pháp hình phạt đối với thời
trị vì của vua Giê-hô-gia-kim (IISử Ký 36:5-7) nhưng tình trạng thối nát suy đồi
đã xuất hiện lâu đời về trước (IICác Vua 24:1-4). Căn cứ vào bề ngoài thì vua Nê-bu-cát-nết-sa
có vẻ đắc thắng và danh của Đức Chúa Trời bị nhục (vật dụng của đền thờ bị chuyển
về Ba-by-lôn đặt trong kho của thần của
vua Nê-bu-cát-nết-sa đánh dấu cho sự đắc thắng của thần Na-bu trên
Yahweh). Tuy vậy, thật ra không có gì xảy
ra mà nằm ngoài phạm vi cai quản của Đức Chúa Trời (so sánh Ê-sai 45:7;
Ê-phê-sô 1:11b), và chẳng bao lâu sau đó vua Nê-bu-cát-nết-sa bị dồn vào thế phải
công nhận như v’ậy (4:35). Kinh nghiệm của
ông Giô-sép được lặp lại qua ông Đa-ni-ên (Sáng Thế Ký 45:4-7; 50:20).
1:3-7 Cải tạo ở Ba-by-lôn
Ở Ba-by-lôn một số người Y-sơ-ra-ên ưu tú
được đưa vào một chế độ cải tạo đặc biệt.
Họ là thành phần có nhiều cơ may đứng vào vị trí lãnh đạo theo lẽ tự
nhiên (trong vòng hoàng tộc và quý tộc,
3). Họ cũng là những người đã biểu lộ một
năng lực trí tuệ khác thường. Họ được cải
tạo về mặt tri thức và được đối xử theo hàng vương giả. Chế độ này nhắm vào một
số mục tiêu, thí dụ, cải tạo về phương diện tôn giáo (ngôn ngữ, văn chương, thức
ăn, tất cả đều mang đậm màu sắc tôn giáo và văn hoá) và một cuộc “tẩy não” vừa
thu hút họ đến với mức sống cao trọng giàu sang vừa làm suy yếu khát vọng lãnh
đạo dân Y-sơ-ra-ên trong tương lai, vừa có tiềm năng củng cố xã hội Ba-by-lôn
(5b).
Trong chương trình giáo
dục đương nhiên có chiêm tinh, đoán số và các “thuật” khác. Đám thanh niên được chọn này cần nương dựa
vào lời hứa trong Ê-sai 3:1-3 lâu năm dài tháng trước khi xảy ra những chuyện
trong Đa-ni-ên 3!
Khai mạc cho khoá cải tạo
là tiết mục đặt tên mới cho mỗi người, mỗi tên riêng đều rất có ý nghĩa về mặt
tôn giáo theo như các tiếp vi ngữ trong tiếng Hi Bá Lai cho thấy. Đa-ni-ên có nghĩa là “Đức Chúa Trời là vị
quan toà của tôi”; Ha-na-nia, “Yah đầy lòng thương xót”; Mi-sa-ên, “Ai có bản
thể như bản thể của Đức Chúa Trời?” và A-xa-ria, “Yah đã cứu giúp”. Còn tên mới của họ trong tiếng Ba-by-lôn có lẽ
tác giả cố ý viết sai (một tín hiệu báo cho độc giả biết rằng đây chỉ là vỏ bọc
bên ngoài thôi chớ tình thật bên trong không phải là như vậy). Trong các tên mới
này có gói ghém tên của các thần ngọai bang (thí dụ Bel, Nabu và có lẽ là cả
Aku nữa). Mục đích của việc này là thay
đổi hình thức nhân dạng (không còn là con của Đức Chúa Trời nữa) và thay đổi vận
mệnh (Ba-by-lôn chớ không phải là Giê-ru-sa-lem nữa). Cả hai ấn tượng này sẽ được củng cố theo thời
gian vì họ phải sử dụng tên gọi và nơi thường trú thường xuyên.
1:8-21 Trúng tuyển trong kỳ khảo sát đầu
tiên
Sau khi thận trọng xác định những chướng
ngại cản trở một nếp sống trung thành, tác giả thuật lại chuyện Đức Chúa Trời
tiếp tục thể hiện đường lối tể trị của Ngài nhằm hỗ trợ cho những người trung
thành với Ngài, khi họ đối đầu với mọi nỗi khó khăn bất trắc. Ngài là Đấng nắm quyền kiểm soát mọi công việc
của các quốc gia dân tộc (1-2), cũng là Đấng vận hành trong đời sống của cá
nhân từng người nữa. So sánh “Đức Chúa
Trời nộp” (2) với Đức Chúa Trời khiến cho
quan tỏ lòng ưu ái (9) và Đức Chúa Trời
ban cho (17).
Ông Đa-ni-ên tin rằng
khi ông ăn thức ăn và uống thức uống của
vua thì ông tự làm ô uế chính mình
(8; so sánh Ê-xê-chi-ên 4:9-14). Có lẽ
lý do nằm trong những chuyện sâu xa tinh tế hơn chớ không phải đơn giản chỉ là
chuyện tuân thủ luật lệ về chế độ ăn uống là cấm ăn thực phẩm “bất khiết” (vì
không có lệnh cấm uống rượu) hoặc vì cớ thức ăn đã cúng cho thần rồi (trừ phi
người ta không có lệ cúng rau cho thần).
Trên cơ sở này, có lẽ lắm Đa-ni-ên quyết định như vậy là để ngăn ngừa
không để cho pnền văn hoá Ba-by-lôn đồng hoá mình (và chi phối đời sống thuộc
linh của mình) trong khi ông còn có thể tích cực cưỡng lại sức cuốn hút
đó. Còn đối với đường lối giáo dục và
cái tên mới thì ông không có cách xoay xở nào khác. Như vậy, câu chuyện cho thấy sự khôn ngoan của
Đa-ni-ên nằm ở chỗ biết nhận diện mũi nhọn cho phép ông tập trung phấn đấu.
Ở đây Đa-ni-ên được xem
là một tấm gương mẫu về lòng trung tín làm chứng trong tuổi thanh xuân đầy hấp
dẫn, với lối đấu tranh lịch sự lễ độ (Đa-ni-ên
khẩn khoản xin, 8; tha thiết xin ông
vui lòng, 12) và với thái độ, cách cư xử khiến cho quan thái giám có thiện
cảm và xử sự đầy ưu ái (9) và kiểm soát viên cũng chấp thuận (14).
Với
chế độ ăn rau, Đa-ni-ên và ba bạn khoẻ mạnh sung sức về phần xác. Chi tiết này cũng ngầm bày tỏ rằng đây cũng
là việc của Đức Chúa Trời làm; khả năng của con người có thể cung cấp thực phẩm,
nhưng chỉ có Đức Chúa Trời có thể khiến cho cơ thể hấp thụ chất bổ dưỡng. Chế độ ăn trong mười ngày thử nghiệm (14) trở
thành chế độ ăn uống thường nhật của họ (15-16).
Ngoài
ra Đa-ni-ên và ba bạn còn có những tài năng thiên phú đặc biệt (17-19). Có thể mở mang trí tuệ và thành công mỹ mãn
mà không phương hại đến phần thuộc linh; người tin kính Chúa có thể tinh thông
và vận dụng tri thức của người không tin Chúa.
Đức Chúa Trời khiến cho sự khôn ngoan của đời ra ngu dại, còn sức mạnh của
Ngài làm cho hoàn hảo những điểm yếu kém nhất nơi dân sự của Ngài (ICô-rinh-tô
1:19-25; so sánh Ê-sai 44:24-26). Bức
tranh về tâm tánh và cuộc đời của Đa-ni-ên không những bắt buộc chúng ta nhớ lại,
và nghĩ về cuộc đời của Giô-sép mà còn phản ánh trước về cuộc đời sắp tới của Đấng
Cứu Thế (Ê-sai 11:2-3).
Nhiều
nhà phê bình cho rằng lời bình luận kết (21) mâu thuẫn với 10:1. Nhưng câu này có tính cách thần học chớ không
theo trật tự thời gian, không phải có ý nói về ngày chết của Đa-ni-ên. Năm thứ nhất thời trị vì của vua Si-ru (538
T.C.) đánh dấu bước đầu của thời kỳ khôi phục (IISử Ký 36:22-24). Ý của tác giả ở đây là ông Đa-ni-ên sẽ còn sống
để chứng kiến những hành động của vua Nê-bu-cát-nết-sa bị vô hiệu hoá và tình
thế được đảo ngược. Vua Ba-by-lôn băng
hà một thời gian dài rồi mà người phục vụ Đức Chúa Trời vẫn còn sống và dân sự
của Ngài lại được phục hồi. Như thế sách
chuẩn bị tinh thần chúng ta trước khi tiếp tục đọc về cuộc đối đầu đọ sức, và
các khải tượng về chung cuộc thắng lợi vinh quang của Nước Trời.
2:1-49 Quyền cai trị của
Đức Chúa Trời khi thu phục các vương quốc
2:1-13 Điềm chiêm bao
gây bối rối cho vua Nê-bu-cát-nết-sa
Biến cố trong chương 2
diễn ra vào năm thứ hai thời trị vì của
vua Nê-bu-cát-nết-sa (604 T.C.; so sánh 1:1-2).
Ở vùng Trung Đông thời cổ
người ta tin rằng vua chúa đặc biệt nhận sứ mạng trực tiếp từ các thần. Vì vậy, điềm chiêm bao của vua Nê-bu-cát-nết-sa
rất đáng chú ý, khớp với chính sách đối ngoại đầy tham vọng của vua (cuộc chiến
thắng của vua trên quân Ai Cập tại Cạt-kê-mít và Ha-mát cho phép vua nắm quyền
kiểm soát Sy-ri; các trận đánh khác diễn ra trong thời gian kế tiếp). Nội dung điềm chiêm bao khiến cho vua bối rối
(1), đứng ngồi không yên. Vì vậy, vua
triệu các vị tham vấn đến, tước vị của họ biểu thị tính chất tôn giáo và khoa học
của Ba-by-lôn (thí dụ, đồng bóng, xem Phục Truyền 18:10-12; Ma-la-chi 3:5).
Không rõ vua nhớ được
bao nhiêu chi tiết trong điềm chiêm bao (3;
so sánh lề bản NIV). Vài câu nói
hàm ý là ít nhất vua còn nhớ những phần chính (thí dụ 9c). Điềm chiêm bao khơi dậy một cảm giác bất ổn đến
nỗi vua đòi hỏi một lời giải bảo đảm chính xác và đe doạ tử hình những ai không
giải nghĩa nổi (5). Thế là đám tham vấn
buộc phải thuật lại nội dung của điềm chiêm bao (mà họ hoàn toàn không hề biết,
dù chỉ là một chi tiết) thì vua mới có thể tin tưởng họ có khả năng giải nghĩa
điềm chiêm bao đó. Câu trả lời của các
tham vấn vừa hợp lý hợp tình (4, 7) vừa tỏ ra họ rất là bất lực, càng lúc họ
càng tỏ ra hoàn toàn bất lực (10, 11).
Chủ ý của tác giả ở đây là vạch ra tánh ngang ngạnh quái ác của vua lẫn
tình trạng sắp phá sản của một triều đình khôn ngoan.
Sự xuất hiện của từ ngữ
trong tiếng A-ram (4) là tín hiệu
sách sẽ được viết tiếp bằng ngôn ngữ này cho đến 7:28 (xem bài dẫn nhập).
Vua Nê-bu-cát-nết-sa đe
doạ hình phạt họ cách tùy tiện và quá đáng (5) (tuy nhiên, không phải vua là
người duy nhất hành động như vậy). Vua tỏ
ra nghi ngờ là đám tham vấn âm mưu với nhau đối địch vua (9) chứng tỏ vua luôn
bị ám ảnh bởi cảm giác bất an bất chấp mọi thắng lợi đã giành được. Vua ký một sắc lệnh xử tử toàn bộ thành phần
tham vấn (12) trong đó có cả Đa-ni-ên và ba bạn trong khi họ không được triệu đến
chầu vua để có cơ hội giải nghĩa điềm chiêm bao gì cả (không lý giải được sự
thiếu sót này) khiến cho tình huống càng thêm bí ẩn và căng thẳng.
2:14-23 Đức Chúa Trời khai trí khải thị
cho ông Đa-ni-ên
Một lần nữa ông Đa-ni-ên tỏ ra là một con
người có tánh cương trực nhưng ôn nhu (so sánh 1:8, 12) khi ông khéo léo mở lời
hỏi chuyện vị sĩ quan chỉ huy đội hành quyết và khi ông khiêm tốn ôn tồn trình
một lời thỉnh cầu lên vua Nê-bu-cát-nết-sa (16). Có lúc cần ôn nhu lễ độ, có
lúc cần phê bình thẳng thắn (so sánh 5:17-28; Mác 6:18).
Trong đời sống của ông
Đa-ni-ên tâm tình cầu nguyện nổi bật nhất (18; so sánh 6:10; 9:3-23;
10:12). Lần này ông và ba bạn cầu nguyện
xin Đức Chúa Trời thương xót gia ân
(18), vì tương lai của nước Đức Chúa Trời và dường như lời làm chứng về nước Đức
Chúa Trời tại Ba-by-lôn tùy thuộc vào sự sống còn của họ. Ông Đa-ni-ên tin rằng ông có thể với tới
thiên giới là nơi các chiêm tinh gia Ba-by-lôn không có cách nào với đến được
(11). Lời cầu nguyện của ông đặt trên cơ
sở bản tánh của Đức Chúa Trời là Đấng tự khải thị và là Đấng được khải thị (22-23a). Ngài là Chúa của sự khôn ngoan và năng lực
(20), là Đấng cầm quyền trên toàn bộ lịch sử (21a), là Đấng truyền dạy phán bảo
với dân sự của Ngài (22; so sánh Công Vụ 4:24-30). Điều bí
ẩn đã được bày tỏ cho Đa-ni-ên (19) bằng một cách nào đó mà Kinh Thánh
không xác định rõ cho chúng ta.
2:24-49 Giải điềm chiêm bao
Giờ đây ông Đa-ni-ên trở
lại xin yết kiến vua trong tư thế một người phát ngôn, với sự dạn dĩ phù hợp. Tình trạng bất lực của các vị tham vấn của
vuahoàn toàn trái ngược với sự hiểu biết của ông Đa-ni-ên là vị tham vấn của Nước
Trời.
Trong điềm chiêm bao vua
Nê-bu-cát-nết-sa thấy một pho tượng rất cao lớn, có nhân dạng và được đúc bằng
những chất liệu với giá trị từ cao nhất đến kém dần dần (vàng, bạc, đồng, sắt
pha lẫn đất sét). Rồi cũng trong điềm
chiêm bao vua thấy một khối đá siêu nhiên, không do tay con người đục ra, rơi
xuống đập pho tượng nát tan tành (chú ý câu 34b-35a lặp lại Thi Thiên
2:9b). Khối đá này có hai đặc điểm đáng
chú ý: không bởi tay con người đục ra
(34) có nghĩa là phát xuất từ sự vận hành của Đức Chúa Trời, và trở nên một ngọn núi khổng lồ, hùng vĩ lan
chiếm toàn bộ địa cầu (35) nghĩa là khối đá có tầm hoạt động bao trùm toàn
thế giới.
