KINH THÁNH:
NHẬP ĐỀ:
Tên của Giăng có nghĩa
là. "Đức Giêhôva là sự vinh hiển" hay "kẻ được Đức Giêhôva
yêu".
I/. GIA
ĐÌNH CỦA GIĂNG ( MA-THI-Ơ 4:21-22)
-
LÀM NGHỀ CHÀI
LƯỚI
-
CHA CỦA GIĂNG
LÀ: Xê-bê-đê
-
MẸ CỦA ÔNG LÀ: Sa-lô-mê (Mathiơ 27.56; Mác 16.1)
II/. Ở GẦN
CHÚA GIÊ-XU HƠN CÁC SỨ ĐỒ KHÁC ( )
Sứ đồ Giăng tuy là người trẻ tuổi nhất trong số
mười hai sứ đồ, nhưng ông được xếp vào một trong những người thân tình nhất,
tín cẫn nhất của Chúa Jêsus. Ông là một trong số các sứ đồ Chúa chia xẽ
những giờ phút riêng tư nhất:
- Ông đã ở với Chúa
Jêsus khi làm cho con gái Giairu sống lại (Luca 8.49…).
- Ông đã ở với Chúa Jêsus trên Núi Hóa Hình
(Mathiơ 17.1…).
- Ônglà một trong số các sứ đồ hiện diện
khi Chúa nói chuyện với Môi Se và Ê li sê, và tận tai nghe tiếng từ trên trời
"Này là Con yêu dấu của Ta;"
- Ông dựa vào ngực Chúa Jêsus tại bữa Tiệc Thánh
(Giăng 13.23-26).
- Ông là một trong số các sứ đồ đi theo Chúa đến
vườn Ghết se ma nê, thấy Chúa cầu nguyện mồ hôi đỗ ra như giọt máu, rồi ngủ mê
vì buồn rầu.
III/. CHỨC
VỤ SAU KHI CHÚA THĂNG THIÊN
Khi được Chúa Jésus kêu gọi, Phierơ đang thả lưới, do việc thả lưới đó
Chúa hứa cùng ông, “ Ta sẽ khiến ngươi trở nên tay đánh lưới người”. Còn khi
Chúa kêu gọi Giăng, kinh thánh miêu tả Giăng đang vá lưới. Động từ “ vá” ở đây
theo tiếng Hi Lạp là katartizo. Từ ngữ
này có nghĩa phục hồi, hàn gắn, vá sửa, tu bổ lại nguyên trạng, rồi tăng cường
thêm cho lưới không rách nữa. Đó là chức vụ tu bổ, chức vụ phục hồi mà Chúa kêu
gọi Giăng làm.
-
Ông phục vụ lâu hơn các
sứ đồ khác.
- Ông đã sống khoảng 70 năm sau khi Chúa thăng thiên.
- Ông sống
lâu hơn Phierơ và Phaolô khoảng 30 năm.
- Ông có
mặt trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Công Vụ các Sứ đồ 2.1).
- Ông phục
vụ với Phierơ trong một thời gian (Công Vụ các Sứ đồ 3.1-11; 4.13-22).
- Ông rất nổi bật trong Hội Thánh tại thành
Jerusalem (Galati 2.9).
Sau khi Chúa Jêsus đã thăng thiên,
Giăng được phân chia cho một phần ở tiểu Á. Tuy nhiên ông không đi đến
cánh đồng thuộc linh của mình ngay được, nhưng ở lại Giê ru sa lem một thời
gian để chăm sóc bà Mari cho đến khi bà qua đời khoảng mười lăm năm sau khi
Chúa thăng thiên.
Sau khi việc tin cậy mà Chúa đã giao phó cho hoàn
tất, Giăng đến vùng Tiểu Á, và tận tụy dấn thân vào việc truyền bá tin mừng Cơ
Đốc, giảng dạy ở những nơi lời Chúa chưa được rao giảng, bồi dưỡng vun xới
thuộc linh cho những nơi đã được gây dựng.
Nhiều hội thánh đã được Giăng gây dựng và bồi
dưỡng trong số đó hội thánh ở Smyrna, Philadelphia, Laodicea, và một số nơi
khác; nhưng nơi hầu việc Chúa chánh của ông là ở Ê phê sô, nơi mà Phao Lô đã
thành lập hội thánh, và cử Ti mô thê đến để làm người chăn bầy.
