Sự khải thị và soi dẫn
Đêm nay Bác Quang khó ngủ quá. Thằng Chân, cháu của
bác vốn là sinh viên đại học, vừa ghé thăm bác. Hai bác cháu nói chuyện về Kinh
Thánh. Bác Quang tự hỏi tại sao bọn sinh viên hay cười nhạo mỗi khi bác cố gắng
nói cho chúng nghe Lời của Chúa. Khác một chút, đứa cháu của bác có vẻ như đặt
ra nhiều câu hỏi nghiêm túc, nhưng những giải đáp của bác lại không làm nó thỏa
lòng. Bác nhớ lại lời chú Lý, rằng những người ưa thích bằng chứng sẽ không chịu
tin. Họ tin hay không tin là việc Chúa làm. Nếu họ không tin, ấy là do Chúa
chưa mở mắt họ. Bao lâu nay bác chấp nhận lối giải thích này, nhưng đêm nay bác
trở mình mãi không ngủ được. Bác cứ nhớ mãi nét mặt thằng Chân, thấy nó nghiêm
túc tìm kiếm câu trả lời lắm.
Chân thao thức nhìn lên trần nhà.
Mình đã tìm được lời giải chưa? Từ nhỏ, mẹ thường nói, “Hãy thờ Phật. Phật
chính là con đường đúng đắn.” Lớn lên một chút, bạn bè bảo, “Mô-ha-mét là chân
lý.” Vô trường, lại được dạy rằng không có Đức Chúa Trời, và rằng mọi tôn giáo
chỉ căn cứ trên truyền thuyết mà thôi. Chân thật sự bối rối. Không thể nào tất
cả họ đều cùng đúng. Hay là tất cả họ đều cùng sai? Chân cũng không biết. Chân
biết có điều gì đó sẽ là đúng, nhưng điều đó là điều gì? Chân muốn biết điều ấy.
Mỗi khi đi ngủ hoặc khi trở mình thức giấc, Chân cứ nghĩ mãi về việc ấy. Bạn bè
bảo Chân đừng bận tâm chuyện ấy, hãy cứ hưởng thụ cuộc đời. Chúng nói, tại vì
Chân trầm trọng hóa vấn đề đó thôi. Chân cũng cố nghe theo chúng, nhưng sau những
giờ vui đùa với chúng bạn, Chân về nhà mà thấy trống rỗng không diễn tả được.
Hình như không có ai trả lời được những thắc mắc của Chân. Họ gắt gỏng mỗi khi
Chân thắc mắc, hoặc họ cứ khăng khăng quan niệm của họ mới là đúng. Có cách nào
để biết được sự thật không?
Hè năm nay, Chân quyết định về quê
thăm bác với suy nghĩ, có lẽ cảnh tình khác lạ sẽ làm tâm trí mình thanh thản.
Cả nhà bác vui mừng đón đứa cháu đến chơi. Không lâu sau đó, Chân để ý một số
việc rất lạ. Thắc mắc, thì được bác trả lời là do cả nhà đã tin Chúa trước đó
ít lâu. Bây giờ cả nhà bác làm theo điều Kinh Thánh dạy. Chân đã từng nghe về
những người tin thờ Chúa Giê-xu, nhưng bây giờ thì mới gặp trực tiếp một người
như thế. Chân còn nghe họ nhận mình là Cơ đốc nhân, nghĩa là một người tin thờ
Chúa Giê-xu Christ. Tò mò, Chân hỏi bác, “Sao bác biết điều ấy là đúng? Bác chứng
minh được không?” Bác của Chân im lặng trả lời, “Bác biết điều ấy là chân thật,
nhưng bác không biết làm cách nào để giải thích. Cháu phải tin trước đã.”
Chân lại càng nản lòng. Đêm nay nằm
trên giường cứ trở qua trở lại hoài, trong đầu không ngừng suy nghĩ. Làm sao để
biết được sự thật? Mình không phải vô lễ với bác, nhưng có lẽ bác ấy bị mê hoặc
bởi những chuyện thần tiên, chuyện tôn giáo. Có lẽ không có cái gọi là sự thật
đâu! Hay là cũng có cái gọi là sự thật, là chân lý, ấy, nhưng con người không
thể tìm ra! Hay là nó chẳng quan hệ gì đến chúng ta. Có đứa bạn từng bảo Chân rằng,
“Mỗi người có ý kiến khác nhau. Có hàng trăm thứ triết lý và tôn giáo. Chỉ cần
tin theo thứ gì mình thấy thoải mái là được.” Hay là thằng bạn mình nói đúng.
Chân vặn người, trở mình, rồi từ từ ngủ lúc nào không biết.
Bất
thình lình có một suy nghĩ đến trong tâm trí bác Quang. “Làm sao mình biết rằng
Kinh Thánh là chân thật?” Bác tự hỏi, có phải mình tin Kinh Thánh là vì khi đọc
Kinh Thánh mình cảm thấy rất an tâm. Hay là vì bác đã nhiều lần kinh nghiệm lời
cầu nguyện của mình được trả lời? Khi đọc Kinh Thánh, thấy rất giống đó là chân
lý. Kinh Thánh nói rất rõ ràng, không nói lấp lửng. Kinh Thánh nói thẳng những
vấn đề của cuộc sống. Có vẻ như Kinh Thánh còn nói đến những câu hỏi khó của cuộc
sống. Sâu thẳm trong lòng, bác tự tin Kinh Thánh là chân lý, nhưng không biết
giải thích thế nào với thằng Chân. Càng nghĩ càng rối. Cuối cùng, bác nhắm mắt
cầu nguyện rồi ngủ.
Sáng hôm sau bác Quang nhận được điện
thoại từ vị mục sư cho biết có một giáo sư Kinh Thánh vừa mới đến. Nói chuyện một
chút, vị giáo sư ấy nhận lời mời sẽ ghé thăm bác.
Khi vị mục sư và giáo sư đến, Chân
thấy mình hơi khó chịu. Tuy nhiên, trong lúc nghe họ nói chuyện, Chân quyết định
đặt câu hỏi. Chân không mong đợi sẽ có câu trả lời vừa ý, nhưng Chân cũng tò mò
xem thử vị giáo sư Kinh Thánh ấy sẽ trả lời thế nào. Chân hỏi, “Thế thầy có thể
chứng minh rằng Kinh Thánh là chân thật không?” Vị thầy ấy có vẻ suy tư và im lặng
một chút. Chân chờ đợi vị thầy ấy sẽ nói, “Cháu chỉ phải tin mà thôi”, nhưng
không phải như thế.
Chân lý về Chân lý
“Đầu tiên,
chúng ta cần nói về chân lý”, vị thầy nói. Bây giờ thì Chân bắt đầu lắng nghe.
“Chân lý là có thật. Và có thể hiểu biết về chân lý ấy. Chân
lý ấy không phụ thuộc vào cảm xúc, khao khát, hay kinh nghiệm của con người, dù
rằng người đó đang nhiệt tình cách mấy đi nữa. Và nó cũng không liên quan nếu
như người ta tin điều gì. Niềm tin không làm cho một điều gì đó trở nên chân
lý. Có thể một người nào đó cứ khăng khăng là không có chiến tranh dù rằng bom
đạn đang nổ bên ngoài nhà họ. Dù người ấy có gào thét là không có chiến tranh,
nhưng bằng chứng về chiến tranh vẫn xung quanh họ.”
Chân cười mỉm và bắt đầu thấy thoải
mái.
“Chân lý cũng là thống nhất.
Không thể có một chân lý cho khoa học, và rồi một chân lý khác cho tôn giáo.” Vị
giáo sư hơi khum người về phía trước. “Khi ông nội tôi qua đời, bà nội tôi
không chịu tin rằng ông tôi đã chết. Bác sĩ khẳng định ông tôi đã chết, và
chúng tôi mai táng người. Nhưng bà tôi thì cứ khăng khăng rằng ông tôi còn sống.
Bà nấu những món ông tôi thích, và giặt đồ của ông. Cả gia đình tôi biết rằng
dù bà nói gì đi nữa, thì ông tôi cũng đã chết rồi. Nếu một điều gì đó là chân
lý, thì nó luôn luôn là chân lý bất chấp mọi hoàn cảnh. Nếu tôn giáo nói có một
Đức Chúa Trời là đúng, thì điều đó là đúng dù cho các nhà khoa học phản đối đến
đâu đi nữa. Tương tự, nếu các nhà khoa học nói rằng không có Đức Chúa Trời là
đúng, thì tôn giáo chỉ là chuyện phù phiếm thần tiên. Mọi sự trên đời đều kết hợp
với nhau cách nhịp nhàng. Sẽ không thể có các chân lý xung khắc nhau.”
“Nói cách khác, nếu một việc là đúng, nó luôn luôn
đúng.” Chân góp lời vào.
“Đúng vậy. Và, điều đối nghịch với chân lý không thể
là chân lý. Cùng lúc, thời tiết không thể vừa nóng vừa lạnh. Chỉ có thể hoặc
nóng hoặc lạnh. Nếu cháu bệnh và thấy lạnh trong người, thì điều đó không làm
thay đổi thời tiết nóng bức của mùa hè được.” Bác Quang mãi mê nghe cuộc đối
thoại mà quên mất rằng khí trời xung quanh ngày càng nóng. Bác đứng lên mở quạt,
thì vị thầy ấy cũng dừng lại đôi chút. “Hoặc là có Đức Chúa Trời, hoặc là không
có Đức Chúa Trời. Kinh Thánh đúng hoặc Kinh Thánh là sai.”
Vị mục sư hơi nhích mình một chút vì thời tiết nóng bức.
“Có thể nào Kinh Thánh chỉ đúng một phần? Có thể đó là Lời Đức Chúa Trời nhưng
cũng có những sai lầm của con người trong đó?”
“Chúng ta sẽ nói đến vấn đề ấy sau, nhưng bây giờ hãy
tập trung vào bản chất của chân lý. Chân lý là tuyệt đối. Nếu một điều gì đó là
chân thật, thì không có ngoại lệ. Nước đông đá ở 0oC. Chúng ta không
nói rằng thỉnh thoảng nước mới đông đá ở nhiệt độ ấy. Nếu như nước được làm lạnh
đến mức ấy, nó luôn luôn đông đá. Không ai trong chúng ta thoát khỏi những quy
luật tự nhiên. Nếu cháu lên đến Bắc Cực mà không mặc đồ ấm, chính cháu cũng
đông đá. Không có miễn trừ dù rằng cháu cứ khăng khăng là cháu sẽ không đông
đá.”
“Nghĩ đến chuyện đó cháu thấy cũng đỡ nóng.” Chân cười,
tay với lấy một tờ báo rồi phe phẩy quạt.
Vị thầy ấy nói tiếp, “Điều gì đúng ở đây thì cũng đúng
ở Bắc Cực. Chân lý là luôn luôn đúng khắp địa cầu. Cháu không thể nói có điều
gì đó chỉ đúng cho cháu mà không đúng cho chú. Hoặc là Đức Chúa Trời có thật,
hoặc không có thật. Nếu Đức Chúa Trời là có thật, thì điều đó đúng cho cháu mà
cũng đúng cho chú. Cháu có thể chối rằng Ngài không thật, nhưng không vì thế mà
Ngài không tồn tại. Cháu có thể nói với bạn bè rằng cháu chưa hề nói chuyện với
chú, nhưng điều đó không thay đổi sự thật là chúng ta đã ngồi trong phòng này
cùng nói chuyện. Nếu phải ra tòa, chú hoàn toàn có thể chứng minh được. Nếu
Kinh Thánh là đúng cho chú, nó cũng đúng cho cháu. Nếu điều ấy là không đúng,
dù rằng ta tin mạnh mẽ mấy đi nữa, nó vẫn không đúng. Cháu không thể nói điều ấy
đúng với người châu Âu, nhưng không đúng với người châu Á, đúng với người già
nhưng không đúng với người trẻ.”
“Sao lại không? Chẳng phải là có nhiều tôn giáo khác
nhau đó sao? Nếu như có Đức Chúa Trời, có phải các tôn giáo chẳng qua chỉ là
các cách nhau để đến với Đức Chúa Trời thôi sao?” Chân cảm thấy thoải mái hơn một
chút.
“Kinh Thánh dạy rằng chỉ có một Đức Chúa Trời duy nhất,
và những gì Ngài dạy là áp dụng đối với tất cả mọi người. Kinh Thánh xác nhận
chính Kinh Thánh là chân lý. Không chỉ thế, Kinh Thánh còn xác nhận đó là chân
lý duy nhất. Kinh Thánh cũng xác nhận những tôn giáo khác là sai trật. Vì Kinh
Thánh hoặc là sai hoặc là đúng. Nó không thể vừa sai vừa đúng. Các tôn giáo
khác nhau có nhiều điểm tương đồng, nhưng lại có những khác biệt lớn lao. Mỗi
tôn giáo đều nhận mình là chân lý, nhận là mình đúng. Vì cớ có nhiều khác biệt
lớn lao, chúng không thể cùng đúng. Chỉ có duy nhất một tôn giáo là đúng, là
chân lý thôi.”
“Hoặc chẳng có ai đúng hết.” Chân góp lời vào.
“Thật là như vậy” vị thầy thừa nhận. “Chân lý không phải
do người ta xây dựng nên. Không
ai dựng nên chân lý, cà cũng không ai quyết định một điều gì đó là chân lý.
Chân lý tồn tại dù rằng chúng ta thừa nhận, tin, hay không tin.”
“Làm sao ta biết được?”
“Chiến tranh là có thật, dù rằng người ta có tin hay
không. Dù cho cháu ngủ suốt ngày, không biết thời tiết nóng bức thế nào, nhưng
tất cả chúng ta đều biết rằng trời đang nóng. Và nếu chú thấy một con rắn ở
trên giường của cháu, và nói cho cháu biết, cháu có thể tin hay không, nhưng nếu
cháu lên giường thì sẽ thấy được sự thật. Dù rằng khi cháu lên giường thì con rắn
đã bò đi mất, thì cũng không có nghĩa là chú nói sai.” Trong Chân lóe lên một
suy nghĩ. “Giống như có một chiếc xe tải đang lao tới thật nhanh. Nếu cháu cứ
khăng khăng rằng chiếc xe tải là do chú tưởng tượng ra, và cháu cứ bước ra đường
thử xem. Cháu sẽ biết được sự thật. Chân lý không phải do chúng ta tưởng tượng
ra. Chân lý là thật. Khi cháu thử nghiệm, cháu sẽ thấy ra rất rõ ràng.”
“Vì thế nên bác tin Kinh Thánh,” bác Quang nói với giọng
cân nhắc, “bác đã có những trải nghiệm rất thuyết phục. Những lời cầu nguyện của
bác được trả lời đã thuyết phục bác rằng có Đức Chúa Trời.”
“Đức Chúa Trời là chân lý, nhưng Ngài phải bày tỏ
chính mình Ngài cho chúng ta, nếu không, chúng ta không thể nào biết về Ngài.
Những gì Ngài bày tỏ được ghi lại trong Kinh Thánh”
“Kinh Thánh là có thể hiểu được. Chân lý là như thế.
Kinh Thánh nói đến mọi lĩnh vực của cuộc sống với một chủ trương nhất quán.
Kinh Thánh giải thích lịch sử con người từ khi khởi thủy đến khi chúng kết.
Kinh Thánh cho chúng ta những quy tắc đạo đức, và dạy chúng ta làm sao để có sự
khôn ngoan khi sống trên đời. Còn hơn thế nữa. Vượt khỏi địa cầu này, Kinh
Thánh cho chúng ta hiểu biết về Đức Chúa Trời và sự sống sau cái chết. Kinh
Thánh giải thích lý do chúng ta tồn tại, và lý do tại sao có sự khổ trong đời.
Kinh Thánh cho chúng ta biết sự khác biệt giữa những ham muốn đúng và sai. Kinh
Thánh giải thích tại sao chúng ta đã không khôn ngoan, và sống không đạt tới những
chuẩn mực đạo đức. Và Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một lối để được cứu ra
khỏi cảnh trạng này.”
“Đó gọi là biện chứng,” Chân gật gù.
“Chưa hết, chân lý không thay đổi, vì Đức Chúa Trời
không thay đổi. Chân lý đi liền với đặc tính của Đức Chúa Trời. Đó không chỉ là
những ý tưởng của Ngài. Đó là chính Ngài. Vì thế chân lý không có hạn sử dụng
như một lọ thuốc có hạn sử dụng. Kinh Thánh xác nhận là từ Đức
Chúa Trời, điều đó luôn luôn đúng dù chúng ta có tin hay không tin.”
“Cháu không tin,” Chân nói giọng khá căng thẳng, vốn
là người thật thà.
“Không vì thế mà Kinh Thánh không còn đúng,” vị thầy
bình tĩnh nói, “nếu đó là chân lý, dù cho chúng ta không thích đi nữa, chúng ta
cũng phải chấp nhận và áp dụng nó vào cuộc đời. Khi chúng ta áp dụng, đời sống
chúng ta thay đổi, chúng ta sẽ tin càng hơn rằng đó là chân lý.”
“Ý chú là cháu cứ tin mà không cần thấy bằng chứng?”
Chân hơi lên giọng một chút.
“Không, nhưng khi cháu tin vào chân lý, cháu sẽ thấy
nó phù hợp với đời sống thật.”
“Nhưng chú không thể chứng minh một tôn giáo,” Chân
đáp.
“Chú biết bà nội của chú yêu thương ông nội của chú rất
nhiều, nhưng chú có thể chứng minh điều đó bằng khoa học không?
“Không, nhưng tình yêu thương là có thật!” Chân thừa
nhận, “Tình yêu thương rất là mạnh mẽ!”
“Và chân lý cũng mạnh mẽ, vì nó nối kết chúng ta với
thực tại. Chú nói thêm, không phải chúng ta chỉ tin những phần trong Kinh Thánh
mà chúng ta thích. Chúng ta phải tin toàn bộ cả Kinh Thánh.”
“Vậy là quay lại vấn đề mà tôi đã hỏi,” mục sư Tài lên
tiếng.
Sự Khải Thị - Đức Chúa Trời lên tiếng
Vị giáo sư đăm chiêu nhìn sang vị mục sư trẻ. “Ngày
nay nhiều người cho rằng Đức Chúa Trời chẳng bao giờ lên tiếng. Họ nghĩ chỉ có
con người mới có tiếng nói, và tiếng nói là bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ, văn hóa,
xã hội, môi trường và kinh nghiệm. Các niềm tin phổ biến trong xã hội hiện đại
đã dắt đưa nhiều người cho rằng chẳng có Đức Chúa Trời nào nói chuyện với loài
người, hoặc liên quan gì đến đời sống loài người. Con người giống như lũ trẻ
không cha mẹ.”
“Tôi tin là có Đức Chúa Trời, nhưng tôi tin là Kinh Thánh
có những sai lầm. Tại nơi trường tôi học để ra làm mục sư, có một vị giáo sư…”
mục sư Tài chưa nói hết câu.
“Ngày nay những sự dạy dỗ như thế đang lan truyền. Nan
đề sâu xa là chúng ta chưa rõ về vấn đề thẩm quyền. Nhưng trước khi chúng ta
nói đến vấn đề đó, chúng ta phải đối diện một câu hỏi rất then chốt là, “Sự khải
thị là gì?” Làm sao chúng ta có thể biết về Chúa nếu như Ngài không bày tỏ, hay
mặc khải, chính mình Ngài cho chúng ta? Có thể nào chăng? Ta có thể lên phi
thuyền, bay vào không gian để tìm kiếm Ngài chăng? Làm sao biết địa chỉ Ngài ở
đâu để ta có thể thăm Ngài?”