Điềm chiêm bao nói về những điều sẽ xảy ra trong tương lai
(28). Vì cái đầu của pho tượng đặc biệt
biểu tượng cho vương quốc của vua Nê-bu-cát-nết-sa (38), chúng ta có thể hiểu rằng
những phần còn lại trên pho tượng cũng biểu tượng cho các đế quốc hoặc triều đại
cụ thể. Ông Đa-ni-ên và các bạn đồng thời
chưa cho biết đó là đế quốc nào hoặc triều đại nào (tuy nhiên xin xem
8:19-21). Bây giờ nếu chúng ta nhìn ngược
dòng thời gian (và hiểu theo nghĩa của 8:19-21) thì ngực và cánh tay bằng bạc (32) biểu tượng cho đế quốc Mê-đi
Phe-rơ-sơ (sách Đa-ni-ên gom đế quốc này làm một thực thể với Si-ru lên ngôi cầm
quyền cai trị năm 539 T.C., so sánh 5:28; 8:20) bụng và hông bằng đồng (32) biểu tượng cho đế quốc Hi Lạp là thế lực sẽ nắm quyền cai trị trên toàn cầu
(39). Sau đó sẽ đến phiên đế quốc La-mã
(dù một số nhà giải kinh bảo thủ cho rằng chân và hai bàn chân nói về những người
kế nhiệm A-lịch-sơn đại đế (Alexander the Great).
Theo lối giải nghĩa này người ta thường
hiểu khối đá là Chúa Cứu Thế Giê-xu
còn khối đá trở nên to lớn khổng lồ chỉ về sự bành trướng của nước Đức Chúa Trời. Có thể Lu-ca 1:33 và 20:18 cũng hiểu theo hướng
giải nghĩa này. Tuy nhiên cũng cần lưu ý
rằng khối đá đập tan tành toàn thể những
vương quốc mà pho tượng tiêu biểu. Như vậy,
hiểu một cách rộng rãi tổng quát hơn, khải tượng này chuyển đạt một sứ điệp như
sau: trong khi các vương quốc do con người
xây dựng suy tàn và nhường chỗ cho những vương quốc khác theo luật sống còn của
kẻ mạnh, nhưng chung cuộc chính tay của Đức Chúa Trời hủy diệt tất cả mọi nước
khi Ngài thành lập vương quốc của Ngài là một vương quốc tồn tại đời đời.
Giới phê bình cho rằng đế quốc Mê-đi
Phe-rơ-sơ không có tính cách lịch sử, nên họ thường chủ trương pho tượng tiêu
biểu cho các nước Ba-by-lôn, Mê-đi, Ba-tư và Hi Lạp và họ chủ trương rằng sự giải
nghĩa của ông Đa-ni-ên là “một lời tiên tri sau khi sự kiện đã xảy ra” (Xem bài
dẫn nhập).
Những câu 46-49 mô tả kết
quả của việc ông Đa-ni-ên giải nghĩa điềm chiêm bao. Vua Nê-bu-cát-nết-sa tỏ ra tôn trọng ông
Đa-ni-ên và tuyên bố công nhận Đức Chúa Trời của ông. Việc bổ nhiệm ba bạn của ông Đa-ni-ên (49) lý
giải sự hiện diện của họ tại buổi lễ trong chương 3, rồi chuyện trong chương 3
cũng cho thấy lời tuyên bố của vua Nê-bu-cát-nết-sa trong dịp này chỉ là một lời
nói suông, cạn cợt.
3:1-30 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời
trong cuộc thử lửa
3:1-18 Thờ hình tượng hoặc mất mạng sống
Rõ ràng tác giả sách Đa-ni-ên muốn chúng
ta thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa điềm chiêm bao của vua Nê-bu-cát-nết-sa và
pho tượng mà vua cho dựng trong đồng bằng
Đu-ra (1). Có thể lắm pho tượng này
biểu trưng cho chính mình vua (so sánh 2:38 “Vua chính là cái đầu bằng
vàng”). So với pho tượng trong điềm
chiêm bao (2:31-33) thì pho tượng này hoàn toàn bằng vàng (tức là có lẽ giát
vàng). Nếu như thế thì việc này cho thấy
vua Nê-bu-cát-nết-sa hưởng ứng và ứng dụng cho mình một cách bệnh hoạn đối với
lời thông giải của ông Đa-ni-ên về điềm chiêm bao (2:44-45). Lưu ý là câu “vua Nê-bu-cát-nết-sa ... dựng”
được lặp lại đến bảy lần để nhấn mạnh (1, 2, 3, 5, 7, 12, 14). Đức Chúa Trời
ban cho vua đế quốc, uy quyền, thế lực và vinh quang (2:37) nhưng vua đã áp dụng
những điều đó cho chính mình. Giờ đây
chúng ta đã có cơ sở để chứng minh rằng lời vua tuyên bố về Đức Chúa Trời trong
2:47 chỉ là chuyện đầu môi chót lưỡi.
Pho tượng có chiều cao
quá đáng không cân đối với chiều ngang (36m x 3,60m) nên có lẽ pho tượng đứng
trên một cái đế khá cao.
Trong
chuyện có hai điểm tạo thêm bầu không khí căng thẳng chung quanh sứ điệp. Thứ nhất, cảnh tượng (2-3) và bản liệt kê các
nhạc cụ (5, 7, 10) được lặp đi lặp lại (kèn sáo, đàn tam thập lục, đàn cầm, đàn
hạc, kèn túi dường như có nguồn gốc Hi Lạp, cho thấy văn hoá Hi Lạp thâm nhập rộng
rãi) khiến cho độc giả có cảm giác như mình cũng có mặt tại đó. Lưu ý là hào
quang tôn giáo bao trùm quang cảnh này tạo nên một ấn tượng hoành tráng. Ngược lại ba bạn Hê-bơ-rơ nhận biết rằng sự
thờ phượng xứng hợp với Kinh Thánh đòi hỏi tâm thần và tâm trí phải phục tòng lẽ
thật (so sánh Giăng 4:24; La-mã 12:1-2).
Thứ hai, sự đối đầu công khai giữa thành của thế gian này với thành của
Đức Chúa Trời. Phải quyết định chọn thờ
hình tượng hoặc mất mạng sống (4-6). Nguyên lý trong cuộc tranh chấp này không
phải chỉ là chuyện tuân thủ Xuất Ê-díp-tô Ký 20:4-6 nhưng là vấn đề con người
được tạo dựng, được tái tạo theo hình ảnh của Đức Chúa Trời (Sáng Thế Ký
1:26-27; Ê-phê-sô 4:24; Cô-lô-se 3:10; so sánh Ma-thi-ơ 22:20-21) có nên quỳ lạy
hình tượng của con người chăng. Trong
hoàn cảnh này, đức tin của Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-nê-gô bừng chiếu sáng hơn
cả những ngọn lửa trong lò thiêu (Hê-bơ-rơ 11:34) khi mà họ mạnh mẽ minh định
lòng trung thành đối với lời của Đức Chúa Trời (IICô-rinh-tô 4:11, 13b, 18).
Rõ
ràng vua Nê-bu-cát-nết-sa tin rằng mỗi người có một giá trị riêng; chẳng một ai
dám coi thường lệnh truyền của vua. Chắc
chắn đối với ba bạn Hê-bơ-rơ cuộc thử thách này nghiêm trọng hơn những cuộc thử
thách mà họ đã nếm trải trong chương 1 và 2 (có lẽ khi hồi tưởng lại, họ thấy
những lần đó trang bị cho họ để đối phó với lần thử thách này). Lòng trung
thành và can đảm của họ được các vị chiêm tinh gia khác làm chứng một cách hùng
hồn nếu không nói là quá đáng với ác ý nội hàm (họ coi thường vua). Dầu sao,
họ cũng nhận thức được mấu chốt trong cuộc đối đầu này. Họ
không thờ các thần của vua, cũng không thờ tượng bằng vàng (12; so sánh Xuất
Ê-díp-tô Ký 20:3-4, 23).
Trước kia, vua Nê-bu-cát-nết-sa đã từng
tiếp xúc với ba bạn Hê-bơ-rơ (1:18-20; 2:49), vua biết họ sẽ trả lời cho vua
như thế nào rồi (14), nên giờ đây vua thách Đức Chúa Trời lẫn lòng can đảm của
họ (15). Vua không quan tâm xét đến hai
điểm ưu thế của họ: Họ nhận biết quyền
năng của Đức Chúa Trời (17) và họ quyết tâm dấn thân vâng theo lời Ngài đã khải
thị (18). Niềm tin của họ dâng cao độ cùng với tinh thần trông mong ngóng đợi
(17; so sánh 1:12-13; 2:16) nhưng không phải là vô căn cứ (18), và phản ảnh tấm
gương đức tin của ông Áp-ra-ham (so sánh La-mã 4:20) và lời làm chứng của ông
Giô-sép (Gióp 13:15a).
3:19-30 “Lửa sẽ không
đốt cháy ngươi”
Ác cảm của vua
Ba-by-lôn đối với dân thành Giê-ru-sa-lem đạt cao độ. Lúc đầu “vua nổi giận (13; so sánh c. 19), giờ đây vua vô cùng tức giận (19) khi thấy
họ cương quyết cách lặng lẽ bình thản.
Vua truyền đốt lò nóng tối đa (có lẽ đó là ý của cụm từ nóng gấp bảy lần lúc bình thường) và
truyền cho những binh sĩ mạnh sức nhất
phụ trách trói gô họ (20). Thế là ba bạn
Hê-bơ-rơ bị trói rất chặt (23). Lò thiêu nóng đến nỗi ngọn lửa táp ra thiêu cháy luôn mấy binh sĩ này (22). Tác giả mô tả hết những chi tiết này nhằm vạch
rõ rằng về phương diện con người thì ba bạn Hê-bơ-rơ này hoàn toàn vô phương sống
sót. Còn ông mô tả y phục nhằm làm tín
hiệu báo trước về thắng lợi bất ngờ sắp diễn ra. Trong khi vua giận sôi, còn mấy chiến sĩ lực
lưỡng chết cháy thì ba bạn thong dong trong trang phục lễ hội (lưu ý phần mô tả
áo dài, quần dài, khăn choàng, khăn đóng
và những thứ khác (21). Trái ngược với vương quốc của đời nay, vương
quốc của Đức Chúa Trời được bao trùm trong “sự công chính, bình an và vui vẻ
trong Thánh linh” (La-mã 14:17). Ba bạn
Hê-bơ-rơ biểu lộ tinh thần này qua dáng dấp và hành vi của họ trong lò thiêu (thong dong đi lại; 25).
Dường như lò thiêu gồm
hai cửa, cửa ở tầng trên và cửa ở tầng dưới cho phép người ta theo dõi cuộc hỏa thiêu. Khi chứng kiến ba bạn Đa-ni-ên dược sống
sót an toàn, lại có một nhân vật thứ tư dáng dấp như một vị thần cùng đi với họ
trong lò thiêu (24-25), vua Nê-bu-cát-nết-sa buộc lòng phải thay đổi cách ăn
nói võ đoán lúc đầu (26, so sánh c. 15c).
Giờ đây vua công nhận là ba bạn Hê-bơ-rơ được giải cứu nhờ Đức Chúa Trời
của họ đã can thiệp một cách lạ lùng ly kỳ.
Vụ này là một ứng nghiệm theo nghĩa đen từng chữ trong Ê-sai 43:1-4 “Đừng
sợ... vì ta ở với ngươi.. Khi ngươi bước qua lửa ngươi sẽ không bị cháy, lửa sẽ
không đốt cháy ngươi “. Các nhà giải
kinh từ thuở ban đầu hiểu nhân vật thứ
tư trong lò thiêu là Con của Đức Chúa Trời hoặc thiên sứ của Ngài (so sánh c.
28) và kể từ đó thường xuyên giải nghĩa theo hướng này. Tuy nhiên, điểm được nhấn mạnh ở đây là sự bảo
vệ toàn vẹn của Đức Chúa Trời qua sự kiện họ ra khỏi lò hỏa thiêu mà trên người không vương mùi lửa (27). Việc
này xảy ra đúng như lời của Thi Thiên 34:19-20 là lời được ứng nghiệm trong Chúa Cứu Thế sau này
(Giăng 19:26).
Chương 3 mở đầu với một
sắc lịnh của vua Nê-bu-cát-nết-sa đe dọa phá hủy vương quốc của Đức Chúa Trời,
nhưng rốt cuộc kết thúc với một sắc lệnh đe dọa hủy diệt tất cả các vương quốc
khác (dân trong mọi nước hoặc mọi thứ
ngôn ngữ, 29) nếu họ dám xúc phạm vương quốc của Đức Chúa Trời. Dù vụ việc này ghi lại một thắng lợi cho
vương quốc của Đức Chúa Trời và (trái ngược với 2:47) hạ nhục nhà vua (28b)
nhưng tác giả ngầm nhắc chúng ta rằng tuyệt nhiên vua Nê-bu-cát-nết-sa không
tin Đức Chúa Trời gì cả. Phép lạ đã tác
động trên vua cách mạnh mẽ (so sánh Công Vụ 8:9-23). Sự đáp ứng của vua nhằm
tích cực ủng hộ người Hê-bơ-rơ (30) chứ không phải biểu thị rằng vua cũng tin
tưởng như họ (28). Về một phương diện sự
hạ nhục của vua đem đến cho vua những nhận thức mới, nhưng không khiến cho lòng
vua trở nên mềm mại (so sánh c. 29 và đối chiếu với sự xưng nhận của Giô-na sau
khi ông bị hạ nhục Giô-na 2:8).
4:1-37 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời
khiến cho vua Nê-bu-cát-nết-sa trở nên khiêm tốn.
4:1-18 Điềm chiêm bao về cây xanh khổng lồ
Chuyện kể trong chương 4 được lồng vào bối
cảnh một bức thư khá văn vẻ (1-18, 34-37, có lẽ được sáng tác với sự hướng dẫn
của ông Đa-ni-ên). Phần chính, là phần
văn xuôi kể chuyện sụp đổ của vua Nê-bu-cát-nết-sa, viết về vua trong ngôi thứ
ba số ít, nhằm biểu thị rằng trong thời gian xảy ra những việc được ghi ở đây
vua không có điều kiện nhận biết kinh nghiệm của mình. Những lời tán tụng Đức Chúa Trời trong câu 3
dọn đường cho phần mô tả về hành động của Đức Chúa Trời.
Ở đây trình bày vua
Nê-bu-cát-nết-sa có quyền thế ở đỉnh cao nhất: ở nhà, trong cung điện của ta, an nhàn thoả mãn hưởng mọi thành công
(4). Không như câu 2-3, ở đây hoàn toàn
không đá động đến lòng nhân từ và sự vĩ đại của Đức Chúa Trời. Sự khiếm khuyết này khiến cho độc giả nóng
lòng trông chờ một biến cố lớn lao sắp tới làm đảo ngược tình thế (so sánh
Lu-ca 12:16-19).
Vua Nê-bu-cát-nết-sa thấy
một ác mộng. Bất chấp những kinh nghiệm
trong chương 1-3 và những lời xưng nhận trong 2:47 và 3:28-29, vua vẫn tìm đến
sự tham vấn của các thuật sĩ (Châm Ngôn 26:11; IIPhi-e-rơ 2:22), để rồi phát hiện
rằng họ bất tài bất lực (7). Khi ông
Đa-ni-ên nhập cuộc (8) ông đem ánh sáng chiếu vào nơi tối tăm (so sánh Ma-thi-ơ
5:14; Phi-líp 2:14-16).