Sau khi Giăng ở Ê phê
sô được vài năm, Ông bị tố cáo trước Hoàng Đế Domitian, người đang khởi đầu việc
bắt bớ Cơ Đốc Nhân, về tội loan truyền một tín ngưỡng sai lầm và không tôn kính
Thượng Đế, và là một người dựng đứng tôn giáo trong đế quốc La Mã. Hậu quả
của việc này và phù họp theo mạng lệnh của Hoàng Đế Domitian, viên lãnh sự ở Ê
phê sô bắt trói Giăng giải về La mã, nơi đó ông bị đối xử tàn nhẫn dưới gông cườm
dã man của Hoàng Đế Domitian, rồi bị
quăng vào lò dầu sôi. Nhưng
Đức Chúa Trời chí cao bảo toàn ông cho công việc nới rộng của vương quốc Ngài,
đã dẹp tắt sức nóng của lò dầu sôi, và giải cứu ông khỏi cảnh tưởng như đã chết.
Qua phép lạ kỳ diệu cứu khỏi cái chết này của Giăng, một người bình thường nào
cũng thiết nghĩ việc giảng dạy của Giăng về một Đức Chúa Trời có một và thật,
và Giăng được che chở bởi một Đấng Vô hạn. Nhưng những phép lạ này vẫn
không đủ thiết phục vị Hoàng Đế hung bạo hay giảm bớt cơn thịnh nộ của bạo Chúa
này. Hoàng Đế Domitian ra lệnh đày sứ đồ Giăng ra một hoang đảo gọi là
Patmos, và Giăng phải ở đó trong nhiều năm, giảng dạy cho những người dân mọc mạc
trên hoang đảo biết chân lý và đức tin Cơ đốc giáo; và ở trên hoang đảo này,
vào gần cuối triều đại của Hoàng Đế Domitian, Giăng viết sách Khải Huyền. Qua mặc
khải và bày tỏ của Chúa, sứ đồ Giăng đã tiên tri cho chúng ta thấy về tình trạng
và tương lai của hội thánh Chúa cũng như thời đại của trời mới và đất mới trong
tương lai.
Vì quá quyến luyến yêu
thương sứ đồ Giăng nên giáo dân và các vị mục sư phụ tá đã chôn cất ông ngay
trong nhà thờ Ê phê sô. Sứ đồ Giăng là người duy nhất trong số các sứ đồ
bị chết không tàn nhẫn như các sứ đồ khác. Tuy nhiên ông cũng được liệt
vào những người tuẫn đạo mặc dầu toan tính giết ông đã bị Đức Chúa Trời ngăn
cãn. Ông là người sống lâu nhất trong số các sứ đồ, hưởng thọ gần một
trăm tuổi khi ông qua đời.
Sứ đồ Giăng xuất
thân là một người đánh cá, không có một nền học vấn thường tình; nhưng ông đã chứng
tỏ có một bản năng bén nhạy, tinh tú, thêm vào sự ban cho ân điển thuộc linh,
ông đã được Chúa trang bị để làm công việc của Ngài có kết quả.
Bản tính khiêm
nhường của ông còn đáng được kính phục; ông luôn luôn che dấu những điều có vẻ
đề cao ông hay làm ông nỗi bật. Những
sách của ông viết trong Kinh Thánh, ông không bao giờ tự gọi mình là sứ đồ hay
nhà truyền giáo; cái tên mà ông thích gọi là mục sư hay trưởng lão vì
ông cho rằng ông là người cao niên lo công việc Chúa. Trong sách Tin
Lành ông viết, khi đề cập đến "người môn đồ được Chúa yêu", ông dấu
tên ông đi để cho người đọc suy gẫm rồi khám phá ngưởi đó là ai.
Ông thực hành tình yêu thật và cao điểm nhất và còn
muốn tất cả mọi người thực thi tình yêu chân thật đó. Đó là tình yêu Chúa
và tha nhân, tuôn trào ra từ những dòng chữ mà ông viết trong các sách do ông
là tác giả trong Tân Ước.
Ông thúc đẩy mỗi Cơ Đốc Nhân phải nhận ra tình yêu
thiên thượng là điều mà mỗi Cơ Đốc Nhân phải có, là điều cao thượng nhất nhưng
khác biệt nhất của Cơ Đốc Nhân. Họ phải thể hiện tình yêu đó để bầy tỏ
tình yêu của Đức Chúa Trời với người khác. Nếu không có nó, những sự giả vờ tin theo Chúa trở nên trống
không và bông long, vô dụng và vô nghĩa. Khi đã về già và thân thể yếu đuối, ông không còn có thể giảng dạy được
nữa, ông thường được hướng dẫn đến những buổi nhóm ở hội thánh Ê phê sô, ông
luôn khuyên lớp người sau: "Các con bé mọn, hãy yêu thương lẫn
nhau." Khi người nghe cứ phải nghe ông nói lập lại câu nói đó, hỏi
ông lý do cho những lời đó, ông giải thích cho họ biết yêu thương lẫn nhau là
mạng lệnh của Cứu Chúa.