“Không thể được!” Chân thở ra.
Tất cả cùng cười, sau đó mục sư Tài hỏi, “Thế thầy định
nghĩa sự khải thị là gì?”
“Trong
Cựu Ước và Tân Ước, chữ khải thị là
nói đến việc gỡ bỏ một chướng ngại. Một điều gì đó trước nay giấu kín nay được
lộ ra. Ngay chính chữ khải thị hàm
ý rằng loài người không thể “thấy” Đức Chúa Trời trừ khi Ngài vén bức màn và
giúp ta nhìn thấy. Bức màn là một cản ngại cần được gỡ bỏ để người ta có thể thấy
những thứ phía sau bức màn.”
Vừa
lúc đó thì Dì Lan đem một bình trà ra. Sau khi châm trà, bác Quang mở miệng,
“Có nhiều người quan tâm về sự hiện hữu của Đức Chúa Trời không? Hay là người
ta chẳng có ai suy nghĩ đến chuyện đó?”
“Người
ta luôn thắc mắc về Đức Chúa Trời. Trong nhu cầu và tìm kiếm Đức Chúa Trời,
loài người đã sản sinh ra nhiều tôn giáo. Tuy nhiên, tất cả tôn giáo đều là bởi
con người.”
“Nhưng
nếu như người ấy thực lòng thì sao?” Chân thêm vô.
“Có thể ai đó có lòng thành thật
tìm kiếm Chúa, nhưng thế không có nghĩa con đường anh ta chọn là đúng”, vị thầy
đáp lời, “Chúng ta là con người hữu hạn. Chúng ta không thể tự mình tìm kiếm
Chúa. Ngài vĩ đại hơn chúng ta rất nhiều, một khi Ngài không muốn thì
không ai có thể tìm thấy Ngài. Hy vọng duy nhất của con người chúng ta là Đấng Tạo Hóa bày tỏ chính
mình Ngài cho chúng ta.” Vị thầy nhìn khắp phòng trước khi tiếp tục.
“Tin mừng là Đức Chúa Trời đã bày tỏ chính mình Ngài (Giăng 1:18, I Cô
2:11-13). Như Ngài có thể ẩn mình đi, thì Ngài cũng có thể khải thị chính Ngài
cho chúng ta, và rất may, Ngài vui long bày tỏ chính Ngài cho chúng ta.
“Nếu tôi đã dựng nên loài người, tôi
muốn mọi người biết về tôi,” bác Quang nói, vẻ mặt nghiêm trọng lắm khiến ai
cũng bật cười.
Sau
khi châm trà, vị thầy nói tiếp, “Chúng ta hãy quay lại từ buổi ban đầu. Hai người
đầu tiên, A-đam và Ê-va, đã có thể nói chuyện trực tiếp với Đức Chúa Trời,
nhưng chính họ tự dứt mình ra khỏi Ngài. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời không quay
lưng lại với con người. Ngài cũng không dựng nên loài người khác vì những con
người đầu tiên đã sa ngã. Từ trước khi sáng tạo thế giới, Ngài đã dự trù sẽ khải
thị chính Ngài và chân lý của Ngài cho loài người, thậm chí khi loài người đã
phá vỡ mối quan hệ với Ngài. Ngài thiết kế thế giới này để bày tỏ bản tính Ngài
với bất kỳ ai quan tâm (Công 14:16-17, Rô 1:18-20). Chúa cũng ban cho loài người
có lương tâm để giúp họ biết đúng sai (Rô 2:14-16). Loài người chẳng những
không quan tâm tìm biết Chúa, mà còn hư mất đến nỗi kiến thức cũng không đủ để
họ nhận biết Chúa. Họ cần được cứu hầu cho quan hệ giữa họ với Chúa có thể phục
hồi.”
“Đức
Chúa Trời đã hoạch định giài pháp cho tình trạng hư mất của loài người. Ngài chọn
một gia đình và bắt đầu bày tỏ chính Ngài qua những cách đặc biệt hầu sửa soạn
thế giới cho giải pháp của Ngài. Giống như cha đối với con, Ngài bắt đầu dạy dỗ
họ. Cuối cùng, khi đã đến kỳ hạn, chính mình Ngài trở nên một con người để mang
đến cho nhân loại chân lý và sự cứu chuộc (Hê 1:1-3, Rô 3:21, Giăng 1:1;18). Sự
khải thị đặc biệt của Đức Chúa Trời không phải để loài người gia tăng kiến thức,
mà là để mang con người đến với sự cứu chuộc, rồi quan hệ của họ với Đấng Tạo
Hóa được phục hồi. Nếu Đức Chúa Trời đã dựng nên vũ trụ này, thì nào có khó gì
cho Ngài bước vào thế giới và trò chuyện với con người (Xuất 4:10-17, 7:1-7,
Ê-sai 48:12-16)
“Ý thầy
nói rằng Đức Chúa Trời xem chúng ta là những thực thể có lý trí,” mục sư Tài
chau mày nói.
“Đúng.
Đức Chúa Trời giao tiếp với chúng ta. Nếu Đức Chúa Trời muốn giúp đỡ chúng ta,
thì Ngài có thể làm thế chứ?”
“Vậy
Ngài nói những gì?” Chân tò mò hỏi.
“Chân
lý! Lẽ thật! Sao Ngài không truyền đạt cho chúng ta điều gì khác? Nếu có, chúng
ta cũng không hiểu được (Ê-sai 45:18-19). Tất cả cùng ngồi yên lặng hớp một ngụm
trà và ăn miếng bánh trên bàn.
Sau
đó vị thầy nói tiếp, “Đức Chúa Trời trò chuyện với những
con người thật, những con người đã thật sống trên đất. Ngài làm điều đó trong lịch
sử. Ngài đặt lời của Ngài trên miệng những sứ giả của Ngài, những
người đi ra và nói lại cho dân sự về những cảnh trạng thực sự mà dân sự phải đối
diện (Phục 18:18, II Sử 36:15, Ê-sai 46:9-11). Đức Chúa Trời cho các nhà tiên
tri những chiêm bao và khải tượng để chia sẻ với dân sự của Ngài. Đức Chúa Trời
thực hiện những việc siêu nhiên và phép lạ, ví như lửa từ trời giáng xuống. Cũng
có khi Đức Chúa Trời dung thiên sứ để truyền tải thông điệp. Môi-se đã liên hệ
trực tiếp với Chúa khi ông nói chuyện với Ngài mặt đối mặt như hai người bạn vậy.
Đức Chúa Trời hướng dẫn các tiên tri của Ngài viết ra những sứ điệp thành những
sách trong Kinh Thánh. Rồi đến thế kỷ thứ nhất, Chúa Giê-xu sống giữa xứ
Israel, dạy dỗ, bị giết và sống lại từ kẻ chết.”
” Chúa Giê-xu còn được gọi là Ngôi Lời của Đức Chúa Trời,”
bác Quang quay qua như muốn giải thích với Chân.
“Đức Chúa Trời giao tiếp với cách cá nhân. Đấng Tạo
Hóa là một ngôi vị nói chuyện với chúng ta và mong muốn chúng ta đáp ứng lại.
Ngài dựng nên chúng ta có tâm trí, có khả năng hiểu biết ngôn ngữ, và giao tiếp
với chúng ta thông qua ngôn ngữ. Giống như cha đối với con, Đấng Tạo Hóa có
ngôn ngữ và ý tưởng đã giao trò chuyện với chúng ta để chúng ta hiểu về Ngài. Đức
Chúa Trời cũng cảm thúc những người đã trò chuyện với Ngài viết ra những điều
Ngài dạy dỗ hầu giữ gìn những điều ấy. Bao nhiêu thế kỷ qua, Cơ Đốc Nhân tin rằng
Kinh Thánh là sự khải thị từ Đức Chúa Trời.”
Mục sư Tài cắt ngang, “Ngày nay người ta đang tranh luận
sôi nổi về chuyện này”
Vị thầy gật gù đồng ý. “Đúng. Đây là một vấn đề quan
trọng. Tất cả niềm tin của Cơ Đốc Nhân đều dựa vào câu trả lời của vấn đề này.
Nếu không phải bởi Đức Chúa Trời khải thị, Kinh Thánh cũng chỉ là một cuốn sách
chứa ý tưởng của con người. Nếu Đức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài trong Kinh
Thánh, thì Kinh Thánh chính là lẽ thật.”
Mục sư Tài gậ gù, “Nhưng Kinh Thánh chỉ đúng vài phần,
hay toàn bộ Kinh Thánh đều đúng hết?”
“Nếu
Kinh Thánh chỉ đúng vài phần, thì làm sao chúng ta biết phần nào của Chúa, phần
nào của con người?” Vị thầy im lặng một chút, có vẻ như để cho mọi người
suy nghĩ. Sau đó, thầy nói tiếp.
Bằng chứng của sự khải thị
“Bao nhiêu thế kỷ qua, Kinh Thánh đã
đứng vững trước nhiều tấn công của kẻ thù, đến ngày nay thì nhiều người tuy
xưng rằng mình là bạn của Kinh Thánh cũng tấn công Kinh Thánh. Nhiều nhà lãnh đạo
Cơ Đốc hoài nghi Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời đã ảnh hưởng mạnh mẽ lên trên
Hội Thánh khắp nơi trên thế giới. Bất cứ nơi nào, khi người ta khinh suất
thẩm quyền của Kinh Thánh thì Hội Thánh trở nên yếu và không hiệu quả.”
“Sao thầy nói như thế?” mục sư Tài
hơi khó hiểu
“Đó là do người ta đã hạ thấp uy quyền
của Đức Chúa Trời mà tôn cao khả năng của con người. Kết quả là, người ta tin cậy
nơi lý luận của con người hoặc đặc đức tin trên những cảm xúc thay vì trên Lời
Đức Chúa Trời. Và thế là, Hội Thánh không còn một sứ điệp vững chắc đầy hy vọng
cho một thế giới đầy đau thương.”
Chân hơi nhướng mày, như có vẻ muốn
nói gì đó. Nhưng mục sư Tài đã kịp nói trước Chân. “Theo thầy, những vấn đề
quan trọng nhất của cuộc sống là gì?”
Vị giáo sư liếc nhìn trần nhà có vẻ
suy nghĩ. “Có lẽ đó là câu hỏi: Ý nghĩa của sự sống là gì? Và, “Chân lý là gì?”
Nhưng chúng ta không thể tìm câu trả lời từ nơi con người.”
Chân hơi nhăn mặt, “Vậy làm cách
nào?”
“Câu trả lời phải đến từ bên ngoài
thế giới này – từ Đấng Tạo Dựng nên thế giới này. Nhưng Đấng ấy có nói chuyện với
chúng ta không? Ngài đã nói gì để trả lời chúng ta chưa? Kinh Thánh xác nhận rằng
Ngài đã trả lời, và câu trả lời đó là Kinh Thánh.” Vị giáo sư cầm quyển Kinh
Thánh trước mặt lên. “Tuy nhiên, chúng ta không nên tin chỉ vì một cuốn sách
nào đó tự nhận là từ Chúa mà đến. Chúng ta cũng không nên tin chỉ vì chúng ta
muốn nó là đúng như vậy. Chúng ta phải xem xét bằng chứng.”
Giờ thì Chân bắt đầu lắng nghe cẩn
thận.
Vị giáo sư đưa tay vuốt nhẹ mái tóc.
“Nghĩ xem. Kinh Thánh là quyển sách đầu tiên được in ra, và ngày nay được dịch
sang nhiều thứ tiếng hơn bất cứ cuốn sách nào khác. Tại sao người ta ở khắp thế
giới quan tâm những xung đột ở một quốc gia nhỏ bé? Tại sao một vị thầy đi đây
đó giảng dạy đã cùng mười hai học trò của mình tạo nên một thay đổi như thế? Những
chuyện như thế có ý nghĩa gì cho chúng ta ngày nay?”
“Cháu biết rất nhiều người trẻ, đặc
biệt là những trí thức, chẳng quan tâm gì đến chuyện đó,” Chân chêm vào. Chân
đang nghĩ rằng tôn giáo chỉ dành cho những người già và vô công rỗi nghề, nhưng
không dám nói ra vì sợ vô lễ.
“Bao nhiêu người trong số bạn bè của
cháu đã từng đọc Kinh Thánh?” vị giáo sư hỏi ngược lại Chân. Điều này làm Chân
khó trả lời vì không biết chắc chắn. Vị giáo sư nói tiếp, “Ít nhất, cháu phải
thừa nhận rằng những trí thức trẻ biết rằng có một quyển gọi là Kinh Thánh. Và
họ thường có ý kiến về cuốn Kinh Thánh đó. Đa số người ta biết rằng Kinh Thánh
là nổi tiếng khắp thế giới.”
“Có thể vì Kinh Thánh là một áng văn
hay? Một sưu tập những câu truyện cổ tích thần tiên?” Chân gợi ý.
“Đúng,
Kinh Thánh là một áng văn hay. Nhưng còn hơn thế nữa. Những câu truyện trong đó
ghi lại những sự can thiệp thiên thượng vào trong lịch sử loài người. Những
nhân vật trong đó được Đức Chúa Trời trò chuyện. Nhân vật chính của Kinh Thánh
là chính Đức Chúa Trời. Kinh Thánh tự xác nhận là cuốn sách được hà hơi, được cảm
thúc bởi Đấng Tạo Hóa có thật của mọi sự. Kinh Thánh không phải để thỏa mãn óc
tò mò, nhưng Kinh Thánh chỉ cho ta thấy con đường đến sự cứu rỗi và sự sống (II
Ti 3:15)”
Thấy vẻ mặt nghi ngờ của Chân, vị
giáo sư nói tiếp, “Nhưng chúng ta không thể bảo người ta tin mà không đưa ra được
lý do chính đáng để tin. Nhiều người đang tin những điều hoàn toàn sai trật. Thế
giới này đầy những tôn giáo và triết lý mà con người tin và ra sức bênh vực. Lịch
sử cho thấy nhiều người La mã đã từng tin rằng Ceasar là thánh thần, nhưng rồi
mọi bằng chứng đều chỉ ra Ceasar chỉ là con người như bao người mà thôi. Các
Pha-ra-ôn của xứ Ai-cập cũng vậy.”
“Nhiều hoàng đế và vua chúa ở Á châu
cũng vậy,” Chân thêm vào.
“Nhiều vị vua trong lịch sử cổ đại
đã tự xưng mình là thánh thần, nhưng bây giờ họ ở đâu? Một điều chỉ đáng tin
khi điều ấy là chân thật. Chúng ta phải thử nghiệm một lời tuyên bố trước khi
tin lời ấy (I Giăng 4:1-6). Chúng ta cũng khích lệ người khác như vậy. Ngay cả
Kinh Thánh cũng khuyến khích việc tìm hiểu kỹ càng (Luca 1:1-4, Công 17:31, Rô
1:4, I Cô 15:14)”
Bác Quang liếc nhìn Chân, rồi cất tiếng
hỏi, “Chúng ta đưa ra chứng cứ gì cho những người không tin Kinh Thánh?”
“Có nhiều lý do chính đáng để tin
Kinh Thánh. Tôi bị bắt phục rằng Kinh Thánh đã vượt qua mọi thử nghiệm. Càng học
Kinh Thánh, càng thấy Kinh Thánh là độc nhất vô nhị. Có nhiều trước giả viết
trong khoảng thời gian mười sáu thế kỷ. Họ khác nhau về nghề nghiệp, ngôn ngữ
và xứ sở. Nhưng sự dạy dỗ của họ hiệp nhất nhau đến kỳ lạ. Những chủ đề chính
được triển khai trong suốt khoảng thời gian dài, nhưng không hề thay đổi. Ý tôi
muốn nói là, có những phần triển khai được thêm vào để giúp người đọc hiểu vấn
đề, nhưng không hề mâu thuẫn. Thông điệp của tất cả các trước giả cho thấy sự
nhất quán và hiệp nhất về tư tưởng, mà về mặt con người không thể nào đạt được.”
“Thí dụ như,” vị giáo sư vừa lật Kinh Thánh vừa lộ vẻ
thích thú trên gương mặt, “Nhìn xem sách đầu tiên và sách cuối cùng của Kinh
Thánh. Khởi đầu là việc dựng nên trời và đất, và kết thúc là việc dựng nên trời
mới và đất mới (Sáng 1:1, và Khải 21:1). Kinh Thánh mở đầu và chấm dứt với việc
Đức Chúa Trời lập con người cai trị trên muôn vật (Sáng 1:27,28 và Khải 21:9,
3:21). Có cây sự sống lúc khởi đầu và lúc kết thúc (Sáng 2:9-10, và Khải 2:7,
22:1-2). Lúc khởi đầu chúng ta thấy tội lỗi và sự chết, khi kết thúc ta thấy tội
lỗi và sự chết bị đánh bại (Sáng 3, và Khải 21:4) Sự trừng phạt rộng khắp đầu
tiên đối với tội lỗi là cơn lụt, và sau cùng sẽ là lửa (Sáng 6-9, Khải 20:11,
và II Phi 3:6-12). Gần lúc ban đầu lịch sử con người, sự hiệp một của mọi dân bị
hủy phá, nhưng lúc kết thúc thì sự hiệp nhất của muôn được phục hồi (Sáng 11 và
Khải 5:9). Ngay khi tội lỗi vào thế gian thì đã có sự sửa soạn cho việc cứu chuộc
(Sáng 3:15, và 12:3). Đến khi kết thúc thì sự cứu chuộc ấy được hoàn tất (Khải
21:12,14)”
“Còn nhiều thí dụ nữa lắm. Sự dạy dỗ của Kinh Thánh về
đặc tính của Đức Chúa Trời và bản tính của con người là nhất quán nhau, từ trước
đến sau. Chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời hé lộ dần dần.”
“Ý thầy là sao?” Chân lộ rõ vẻ tò mò.
“Đức Chúa Trời không bày tỏ mọi sự cùng một lúc. Ngài
liên tục thêm vào bức tranh từng nét vẽ, từng chút từng chút, để giải thích sự
cần thiết phải có một Đấng Cứu Thế và lời hứa Đấng ấy sẽ đến. Cựu Ước kết thúc
bằng lời hứa sẽ có ai đó dọn đường cho Đấng Cứu Chuộc (Malachi 3:1, 4:5-6). Tân
Ước mở ra bằng sự xuất hiện một sứ giả (Mat 3:1-4, Luca 1:17). Sau khi Đấng Cứu
Chuộc đến, sự giải thích càng đầy đủ thêm. Ngay từ thời sớm sủa lịch sử nhân loại
đã có dự ngôn về Chúa Giê-xu, nhưng mãi đến thế kỷ thứ nhất Chúa Giê-xu mới đến.
Suốt bao nhiêu năm trường, nhiều người khác nhau đã viết về sự đến của Ngài, và
tất cả mọi chi tiết họ nói đến đều đã ứng nghiệm. Sau khi Ngài đã đi xa, những
học trò của Chúa Giê-xu viết về Ngài cũng rất nhất quán.”
“À, ra vậy. Một bằng chứng là các trước giả Kinh Thánh
đã rất thống nhất nhau.” Bác Quang kết luận.
“Đúng thế. Và một vần đề khác cũng cần xem xét. Các
trước giả Kinh Thánh xác nhận thẩm quyền trên những tác phẩm của họ.”