Hình ảnh chính trong điềm
chiêm bao là một cây xanh khổng lồ, rõ ràng là biểu tượng cho một đế quốc toàn
cầu bao gồm tất cả và cung ứng nhu cầu cho tất cả các dân (10-12; so sánh
2:37-38). Dầu vậy, một sắc lệnh đến từ
trời khiến cây bị đốn hạ, chỉ còn cái gốc (15a). Nhưng đế quốc được nhân cách hoá
(15b-16). Con người đó sẽ bị hạ nhục, sống
như một con thú, dãi dầm sương móc
(15b). Có lẽ chi tiết này khiến cho tâm
hồn của vua Nê-bu-cát-nết-sa lo âu vì thấy rằng đây là một điềm gở lạ (5) và
khiến cho các thuật sĩ hoàng gia bối rối (7).
Một lần nữa, chỉ có ông Đa-ni-ên, một người “nước ngoài” thuộc về Đức
Chúa Trời mới có thể giúp vua.
Ghi nhận là vua
Nê-bu-cát-nết-sa căn cứ vào sự hiểu biết của mình lâu nay mà nhận định về đời sống
thuộc linh của ông theo khung chuẩn tôn giáo của chính mình (linh của các thần, 18b). Vua vẫn chưa thoát khỏi xiềng xích của đa thần
tín ngưỡng dù vua đã từng thốt ra những lời xưng nhận về Đức Chúa Trời. Vua là loại người có nhận thức tín ngưỡng
nhưng không kinh nghiệm niềm tin biến cải theo Kinh Thánh (so sánh c. 8)
4:19-27 Cảnh báo về sự hình phạt
Ông Đa-ni-ên lộ vẻ sững sờ bối rối (19)
vì cớ ý nghĩa của điềm chiêm bao chớ không phải vì không hiểu. Nhạy cảm tinh tế
như vậy quả là điều đáng trân trọng (trước khi giải nghĩa chiêm bao, ông nhã nhặn
nhập đề đúng theo phong cách của người Trung Đông; 19b). Ông không vui sướng gì trước viễn cảnh vua bị
hạ nhục. Với tinh thần này ông phản ảnh
nỗi lòng của Đức Chúa Trời và Chúa Cứu Thế (Ê-xê-chi-ên 18:23; Ma-thi-ơ
23:27). Chắc chắn trong lời cầu nguyện hằng
ngày ông thường xuyên nhắc đến tên vua Nê-bu-cát-nết-sa (so sánh 6:10).
Sau đó ông trình bày ý
nghĩa (24-26). Đó là lệnh hình phạt của
Đức Chúa Trời đối với vua Nê-bu-cát-nết-sa
(24) nằm trong phạm vi quyền tể trị tuyệt đối của Đức Chúa Trời (25, 27). Biện pháp hình phạt vừa công bằng vừa nhân từ: Vua Nê-bu-cát-nết-sa trở nên như một con
thú. Đây là một hình thức hình phạt thoả
đáng dành cho con người đã từng xử sự như thú dữ đối với dân của Đức Chúa Trời
(ngoài ra còn phải kể đến thái độ của vua đối với thành phần bị áp bức nữa, 27;
Theo Kinh Thánh Cựu Ước, thái độ đó luôn luôn bộc lộ về tấm lòng của người,
Ê-sai 1:17; 58:6). Ngoài ra sự hạ nhục
này nhằm đẩy vua đến chỗ ăn năn trong tinh thần hy vọng rằng Đức Chúa Trời là Đấng
hạ nhục cũng sẽ cất nhắc người ta lên quyền cao chức trọng.
Đức Chúa Trời không bao
giờ độc đoán trong vấn đề hình phạt, mà luôn luôn công bằng đạo đức. Ông Đa-ni-ên nhấn mạnh điều này khi ông
khuyên can vua (một cách nhã nhặn nhẹ nhàng).
Vì Đức Chúa Trời hình phạt xứng đáng với những sự vi phạm trắng trợn đối
với luật lệ đạo đức của Ngài, nên sự ăn năn bày tỏ qua thái độ vâng theo các luật
lệ đó có thể khiến Ngài khoan dung tha thứ (so sánh Châm Ngôn 28:13, Ê-sai
58:9b-10; Giô-na 4:2). Ngay cả con người
không có lòng thương xót cũng có thể tìm được sự thương xót. Nhưng bằng cớ chứng tỏ họ muốn được Đức Chúa
Trời thương xót là họ phải xử sự cách nhân từ thương xót đối với người khác (so
sánh Ma-thi-ơ 6:12; 18:21-35).
4:28-37 Bị hạ nhục và được chữa lành
Sắc lệnh của Đức Chúa Trời
được thi hành. Sau khi được hưởng cơ hội
ăn năn với thời gian một năm (29), vua Nê-bu-cát-nết-sa lại rơi vào tội tự cao
tự đại (30): Ta đã xây ... thế lực đầy uy quyền của ta ... cho sự vinh quang của quyền
lực của ta... (so sánh Ê-sai 13:19).
Đúng ra, thành quả của vua thật đáng nể, kể cả chương trình tái thiết và
tôn tạo quy mô. Vua xây dựng vườn treo vốn
là một trong bảy kỳ công của thế giới thời cổ, nhằm giúp hoàng hậu Amytis người
Mê-đi là vợ của vua đỡ nhớ quê hương.
Nhưng vua cũng ráo riết đeo đuổi chính sách bành trướng đế quốc, tự xưng
rằng vua được thần Marduk phong làm vua toàn cầu; vua không mảy may quan tâm đến
Thi Thiên 127:1.
Bản
án mà Đức Chúa Trời đã rao ra trong 31-32 là một bản án hạ nhục vua hoàn toàn; lập tức vua bị mất trí và bị tước hết quyền
hành (31, 34). Vua thuật lại rằng trí khôn của vua được phục hồi
(33). Điều này củng cố cho quan điểm chủ
trương rằng biện pháp trừng phạt của Đức Chúa Trời là chứng rối loạn tâm thần
(nay y học gọi là hoang tưởng mình là chó sói).
Lời của Đức Chúa Trời tác động mạnh mẽ trên tâm thần của ông là như thế
đấy (so sánh Giê-rê-mi 25:15-16). Vì vua
từng tự xem mình là siêu nhân (3:1-6; 4:30) nên vua rơi vào tình trạng bán nhân
bán thú; vì vua cho dựng tượng của chính mình và bắt thiên hạ quỳ lạy trước tượng
như lạy một vị thần nên vua mất cuộc sống bày tỏ hình ảnh của Đức Chúa Trời
(Sáng Thế Ký 1:26-27) và mất luôn ánh hào quang thứ thiệt cuối cùng còn sót lại
(so sánh La-mã 3:23). Vì vua đã xử sự
như thú dữ nên nay vua gặt hái hậu quả của mớ hạt giống mà vua đã từng gieo ra
(Ga-la-ti 6:7-8).
Nếu trước kia vua chịu ăn năn thì hẳn
vua đã được hưởng ơn thương xót, sự tha thứ (27). Dầu vậy, đến nước này Đức Chúa Trời cũng chỉ
áp dụng biện pháp hạ nhục trong mức độ cần thiết. Thời hạn cho
đến khi (32) của Đức Chúa Trời biểu thị cơ hội phục hồi còn đó. Nhưng không phải ngẫu nhiên mà vua được tha
thứ. Vua được tha thứ khi vua hạ mình cầu
nguyện (Ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ngước mắt
nhìn lên trời cầu cứu, 34), rồi thờ lạy Đức Chúa Trời và công nhận chỉ một
mình Ngài có quyền hành vô hạn (35). Trước
hết, lời tuyên bố của vua gói ghém ý công nhận những sự vận hành của Đức Chúa
Trời trong phạm trù giao ước (từ thế hệ
này sang thế hệ khác, 34; so sánh Xuất Ê-díp-tô Ký 20:5-6; Thi Thiên
103:17-18), và cũng công nhận rằng Ngài công bình và chân thật (37). Ngài chống cự người kiêu ngạo và thương xót
người khiêm nhường (37; so sánh IPhi-e-rơ 5:5).
Kinh nghiệm của vua Nê-bu-cát-nết-sa minh hoạ rất xác đáng cho Thi Thiên
18:25-27.
Các
nhà bình giải Cơ Đốc thường cho rằng vua Nê-bu-cát-nết-sa vẫn không thật tâm ăn
năn. Nếu có ăn năn chăng nữa thì vua chỉ
ăn năn trong một thời gian ngắn mà thôi nên cũng không lạ gì khi sử sách ngoài
đời không ghi chép về sự ăn năn theo đạo của vua.
Mới
đây, người ta tìm thấy trong các hang ở Qumran một tư liệu có tiêu đề là Lời cầu nguyện của Nabonidus. Hoá ra tư
liệu này củng cố cho quan điểm của các nhà phê bình vì họ cho rằng chương này bắt
nguồn từ một chuyện kể về chứng bệnh của vua Nabonidus (trị vì từ 556-539
T.C.). Lời cầu nguyện đề cập đến sự hình phạt của Đức Chúa Trời khiến cho vua mắc
một chứng bệnh kéo dài bảy năm trời.
Trong tư liệu này vua Nabonidus cũng kể chuyện Đức Chúa Trời đưa đến cho
vua một người Hê-bơ-rơ bị lưu đày để giải nghĩa từng trải của vua, và vua cũng
viết một sắc lệnh liên quan đến vấn đề thờ lạy Đức Chúa Trời là Đấng Tối
Cao. Dù có những chi tiết dị biệt giữa
chuyện trong Đa-ni-ên 4 và tư liệu này, có thể lắm (như E. J. Young chủ trương)
người viết tư liệu này căn cứ vào chuyện truyền khẩu đã lẫn lộn Nabonidus với
Nê-bu-cát-nết-sa. Kể cũng lạ là nhiều nhà phê bình có khuynh hướng dễ dàng và
mau mắn kết luận rằng các tư liệu khác có tính cách lịch sử và chính xác hơn những
sách của Kinh Thánh Cựu Ước.
5:1-30 Quyền cai trị của
Đức Chúa Trời trong vụ loại bỏ vua Bên-xát-sa
5:1-9 Chữ viết trên bức tường
Dù sách Đa-ni-ên có những
phần được xem là có tính cách lịch sử, nhưng sách không nhằm tường thuật theo
thứ tự thời gian những vụ việc tại Ba-by-lôn.
Trái lại, sách chỉ chọn và ghi lại những thời điểm căng nhất trong cuộc
đối đầu giữa vương quốc của ánh sáng và vương quốc của sự tối tăm. Với những tư
liệu ghi chép về sự can thiệp của Đức Chúa Trời vào những biến cố đầy kịch tính
như thế tác giả nhằm tăng cường lòng can đảm cho độc giả khi đối phó với cuộc đấu
tranh đương thời trong lãnh vực thuộc linh.
Đúng
ra vị vua cuối cùng của triều đại Tân Ba-by-lôn là Habonidus (556-539 T.C.),
nhưng suốt mười năm trời vua ngự ở Teiman, cho con trai là Bel-sar-usur
(Bên-xát-sa, “Bên bảo vệ vua”) làm nhiếp chính.
Lưu ý là Bên-xát-sa hứa thưởng vị
trí thứ ba trong guồng máy cai trị (7, 16 và 29) ngầm nói về sự kiện trên
(so sánh với Sáng Thế Ký 41:40 Pha-ra-ôn đặt Giô-sép vào vị trí thứ hai). Có lẽ vua Bên-xát-sa là cháu nội của vua
Nê-bu-cát-nết-sa. Chắc hẳn độc giả đương
thời hiểu ngay rằng từ “cha” trong 2, 11, 18 và từ “con” trong câu 22 được dùng
cách du di đại khái.
Một lần
nữa tác giả chuẩn bị tinh thần cho chúng ta chứng kiến sự hoạt động của Đức
Chúa Trời trong lãnh vực phán xét trừng phạt (1-4). Trong buổi yến tiệc gồm các quan lẫn cung phi mỹ nữ
(3) người ta uống rượu thả cửa và hậu quả là lương tâm của vua không còn nhạy
bén để cảm nhận tiếng nhắc nhở trong tâm thức là phải biết sợ Đức Chúa Trời: vua
truyền lệnh đem các loại chén vàng, chén bạc... đã tịch thu tại đền thờ
Giê-ru-sa-lem (2). Chẳng mấy chốc ai
nấy cũng thả cửa nói phạm thượng đến Đức Chúa Trời (4). Thế là xuất hiện tín hiệu về sự phán xét của
Đức Chúa Trời khiến cho ai nấy không còn tin tưởng cách mù quáng là mọi sự vẫn ổn
(so sánh Ê-sai 47:10-11). Ai nấy đều
nhìn chăm vua Bên-sát-sa (là vị vua vừa uống
chén thù chén tạc với họ lúc nãy, 1).
Sự kiện này chuẩn bị tinh thần độc giả cho cảnh tượng minh hoạ cho câu
châm ngôn: “Kiêu ngạo đi trước, sụp đổ theo sau (Châm Ngôn 18:12).
Sự can thiệp của Đức Chúa Trời vừa đầy
kịch tính vừa làm cho vua Bên-sát-sa kinh hãi.
Chắc là vua đã rơi vào tình trạng lơ ngơ của một người ngà ngà say, nên
khi bàn tay xuất hiện viết một hàng chữ trên tường khiến cho vua tỉnh rượu và
biến vua từ một tay ăn chơi thành một con người kinh hoảng và thảm hại
(6). Chúng ta đã quá quen thuộc với cách
xử lý của vua, đó là tìm đến sự khôn ngoan của đời này, nhưng các bậc tài trí
khôn sáng tỏ ra bất lực (so sánh 2:2; 4:6).
Kinh Thánh không cho biết vì sao các nhà thông thái lại không thể đọc được
hàng chữ viết trên tường. Có thể nghĩ đến
vài nguyên do. Chữ viết không rõ, viết
theo mật mã hoặc ý nghĩa không rõ. Với tất
cả sự khôn ngoan của mình, thế gian không thể nào biết Đức Chúa Trời cũng không
thể hiểu sự khải thị của Ngài (ICô-rinh-tô 1:21; 2:14).
5:10-17 Có người nhớ đến ông Đa-ni-ên
Một lần nữa, tương tự như chuyện trong
Sáng Thế Ký 41:1-16 có người trong hậu cung hoàng gia nhớ lại ông Đa-ni-ên và
nhắc đến tên ông. Hoàng thái hậu so sánh
vua Bên-xát-sa với vua Nê-bu-cát-nết-sa (băng hà khoảng hai mươi năm về trước)
với giọng hầu như công khai trách cứ rồi bà giới thiệu cho vua sự khôn ngoan của
ông Đa-ni-ên đã từng được minh chứng rõ ràng và chắc chắn. Lời nói của bà rõ ràng bộc lộ sự tôn trọng
dành cho ông Đa-ni-ên, nổi bật qua việc bà nhắc đến cả hai tên riêng của ông
trong tiếng Ba-by-lôn lẫn trong tiếng Hê-bơ-rơ và qua việc bà nhấn mạnh khả
năng vượt bậc của ông (12; so sánh Ê-sai 11:2-3). Dường như ông Đa-ni-ên không còn giữ chức vụ
hàng đầu trong guồng máy cai trị ở Ba-by-lôn như xưa nữa. Còn coi như vua Bên-sát-sa can tội tương tự
như tội của vua Rô-bô-am (ICác Vua 12:7-8).
Lời nói của vua
Bên-xát-sa (13-16) cho thấy rõ ràng là vua còn dật dờ say. Vua nhắc đến gốc gác và tuổi tác của cụ
Đa-ni-ên (nay ít nhất cũng phải ngoài tám mươi) một trong số những người cha ta, vua cha (Nê-bu-cát-nết-sa)... đã bắt
lưu đày từ Giê-ru-sa-lem (13) là lối nói rẻ tiền của một người say đang tìm
cách tự trấn an.
5:18-31 Vua bị cân trên bàn cân của Đức
Chúa Trời
Cụ Đa-ni-ên đáp lời giọng gay gắt (17-24) trái ngược với
cách ăn nói ngày xưa khi yết kiến vua Ba-by-lôn (2:16; 4:19; cũng xem lời bình
giải 8:1-4 những nguyên do sâu xa hơn) và khiến chúng ta nhớ lại lối nói của
ông Phi-e-rơ trong Công Vụ 8:18-20. Bài
phát biểu của cụ có hình thức như những bản cáo trạng khác trong Cựu Ước (so
sánh Ô-sê 12:2-6; Mi-chê 6:1-8). Trước
tiên, cụ phác hoạ bối cảnh lịch sử của tội lỗi của vua Nê-bu-cát-nết-sa
(18-21). Những chi tiết này được dùng
làm tín hiệu về sự khải thị của Đức Chúa Trời đối với bản tánh và đường lối làm
việc của Ngài mà vua Bên-sát-sa lẽ ra phải biết và phải hành động phù hợp. Lời cáo buộc tiếp nối đặt cơ sở trên việc này
(câu 22-23 dùng đến mười lăm lần những từ vua, chính mình vua, của vua). Vua biết có Đức Chúa Trời nhưng vua không tôn
vinh Ngài, cũng không cảm tạ Ngài (La-mã 1:21).
Ba từ
trong sứ điệp này (25) đều nói về trọng lượng và như vậy là nói về giá trị (Mene = mina; Tê-ken:shekel; Phác-sin =
phần). Lời giải nghĩa của cụ Đa-ni-ên
căn cứ trên ý chính, sự cân lượng và sự đánh giá kết hợp với một dạng chơi chữ
trong lãnh vực ngữ học. Mene bắt nguồn từ động từ “đếm” hoặc “ấn
định”; tekel là một dạng động từ có
nghĩa là “câu” hoặc “lượng định giá trị” và parsin
(peres, là dạng số ít) là “những phần”
hoặc “những cổ phần”. Vương quốc của vua
Bên-sát-sa đã bị cân và đã bị định giá; nó sẽ bị chia cắt cho người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ (Ba-tư, một
từ do chơi chữ parsin).
Vua
Bên-sát-sa chẳng mất gì khi giữ trọn lời hứa.
Nếu lời giải nghĩa của cụ Đa-ni-ên ứng nghiệm thì chức vụ hàng thứ ba trong vương quốc dành cho cụ
cũng chẳng tồn tại nổi (29). Còn nếu
không ứng nghiệm thì chắc là cụ mất mạng.
Dầu vậy, ngay trong đêm đó vua Bên-sát-sa mất mạng (30, so sánh Châm
Ngôn 29:1).
Cụ
Đa-ni-ên không giải thích thêm một lời nào nữa (cụ chỉ quan tâm đến sự kiện chính
là sự hình phạt của Đức Chúa Trời chứ không quan tâm đến những chi tiết liên
quan). Ngay cả ông Herodotus lẫn ông
Xenophon đều ghi lại rằng Ba-by-lôn bị chiếm trong đêm có yến tiệc vì quân thù
tạm dẫn nước sông Ơ-phơ-rát chảy qua hướng khác, rồi họ chui vào thành qua ngõ
lòng sông khô nước. Ông Xenophon (là người
mô tả cuộc chinh phục của Si-ru) cũng ghi lại sự kiện người Ba-tư giết vị vua
trẻ và vô tín của Ba-by-lôn.
Ở đây
có một điểm rắc rối. Cụ Đa-ni-ên ghi rằng
Đa-ri-út, người Mê-đi chiếm vương quốc
(31). Nhưng ở những chỗ khác trong Kinh
Thánh thì ghi vua Si-ru, người Ba-tư là người giải phóng dân sự của Đức Chúa Trời
khỏi Ba-by-lôn (IISử Ký 36:22-23;
E-xơ-ra 1:1-8). Do đó, các học giả xem Đa-ri-út , người Mê-đi là một nhân vật bịa
đặt hoàn toàn hoặc là một sự nhầm lẫn
trong sách sử - tức là người ta lầm Đa-ri-út I (vua của Ba-tư 522-486 T.C.) với
Si-ru vào thời đó khoảng sáu mươi hai tuổi
(31). Các nhà giải kinh trường phái bảo
thủ đưa ra nhiều đề nghị gồm có một ý rất đáng lưu ý đó là danh hiệu Đa-ri-út người Mê-đi là vương hiệu của
Si-ru, người Ba-tư (tham khảo bài viết chi tiết hơn về vấn đề này trong sách Đa-ni-ên, do J. Baldwin, TOTC.
[IVP, 1978] trang 23-28).
6:1-28 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời
trên thú dữ
6:1-9 Vua Đa-ri-út mắc mưu
Sự cai trị của vua Đa-ri-út mở màn cho cuộc
thay đổi lớn lao trong guồng máy cai trị ở Ba-by-lôn. Dàn chính quyền mới gồm 120 tỉnh trưởng (tổng trấn; 1); cấp tổng trấn ở dưới quyền
của một nội các ít người. Cấp đầu não
này trực tiếp nằm dưới quyền của vua (câu 6 cho thấy còn những cấp khác nữa).
Sở dĩ chính quyền tổ chức
hệ thống quan lại (để vua không bị thiệt
hại, 2) là vì vô số những sự cám dỗ trong chính trường và vì quan quyền cao
cấp không bảo đảm có đạo đức tốt. Cụ
Đa-ni-ên (nay đã ngoài tám mươi) lại có dịp minh chứng về sự khôn ngoan ngoại hạng
mà Đức Chúa Trời đã phú cho cụ, nhưng khi cụ được vua cất nhắc lên địa vị chóp
bu thì các quan đồng cấp và các quan cấp dưới sinh lòng ghen tị (4).
Thế là dẫn đến một loạt
âm mưu của hàng loạt người đồng lòng tham gia cuộc chiến. Họ sẵn sàng bỏ qua ác cảm truyền thống, trong
trường hợp này là ác cảm giữa cấp dưới đối với cấp trên để cùng nhau chống lại
người được xức dầu của Đức Chúa Trời.
Đây không phải là lần đầu hoặc lần cuối xảy ra một cuộc chống đối thuộc
loại này (so sánh Thi Thiên 2:1-2; Ma-thi-ơ 16:1; Lu-ca 23:12; Công Vụ
4:25-27).
Đám quan đồng công với cụ
Đa-ni-ên không có cơ sở để chê trách cụ và như vậy là không có bàn đạp để đẩy cụ
ra khỏi chức vụ (4, so sánh Giăng 14:30).
Dù họ sinh lòng ghen ghét cụ nhưng họ buộc phải công nhận cụ liêm khiết
chân chính. Họ biết rằng họ chỉ còn một
cách là biến sức mạnh thuộc linh nổi tiếng của cụ thành một điểm yếu trên
phương diện chính trị, vì họ dư biết rằng cụ thà vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn
vâng lời người ta (5; lưu ý là trường hợp này cũng tương tự như trong Công Vụ
4:19). Họ thực hiện việc đó bằng cách biến
điểm yếu của vua về phương diện thuộc linh thành điểm mạnh của họ về phương diện
chính trị (6-7). Trong vùng Trung đông
thời cổ không phải chỉ có người Mê-đi và Phe-rơ-sơ mới chủ trương rằng hễ đã là
luật thì không ai, không cách nào thay đổi
được nữa (8; so sánh E-xơ-tê 1:19).
Cũng vậy, không phải chỉ một mình vua Đa-ri-út bị cám dỗ muốn áp đặt một
chế độ độc tài (7). E-xơ-tê 8:8 trình
bày lý do khiến sắc lệnh thành văn một khi đã trở nên luật của Ba-tư rồi là
không thể thay đổi được.
6:10-17 Thà vâng lời Đức Chúa Trời hơn là
vâng lời người ta
Tự thân cuộc âm mưu này không có gì là phức
tạp, nhưng lại là một sự thử nghiệm tế nhị đối với cụ Đa-ni-ên: sắc lệnh cấm tất
cả mọi người cầu nguyện thành tiếng với các thần trong một thời gian hạn định
(7). Ngoài ra cụ Đa-ni-ên nay đã tám
mươi ngoài, đã quá già. Không mấy ai hi
vọng người ở tuổi đó còn làm nên chuyện anh hùng.
Tuy nhiên, cụ Đa-ni-ên đặc
biệt nhận biết rằng nếu phải trả giá bằng lòng trung thành với Đức Chúa Trời để
có lợi thì rốt cuộc lợi đó cũng bằng là lỗ thôi (so sánh Phi-líp 3:7-8).
Trong câu chuyện nút thắt
gay cấn chỉ có sự kiện đơn giản là cụ Đa-ni-ên cầu nguyện với một thái độ bộc lộ
rõ ràng tinh thần cung kính. Dầu vậy,
qua sự kiện đó chúng ta cũng thấy được nhiều chi tiết khác nữa và nhờ đó cụ trở
nên gương mẫu cho mọi nếp sống cầu nguyện (so sánh 2:17-18; 9:3-19; 10:2-3,
12). Cụ có thói quen thờ phượng Chúa
trên gác thượng (một phòng nhỏ trên gác
sát dưới mái nhà, 10) với cửa sổ mở toang quay hướng về Giê-ru-sa-lem. Vì biết rằng Đức Chúa Trời hiện diện ở khắp mọi
nơi, và như vậy là Ngài cũng nghe những lời cầu nguyện của cụ ở tại Ba-by-lôn,
cụ dâng lời cầu nguyện với Chúa là Đấng đã khải thị chính mình Ngài cách đặc biệt
cụ thể tại Giê-ru-sa-lem là nơi hòm Giao Ước của Ngài đã được thỉnh về ngự (chú
ý là lời cầu nguyện của cụ trong chương 9 cũng hướng về Giao Ước). Sự kiện cụ Đa-ni-ên cầu nguyện thường xuyên đều
đặn (10b) cũng là điều đáng bàn bạc, rồi đến nội dung lời cầu nguyện nặng phần
cảm tạ dù cá nhân cụ đang lâm cảnh nguy nan; rồi dáng dấp của cụ trong khi cầu
nguyện (quỳ gối, 10) cho thấy cụ hết
sức khẩn nài (11).
Nhóm người âm mưu khéo
léo dồn cả cụ Đa-ni-ên lẫn vua Đa-ri-út vào bẫy của họ (11-12). Niềm tin của cụ nơi Đức Chúa Trời của giao ước
vốn là yếu tố đặc biệt khiến cho cụ trở nên nhân vật duy nhất xứng đáng được
tin cậy hoàn toàn trong triều đình Đa-ri-út. Giờ đây kẻ thù mổ xẻ và thẩm định
lại giá trị của yếu tố đặc biệt đó. Xưa
nay cụ là người đáng tin cậy nhất, ngưng nay cụ bị liệt vào hạng người bất
trung, phản trắc (13). Còn vua Đa-ri-út
giờ đây cũng vỡ lẽ ra là mình ngu dại, nhưng vua hoàn toàn không làm sao đảo
ngược tình thế được (14) mà dường như cụ Đa-ni-ên cũng hoàn toàn bất lực vậy
thôi (17). Tuy nhiên, lưu ý tình tiết
trái ngược mà tác giả khéo vạch ra và đặt nặng trong suốt câu chuyện: hai phía,
các quan đồng mưu lẫn vua đều ráo riết xoay sở, mưu toan tính kế (3-9,
14). Trái lại nếp sống của cụ Đa-ni-ên
toả ra sắc thái an nhiên đều đặn và chân thành về mặt thuộc linh. Từ câu 21 trở về trước chúng ta thấy cụ không
nói năng gì với ai ngoài Đức Chúa Trời.
6:18-28 Bởi đức tin được quyền năng của Đức
Chúa Trời bảo vệ
Bởi đức tin cụ Đa-ni-ên được quyền năng của
Đức Chúa Trời bảo vệ (Hê-bơ-rơ 11:33b; IPhi-e-rơ 1:5), không phải bảo vệ khỏi mọi sự hiểm nguy nhưng bảo vệ an
toàn giữa cơn hiểm nguy. Vua hết sức ngạc
nhiên và nhẹ nhõm cả người khi thấy thiên sứ của Đức Chúa Trời đã can thiệp để
bảo vệ cụ Đa-ni-ên, nhân chứng của Đức Chúa Trời (so sánh 22; Thi Thiên
91:9-16). Bởi đức tin (23) cụ đã trải
nghiệm những quyền lực sẽ được bày tỏ trong thời kỳ cuối rốt (Hê-bơ-rơ 6:5) là
khi sư tử được thuần hoá, trở nên hiền lành (Ê-sai 11:7). Như tất cả các phép lạ trong Kinh Thánh Cựu Ước,
phép lạ này báo trước phép lạ lớn lao về sự sống lại của Chúa Giê-xu (so sánh
c. 17 với Ma-thi-ơ 27:60-66), rồi sự sống lại của Chúa báo trước sự sống lại
trong thời kỳ cuối cùng và sự phục hồi (ICô-rinh-tô 15:20-28; so sánh Thi Thiên
2:4-8). Trong “một vũ trụ có vẻ như khép
kín” (17) Đức Chúa Trời đã chứng tỏ rằng người ta không thể không tính đến
Ngài; dù người tin Chúa có ngủ trong đáy vực sâu nhất, Đức Chúa Trời cũng có mặt
tại đó (Thi Thiên 139:8)! Do đó cụ
Đa-ni-ên được Ngài bảo vệ và giải cứu an toàn, tương tự như khi Ngài giải cứu
an toàn ba bạn của cụ khi xưa vậy (23b; so sánh 3:27 và, sau này Giăng
19:31-36).
Trái với sự suy nghĩ sai
lầm chung, Kinh Thánh Cựu Ước ghi lại rất ít phép lạ đầy kịch tính. Trong thời
kỳ này, cũng như những thời kỳ khác trong Cựu Ước có tập trung nhiều phép lạ
(thời Xuất Ai Cập và thời tiến vào xứ Ca-na-an, thời tiên tri Ê-li cùng Ê-li-sê
và sự xác chứng họ được lập làm tiên tri), phép lạ xảy ra vào những thời điểm đầy
chấn động trong vương quốc của Đức Chúa Trời.
Cũng như ở những chỗ khác, các phép lạ trong sách Đa-ni-ên không chỉ
“trái ngược với tự nhiên”, hoặc “vượt quá tự nhiên” mà cơ bản là “trái ngược với
tội lỗi xấu xa” và quyền lực của sự tối tăm.
Các phép lạ đó là tín hiệu của “các quyền lực trong thời kỳ cuối cùng”
là khi mọi xấu xa tội lỗi đều bị đánh bại.
Câu 24 ghi lại phần kết
không mấy sáng sủa. Có lẽ không nhất thiết
là tất cả các quan đều dính líu vào vụ này.
Theo Herodotus thì biện pháp hình phạt toàn bộ gia đình của phạm nhân là
phù hợp với luật pháp của người Ba-tư. Tự thân câu chuyện không nhằm đưa ra một
lời nhận định nào về mặt đạo đức (so sánh Ê-xơ-tê 8:1-10), nhưng sứ điệp nhấn mạnh
ở đây là rất rõ nét: Nỗ lực cản trở bước tiến của vương quốc của Đức Chúa Trời
là mất tất cả. Chung cuộc, ai chống cự Đức
Chúa Trời đều tan tành. Một lần nữa, câu
chuyện này ăn khớp với những nguyên tắc trong Thi Thiên 2 (so sánh Thi Thiên
2:9-12).