“Chúa Giê-xu dạy rõ ràng rằng Kinh Thánh là Lời Đức
Chúa Trời.” Bác Quang thêm vào.
“Đúng là Chúa Giê-xu dạy như vậy. Ngay cả những người
không phải Cơ đốc nhân cũng thừa nhận Chúa Giê-xu là người thành thật. Nếu bản
thân người làm chứng là đáng tin, thì lời làm chứng của anh ta mới đáng tin.
Chúa Giê-xu chứng tỏ mình là người đáng tin bằng việc sống lại từ kẻ chết (Công
17:31, Rô 1:4, I Cô 15:14). Vì vậy, chúng ta có thể tin mọi điều Chúa Giê-xu
nói.”
“Một việc khác cần xem xét, ấy là các bằng chứng lịch
sử. Các nhà khảo cổ tìm kiếm nơi vùng Trung Đông, nhiều lần nhiều lần, đã chứng
tỏ những điều được nói đến trong Kinh Thánh là đúng, là chính xác về mặt lịch sử.
Thậm chí ngôn ngữ của trước giả đã dùng cũng đúng, cũng thích hợp vào thời điểm
người ấy sống.”
“Nếu chúng ta tra xét kỹ hơn, sẽ thấy nhiều điểm được
ghi lại trong Kinh Thánh mà nếu chúng ta tự tạo câu chuyện, ta đã loại bỏ những
chuyện đó. Những nhà chép sử ở các quốc gia cổ đại không viết về những thất bại
và yếu đuối nơi những nhà lãnh đạo của họ. Thay vào đó, họ cường điệu sự vĩ đại
của nhà lãnh đạo. Thay vì tâng bốc dân Israel, Kinh Thánh thường hay lên án dân
sự của Đức Chúa Trời. Và cái cách Kinh Thánh mô tả Đức Chúa Trời tương giao với
dân sự cũng rất khác so với các tôn giáo khác. Có nhiều phép lạ trong Kinh
Thánh, nhưng chúng khác với những câu chuyện thần tiên. Đức Chúa Trời không phải
chỉ lớn hơn con người một chút, và cũng có khiếm khuyết và hành vi của con người. Không phải như thế. Đức Chúa Trời vĩ đại hơn
con người rất nhiều, đến mức không một ai có thể dùng tâm trí mình mà sáng tác
nên Ngài.”
Chân hơi nghiêng người về phía trước, tỏ ý rất lắng
nghe.
“Ý thầy là mọi thứ ghi lại trong Kinh Thánh đều là từ
Đức Chúa Trời?”
“Mọi thứ trong Kinh Thánh đều tùy thuộc vào ý tưởng được
khải thị. Nếu không có sự khải thị, sẽ không có Kinh Thánh. Các trước giả Kinh
Thánh tin rằng Đức Chúa Trời khải thị chân lý Ngài. Họ xác nhận là đang ghi lại
những điều Ngài đã nói. Đấng Tạo Hóa đã bày tỏ chính mình Ngài, gỡ bỏ mọi cản
ngại để con người nhận biết Ngài (Hê 1:1-5). Đúng là như thế, sự khải thị chính
là sự ban cho từ nơi Đức Chúa Trời. Ngài thật nhân từ. Ngài không bỏ rơi chúng
ta trong tối tăm.
“Tôi đồng ý điều đó, nhưng như thế không có nghĩa là
Kinh Thánh không có những điểm sai,” vị mục sư góp vào. Bác Quang thấy hơi bực
mình, từ trước đến nay bác không ngờ mục sư của mình lại có quan điểm như vậy.
Sự soi dẫn – Đức Chúa Trời phán thông qua con người
Vị giáo sư quay qua nhìn mục sư Tài.”Điều mục sư vừa
nói liên quan đến sự cảm thúc, hay còn gọi là sự hà hơi hoặc soi dẫn. Sự mặc khải
và sự soi dẫn gắn kết chặt chẽ với nhau. Cách chúng ta nhìn cái này sẽ ảnh hưởng
lên sự hiểu biết của chúng ta về cái kia.”
“Sự soi dẫn
nghĩa là gì?” Chân hơi nhướng mày.
“Chữ này được dùng trong Kinh Thánh Tân Ước. Cả Kinh
Thánh đều được Đức Chúa Trời soi dẫn (II Ti 3:16). Soi dẫn, cảm
thúc, hà hơi là những chữ có nghĩa giống nhau. Điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời hướng dẫn
quá trình viết nên Kinh Thánh. Chính mình Đức Chúa Trời làm việc trong trí và
tâm những con người để viết nên.”
Bác Quang có vẻ như muốn xác định rõ là mình đã hiểu
đúng, “Vậy khải thị là…?”
“Đó là khi Đức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài và ý tưởng
Ngài cho con người.”
“Vậy còn sự cảm thúc?”
“Sự cảm thúc là điều xảy ra khi Đức Chúa Trời giúp con
người nói ra và ghi lại thông điệp của Ngài cách chính xác.”
Mục sư Tài chậm chậm lập lại hai định nghĩa mình vừa
nghe được, rồi nói, “Nhưng tôi vẫn nghi ngờ về tính chính xác.”
“Sự soi dẫn (cảm
thúc) là sự ảnh hưởng của Đức Thánh Linh trên các trước giả Kinh Thánh hầu để họ
công bố và ghi lại thông điệp mà mình đã nhận lãnh từ Chúa theo cách chính xác và
chắc chắn xác thực. Sự ảnh hưởng này hướng dẫn họ ngay cả việc
chọn lựa từ ngữ, để họ không phải sai trật hoặc sơ sót. Cũng vậy, Đức Chúa Trời
soi dẫn họ về các sự kiện và sự việc mà họ đã biết mà không cần sự khải thị đặc
biệt, để tác phẩm của họ thể hiện ý chí của Đức Chúa Trời.
Lời xưng nhận của Kinh Thánh
Đa số Cơ đốc nhân, theo nhiều cách, đồng ý rằng Kinh
Thánh là thẩm quyền của chúng ta. Mục sư có đồng ý không?” Vị giáo sư hỏi.
“Có,” mục sư Tài trả lời, “Tôi cũng dạy như thế.”
“Nhưng tại sao? Điều gì khiến Kinh Thánh có thẩm quyền?”
Vị giáo sư cầm tờ tạp chí lên, “Tại sao tôi không nói rằng cuốn tạp chí này là
có thẩm quyền đối với tôi?”
“Có phải vì Đức Chúa Trời có quyền cai trị trên chúng
ta, và Kinh Thánh cho biết ý Ngài muốn gì?” Bác Quang nói ngập ngừng.
Vị giáo sư chưa kịp trả lời thì mục sư Tài lên tiếng,
“Tôi tin chắc Đức Chúa Trời là chân lý.” Mục sư lấy hơi một chút rồi nói tiếp,
“Và Ngài có uy quyền trên chúng ta. Chúng ta phải lắng nghe bất kỳ điều gì Ngài
nói, nhưng…”
Chân ngắt lời, “Nhưng làm sao thầy biết được Kinh
Thánh cho chúng ta biết về những điều Đức Chúa Trời nói?”
“Chúng ta cần nhìn vào bằng chứng. Ý tôi muốn nói là
chúng ta phải nhìn vào những mấu chốt. Đầu tiên là chính Kinh Thánh. Kinh Thánh
nói gì?” Sau khi yên lặng một chút, vị giáo sư tự trả lời câu hỏi, “Kinh Thánh
xác nhận rằng mọi chữ trong đó đều là chữ của Đức Chúa Trời. Đây là một lời
xưng nhận lớn lao. Nếu không tin điều này, chúng ta không tin Đức Chúa Trời. Tức
là chúng ta không tôn trọng uy quyền của Ngài.”
Chân có vẻ khó chịu, “Không ai chối rằng Kinh Thánh là
một quyển sách tốt; sách ấy dạy những điều đạo đức tốt đẹp”
“Nếu Kinh Thánh xưng nhận là từ Đức Chúa Trời nhưng kỳ
thực không phải như thế, tức là nói dối. Làm sao một cuốn sách nói dối có thể dạy
những điều đạo đức tốt đẹp?” Vị giáo sư hỏi. Chân ấp úng không trả lời được.
Nghe tiếng chó sủa, bác Quang bước ra. Ra đến cửa thì
đám con trai bỏ chạy. Thì ra là bọn choai choai đánh lộn với nhau.
Mọi người im lặng chờ bác Quang quay lại và ngồi xuống.
Vị giáo sư lặp lại, “Kinh Thánh xác nhận cách mạnh mẽ về chính mình, vì vậy xem
xét những lời tuyên xưng của Kinh Thánh là một việc quan trọng.”
Chân hơi khó hiểu, nhưng cũng cố tỏ vẻ là thông minh,
“Ta có nên tin một điều chỉ vì điều ấy tự nhận là mình đúng? Có phải hồi nãy thầy
nói rằng các vua chúa cổ xưa tự xưng mình là thần thánh đó sao? Chúng ta có bằng
chứng gì từ bên ngoài Kinh Thánh không?”
“Chúng ta cần xem xét mọi bằng chứng mà ta tìm được.
Đó là cách giải quyết một vụ án. Đầu tiên phải xem Kinh Thánh nói gì về chính
nó, bởi vì Kinh Thánh có những lời tự xưng nhận rất lớn lao. Thứ nhất, chúng ta
muốn biết chính xác Kinh Thánh xưng nhận những gì. Sau đó ta xem các chứng cứ
khác để định xem những lời xác nhận đó có đáng tin hay không.” Nói đến đây vị
giáo sư lần mở Kinh Thánh. “Chúng ta thử xem Kinh Thánh Cựu Ước trước tiên.”
Bằng chứng trong Cựu Ước
“Cựu Ước thường hay sử dụng cụm
từ, “Đức Giê-hô-va phán vậy,” 3808 lần (Xuất 4:22, I Vua 12:24, Giê
2:2, Xa 1:3)”
“Có thể đó là cách để thu hút người khác chú ý,” Chân
buột miệng.
“Thật ra, vào thời đó người ta
hiểu rằng cụm từ này có uy quyền rất lớn. Nếu một vị vua muốn ra một sắc lệnh mà
mọi người phải vâng phục, không ai được phép thắc mắc, vua ấy thường bắt đầu bằng
cụm từ, “Vua nói như vầy…”
Bác Quang có vẻ háo hức. “Vậy nghĩa là, mỗi khi vị
tiên tri nói, “Đức Giê-hô-va phán vậy”, tức là họ đang nói những lời đầy uy quyền
của một vị vua”
“Đúng vậy.” Vị giáo sư gật đầu. “Vì họ đang đại diện
cho vị Vua Tể Trị của Israel, vì thế lời của họ là có uy quyền tuyệt đối.”
Vừa lật Kinh Thánh, vị giáo sư nói tiếp, “Cựu Ước cũng
thường hay nói, “Lời của Đức Giê-hô-va
phán với ta”, tức là Đức Chúa Trời phán thông qua vị tiên tri (Giê 1:2,
2:2, Ê-xê-chiên 1:3), tức là, nghe lời ấy cũng giống như nghe từ chính Đức Chúa
Trời.”
“Các nhà tiên tri có nhận biết điều ấy không?” Bác
Quang chau mày thắc mắc.
“Những nhà tiên tri Cựu Ước biết rõ rằng mình đang nói
chính lời của Đức Chúa Trời. Khi Đức Chúa Trời ban Luật pháp cho dân sự Israel,
Môi-se nói rằng, Đức Chúa Trời phán những
lời này, (Xuất 20:1). Đa-vít tin rằng Đức Chúa Trời phán với ông và ban cho
ông kiểu mẫu của đền thờ (I Sử 28:19). Ngay cả khi nằm trên giường bệnh, ông thừa
nhận ông nghe được tiếng Đức Chúa Trời (II Sa 23:2). Ê-xê-chiên tin rằng mình sẽ
rất khó chịu nếu như không nói ra các chính xác điều Đức Chúa Trời bảo ông phải
nói (Ê-xê-chiên 2-3). Giê-rê-mi cũng tin quyết rằng ông phải nói mọi điều Đức
Chúa Trời ra lệnh ông phải nói (Giê 1:4, 9, 17). Ê-sai nói mạnh mẽ, rằng Đức
Chúa Trời đã đặt lời của Ngài trên miệng ông (Ê-sai 51:16, 50:4-5), và nói rằng
Lời Đức Chúa Trời còn lại đời đời (Ê-sai 40:8).
“Thầy nghĩ những điều họ viết cũng vậy hay sao?” mục
sư Tài cất tiếng hỏi.
“Các tiên trị xác nhận Đức Chúa Trời đã dạy biểu họ viết
ra điều Chúa đã phán. Môi-se biết rằng mình đang viết ra lời của Đức Chúa Trời,
và rằng Đức Chúa Trời đã ra lệnh cho ông phải viết ra (Xuất 17:14, 34:27-28).
Giê-rê-mi cũng vậy. Ông rao giảng trong bốn mươi năm sau cùng của vương quốc
phía nam (626-586 T.C). Có một thư ký viết lại điều ông nói, kể cả mạng lệnh
Chúa bảo ông viết ra mọi điều đã tỏ cho ông (Giê 30:2, 36:2)”
“Làm sao biết chắc rằng những điều họ nghe không phải
do tưởng tượng mà ra?” Chân thêm vào.
“Giê-rê-mi đã phải chịu hoạn nạn rất nhiều vì điều ông
đã giảng và viết. Hoạn nạn không phải do ông tìm kiếm chân lý và khôn ngoan. Hoạn
nạn vì ông nói ra chân lý cho mọi người, vốn họ chẳng thích nghe. Mọi người dường
như đang nghịch cùng ông. Khi vua đốt những điều ông viết, Đức Chúa Trời yêu cầu
ông viết lại (Giê 36:27-32). Ông làm theo, nhưng cũng không ai chịu nghe ông.
Dân sư giận dữ với ông vì cớ ông đã chỉ ra những sai trật của họ. Ông bị đánh
đòn và bỏ vào ngục. Sau khi ra khỏi ngục, người ta tìm cách giết ông, nhưng
thay vào đó, họ quăng ông xuống hố. Không có ai ủng hộ ông, nhưng không vì thế
mà ông thay đổi sứ điệp của mình, vì ông tin quyết đó là điều ông đã nghe từ Đức
Chúa Trời.
“Có thể ông ấy bị lầm chăng.” Chân thở dài.
“Tôi đồng ý, có thể ông ấy bị sai lầm cách trầm trọng.
Niềm tin của ông không chứng minh rằng ông đúng, nhưng là một trong những mấu
chốt của chúng ta. Tuy nhiên, còn một chứng cứ khác chắc chắn hơn. Quay lại với
Môi-se. Đức Chúa Trời phán với Môi-se trước hàng ngàn người cùng nghe. Họ chẳng
bao giờ nghi ngờ Đức Chúa Trời đã phán với ông, dù rằng họ không muốn tin nghe.
Nhưng ấy chưa phải là điểm tôi muốn nói. Người Do Thái luôn xem rằng Đức Chúa
Trời ban Luật pháp thông qua Môi-se. Chính Môi-se dạy họ làm thể nào để biết một
tiên tri đang thật sự nói lời của Đức Chúa Trời. Môi-se nói rằng nếu những gì
tiên tri ấy nói mà không ứng nghiệm, thì người ấy không phải do Đức Chúa Trời
sai đến (Phục 18:20-22)
“Cách thử nghiệm ấy cũng hay,” bác Quang phụ họa.
“Tại sao lại là một thử nghiệm hay?” Vị giáo sư chậm
chậm hỏi.
Suy nghĩ một lát, bác Quang nói, “Nếu ai đó nói rằng
ngày mai sẽ tận thế, thì ngày mai tôi sẽ biết anh ta nói đúng hay nói sai.”
“Vị giáo sư cười, “Rõ ràng là như thế. Nếu có một ai
nói rằng điều gì đó sẽ xảy đến với những người đang thực sống trên đất, và điều
ấy không xảy ra, tất cả chúng ta biết rằng người ấy sai.”
“Nhưng một số người có óc quan sát rất tốt, họ có thể
dự đoán được.” Chân thêm vào.
“Điều mà các nhà tiên tri dự ngôn vượt xa hơn thế. Họ nói về
những chuyện xảy trong đời của họ, nhưng cũng nói những chuyện nhiều trăm năm
sau mới xảy ra. Và họ không nói chung chung. Họ nói những chi tiết sau này đều ứng
nghiệm. Kỳ lạ, thường thì họ không hiều điều họ nói, nhưng những dự ngôn của họ
đều ứng nghiệm các chính xác.”
Bác Quang chống tay lên má suy nghĩ. Bác nói ra điều vừa
mới hình dung, “Người Do Thái có vẻ tin quyết rằng Đức Chúa Trời đã phán với họ.”
Vị giáo sư gật đầu. “Người Israel không bao giờ nghi
ngờ Môi-se đã viết năm sách đầu tiên của Cựu Ước. Họ cũng tin quyết rằng những
điều Môi-se viết là từ Đức Chúa Trời mà đến (Xuất 19:7, 20:1, 24:4,7, 34:27).
Phần Cựu Ước còn lại làm chứng điều đó. Tân Ước cũng vậy. Còn có những lời chứng
từ các bản văn khác của người Do Thái cũng như truyền thống của họ. Lời chứng của
Hội Thánh thưở ban đầu cũng rất xác quyết.”
“Hơn 800 năm sau khi Môi-se đã viết những điều ấy, khi
dân Do Thái bị đày qua Ba-by-lôn, họ vẫn tin rằng Đức Chúa Trời thật đã phán
qua Môi-se. Khi được về lại cố hương, nhà lãnh đạo của họ, Nê-hê-mi, viết rằng
tất cả dân sự nhóm nhau lại, xin thầy thông giáo E-xơ-ra đọc luật pháp Môi-se
mà Đức Giê-hô-va đã ban cho Israel (Nê 8:1-8). Họ biết những nan đề của họ là
do đã khinh thường Lời của Đức Chúa Trời.”
“Nhưng không chỉ sách của Môi-se” bác Quang nói với giọng
thích thú.
“Hãy nhớ xem, Thi Thiên thứ 119 nói rằng Kinh Thánh là
Lời Đức Chúa Trời đến 175 lần.” vị giáo sư hỏi.
Bác Quang gật gù tỏ vẻ đồng ý, và nói thêm, “và các
sách tiên tri khác nữa…”
“Các tiên tri đều nhất quán xưng rằng Đức Chúa Trời đã
phán với họ” mục sư Tài thêm vào.
“Họ nói điều đó không bao giờ mệt mỏi,” vị giáo sư đồng
ý, “Giê-rê-mi xưng nhận điều ấy 430 lần, Ê-sai 120 lần, Ê-xê-chiên 329 lần, A-mốt
53 lần, Xa-cha-ri 53 lần, và A-ghê 27 lần.”
“Chỉ trong vòng 38 câu,” mục sư Tài hào hứng.
“Chắc là họ gặp rắc rối to!” Rõ ràng là Chân đang lắng
nghe chăm chú từ nãy giờ. Bác Quang bật cười, trong long thầm con người cho đứa
cháu.
Bằng chứng trong Tân Ước
“Thế còn Tân Ước thì sao?” bác Quang hỏi.
Tân Ước nói gì?