Một sắc lệnh của vua tán
dương sự kiện cụ Đa-ni-ên được giải cứu (có lẽ theo ý đề xuất của chính cụ) với
nội dung ca ngợi Đức Chúa Trời là Đấng sống
(26, tích cực can dự vào mọi hoạt động của thế giới chẳng hạn), Đấng cầm quyền
tối thượng và Đấng giải cứu. Bản thân cụ
Đa-ni-ên minh hoạ sống động cho những nguyên tắc cơ bản nhất trong một nếp sống
tin kính (so sánh Thi Thiên 1 đặc biệt là c. 2-3). Nếu đúng vua Đa-ri-út là vua
Si-ru thì nên dịch từ “và” (28) là “chính là” (lề của bản NIV) thì mới phải lẽ.
7:1-28 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời
trên thế giới loài thú
7:1-14 Bốn con thú, một con người
Chương 7 vừa dẫn nhập
vào phần thứ hai của sách vừa nối kết hai phần thứ nhất và phần thứ hai lại với
nhau. Chương này vừa dẫn nhập vào một phần
mới gồm những khải tượng của ông Đa-ni-ên về thời sau rốt vừa đưa chúng ta trở
ngược thời gian về với thời trị vì của vua Bên-sát-sa (chương 5) rồi cũng kết
thúc phần sách viết bằng tiếng A-ram. Vì
vậy độc giả nên lưu ý đến những mối liên hệ quan trọng giữa lịch sử với khải thị. Về mặt nội dung, khải tượng trong chương này
khiến chúng ta nhớ lại điềm chiêm bao của vua Nê-bu-cát-nết-sa trong chương
2. Tuy nhiên, điềm chiêm bao đó tập
trung chú ý vào sự kế tục của các vương quốc hùng cường là những lực lượng chống
nghịch vương quốc của Đức Chúa Trời nhưng cuối cùng bị vương quốc của Đức Chúa
Trời đánh bại. Còn trong khải tượng này
tập trung trình bày về tình trạng sa đoạ và thời hạn tồn tại ngắn ngủi của các
vương quốc đó (tiêu biểu bởi các con thú) so với vương quốc của Đức Chúa Trời tồn
tại đời đời.
Cũng
như ở những đoạn văn khải thị khác, đoạn văn này chú trọng đến cái nhìn (lưu ý
những câu nhấn mạnh sự kiện tác giả “nhìn thấy” c. 2, 4, 6, 7, 9, 11, 13). Dù là điều quan trọng là cần giải ý nghĩa của
khải tượng về mặt lịch sử nhưng Đức Chúa Trời cho tác giả được nhìn thấy điều
Ngài khải thị nên xem ra Ngài đặt nặng vai trò của giác quan cũng như của lý
trí, lập luận. Chủ ý của Ngài là tạo ấn
tượng mẫu chớ không phải chỉ cho tác giả biết nội dung của sự khải thị mà thôi.
Tác
giả thấy khải tượng này trong năm thứ nhất thời trị vì của vua Bên-xát-sa (so
sánh lời bình giải của 5:1). Chắc chắn
ông Đa-ni-ên biết rõ nội bộ hoàng gia nên lòng ông lo nghĩ về tương lai kề cận. (Qua 5:17 chúng ta biết ông không có nhiều thời
gian phục vụ vua Bên-xát-sa).
Giờ đây Đức Chúa Trời cho ông thấy một
khải tượng lớn lao liên quan đến biển lớn
(có thể là Địa Trung Hải, nhưng có lẽ lắm là
một hình ảnh bao trùm toàn htế giới
trong tình trạng vô tín và bất ổn). Tuy
nhiên, không phải các con thú đã khấy động nước biển khi trồi lên từ lòng biển
mà là gió của bốn phương trời
(2). Đây là một tín hiệu ngụ ý rằng đằng
sau những biến cố đáng sợ nhất vẫn có sự vận hành của Đức Chúa Trời. Sự kiện này được nhấn mạnh thêm với những động
từ ở thể thụ động khi tác giả mô tả những
việc liên quan đến các con thú,dù rõ ràng rằng các con thú này tượng trưng cho các đế quốc: con thú có dạng
như sư tử có cánh bị gãy, thân bị kéo lên khỏi mặt đất, được ban cho lòng dạ loài người (4; có lẽ
đây là hình ảnh của vua Nê-bu-cát-nết-sa); đối với con thú tương tự như con gấu
thì người ta bảo nó “vùng dậy mà ăn
thịt cho nhiều!”(5). Còn con thú giống
như con beo được cho quyền thống trị
(6). Con người nắm quyền cai trị có thể
phát sinh chế độ chuyên chế độc tài nhưng chẳng bao giờ họ được hoàn toàn tự quản. Người tin Chúa vẫn luôn luôn có thể phóng tầm
nhìn vượt qua mọi hoạt động của nhà cầm quyền để thấy đường lối cai trị của Đức
Chúa Trời. Nội dung điềm chiêm bao của
vua Nê-bu-cát-nết-sa có sắc thái rất tương đồng với khải tượng về các con thú
nên có lẽ cả hai đều liên quan đến các đế quốc (Ba-by-lôn, Mê-đi - Phe-rơ-sơ
(Ba-tư) và Hi Lạp, trong tinh thần bình giải ở phần trước). Đáng lưu ý là ở chỗ khác vua Nê-bu-cát-nết-sa
được ví sánh với cả sư tử (Giê-rê-mi 4:7; so sánh 49:19; 50:44) lẫn chim ưng
(Ê-xê-chi-ên 17:3, 11-12; so sánh câu 4
với 4:33-34). Muốn mô tả những cuộc
chinh phục của A-lịch-sơn Đại đế thì không có hình ảnh nào thích hợp hơn là
hình ảnh con báo có cánh, về sau mọc lên bốn cái sừng (trong thực tế, sau khi
vua A-lịch-sơn Đại đế băng hà, đế quốc Hi Lạp bị chia cắt làm bốn).
Thú tánh đáng sợ của các con thú đó
chẳng còn nghĩa lý gì khi so với lời lẽ mô tả con thú thứ tư cùng sự tàn bạo của
nó. trong khi các con thú trước giống sư
tử, chim ưng, con gấu và con báo thì con thú thứ tư không giống một con thú nào
trong thế giới động vật cả. Trong lúc
ông Đa-ni-ên đang ngẩn ngơ nghĩ ngợi về mười cái sừng trên đầu nó (7-8), ông lại
chú ý tới cái sừng mới mọc; có vẻ như cái sừng này tượng trưng cho một nhân vật,
một con người có cá tính ngạo mạn tự cao tự đại (8).
Trong khi ông Đa-ni-ên chăm chú nhìn
thì ba cảnh tượng kế tiếp nhau xuất hiện trước mắt ông. Có lẽ hợp lý nhất là chúng ta nên xem ba cảnh
tượng này như ba cảnh trong một tấm thảm dệt, cả ba hợp lại tạo ra trong lòng
khán giả một ấn tượng mạnh.
Cảnh thứ nhất (9-10) là khải tượng về
ngôi của Đức Chúa Trời. Trái ngược với
những cảnh tượng đã thấy, cảnh này đặc biệt toát ra bầu không khí trật tự, yên
tĩnh và quyền thống trị tối cao. Dù
không có chi tiết nào xác định mối liên hệ giữa cảnh này với cảnh thứ hai
(11-12) nhưng ngụ ý thì rõ ràng lắm, tức là căn cơ đằng sau sự hủy diệt con thú
thứ tư và sự tước đoạt quyền hành của các con thú trước là sự phán xét của Đức
Chúa Trời (10; phiên toà khai mạc và các
hồ sơ đều mở ra gợi ý là toà sắp tuyên án).
So với Đấng Tạo Hoá là Đấng hiện
hữu từ trước vô cùng thì thời gian tồn tại của các vương quốc trên thế giới này
quả là ngắn ngủi lắm. Sự hiện diện của Ngài trong vai trò vị quan toà thánh khiết
và công bình được biểu thị bằng ánh sáng chói loà nóng bỏng và màu trắng tinh
tươm hoàn hảo (9; so sánh Thi Thiên 50:3-4).
Cảnh thứ ba diễn ra trong đại sảnh có ngai ngự của Đức Chúa Trời. Tại đó một Đấng có hình dạng như con người ngự đến trình diện Đấng Tạo Hoá (13) vì Đấng Tạo Hoá trao
cho Ngài tất cả quyền hành trên toàn cõi vũ trụ này. Đấng ấy là Con Người Chân Chính trái ngược với
các con thú. Ngài có thể đối diện với sự
thánh khiết và ngự trong sự vinh hiển của Đức Chúa Trời. Với hình ảnh này khối đá trong điềm chiêm bao
của vua Nê-bu-cát-nết-sa (2:35, 44-45) trở nên một con người. Từ con người này toả ra hình ảnh thật của Đức
Chúa Trời (Sáng Thế Ký 1:26-28). Đây là
Đấng Cứu Thế trong hình hài con người, là Đấng nhiếp chính thật của Đức Chúa Trời
(Thi Thiên 2:8; 8:4-8; 72:1-11, 17; Hê-bơ-rơ 2:5-9; 12:28).
7:15-28 Cái sừng gây chiến
Ông Đa-ni-ên nhận được
một loạt manh mối góp phần giải nghĩa những cảnh này. Giải nghĩa các con thú là đế quốc xem ra đúng
hướng với các manh mối này. Khải tượng
nhằm bảo đảm cho ông Đa-ni-ên rằng các
thánh của Đấng Chí Cao sẽ nhận được quyền cai trị và nắm chủ quyền trên vương
quốc (18). Không nên hiểu rằng “con
người” (13) và các thánh của Đấng Chí Cao
là một từ đồng nghĩa, nhưng giữa “con người” và các thánh của Đấng Chí Cao có
liên hệ với nhau, cuối cùng mối liên hệ này được lộ rõ qua biến cố Đấng Christ
tái lâm (tức là Khải Thị 1:7). Khi Ngài
đăng quang thì các thánh của Ngài được bảo đảm là sẽ cùng chiến thắng khải hoàn
với Ngài (Khải Thị 20:6).
Mặc
dù ông Đa-ni-ên đã được bảo đảm rằng vương quốc của Đức Chúa Trời sẽ đắc thắng
như vậy, nhưng ông vẫn đặc biệt lo ngại về con thú thứ tư dữ dằn, về cái sừng
và cái sừng nhỏ trên đầu nó (19; so
sánh c. 8). Lời giải nghĩa về con thú thứ
tư như ánh sáng soi vào khải tượng nhưng cũng không cho phép chúng ta hiểu rành
rẽ. Do đó, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi mà các nhà bình giải không nhất trí
với nhau về ý nghĩa của khúc Kinh Thánh này.
Nội dung khó hiểu đó khuyến cáo chúng ta chớ nên độc đoán khi tìm cách
hiểu và giải nghĩa khúc Kinh Thánh này.
Cái sừng
nhỏ xuất hiện trong bối cảnh của đế quốc cuối cùng. Việc xác định ai là cái sừng
nhỏ tùy thuộc vào phương hướng chúng ta giải nghĩa toàn bộ khải tượng này (và
điềm chiêm bao của vua Nê-bu-cát-nết-sa trong chương 2). Đặc biệt lưu ý đến ba điểm trong tâm tánh của
cái sừng nhỏ (25). Cái sừng nhỏ can tội
phạm thượng, bách hại dân của Đức Chúa Trời và tự tôn mình là thần dưới vài
hình thức nào đó (vì việc thay đổi thời kỳ,
mùa tiết là việc nằm trong phạm vi quyền hạn riêng của Đức Chúa Trời mà
thôi, 2:21).
Những
người chủ trương rằng giới độc giả đầu tiên đọc sách Đa-ni-ên sống vào thế kỷ
thứ II T.C. thường cho rằng Hi Lạp là đế quốc thứ tư, và như vậy thì Antiochus
Epiphanes là cái sừng nhỏ. Tuy nhiên,
không thể nào đọc khúc Kinh Thánh này trong tầm nhìn của Kinh Thánh Cựu Ước mà
không nhận thấy rằng nhân vật “con người” (13) được ứng nghiệm trong Chúa Cứu
Thế (so sánh Mác 13:26; Công Vụ 7:56; Khải Thị 1:13; 14:14).
Phương thức giải nghĩa
căn cứ vào chuyện đã qua như thế này gợi ý là con thú thứ tư được ứng nghiệm
qua La-mã. Có lẽ tốt hơn hết là xem “các
cái sừng” (7, 8, 24) là hậu thân của “tinh thần” thống trị của La-mã. Từ bối cảnh này nổi lên cái sừng nhỏ, một
nhân vật vô luật pháp, kẻ cuối cùng chống cự Đấng Christ (20, 21, 25; so sánh
IITê-sa-lô-ni-ca 2:4-12; IGiăng 4:3b), là con người hung hãn đàn áp các thánh đồ
(25) suốt một thời kỳ. Thế lực của nhân vật này được tăng cường và củng
cố (suốt trong ... thời kỳ) nhưng rồi
thình lình sẽ bị gãy đổ (và nửa thời kỳ). Rồi vì quyền thế đã được giao phó cho Con Người
và dân sự của Ngài, nên Ngài sẽ cai trị mãi mãi (14, 26-27).
Khải tượng này ảnh hưởng
trên ông Đa-ni-ên cả phần tâm thần lẫn thể xác.
Qua sự kiện ông giữ kín khải tượng này (28) có một bài học quan trọng
cho tất cả những người nhận được những kinh nghiệm thuộc linh bất thường.
8:1-27 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời tồn
tại mãi mãi
Qua những khải tượng này ông Đa-ni-ên hiểu
đầy đủ hơn về cuộc đấu tranh trong đó có cả chính mình ông, nhưng không phải chỉ
giới hạn cho riêng một mình ông, trái lại kinh nghiệm của ông chỉ là một phương
diện nhỏ trong cuộc đấu tranh vĩ đại giữa các vương quốc của thế gian này và
vương quốc của Đức Chúa Trời đang lần hồi được thiết lập.
Khải tượng thứ hai nhắc
ông Đa-ni-ên nhớ lại khải tượng thứ nhất (1), tuy nhiên lần này ông thấy mình đứng
trên bờ sông U-lai ở Su-sa, thủ đô của Ba-tư. Khải tượng gồm có hai hình ảnh
chính rõ ràng trước mắt ông (1-4, 5-12) và hai nội dung được khải thị bằng lời
nói (13-14 do một đấng thánh; 15-26
do Gáp-ri-ên; so sánh 9:21 và Lu-ca
1:19, 26). Vì phần khải thị qua nhãn
quan có liên quan đến phần khải thị qua thính giác nên phương án hiệu quả nhất
là nghiên cứu hai phần này cùng một lượt.
8:1-4, 15-20 Con chiên đực hai sừng
Con chiên đực hai sừng
trong khải tượng thứ nhất (3) tượng trưng
cho các vua Mê-đi Phe-rơ-sơ (Ba-tư, 20), cái sừng dài hơn chắc hẳn là
Ba-tư. Ông Đa-ni-ên thấy con chiên đực
húc cặp sừng để mở đường tiến tới, mở mang lãnh thổ về mọi phương trời. Đúng vậy, đế quốc Ba-tư mở rộng bờ cõi về
phương Tây đến Ba-by-lôn, Sy-ri và Tiểu Á; về phương Bắc đến Ác-mê-ni cùng Biển
Cát-biên; và về phía nam loán vào lục địa Châu Phi. Ông Đa-ni-ên biết rõ những sự kiện này (vào
năm thứ ba thời trị vì của vua Bên-xát-sa) là phù hợp với lối ăn nói mạnh bạo
khi ông tiếp kiến vua lần chót trong ngày vua bị trừ diệt (so sánh
5:18-31). Kể như ông đã thấy từng hàng
chữ viết trên tường về đế quốc Ba-by-lôn. Là người có đức tin, ông Đa-ni-ên lần
hồi nhận biết rằng chung quy điều này là tín hiệu về một thực tại lớn lao hơn -
tức là “hàng chữ đã xuất hiện trên tường” về tất cả mọi đế quốc, ngoại trừ nước
của Đấng Tối Cao (so sánh 2:44).