Nói
về Cựu Ước:
1) Công
thức như có chép rằng được lặp lại
92 lần (Mác 14:21, Luca 18:31)
2) Cụm
từ Kinh Thánh, luật pháp và các lời
tiên tri, và, Lời Đức Chúa Trời được
sử dụng nhiều lần trong khắp Kinh Thánh (Mác 7:13)
3) 33
lần Tân Ước nói rằng Cựu Ước phải được ứng nghiệm (Mat 5:17, Luca 24:44)
4) Tân
Ước sử dụng Đức Chúa Trời phán và
Kinh Thánh nói (Xuất 20:12,
21:17, Mat 15:4-6, Sáng 2:24, Mat 19:4-5, Sáng 12:1-3, Ga 3:8, Xuất 9:16,
Rô 9:17).
5) Các
trước giả Tân Ước thường hay trích lại lời tiên tri Cựu Ước, một nhạc sĩ thời
Cựu Ước, và xác nhận những lời đó là do Đức Chúa Trời phán. Thí dụ như sau:
a.
Tác giả Thi thiên nói (Thi 95:7) Đức Thánh Linh phán (Hê 3:7)
b.
Tác giả Thi thiên nói (Thi 45:6) Đức Chúa Trời phán (Hê 1:8)
c.
Tác giả Thi thiên nói (Thi
102:25,27) Đức Chúa Trời phán (Hê
1:10-12)
d.
Ê-sai nói (Ê-sai 7:14) Chúa phán với
tiên tri (Mat 1:22-23)
e.
Môi-se nói (Sáng 2:24) Chúa nói (Mat
19:3-6)
f.
Ê-li-pha nói (Gióp 5:13) Lời Chúa (I Cô 3:19)
6) Cả
Chúa Giê-xu (Giăng 10:35) và Phao-lô (Rô 9:6) gọi Cựu Ước là Lời Đức Chúa
Trời.
7) Chúa
Giê-xu nói cả Cựu Ước đều chỉ về Ngài (Luca 24:27, 44-47, Giăng 5:39,
45-47, Hê 10:7), và phải được ứng nghiệm (Mat 26:54-56, Công 3:18)
8) Chúa
Giê-xu phán thậm chí điều nhỏ nhất trong Cựu Ước cũng không qua đi (Mat
5:18, Luca 16:17, 24:44)
9) Các
trước giả thư tín xưng rằng các lời ghi lại là từ Đức Chúa Trời (II Ti
3:16, Rô 3:2)
10) Phi-e-rơ
giàng rằng Kinh Thánh là bởi Đức Thánh Linh và phải được ứng nghiệm (Công
1:16)
Về Tân Ước:
1) Sự
giảng dạy của Chúa Giê-xu được xem như Lời Đức Chúa Trời (Luca 5:1, 21:23)
2) Lời
dạy của các sứ đồ được xem như Lời Đức Chúa Trời (I Thê 2:13, Công 15:35).
Huống chi là những điều họ viết!
3) Phao-lô
xưng rằng ông nói những lời được Thánh Linh Đức Chúa Trời dạy dỗ (I Cô
2:13)
4) Các
sứ đồ xưng rằng mình đang dạy lẽ thật (II Cô 4:2, I Thê 2:4-9, I Giăng
1:1-3, Cô 1:3-6)
5) Các
tác giả nhận thức được rằng họ đang viết Lời của Đức Chúa Trời (I Thê 4:15,
I Phi 1:25, II Phi 3:15-16)
6) Một
số tác giả cảnh báo việc thêm hoặc bớt lời dạy của Đức Chúa Trời (Khải
22:18-19, Phục 4:2, Giê 26:2)
7) Phi-e-rơ
viết rằng kẻ xuyên tạc ý nghĩa Kinh Thánh sẽ bị hư mất (II Phi 3:16)
|
Vị giáo sư rút ra một tờ giấy xếp sẵn trong cuốn Kinh Thánh rồi mở
ra. Vừa dũi nó thẳng ra, vị giáo sư từ từ nói, “Đây là liệt kê một số bằng chứng.”
Tất cả tụ lại xung quanh ông và nhìn vào tờ giấy. Ông đọc hết tờ giấy ấy, thỉnh
thoảng ngừng lại giải thích.
Chân
không nhìn rõ tờ giấy nên ngồi xuống. Chân nghe ngoài ngõ có người bán hàng
rong đang rao bán cái gì đó. Nhà kế bên vừa vặn nhạc lên. Đó đây có tiếng chó sủa.
Những âm thanh mà nãy giờ Chân không để ý đến. Khi mọi người buông tờ giấy ra
và ngồi lại chổ của mình, Chân lại chú ý đến cuộc nói chuyện.
Vị giáo sư nhìn sang mục sư Tài, “Mục
sư biết về Kinh Thánh Tân Ước. Có phải Chúa Giê-xu tin rằng Cựu Ước hoàn toàn
đúng, rằng đó là lời của Đức Chúa Trời?”
“Chúa Giê-xu thường hay trích Cựu Ước trong sự giảng dạy của mình,” mục sư Tài từ từ trả lời.
“Chúa Giê-xu thường hay trích Cựu Ước trong sự giảng dạy của mình,” mục sư Tài từ từ trả lời.
Vị giáo sư nối tiếp lời, “Và Ngài
xưng nhận rằng lời đó là từ Đức Chúa Trời.”
Ánh mắt vị giáo sư nhìn xa xăm. Ông như đang thả hồn mơ màng,
“Chúa Giê-xu bị đói, mệt, nóng bức, và bị bụi dơ bám vào. Ngài thấy mệt. Đã bốn
mươi ngày trong đồng vắng, và không có gì để ăn. Khi ma quỷ đề nghị về chuyện
ăn uống, Chúa Giê-xu đã nói với hắn rằng, người
ta sống không chỉ nhờ bánh mà thôi, mà
còn bởi mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời (Mat 4:4, trích từ Phục 8:3).
Bối cảnh cho thấy Chúa Giê-xu hiểu rằng Cựu Ước là Lời của Đức Chúa Trời. Ba
năm kế tiếp, Chúa Giê-xu thường trích Kinh Thánh Cựu Ước trong sự giảng dạy,
xác nhận rằng lời ấy ra từ miệng Đức Chúa Trời (Mat 19:4-5, Mác 7:9-13, Luca
24:25-27, Giăng 10:35). Ngài xưng rằng các lời tiên tri trong Cựu Ước phải được
ứng nghiệm (Luca 24:44). Cả Kinh Thánh và lịch sử xác nhận rằng Chúa Giê-xu là
người đáng tin.”
“Từ trước đến nay tôi không nghĩ đến
điều này, nhưng khi đọc thì tôi có thể kết luận rằng các trước giả Tân Ước đều
chung một niềm tin.” Bác Quang nói mà rung rung cằm.
“Đồng ý,” vị giáo sư mỉm cười, “Sứ đồ
Phao-lô viết rằng, cả Kinh Thánh là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn (II Ti 3:16). Từ
ngữ mà ông dùng cho Kinh Thánh được sử
dụng 51 lần trong Tân Ước, và nó nói về Cựu Ước (Mat 21:42, 26:54,56, Giăng
7:38, Công 18:28, Rô 1:2)
“Thế còn Tân Ước có được gọi là Kinh
Thánh không?” mục sư Tài bật giọng như tự hỏi.
“Hai lần chữ Kinh Thánh cũng được dùng cho các sách Tân Ước (II Phi 3:16, I Ti
5:18). Vì thế, chúng ta thấy rằng các trước giả Tân Ước nhận thức rằng Đức Chúa
Trời vẫn đang phán và thêm vào Lời của Ngài vào lúc ấy. Các sứ đố nhớ rằng
chính Chúa Giê-xu đã hứa rằng Đức Thánh Linh sẽ dẫn họ vào mọi lẽ thật (Giăng
16:13)
“Họ viết cách có thần quyền,” mục sư
Tài nhìn nhận.
“Dường như họ hiểu rằng Đức Chúa Trời
đang phán Lời của Ngài qua họ, giống như Ngài đã làm qua các tiên trí nhiều
trăm năm trước đó. Họ không tranh luận thẩm quyền, nhưng dễ thấy rằng họ đều hiểu
rằng lời họ có thẩm quyền. Họ còn nói những điều khác nữa rõ ràng cho thấy họ
biết họ đang dạy lẽ thật của Đức Chúa Trời. Phao-lô thậm chí viết rằng Hội
Thánh được xây trên nền của sự dạy dỗ bởi các tiên tri và sứ đồ (Ê-phê-sô
2:20)”
Vừa lúc ấy, Dì Lan bước vào cho biết
cơm đã dọn xong rồi. Trên bàn có cơm, thịt gà và rau sống. Khi vừa ngồi vào bàn
thì Mai, con gái bác Quang, hỏi Chân nãy giờ mọi người nói những gì. “Nhiều
chuyện lắm, toàn là những chuyện anh không hiểu,” Chân vừa cười vừa trả lời,
“nhưng đa số là chuyện Kinh Thánh đúng hay sai.”
“Thế còn anh, anh nghĩ sao?” Mai hỏi
có vẻ tò mò.
Mùi thịt gà thơm lừng làm Chân càng thêm đó, chỉ muốn
ăn mà không nói gì nữa. Chân nói nhỏ gì đó trong miệng không ai nghe, rồi ngồi
xuống. Chân nhìn vào chén cơm trong khi mọi người đang trò chuyện cười đùa rôm
rả thân mật.
Thần tánh và Nhân tánh
Sau bữa ăn, cuộc nói chuyện chuyển sang các vấn đề địa
phương. Lũ lụt và lạm phát. Dì Lan bước vào, vừa mới dọn dẹp xong. “Chèn ơi,
chưa nói chuyện xong nữa sao?”, dì có vẻ ngạc nhiên, “Ngoài hàng hiên mát hơn
trong nhà.” Bác Quang vừa đứng lên dợm bước ra ngoài thì Dì Lan nói với theo,
“Em sẽ bưng trà ra đó.”
Khi vừa an vị ngoài hàng hiên, chú Lý, em của bác
Quang, xuất hiện và tham gia vào cuộc nói chuyện. Chính chú Lý đã giới thiệu
cho gia đình bác Quang biết về Kinh Thánh. Mấy phút sau thì thằng Ba, con bác
Quang cũng về đến nhà. Đang khi mấy người đang nói chuyện thì Chân thì thầm thắc
mắc không biết Cựu Ước là gì, Tân Ước là gì.
Bác Quang vẫn còn háo hức muốn tiếp tục câu chuyện lúc
nãy về vấn đề soi dẫn. Bác nói ngắn gọn cho chú Lý biết nãy giờ đã nói những
gì. Xong, bác mở đầu câu chuyện, “Nhưng Đức Chúa Trời làm điều đó bằng cách
nào? Thầy nói rằng Kinh Thánh xác nhận là được soi dẫn, vậy có nghĩa là sao?”
“Đức Chúa Trời phán, dù rằng Ngài sử dụng con người để
viết ra những lời ấy. Không có nghĩa là Chúa luôn luôn đọc chính tả và rồi người
ta viết ra như một thư ký người máy. Mỗi trước giả viết ra theo phong cách và
cá tính của mình. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời làm việc qua họ để đảm bảo họ viết
ra những gì Chúa muốn họ viết. Cũng có khi Chúa đọc cho viết, nhưng khi Ngài
ban Luật pháp cho Môi-se (Xuất 34:27), nhưng Chúa cũng phán qua nhiều cách khác
nhau (Hê 1:1)”
“Chữ tiên tri
nghĩa là gì?” bác Quang hỏi.
“Chữ đó có nghĩa là người phát ngôn. Các tiên tri là những nhà phát ngôn, hay là sứ giả của Đức
Chúa Trời. Nhà tiên tri được Đức Chúa Trời sai phái nói cho dân sự
như là sứ giả của Ngài. Họ nói lên những điều Chúa muốn họ nói, giống như A-rôn
nói thay cho Môi-se (Xuất 4:16). Họ không nói ý riêng của mình; chỉ có tiên tri
giả mới làm thế (Ê-xê-chiên 13:2-17, Giê 23:16-26, 14:14). Thật vậy, chính các
tiên tri cũng xác nhận sứ điệp của họ không phải từ trí và lòng họ. Họ chỉ xem
mình là môi miệng Đức Chúa Trời, là công cụ qua đó Chúa truyền đạt Lời tinh
ròng của Ngài (Nê 9:30, Xa 7:12)
“Khi nào thì họ viết?” mục sư Tài cất tiếng hỏi.
“Những điều họ viết được xem như Lời của Đức Chúa Trời
(Giê 36:28, Ê-sai 30:8). Họ tin rằng Chúa đã chọn và sửa soạn họ. Họ tin quyết
rằng Đức Chúa Trời có thể sử dụng môi miệng họ, tâm trí và ngôn ngữ như Ngài muốn,
để truyền đạt cách chính xác sứ điệp của Ngài. Tiên tri không tham gia đưa ra sứ
điệp, nhưng hiểu và truyền đạt sứ điệp ấy với lòng nhiệt thành. Sứ điệp ấy
không được pha trộn bởi những sai lầm của con người.”
“Nhưng thầy nói rằng người ta không tin những tiên tri
ấy.” Chân và đứa em họ thêm vào cuộc nói chuyện, lúc này trời đã dịu mát. Hai đứa
cùng ngồi vào bàn.
“Nếu như người ta không thích những điều nhà tiên tri
nói, họ sẽ tố rằng ông ấy là tiên tri giả. Nhưng người Do Thái không bao giờ phủ
nhận Đức Chúa Trời phán cách trực tiếp qua các tiên tri.”
“Đức Chúa Trời phán nhiều cách, nhiều lúc khác nhau.”
Chú Lý thêm vào.
“Đúng. Nhưng Ngài luôn muốn Lời Ngài gắn liền với lịch
sử để cho thấy rằng Lời Ngài khác với các câu truyện thần tiên
“Có thể nói Đức Chúa Trời ban Kinh Thánh là thân thể,
và các trước giả mặc cho nó quần áo của con người. Mỗi trước giả có phong cách
viết khác nhau, thể hiện cá tính của họ. Nhiều người còn kể lại hoàn cảnh của
mình. Cũng có người xưng rằng đã viết sau khi nghiên cứu kỹ càng (Giô 10:13,
Luca 1:1-4). Luca là một thí dụ điển hình.”
Chú Lý có vẻ cân nhắc nhiều trước khi nói, “Những trải
nghiệm của Luca khác so với các tiên tri.”
“Luca đã nghiên cứu cẩn thận trước khi viết sách Tin
lành của ông. Ông phỏng vấn những nhân chứng, thu thập dữ liệu lịch sử. Rồi ông
viết lại bằng văn phong của riêng mình. Đang khi ông viết, Đức Thánh Linh làm
việc qua ông để đảm bảo những gì ông viết về cuộc đời Chúa Giê-xu trên đất là
chính xác. Thật ra, không chỉ là chính xác thôi đâu, nó còn là Lời uy quyền của
Đức Chúa Trời. Lời lẽ là của Luca, nhưng cũng là lời do Đức Chúa Trời muốn viết
ra. Đức Chúa Trời xưng nhận những lời ấy là lời của chính Ngài.
“Theo như Phi-e-rơ nói, Luca cũng được cảm thúc bởi Đức
Thánh Linh (II Phi 1:20-21),” chú Lý thêm vào.
Vị giáo sư vươn người đứng dậy và đứng bên cạnh mục sư
Tài. “Đức Thánh Linh không phải là đứng bên cạnh trước giả để bổ sung cho những
khiếm khuyết của trước giả.” Ông vừa nói vừa choàng tay qua vay của mục sư Tài.
“Thay vào đó, Ngài làm việc thông qua các trước giả, hướng dẫn và kiểm soát họ,
hầu họ có thể vượt qua những giới hạn của chính họ và làm việc Ngài muốn (I Cô
2;13, 14:37). Vì Ngài là Đức Chúa Trời, Ngài có thể làm điều này mà không cần
khiến họ thành những robot. Tôi không biết bằng cách nào, nhưng tôi biết Ngài
có thể.”
Vị giáo sư chầm chậm ngồi xuống, cau mày, nghĩ rằng
Chân có thể phản đối những điều này. Bác lỡ mất không nghe được những lời kế tiếp
của vị giáo sư.
“Điều tập trung không phải là kinh nghiệm của trước giả,
mà là những gì Đức Chúa Trời làm. Trước giả cũng có thể mất đi sự nhiệt thành
(Khải 1:10,17), hoặc là trước giả đã bình thàn nghiên cứu (Luca 1:1-4). Kinh
Thánh căn bản không phải là những gì trước giả đã kinh nghiệm, mà là những gì Đức
Chúa Trời đã nói.”
“Kinh Thánh được Đức Chúa Trời hà hơi. Sự soi dẫn là
khi những trước giả được Đức Thánh Linh cảm thúc để viết ra những bản văn được
Đức Chúa Trời hà hơi.”
“Đức Chúa Trời khởi xướng trước,” Ba nãy giờ mới lên
tiếng.
“Đúng, và các tiên tri hưởng ứng. Kết quả là có được một
bản văn viết ra được đóng ân bởi Vua. Đó là cách Kinh Thánh giải thích về sự
soi dẫn. Lời Đức Chúa Trời được ban ra bởi sự hà hơi ban sự sống của chính
Chúa. Lời đó đến từ Ngài. Đây là điều quan trọng trung tâm. Phi-e-rơ viết rằng không
có lời tiên tri nào đến từ con người, nhưng là do Đức Thánh Linh cảm thúc họ
nói ra (II Phi 1:21). Tiên tri không tự mình quyết định sẽ viết điều gì. Thay
vào đó, khi được Đức Chúa Trời cảm thúc, ông ấy sẽ nói những gì đến từ Đức Chúa
Trời, để đảm bảo chính xác những lời ấy là của Chúa. Và nếu đó là lời do Đức
Chúa Trời hà hơi, chúng ta không có quyền chối bỏ bất cứ phần nào trong đó. Đó
là Lời uy quyền trong tất cả những gì Lời ấy dạy.”
Lời thành văn
“Uy quyền, được
hiểu thế nào?” Bác Quang cất tiếng hỏi, cố gắng tập trung vào điều vị giáo sư
đang nói.
“Lời thành văn! Kinh Thánh mạnh mẽ xác nhận Lời Đức
Chúa Trời chính là Lời thành văn (Mat 1:22, Công 28:25)
“Thầy thấy có quan trọng không khi có lời thành văn của
Đức Chúa Trời?” Ba lên tiếng hỏi.
“Đức Chúa Trời biết rằng lời thành văn có thể được bảo
toàn và lan truyền cách chính xác hơn nhiều so với lời truyền khẩu, vì thế Ngài
dẫn dắt những người Ngài đã thôi thúc để viết ra những gì Ngài bày tỏ cho họ.”
“Tôi biết có một số quan điểm thần học hiện đại đang cố
gắng tách Lời thành văn ra khỏi Lời của Đức Chúa Trời, nhưng làm thế nghĩa là
vi phạm lời Kinh Thánh tự xưng nhận về chính mình. Kinh Thánh không chỉ là một
tập sách ghi lại sự khải thị, nhưng bản thân nó là sự khải thị.” Mọi người có vẻ
khó hiểu ngoại trừ mục sư Tài. Vị giáo sư ngưng một chút, rồi phân giải thêm.
“Ý tôi không phải là Đức Chúa Trời ngồi trước một máy vi tính và rồi tự Ngài viết
ra Kinh Thánh. Ngài sử dụng con người, nhưng đó vẫn là Lời Ngài, không sai lầm.