8:5-8, 21-22 Con dê một
sừng
Khi ông Đa-ni-ên trầm
ngâm nghĩ ngợi về ý nghĩa của hình ảnh thứ nhất, trong lúc chưa nghe giải nghĩa
ông lại thấy một con dê với một cái sừng
to lớn (5). Con dê này có ba đặc điểm:
tốc độ nhanh vượt bực, tánh hung hãn dữ tợn đi kèm với thế lực hầu như vô hạn
khi chiến thắng con chiên đực (6-7); và sự kiện cái sừng to lớn bị gãy, ở chỗ
đó mọc lên bốn cái sừng khác thay thế (8) và từ một trong bốn cái sừng này lại
mọc thêm một sừng nữa (9).
Con
dê biểu tượng cho đế quốc Hi Lạp (21).
Cái sừng to lớn biểu tượng cho A-lịch-sơn Đại Đế là rất thích hợp. Hoàng đế này thâu tóm quyền bá chủ trong những
năm hai mươi mốt tuổi đến hai mươi sáu tuổi; đánh bại quân lực Ba-tư trong một
loạt các trận quyết định trong thời gian 334-331 T.C.. Tuy vậy, vua chết thảm ở tuổi ba mươi ba (so
sánh c. 8), rồi đế quốc của vua bị chia cắt làm bốn, tức là bốn cái sừng mọc ra
sau (22). Từ một trong bốn sừng này mọc thêm một sừng nữa (9). Cái sừng cuối cùng này tạo đỉnh cao của toàn
bộ khải tượng.
8:9-14, 23-27 Cái sừng
nhỏ mọc sau
Giờ đây hậu duệ của một
trong bốn sừng thi hành một chính sách bành trướng quyền lực cho tới tận vùng
Pa-lét-tin (đất phong phú, c. 9; so
sánh Phục Truyền 8:7-9; Giê-rê-mi 3:19).
Nhân vật này sinh lòng hợm hĩnh tự cao tự đại (so sánh Ê-sai 8:12-15)
nên tự tôn mình là thần và quyết định một cách phạm thượng là cấm chỉ mọi hình
thức thờ phượng theo Kinh Thánh (11-12).
Ông Đa-ni-ên thấy rằng lệnh cấm này kéo dài trong 2300 buổi chiều và buổi sáng (14) có lẽ nên
hiểu là 2300 ngày (so sánh Sáng Thế Ký 1:5, 8, 13...). Các Đấng Thánh chuyển đạt thông tin này lại
cho ông Đa-ni-ên (13) chứng tỏ rằng bất chấp thực tế kinh khủng của các biến cố,
Đức Chúa Trời biết mọi chuyện và những chuyện đó nằm trong mục đích của Ngài dù
xem ra bí hiểm làm sao! (so sánh 1:2). Cho nên, cái sừng nhỏ xuất hiện và nổi
lên với nhiều thế lực không nhờ quyền lực
của chính mình (24), và rồi khi gãy đổ cũng không phải vì quyền lực của con người (25).
Đế quốc
của A-lịch-sơn Đại Đế bị chia cắt làm bốn.
Một trong bốn phần đó là Syria, nằm dưới quyền cai trị của Seleucus
Nicater, lập nên triều đại Seleucid.
Antiochus IV là hậu duệ của dòng họ này lên cai trị năm 175 T.C., vua lấy
hiệu là Theos Antiochus Epiphanes (Antiochus, “Thần Vinh quang lừng lẫy”). Có người thay Epiphanes bằng từ Epimanes
(“Người điên tàng”). Thực hiện chính
sách bành trướng lãnh thổ vua tràn chiếm Pa-lét-tin (Đất phong phú, 9) và lột sạch Giê-ru-sa-lem giữa những cuộc tàn sát
dã man. Vua loại bỏ cuộc dâng tế lễ buổi
sáng và buổi tối hàng ngày (11; so sánh Xuất Ê-díp-tô Ký 29:38-43) và cố ý phạm
thượng thách đố Đức Chúa Trời bằng cách dâng một con heo trên bàn thờ dâng của
lễ thiêu. Về sau vua cho đặt một pho tượng của Zeus trong đền thờ và dâng con
người làm của lễ thiêu trên bàn thờ. Vua
làm ô uế ngày Sa-bát và cấm dân chúng không được cắt bì (so sánh 11-12).
Việc ông Đa-ni-ên cần hiểu ý nghĩa của
khải tượng là một vấn đề được đặt nặng và đáng cho chúng ta lưu tâm (5a,
15-16). Đây không phải thuần túy chỉ là
vấn đề biết trước những biến cố sẽ xảy ra trong lịch sử mà còn là khả năng nhìn
thấy suốt bản chất của tội lỗi và sự hoạt động của tội lỗi nhằm phá hoại sự sống,
chống nghịch lòng tin kính Chúa (24; với nỗ lực cấm đoán dân sự của Đức Chúa Trời
thờ phượng Ngài, 11; so sánh Công Vụ 20:29-31), bản chất man trá giả tạo và bản
chất kiêu căng ngạo mạn của tội lỗi (25).
Trong bối cảnh này, ông Đa-ni-ên học được những bài học tối quan trọng:
tức là đừng ai buông thả bỏ ngỏ để bị dỗ dành đến nỗi cản thấy an toàn nhưng an
toàn giả hiệu (25, cảm thấy an toàn;
so sánh ICô-rinh-tô 10:12; Ga-la-ti 6:1) và chung cuộc Đức Chúa Trời sẽ tiêu diệt
mọi thế lực chống nghịch Ngài (25; so sánh Thi Thiên 2:8-12; 46:8-10; Khải Thị
11:15-18).
Khải tượng này chú ý nhiều
đến cái sừng nhỏ. So với cái sừng nhỏ
thì các đế quốc to lớn hơn mà con chiên đực và con dê tiêu biểu hoá ra vào hàng
thứ yếu. Việc tập trung chú ý vào cái sừng
nhỏ như vậy nhắc chúng ta nhớ lại nhãn quan của Kinh Thánh. Kinh Thánh không phóng tầm nhìn đến các đế quốc
nhưng chú mục nhìn xem dân sự của Đức Chúa Trời là then chốt của lịch sử. Cách đối xử của các đế quốc và các vị quốc
trưởng dành cho dân sự của Đức Chúa Trời là chuẩn mực quyết định giá trị chung
cuộc của họ (9-12; so sánh Ma-thi-ơ 25:31-46).
Có hai câu đề cập đến thời
điểm mà nội dung khải tượng của ông Đa-ni-ên sẽ xảy ra trong thực tế: Các biến cố này sẽ xảy ra trong những ngày cuối cùng của thời kỳ...
trong thời kỳ Chúa đã ấn định (19) và trong tương lai xa (26). Nên hiểu
thời kỳ Chúa đã ấn định ở đây là những thời gian cuối của thời kỳ đang xem xét
đề cập (tức là không phải thời kỳ cuối cùng).
Tương tự như 7:28 trong
phản ứng của ông Đa-ni-ên có điều bổ ích cho chúng ta. Viễn cảnh nghiêm trọng gay go của cuộc đấu
tranh dính dáng đến dân sự khiến cho ông Đa-ni-ên choáng ngợp kinh hoàng, nhưng
không làm tê liệt ông được. Mặc dù đang
sống trong một môi trường ngoại đạo ông vẫn lo tròn trách nhiệm trong công tác
hằng ngày (27; so sánh IIPhi-e-rơ 3:11).
9:1-27 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời củng
cố cho lời tiên tri và cầu nguyện
9:1-3 Ông Đa-ni-ên tra cứu Kinh Thánh
Sau đó thiên sứ Gáp-ri-ên chuyển đạt một số điều mà Đức
Chúa Trời muốn khải thị cho ông Đa-ni-ên (21; so sánh 8:16). Lần khải thị này được cẩn thận lồng trong
khung thời gian đầy ý nghĩa là năm thứ nhất
thời trị vì của vua Đa-ri-út (1).
Lúc đó, ông Đa-ni-ên đang suy ngẫm về lời tiên tri của ông Giê-rê-mi là tình cảnh hoang phế của Giê-ru-sa-lem
(2) sẽ kéo dài 70 năm (so sánh Giê-rê-mi 25:11-12; 29:10). Sau đó ông Đa-ni-ên cầu nguyện. Tinh thần trong Giê-rê-mi chương 25 ảnh hưởng
mạnh mẽ trên lời cầu nguyện này. Cũng
như ở những chỗ khác.trong Kinh Thánh, động lực thúc đẩy ông Đa-ni-ên thiết tha
cầu thay gồm hai phần: nhu cầu của hoàn cảnh và lời hứa của Đức Chúa Trời trong
giao ước. Lập luận tiêu cực có thể sẽ
gióng lên câu hỏi là vì sao ông Đa-ni-ên lại phải cầu nguyện trong khi Đức Chúa
Trời đã hứa rõ về việc này rồi. Chính
ông Đa-ni-ên cũng hiểu rằng Đức Chúa Trời xem lời cầu nguyện là phương tiện mà
Ngài ưa thích để làm ứng nghiệm lời của Ngài:
Ăn năn thật và sự cầu thay ảnh hưởng đến con người của ông cả trong lẫn
ngoài (3). Có lẽ những biểu hiện cụ thể
này là cách ông Đa-ni-ên bộc lộ lòng thành khẩn, niềm tin trong giờ thờ phượng
của mình trong chỗ riêng tư, dù vậy những biểu hiện đó không có gì mâu thuẫn với
tinh thần của Ma-thi-ơ 6:16-18. Mấy câu
này nói về dáng vẻ của chúng ta trước mặt người ta, ở nơi công cộng và trong bất
kỳ trường hợp nào đi nữa thì mấy câu này nhằm nói về những người mải mê làm cho
người ta ca ngợi mình thay vì lo làm hài lòng Đức Chúa Trời.
9:4-19 Sự cầu nguyện, một hành động trong giao ước
Lời cầu nguyện của ông Đa-ni-ên toát ra sự hiểu biết về
bản tánh của Đức Chúa Trời đặc biệt là sự công nghĩa của Ngài. Sự công nghĩa của Đức Chúa Trời là sự chân thật
tuyệt đối, việc làm của Ngài hoàn toàn phù hợp với sự vinh hiển trọn vẹn của
Ngài. Trong mối tương quan giữa Ngài với
dân sự Ngài bày tỏ sự công nghĩa qua việc Ngài trung tín làm trọn những điều đã
giao ước với họ. Trong giao ước về mối
tương quan với họ thì Ngài hứa rằng Ngài là Đức Chúa Trời của họ và nhận họ là
dân sự của mình. Ngài đã hứa rằng họ sẽ
hưởng phước hạnh khi chính mình họ trung tín giữ giao ước về tình yêu thương của
Ngài, nhưng họ sẽ bị hình phạt nếu tỏ ra vô tín, vô ơn và bất phục tòng (so
sánh Phục Truyền 27; 28). Trong giao ước Đức Chúa Trời dùng danh xưng là Gia-vê
(Yahweh). Trong sách Đa-ni-ên chỉ có
chương này dùng danh xưng đó. Đây là chi
tiết có ý nghĩa sâu sắc. Bản NIV dịch là
Chúa và trình bày bằng chữ hoa Chúa
(Lord, 2, 4, 10, 13, 14, 20; so sánh
Xuất Ê-díp-tô Ký 3:13-15).
Các
nguyên tắc đó làm căn bản cho tất cả mọi hình thức đối xử của Đức Chúa Trời
dành cho dân sự trong thời Cựu Ước. Bài
cầu nguyện của ông Đa-ni-ên dựa theo những nguyên tắc này. Vì cớ Ngài rất kiên nhẫn nhịn nhục nên khi dân
sự bất phục tòng, Đức Chúa Trời sai các tiên tri kêu gọi họ trung thành với
giao ước (5-6). Họ thờ ơ đối với lời cảnh cáo của Ngài nên hậu quả là họ bị lưu
đày và như thế lời rủa sả trong giao ước trở thành sự thật (7; so sánh Phục
Truyền 28:58, 63-64; Giê-rê-mi 18:15-17).
Trong tinh thần thành tâm ăn năn, ông Đa-ni-ên xưng nhận tội lỗi của họ
như thể là của chính mình ông dù ông là người trung tín với Đức Chúa Trời nhất
(ông dùng đại danh từ chúng tôi đến 8 lần trong c. 5-10). Về phương diện này
ông phản ánh tấm lòng của Đức Chúa Trời (so sánh Ê-sai 63:8a, 9a). Họ là dân sự của Đức Chúa Trời (so sánh c.
20). Cần chờ đến khi Con của Đức Chúa Trời
gánh chịu án của tội lỗi như thể chính mình Ngài đã phạm tội thì vấn đề mới được
giải quyết rốt ráo (so sánh Ê-sai 53:4-6, 10-12; IICô-rinh-tô 5:21). Tuy nhiên, dù có hi vọng được tha thứ nhưng
niềm hi vọng đó không làm cho tình cảnh của họ sáng sủa hơn. Thật vậy, ông Đa-ni-ên tận dụng vốn từ ngữ
trong Cựu Ước khi ông mô tả và xưng nhận sự thất bại của Giu-đa (tội lỗi, sai
trật, gian ác, nổi loạn, quay lưng bỏ đi, không chịu nghe, bất trung, vi phạm,
bất tuân; 5-11) và những hậu quả (nhục nhã và tản lạc; c. 7). Biện pháp hình phạt biểu thị sự công nghĩa của
Đức Chúa Trời trong giao ước khi đối phó với tội lỗi của dân sự. Ngài đã giữ trọn lời hứa của Ngài (7,
11-14).
Mặc dù ông Đa-ni-ên cầu
thay cho cảnh ngộ tuyệt vọng của dân sự, ông không yêu cầu Đức Chúa Trời từ bỏ
sự công nghĩa của Ngài. Niềm hi vọng duy
nhất của dân sự nằm tại đó, dù có vẻ nghịch lý quá. Cũng như trong thời xuất hành thứ nhất, vì cớ
sự vinh hiển của mình Đức Chúa Trời khải thị giao ước công nghĩa của Ngài,
thương xót kẻ bị áp bức cũng như hình phạt kẻ gian ác (so sánh Xuất Ê-díp-tô Ký
3:7-10, 20; 6:6). Được khích lệ bởi những
lời hứa của Đức Chúa Trời qua tiên tri Giê-rê-mi, ông Đa-ni-ên cầu cứu Đức Chúa
Trời, xin Ngài bảo vệ Danh vinh hiển của Ngài vì Ngài đã tự ràng buộc danh của
Ngài với dân sự và thành Giê-ru-sa-lem (16).