Ngài đủ sức làm điều ấy.”
“Có phải hơn không nếu nói Đức Chúa Trời ban cho người
ta những ấn tượng và kinh nghiệm, rồi họ viết ra điều họ đã nếm trải được?” mục
sư Tài đưa ra một nghi vấn.
“Đức Chúa Trời truyền thông với chúng ta bằng lời, chứ
không phải bằng những ấn tượng, hình ảnh hay sự kiện. Đúng là Ngài cho phép người
ta trải qua những kinh nghiệm, thực hiện những phép lạ, nhìn thấy khải tượng,
thậm chí cho phép Sứ đồ Giăng nhìn thấy ngôi cao cả trên trời. Nhưng xuyên suốt
Kinh Thánh, ta thấy rõ sự nhấn mạnh rằng Đức Chúa Trời phán, và ra lệnh rằng lời
Ngài phải được ghi lại. Đức Chúa Trời bày tỏ chân lý của Ngài bằng ngôn ngữ của
con người. Chúng ta thấy Kinh Thánh tự thân làm chứng rằng Đức Chúa Trời thật sự
đã phán.”
“Chính thầy nhiều lần nói rằng những lời ấy là lời của
Đức Chúa Trời chọn mà. Thầy có nghĩ rằng ảnh hưởng của Đức Chúa Trời có đạt đến
mức ấy không?” mục sư Tài hỏi.
“Hãy nghĩ xem, nhiều lần những tranh cãi trong Kinh
Thánh chỉ do một từ ngữ. Cả Chúa Giê-xu và Phao-lô bênh vực mình chỉ từ một chữ
nào đó trong Cựu Ước. Thí dụ như, Phao-lô giải quyết một tranh cãi về Đấng
Christ là do sách Sáng Thế Ký ghi rằng “dòng dõi” mà không ghi “các dòng dõi”
(Ga 3:16). Nghĩa là Môi-se đã rất chi tiết, rất cụ thể dù rằng có thể ông không
nhận thức được những hàm ý của điều ông viết. Đức Thánh Linh Đức Thánh Linh dẫn
dắt cả việc lựa chọn từ ngữ.”
Không sai lầm
Chú Lý gật đầu có vẻ như hiểu được điều gì đó. “Rõ
ràng là Đức Chúa Trời không nói dối,” chú nói nhẹ nhàng.
“Vì Đức Chúa Trời không nói dối, thế cho nên, nếu Kinh
Thánh thật sự là Lời của Ngài, thì Kinh Thánh phải là chân thật. Đức Chúa Trời
là Đấng biết mọi sự nên Ngài không mắc sai lầm. Đức Chúa Trời là Đấng tạo nên
ngôn ngữ, nên Ngài không thể truyền thông cách mập mờ được.”
Mục sư Tài có vẻ hơi khó chịu. “Nhưng thầy có nói rằng
Kinh Thánh có yếu tố con người, mà con người thì mắc sai lầm.”
“Sai lầm và ngu ngốc là đặc tính của tư duy và lời nói
của con người. Nhưng có thể nào Đức Chúa Trời vượt qua những giới hạn của con
người không? Đức Chúa Trời có thể làm điều đó không?” vị giáo sư hỏi ngược lại.
“Dĩ nhiên là được,” mục sư Tài đáp liền mà không cần
suy nghĩ.
“Đặc tính của Đức Chúa Trời là Ngài nói lẽ thật dù rằng
Ngài phán qua những con người giới hạn. Ngài có thể làm được điều đó.
“Nhưng cũng có khi trước giả nói không rõ ràng,” Ba vừa
nói mà trong trí thì nhớ lại những lời chỉ trích về Kinh Thánh mà mình đã từng
nghe.
“Nếu tôi nói rằng từ đây ra sân bay mất khoảng một tiếng
đồng hồ, rõ ràng là tôi nói không chính xác lắm, nhưng điều tôi nói có đúng
không?”
“Cũng
còn tùy bữa đó chạy xe có gặp công an không,” Ba cười.
Đợi đến khi tiếng cười lắng xuống, thầy nói tiếp, “Vì
tôi nói không chính xác, không có nghĩa là tôi nói dối.”
“Kinh Thánh có thể dùng ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày,
mà vẫn không sai lầm,” vị giáo sư kết luận.
Mục sư Tài chợt nhớ đến điều đã làm ông khó chịu khi
nghe trong trường học. “Nhưng tại sao các trước giả Tân Ước cẩn thận hơn khi họ
trích Cựu Ước? Thỉnh thoảng, hình như họ đổi ý điều mà trước giả Cựu Ước thật sự
nói.”
“Chúng ta phải hiểu Kinh Thánh trong bối cảnh văn hóa
thời ấy. Vào thời Tân Ước người ta không trông đợi trước giả phải trích đúng
nguyên văn từng chữ. Người ấy chỉ cần lặp lại chính xác điều mình trích, nhưng
có thể dùng văn phong của mình. Giả sử thế này, tôi nghe bạn nói rằng người
hàng xóm đã tin Chúa rồi. Sau đó, tôi trích lời bạn nói rằng người hàng xóm đã
trở thành Cơ đốc nhân. Tôi nói như vậy có sai ý bạn không?”
“Không,” mục sư Tài trả lời, “thế còn trường hợp
Ma-thi-ơ đổi từ chữ đầy tớ gái sang
thành chữ người nữ đồng trinh? (Mat
1:23, Ê-sai 7:14)
“Ma-thi-ơ thật ra là đang trích từ Kinh Thánh bản dịch
tiếng Hy Lạp, vốn được dùng phổ biến lúc ấy. Chúng ta thấy điều này thường có
trong Tân Ước. Tôi tin rằng trong điều ấy Đức Thánh Linh vẫn tể trị. Ngài cho họ
thấy cần phải trích từ Cựu Ước tiếng Hê-bơ-rơ hay tiếng Hy Lạp. Tôi không biết
lý do, nhưng tôi tin chắc rằng Ngài biết điều Ngài đang làm.”
Chân nhìn vị giáo sư cách ngạc nhiên. “Thầy nói về
Chúa như thể Ngài là một người có thật. Thầy tin Kinh Thánh đến thế sao!”
Vị giáo sư gần đầu, miệng cười lịch sự cách tự tin.
“Vậy những thứ gì mà Kinh Thánh không nói đến?” Chân
tiếp tục hỏi.
“Kinh Thánh không nói đến tất cả mọi thứ, nhưng chỉ
nói đến những thứ chúng ta thật sự cần biết để hiểu về Chúa, về chính chúng ta,
và về cuộc sống. Những gì Kinh Thánh đã nói đều là đúng. Khi nói đến vấn đề gì
đó, Kinh Thánh luôn luôn nói đúng. Tổng cộng Kinh Thánh là chân thật và đáng
tin (Thi 12:6, Châm 30:5, Dân 23:19)”
“Vậy lỡ như Kinh Thánh có sai lầm thì sao?” bác Quang
ưu tư.
“Nếu Kinh Thánh có sai lầm, chúng ta không có cách nào
chắc chắn để biết điều nào đúng, điều nào sai. Để dễ hiểu, chúng ta tự xem mình
là những quan tòa, chúng ta quyết định điều nào là đúng? Ta liệu có đủ hiểu biết
để tự quyết định (Thi 19:12, Gióp 38:3-4)? Làm sao ta có thể tin một cuốn sách
có lẫn lộn sai và đúng?”
“Làm sao tin được một Đức Chúa Trời không rõ ràng đối
với một chủ đề quan trọng như sự cứu rỗi chứ? Hay là Ngài để chúng ta tự phỏng
đoán?” Chú Lý thêm vào.
“Có thể Kinh Thánh chi sai một số tiểu tiết thôi,”
Chân thở ra.
“Nếu Đức Chúa Trời có một sai lầm, làm sao chúng ta chắc
chắn về những chuyện khác Ngài nói với chúng ta? Lời Đức Chúa Trời không có sai
lầm, và không thể có sai lầm. Hơn nữa, lời xưng nhận Kinh Thánh hoàn toàn chân
thật là một sự dạy dỗ lớn, chứ không phải một tiểu tiết,” vị giáo sư nói chậm,
nhưng giọng đầy vẻ chắc chắn.
“Thế còn các bản dịch hầu như không thống nhất nhau
thì sao?” Ba lên tiếng hỏi.
“Dĩ nhiên, các bạn hiểu rằng nãy giờ tôi nói bản Kinh
Thánh gốc, không nói các bản chép lại hoặc bản dịch.”
“Làm sao ta biết được điều thật sự được viết trong bản
nguyên thủy là gì?” Ba như muốn đào sâu vấn đề.
“Có vô số chứng cứ để chúng ta biết rằng những gì
chúng ta có ngày nay là chính xác. Chúng ta có nhiều chứng cứ ủng hộ Kinh Thánh
hơn bất cứ cuốn sách cổ nào khác.”
Đối diện những khó khăn
Bỗng nhiên có hai con chim từ đâu đáp đến cành cây trước
sân, rồi bắt đầu rỉa lông cho nhau, hót qua hót lại. Ba đứng lên đuổi hai con chim, trong lúc mục
sư Tài tiếp tục có ý kiến, “Theo như khoa học hiện đại, chẳng tốt hơn sao nếu
chỉ coi Kinh Thánh như một cuốn sách về mặt tinh thần? Chẳng phải mục đích của
sách ấy là để cho chúng ta biết phải tin cái gì, và sống thế nào sao?”
“Ý mục sư là sách ấy không đáng tin về mặt khoa học phải
không?” chú Lý quay sang mục sư Tài.
“Dường như có nhiều khó khăn về mặt khoa học và về mặt
lịch sử, nhưng những điều đó không ảnh hưởng đến mục đích của Kinh Thánh.”
“Các sự kiện lịch sử và thực tế thuộc linh đang xen
nhau đến nỗi không thể tách rời được. Các trước giả Tân Ước rõ ràng tin vào các
chi tiết lịch sử của Cựu Ước. Bản thân Kinh Thánh chưa bao giờ hàm ý rằng sự
chân thật của mình chỉ giới hạn về mặt thuộc linh mà thôi. Vì cớ Đức Chúa Trời
là Đấng Tạo Hóa và biết mọi sự, Lời của Ngài phải chính xác về mặt lịch sử và
khoa học, cả thuộc linh lẫn đạo đức.” Vị giáo sư nói chậm nhưng giọng chắc chắn.
“Lời tuyên bố ấy thật chắc nịch,” bác Quang vô thức buột
miệng. Bác rất lo, không biết Chân giờ này nghĩ gì.
“Tôi không có ý nói rằng các trước giả dùng những thuật
ngữ khoa học chính xác. Họ chỉ dùng những ngôn từ đời thường. Họ nói rằng mặt
trời mọc, giống như ngày nay ta vẫn thường nói, dù biết rằng trái đất quay xung
quanh mặt trời. Họ dùng những thành ngữ được sử dụng phổ biến vào thời của họ,
như nói rằng quả đất được đặt trên các trụ (I Sa 2:8). Điều đó không có nghĩa họ
sai. Đó chỉ là họ đã văn chương hóa, giống như chúng ta nói chuyện trên bàn ăn
vậy thôi. Cũng giống như những lúc thảnh thơi chúng ta nói chuyện văn thơ vậy
thôi. Kinh Thánh liên tục cho chúng ta thấy
những bức tranh, vì chúng ta nhìn thấy tranh thì dễ hiểu hơn là tranh luận khô
khan. Các dữ kiện cũng rất quan trọng.
Chúng ta cần dữ kiện, nhưng dữ kiện thì không đụng được đến tấm lòng, giống như
những bức tranh và câu chuyện. Các trước giả đã viết theo cách có thể chạm đến
tấm lòng của một con người bình thường. Điều đó không có nghĩa là họ phạm sai lầm.
Đó chỉ là văn phong của họ thôi, cách thức họ diễn đạt sự kiện. Họ viết ra bằng
ngôn ngữ của người bình dân. Thật ra, nhiều người đã chỉ trích rằng Tân Ước đã
không dùng văn phong Hy Lạp bóng bẩy và cổ điển. Tuy nhiên, thực tế chứng minh
rằng Kinh Thánh được viết bằng ngôn ngữ đời thường để ai cũng dễ hiểu.” Vị giáo
sư trầm ngâm một chút rồi hỏi, “Nếu các trước giả có một điểm sai, làm sao
chúng ta biết rằng họ không sai ở những điểm khác?”
“Nhưng trong Kinh Thánh có những chổ khó hiểu!” mục sư
Tài hơi nhấn giọng.
“Đúng vậy! Tôi không chối điều đó. Nhưng ai là người
có thẩm quyền? Ai biết được câu trả lời cho những khó khăn đó? Chúng ta chăng?
Hay là Đức Chúa Trời? Nếu chúng ta hiểu được Kinh Thánh là gì, thì sẽ biết làm
gì với những khó khăn đó. Chúa Giê-xu cho thấy Ngài hoàn toàn tin vào Lời của Đức
Chúa Trời. Khi chúng ta có tâm tình của Ngài, ta sẽ phải thừa nhận rằng có những
điều ta không hiểu, nhưng ngày nào đó Đức Chúa Trời sẽ phơi bày ra cách rõ
ràng. Chúng ta phải hạ mình thừa nhận rằng chúng ta thiếu sự hiểu biết.”
“Vậy chúng ta nên bỏ qua những chổ khó sao?” mục sư
Tài hỏi.
“Không phải như vậy. Chúng ta phải xem xét những điểm ấy
càng cẩn thận hơn. Có khi phải đặt mình vào thời điểm một sự việc xảy ra thì mới
hiểu được. Cũng có những khi, nếu chúng ta hiểu biết về văn hóa và ngôn ngữ cổ
đại thì vấn đề sẽ trở nên dễ hiểu. Các sử gia và khảo cổ gia đã trả lời được
nhiều vấn đề trước đây bị thắc mắc.”
“Chúng ta phải thú nhận rằng mình không hiểu hết về lịch
sử,” chú Lý nói.
“Kể cả khoa học nữa,” Chân thêm vào.
“Tôi không phủ nhận rằng có những điểm khó khăn, tìm
được câu trả lời không phải là đơn giản,” vị giáo sư thừa nhận, “nhưng chúng chỉ
là thiểu số và ít quan trọng. Chỉ một thám tử giỏi mới có thể nhìn ra”
“Tôi nghĩ những phần khó hiểu thật ra cũng rất nhỏ so
với những gì rõ ràng trong Kinh Thánh.” Chú Lý xen vào. “Không có điều gì quan
trọng mà lại được nói mơ hồ. Chẳng phải Đức Chúa Trời lặp đi lặp lại những điều
quan trọng sao? Ta nên tập trung vào những gì ta biết thay vì những điều không
biết. Điều chúng ta biết, ấy là, vì cớ Kinh Thánh là Lời từ Đức Chúa Trời, nên
Kinh Thánh có thẩm quyền tuyệt đối trên đời sống chúng ta. Cám ơn Chúa là Ngài
không cho chúng ta phân nữa thông tin, hay một sứ điệp mập mờ. Ngài phán cách
rõ ràng. Lời Ngài là ánh sáng cho đường lối tôi (Thi 119:105). Lời đó mở mắt
tôi và khiến tôi khôn ngoan (Thi 19:7-11). Tôi nghĩ những gì Ngài đã phán dạy
thì đã đủ cho đời sống chúng ta (II Ti 3:15, I Phi 1:3)
“Lời Ngài còn hơn thế nữa,” vị giáo sư nói thêm, “Ấy
là lời sống (Hê 4:12). Khi Đức Chúa Trời phán, thì vũ trụ này bèn có (Sáng 1),
và Ngài cản trở chương trình của các dân. Lời của Ngài phải thực hiện những gì
Ngài đã phán (Ê-sai 55:11). Khi Ngài muốn làm điều gì, chỉ cần phán thì sự được
thành cách tốt đẹp. Kinh Thánh không chỉ là một cuốn sách cổ đại. Đức Chúa Trời
phán trực tiếp với chúng ta ngày nay thông qua Sách ấy. Điều không dứt làm tôi
ngạc nhiên, ấy là Lời Đức Chúa Trời có quyền năng thay đổi đời sống (Giăng
8:31-32, Rô 12:2).
Bác Quang sực nhớ đoạn Kinh Thánh mới đọc hôm trước,
“Sẽ tới ngày Lời Đức Chúa Trời xét đoán họ (Giăng 12:48)”
“Đúng vậy, Lời Đức Chúa Trời là đời đời và không dời đổi.
Đó là tiêu chuẩn để xét đoán mọi sự.”
Dì Lan bưng bình trà ra, bác Quang châm cho mọi người.
Ba chạy vô nhà lấy thêm ít đường. Chân bâng quơ nhìn nắng chiều vàng. Buổi chiều
thật bình thản, xa lạ với tiếng ồn xe cộ nơi thành phố Chân sinh sống; cũng như
những gì Chân nghe hôm nay thật xa lạ với những gì người ta đã dạy Chân bao
nhiêu năm qua.
Hiểu biết của Hội Thánh về Sự Soi Dẫn
“Nếu biết được vấn đề đã hình thành như thế nào, sẽ
giúp chúng ta hiểu thấu đáo hơn,” tiếng vị giáo sư cắt ngang dòng suy nghĩ của
Chân.
“Vấn đề gì?” Chân buộc miệng hỏi.
“Những học thuyết chối bỏ rằng Kinh Thánh là Lời Đức
Chúa Trời hay là Kinh Thánh là trọn vẹn chân thật.” vị giáo sư nhìn Trân.
Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời (thế kỷ 1-6)
Vị giáo sư hơi chậm lại một chút, như thể lấy hơi, lại
càng kích thích mọi người. Sau đó ông mở miệng, “Hơn mười sáu thế kỷ Hội Thánh
tin rằng Kinh Thánh bởi Đức Chúa Trời mà có. Vì thế mới gọi là Lời Đức Chúa Trời.
Đa số con cái Chúa tin rằng Lời ấy đến từ Đức Chúa Trời và vì thế hoàn toàn
không sai lầm. Đó không phải là một cuốn sách bởi con người, rồi tác giả tự nhận
là từ Đức Chúa Trời. Đó không phải chỉ có một phần là bởi Đức Chúa Trời, phần
còn lại là của loài người, rồi là một hỗn hợp đúng-sai đan xen. Cũng không phải
là Đức Chúa Trời chỉ trợ giúp mà thôi. Hơn thế, từng câu trong Sách ấy là lời
chân thật. Đức Chúa Trời kiểm soát việc lựa chọn từ ngữ. Tức là, mọi thứ trong
đó đều không có sai lầm.
“Hội Thánh thời kỳ sớm sủa đã tin rằng cả Cựu Ước và
Tân Ước đều đến từ Đức Chúa Trời. Khoảng cuối thế kỷ thứ nhất, một mục sư đầy ảnh
hưởng thời bấy giờ, giám mục Clement thành La-mã, trích dẫn cả Cựu Ước và Tân Ước,
xưng nhận rằng Đức Chúa Trời là tác giả. Ông viết rằng Kinh Thánh là lẽ thật từ
Đức Thánh Linh, và trong Lời ấy không có chi là sai trật hết.
“Vài năm sau, một nhà lãnh đạo khác của Hội Thánh,
giám mục Ignatius (117 S.C), bị xử án tử, và bị đem đi La-mã để quăng vào chuồng
mãnh thú. Trên đường đi, ông viết ít nhất bảy lá thư, thường mặc định rằng Kinh
Thánh là uy quyền. Ông bày tỏ sự kính trọng sâu xa đến các sứ đồ.”