Lời cầu thay của ông nhắm mục đích
là sự vinh hiển của danh của Đức Chúa Trời, lời cầu thay này đặt nền tảng trên lời hứa của Đức Chúa Trời
trong giao ước về vấn đề khôi phục dân sự; động
lực của lời cầu nguyện này nằm trong sự nhận biết Đức Chúa Trời thương xót
một cách chính đáng. Lòng thương xót đó được khải thị qua những việc giải cứu của
Ngài trong quá khứ (15-19)
9:20-27 “Bảy mươi” khác
Khải tượng này diễn ra vào khoảng giờ dâng của lễ buổi chiều
(21, tức là khoảng nửa buổi chiều). Vì
ông Đa-ni-ên xa cách Giê-ru-sa-lem khoảng bảy mươi năm rồi (so sánh 6:10) nên
chi tiết trên khiến cho “thành phố của Đức Chúa Trời” mà ông cưu mang trong
lòng lâu nay hầu như là một thực tại đối với độc giả. Xem ra Thiên sứ Gáp-ri-ên
đáp ứng lời cầu nguyện của ông cách nhanh chóng đầy kịch tính. Thiên sứ chuyển
lại cho ông Đa-ni-ên thêm sự khải thị của Đức Chúa Trời, đẩy chân trời của ông
vượt xa khỏi quãng bảy mươi năm trong lời tiên tri của ông Giê-rê-mi đến một
quãng thời gian dài hơn nữa là bảy mươi lần
“bảy” (24). Giờ đây ông phải tập
trung tầm nhìn vào một đỉnh xa hơn nữa trong rặng núi của Đức Chúa Trời.
Trước tiên nội dung khải
thị nhằm sơ lược chương trình của Đức Chúa Trời sẽ được thực hiện trong vòng bảy mươi lần “bảy”, là con số ấn định bởi
Đức Chúa Trời (24). Sau thời gian sáu
mươi chín lần “bảy” thì Đấng được xức dầu
đến (25). Thời gian này bị chia cắt làm
hai phần không đều nhau (bảy lần “bảy”
và sáu mươi hai lần “bảy” = sáu mươi
chín lần “bảy”. Đây là bài toán chia với
những con số bí hiểm nhất trong toàn bộ Kinh Thánh. Có lẽ phần thời gian “bảy lần bảy” chỉ về khoảng
thời gian cho đến khi hoàn tất công cuộc tái thiết đền thờ. Có lẽ câu 26 và 27 chứa một “phức hợp song
hành tiệm tiến” thu nhỏ: câu 26 mô tả tổng quát thời kỳ “bảy” cuối cùng trong
khi câu 27 mô tả cũng cùng thời kỳ đó một cách chi tiết.
Các
nhà giải kinh hiểu sứ điệp tiên tri này theo nhiều hướng khác nhau, tùy thuộc
vào tầm nhìn rộng hẹp của mỗi người đối với sự ứng nghiệm của lời tiên tri
này. Giới học giả phê bình Kinh Thánh,
chủ trương rằng sách Đa-ni-ên được viết trong thế kỷ thứ II T.C. nên họ cho là
thời kỳ đó kéo dài từ thế kỷ thứ VI đến vua Antiochus Epiphanes (theo chủ
trương xem con số bốn trăm chín mươi năm là một con số tròn, hoặc hiểu theo
nghĩa đen và có thể lắm là hiểu sai).
Nhưng trong tầm nhìn từ Kinh Thánh Cựu Ước thì Chúa Giê-xu là Đấng làm ứng
nghiệm lời tiên tri về Đấng chịu xức dầu
(25), là Đấng đem đến sự tha tội và xoá bỏ mặc cảm tội lỗi (24). Vài nhà giải kinh bảo thủ vận dụng các bảng
niên đại để chứng minh rằng con số bốn
trăm chín mươi ứng rất khớp vào thời gian từ khi tiên tri đến cái chết của Chúa
Giê-xu. Các học giả chưa nhất trí kết luận
về điểm này lẫn lời giải nghĩa chi tiết về thời gian “bảy” cuối cùng.
Nếu
quan điểm giải nghĩa khúc Kinh Thánh này là lời tiên tri về sự cứu chuộc qua
Chúa Giê-xu được xem là một lối giải nghĩa đúng về mặt tổng thể thì con số sáu
mươi chín lần “bảy” có thể tiêu biểu về một thời gian dài vượt quá thời kỳ khôi
phục đến tận thời của Chúa Giê-xu và vương quốc mà Ngài khai lập. Câu 26, Chúa
Cứu Thế sẽ bị trừ đi (động từ này cũng được dùng trong việc xác quyết một
giao ước) và sẽ không có chi hết (xem
lề NIV), làm chúng ta nhớ lại Ê-sai 53:8 và là một tín hiệu về tình trạng trơ
trụi hoang phế tột cùng . Như vậy, có thể
xem câu 27 chỉ về vua hầu đến (26). Vị vua này được ứng nghiệm qua Titus
Vespasian, con người làm ô uế đền thờ và phá hủy thành Giê-ru-sa-lem trong năm
70 SC (so sánh Ma-thi-ơ 24:3-25). Theo một
hướng khác, có thể hiểu câu 27a chỉ về Đấng Cứu Thế xác lập giao ước của Đức
Chúa Trời trong “một tuần lễ” tức là
trong các thời đại tương lai (so sánh ICô-rinh-tô 11:25-26) còn c. 27b và c.
27c chỉ về thành Giê-ru-sa-lem bị làm ô uế.
Trong bảy mươi năm ông
Đa-ni-ên trông mong cho đền thờ và thành Giê-ru-sa-lem sớm được khôi phục
(16-19). Giờ đây, khi việc đó sắp thành
sự thật thì Đức Chúa Trời khiến ông tập trung chú ý đến những đỉnh cao hơn và
xa hơn trong “rặng núi” lịch sử của sự cứu chuộc. Vì một đền thờ mới toạ lạc tại một thành
Giê-ru-sa-lem mới do bàn tay con người tái thiết vẫn còn có thể bị hủy phá nữa;
cho nên ông Đa-ni-ên tập trung nhãn quan vào đền thờ chung cuộc (so sánh Giăng
2:19) là đền thờ nằm ngoài mọi tầm hoạt động gây ô uế (Khải Thị 21:22-27).
10:1 - 12:4 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời
trên lịch sử
10:1-3 Buồn rầu về phần thuộc linh
Bài tiên tri viết về khải tượng cuối cùng
của ông Đa-ni-ên kéo dài từ chương 10 đến hết sách. Phần này có ghi chú rõ ràng thời gian là trong
năm thứ ba đời vua Si-ru (1) trong dịp Lễ Vượt Qua và Lễ Bánh Không Men trên bờ
sông Tigrơ (4). Nhân ngày kỷ niệm cuộc
xuất hành lần thứ nhất, diễn ra một cuộc xuất hành khác trong năm thứ nhất đời
vua Si-ru (E-xơ-ra 1), nhưng chuyến xuất hành này vấp phải sự cản trở (E-xơ-ra
3:12-4:5). Rốt cuộc, công cuộc tái thiết
đền thờ bị ngưng hẳn (E-xơ-ra 4:24). Có
lẽ lắm là vì cớ nghe những thông tin về những vụ cản trở đó mà nỗi buồn rầu về
phần thuộc linh của ông Đa-ni-ên kéo dài (2).
Câu mở đầu sơ lược tả nhân vật của khải tượng.
10:4-9 Một khải tượng huy hoàng
Khải tượng này (7) tác động rất mạnh mẽ
trên ông Đa-ni-ên (8). Một mình ông nhìn
thấy nhân vật trong khải tượng còn những người đồng hành chỉ nghe tiếng nói lớn
như tiếng của một đám đông (6) nên họ
hoảng sợ chạy trốn (7). Dù nhân vật mặc
trang phục của thầy tế lễ may bằng vải gai (5; so sánh Xuất Ê-díp-tô Ký 28:42;
Lê-vi Ký 6:10; 16:4) toàn thân nhân vật chiếu ra một loại ánh sáng và toả ra một
nét đẹp lạ lùng. Trong một cố gắng mô tả
chân dung của nhân vật đó, ông Đa-ni-ên vận dụng mọi vốn liếng từ ngữ về quý
kim, đá quý, và những thứ khác vào lối văn ví sánh (5-7). Nhưng ông không tìm cách xác định nhân thân của
nhân vật. Hình dung của nhân vật vượt xa
hình dung của các nhân vật kháctrong những khải tượng mà ông Đa-ni-ên đã thấy
(8:15-16; 9:20-21) nhưng rõ ràng là tương tự với những sự hiện ra của Đức Chúa
Trời và của Đấng Cứu Thế mà Kinh Thánh có chép (thí dụ Ê-xê-chi-ên 1:26-28; Khải
Thị 1:12-15). Đức Chúa Trời cho ông
Đa-ni-ên thấy khải tượng này nhằm nhấn mạnh ân sủng của Đức Chúa Trời trong
giao ước (trang phục của thầy tế lễ), quyền năng thánh và vinh hiển (ánh sáng
chói loà). Trong ý nghĩa đặc biệt sứ điệp
xuất phát từ chính Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời cũng là Đấng bảo đảm cho tính
cách chân thật của sứ điệp (so sánh c. 1).
10:10 - 11:1 Quyền lực của tội lỗi trong
thiên giới
Màn thứ nhất của khải tượng mờ dần, biến
khỏi tầm nhìn, bỏ lại một Đa-ni-ên kinh ngạc rồi chìm dần vào giấc ngủ say. Sau đó, dường như một nhân vật thứ hai đến
nói chuyện với ông (11), giải thích rằng khi ông khởi sự cầu nguyện (12) xin sự
thông sáng hiểu biết (không nói rõ, nhưng ngụ ý trong câu 2) thì hồi âm lập tức
được truyền đi. Tuy nhiên, vua của vương quốc Ba-tư (có lẽ cũng là
một nhân vật trong thế giới siêu nhiên; 13) ngăn trở người đưa tin, cho đến chừng
Mi-ca-ên đến tiếp cứu. Thiên sứ trưởng
Mi-ca-ên (so sánh Giu-đe 9) đứng đầu trong công tác bảo vệ dân sự của Đức Chúa
Trời (là vua các ngươi, 21; so sánh
12:1) chống lại các thế lực của sự tối tăm (so sánh Khải Thị 12:7-9).
Rõ ràng là đằng sau những
xung đột trong lịch sử con người có sự xung đột “trong cõi vô hình” (Ê-phê-sô
6:12); ông Đa-ni-ên dính dáng vào cuộc xung đột đó qua sự cầu thay của
ông. Có một thế lực trong cõi vô hình
tìm cách ngăn trở không cho ông tiếp nhận sự khải thị về tương lai (và như vậy
là không muốn cho ông hiểu những mục đích chắc chắn của Đức Chúa Trời). Việc này ngụ ý rằng sự khải thị sắp tới sẽ
tăng lực cho ông Đa-ni-ên và đương nhiên là cho toàn thể dân sự của Đức Chúa Trời
(14).
Không rõ Đấng có bộ dạng như con người (16) là
nhân vật thứ ba hoặc là nhân vật trong c. 5 hoặc c. 10. (Theo c. 20-21 thì dường như đây là nhân vật trong
c. 10). Có thể lý giải tình trạng mập mờ
này là do mức độ khải thị trong khải tượng và do tâm trạng của ông Đa-ni-ên
(15-17). Dầu sao đi nữa, khi nhân vật
này đụng đến ông Đa-ni-ên thì ông được khích lệ và tăng lực, và ông có thể tiếp
nhận sự khải thị tiếp theo (18-19). Vị sứ
giả từ trời sẽ sớm quay về với công tác mà ông đang tiến hành (11:1) trong cuộc
chiến thuộc linh (20). Trên bình diện của
con người thì Ba-tư hiện là nước tác
động nhiều nhất trên những hoàn cảnh sống của dân sự Đức Chúa Trời rồi đây chẳng
bao lâu sẽ đến phiên nước Hi Lạp
(20).
Một phần câu trả lời cho
câu hỏi của ông Đa-ni-ên được lồng dưới hình thức câu hỏi (20). Nội dung câu
này cho thấy ông cần biết rằng có những lực lượng của Đức Chúa Trời đang lo
bênh vực, bảo vệ dân sự của Ngài (so sánh IICác Vua 6:15-23). Nhưng trước tiên ông cần biết nội dung những
điều được viết trong sách chân lý (21)
tức là mục đích của Đức Chúa Trời sẽ được bày tỏ như thế nào.
11:2-45 Các vua phương bắc và các vua
phương nam
Đối với độc giả thời nay nội dung được khải
thị sau đây rõ ràng là tiên tri về những biến cố trong tương lai. Lời tiên tri
đi sâu vào chi tiết đến nỗi hầu hết các học giả thời nay cho rằng giới độc giả
đầu tiên cùng thời với tác giả lập tức nhận ra đây là một tác phẩm văn chương
khéo viết của một tác giả lắm mưu trí trong thế kỷ thứ II T.C.. Theo quan điểm này, câu 21-35 mô tả các diễn
biến cách cặn kẽ như vậy chứng tỏ bản thân tác giả từng trải những biến cố
này. Mặt khác, với câu 40-45 tác giả mô
tả những diễn biến trong tương lai nên ông lầm lẫn trong những lời tiên đoán của
mình. Do đó, các học giả có quan điểm
này kết luận rằng sách Đa-ni-ên được viết xong vào năm 165 hoặc 164 T.C. (xem
phần dẫn nhập về quan điểm này).
Toàn bộ chương này cho
thấy rõ rằng những nội dung được khải thị cho ông Đa-ni-ên lúc trước qua hình ảnh
biểu trưng thì giờ đây được khải thị qua những biến cố trong dòng lịch sử. Tuy nhiên, những biến cố này được nhìn từ vị
trí Đất vinh hiển (16) là đất mà Đức
Chúa Trời đã quyết định dành cho dân sự của Ngài trong giao ước và thế lực của
các nhà cầm quyền trong vùng phía nam và phía bắc của Đất vinh hiển đã nổi lên
như sóng lớn (thí dụ 11-12). Các sách lịch
sử ngoài đời đặt dân sự của Đức Chúa Trời ở vị trí ngoài lề (xứ Pa-lét-tin chỉ
giữ vai trò cầu nối giữa hai vùng bắc nam.
Trái lại qua sự khải thị của Kinh Thánh thì đất nước của họ là trung tâm
và là mấu chốt của lịch sử.
11:2-4 Tương lai gần cận. Vị sứ giả phác sơ qua lịch sử gần cận
không mấy sáng sủa cho thấy thế lực của Ba-tư lớn dần đến mức xuất hiện một vị
lãnh tụ có quyền thế rất lớn, không thuộc vào triều đại vua chúa nào cả, nhưng
đất nước bị chia cắt sau khi vị lãnh tụ này qua đời (4).
Vị vua thứ tư của nước Ba-tư (2) kế thừa vua
Si-ru (so sánh 10:1) là Xẹt-xe (cai trị từ 486-465 T.C.). Vua này gây dựng được một nguồn tài chánh rất
lớn qua thuế vụ nhưng vua làm tiêu tan hết trong cuộc chiến chống Hi Lạp
(2). Vua thất trận tại Salamis năm 480
T.C.. Còn hình ảnh của vị vua đầy quyền thế ngự trị trên một đế quốc
rộng lớn bị chia cắt (3-4) chớ hậu duệ không được thừa hưởng quyền cai trị là
A-lịch-sơn Đại đế (ông Đa-ni-ên biết rằng đến phiên Hi Lạp sẽ vươn lên và trở
nên hùng cường 10:20). Hai con của vua bị
ám sát vì vậy vua như một cái sừng bị gãy (8:22).
11:5-45 Bắc chống nam.
Các nhà giải kinh thuộc khá nhiều trường phái khác nhau đều nhất trí về
ý nghĩa của phần này vì những diễn biến lịch sử kế tiếp nhau rất ăn khớp vớí nội
dung của khải tượng này.