“Một mục sư tin kính Chúa khác nữa, giám mục Polycarp,
từng là học tròn của Sứ đồ Giăng. Polycarp viết thư cho Hội Thánh ở thành
Philippi. Trong thư ông đề cập đến nhu74ngn thư tín của Phao-lô trong Kinh
Thánh, và viết rằng vị Sứ đồ ấy đã dạy đúng lẽ thật. Trích lời từ Thư Ê-phê-sô,
ông gọi đó là lời lẽ thật. Đến lượt ông đào tạo người học trò là Irenaeus (180
S.C), người đã nhận xét rằng sách Ma-thi-ơ là được viết cho dân Do Thái, Mác viết
lại những gì Phi-e-rơ đã dạy, Luca viết rằng mình đã học từ nơi Phao-lô, và sứ
đồ Giăng đã viết sách Tin lành mang tên mình khi đang ở thành Ê-phê-sô.
Irenaeus viết rằng cả Kinh Thánh đều là đúng, ông tranh luận với hai giáo sư
khác vốn chủ trương rằng chỉ có một phần của sách Luca là đáng tin cậy.”
“Nửa tiền bán thế kỷ thứ hai, một giám mục tên là
Papias (130 S.C) viết rằng Sứ đồ Giăng đã có nói về Mác, rằng Mác đã viết cách
cẩn thận và chính xác những gì Sứ đồ Phi-e-rơ đã đề cập về Đấng Christ. Papias
có viết năm cuốn sách, khẳng định rằng những sách Tân Ước là lời sấm truyền của
Đức Chúa Trời. Ông dùng chung một từ ngữ mà Sứ đồ Phao-lô đã dùng để mô tả Cựu
Ước trong Rô 3:2.”
“Chương 3 của sách Rô-ma nói gì?” Ba xen vào hơi bất
ngờ.
“Rằng Cựu Ước là lời sấm truyền từ Đức Chúa Trời.”
“Nghĩa là sao?
“Đó là một sứ điệp từ Chúa mà đến. Sấm truyền là chữ dùng cho những điều Đức
Chúa Trời đã phán cách trực tiếp.”
Vị giáo sư tóm tắt lại, “Trong khoảng một trăm năm sau
cái chết của Chúa Giê-xu, còn có nhiều người khác viết rằng cả Kinh Thánh là Lời
Đức Chúa Trời. Không có một lời bóng gió nào cho rằng Kinh Thánh là không đáng
tin cậy.”
“Vào năm 165 S.C, một nhà lãnh đạo tên là Justin
Martyr nói rằng các sách Tin lành là tiếng nói của Đức Chúa Trời. Ông viết rằng
chính Lời đã được hà hơi, chứ không phải các trước giả. Khi tranh luận với một
người ngoại đạo đang cáo buộc Kinh Thánh đầy những mâu thuẫn, ông mạnh mẽ bênh
vực sự hài hòa và chân thật của Lời Đức Chúa Trời.”
“Vậy ra thì những Cơ đốc nhân đầu tiên đã ý thức được
những mâu thuẫn.” mục sư nói với giọng ngạc nhiên.
“Cũng giống như chúng ta vậy thôi. Nhưng những năm sau
đó, các nhà lãnh đạo Hội Thánh tiếp tục tin rằng cả Kinh Thánh là từ Đức Chúa
Trời. Họ tin rằng Đức Chúa Trời phán bởi Đức Thánh Linh thông qua các trước giả.
Có thể họ khác nhau chút ít về ý niệm Đức Chúa Trời đã làm điều ấy bằng cách
nào, nhưng họ tin cách vững chắc vào uy quyền của Kinh Thánh. Họ tin Lời ấy đến
từ Đức Chúa Trời, chẳng hề nghi ngờ.
“Tôi còn có thể
đưa ra thêm nhiều thí dụ nữa, nhưng bây giờ chúng ta lướt đến Châu Âu
vào thế kỷ thức 14 và 15. Vào lúc bấy giờ, một số người bất mãn với sự dạy dỗ
và thực hành của Giáo Hội Công Giáo. Họ cố gắng cải chánh giáo hội để đưa Hội
Thánh về dưới uy quyền duy nhất là Kinh Thánh. Giáo Hội Công Giáo dạy rằng Kinh
Thánh là Lời Đức Chúa Trời, nhưng truyền thống giáo hội cũng có thẩm quyền
tương tự.”
“Có phải họ được gọi là những nhà cải chánh không ạ?”
Ba cắt lời.
“Đúng vậy. Có nhiều người, nhưng hai người nổi tiếng
nhất là Martin Luther, người Đức, và John Calvin, người Thụy Sĩ. Luther không
muốn tách khỏi Giáo Hội Công Giáo, nhưng sự dạy dỗ của ông ấy rằng Kinh Thánh
là uy quyền duy nhất đã đưa đến sự tẻ tách. Kể từ đó, có hai dòng chính.”
“Công giáo và Tin Lành,” bác Quang bất giác cất tiếng.
“Thế rồi sao nữa ạ?” Ba hơi tò mò.
“Vào những năm 1600, các phong trào
dấy lên trong Hội Thánh bên phương Tây chối bỏ sự soi dẫn của Kinh Thánh. Các
triết gia và chính khách cổ xúy cho ý tưởng này. Các phong trào này ảnh hưởng mạnh
mẽ ở Đức và Anh Quốc. Một số trong các quan điểm ta thấy ngày nay thật ra đã
phát sinh từ thời ấy.”
Có ai đó đến gõ cửa. Mọi người dừng
một chút đến khi người ấy đi khỏi. Mai bưng ra một ít trái cây và ngồi nghe mọi
người nói chuyện. Theo lời bác Quang, vị giáo sư tóm tắt lại một chút.
Kinh Thánh chứa Lời Đức Chúa Trời (thế kỷ 17-19)
“Suốt nhiều thế kỷ Hội Thánh tin rằng cả Kinh Thánh đều
chân thật. Cơ đốc nhân nghĩ rằng sách mang tên gì là do trước giả đó viết. Họ
tin rằng sách được viết ra vào thời điểm mà trước giả đã xưng nhận trong sách của
mình. Họ tin rằng các sự kiện lịch sử được ghi lại trong sách đã thật sự xảy
ra, mà không nghi ngờ gì. Nhiều sự kiện còn xảy ra trong đời của trước giả. Sự
hiệp nhất của các sách cũng không bị nghi vấn. Những quan điểm này không hề bị
cật vấn mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 17.”
“Lúc ấy, một bác sĩ danh giá người Pháp tên là Jean
Astrue đang đọc sách Sáng Thế Ký. Ông để ý thấy rằng Môi-se thỉnh thoảng dùng
danh xưng Yahweh (Gia-vê) cho Đức
Chúa Trời, nhưng lúc khác thì lại dùng danh xưng Elohim (Ê-lô-im). Ông tự hỏi, vậy là thế nào. Ông biết cả hai đều
là những danh xưng tiếng Hê-bơ-rơ. Đang suy nghĩ thì ông đưa ra một ý kiến. Có
lẽ Môi-se có hai quyển sách khác nhau về lịch sử của thế giới trong sưu tập của
mình. Một tác giả dùng chữ Yahweh, còn
tác giả kia dùng chữ Elohim. Môi-se
muốn viết một cuốn sách lịch sử của quốc gia non trẻ Israel, nên ông đã tổng hợp
hai cuốn sách mình đã đọc.Kết quả là cuốn sách của người Do Thái mang tên Sáng
Thế Ký. Jean Astrue thích thú với ý tưởng của mình nên đã xuất bản thành sách.
Nhiều học giả Kinh Thánh đọc sách ấy và bị ảnh hưởng bởi lập luận của ông. Chỉ
một hạt giống nhỏ gieo ra, ngày nay vẫn còn ảnh hưởng tai hại.
“Thời gian trôi, nhiều học giả áp dụng những ý tưởng
như thế cho các sách khác của Môi-se. Sau đó, có người còn công bố rằng năm
sách đầu tiên của Kinh Thánh chẳng phải là do Môi-se viết đâu. Đầu những năm
1800, một người Đức tên là Eichhorn đã phổ biến ý tưởng này ra quãng đại quần
chúng. Nhân vật này đề xuất rằng có ai đó vô danh đã thu thập các bản văn lịch
sử. Sau đó thay vì viết cuốn sách của riêng mình, anh ta đã gom các bản văn này
lại với nhau. Kết quả cho ra đời sách Sáng Thế Ký. Cũng vậy đối với các sách
kia trong bộ Ngũ Kinh. Đến cuối 1800, những chủ thuyết như thế trở nên phổ biến
ở Tây Âu.
“Ngày càng thêm nhiều các học giả không còn tin vào
phép lạ hoặc những điều siêu nhiên. Họ cho rằng Kinh Thánh chỉ là một chuyện thần
thoại. Một giáo sư người Đức tên là Karl Graf dạy rằng phần nhiều trong Cựu Ước
chỉ là chuyện thần thoại. Năm 1865, ông lập luận rằng sách Sáng Thế Ký là được
tổng hợp lại từ hai bản văn có từ trước đó. Ông kết luận rằng, thay vì có hai
sách là nguồn của Sáng Thế Ký, kỳ thật là có tới bốn sách. Các học giả theo trường
phái của ông bắt đầu cố gắng xác định câu Kinh Thánh nào là từ bản văn nào. Có
khi họ còn chia một câu thành hai phần. Tuy nhiên, chính giữa vòng họ cũng có ý
tưởng khác nhau, không ai chịu ai.
“Thời bấy giờ, giới học giả tin rằng năm sách đầu tiên
của Kinh Thánh được viết ra nhiều thế kỷ sau thời của Môi-se. Nhiều người bắt đầu
giảng dạy rằng bốn cuốn sách là nguồn của bộ Ngũ Kinh đã được viết ra trong khoảng
những năm từ 850 T.C đến 450 T.C. Đó có thể là thời gian những vua sau này của
Israel, và là thời gian Israel bị lưu đày. Nếu bốn sách nguồn này được viết trễ
như thế, nghĩa là các sách của Môi-se được viết ra khoảng năm 400 T.C, hoặc trễ
hơn nữa.
“Tức là 1,000 năm sau thời Môi-se!” chú Lý thảng thốt.
“Những học giả đó bất chấp những xưng nhận lịch sử của
người Do Thái về năm sách đầu tiên của Kinh Thánh. Các sách khác trong Cựu Ước
gọi đó là Luật pháp Môi-se. Người Do Thái thừa nhận và hiểu rằng Môi-se đã viết
những sách đó.”
“Trong các sách Tin Lành Chúa Giê-xu thừa nhận rằng
Môi-se là tác giả những sách đầu tiên của Cựu Ước,” Ba thêm vào.
“Ta thấy rằng các học giả buộc phải lựa chọn tin theo
Chúa Giê-xu hay tin theo các chủ thuyết. Nhiều người trong số họ còn lập luận rằng
Đấng Christ chỉ là con người có hiểu biết giới hạn, và cũng phạm sai lầm. Ngài
được sinh ra trong thế kỷ thứ nhất, nên Ngài cũng suy nghĩ giống những người
xung quanh thôi. Ngài tin vào Cựu Ước vì gia đình, bạn hữu, người xung quanh
tin như thế.”
“Nhưng những sách khác của Kinh Thánh thì sao?” Ba lên
tiếng hỏi.
“Còn lịch sử của Israel thế nào?” chú Lý tiếp lời Ba.
“Vì các hạt giống ý tưởng đầu tiên về Kinh Thánh đã được
tưới, nó bắt đầu đâm chồi. Một giáo sư khác, người Đức, tên Julius Wellhausen
(1844-1918), dạy rằng những câu chuyện trong Kinh Thánh được truyền khẩu sang
nhiều đời trước khi nó được viết ra. Và nó được thêm mắm dậm muối đến nỗi nó trở
thành những truyện cổ tích mà thôi. Ông không tin rằng Áp-ra-ham, I-sác, Gia-cốp
là những nhân vật có thật. Ông ứng dụng khái niệm tiến hóa cho Kinh Thánh. Ông
đưa ra chủ thuyết rằng tôn giáo của Israel đã tiến hóa từ đa thần giáo thành độc
thần giáo, vì trên thế giới nhiều nước đã xảy ra chuyện như thế. Vào thời kỳ đầu
của lịch sử Israel, tất cả người Do Thái thờ con bò.
“Nhưng họ có chứng cứ gì không?” chú Lý băn khoăn.
“Họ dựa trên chứng cứ là con bò bằng vàng mà A-rôn đã
dựng.”
“Không phải Vua Giê-rô-bô-am cũng dựng một con bò bằng
vàng sao?” Ba thắc mắc.
“Đúng thế, khoảng năm 920 T.C, Vua Giê-rô-bô-am dựng một
con bò bằng vàng. Theo vị giáo sư người Đức, khoảng năm 850 T.C người Do Thái
đã thay đổi câu chuyện như để cố gắng thể hiện rằng mình chỉ thờ phượng một
mình Đấng Gia-vê. Đấng Gia-vê dần được xem như Vị Thần Quốc Gia, chỉ riêng cho
người Do Thái. Khoảng 100 năm sau đó, người Do Thái quyết định rằng Đức Chúa Trời
của Israel là Đấng Siêu Việt của cả thế giới.”
“Các học giả tin thế thật sao?” bác Quang ngỡ ngàng.
“Thuyết tiến hóa trở nên nổi tiếng, vì thế những người
tin thuyết ấy nghĩ rằng tôn giáo cũng tiến hóa.”
“Cũng có lý,” Chân mở miệng, nhưng chưa kịp suy nghĩ.
Vị giáo sư nói tiếp, “Nhiều học giả chấp nhận rằng ý
tưởng chỉ có một Đức Chúa Trời duy nhất chỉ là một phát minh của thế kỷ thứ tám
trước Chúa Giáng Sinh. Họ biết vua Đa-vít sống trước thế kỷ ấy, nên kết luận rằng
Thi thiên không phải do Đa-vít viết. Sa-lô-môn cũng không viết Châm Ngôn. Sách
Gióp có lẽ được viết về sau này, có lẽ trong thời gian bị lưu đày, để động viên
mọi người chịu sự hoạn nạn. Chưa hết, những chương đầu của các sách Sa-mu-ên và
Các Vua chỉ là tiểu thuyết. Các tiên tri có lẽ là những con người rất ấn tượng,
họ trở nên nồi tiếng nhờ tài đoán được điều gì sẽ xảy ra, nhưng Đức Chúa Trời
không tỏ tương lai cho họ. Các lời tiên tri thật ra được viết sau khi sự kiện xảy
ra, hoặc là đang khi sự kiện xảy ra. Tác giả chỉ lùi ngày tháng để chúng có vẻ
như được viết ra từ trước khi xảy ra sự kiện.”
“Như thế là không thành thật,” bác Quang bổ sung.
“Theo các chủ thuyết này, các tác giả không cố ý làm
điều gì sai. Họ chỉ đơn giản là cố gắng động viên người Do Thái trong lúc khó
khăn bằng cách hứa hẹn một ngày mai tươi sáng. Thí dụ, trong thời gian của Mạc-ca-bê,
người Do Thái bị đàn áp cách tàn bạo bởi vua Sy-ri, vốn cai trị họ. Vượt xa nỗi
bàng hoàng của họ, ông ấy dâng cúng một con heo, vốn bị người Do Thái coi là ô
uế, trong đền thờ của họ ở Giê-ru-sa-lem. Người Do Thái quyết định làm cách mạng.
Do đó có người viết ra sách Đa-ni-ên để người dân thêm lòng can đảm.”
“Họ nói gì về Chúa Giê-xu?” bác Quang có vẻ nóng ruột
lắm.
“Những học giả này dạy rằng Đức Giê-xu là một giáo sư
vĩ đại, nhưng vẫn chỉ là con người, Ngài chưa bao giờ xưng nhận hơn thế. Qua thời
gian, giáo hội đã phát triển lên thành một ý tưởng rằng Đức Giê-xu thực hiện những
phép lạ và xưng mình là Đức Chúa Trời. Họ nói rằng các sách Tân Ước chỉ được viết
ra sau khi ý tưởng trên đã được hình thành. Nan đề lớn của chủ thuyết này là
các sách Tân Ước được viết ra rất sớm sau khi Chúa Giê-xu đã sống trên đất.
Trong khi đó, nếu cần để phát triển một giai thoại nào đó trong một nền văn hóa
thì phải cần khoảng thời gian rất lâu.
“Tất cả Cơ đốc nhân phương Tây đều tin những điều ấy
sao?” chú Lý thở dài.
“Không. Nhiều Cơ đốc nhân vẫn giữ những quan điểm truyền
thống. Những học giả cổ xúy và tin vào các chủ thuyết trên cười nhạo những người
tin rằng Kinh Thánh là từ Đức Chúa Trời đến. Họ cho rằng những Cơ đốc nhân như
thế là thất học, không cập nhật, không theo trào lưu của thời đại. Họ cho rằng
những niềm tin như thế chỉ dành cho hạng người ngu dốt, ít học, là người không
dám đối diện sự thật, và cần sự yên ninh từ nơi những điều mê tín. Những năm
1950, nhiều Cơ đốc nhân phương Tây bị sốc khi biết rằng mục sư của họ tin rằng
Kinh Thánh là một sự pha trộn giữa sự thật và sai lầm. Khi những điều ấy bị tiết
lộ, người ta mới thấy sự vô tín đã ảnh hưởng đến dường nào.
“Tất cả mục sư đều tin những ý tưởng mới mẻ như vậy
sao?” bác Quang có vẻ cau mày.
“Không. Nhưng ảnh hưởng từ những mục sư tin vào điều ấy
nhìn chung đã tác động tiêu cực, làm giảm thiểu lòng tin vào Lời Đức Chúa Trời
của Cơ đốc nhân. Thời gian trôi, lại thêm những chủ thuyết khác được người ta
tưởng là sự thật, rằng là những nhà lãnh đạo tin rằng Kinh Thánh được soi dẫn bởi
Đức Chúa Trời và không sai lầm chỉ là số ít trong Hội Thánh phương Tây. Ngày
nay vẫn có nhiều giáo sư và mục sư nghi ngờ rằng Kinh Thánh không hoàn toàn
đúng. Một số lớn những người chỉ-đi-nhà-thờ cũng chia sẻ những nghi ngờ này.
Nhiều người khác công khi phủ nhận Kinh Thánh đến từ Đức Chúa Trời. Nhưng khi sự
vô tín trong sự tin cậy Kinh Thánh lan rộng, thì Hội Thánh mất đi ảnh hưởng
trên xã hội, và nhiệt huyết của chính mình vì cớ Phúc Âm. Nhưng những giáo sư
như thế vẫn không ngần ngại truyền rao sự giảng dạy của mình khắp các châu lục.”
“Ý thầy nói là các giáo sư từ phương Tây không tin vào
Kinh Thánh phải không?” chú Lý hơi bất ngờ.
“Thật ra, luôn luôn có nhiều người tin. Và ngày nay những
Hội Thánh phát triển nhất ở phương Tây là những Hội Thánh tin. Người ta không
hào hứng gì với những điều trống rỗng. Nhưng ta cần cảnh giác rằng các giáo sư
nghi ngờ Kinh Thánh cũng đang đi khắp thế giới truyền rao sự giảng dạy của họ.”
“Cháu nghĩ thầy đã đi hơi nhanh,” Ba tỏ vẻ nhắc.
“Chúng ta cùng quay lại… Sau khi những chủ thuyết trên
được lan truyền, các nhà khảo cổ đã có những khám phá rất hay. Những phát hiện
này cho thấy những chi tiết ghi lại trong sách Sáng Thế Ký đã phản ánh chính
xác thời đại ấy. Cuối cùng thì người ta tin rằng sách Sáng Thế Ký không phải là
một chuyện thần thoại. Đó không phải là sản phẩm bởi trí tưởng tượng của người
ta sau khi sự kiện đã xảy ra hàng ngàn năm. Các chi tiết chính xác đến nỗi, hoặc
là tác giả sách ấy có những tài liệu lịch sử tuyệt vời để làm tư liệu, hoặc Đức
Chúa Trời đã bày tỏ cho tác giả cách đầy trọn về lịch sử. Các khám phá khác cho
thấy Đa-vít là vị vua rất quyền lực và có tài làm thơ. Sách Luca và Công vụ các
sứ đồ cũng chính xác về mặt lịch sử. Một số chủ thuyết đã bị bác bỏ.”
“Do có chứng cứ,” Chân có vẻ quan sát mọi người.
“Những khám phá mới cho thấy Kinh Thánh chính xác về mặt
lịch sử, rất chính xác, vượt xa những suy nghĩ của người phê phán nó. Thí dụ
như, người ta đã có thể xác định những thành phố cổ.”
“Vậy những học giả có quay lại niềm tin vào Kinh Thánh
như trước đây không?” chú Lý hỏi nhưng đang trông đợi một câu trả lời hợp ý
mình.
“Không. Họ không muốn. Tin vào chuyện siêu nhiên là việc
không phải bình thường, nhiều người cứ khăng khăng rằng Kinh Thánh không được Đức
Chúa Trời soi dẫn. Thay vào đó, họ xem đó chỉ là một sản phẩm của con người đầy
những sai lầm. Nhiều người khác thì lại kết luận rằng đó chỉ là một cuốn sách về
mặt tinh thần mà thôi. Bất chấp những khám phá lịch sử và khảo cổ, họ từ chối
tinh rằng Kinh Thánh cũng rất đáng tin khi nói về lịch sử hoặc khoa học.”
Kinh Thánh trở thành Lời Đức Chúa Trời (thế kỷ 20)
“Vậy rồi những ý tưởng trên đã thay đổi thế nào?” Ba
nêu thắc mắc của mình.
“Đầu những năm 1900, một mục sư người Đức tên là Karl
Barth cổ súy cho quan điểm mà tôi đã nói. Ông lạc quan cho rằng lý luận của con
người có thể khiến cho nhân loại trở nên trọn vẹn, hoàn hảo. Đệ nhất thế chiến
đã làm tan hy vọng của ông. Ông trở nên nặng lòng và quay sang giảng dạy về một
sự khải thị thiên thượng và một Kinh Thánh đầy uy quyền. Một phong trào mới ra
đời, được gọi là phong trào tân chính thống.”
“Ông ấy quay lại với niềm tin truyền thống?” chú Lý cắt
ngang.
“Không. Ông tiếp tục tin rằng Kinh Thánh có đầy dẫy những
sai lầm.”
“Làm sao Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời lại có thể đầy
dẫy những lỗi lầm?” bác Quang có vẻ khó hiểu được vấn đề.
“Barth dạy rằng Kinh Thánh không phải là Lời Đức Chúa
Trời cho đến khi chúng ta đối diện với Đức Chúa Trời khi đọc Kinh Thánh ấy. Vì
vậy, bất cứ phần nào nói chạm đến tấm lòng của bạn, phần ấy trở nên Lời Đức
Chúa Trời cho riêng bạn. Tuy nhiên, điều đó cũng không làm thay đổi Kinh Thánh.
Đó vẫn là một cuốn sách bởi con người, đầy những sai lầm.”
“Ý họ là Đức Chúa Trời dùng những sai lầm để dạy chân
lý sao?” Ba hỏi.
“Có vẻ như vậy,” chú Lý nhận xét.
Vị giáo sư đồng tình, “Các học giả khác bắt lấy lời dạy
ấy, và bắt đầu dạy dỗ rằng chúng ta phải lướt bỏ những chuyện hoang đường để
tìm thấy sứ điệp thật sự của Kinh Thánh. Họ cho rằng ngôn ngữ không đủ thích hợp
để chuyển tải sự khải thị thiên thượng. Kinh Thánh chỉ là một sự ghi lại những
trải nghiệm của những con người tìm kiếm Chúa. Những con người này đã có những
kinh nghiệm những lần chạm trán với Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời không phán với
họ, nhưng những trải nghiệm, cách nào đó, đã dạy họ bài học về đạo đức và thuộc
linh. Sau đó họ cố gắng ghi lại những trải nghiệm đó, nhưng nỗ lực của họ không
được soi dẫn bởi Đức Chúa Trời. Vì thế, Kinh Thánh không chính xác về mặt lịch
sử. Một thần học gia nhiều ảnh hưởng, tên là Rudolf Bultmann, tin rằng những gì
liên quan đến phép lạ đều là thần thoại. Ông dạy rằng Đức Giê-xu thật sự đã
không xưng nhận mình là Đức Chúa Trời, hoặc thi hành bất cứ phép lạ nào. Giáo hội
thưở ban đầu đã dựng nên những huyền thoại về Ngài nhằm để khiến cho Ngài vĩ đại
hơn thực tế. Những học giả ủng hộ chủ thuyết này tiếp tục lùng sục thông tin để
hình dung ra nhân vật lịch sử mang tên Giê-xu thật ra là người thế nào.”
“Làm thể nào ta biết được rằng họ đang sai?” mục sư Tài chêm vào một câu hỏi.
“Làm thể nào ta biết được rằng họ đang sai?” mục sư Tài chêm vào một câu hỏi.
“Ta hãy quay lại vấn đề mà hồi nãy anh Quang đã hỏi,”
vị giáo sư đề nghị.
“Vấn đề…” mục sư cố nhớ lại là vấn đề gì.
“Làm sao mà Kinh Thánh vừa có thể là Lẽ thật của Đức
Chúa Trời lại vừa có sai lầm con người?”
“Phải chăng vì họ bỏ qua điều Kinh Thánh đã tự làm chứng?”
bác Quang nêu giả định như thế.
“Đúng thế. Kinh Thánh làm chứng rằng Đức Chúa Trời
phán bằng lời (I Cô 2:13). Kinh Thánh xưng nhận rằng những điều được chép ở
trong là chân thật. Kinh Thánh xưng nhận rằng các câu chuyện lịch sử là chính
xác. Những người theo thuyết tân chính thống thừa nhận rằng Đức Chúa Trời phán
với các tiên tri, nhưng họ muốn được tự do loại bỏ sứ điệp thành văn.”
“Phần nào?” bác Quang xen vào.
“Bất cứ phần nào họ thấy khó chịu. Họ chối bỏ thẩm quyền
của Lời Đức Chúa Trời. Những ai cho rằng các ý tưởng là từ Đức Chúa Trời nhưng
từ ngữ là của con người, thì nhanh chóng lên tiếng rằng trong Kinh Thánh có nhiều
mâu thuẫn, hiểu lầm, và sai trật.”
“Họ có vẻ háo hức chỉ trích Kinh Thánh hơn là hạ mình
trước Lời Chúa hầu có thể học biết Lẽ thật.” chú Lý góp tiếng.
“Suy nghĩ xem. Những người không chịu tin rằng Đức
Chúa Trời đã làm phép lạ ban cho chúng ta một Kinh Thánh không sai lầm, thì lại
chịu tin rằng Đức Chúa Trời làm phép lạ để chuyển đạt những mảnh vụn chân lý
thông qua một cuốn sách đầy sai lầm.” Vị giáo sư nói tiếp. “Nếu Kinh Thánh đầy
những sai lầm, vậy ai có đủ hiểu biết và uy quyền để phân loại tìm ra chân lý từ
khối sai lầm đó?” Giáo sư ngừng lại một chút rồi nhìn xung quanh. “Bất cứ ai cố
gắng tách bạch điều được soi dẫn ra khỏi điều không được soi dẫn, nghĩa là anh
ta tự đặt mình cao hơn Kinh Thánh rồi.”
“Tôi đã từng nghe giảng dạy rằng chỉ có một Lời của Đức
Chúa Trời, là Chúa Giê-xu Christ,” mục sư Tài nói giọng nhỏ nhẹ.
“Ta không thể tách Chúa Giê-xu ra khỏi Lời thành văn.
Chính Chúa Giê-xu rõ ràng là đã tin Lời thành văn là Lời của Đức Chúa Trời.
Chúng ta thấy Ngài tuyệt đối tin vào Kinh Thánh.”
“Phải chăng vì Ngài chỉ là một người bình thường như
người khác, ai ở vào thời của Ngài cũng vậy?” mục sư Tài có ý phản bác.
“Sự sống lại của Ngài đã chứng minh Ngài không phải
như mọi người khác.” Vị giáo sư trả lời nhẹ nhàng.
“Thầy nói rằng các giáo sư kia quan niệm rằng khi một
câu Kinh Thánh nào đó nhảy khỏi trang giấy và gây một ấn tượng mạnh trong lòng,
thì ấy là Đức Chúa Trời đang phán với ta. Điều ấy có đúng không? Điều này đã xảy
ra với cháu nhiều lần.” Ba có vẻ ấm ức.
“Đức Chúa Trời có thể phán với chúng ta bằng cách đó.
Nhưng có thể nào một câu sai chạm đến lòng bạn thì trở thành một câu đúng? Đúng
với tôi nhưng lại không đúng với người khác! Sao có thể thế được chứ? Không thể
vừa đúng vừa sai.”
Chân lý không còn thích hiệp (thế kỷ 21)
Mọi người im lặng một đoạn. Trời dần tối, chim chóc
đang rủ nhau về tổ. Có tiếng gà túc túc sát bên, rồi mọi thứ tĩnh lặng.
Vị giáo sư cầm tách trà lên mới thấy tách đã cạn từ
khi nào, bác Quang lật đật châm trà. “Các chủ thuyết cứ liên tục thay đổi,
nhưng chỉ một thứ dường như không đổi. Các học giả cứ tiếp tục hoài nghi liệu rằng
Kinh Thánh có đáng tin về mặt lịch sử.”
“Thầy nói về những học giả, chứ không phải nói về những
mục sư, phải không ạ?” Ba mở miệng hỏi. Bác Quang giật mình liếc nhìn mục sư
Tài.
“Nếu các mục sư học tại trường nơi mà các chủ thuyết
này được cổ xúy, thì họ sẽ bị ảnh hưởng.” Vị giáo sư có vẻ như muốn nói thêm,
nhưng rồi ông đổi đề tài.
“Trong khi đó, ngày nay một số người thừa nhận các
thông tin về Chúa Giê-xu là chính xác, thì họ lại từ chối không chịu tin vào
các phép lạ. Số khác lại đề xuất ý tưởng rằng Chúa Giê-xu là một người khôn
ngoan bị ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hóa và tư tưởng Hy lạp. Họ tuyên hố rằng
Ngài chẳng hề xem mình là Đấng Mê-si, hay hứa hẹn gì về một vương quốc nào cả.
“Mọi trường đều dạy như thế sao?” Ba có vẻ quan tâm lắm.
“Cám ơn Chúa, người Tin lành đã mở nhiều trường khắp
thế giới. Một người Mỹ tên là Grenham Machen đã đi đầu mở lối. Ông lớn lên
trong một gia đình trí thức, học tại các đại học tốt nhất. Khi học với các nhà
thần học tự do bên Đức, ông đã bị nhồi sọ bằng những nghi ngờ. Các giáo sư của
ông có gắng tách rời sự dạy dỗ của Chúa Giê-xu và thần học của Phao-lô, nhưng
Machen nhận ra cả hai đều dạy giống nhau. Ông thấy rằng Sứ đồ Phao-lô là một
môn đồ thật sự của Chúa Giê-xu, và dành trọn đời mình giảng dạy về sự chết và sự
sống lại của Chúa Giê-xu. Machen bắt đầu chống lại khuynh hướng thần học tự do.
Ông viết, “Thần học tự do làm vừa lòng người ta, trong khi đó nhiệm vụ đầu tiên
của Cơ Đốc Giáo là công bố hành động ân điển của Đức Chúa Trời.” Cuối những năm
1920, ông ấy thành lập một chủng viện phản đối sự dạy dỗ của phe tự do.
“Ngày nay các quan điểm tự do ảnh hưởng thế nào trên Hội
Thánh phương Tây?” chú Lý muốn đào sâu thêm.
“Để tôi kể một thí dụ. Những người theo quan điểm ấy
triển khai một cái gọi là Hội Thảo Chúa Giê-xu vào năm 1985, tổ chức khắp các Hội
Thánh bên phương Tây. Những người tham dự hội thảo phải biểu quyết xem Chúa
Giê-xu có thật sự nói và làm như các sách Tin lành ghi lại hay không. Dù rằng
các hội thảo này ngày nay không còn phổ biến như trước đây, nhưng nó đã để lại ảnh
hưởng sâu nặng trên các Cơ đốc nhân phương Tây, và một tác động rộng lớn.
“Nó có tác động đến những nơi khác trên thế giới
không?” chú Ly thắc mắc.
“Tôi xin nói thêm một thí dụ nữa. Những năm 1970, nhiều
người ở Phi Châu quay lại tin vào Đấng Christ, nhưng họ lại pha trộn sự giảng dạy
của mình với nhiều thứ khác. Thời bấy giờ Hội Đồng Thế Giới Các Giáo Hội (World Council
of Churches) cung cấp tài chính để đem quan điểm thần học tự do huấn luyện các
nhà lãnh đạo Phi Châu. Họ kêu gọi “bản sắc Phi Châu” và lợi dụng những xúc cảm
địa phương cục bộ. Những người Tin lành hoặc giáo sĩ nào chống lại phong trào
này liền bị cáo buộc là đề cao văn hóa Tây phương. Đức Chúa Trời đã cho xuất hiện
một người trẻ làm lãnh đạo, tiến sĩ Byang Kato. Ông tin chắc chắn rằng Kinh
Thánh là không sai lầm. Ông can đảm đối diện với những chỉ trích từ Hội Đồng Thế
Giới Các Giáo Hội. Báo chí theo phái tự do đả kích ông. Một thần học gia tự do
hàng đầu hăm dọa sẽ thưa ông ra tòa. Nhưng, ông vẫn mạnh mẽ lập luận rằng Cơ Đốc
Giáo không phải “tôn giáo của người da trắng” và Kinh Thánh là chuẩn xét xử cho
mọi nền văn hóa. Đáng buồn, chỉ hai năm sau thì Kato chìm hẳn. Nhưng trong hai
năm ngắn ngủi ấy, ông đã thay cho tiếng nói của những người Tin lành.
“Tình hình chung bên phương Tây hiện tại ra sao?” mục
sư Tài muốn kéo dài câu chuyện.
“Trào lưu tân thời nhất bên phương Tây là triết lý rằng
chân lý không quan trọng. Người ta muốn tìm kiếm những kinh nghiệm thuộc linh,
muốn gia nhập những nhóm cộng đồng, nhưng bản thân thì không quan tâm Kinh
Thánh có đúng về mặt lịch sử hay không. Tôn giáo được xem như thị hiếu cá nhân
hơn là vấn đề chân lý, lẽ thật. Nhiều người phương Tây cho rằng mọi tôn giáo đều
giá trị ngang nhau. Kết quả là, Cơ đốc giáo chân thật mất đi ảnh hưởng trên nền
văn hóa, còn các tôn giáo phương Đông thì càng lớn mạnh. Nhưng vẫn còn nhiều
người tin và giảng dạy rằng Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời.”
“Thế còn bên phương Đông thì sao?” Ba muốn biết.
“Cháu thấy gì?” vị giáo sư hỏi ngược lại Ba.
“Sự hồi sinh của niềm kiêu hãnh khôn ngoan cổ đại,” Ba
có vẻ rất quan sát thế giới xung quanh.
“Người ta không hề ngừng theo đuổi tôn giáo,” mục sư
Tài bổ sung.
“Nhiều trí thức trẻ không tin vào tôn giáo,” Chân nói.
“Đúng thế. Nhưng phương Đông vẫn rất xem trọng tôn
giáo. Tôi nghĩ các tôn giáo phương Đông ngày càng được bênh vực, và người ta
lên án những quan niệm cho rằng đến từ phương Tây,” chú Lý góp lời.
“Tôi phải thêm rằng,” vị giáo sư tiếp lời chú Lý, “Hội
Thánh ở phương Đông mạnh mẽ, nhưng cũng bị ảnh hưởng bởi các quan niệm của Hội
Thánh bên phương Tây, tức là, được nuôi bởi sự pha trộn các ý tưởng truyền thống
và quan điểm thần học tự do.”
Kinh Thánh làm chứng về chính mình
Vị giáo sư như muốn kết luận bài học lịch sử từ nãy đến
giờ. “Điều quan trọng cần nhớ là, những chủ thuyết tân thời, những quan điểm
phóng khoáng đều cho rằng Kinh Thánh đầy những sai lầm. Các chủ thuyết tân thời
phê phán cách tiếp cận khoa học với Kinh Thánh trong thế kỷ mười chín, cho rằng
cách tiếp cận ấy đã bỏ qua giá trị thuộc linh của Kinh Thánh. Nhưng họ xem những
kết quả của cách tiếp cận ấy là một bước tiến lớn. Nói cách khác, họ khăng
khăng rằng Kinh Thánh chỉ là sách bởi con người, đầy những sai lầm, nhưng cùng
lúc lại muốn khôi phục sự tôn trọng với Kinh Thánh vì ấy là một cuốn sách nói đến
vấn đề tinh thần. Họ bảo ta phải bỏ đi những quan điểm cổ hủ rằng Kinh Thánh
không sai lầm, và chấp nhận những quan điểm tân thời phù hợp với trí tuệ hiện đại.”
Ba hơi ngẫng mặt lên, “Chẳng lẽ chúng ta chỉ tin những
gì chúng ta thích thôi sao? Có đúng không khi chối bỏ sự dạy dỗ xưa nay và nghe
theo những tín lý mới chỉ vì nó nghe có vẻ hợp lý?”
Vị giáo sư tiếp nối ý tưởng, “Nếu chúng ta thấy khó chịu
với ý tưởng về các phép lạ, điều đó có cho chúng ta quyền tuyên bố rằng những
việc ấy chẳng hề xảy ra?”
“Vậy chúng ta tìm câu trả lời từ đâu?” mục sư Tài đắn
đo.
“Các tác giả hiện đại gần như không bao giờ chịu để
cho Kinh Thánh được phép nói lên cuốn sách ấy thuộc dạng gì. Có lẽ chúng ta ít
ra nên xem xét một khả năng, ấy là Kinh Thánh tự nói gì về chính mình. Nếu có một
người nước ngoài đến đây, và chúng ta muốn hiểu biết về hoàn cảnh và lịch sử của
anh ta, thì ta sẽ làm gì? Ta sẽ nhờ ai đó hiểu biết về người nước ngoài giải
thích.”
“Hay ta cũng có thể xem xét cẩn thận cách ăn mặc và diện
mạo của anh ta,” Ba vừa cười vừa góp ý.
“Nếu có thể nói chuyện, tôi sẽ hỏi anh ta,” bác Quang
nêu ý kiến.