Khi đế quốc của A-lịch-sơn
Đại đế bị chia cắt làm bốn (4). Ptolemy
I cầm quyền cai trị Ai Cập (vua phương
Nam, c. 5) lập nên triều đại Macedony từ năm 304 T.C. (là năm Ptolemy lên
ngai vua) cho đến năm 30 T.C.. Trong khi
đó Seleucus I (vua phương Bắc) kiểm
soát Sy-ri, lập nên triều đại Seleucid trong cùng thời gian. Những chi tiết tiếp theo nằm trong quá trình
phát triển của hai triều đại và những cuộc xung đột đấu tranh giành quyền lực
giữa hai vương quốc và tình trạng thù địch giữa hai hoàng tộc.
Thoạt đầu hai thế lực thử
kết hợp với nhau qua hôn nhân (6) giữa Antiochus II (cháu nội của Seleucus I)
và Berenice (con gái Ptolemy II). Nền
hoà bình chỉ tồn tại được một thời gian vì Ptolemy III tiến đánh vương quốc
phía bắc(7-8) khiến Seleucus II (9) và các con là Seleucus III và An tiochus III
phản công, đưa quân đến tận Raphia trong vùng phía nam Pa-lét-tin (10).
Cuộc đấu tranh giành quyền
lực tiếp diễn dưới thời Ptolemy IV, một con người có lối sống phóng đãng. Kinh Thánh nhận định vua này đầy lòng kiêu ngạo (12, so sánh c. 18)
và chuẩn bị tinh thần của độc giả về sự sụp đổ của vua này (2:21a). Sy-ri thua trận tơi tả tại Raphia một trận
tơi tả nhưng Ptolemy IV không thể tiến xa hơn được và rốt cuộc khi Ptolemy V
lên ngôi lúc bốn tuổi, thì Antiochus III chiến thắng (13-16). Vua cũng biểu lộ lòng tự cao tự đại đáng bị Đức
Chúa Trời hình phạt (16; so sánh c. 19).
Có thể câu 14 nói về sự thất bại của người Do thái trong đảng Xê-lốt khi
họ nỗ lực hoạt động ủng hộ quân Sy-ri đánh bại quân Ai Cập là thế lực đang đô hộ
họ.
Cuộc hôn nhân giữa Cleopatra, con gái
của Antiochus III với Ptolemy V (17) được sắp xếp nhằm đẩy mạnh chính sách bành
trướng; nhưng cuộc hôn nhân này cũng thất bại.
Khi Antiochus tìm cách chinh phục các nước phía tây (Hi Lạp), vua bị
quân La-mã đánh bại và buộc phải rút quân quay về. Kể từ đó vua biến khỏi sân khấu của lịch sử
và băng hà nội trong hai năm sau đó (19)
Seleucus IV lên ngôi kế vị làm vua
Sy-ri thừa kế một đế quốc rộng lớn nhưng phá sản vì tiên vương lao vào chiến cuộc
qua nhiều năm rồi. Vua tìm cách gây dựng
lại kho bạc nhà nước bằng cách tăng thuế (20), nhưng chẳng bao lâu vua bị thay
thế bởi một một con người đê tiện
(21), tức là Antiochus IV (Epiphanes), là em của vua. Kể từ đây nhân vật này sẽ chiếm hết phần còn
lại của chương này.
Vua lên ngôi cai trị năm 175 T.C. sau
hai lần đảo chánh. Bằng nhiều cách, kể cả
âm mưu và gian trá (21, 23) vua đẩy mạnh công cuộc Hi Lạp hoá đất nước, chính
sách này đặt vua vào thế trực tiếp đối đầu với dân Do Thái, là những người sùng
Do-thái giáo chính thống. Một lần nữa ở
đây nhấn mạnh nguy cơ đang đe doạ trong khi con người cảm thấy an ổn (24, so
sánh 8:25) và cũng nhấn mạnh rằng thời gian mà Đức Chúa Trời cho phép những hoạt
động thù địch của con người cũng có hạn định (24).
Antiochus ngăn chận một cuộc xâm lăng
của Ai Cập vào xứ Pa-lét-tin bằng cách xâm lăng Ai Cập trước, lúc đó Ai Cập ở
dưới sự trị vì của Ptolemy VI. Antiochus
thành công một phần nhờ âm mưu (theo 24-25).
Nhưng vua không hoàn toàn thành công (27). Rồi khi sự bất ổn xuất hiện tại
Pa-lét-tin, vua trở về Sy-ri. Một lần nữa,
Đức Chúa Trời ấn định giới hạn những diễn biến trong lịch sử (27), và nhấn mạnh
tính cách hắc ám trong những cuộc chống đối dân của Đức Chúa Trời (28).
Antiochus lại xâm lăng Ai Cập trong
năm 168 T.C. khi nhà Ptolemies chấp thuận một chính sách đồng quyền đồng trị. Lần
này vua đối diện với lệnh tối hậu của La-mã là phải rút quân về một cách nhục
nhã (so sánh c. 30). Sau đó vua trút cơn
tức giận lên dân của Đức Chúa Trời (30), chiêu mộ sự cộng tác của những người
Do Thái có thiện cảm với chính sách Hi Lạp hoá (30-32). Việc giận cá chém thớt này đạt đỉnh cao qua vụ
tàn sát cư dân Giê-ru-sa-lem và càn quét thành phố. Vua làm ô uế đền thờ, cuộc dâng tế lễ hằng
ngày bị cho lập đền thờ của thần Zeus rồi cử hành các lễ nghi dâng tế lễ cho thần
ngoại bang trên bàn thờ dâng của lễ thiêu (31 dựng vật ghê tởm trong đền thờ;
so sánh Ma-thi-ơ 24:15).
Giữa đám dân Do Thái bội đạo (được mô
tả trong 30, 32), có những người Do Thái trung tín cho đến chết (33). Cuộc
kháng chiến Maccabees thành hình trong bối cảnh này. Tương tự như trong tất cả những cuộc chiến
khác, về mặt thuộc linh cũng như về mặt chính trị người trung tín nhận được sự ủng
hộ trợ lực từ những nguồn mà lẽ ra họ cũng chẳng cần đến (34).
Có lẽ phần khó nhất trong sách này là
câu 36-45. Những chi tiết được mô tả
trong phần này có vẻ vượt xa tầm cỡ những việc đã xảy ra kể cả những việc phạm
thượng do Antiochus gây ra (vì vậy nhiều nhà giải kinh kết luận rằng phần này
đúng là phần tiên tri của tác giả và nhờ những điểm sai trật trong phần này mà
chúng ta có thể biết toàn bộ sách được hoàn tất vào thời kỳ nào). Tuy vậy, 13:1-3 có thể có ý nói về giờ cáo
chung của toàn bộ lịch sử. Trong trường
hợp này thì có lẽ câu 35 nói về kinh nghiệm của dân sự Đức Chúa Trời, không phải
chỉ dưới thời cai trị của Antiochus mà còn trong thời kỳ sau đó nữa. Dầu vậy, các nhà giải kinh không nhất trí
trong việc đoán định nhân thân của vị vua
ở câu 36 (thí dụ Đế quốc La-mã [Calvin], Giáo hoàng và kẻ chống lại Đấng
Christ).
Mức độ chính xác trong công tác giải
nghĩa lời tiên tri luôn luôn tuỳ thuộc vào mức độ ứng nghiệm trong lịch sử. Dầu
sao, ít nhất chúng ta biết chắc phần này mô tả tinh thần chống đối Đấng Cứu Thế
(IGiăng 2:18) trong vị thế của một vị vua có toàn quyền tự do quyết định (so
sánh 3:15; 4:30; 8:25; 11:3, 12, 16) tự tôn mình là thần thánh (36-37; so sánh
3:5) và trong cuộc hôn nhân của lòng vô tín và bất nghĩa. Thần được
giới phụ nữ ái mộ (37) là chi tiết khó xác định. Đôi khi được xem là một chi tiết chỉ về Tammu
là một nam thần ngoại bang được thần nữ Ishtar khóc than thương tiếc (so sánh sự
báo động của tiên tri Ê-xê-chi-ên về tội lỗi gớm ghiếc này trong Ê-xê-chi-ên
8:13-14). Các từ này cũng có thể có
nghĩa là “tình yêu của phụ nữ” và có ý nói là vua hoàn toàn không coi trọng
lòng ưu ái của con người (so sánh IITi-mô-thê 3:2-4) hoặc không coi trọng luật
lệ thiên nhiên về mối tương quan giữa nam và nữ.
Câu 40-45 mô tả một cuộc chiến cuối
cùng. Một số nhà giải kinh cho rằng cảnh này sẽ được ứng nghiệm đúng theo các
chi tiết địa lý đã được mô tả, nhưng tốt hơn hết là xem phần này mô tả cuộc chiến
cuối cùng trong tương lai theo hoàn cảnh địa lý chính trị đương thời. Ê-đôm,
Mô-áp, Am-môn (41) tiêu biểu cho những kẻ thù lâu đời của dân sự của Đức
Chúa Trời. Vua phương bắc sẽ khống chế
các kẻ thù truyền kiếp và các đồng minh (43). Dầu vậy, đời vua kết thúc cách tầm
thường (44-45).
Nếu cho rằng mấy câu này nói về những
cảnh tượng cuối cùng của lịch sử thì chúng ta cần lưu ý rằng tác giả mô tả những
cảnh đó theo điều kiện của thế giới thời cổ.
Lời tiên tri không chỉ báo trước về tương lai mà còn nhằm truyền đạt sứ
điệp cho độc giả trong thế giới đương thời với lời lẽ và những chi tiết rút từ
thực tế của họ.
Cho dù ở đây cũng mô tả tình trạng vô
tín đạt đỉnh cao nhưng nếu cho rằng trong cảnh kết của lịch sử cũng sẽ có xe ngựa và kỵ binh thì sai (40). Cũng đừng
quên rằng toàn bộ phần này nhằm nhấn mạnh rằng dù người cai trị các dân tộc vô
tín đến đâu đến lúc cuộc đời kết thúc chẳng
có ai đến tiếp cứu người đó cả (45).
12:1-4 Thời chung kết
Vị sứ giả thiên thần hứa với ông Đa-ni-ên
rằng như mọi khi, Mi-ca-ên sẽ bảo toàn dân sự của Đức Chúa Trời trước những thế
lực của sự tối tăm (so sánh 10:13, 21).
Tuy nói vậy, nhưng không có nghĩa là họ được miễn trừ khỏi cảnh đại nạn (1, so sánh IITi-mô-thê
3:1-9), trái lại họ được giải cứu từ cảnh ngộ đó, y như ông và các bạn đã trải
qua những cuộc thử nghiệm vậy. Đức Chúa
Trời sẽ đạt được mục đích của Ngài chớ Ngài không thất bại đâu (so sánh sách c. 1). Ngài chăn giữ dân của Ngài cho “sự cứu rỗi sẵn
dành cho họ, sẽ được tỏ ra trong thời kỳ cuối cùng” (IPhi-e-rơ 1:5). Câu 2 báo
trước sự sống lại, là một điều kiện trái ngược với lời rủa sả về sự chết (sự sống đời đời, câu 2 đối ngược với ngủ trong bụi đất, so sánh Sáng Thế Ký
2:7, 17; 3:19) hoặc là một điều kiện xác định sự rủa sả (để chịu sự xấu hổ nhơ nhuốc đời đời, 2). Những kẻ
khôn sáng (so sánh 11:25) là những người trung thành với lời của Đức Chúa
Trời bất chấp nhục nhã, đau đớn, sẽ được tôn vinh (3). Đây là sứ điệp hi vọng và an ủi sẽ củng cố
tinh thần cho lớp lớp tín đồ trong tương lai.
Vì cớ đó ông Đa-ni-ên phải niêm
phong lời lẽ trong cuộn sách (4), không phải là giữ bí mật nhưng nhằm bảo tồn
cho đến chừng có người cần đến những lời trong đó, bảo tồn sách cho những người
tìm kiếm lời của Đức Chúa Trời là những người có tinh thần trái ngược với những
người sẽ đi qua đi lại để tăng phần tri
thức (4; so sánh A-mốt 8:12).
12:5-13 Quyền cai trị của Đức Chúa Trời
và sự an nghỉ của người phục vụ Ngài.
Phần kết lý thú lại tập trung nói về ông Đa-ni-ên nữa
(so sánh 10:2-18). Ông thấy hai người khác có lẽ làm người chứng thực (Phục Truyền 19:15) đứng hai bên bờ sông. Một người nêu ra một câu hỏi chắc chắn nảy
sinh trong trí của ông Đa-ni-ên, và dân sự của Đức Chúa Trời cũng thường nêu
lên vào lúc khốn cùng: sẽ kéo dài... cho đến chừng nào mới chấm dứt?
(so sánh 8:13; Khải Thị 6:10). Nhân vật
mặc trang phục bằng vải gai mịn (so sánh 10:5-6) giơ cả hai tay lên trời để chứng
tỏ những lời mình sắp nói là nghiêm trọng và có thể tin cậy: sẽ trải qua một kỳ, những kỳ và nửa kỳ
(so sánh 7:25). Như đã dùng trước đây cụm
từ này chỉ về một thời hạn tổng quát, kéo dài với ngụ ý là Đức Chúa Trời biết
thời hạn và chính Ngài ấn định thời hạn.
Đúng lúc dân của Đức Chúa Trời không còn phương cách đối phó nữa thì
Ngài can thiệp (7).
Chúng ta có thể hiểu vì sao ông
Đa-ni-ên tỏ ý kinh ngạc và muốn biết rồi đây những biến cố này sẽ kết thúc ra
sao (8). Đấng đó trả lời cho ông Đa-ni-ên
một cách đầy ý nghĩa (cho tất cả các nhà giải kinh cũng như cho ông Đa-ni-ên
lúc đó) rằng đến khi lời tiên tri được ứng nghiệm trong lịch sử thì ý nghĩa của
khải tượng sẽ lộ ra; rồi người khôn ngoan và kẻ gian ác sẽ được phân cách riêng
biệt (10). Người khôn ngoan, với sách của
ông Đa-ni-ên nơi tay, sẽ hiểu ý nghĩa
thật sự của những biến cố mà họ đang nếm trải.
Còn kẻ gian ác chỉ biết rối loạn và kinh hoảng.
Đấng này cũng đưa ra lời giải thích
cuối cùng (xây dựng trên 11:31). Từ khi sự gớm ghiếc gây ô uế (11) thời đại nạn (1) sẽ kéo dài khoảng ba
năm rưỡi, thêm một tháng rưỡi nữa (11-12).
Có lẽ đây là hình thức thu gọn của cụm từ một kỳ, những kỳ và nửa kỳ (7)
và liên quan tới đại nạn dưới thời trị vì của Antiochus Epiphanes. Tuy nhiên, có lẽ thời gian đó cũng chỉ về thời
kỳ cuối rốt. Ba năm rưỡi đó là thời kỳ
cuối của thời gian bảy mươi lần “bảy” vì mới có sáu mươi chín lần “bảy” và phân
nửa “bảy” được ứng nghiệm trong 9:24-27.
Lời cuối cùng của sách là lời hứa
dành cho chính cụ Đa-ni-ên già lão, một chi tiết thật là thoả đáng. Cụ cũng phải
kiên tâm bền chí trung thành cho đến cuối cùng.
Rồi cụ cũng sẽ vào nơi an nghỉ.
Công trình của cụ sẽ theo cụ cho đến khi cụ sống lại (13; so sánh Khải
Thị 14:13).
Sinclair B. Ferguson