“Chính xác,” vị giáo sư đồng ý, “Anh ta tự biết về
mình nhiều hơn bất cứ ai trong chúng ta. Nếu sau khi nghe mà ta tin rằng anh ta
nói dối, thì chúng ta tìm một nguồn khác tin cậy hơn để tìm hiểu xuất thân của
anh ta. Nhưng cũng phải công bằng, cho anh ta cơ hội tự nói về mình. Nếu các học
giả nói rằng Kinh Thánh không còn thích hiệp cho ngày nay, chúng ta có nên tin
họ không?”
“Hay là chúng ta để cho Kinh Thánh tự nói về mình trước
đã,” chú Lý nhanh chóng trả lời.
“Không khó gì để tìm hiểu xem Kinh Thánh tự nói gì về
chính mình.” Vị giáo sư như muốn lặp lại
ý của mình, “Kinh Thánh nhiều lần xưng nhận cách chắc chắn rằng mình là từ Đức
Chúa Trời. Khi đọc, chúng ta thấy rõ ràng dấu tay của Đức Chúa Trời trong ấy.”
Mục sư Tài hơi nhướng mày. Ông biết mình đã nghe điều
này nhiều lần, nhưng cũng còn chưa rõ, “Thí dụ như?”
“Chúng ta đã nói rằng phải để cho Kinh Thánh tự nói về
mình, nhưng nãy giờ chúng ta lại chưa đọc Kinh Thánh. Chúng ta thử xem một vài
đoạn. Tôi đã có nói tới, nhưng bây giờ
chúng ta cùng xem xét cẩn thận hơn.”
Vị giáo sư cầm cuốn Kinh Thánh lên và lật mở. “Vị sứ đồ
lớn tuổi Phao-lô viết những lời này cho vị mục sư trẻ Ti-mô-thê, là học trò của
ông. Phao-lô sẽ chẳng có lợi gì nếu nói dối. Ông đã già, đang ở trong ngục đối
diện án tử hình do những điều ông tin và dạy. Nhưng Phao-lô tin quyết vào điều
đúng, đến nỗi ông muốn động viên Ti-mô-thê không xoay bỏ những điều đã học nơi
ông. Phao-lô nhắc Ti-mô-thê rằng ngay khi còn tấm bé, cậu đã được dạy Kinh
Thánh bởi mẹ và bà của mình. Kế tiếp, lá thư nhấn mạnh rằng Kinh Thánh là từ Đức
Chúa Trời và có ích lợi. Sách ấy có thể khiến người ta trưởng thành về mặt thuộc
linh. Ngục tù không thể khiến cho Sứ đồ Phao-lô dời đổi niềm tin rằng Kinh
Thánh là lẽ thật. Chẳng hề có bằng chứng nào cho thấy Phao-lô đã dạy rằng có một
phần nào đó của Kinh Thánh không phải từ Đức Chúa Trời.”
Vị giáo sư đưa quyển Kinh Thánh của mình cho Ba. “Cháu
đọc thử xem. Ở đây trời hơi tối, tôi đọc không rõ. Cháu đọc từ từ thôi.”
Ba
mở miệng đọc, “Cả
Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ,
bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình, hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời
được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành.” (II Ti 3:16-17)
Ba vừa đọc xong thì vị giáo sư chỉ
tay, “Từ ngữ được dùng ở đây rất thú vị. Sứ đồ Phao-lô đã nối hai chữ thành
một: Đức Chúa Trời và soi dẫn. Trong tiếng Hy lạp, điều này
xác nhận rõ Đức Chúa Trời là Đấng làm việc soi dẫn ấy.”
“Ông ấy đang muốn nói điều gì?” chú
Lý hơi băn khoăn.
“Ông ấy muốn Ti-mô-thê hiểu rõ rằng
không phần nào trong Kinh Thánh đến từ trí tuệ của con người. Kinh Thánh hình
thành là bởi Đức Chúa Trời đã cảm động người ta viết ra. Phao-lô biết rằng
Ti-mô-thê sẽ không bị bắt bớ, tù ngục, nếu người học trò này chịu tin vào các ý
tưởng của loài người mà thôi.”
“Có thể đó là những người đạo đức đã
viết ra các sách ấy, rồi sau đó Đức Chúa Trời hà hơi vào tác phẩm của họ.” mục
sư Tài nhận định.
“Tôi không cho là như vậy. Sứ đồ Phao-lô dùng chữ mạnh
như thế để Ti-mô-thê biết về thẩm quyền tuyệt đối của Kinh Thánh.”
“Tại sao phải làm thế?” Ba hỏi.
“Vì Lời ấy đến từ chính Đức Chúa Trời, một Đấng Tạo
Hóa và Chúa của mọi vật hiện hữu. Kinh Thánh là độc nhất vô nhị. Nếu bản dịch
trong tay bạn khác với điều tôi vừa giải thích, ấy là do dịch giả đã sửa bản
văn cho phù hợp với niềm tin của họ. Điều tôi nói là nguyên gốc ghi lại trong
tiếng Hy Lạp.”
“Có thể Phao-lô phóng đại chút ít vì muốn động viên
Ti-mô-thê.” Mục sư Tài thử đề nghị.
“Có thể Phao-lô dùng chữ mới, chứ còn ý tưởng không phải
là mới. Kinh Thánh Cựu Ước thường nói về lời ra từ miệng Đức Chúa Trời. Chúa
Giê-xu cũng nói như vậy khi Ngài quở ma quỷ. Ngài trích từ Cựu Ước, nói rằng
người ta sống nhờ vào những lời nói ta từ miệng Đức Chúa Trời.”
“Nhưng điều đó liệu có chứng minh được mọi thứ trong
Kinh Thánh đều đến từ Đức Chúa Trời?” mục sư Tài lý luận.
“Nhìn lại điều chúng ta vừa đọc, không phải là mọi lời Kinh Thánh được soi dẫn thì đều ích
lợi. Nhưng mà là, cả Kinh Thánh đều
là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn và có ích. Kinh Thánh cũng không nói là chỉ có
trước giả được soi dẫn, còn những lời viết ra thì không được soi dẫn. Phân đoạn
này nói rằng lời thành văn, lời viết ra, được soi dẫn. Mọi điều trong Kinh
Thánh đều ích lợi vì đã được soi dẫn. Sứ đồ Phao-lô còn nói tiếp nữa là mọi điều
trong Kinh Thánh có thể bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình. Tại
sao Kinh Thánh lại có thể làm điều đó?”
“Vì đó là chân lý, là lẽ thật đến từ Đức Chúa Trời.”
bác Quang nhanh chóng trả lời.
“Các chủ thuyết tân thời nhấn mạnh phần việc của con
người, và chỉ cho Đức Chúa Trời đóng vai phụ. Tôi có ân tượng là họ nghĩ rằng Đức
Chúa Trời là không cần thiết trong cả một quá trình như thế. Nhưng đó không phải
là điều Kinh Thánh tự nói về chính mình. Sứ đồ Phi-e-rơ khẳng định cách mạnh mẽ
rằng Kinh Thánh không phải đến từ người ta. Chúng ta đọc xem, II Phi 1:20-21.”
Ba lật vài trang rồi đọc, “Trước hết, phải biết rõ rằng
chẳng có lời tiên tri nào trong Kinh thánh lấy ý riêng giải nghĩa được. Vì chẳng
hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh
Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời.”
Vị giáo sư ngắt lời Ba. “Sứ đồ Phi-e-rơ viết điều này
sau khi nói chúng tôi đã làm cho anh em biết quyền phép và sự đến của Đức Chúa
Jêsus Christ chúng ta, thì chẳng phải là theo những chuyện khéo đặt để, bèn là
chính mắt chúng tôi đã ngó thấy sự oai nghiêm Ngài. (II Phi 1:16). Ông nói rằng
chẳng một lời tiên tri nào đến bởi loài người. Các tiên tri không phải tự do
nói điều mình muốn.”
“Khi người Do Thái nói đến chữ lời tiên tri, họ nghĩ gì?” chú Lý thắc mắc.
“Họ thường nghĩ đến tính toàn vẹn của Kinh Thánh.” Vị
giáo sư trả lời. “Vì thế, sau khi nói về sự hiểu lầm, Phi-e-rơ giải thích đến
điều thật sự đúng đắn. Chúng ta đọc lại câu 21.”
Ba cầm Kinh Thánh lên đọc lại, Vì chẳng hề có lời tiên
tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động
mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời.”
Ba có vẻ khẳng định, “Rõ ràng là Chúa xưng nhận rằng
Kinh Thánh là đến từ Đức Chúa Trời.”
Vị giáo sư gật gù. “Thánh Linh Đức Chúa Trời khởi xướng
trước tiên. Khi Ngài muốn ai đó viết ra, Ngài cảm động lòng họ làm điều đó.
Ngài quan qua họ để đảm bảo rằng những lời ấy chính là lời của Đức Chúa Trời.
Kinh Thánh không phải từ trên trời rơi xuống như trong ảo thuật. Đức Chúa Trời
phán qua con người theo cách đảm bảo rằng Kinh Thánh là 100% con người và 100%
từ Chúa. Thánh Linh Đức Chúa Trời cảm động các trước giả. Tức là, họ được thôi
thúc bởi quyền phép, năng lực và sự dẫn dắt của Chúa, chứ không phải riêng họ.
Đang khi cảm động họ, Ngài phán. Đức Chúa Trời chủ động ảnh hưởng lên họ, còn họ
thì tiếp nhận. Nhưng họ không phải là máy móc. Họ vẫn có tư duy và còn hỏi ngược
lại Chúa. Đây không phải là ý tưởng tôi áp đặt cho Kinh Thánh. Đó chính là điều
Kinh Thánh tự nói về mình. Đó là một điều lạ kỳ, nhưng có việc gì khó cho Đức
Chúa Trời chứ? Thật sự, Kinh Thánh là độc nhất vô nhị.”
“Phi-e-rơ đã đi cùng Chúa Giê-xu trong ba năm,” bác
Quang bổ sung.
“Đúng thế, và ông chưa hề e ngại tranh luận với Chúa
Giê-xu và nói ra suy nghĩ của mình. Nhưng trong thư này, ông viết để chống cự
những giáo sư giả, và ông xưng nhận rằng ông đang giảng dạy lẽ thật. Cuối thư,
Phi-e-rơ viết rằng Đức Chúa Trời đã ban cho Phao-lô sự khôn ngoan, và những thư
Phao-lô viết thật sự là Kinh Thánh (II Phi 3:15-16)
Vấn đề cuối cùng
“Chúng ta quay lại với vấn đề chính của chúng ta. Kinh
Thánh là chân thật hay không?” Vị giáo sư như muốn nhắc mọi người. “Có bốn lựa
chọn. Kinh Thánh có thể chỉ là một cuốn sách của con người, và vì thế chúng ta
không nên tin cậy. Kinh Thánh chỉ là một cuốn sách nói chuyện trên trời, nhưng
vô lý vì nó nói đến con người rất rõ ràng. Kinh Thánh có thể nữa con người nữa
từ trời, tức là, Đức Chúa Trời đưa ra những ý niệm chính, nhưng để cho con người
diễn giải những ý niệm đó theo cách họ thích. Hay là, Kinh Thánh vừa 100% từ trời,
vừa 100% từ người, tức là, Đức Chúa Trời làm điều kỳ diệu, hướng dẫn các trước
giả thậm chí trong việc chọn lọc từ ngữ, mà vẫn đảm bảo cá tính của họ, nhằm để
chúng ta biết được lẽ thật, hiểu được chân lý.”
Gương mặt mục sư Tài lộ rõ những tranh chiến trong
trí. “Lẽ dĩ nhiên, nếu Kinh Thánh có sai lầm, thì không đáng tin cậy. Tôi hiểu.
Nếu Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời thì Sách ấy phải hoàn toàn chân thật. Sách ấy
có uy quyền và không ai được phép thắc mắc.”
“Đúng thế. Nhưng chúng ta không chối bỏ rằng còn một số
điểm khó hiểu trong Kinh Thánh, là do góc nhìn giới hạn của chúng ta.”
“Trước đây tôi đã từng tin rằng Kinh Thánh là từ Đức
Chúa Trời và không sai lầm, nhưng khi đến trường một số giáo sư lại nói rằng những
ai tin như thế là ngây thơ,” mục sư Tài thừa nhận.
“Họ chú trọng vào những phần trong Kinh Thánh mà chúng
ta không giải thích được, đúng không?” Vị giáo sư tiếp lời.
“Cho phép tôi thắc mắc. Bao nhiêu phần trong Kinh
Thánh là khó hiểu hay là có người gọi đó là mâu thuẫn?”
Mục sư Tài suy nghĩ ít lâu. “Tôi thừa nhận rằng đa phần
trong Kinh Thánh là rõ ràng và hài hòa với nhau. Chỉ có một số ít chi tiết là
có vấn đề.”
“Những tiểu tiết ấy có ảnh hưởng lên những tín lý quan
trọng không?”
“Không.” Mục sư Tài thừa nhận.
“Những khó khăn ấy chỉ là phần nhỏ và dễ giải thích
hơn là chúng ta tưởng. Với những bằng chứng Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời,
chúng ta có nên để những rắc rối về tuổi của một vị vua hay quân số trong chiến
tranh khiến chúng ta nghi ngờ Kinh Thánh là chân lý không? Ngoài ra, một sứ điệp
phải được hiểu trong bối cảnh lịch sử. Người xưa không đếm theo cách chúng ta đếm
ngày hôm nay, và lịch của họ cũng không ổn định như lịch của chúng ta ngày nay.”
“Nhưng có quan trọng không nếu biết về những điều thuật
lại trong Kinh Thánh là có thật về mặt lịch sử?” mục sư Tài có vẻ tranh luận.
“Có, quan trọng chứ. Tôi không nói rằng những khó hiểu
trong Kinh Thánh là không quan trọng. Tuy nhiên, tôi nghĩ chứng cứ rằng Kinh
Thánh là từ Đức Chúa Trời đủ sức bắt phục tôi phải cúi đầu trước uy quyền của
Ngài, và thừa nhận rằng mình không biết hết tất cả mọi thứ. Những câu chuyện
trong Kinh Thánh rõ ràng cho thấy trước giả đang mô tả những sự kiện có thật
đang xảy ra, hơn là họ tưởng tượng ra nó, và tạo dựng những chuyện hoang đường.
Hãy chú ý những chi tiết trong các sự kiện lịch sử của Kinh Thánh. Nhiều lần,
những người nghi ngờ tính chính xác của các sự kiện đã được chứng minh là sai bởi
các phát hiện khảo cổ. Tính đáng tin về mặt lịch sử là quan trọng. Cơ đốc giáo
khác với các tôn giáo khác vì tính chân thật của nó dựa vào thực tế của những sự
kiện có thật.
“Thí dụ như?” Chân xen vào, có vẻ quan tâm lắm.
“Sự kiện quan trọng nhất là sự phục sinh của Chúa
Giê-xu. Đức Chúa Trời bày tỏ chính mình Ngài trong chuỗi lịch sử nhân loại.”
Liếc nhìn người anh em bà con, Ba cất tiếng, “Nói rằng
Kinh Thánh xưng nhận mình là Lời Đức Chúa Trời là một chuyện, còn tin những
xưng nhận đó là đúng lại là chuyện khác.”
“Ngoài những chuyện Kinh Thánh tự làm chứng đã nói,
còn bằng chứng nào khác nữa không?” mục sư Tài có vẻ vẫn chưa thuyết phục lắm.
“Một mặt, Kinh Thánh giống như một con sư tử có thể tự
bảo vệ mình. Tuy nhiên, còn những bằng chứng khác ủng hộ sự xưng nhận của Kinh
Thánh. Chúng ta có đề cập những tác giả khác đã viết về Kinh Thánh trong thế kỷ
thứ nhất sau Đấng Christ. Chúng ta cũng có nói các khám phá lịch sử và khảo cổ
đã ủng hộ sự đáng tin của Kinh Thánh. Khi biết rằng nhiều chừng ấy các trước giả
đã viết trong một khoảng thời gian dài, nhưng Kinh Thánh lại có sự thống nhất
vượt xa khả năng của con người. Về phạm vi, Kinh Thánh nói đến việc toàn thế giới,
bắt đầu bằng việc tạo dựng, và cho thấy mọi thứ đã và sẽ luôn luôn liên quan đến
Đức Chúa Trời. Ta thấy một màn kịch được hé lộ từ Sáng Thế Ký đến Khải Huyền.
Những dạy dỗ đạo đức thiện lành trong Kinh Thánh đều xuất phát bởi đặc tính của
Đức Chúa Trời. Cả dòng lịch sử nhân loại đầy những lời chứng tốt về tính đáng
tin của Kinh Thánh, và Kinh Thánh thật có thay đổi nhiều cuộc đời.”
“Chúng ta nên nghiên cứu kỹ các lời tiên tri trong Cựu
Ước. Hãy bắt đầu bằng sách Ê-sai. Trong viện bảo tàng ở Giê-ru-sa-lem có một bản
copy toàn bộ sách Ê-sai. Các nhà khoa học đánh giá rằng bản copy này đã có từ
trước khi Chúa Giê-xu giáng sinh. Nếu đến viện bảo tàng này, ta có thể thấy tận
mắt bản copy này. Chúng ta có bằng chứng rằng tiên tri Ê-sai đã viết sách này
trước khi Chúa Giê-xu đến thế gian, thế nhưng trước giả đã viết chi tiết những
điều sẽ xảy đến với Chúa Giê-xu. Những điều ấy đã ứng nghiệm.”
“Tôi khích lệ mọi người nghiên cứu bằng chứng sự phục
sinh của Chúa Giê-xu (Công 17:31, Rô 1:4, I Cô 15:14). Ngay cả các luật sư vô
thần đã điều tra về sự sống lại của Đấng Christ trong một nỗ lực phủ nhận sự kiện
đó. Tuy nhiên, đến cuối cùng họ phải thường nhận rằng có bằng chứng lịch sử chắc
chắn là điều đó đã xảy ra. Chúa Giê-xu xác nhận đó là sự thật. Chính Ngài đã
nói rằng Ngài sẽ sống lại về mặt thân thể. Ngài thật đã làm như vậy, nên ta có
thể tin cậy mọi điều Ngài đã nói. Chúng ta đã nói chuyện nãy giờ, Ngài đã dạy rằng
Kinh Thánh là chân thật và đáng tin – đó chính là Lời của Đức Chúa Trời.”
“Tôi hiểu rằng nếu Kinh Thánh đầy những sai lầm, thì
Cơ Đốc Giáo cũng chỉ là một tôn giáo khác của loài người. Nếu thế thì…” mục sư
Tài hơi kéo dài giọng.
Mọi người ngồi
yên lặng một lát. Bác Quang nhìn bầu trời. Thật lạ lùng, Đấng tạo dựng nên tất
cả đã trò chuyện cùng con người. Càng lạ lùng hơn là những lời ấy được viết ra
thành sách để ai cũng có thể đọc. Bác Quang càng tin quyết rằng Kinh Thánh là Lời
của Đức Chúa Trời, và Lời ấy có đầy đủ thẩm quyền trên đời sống mình.
Sau khi các vị khách từ biệt ra về, Bác Quang ngồi lại
suy nghĩ. Tim bác như muốn nhảy khỏi lồng ngực. Bác đang trông cho đến lần tới
sẽ nói chuyện với đứa cháu của mình.